VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN SONG THIẾT BIỆN PHÁP TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN SONG THIẾT BIỆN PHÁP TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH THỊ MAI Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Biện pháp tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Song Thiết
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ ........ 7
1.1. Khái niệm các biện pháp tạm giữ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam ......... 7
1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp tạm giữ ........... 11
1.3. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ ................................................................. 15
1.4. Đối tượng, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn tạm giữ ......................................... 22
Tiếu kết chương 1 ............................................................................................ 28
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN
PHÁP TẠM GIỮ VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NINH ...................................................................................................... 28
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp
tạm giữ. .................................................................................................................... 29
2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tạm giữ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ..... 46
Tiểu kết chương 2 .........................................................................................58
Chương 3: QUAN ĐIỂM, YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP
PHẦN NẦNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ ................................................................... 59
3.1. Quan điểm, yêu cầu nâng cao chất lượng biện pháp tạm giữ và bảo đảm
quyền con người trong áp dụng biện pháp tạm giữ.....................................59
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định các biện pháp
ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ........................................... 65
Tiểu kết chương 3..........................................................................................71
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
BPNC
: Biện pháp ngăn chặn
ĐTCTP
: Đấu tranh chống tội phạm
HĐXX
: Hội đồng xét xử
QPPL
: Quy phạm pháp luật
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
THTT
: Tiến hành tố tụng
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
TTTP&PL : Tương trợ tư pháp và pháp lý
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2014 - 2018
Bảng 2.2: Tình hình áp dụng BPNC tại tỉnh Quảng Ninh năm 2014 - 2018
Bảng 2.3: Tình hình giải quyết Biện pháp tạm giữ tại tỉnh Quảng Ninh năm 2014 -
2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự (TTHS) thì các
biện pháp ngăn chặn (BPNC) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ các BPNC
nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng có các điều kiện thuận lợi để giải quyết các vụ
việc, ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội đang chuẩn bị thực hiện hoặc đang
xảy ra, góp phần đắc lực cho việc phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi phạm tội.
Trong số các BPNC, thì bắt, tạm giữ là những biện pháp pháp mang tính cưỡng chế
rất nghiêm khắc. Nếu bắt, tạm giữ oan, sai sẽ xâm phạm đến quyền tự do dân chủ
của công dân và các quyền, lợi ích hợp pháp của con người được pháp luật bảo hộ.
Ngược lại nếu không bắt, tạm giữ người phạm tội để người đó vẫn tự do ngoài
vòng pháp luật, tiếp tục gây án hoặc trốn tránh... gây khó khăn cho việc điều tra, xử
lý vụ án cũng làm thiệt hại đến quyền lợi của cộng đồng, của con người, làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với nhà nước, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan
điều tra, người tiến hành tố tụng.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đất nước ta xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng pháp luật có nhiều thành tích đáng kể. Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 1988 ra đời với các quy định về trình tự, thủ tục của công tác điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam đã được quy
định khá cụ thể. Trải qua quá trình thực hiện BLTTHS đã được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi giai đoạn của lịch sử. Mặc dù pháp luật
quy định các trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam ngày càng cụ thể và hoàn thiện,
song thực tiễn áp dụng cho thấy tình hình vi phạm pháp luật về BPNC này vẫn khá
phổ biến. Đó là việc bắt, tạm giữ không đúng quy định, không đúng đối tượng,
không đúng thủ tục, sai thẩm quyền, lạm dụng việc bắt khẩn cấp, bắt quả tang, tạm
giữ thuộc vi phạm hành chính để áp dụng theo quy định của pháp luật TTHS... dẫn
đến nhiều trường hợp bắt, tạm giữ oan sai người dân vô tội. Một số vụ oan sai điển
hình trong đó có áp dụng BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam như vụ: Đỗ Cao Sen và
Trương Thị Liễu, Bùi Xuân Quang ở Trảng Bom, Đồng Nai [73], [74].
Việc xây dựng những quy phạm pháp luật (QPPL)về BPNC nói chung và biện
pháp tạm giữ nói riêng có tính khả thi và việc áp dụng chúng của cơ quan tiến hành
tố tụng và người có thẩm quyền chính xác, hợp lý, hợp tình thì mới có thể đạt được
mục đích của việc quy định và áp dụng biện pháp là ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa
1
các hành vi cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi hành án; qua
đó góp phần thực hiện được nhiệm vụ của pháp luật TTHS là chủ động phòng
ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện kịp thời, nhanh chóng, xử lý công minh mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong khoa
học luật TTHS, chế định các BPNC vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách
thỏa đáng đối với tầm quan trọng của nó theo định hướng của Đảng ta và nhà nước
ta về việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng ngừa và ĐTCTP. Ví dụ,
dưới góc độ khoa học, nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ để có quan điểm thống
nhất, đầy đủ và toàn diện, như: khái niệm BPNC, bản chất pháp lý, mục đích, căn
cứ áp dụng, căn cứ phân loại và những nguyên tắc áp dụng, thay thế, hủy bỏ các
BPNC nói chung và tạm giữ nói riêng; còn thiếu những tổng kết, đánh giá thực tiễn
áp dụng, thay thế, hủy bỏ chúng, giải quyết việc bồi thường thiệt hại cho người bị
oan do người có thẩm quyền TTHS gây ra, hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng. Các quy phạm về biện pháp tạm giữ không quy định căn cứ áp dụng; một số
quy phạm có nội dung mang tính chất đánh giá định tính nhưng không có văn bản
giải thích hướng dẫn áp dụng, v.v…
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, biện pháp và thực tiễn áp dụng
biện pháp tạm giữ tại tỉnh Quảng Ninh nhằm đánh giá những mặt tích cực, hạn chế,
xác định những nguyên nhân tồn tại của chúng, trên cơ sở đó đưa ra phương hướng
hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ, nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp này trong tình hình hiện nay không những có ý nghĩa lý luận, thực
tiễn quan trọng mà còn là vấn đề có tính cấp thiết. Với lý do trên, học viên lựa chọn
đề tài: “Biện pháp tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chế định các BPNC nói chung và biện pháp tạm giữ nói riêng có nhiều nội
dung phong phú và việc áp dụng chúng là vấn đề nhạy cảm. Bởi vì, chính các biện
pháp này là phương tiện ngăn chặn tội phạm có hiệu quả nhất và bảo đảm cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo đúng trình tự, thủ tục mà BLTTHS
quy định, nhưng chúng lại bị lạm dụng quá mức cần thiết. Đi đôi với việc áp dụng
các biện pháp đó, một số quyền và tự do cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp,
pháp luật sẽ bị hạn chế và có thể bị xâm hại. Bởi vậy, chế định này được nghiên
cứu ở nhiều góp độ và lát cắt khác nhau cả trong và ngoài nước. Ở Liên Xô trước
đây và Liên bang Nga sau này có rất nhiều tác giả nghiên cứu những biện pháp
2
cưỡng chế TTHS nói chung và các BPNC nói riêng, có thể kể đến một số nghiên
cứu như: V.M. Kornukov về "Các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự",
Nxb Đại học tổng hợp Saratov, 1978; I.L. Pêtrukhin về "Tự do cá nhân và cưỡng
chế trong tố tụng hình sự", Nxb Khoa học, Maxtcơva, 1985; Nhóm tác giả nghiên
cứu những vấn đề về các BPNC với mức độ chuyên sâu như: P.M. Đavưđôp về
"Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Xô viết", Tóm tắt luận án PTS,
Lenigrad, 1953; Iu.Đ. Livsix về "Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Xô
viết", Nxb Sách pháp lý, 1964; Z.D. Enhikeev về "Những vấn đề hiệu quả của các
biện pháp ngăn chặn tố tụng hình sự", Nxb Đại học tổng hợp Kazan, 1982; I.L
Trunov và L.K Trunova về "Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự", Nxb
Trung tâm pháp lý, Xankt - Peterburg, 2003; v.v… Những tác giả nêu trên đã
nghiên cứu nội dung các BPNC hay các biện pháp cưỡng chế theo pháp luật thực
định của nước cộng hòa thành viên hoặc của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga
sau này. Riêng về các BPNC thì họ đã làm sáng tỏ các vấn đề sau: a) Khái niệm
BPNC; c) Căn cứ tố tụng áp dụng các BPNC; b) Chủ thể có quyền áp dụng các
BPNC; d) Mục đích và ý nghĩa áp dụng các BPNC; e) Bản chất pháp lý của BPNC
là tính cưỡng chế Nhà nước và phòng ngừa; g) Phân tích sự khác biệt giữa BPNC
và trách nhiệm hình sự (TNHS). Tuy nhiên, còn bỏ ngỏ một số nội dung ảnh hưởng
đến hiệu quả áp dụng như: a) Nguyên tắc áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC; b)
Căn cứ phân loại các BPNC theo ba tiêu chí: đối tượng tác động, việc cách ly ra
khỏi cộng đồng, sự phê chuẩn của Viện kiểm sát (VKS); v.v…
Ở trong nước, cho đến nay đã có nhiều công trình chuyên khảo nghiên cứu các
BPNC với phạm vi và mức độ khác nhau đáng chú ý như: Sách chuyên khảo: “Chế
định các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam- những vấn
đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn Trọng Phúc; Nhóm tác giả nghiên cứu nội
dung các BPNC và một số vấn đề có liên quan bảo đảm nâng cao hiệu áp dụng
gồm: TS.Nguyễn Vạn Nguyên về "Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng
cao hiệu quả của chúng", Nxb Công an nhân dân, 1995; Nhóm thứ hai nghiên cứu
đầy đủ các BPNC hoặc từng BPNC riêng lẻ gồm: ThS. Nguyễn Mai Bộ về "Một số
ý kiến về việc sửa đổi Chương V Bộ luật tố tụng hình sự về những biện pháp ngăn
chặn", đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/1998; TS. Nguyễn Duy
Thuân về "Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - những vấn đề về lý
luận và thực tiễn", Nxb Công an nhân dân, 1999; “Một số vấn đề về biện pháp tạm
giữ trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Cừ; bài “Về biện pháp tạm giữ
3
trong Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả Vũ Gia Lâm; bài “Tạm giữ- một biện
pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Mai Bộ; bài
“Một số vấn đề về quy định tạm giữ trong Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả
Nguyễn Văn Điệp(TL82). Ngoài ra, trong nhiều giáo trình, bình luận khoa học
đang sử dụng cho chương trình đào tạo đại học, sau đại học của các cơ sở đào tạo
luật học, nội dung các BPNC được nhiều tác giả phân tích làm rõ, như: Giáo trình
luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2001; Giáo trình luật
tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2006 do GS.TS Võ
Khánh Vinh chủ biên; Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (Dùng cho hệ đào
tạo sau đại học), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003 do GS.TS Đỗ Ngọc Quang
chủ biên; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2007 của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên…
Những công trình trên đây mới chỉ dừng lại giải quyết một số nội dung hoặc
một phần trong chế định các BPNC hay một khối lượng kiến thức cơ bản trong một
mục của giáo trình Luật TTHS Việt Nam. Những tác giả đó đều lấy quy phạm về
các BPNC trong hai BLTTHS 1988 và 2003 làm đối tượng nghiên cứu, nhưng
tuyệt nhiên chưa đề cập đến quy phạm về bắt tạm giữ để dẫn độ được đề cập trong
các Hiệp định TTTP&PL mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài, cũng như việc
bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người có
thẩm quyền tố tụng áp dụng các BPNC gây ra được quy định tại Nghị quyết
388/NQ-UBTVQH và thực tiễn áp dụng, bên cạnh đó còn bỏ ngỏ những kiến nghị
tổng hợp, hệ thống đối với toàn bộ chế định các BPNC theo mục tiêu, định hướng,
quan điểm của Đảng ta được xác định tại Nghị quyết 48-NQ/TW và Nghị quyết 49-
NQ/TW.[22], [23], [65].
Bởi vậy, việc nghiên cứu chế định Biện pháp tạm giữ một cách sâu sắc, toàn
diện hơn nữa vẫn là vấn đề cần thiết mang tính thời sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề cụ thể của chế định biện pháp
tạm giữ và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Ninh, qua đó đánh giá những tồn tại,
nguyên nhân của chúng, đồng thời, đưa ra quan điểm, giải pháp hoàn thiện chế định
biện pháp đó trong pháp luật TTHS Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giữ;
4
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật TTHS về biện pháp tạm giữ ở Việt
Nam hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật TTHS về biện pháp tạm giữ
(trong giai đoạn từ năm 2014 đến nay);
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS về biện pháp
tạm giữ ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giữ tại địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu biện pháp tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam dưới góc độ Luật tố tụng hình sự, không đề cập đến chế độ giam giữ
được quy định trong Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
Về thời gian, không gian: Luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng áp dụng biện
pháp tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại tỉnh Quảng Ninh trong thời gian từ
năm 2014 - 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác - Lênin làm cơ sở khi tiến hành
nghiên cứu đề tài nhằm nghiên cứu đánh giá sự vật, hiện tượng nghiên cứu một
cách tổng thể, toàn diện, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố trong
bản thân đối tượng nghiên cứu và giữa đối tượng nghiên cứu với các sự vật, hiện
tượng khác, đồng thời phát hiện ra quy luật phát triển của đối tượng nghiên cứu
theo từng giai đoạn phát triển lịch sử.
Về phương pháp nghiên cứu cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp thống
kê, phân tích, đối chiếu, so sánh.....Đây là các phương pháp được sử dụng chủ yếu
trong quá trình đánh giá thực trạng của pháp luật TTHS về biện pháp tạm giữ trong
từng giai đoạn để cho thấy sự điều chỉnh của chính sách về nội dung nghiên cứu.
6. Ý nghĩa và giá trị đóng góp của đề tài
Nghiên cứu, đánh giá việc thực thi và áp dụng quy định của pháp luật TTHS
về Biện pháp tạm giữ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, qua đó góp phần làm phong
phú thêm lý luận về Biện pháp tạm giữ trong TTHS.
5
Bằng việc nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS về biện pháp tạm giữ tại
một địa bàn cụ thể, kết quả nghiên cứu sẽ có ý nghĩa thực tiễn đối với việc áp dụng
quy định của pháp luật TTHS về Biện pháp tạm giữ. Đề tài kỳ vọng sẽ là một tài
liệu tham khảo hữu ích trong học tập, nghiên cứu ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành
Luật hình sự và tố tụng hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cơ cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giữ.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm
giữ và thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Quan điểm, yêu cầu và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ.
6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
1.1. Khái niệm các biện pháp tạm giữ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1 Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Bộ luật TTHS quy định một loạt các biện pháp cưỡng chế do cơ quan nhà
nước tiến hành nhằm thực hiện những mục đích tố tụng nhất định.
Căn cứ vào mục đích của chúng có thể phân loại các biện pháp cưỡng chế
thành các nhóm sau: (i) Nhóm biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu thập và ghi
nhận chứng cứ (khám người, khám nơi ở, xem xét dấu vết...); (ii) Nhóm biện pháp
cưỡng chế để đảm bảo cho quá trình tố tụng được tiến hành bình thường và thuận
lợi (kê biên tài sản, áp giải bị can...); (iii) Các BPNC (bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm
đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm).
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế TTHS thì các BPNC chiếm vị trí đặc
biệt quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến thân thể, quyền con người, hạn chế một
số quyền nhân thân của công dân. Chính vì vậy mà BLTTHS đã dành một chương
riêng để quy định về các BPNC và BPCC. Để việc hiểu và thực hiện tốt các quy
định về BPNC, nhiều công trình, tài liệu, sách báo đã có những khái niệm khác
nhau về các BPNC.
• Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông của Nhà xuất bản "Sách pháp lý"
Matxcơva, 1973 giải thích rằng:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự do điều
tra viên, dự thẩm viên, kiểm sát viên và tòa án áp dụng đối với bị can (người bị tình
nghi) nếu có đủ căn cứ cho rằng bị can trốn tránh việc điều tra, dự thẩm hoặc trốn
tránh tòa án, cản trở việc xác minh sự thật về vụ án, hay sẽ tiếp tục hoạt động phạm
tội, cũng như để đảm bảo việc thi hành án [72, tr15].
Từ điển Luật học (2006) của nhà xuất bản tư pháp giải thích rằng:
Biện pháp ngăn chặn là: “Biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự áp dụng
khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của
họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản
trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [62, tr.69].
Tại Điều 109 BLTTHS 2015 hiện hành đã quy định các căn cứ áp dụng các
BPNC như sau: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người
7
bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm
tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi
khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Các căn cứ này cũng đã phản ánh một phần bản chất của của các BPNC của
pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, BPNC là biện pháp cưỡng chế tố tụng rất
nghiêm khắc, đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng về chủ thể áp dụng, về thẩm
quyền áp dụng, về đối tượng bị áp dụng, về căn cứ và mục đích áp dụng để từ đó
mới có thể hiểu một cách thấu đáo và vận dụng đúng đắn vào thực tiễn.
Cuốn “Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự” của Viện nghiên cứu
Nhà nước và Pháp luật (năm 1994) lại giải thích rằng BPNC là một loại biện pháp
do cơ quan điều tra, VKS và Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội,
đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng
những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
hoặc tiếp tục phạm tội. BPNC gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [63, tr.502].
Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, cho rằng: BPNC là
biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng với bị can bị cáo, người bị truy nã
hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang) nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều
tra truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [60, tr.227].
Có thể nói rằng, các tài liệu nêu trên đã nêu lên được khía cạnh này hay khía
cạnh khác khái niệm về các BPNC, nhưng nhìn chung vẫn chưa đưa ra được một
khái niệm đầy đủ, khoa học chứa đựng tất cả các yếu tố cấu thành nên BPNC thể
hiện ở các dấu hiệu đặc trưng như căn cứ áp dụng, mục đích, thẩm quyền áp dụng
và đối tượng bị áp dụng BPNC. Theo quan điểm của học viên một khái niệm chính
xác và hoàn chỉnh về các BPNC thì khái niệm đó phải có tất cả các dấu hiệu đặc
trưng của các BPNC như: Chủ thể áp dụng, căn cứ áp dụng; mục đích áp dụng;
thẩm quyển áp dụng và đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn.
8
Tổng hợp từ những quy định của BLTTHS và một số khái niệm nêu trên,
qua phân tích có thể đưa ra khái niệm BPNC như sau: Biện pháp ngăn chặn là biện
pháp cưỡng chế do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người liên quan đến việc thực hiện tội
phạm chưa bị khởi tố khi có căn cứ áp dụng nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục
phạm tội.
1.1.2. Khái niệm biện pháp tạm giữ
Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật
TTHS, đó là những quan hệ xã hội luôn có một bên là các cơ quan nhà nước có
trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt khác, tội phạm là hành
vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng; do vậy trong TTHS, các cơ quan
có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để tác động tới đối
tượng. Đặc điểm chung của các BPCC là sự tác động một chiều không phụ thuộc
vào ý chí của bên bị tác động xuất phát từ những căn cứ và điều kiện được pháp
luật qui định. Tùy thuộc vào mục đích áp dụng, đối tượng áp dụng hoặc những tiêu
chuẩn khác mà các nhà làm luật phân chia các biện pháp cưỡng chế thành những
nhóm khác nhau và trong mỗi nhóm lại có những biện pháp cụ thể khác nhau với
những trình tự, thủ tục áp dụng khác nhau. Như đã phân tích tại phần đầu 1.1.1 của
luận văn, chúng ta thấy có hai nhóm các biện pháp cưỡng chế sau đây: nhóm các
BPNC và nhóm các biện pháp điều tra. Cũng cần chú ý rằng trong TTHS không chỉ
bao gồm các biện pháp cưỡng chế mà trong đó còn có những hoạt động không có
tính cưỡng chế mà mang tính bình đẳng, ví dụ như hoạt động tranh tụng tại tòa.
Những biện pháp cưỡng chế điều tra có mục đích nhằm thu thập các chứng cứ của
vụ án làm căn cứ xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, ví dụ như biện pháp khám xét có thể áp dụng đối với khám người, khám đồ vật,
thư tín, khám chỗ ở địa điểm hoặc như biện pháp kê biên tài sản, tạm giữ đồ vật, tài
liệu v.v... Theo Điều 109 BLTTHS 2015 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
nhóm các BPNC bao gồm các biện pháp sau đây: bắt (bao gồm bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã và bắt
9
bị can bị cáo để tạm giữ, tạm giam); cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc
tài sản bảo đảm.
Trong các quy định của BLTTHS năm 1988, năm BLTTHS 2003 và
BLTTHS năm 2015 đều không có quy phạm định nghĩa về khái niệm tạm giữ. Tuy
nhiên, khoản 1 Điều 48 BLTTHS năm 2003 và khoản 1 Điều 59 BLTTHS năm
2015 đã chính thức ghi nhận về mặt pháp lý khái niệm người bị tạm giữ, theo đó:
“Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với
họ đã có quyết định tạm giữ” (khoản 1 Điều 48 BLTTHS năm 2003)[46]; “Người
bị tạm giữ là bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội
quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối
với họ đã có quyết định tạm giữ” (khoản 1, Điều 59 BLTTHS năm 2015) [47, tr
27].
Trong khoa học luật TTHS có một số quan điểm về khái niệm tạm giữ, cụ
thể như sau: (i) Trong Luật số 103/SL-005 ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do
thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở của dân, theo đó “cơ quan tư
pháp huyện hoặc công an huyện tạm giữ can phạm trong thời hạn ba ngày kể từ lúc
nhận can phạm để xét và hỏi cung, rồi phải quyết định tha hẳn, tạm tha hoặc giải
lên tòa án nhân dân hoặc công an cấp trên”; (ii) Trong Điều 68 và Điều 69
BLTTHS năm 1988 cho rằng “Tạm giữ là một trong những BPNC của TTHS do cơ
quan điều tra áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc trường
hợp phạm tội quả tang”[3. tr,55]; (iii) Tạm giữ là việc cơ quan có thẩm quyền
quyết định tước tự do với thời hạn ngắn đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp hoặc trường hợp phạm tội quả tang nhằm thu thập thêm chứng cứ để đi tới
quyết định khởi tố hay không khởi tố bị can [63. tr, 512]. Có thể khẳng định các
quan điểm trên đều có hạt nhân hợp lý trong thực tế TTHS, trên cơ sở kế thừa
những yếu tố hợp lý trong các quan điểm trên, đồng thời theo quy định của
BLTTHS năm 2015 về biện pháp tạm giữ, có thể đưa ra khái niệm tạm giữ như sau:
“Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan hoặc người có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể
trong thời hạn luật định đối với người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người
bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối
10
với người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành
vi cản trở hoạt động điều tra của người bị tạm giữ hoặc bảo đảm cho Cơ quan điều
tra có thời gian tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu, trên cơ sở đó ra các
quyết định khởi tố bị can, tạm giam, áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hoặc
trả tự do cho đương sự”
1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp tạm giữ
Để giải quyết một vụ án hình sự, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS),
Tòa án phải tiến hành nhiều hành vi tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã thực
hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài pháp lý khác. Quá trình
này không chỉ đòi hỏi các hoạt động tích cực của Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán mà còn là những hoạt động của những người tham gia tố tụng khác
như: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, bị can, bị cáo, người bị
hại, người làm chứng... với những quyền và nghĩa vụ nhất định khi tham gia tố
tụng. Tuy nhiên, không phải bao giờ bị can, bị cáo hoặc những người bị nghi là
thực hiện hành vi phạm tội (thuật ngữ này dùng để chỉ những người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) cũng thực hiện nghĩa vụ của mình
một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố tình trốn tránh hoặc gây cản trở cho các
hoạt động tố tụng. Vì vậy, để ngăn chặn và phòng ngừa họ không thực hiện nghĩa
vụ, việc pháp luật quy định và cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng, những người
tiến hành tố tụng, những người khác theo luật định được áp dụng Biện pháp tạm
giữ trong những trường hợp nhất định, đối với những đối tượng nhất định là hết sức
cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm ở nước ta.
1.2.1. Mục đích
Qua khái niệm về tạm giữ ở mục 1.1.1 có thể khẳng định mục đích của việc
áp dụng biện pháp tạm giữ đối với bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt
người trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú là để
ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra
của người bị tạm giữ, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyển có đủ thời gian để
xác định tính chất, mức độ của hành vi; nhân thân của người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
11
hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết định pháp lý cần thiết khác như: tạm giam,
áp dụng các BPNC khác hay trả tự do cho người đã bị bắt v.v...Tạm giữ đối với
người bị bắt theo quyết định truy nã là để có thời gian hoàn thành thủ tục chuyển
giao đối tượng bị truy nã giữa cơ quan điều tra nhận người bị bắt và Cơ quan điều
tra thụ lý vụ án đã ra lệnh truy nã.
1.2.2. Ý nghĩa
Biện pháp tạm giữ trong TTHS có tác dụng ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn
việc cản trở công tác điều tra, bảo đảm cho quá trình điều tra theo thời hạn luật định
có ý nghĩa to lớn trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, được thể hiện
thông qua các khía cạnh sau:
- Việc quy định và áp dụng biện pháp tạm giữ thể hiện sự cưỡng chế của
Nhà nước trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm
Bất kỳ tội phạm nào đều gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho
những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Tội phạm xâm phạm và làm
ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
của chế độ XHCN, xâm phạm các quyền của công dân và chế độ nhà nước mà nhà
nước bảo hộ, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Điều 18, BLTTHS năm 2015 xác định: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội
phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này
quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội. Không
được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định”
Tạm giữ không phải là hình phạt và không có mục đích trấn áp, trừng trị
những người bị áp dụng. Tuy vậy, việc áp dụng quy định này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền tự do cá nhân. Người bị áp dụng BPNC này bị cách ly với xã hội
trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền công dân như quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại để cơ quan điều tra tiến hành các hoạt
động điều tra ban đầu, thu thập tài liệu, chứng cứ làm căn cứ đề ra quyết định khởi
tố hay không khởi tố, trả tự do cho người bị tạm giữ
Các quy định và áp dụng các quy phạm mang tính nhân đạo của pháp luật đối
với người bị tạm giữ như: Khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ
12
quan điều tra phải trả tự do cho người bị tạm giữ (Khoản 3, Điều 87 BLTTHS năm
2003), trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện Kiểm sát phải trả tự do ngay cho
người bị tạm giữ (Khoản 3, Điều 118 BLTTHS năm 2015). Đối với người chưa
thành niên đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì
có thể bị tạm giữ nếu có căn cứ nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, còn đối với người đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ nhưng chỉ trong trường hợp
phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng (Điều 419, BLTTHS năm 2015). Bộ luật còn quy định việc chăm lo
người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ: Khi người bị tạm giữ có
con chưa thành niên dưới mười bốn tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật,
già yếu không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giữ giao những
người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ
không có người thân thích thì cơ quan quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao
những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom (90). Trong trường hợp người bị
tạm giữ có nhà hoặc tài sản khác mà không có người chăm nom, bảo quản thì cơ
quan ra quyết định tạm giữ phải áp dụng những biện pháp bảo quản thích đáng
(khoản 1, 2, Điều 120 BLTTHS năm 2015).
Mọi vi phạm pháp luật về tạm giữ đều bị xử lý và có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật.
Khoản 5, Điều 31, Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh “Người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự...”. Thực thi quy định
của Hiến pháp năm 2013, Điều 10 - Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
“… việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người
phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm việc tra tấn, bức cung, dùng nhục
hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe
của con người”. Bên cạnh đó, Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
người bị tạm giữ, tạm giam “có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa”. Ngoài ra, để đảm bảo tính nghiêm minh pháp luật, luật cũng quy định
“… cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện
quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình.
13
Người vi phạm pháp luật trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt,
giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tuỳ tính chất, mức độ vi
phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
luật” (Điều 17 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
- Việc quy định và áp dụng đúng biện pháp tạm giữ là góp phần bảo đảm và
tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp
Kế thừa các quy định của Hiến pháp 1992, Điều 14 Hiến pháp nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội
được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong hiến pháp
và luật”. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm,…”;
“Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang...”
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, BLTTHS năm 2015 quy định các
nguyên tắc: Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp
pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết
(Điều 8 BLTTHS năm 2015); mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không
phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết
định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người (Điều
9, Điều 10 BLTTHS năm 2015). Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của công dân, cá nhân, theo đó mọi người (cả người bị tạm giữ) có quyền
được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi
hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của cá nhân đều bị xử lý theo pháp luật (Điều 11 BLTTHS năm 2015). Thực hiện
các quy định trên, cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng Biện pháp tạm giữ phải
14
đối xử với người bị áp dụng biện pháp tạm giữ như một người bình thường. Ngoài
ra, phải kịp thời thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giữ theo đúng quy định theo
nguyên tắc tôn trọng quyền con người và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.
Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một nguyên tắc quan
trọng trong TTHS của nhà nước ta. Đáp ứng và bảo đảm yêu cầu đầy đủ các quyền
dân chủ cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định đó là quyền bình đẳng
trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự và tài sản.
Đối với người bị tạm giữ trong các giai đoạn tố tụng BLTTHS đều quy định
việc trả lại tự do hoặc thay đổi bằng BPNC khác nếu thấy rằng những việc đó
không cần thiết nữa.
Biện pháp tạm giữ không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước đối với
người có hành vi xâm hại các quyền của công dân mà còn là một phương tiện hữu
hiệu để bảo vệ các quyền đó khi nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại.
Biện pháp tạm giữ tuy hạn chế một số quyền của công dân nhưng mặt khác lại bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân
khác.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do nhân dân, vì nhân dân nên những hoạt
động của Nhà nước không nhằm mục đích nào khác là phục vụ quyền lợi của nhân
dân lao động. Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là một chế độ dân chủ trong đó
các quyền của công dân được tôn trọng, pháp luật bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Pháp luật XHCN không cho phép một hành vi trái pháp luật
nào xâm phạm đến các quyền và lợi ích của công dân dù đó là hành vi của cơ quan
Nhà nước hay những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định về tạm giữ là nhiệm vụ của
cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng không những tự mình phải
tuân theo các quy định của BLTTHS mà còn phải kịp thời ngăn chặn mọi vi phạm
pháp luật của những người tiến hành tố tụng. Mọi hành vi trái với quy định của
pháp luật về việc áp dụng Biện pháp tạm giữ đều bị xử lý nghiêm khắc, có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 157, BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2017) về tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật.
1.3. Cơ sở quy định biện pháp tạm giữ và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ
15
Trong hoạt động lập pháp các quy định về Biện pháp tạm giữ được quy định
trong quá khá nhiều văn bản khác nhau của Nhà nước ta, xuất phát từ cơ sở quy
định biện pháp tạm giữ và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ.
* Cơ sở quy định biện pháp tạm giữ, dựa trên năm yếu tố sau:
Thứ nhất: Dựa trên quy định của Hiến pháp Việt Nam
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 và các
Hiến pháp tiếp theo (1959, 1980, 1992, 2013) đã quy định những nền tảng cơ bản
cho việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Điều 14 Hiến pháp nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật”. Điều 20, Hiến pháp 2013 cũng quy định: Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị
bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của
Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ
người do luật định.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Nhà nước ta đã quy định các biện
pháp ngăn chặn cụ thể. Ví dụ: Việc bắt giam được quy định trong Sắc luật số 103
ngày 20/5/1957 “Về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối
với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân”; Sắc luật số 002 ngày 18/6/1957 quy định
về những trường hợp phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp. Xuất
phát từ các quy định của Hiến pháp mà các Bộ luật tố tụng hình sự 1988, 2003,
2915 cũng như một số văn bản pháp luật khác đã chi tiết hóa các quy định của Hiến
pháp thành các điều luật cụ thể cũng như các hướng dẫn thực hiện các quy định luật
về các biện pháp ngăn chặn.
Thứ hai: Dựa trên các quy định của Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sự thứ nhất của Nhà nước ta được Quốc hội khóa VII thông qua
ngày 25/6/1985 đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm ở nước ta trong suốt một thời kỳ lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời của BLHS 1985, tiếp đến BLTTHS 1999 đã đánh
16
dấu một bước phát triển cao của pháp luật hình sự nói riêng và hệ thống pháp luật
Việt Nam nói chung. Do yêu cầu phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới BLHS
mới (2015, sửa đổi bổ sung 2017) ra đời. Đây là BLHS thứ ba của nhà nước ta. Bộ
luật này đã có những thay đổi rất lớn kể cả về số lượng điều khoản cũng như những
nội dung mới được quy định trong Bộ luật. Đây là Bộ luật lớn có tầm quan trọng
đặc biệt trong giai đoạn phát triển mới của đất nước ở thời điểm hiện tại, cũng như
sẽ phát huy tác dụng tích cực lâu dài trong tương lai phát triển của đất nước ta.
Luật hình sự là luật nội dung, luật TTHS là luật hình thức. Qua mỗi lần các
quy phạm của luật hình sự được sửa đổi, bổ sung thì các quy phạm của luật tố tụng
hình sự cũng được sửa đổi, bổ sung cho tương ứng với các quy phạm đó. Sự ra đời
của BLHS 1999, với những thay đổi đòi hỏi các quy phạm của pháp luật tố tụng
hình sự cũng phải thay đổi cho phù hợp; chính vì vậy BLTTHS 2003 đã được ra
đời. Sự ra đời của BLHS 2015, với rất nhiều sự thay đổi trong các quy định ở Phần
chung và Phần riêng, đòi hỏi các quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự cũng phải
thay đổi cho phù hợp. Chính vì vậy, BLTTHS 2015 đã được ra đời, với rất nhiều
sửa đổi, bổ sung, thêm mới trong quy định về trình tự, thủ tục của việc khởi tố, điều
tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự nói chung và về Biện pháp tạm giữ nói riêng.
Thứ ba, Dựa trên các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự
Các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS là kim chỉ nam cho việc quy định và
thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự. Chính vì vậy, trong việc quy định về các
BPNC, các nhà lập pháp luôn căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản như: Nguyên tắc
tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân; nguyên tắc đảm bảo quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của công dân; nguyên tắc không ai có quyền bị coi là có tội
nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; nguyên tắc đảm bảo
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc bảo đảm quyền
được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan và
nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra v.v...
Thứ tư: Dựa vào chủ trương đường lối của Đảng trong từng thời kỳ cách
mạng
Có thể nói rằng, trong bất cứ chế độ xã hội nào, nếu còn có hành vi nguy
hiểm xảy ra như chống chính quyền, lật đổ, cướp của, giết người v.v... thì các biện
17
pháp trừng phạt, ngăn ngừa tất yếu được áp dụng, trong đó Biện pháp tạm giữ được
sử dụng như một công cụ của việc ngăn ngừa, phòng và chống các hành vi nguy
hiểm đó. Ở nước ta, việc quy định và sử dụng biện pháp tạm giữ trong từng thời kỳ
và trong từng thời điểm cách mạng có sự vận dụng khác nhau
Giai đoạn trước khi có BLTTHS theo từng thời kỳ để ngăn chặn các hành vi
nguy hiểm cho xã hội, Đảng và Nhà nước có chủ trương áp dụng các biện pháp
cưỡng chế đối với đối tượng phạm pháp hoặc bị nghi là phạm pháp. Chủ trương đó
được thể hiện bằng các quy định về việc bắt, tạm giữ và tạm giam, ví dụ như: Điều
2 Sắc luật 002-SL ngày 18/6/1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
và Điều 3 Sắc luật 02-SL ngày 15/3/1976 của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam, cũng đã quy định sáu trường hợp được bắt khẩn cấp đó
là: Có hành động chuẩn bị làm việc phạm pháp; người bị hại hoặc người có mặt tại
nơi xảy ra vụ phạm pháp chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm pháp;
tìm thấy chứng cứ phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của người bị tình nghi
phạm pháp; có hành động chuẩn bị trốn hoặc đang trốn; có hành động chuẩn bị tiêu
hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ, có sự thông đồng giữa kẻ phạm pháp với nhau để
trốn tránh pháp luật; căn cước lai lịch không rõ ràng.
Có thể nói rằng, trước khi BLTTHS được ban hành, thì các quy định sau đây
đã có những tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
trong một thời gian dài. Tuy nhiên, do sự phát triển của xã hội, các quan hệ xã hội ở
có nhiều thay đổi. Trước tình hình mới nảy sinh đó, các quy định về những trường
hợp tạm giữ cũng đã bộc lộ những sơ hở nhất định (như sự thiếu chặt chẽ, tính chưa
cụ thể trong các quy định của pháp luật...). Cho nên dễ dẫn đến tình trạng quá lạm
dụng tạm giữ gây nên những ảnh hưởng không tốt trong dư luận quần chúng nhân
dân. Tình trạng đó đã làm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm
hại, nó đi ngược lại những lợi ích của việc tăng cường pháp chế XHCN mà Đảng
và Nhà nước ta đã và đang đặc biệt quan tâm.
Sau ngày miền Bắc giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân bước
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyền dân chủ được phát huy.
Ngày 28/6/1988 Quốc hội khóa VIII nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua BLTTHS, tiếp đến là BLTTHS 2003. Có thể nói rằng, sau khi có
BLTTHS 1988, sau đó là BLTTHS 2003 các chủ trương, đường lối của Đảng về
18
các hoạt động tố tụng hình sự nói chung và về việc tạm giữ nói riêng đã được pháp
điển hóa thành những quy định trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao,
những quy định này đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần đắc lực cho các hoạt động điều tra
khám phá và xử lý tội phạm trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, cùng với công
cuộc cải cách kinh tế, cải cách hành chính, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy
mạnh cải cách tư pháp. Nhiều quan điểm, định hướng về cải cách tư pháp đã được
thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới”, trong đó có việc chỉ đạo, điều chỉnh các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm
giam là một trong những nội dung quan trọng và cấp thiết, cũng như trong Chỉ thị
53/CT-TW ngày 21/3/2000 của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số
công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000 đã nêu
“... việc bắt, giam phải được xem xét, phê chuẩn đối với từng trường hợp, từng đối
tượng cụ thể; đối với trường hợp bắt, giam cũng được hoặc không bắt, giam cũng
được thì không bắt, giam”, và chủ trương hạn chế việc bắt, giữ, giam này đã được
pháp luật hóa bằng các quy định luật về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam của
BLTTHS 2015.
Thứ năm: Xuất phát từ yêu cầu công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
trên thực tiễn của cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, có có nơi, có lúc
đã lạm dụng việc áp dụng biện pháp tạm giữ trong điều tra các vụ án hình sự,
nguyên nhân do áp lực về thành tích, thời gian khám phát vụ án, một phần cũng do
sự am hiểu pháp luật còn hạn chế của điều tra viên, bên cạnh đó còn có nguyên
nhân chủ quan vì lợi ích cá nhân của một bộ phận cán bộ điều tra, kiểm sát viên gây
bức xúc, bất bình trong dư luận nhân dân, nhất là việc áp dụng biện pháp bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Do vậy đã có thời điểm việc bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp không đúng đối tượng, chứng cứ để làm căn cứ áp dụng
biện pháp tạm giữ không đầy đủ, non chứng cứ, cá biệt có trường hợp chứng cứ để
áp dụng làm căn cứ tạm giữ không đúng, không khách quan, dẫn đến oan sai, gây
khiếu nại, phản ứng của người bị giữ, thân nhân gia đình họ và quần chúng nhân
dân. Vấn đề đặt ra ở đây là, nếu cơ quan điều tra không áp dụng biện pháp tạm giữ,
19
thì đối tượng có thể tiếp tục gây án, phạm tội mới, bỏ trốn gây khó khăn cho cơ
quan điều tra trong quá trình điều tra, khám phá vụ án, hoặc tìm cách tiêu hủy
chứng cứ có liên quan đến vụ án thì cơ quan điều tra không thể thu thập chứng cứ
theo đúng trình tự, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Nên bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp giữ vị trí quan trọng như vậy, do đó cần được giữ nguyên quy
định về biện pháp này trong Bộ luật tố tụng hình sự. Thực tiễn cho thấy, trước đây
khi có người phạm tội ra đầu thú, tự thú, do thấy họ tự nguyện nên cơ quan điều tra,
viện kiểm soát không áp dụng biện pháp tạm giữ họ, mà thường cho tại ngoại để
đều tra, dẫn đến thực tế có đối tượng sau khi đầu thú, tự thú do tác động của các đối
tượng hoặc có liên quan đến vụ án nhiều đối tượng phạm tội đã nảy sinh việc trốn
tránh, không ở nơi cư trú, tìm cách tiêu hủy chứng cứ, tác động tiêu cực tới người
làm chứng, người bị hại, hoặc phạm tội mới có thể còn nghiêm trọng hơn…để khắc
phục tình trạng này, luật tố tụng hình sự hiện nay đã quy định chặt chẽ hơn, cụ thể
hơn về việc cho tại ngoại hay tạm giữ đối với các đối tượng đầu thú, tự thú.
* Để áp dụng biện pháp tạm giữ phải căn cứ theo các điều luật của luật tố tụng
hình sự, cụ thể:
Tại Điều 109 BLTTHS năm 2015 quy định: “Để kịp thời ngăn chặn tội
phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án, cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, trong phạm vi thẩm quyền của mình, có thể
áp dụng các biện pháp tạm giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm
giam, bảo lĩnh…”[47. tr, 46]
- Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
Ngăn chặn kịp thời tội phạm có thể tránh được hậu quả của tội phạm vì ngăn
chặn kịp thời sẽ không cho tội phạm được thực hiện, bảo vệ nguyên vẹn khách thể
của tội phạm. Vấn đề đặt ra là ngăn chặn tội phạm như thế nào và ngăn chặn vào
thời điểm nào. Qua nghiên cứu tác giả thấy, khi một người nào đó đang chuẩn bị
thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (thường thấy
trong trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp) thì cần thiết phải
ngăn chặn ngay. Có như vậy mới kịp thời ngăn chặn tội phạm, không để tội phạm
tiếp tục xảy ra, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tác hại cho xã hội do tội phạm
gây ra, thì biện pháp tạm giữ sẽ đáp ứng rất tốt yêu cầu mục đích này. Cũng như
20
vậy, khi có căn cứ cho rằng nếu không tạm giữ ngay đối tượng, rất có thể đối tượng
sẽ phạm tội mới, gây nguy hại cho xã hội, khách thể được luật hình sự bảo vệ, thì
áp dụng biện pháp tạm giữ vừa để ngăn chặn tội phạm vừa để đảm bảo lợi ích
chung cho toàn xã hội.
- Khi xét thấy bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra.
Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra thể hiện qua việc sau khi thực
hiện hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả
hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, bàn bạc nhau trốn tránh pháp
luật, mua chuộc, dụ dỗ, lừa phỉnh, cưỡng ép, khống chế người làm chứng, người bị
hại v.v... dẫn đến việc gây khó khăn phức tạp cho việc xác định, làm rõ sự thật
khách quan vụ án. Căn cứ này thường được áp dụng sau khi đã có quyết định khởi
tố vụ án, khởi tố bị can. Trong các giai đoạn điều tra có thể áp dụng căn cứ này để
bắt, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm sự
có mặt của bị can, bị cáo. Căn cứ này còn được áp dụng ngay cả khi chưa khởi tố
vụ án hoặc khởi tố bị can như khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, quy định
tại Điều 110 BLTTHS. Căn cứ này cũng được vận dụng khi bắt người phạm tội quả
tang: “... ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt”, cũng
như bắt người đang bị truy nã.
- Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội
Những căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội có thể được thể hiện qua các yếu tố phản
ánh về nhân thân của người bị buội tội là những phần tử xấu, có ý thức chống đối
giai cấp sâu sắc, là những kẻ tái phạm, tội phạm nguy hiểm, là những tên tội phạm
có tính chất chuyên nghiệp, những tên côn đồ hung hãn coi thường pháp luật. Căn
cứ chứng tỏ người bị buội tội sẽ tiếp tục phạm tội còn được thể hiện qua hành vi
như đe dọa trả thù người làm chứng, người bị hại và sự đe dọa có khả năng trở
thành hiện thực.
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải tuân theo căn cứ quy định tại
Điều 110 của BLTTHS hiện hành.
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 109 BLTTHS và
được cụ thể hóa tại Điều 117 BLTTHS hiện hành. Áp dụng biện pháp tạm giữ đối
với người chưa đủ 18 tuổi được quy định tại Điều 419 BLTTHS hiện hành, theo đó
21
chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ khi có căn cứ cho rằng áp dụng các biện pháp giám
sát, biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Tại Khoản 2 Điều 12 BLHS năm
2015 quy định: khi có căn cứ quy định tại các Điều 110, 111 và 112 các điểm a, b,
c, d và đ Khoản 2 Điều 119 BLTTHS hiện hành thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, như vậy việc tạm giữ đối với người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vẫn có thể thực hiện, nhưng cần phải xem xét một cách
cẩn trọng, đúng quy định của pháp luật và phải xem xét đến lỗi của họ một cách
thấu đáo. Đối với người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp
bắt khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam về tội nghiêm trọng do cố ý, tội đặc biệt
nghiêm trọng, nếu có căn cứ quy định tại các điều 110, 111 và 112 các điểm a, b, c,
d và đ Khoản 2 Điều 119 BLTTHS hiện hành. Tuy nhiên, trường hợp người đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi vẫn được áp dụng biện pháp tạm giữ trong trường hợp người
này phạm tội nghiêm trọng do lỗi vô ý hay tiếp tục phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng
những đối tượng này có hành vi bỏ trốn, hoặc bị bắt theo quyết định truy nã của cơ
quan có thẩm quyền.
1.4. Đối tượng, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn tạm giữ
1.4.1. Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ
Nhìn chung, đối tượng bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang, tuy nhiên điều luật cũng không quy định bắt buộc trong tất
cả mọi trường hợp bắt đó đều cần phải tạm giữ, mà trong một số trường hợp bắt
người phạm tội quả tang, nếu xét thấy hành vi phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm
trọng, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội lại có nơi cư trú rõ ràng,
không có cơ sở cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra thì trong
các trường hợp đó không cần thiết phải tạm giữ họ. Điều 117 BLTTHS 2015 cũng
không quy định cụ thể các căn cứ để áp dụng Biện pháp tạm giữ, mà căn cứ để tạm
giữ được hiểu là việc nếu bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang khi có đủ căn cứ quy định
tại Khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 thì đó cũng chính là căn cứ để áp dụng biện
pháp tạm giữ. Điều luật cũng quy định những người có thẩm quyền ra quyết định
tạm giữ là những người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp theo quy định tại
Khoản 2 Điều 110 BLTTHS 2015.
Khoản 1 Điều 117 BLTTHS 2015 quy định: “Tạm giữ có thể áp dụng đối
với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm
22
tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết
định truy nã” [47. tr, 49]. Như vậy, việc tạm giữ có thể áp dụng đối với những
trường hợp bắt người bị giữ trong khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang quy
định tại các Điều 111 và Điều 112 của BLTTHS năm 2015, tức là các điều luật quy
định về bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và
bắt người đang bị truy nã, cũng như đối với người phạm tội tự thú hoặc đầu thú.
Nhận thức về qui định này cho thấy biện pháp tạm giữ “có thể” được áp dụng với
các đối tượng bị bắt khẩn cấp, bắt quả tang, bắt truy nã, người đầu thú, tự thú chứ
không bắt buộc, nói cách khác, sau khi bị bắt trong các trường hợp nêu trên, người
bị bắt có thể bị tạm giữ hoặc không bị tạm giữ. Tinh thần này đã được quy định tại
Điều 114 của BLTTHS. Khoản 1 Điều 114 qui định: “Sau khi giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai
ngay và trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người
bị bắt” [47. tr, 48]. Vấn đề đặt ra là khi nào thì cơ quan có quyền có thể ra quyết
định tạm giữ? Còn khi nào thì không cần thiết tạm giữ. Chúng tôi cho rằng, để giải
quyết vấn để này cần quán triệt được mục đích của việc tạm giữ trong TTHS. Mặc
dù trong BLTTHS không quy định rõ mục đích của việc tạm giữ nhưng qua các
điều luật về tạm giữ cho thấy việc tạm giữ người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang, người tự thú, đầu thú là nhằm có điều kiện để tiếp tục xác
minh thêm về hành vi phạm tội của người bị bắt, người ra tự thú, đầu thú để làm rõ
thêm căn cứ của việc khởi tố vụ án cũng như khởi tố bị can đối với người họ. Tinh
thần này cũng đã được thể hiện qua các quy phạm tại các điều như Điều 114 (như
đã dẫn ở trên) và Điều 118 của BLTTHS. Như vậy, sau khi bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, hoặc khi người phạm tội ra đầu thú, tự thú thì họ
có thể không bị tạm giữ trong các trường hợp sau đây:
- Các cơ quan có thẩm quyền xác định được ngay việc bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ.
- Ngay sau khi bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang, sau khi
có người ra tự thú, đầu thú các cơ quan có thẩm quyền đã xác định được đầy đủ căn
cứ để có thể khởi tố vụ án hoặc khởi tố bị can đối với người bị bắt, người tự thú,
đầu thú nên đã ra các quyết định khởi tố cần thiết và cũng đã xác định được ngay
23
căn cứ để có thể tạm giam đối với họ nên đã ra lệnh tạm giam đối với bị can mà
không cần phải tạm giữ. Hoặc ngay sau khi bắt khẩn cấp, bị bắt quả tang ngay sau
khi có người ra tự thú, đầu thú do đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và
khởi tố bị can nên cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi
đã ra các quyết định khởi tố cần thiết nhưng không cần thiết phải tạm giam bị can
nên cơ quan có thẩm quyền để bị can được tại ngoại mà cũng không cần thiết phải
tạm giam bị can.
Ngoài các trường hợp nêu trên, nếu sau khi bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang,
các cơ quan có thẩm quyền bắt đã gửi lệnh bắt cho VKS để VKS kiểm tra việc bắt
và VKS đã không phê chuẩn việc bắt đó thì cũng không được ra quyết định tạm giữ
đối với người bị bắt. Một vấn đề đặt ra về đối tượng có thể bị áp dụng bị áp dụng
biện pháp tạm giữ, đó là trong trường hợp một người đang bị truy nã, bị bắt lại
nhưng địa điểm bắt ở xa nơi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền tố tụng giải
quyết vụ án này. Trong thời gian báo cho cơ quan có thẩm quyền đến để nhận lại bị
can, bị cáo mà họ truy nã thì cơ quan đã bắt được bị can, bị cáo có quyền ra quyết
định tạm giữ hay tạm giam hay không? Về nguyên tắc thì không một ai có thể bị
bắt, giữ mà không có quyết định của các cơ quan có thẩm quyền. Về vấn đề nêu
trên, tại Thông tư số 03 ngày 7/1/1995 giữa TANDTC - VKSNDTC - Bộ Nội vụ
(nay là Bộ Công an) có điều chỉnh như sau: Khi cơ quan công an, Viện kiểm sát
hoặc Ủy ban nhân dân bắt được hoặc nhận được người bị truy nã thì phải lập biên
bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền ở địa bàn đó. Sau
khi lấy lời khai, cơ quan điều tra phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định
truy nã biết và giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất. Ngay sau khi
nhận được thông báo về việc đã bắt được người bị truy nã, cơ quan điều tra đã ra
quyết định truy nã phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã có yêu
cầu truy nã biết. Viện kiểm sát hoặc Tòa án có trách nhiệm thực hiện theo đúng các
hướng dẫn tại điểm 1 hoặc điểm 2 của Thông tư này. Điểm 1 và 2 của Thông tư số
03 có tinh thần chung là quy định Cơ quan điều tra nơi bắt được người bị truy nã
phải tiến hành lấy lời khai của người bị bắt và sau đó ra lệnh tạm giữ đối với bị can
hoặc giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất. Trại tạm giam có trách
nhiệm tiếp nhận và giam giữ bị can. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được
thông báo của cơ quan điều tra về kết quả truy nã là đã bắt được bị can thì Viện
24
kiểm sát hoặc Tòa án đã yêu cầu truy nã phải ra ngay quyết định tạm giam đối với
bị can và tiếp tục tiến hành những công việc theo thủ tục chung nhằm bảo đảm việc
giam giữ hết thời hạn tạm giữ (tối đa là 9 ngày) mà Trại tạm giam vẫn không nhận
được quyết định tạm giam của Viện kiểm sát hoặc của Tòa án đã có yêu cầu truy nã
đối với người bị bắt thì Trại tạm giam cần báo ngay cho Cơ quan điều tra nơi đã bắt
được người bị truy nã.
Theo tinh thần của Thông tư số 03 nói trên thì việc tạm giữ có thể áp dụng
đối với người bị bắt truy nã, tức là có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị
thi hành án mà trốn tránh; nói cách khác, đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm
giữ không chỉ là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả
tang mà có thể áp dụng cả đổi với người bị bắt theo lệnh truy nã và có thể để xác
định trách nhiệm hình sự về một tội phạm khác như: tội không chấp hành án (Điều
380 BLHS năm 2015); tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải,
đang bị xét xử (Điều 386 BLHS năm 2015). Tất nhiên trong trường hợp này thì
mục đích của biện pháp tạm giữ là nhằm tạo điều kiện về thời gian để cơ quan nơi
đã ra lệnh truy nã đến nhận lại người bị bắt theo lệnh hoặc theo yêu cầu truy nã của
họ. Rõ ràng việc tạm giữ người trong trường hợp này là cần thiết và vấn đề này đã
được bổ sung vào trong quy định của BLTTHS 2015.
1.4.2. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ
Khoản 2 Điều 117 BLTTHS năm 2015 quy định những người có quyền ra
lệnh bắt khẩn cấp quy định tại Khoản 2 Điều 110 BLTTHS, Chỉ huy trưởng vùng
Cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. Căn cứ vào những điều trên, những người
có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ bao gồm:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
- Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Đồn trưởng
Đồn biên phòng; Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng; Chỉ huy trưởng Bộ
đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương; Cục trưởng Cục trinh sát
biên phòng Bộ đội biên phòng; Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm
Bộ đội biên phòng; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội
phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển; Cục trưởng Cục
Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm
25
phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm ngư vùng;
- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay,
bến cảng.
So sánh đối chiếu với các quy định của các bộ luật TTHS trước đây thấy
rằng các chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ nêu trên mở rộng hơn
so với trước đây (Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa
khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung
ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục
phòng, chống ma túy ...). Điều này là để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng,
chống tội phạm hiện nay.
1.4.3. Thủ tục tạm giữ
Về bản chất pháp lý là biện pháp tạm thời hạn chế quyền tự do thân thể của
người bị tạm giữ vì thế biện pháp tạm giữ phải được tiến hành theo một trình tự,
thủ tục chặt chẽ do pháp luật qui định, theo đó việc tạm giữ phải có quyết định của
người có thẩm quyền. BLHS quy định muốn tạm giữ người thì phải có quyết định
của người hoặc cơ quan có thẩm quyền.
Điều 110 BLTTHS 2015 quy định: Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ
người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản
2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay
cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho
Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên
quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.
Để bảo đảm công tác kiểm sát giam giữ, tránh vi phạm quyền tự do thân thể
của công dân, BLTTHS năm 2015 qui định trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết
định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu
xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra
quyết định giam giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
26
Vấn đề đặt ra là hiểu như thế nào là việc tạm giữ “không có căn cứ hoặc
không cần thiết”? Về vấn đề này, cho đến nay chưa có hướng dẫn cụ thể. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy, VKS hủy bỏ quyết định tạm giữ trong các trường hợp sau:
(i) Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú,
đầu thú, mà họ chỉ được Cơ quan điều tra triệu tập đến rồi thông báo quyết định
tạm giữ;
(ii) Người bị tạm giữ chỉ vi phạm hành chính, vi phạm pháp luật dân sự;
(iii) Người bị tạm giữ bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
nhưng có đủ chứng cứ kết luận họ không phạm tội;
(iiii) Người bị tạm giữ là người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi, nhưng phạm tội ít
nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm
trọng do vô ý;
(v) Người bị tạm giữ phạm tội quả tang, nhưng sự việc đơn giản, căn cước, lai
lịch rõ ràng.
Có thể thấy không phải mọi trường hợp người bị bắt (bị giữ) trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định
truy nã, người phạm tội tự thú, đầu thú đều bị tạm giữ. Họ chỉ bị tạm giữ khi xét
thấy cần thiết và phải có căn cứ.
1.4.4. Thời hạn tạm giữ
Theo Điều 118 BLTTHS năm 2015: (i) Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày
kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về
trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm
tội tự thú, đầu thú. (ii) Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia
hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định
tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày. Mọi trường
hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có
thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn
tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn; Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra,
27
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay
cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự
do ngay cho người bị tạm giữ. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam.
Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Việc tạm giữ đối với người
chưa thành niên phạm tội không có quy định khác về thời hạn tạm giữ.
Việc BLTTHS quy định hai lần có thể gia hạn tạm giữ nhằm bảo đảm tính
có căn cứ và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ tràn lan, góp
phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do vậy đòi hỏi
người áp dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp dụng pháp
luật được tốt.
Trong qui định cũng như trong nhận thức về thời hạn tạm giữ cũng phát sinh
một số vấn đề đòi hỏi cần nhận thức thống nhất. Một số vấn đề cần có sự giải thích
kịp thời, cụ thể như: Khoản 4 Điều 118 quy định thời hạn tạm giữ được tính vào
thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Qui định
này có mục đích nhân đạo nếu người bị tạm giữ bị khởi tố bị can và bị tạm giam thì
được trừ đi thời hạn họ đã bị tạm giữ vào thời hạn tạm giam. Điều này đòi hỏi
những người áp dụng luật cần quán triệt để áp dụng đúng đắn pháp luật.
Tiểu kết chương 1
Trong các biện pháp ngăn chặn biện pháp tạm giữ có vai trò quan trọng
trong việc giải quyết các vụ án hình sự, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng
cố, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự kiên quyết trong việc đấu tranh phòng, chống
tội phạm; đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vũng, chế độ
xã hội chủ nghĩa được bảo vệ và các quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân
được tôn trọng và bảo vệ.
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN
PHÁP TẠM GIỮ VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
28
TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp
tạm giữ.
2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm giữ từ
sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến năm 1988.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã lật đổ hoàn toàn bộ máy nhà
nước phong kiến và dẫn đến sự ra đời của Nhà nước kiểu mới đầu tiên ở Đông Nam
Á - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày ấy, chính quyền non trẻ phải đối mặt
với những khó khăn chồng chất, như: nền kinh tế vốn lệ thuộc lại bị phát xít Nhật
khai thác triệt để trong chiến tranh thế giới thứ hai trở nên kiệt quệ; thực dân Pháp
trở lại gây hấn ở Nam Bộ được sự giúp đỡ đắc lực của quân đội Anh vào giải giáp
vũ khí của quân đội Nhật; ở miền Bắc, quân đội Tưởng với danh nghĩa đồng minh
vào giải giáp vũ khí quân đội Nhật và theo sau đó là bọn tay sai người Việt với âm
mưu lật đổ chính quyền cách mạng.
Trong lúc phải đối phó với nạn đói và thù trong, giặc ngoài, hoạt động lập
pháp vẫn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đó là Hiến pháp 1946 ngày
09/11/1946 được ban hành. Hiến pháp tại Điều 11 quy định: “Tư pháp chưa quyết
định, thì không bắt bớ và giam cầm người công dân” và “Tất cả công dân Việt Nam
đều bình đẳng trước pháp luật”… tại Điều 7 Hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý cho
việc ban hành quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam trong Sắc lệnh 13/SL ngày
24/01/1946 và Sắc lệnh 131/SL ngày 20/7/1946. Trong hai văn bản pháp luật này
có một số nội dung liên quan đến các BPNC như: (i) “Ban Tư pháp xã không có
quyền tịch thu tài sản của ai, cũng không có quyền bắt bớ, giam giữ trừ khi có trát
nã của Thẩm phán hay khi thấy một người phạm tội quả tang” và “để bảo đảm
quyền tự do thân thể của công dân, nghiêm cấm việc bắt giam trái pháp luật, trừ
những trường hợp phạm pháp quả tang phải đưa ngay người bị bắt lên huyện,
không được giữ ở xã quá 24 tiếng đồng hồ” [10, tr. 479]; (ii) Trong Trại tạm giam
nên giam riêng biệt đối tượng đang bị giam cứu để điều tra với các đối tượng bị kết
án, như: những người bị giam cứu; chính trị phạm; những người bị an trí; những
phạm nhân nguy hiểm hoặc hung dữ không chịu cải hối (có thể giam vào biệt lao);
những phạm nhân là đàn bà [9, tr. 46].
29
Thời gian kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm từ 1945 đến năm 1954.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất nước ta bị
chia làm hai miền và pháp luật phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược là củng cố và phát
triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta còn xác định: “Miền Bắc là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước;
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà” [51, tr. 80].
Ở miền Bắc, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này, Luật 103/SL-L005 ngày
20/5/1957 có đề cập đến nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm thân thể của
công dân, thủ tục, thẩm quyền ra lệnh bắt người, như: (i) “Quyền tự do thân thể và
quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân được tôn trọng
và bảo đảm. Không ai được xâm phạm các quyền ấy" [32, tr. 110]; (ii) Bắt người
phạm đến pháp luật phải có lệnh viết của cơ quan tư pháp cấp tỉnh hoặc cấp thành
phố trở lên nếu là thường dân hoặc Viện kiểm sát quân sự, Tòa án quân sự nếu là
quân nhân phạm pháp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương trở lên. Riêng đối với các tỉnh phía
Nam, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người
phạm tội trong những vụ án hình sự đang thụ lý; Trưởng và Phó cơ quan Công an
nhân dân từ cấp tỉnh trở lên có quyền ra lệnh bắt giam người, lệnh phải được phê
chuẩn chính xác của Viện kiểm sát [32, tr. 111]; (iii) "Đối với người phạm pháp
quả tang, bất cứ người nào cũng có quyền bắt và phải giải ngay đến Ủy ban hành
chính, Tòa án nhân dân hoặc đồn Công an nơi gần nhất" [32, tr. 111]; (iiii) "Trong
những trường hợp khẩn cấp, cơ quan Công an có thể bắt giữ trước khi có lệnh viết
của các cơ quan quy định trong Điều 3 và phải báo cho các cơ quan đó biết. Những
trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp là những trường hợp đặc
biệt do luật quy định" [32, tr. 111].
Việc bắt người trong trường hợp bình thường được quy định: Ngoài những
trường hợp phạm pháp quả tang và trong trường hợp khẩn cấp nói trong Điều 4, bắt
người vi phạm pháp luật Nhà nước phải có lệnh viết của cơ quan tư pháp từ cấp
tỉnh hoặc thành phố trở lên, nếu là thường dân phạm pháp, hoặc của Tòa án binh
nếu là quân nhân phạm pháp, hay là thường dân phạm pháp có liên quan đến Quân
đội nhân dân [32, tr. 112].
30
- Cụ thể hóa Luật 103/SL-L005 ngày 20/5/1957, Sắc lệnh 002/SL-T ngày
18/6/1957 quy định trường hợp bắt người phạm pháp quả tang và sáu trường hợp
bắt khẩn cấp, gồm: (i) Các trường hợp bắt quả tang: "Đang làm việc phạm pháp
hoặc sau khi phạm pháp, thì bị phát giác ngay; đang bị đuổi bắt ngay sau khi phạm
pháp; đang bị giam giữ mà lẩn trốn; đang có lệnh truy nã" [32, tr. 117]; (ii) Các
trường hợp bắt khẩn cấp, gồm: Có hành động chuẩn bị làm việc phạm pháp; người
bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra vụ phạm pháp chính mắt trông thấy và xác
nhận đúng là kẻ phạm pháp; tìm thấy chứng cớ phạm pháp trong người hoặc tại nhà
ở của kẻ tình nghi phạm pháp; có hành động chuẩn bị, hoặc đang trốn; có hành
động chuẩn bị tiêu hủy chứng cớ, làm giả chứng cớ; có sự thông đồng giữa những
kẻ phạm pháp với nhau để trốn tránh pháp luật; căn cước, lai lịch không rõ ràng
[32, tr. 117]. Các quy định trên chỉ ra bốn căn cứ áp dụng biện pháp bắt quả tang và
sáu căn cứ bắt khẩn cấp đánh dấu một bước phát triển mới về kỹ thuật lập pháp
trong lĩnh vực luật TTHS. Tuy nhiên, ta thấy "căn cước, lai lịch không rõ ràng" là
một trong những căn cứ để bắt khẩn cấp không liên quan gì đến hành vi phạm tội là
một nội dung thiếu cơ sở khoa học.
- Triển khai Luật 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 và Sắc lệnh 002/SL-T ngày
18/6/1957, bằng Thông tư số 556/TTg ngày 24/12/1958, Thủ tướng Chính phủ chỉ
đạo đường lối áp dụng biện pháp bắt, giữ và quan điểm xét xử: "Trong khi làm
nhiệm vụ, Công an, Công tố và Tòa án phải chiểu theo pháp luật của Nhà nước, mà
làm đúng nguyên tắc bắt giữ và xét xử: Kẻ đáng bắt, thì bắt; kẻ bắt cũng được,
không bắt cũng được, thì không bắt; bắt giữ rồi, thì phải hỏi cung mau chóng để kịp
thời xử án, không được giam lâu" [56, tr. 8-9].
Quy định của Hiến pháp 1959: "Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt
nếu không có sự quyết định của Tòa án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân" [61, tr. 232]. Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp 1959, Thông tư
số 42/TT-LB ngày 28/6/1963 của VKSNDTC và Bộ Công an xác định thẩm quyền
áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước và trách nhiệm phê chuẩn của VKS, cũng
như bảo đảm cho việc phê chuẩn đó, như: (i) Công an chỉ được quyền bắt, khám
người, khám nhà, giữ lại thư tín, tạm giữ hoặc kê biên tài sản, tạm giam, gia hạn
tạm giam, miễn tố, tạm tha bị can khi đã được phê chuẩn của Viện kiểm sát. Để có
31
căn cứ cho việc phê chuẩn, cơ quan Công an cần gửi đến Viện kiểm sát hồ sơ gồm
những tài liệu cần thiết đã thu thập được. Nếu thấy chưa đủ căn cứ, thì Viện kiểm
sát yêu cầu cung cấp tài liệu. Viện kiểm sát có trách nhiệm nghiên cứu phê chuẩn
nhanh chóng để phục vụ kịp thời cuộc đấu tranh chống tội phạm [64, tr. 94].
Ỏ miền Nam, sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời ngày
20/12/1960, Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam đã ban hành Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/03/1976 quy định: Việc bắt, giam,
khám người, khám nhà ở, khám đồ vật phải có lệnh viết của cơ quan có thẩm
quyền, trừ trường hợp phạm tội quả tang và trường hợp khẩn cấp quy định ở các
điều 2 và 3 dưới đây; Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có quyền ra lệnh bắt,
giam, khám người, khám nhà ở, đồ vật trong những vụ án hình sự; Tòa án nhân dân
có quyền ra lệnh bắt, giam người phạm tội trong những vụ án hình sự đang thụ lý;
Trưởng, phó cơ quan An ninh từ cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở
lên có quyền ra lệnh bắt giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật của người
phạm tội; lệnh đó phải được sự phê chuẩn trước của Viện kiểm sát nhân dân nếu là
vụ án hình sự, hoặc Ủy ban cách mạng cùng cấp, nếu là trường hợp tập trung cải
tạo [56, tr. 25].
Mặc dù, Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/03/1976 điều chỉnh hai nhóm quan hệ
xã hội trong hai lĩnh vực TTHS và hành chính khác nhau và hai nhóm có thẩm
quyền áp dụng khác nhau, nhưng cho thấy một bước tiến mới về kỹ thuật lập pháp,
khi nó đã đề cập tới thủ tục, thẩm quyền của VKSND, Ủy ban nhân dân cách mạng,
TAND và cơ quan An ninh đối với việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám
đồ vật.
Hiến pháp 1980 tiếp tục quy định: "Không ai có thể bị bắt, nếu không có quyết
định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân.
Việc bắt và giam giữ phải theo đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy
bức, nhục hình" [38, Điều 69].Trên cơ sở Hiến pháp 1980, Thông tư 01/TT- LB
ngày 16/2/1984 của liên bộ TANDTC - Bộ Nội vụ quy định
Trong khoảng thời gian từ năm 1976 đến năm 1985, cơ sở hạ tầng của chúng
ta mang đặc trưng của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chiếm ưu thế tuyệt đối,
được thể hiện dưới hai hình thức là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, hoạt động
thống nhất theo một cơ chế kế hoạch hóa tập trung do Nhà nước quản lý và điều
32
hành; thực hiện thống nhất nguyên tắc phân phối "làm theo năng lực, hưởng theo
lao động" mà hình thức biểu hiện của nó là chế độ tem phiếu bảo đảm định lượng
cho từng thành viên trong xã hội. "Điều này làm cho kiến trúc thượng tầng trở nên
nặng nề kém hiệu quả. Tính pháp quyền mờ nhạt trên cả ba lĩnh vực hoạt động cơ
bản của Nhà nước - lập pháp, hành pháp và tư pháp" [28, tr. 87]. Trước tình hình
đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI vào tháng 12 năm 1986 của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã định hướng: "Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và
phương thức phân phối là xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; xây dựng cơ
chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ…" [28, tr. 89]. Chính sách kinh tế mới đã tạo
động lực cho sự phát triển và nâng cao mức sống chung cho xã hội, đưa nước ta ra
khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, hiện tượng tiêu cực mới nảy sinh trong
xã hội lại tăng lên, kỷ cương phép nước không được tôn trọng, oan sai và xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân lại xảy ra nhiều. Các văn bản pháp luật
về điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được ban hành rải rác không thể hiện đầy đủ
chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong pháp luật TTHS.
Khắc phục nhược điểm trên, ngày 28/6/1988, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, khóa VIII đã thông qua BLTTHS có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1989 qui định một chương V độc lập, với 14 điều luật từ Điều 61 đến Điều
77 để điều chỉnh những nội dung cơ bản của hệ thống các BPNC, trong đó, có một
số khác biệt so với các văn bản pháp luật trước đó. Điều 68, quy định:
“1. Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang quy định tại Điều 63 và Điều 64 Bộ luật này.
2. Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 63
Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giữ.
3. Trong thời gian 24 giờ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện Kiểm sát cùng
cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không cần thiết thì Viện Kiểm sát ra quyết định hủy
bỏ lệnh tạm giữ và trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Lệnh tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho
người bị tạm giữ một bản”.
Về thời hạn tạm giữ, Điều 69 quy định:
33
"1. Thời hạn tạm giữ không được quá ba đêm, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận
người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn
tạm giữ, nhưng không quá ba ngày.
2. Trong trường hợp đặc biệt, cơ quan ra lệnh tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ
lần thứ hai và cũng không được quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều
phải được Viện Kiểm soát cùng cấp phê chuẩn.
3. Khi hết thời hạn tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự
do ngay cho người đã bị tạm giữ.
4. Thời gian tạm giữ được tính vào thời hạn tạm giam
Thực tế áp dụng biện pháp tạm giữ quy định của BLTTHS năm 1988 cho thấy
đã thể hiện một số khó khăn, vướng mắc, cụ thể:
- Về đối tượng có thể bị tạm giữ.
Biện pháp tạm giữ theo quy định của Bộ luật này chỉ áp dụng đối với người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả
tang, mà không để cập đến tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp truy nã là
không đúng với thực tiễn điều tra các vụ án hình sự, gây khó khăn khi tạm giữ các
đối tượng bị bắt theo lệnh truy nã. Từ thực tiễn hoạt động bắt các đối tượng truy nã,
xét thấy cần thiết phải tạm giữ đối tượng này, trên cơ sở đề xuất của các cơ quan
tiến hành tố tụng, thì Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 7/1/1995 ra đời nhằm
khắc phục vấn đề trên, đảm bảo các đối tượng bị bắt theo lệnh truy nã cũng sẽ bị
tạm giữ để phục vụ công tác điều tra như tạm giữ các đối tượng bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp và bắt trong trường hợp phạm tội quả tang.
- Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Theo quy định tại điều 63 BLTTHS năm 1988 thì người có thẩm quyền ra
lệnh tạm giữ là là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh và cấp
quân khu trở lên, Trưởng Công an, Phó trưởng Công an cấp huyện. Tuy nhiên tại
quy định của Điều 63 BLTTHS năm 1988 thì thẩm quyền bắt khẩn cấp lại thêm cả
người chỉ huy máy bay, tàu biển khi máy bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng; chỉ
huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn
biên phòng ở hải đảo, biên giới. Do vậy ngay cả trong Bộ luật TTHS năm 1988
cũng đã có sự không phù hợp, vì thường thẩm quyền người ra lệnh tạm giữ cũng
giống như ra lệnh bắt khẩn cấp và thực tiễn khi bắt khẩn cấp thường phải ra lệnh
34
tạm giữ, mới nhất quy định của pháp luật là tạm giữ trước khi ra lệnh bắt khẩn cấp,
nhưng thẩm quyền trong luật không quy định, dẫn đến việc bắt khẩn cấp xong thì ai
ra lệnh tạm giữ. Để khắc phục hạn chế này, ngày 30/6/1990 Quốc hội đã sửa đổi
BLTTHS năm 1988, trong đó có sửa đổi Điều 68. Theo đó, những người có thẩm
quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại Khoản 2 Điều 63 BLTTHS cũng có quyền
ra lệnh tạm giữ.
Chúng tôi cho rằng quy định như vậy về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ là phù
hợp với tình hình thực tế vì tội phạm có thể xảy ra ở bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào.
Vì vậy, việc ngăn chặn kịp thời tội phạm ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp
luật hay gây khó khăn cho việc điều tra, khám phá tội phạm là việc làm cấp bách và
cần thiết. Tuy nhiên, để ra lệnh tạm giữ thì trước đó phải bảo đảm một thủ tục bắt
buộc, đó là việc phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp nhằm đảm bảo việc tạm giữ là có căn
cứ. Nhưng thực tế cho thấy, đối với lệnh bắt của Cơ quan điều tra thì việc báo bằng
văn bản cho Viện Kiểm sát là điều có thể thực hiện được một cách kịp thời, còn đối
với trường hợp các cơ quan ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì
việc này rất khó khăn hoặc không thể thực hiện kịp thời theo yêu cầu của điều luật.
- Về thời hạn tạm giữ và thủ tục có liên quan
Thời hạn tạm giữ theo quy định tại Điều 69 BLTTHS năm 1988 là trong vòng
3 ngày đêm và cũng chỉ quy định chung là nếu có gia hạn thì tối đa cũng không quá
9 ngày đêm, không quy định chi tiết các lần gia hạn, nhưng vậy việc áp dụng gặp
rất nhiều khó khăn, vướng mắc cho cơ quan tiến hành tố tụng. Luật cũng quy định
quá thời hạn này mà không đủ căn cứ phải trả tự do cho người bị tạm giữ. Thực tiễn
áp dụng quy định này là tương đối phù hợp với chức năng nhiệm vụ của cơ quan
điều tra các cấp, nhưng đối với những chủ thể tố tụng khác hoặc đối với những cơ
quan được luật giao thực hiện một số nhiệm vụ điều tra ban đầu, hoặc người có
thẩm quyền tạm giữ khác là chưa phù hợp, vì chưa xác định rõ mục đích của việc
tạm giữ, tạm giữ để làm gì? dẫn đến việc các chủ thể này chưa thực hiện hoặc thực
hiện không phù hợp với tinh thần của điều luật, nên có nhiều trường hợp dẫn đến
quá hạn tạm giữ, hoặc thực hiện thời hạn tạm giữ không đúng.
Một vấn đề nữa liên quan đến thời hạn tạm giữ, đó là thời hạn tạm giữ đối với
người bị bắt theo lệnh truy nã. Theo điều luật quy định người bị bắt theo lệnh truy
35
nã có thể bị tạm giữ, nhưng lại không quy định thời hạn tạm giữ đối với đối tượng
này. Mặc dù Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cũng đã có
hướng dẫn về vấn đề này, nhưng thực tiễn áp dụng gặp rất nhiều khó khăn vướng
mắc, vì các đối tượng bị truy nã thường bỏ trốn rất xa địa phương nơi gây án,
thường ở miền Bắc bỏ trốn vào miền Nam và ngược lại, nếu quy định thời hạn như
vậy mà không có hướng dẫn cụ thể hơn thì khi dẫn giải đối tượng về địa phương
nơi gây án để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử sẽ dẫn đến quá thời hạn tạm
giữ, nguyên nhân do điều kiện di chuyển xa, dẫn giải đối tượng mất nhiều thời gian,
thủ tục cần hoàn thiện phức tạp đòi hỏi cần phải có thời gian để giải quyết, đây
cũng là khó khăn vướng mắc cần giải quyết về thời hạn tạm giữ.
2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm giữ
theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Qua nghiên cứu thấy, những khó khăn, bất cập, vướng mắc, hạn chế về biện
pháp tạm giữ tại Bộ Luật TTHS năm 1988 đã được bổ sung, sửa đổi rất quan trọng
trong Bộ luật TTHS năm 2003.
Tuy nhiên thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2003, về Biện
pháp tạm giữ cho thấy có một vướng mắc cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, đó
là:
- Vướng mắc trong việc phân loại để tạm giữ sau khi đã bắt khẩn cấp hoặc
quả tang. Trong quá trình giải quyết các vụ án về ma túy, thông thường xảy ra
trường hợp do nhận được tin báo về một số người đang tụ tập sử dụng trái phép các
chất ma túy nên cơ quan công an tổ chức bắt. Sau khi bắt được số người sử dụng
trái phép các chất ma túy, do không đủ cơ sở và căn cứ để xem xét trong số người
bị bắt, ai là người vi phạm lần đầu, ai là người mà hành vi của họ có đủ các dấu
hiệu của tội phạm nên cơ quan công an buộc phải chuyển vụ việc lên cơ quan điều
tra cấp trên. Sau khi nhận người bị bắt, Cơ quan điều tra cũng chưa đủ căn cứ để
phân loại những người bị bắt để xem ai là người có thể xử lý hình sự, ai là người
chỉ xử lý hành chính vì theo quy định tại Điều 199 BLHS, chỉ người nào sử dụng
trái phép các chất ma túy mà đã được giao dục nhiều lần và đã bị xử lý hành chính
bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc mà còn tiếp tục sử dụng trái phép
chất ma túy thì mới đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm “sử dụng trái phép chất ma
túy”, do vậy cần thiết phải ra quyết định tạm giữ để xem xét. Trong thời gian tạm
36
giữ, nếu có cơ sở thì cơ quan đã ra quyết định tạm giữ có thể hủy bỏ việc tạm giữ
để trả tự do cho người bị tạm giữ hoặc để xử lý hành chính. Vấn đề đặt ra là cần có
nhận thức đúng về Nhà nước trường hợp đã tạm giữ nhưng không xử lý về hình sự,
nhất là trong trường hợp tạm giữ người bị bắt quả tang. Không phải mọi trường hợp
tạm giữ mà không xử lý hình sự đều là trái pháp luật và đều là hiện tượng vi phạm
pháp luật. Tuy nhiên, để hạn chế những trường hợp đã tạm giữ theo TTHS nhưng
không xử lý về hình sự nên chăng kéo dài hơn thời hạn quy định tại khoản 1 Điều
83 BLTTHS quy định Cơ quan điều tra sau khi nhận người bị bắt phải ra quyết
định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Nhằm tạo điều kiện về thời gian xác
minh các căn cứ để tạm giữ, chúng tôi cho rằng, nên quy định thời hạn này có thể là
không quá 48 giờ.
- Vướng mắc về thời hạn tạm giữ
Thứ nhất, khoản 1 Điều 87 BLTTHS quy định về thời điểm bắt đầu của thời
hạn tạm giữ là thời điểm Cơ quan điều tra nhận người bị bắt là chưa dự tính hết
những phức tạp nảy sinh từ thực tiễn, bởi vì trên thực tế không phải trường hợp nào
cũng có thể giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra, ví dụ những người bị bắt
trên tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến càng Việt Nam
hoặc những người bị bắt ở biên giới, hải đảo. Những người bị bắt trong trường hợp
này có thể một thời gian khá lâu sau khi bị bắt mới giải đến giao cho Cơ quan điều
tra được, khoảng thời gian khá dài này những người bị bắt đó bị áp dụng BPNC
nào? Bắt hay tạm giữ? Bắt thì không phải vì biện pháp bắt phải coi là kết thúc sau
khi người có hành vi nguy hiểm cho xã hội bị bắt, nhưng tạm giữ thì cũng không
phải vì lúc đó người bị bắt vẫn chưa được nhận bởi Cơ quan điều tra.
Một vấn đề cần được nghiên cứu và hoàn thiện đó là việc tạm giữ người bị
bắt có khi kéo dài quá 9 ngày đêm nhưng cơ quan ra lệnh truy nã vẫn chưa đến
nhận người bị bắt thì cần phải giải quyết như thế nào? Nếu cứ giữ thì vi phạm luật
còn nếu không giữ người bị bắt thì lại để lọt người phạm tội. Mặc dù Thông tư liên
ngành số 03/TTLN ngày 7/1/1995 của TANDTC-VKSNDTC và Bộ Nội vụ (nay là
Bộ Công an) đã hướng dẫn thực hiện một số quy định về truy nã bị can, bị cáo
trong giai đoạn truy tố và xét xử đã quy định:
Để đảm bảo việc giam, giữ người phải có lệnh thì sau khi lấy lời khai, Cơ
quan điều tra áp dụng Điều 68 BLTTHS (1988) ra lệnh tạm giữ đối với bị can và
37
giải ngay người đó đến trại tạm giam gần nhất (75). Trại tạm giam có trách nhiệm
tiếp nhận và giam giữ bị can. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được thông báo
của cơ quan điều tra về kết quả truy nã là bắt được bị can, thì VKS đã yêu cầu truy
nã phải ra ngay quyết định tạm giam đối với bị can và tiếp tục tiến hành các công
việc theo thủ tục chung nhằm bảo đảm việc giam giữ người bị truy nã theo đúng
pháp luật.
Thực tiễn áp dụng cho thấy, các quy định này còn rất nhiều điểm hạn chế và
vướng mắc như: nhanh nhất cũng phải sau 24 giờ thì mới có lệnh tạm giam của
VKS đã yêu cầu truy nã gửi đến, như vậy thì thời hạn tạm giữ có được VKS dự tính
trước để ghi sẵn trong lệnh tạm giam không? Trong một thời gian ngắn sao lại có cả
lệnh tạm giữ và lệnh tạm giam? Bao nhiêu lâu sau thì VKS đã yêu cầu truy nã đến
nhận người bị bắt? Thời gian từ khi gửi thông báo cho VKS đã yêu cầu truy nã đến
khi nhận được lệnh tạm giam hoặc bàn giao người bị bắt cho cơ quan ra lệnh truy
nã phải kéo dài nhiều ngày, nếu quá cả thời hạn tạm giữ thì phải giải quyết như thế
nào?
Thứ hai, trong thực tiễn áp dụng các quy định về thời hạn tố tụng nói chung
và thời hạn tạm giữ nói riêng đang nảy sinh một vấn đề là cách tính thời hạn tạm
giữ như thế nào khi mà ngày kết thúc thời hạn lại là ngày nghỉ lao động hoặc ngày
lễ? Theo Điều 96 BLTTHS quy định:
Thời hạn mà Bộ luật này quy định được tính theo giờ, ngày và tháng. Khi
tính thời hạn theo ngày thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ ngày cuối cùng của thời
hạn; khi tính thời hạn theo tháng thì thời hạn sẽ hết vào ngày trùng của tháng sau;
nếu tháng đó không có ngày trùng thì thời hạn sẽ hết vào ngày cuối cùng của tháng
đó; nếu thời hạn hết vào ngày nghỉ thì ngày làm việc đầu tiên tiếp theo được tính là
ngày cuối cùng của thời hạn...
Theo Quyết định số 188/1999/QĐ-TTg ngày 17/9/1999 của Thủ tướng
Chính phủ “về thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ” thì kể từ ngày 2/10/1999 sẽ
thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ trong 5 ngày, nghỉ ngày thứ bảy và chủ nhật
hàng tuần đối với cán bộ, công chức và người lao động trong các cơ quan, đơn vị
hành chính sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, do đó khi ngày
cuối cùng của thời hạn là ngày thứ bảy, ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ lễ thì thời
hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó.
38
Như chúng ta đã biết, thời hạn tạm giữ được tính theo ngày. Giả sử ngày
7/4/20014, cơ quan có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ người bị bắt khẩn cấp trong thời
hạn 3 ngày, như vậy thời hạn tạm giữ sẽ hết vào 24 giờ ngày 9/4/2014, nhưng do
ngày 9/4 lại là ngày thứ bảy nghỉ làm việc nên thời hạn tạm giữ sẽ hết vào 24 giờ
của ngày thứ hai (11/4). Nếu cần gia hạn tạm giữ thì việc gia hạn tạm giữ lần thứ
nhất không quá ba ngày, do vậy sẽ hết hạn tạm giữ lần thứ nhất vào ngày 14/4, giả
sử cần gia hạn tạm giữ lần thứ hai thì thời hạn tạm giữ lần thứ hai sẽ hết vào
17/4/2014 và lại đúng vào ngày chủ nhật nghỉ lao động, do vậy thời hạn gia hạn
tạm giữ sẽ hết vào 24 giờ ngày thứ hai (18/4). Theo cách tính này thì thời hạn tạm
giữ bao gồm cả gia hạn sẽ là tổng số 12 ngày chứ không phải 9 ngày như quy định
của pháp luật, cách tính này rõ ràng không có lợi cho người bị tạm giữ. Mặc dù các
cơ quan tiến hành tố tụng đã có quy định phân công lãnh đạo trực đơn vị để kịp thời
giải quyết những vấn đề phát sinh nhưng rõ ràng vấn đề hướng dẫn cách tính thời
hạn tố tụng nói chung và thời hạn tạm giữ nói riêng có liên quan đến nhiều cơ quan
khác nhau, như các cơ quan ra lệnh tạm giữ, cơ quan phê chuẩn việc tạm giữ, cơ
quan quản lý và giữ người bị tạm giữ cũng như liên quan tới chính quyền và lợi ích
của người bị tạm giữ, do vậy rất cần có một sự hướng dẫn chung giữa các cơ quan
này để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được thống nhất, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Thứ ba, theo quy định tại khoản 4 Điều 87 BLTTHS, thời hạn tạm giữ được
trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
Đây là quy định có tính chất nhân đạo rõ nét. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi bị can
bị tạm giam thì việc tính trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam như thế nào
khi viết lệnh tạm giam? Đã có cơ quan tiến hành tố tụng hướng dẫn cấp dưới cách
viết lệnh tạm giam bằng cách ghi vào lệnh tạm giam, thời hạn tạm giam sẽ được
tính kể từ ngày bị can bị tạm giữ, với lý do ghi như vậy sẽ trừ ngay được thời hạn
tạm giữ vào thời hạn tạm giam. Thực ra đây chỉ đơn thuần là vấn đề kỹ thuật ghi
văn bản, ghi như thế nào để có thể trừ thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam,
nhằm tạo điều kiện cho cơ quan giam giữ người thực hiện đúng quy định của pháp
luật về tính thời hạn tạm giữ vào thời hạn tạm giam. Về vấn đề này chúng tôi cho
rằng, khi ghi thời hạn tạm giam trong lệnh tạm giam, nếu bị can trước đó có bị tạm
giữ thì cần phân biệt các trường hợp sau đây: thứ nhất là bị can bị tạm giữ và sau đó
39
bị tạm giam, thời hạn tạm giam nối liền ngay với thời hạn tạm giữ, thứ hai là sau
khi bị tạm giữ, mặc dù người đó bị khởi tố bị can nhưng không bị tạm giam ngay
mà sau một thời gian mới bị tạm giam, trường hợp này giữa thời hạn tạm giam với
thời hạn tạm giữ không liền nhau. Việc ghi lệnh tạm giam để có thể trừ đi thời hạn
tạm giữ vào thời hạn tạm giam trong hai trường hợp nói trên có khác nhau. Với
trường hợp thứ nhất, việc tính thời hạn tạm giam có thể tính từ ngày người đó bị
tạm giữ, trường hợp thứ hai thì sau khi ghi thời hạn tạm giam bị can theo quy định
của pháp luật TTHS và tính từ khi bị can bị cắt tạm giam, cần ghi rõ có trừ đi thời
hạn bị can bị tạm giữ vào trong thời hạn tạm giam. Với hai cách ghi như vậy sẽ
giúp cho người thi hành lệnh tạm giam biết được giới hạn thời hạn của việc tạm
giam để thi hành đúng pháp luật.
- Vướng mắc trong việc áp dụng Biện pháp tạm giữ đối với người phạm tội
ra đầu thú, tự thú.
Như chúng ta đã biết hai khái niệm “tự thú” và “đầu thú” không giống nhau.
Tự thú là việc một người sau khi đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng hành
vi đó vẫn chưa bị phát hiện, hoặc người thực hiện hành vi đó vẫn chưa bị phát hiện,
nhưng sau một thời gian, do bị lương tâm cắn rứt, do hối hận về hành vi của mình,
người đó đã tự ra trước cơ quan bảo vệ pháp luật trình diện và khai nhận về hành vi
phạm tội của minh, hoặc hành vi phạm tội của mình và đồng bọn.
Còn đầu thú là việc một người đã thực hiện hành vi phạm tội, hành vi đó đã
bị phát hiện, vụ án đó đã được khởi tố, có thể đã hoặc đang được tiến hành điều tra,
truy tố hoặc xét xử. Cá nhân người đó đã bị khởi tố bị can, có thể chưa hoặc đã bị
bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị xử phạt nhưng trốn tránh nay đang bị truy nã, sau một
thời gian trốn tránh người đó đã ra trước cơ quan bảo vệ pháp luật để trình diện,
khai nhận về các hành vi của mình.
Việc người tự thú, đầu thú được coi là đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp
ngăn ngừa tạm giữ, theo quan điểm cá nhân tôi cần phải quy định rõ, trường hợp
nào cần thiết phải giam giữ, còn trường hợp nào không cần thiết, bởi vì rằng có
trường hợp những người này phạm tội ở các mức độ khác nhau, có hoàn cảnh, nhân
thân khác nhau... cho nên đây cũng là vấn đề vướng mắc đang cần tháo gỡ.
- Vướng mắc về chế độ tạm giữ
40
Theo quy định của pháp luật, việc tạm giữ người bị tạm giữ được thực hiện
trong nhà tạm giữ của Công an cấp huyện. Ngoài ra trong các trại tạm giam của
Công an cấp tỉnh có thể bố trí một số phòng để tạm giữ người bị tạm giữ. BLTTHS
cũng quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, chế độ đối với người bị
tạm giữ. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, các cơ quan có liên quan chưa thực sự tôn
trọng và bảo đảm thực hiện các quyền của người bị tạm giữ. Nhiều trường hợp
người bị tạm giữ bị bối xử không đúng, bị bỏ đói, bỏ rét, hoặc bị buộc phải làm
những công việc nặng nhọc hoặc bẩn thỉu; nhiều người bị tạm giữ nhưng không
được biết rõ lý do bị tạm giữ bị giữ lâu ngày mới được hỏi, được khai báo; công tác
phân loại những người bị tạm giữ để xử lý chưa đúng bản chất sự việc, còn bỏ lọt
tội phạm, đặc biệt còn hiện tượng lẫn lộn hoặc lợi dụng giữa bắt giữ hành chính với
bắt giữ theo TTHS như đã phân tích cần nhanh chóng khắc phục.
2.1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm giữ
theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quy định của BLTTHS năm 2003,
BLTTHS năm 2015 quy định biện pháp tạm giữ tại Điều 117 và Điều 118.
Điều 117 quy định:
“1. Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú
hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
2. Những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều
110 của Bộ luật này có quyền ra quyết định tạm giữ.
Quyết định tạm giữ phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị tạm giữ, lý do tạm
giữ, giờ, ngày bắt đầu và giờ ngày bắt đầu và ngày giờ hết hạn tạm giữ và các nội
dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này.
3. Người thi hành quyết định tạm giữ phải thông báo, giải thích quyền và
nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 59 của Bộ luật này.
4. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra lệnh tạm
giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện
Kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ
không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết
41
định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm
giữ”.
Về thời hạn tạm giữ, Điều 118 quy định:
“1. Thời hạn tạm giữ không quá ba ngày kể từ khi cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người
bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ
quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
2. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ
nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể
gia hạn lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.
Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc
Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ
đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn.
3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra,
Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do
ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải
trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
4. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được
tính bằng một ngày tạm giam”.
So với qui định về biện pháp tạm giữ của BLTTHS năm 2003, thì BLTTHS
năm 2015 có một số điểm mới. Cụ thể:
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những biện pháp ngăn
chặn được quy định tại điều 110 BLTTHS 2015, đây là quy định mới thay thế biện
pháp ngăn chặn bắt người trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại điều 81
BLTTHS 2003.
Trong thực tiễn áp dụng, theo quy định của Điều 81 BLTTHS năm 2003, các
cơ quan có thẩm quyền có thể bắt khẩn cấp khi có căn cứ bắt khẩn cấp, sau đó mới
đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, quy định như vậy là
chưa đảm bảo theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 là “Không ai bị bắt nếu
không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ
trường hợp phạm tội quả tang”. Do đó, Bộ luật TTHS 2015 đã có sự sửa đổi thành
42
biện pháp “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” được quy định tại điều 110 để
phù hợp với Hiến pháp và thực tiễn áp dụng Bộ luật.
Thứ nhất, điều 110 BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể về căn cứ áp dụng:
Theo đó, giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải đảm bảo một trong ba căn cứ
được quy định tại khoản 1 điều 110 là: “a) Có đủ căn cứ để xác định người đó đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội
phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét
thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; c) Có dấu vết của tội phạm ở người
hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện
tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng
cứ”. Về cơ bản những căn cứ để giữ người trong trường hợp khẩn cấp không có sự
thay đổi nhiều so với quy định trước đây, nhưng cụ thể và có bổ sung chi tiết hơn.
Đó là tại điểm a, khoản 1, điều 81 BLTTHS 2003 quy định căn cứ bắt khẩn cấp
trong trường hợp “khi có căn cứ để cho rằng...” một người đang chuẩn bị thực hiện
tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiệm trọng. Đây là quy định mang tính chất
định tính, chưa cụ thể, còn tại điểm a, khoản 1 điều 110 BLTTHS 2015 đã quy định
cụ thể căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp “Có đủ căn cứ để xác
định...”. Như vậy, khi muốn giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì cơ quan tiến
hành tố tụng phải thu thập được đầy đủ căn cứ để xác định người đó có các hành vi
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm và đó có phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại điều 14 của BLHS 2015 hay
không.
Ngoài ra, BLTTHS 2015 còn bổ sung thêm sự xác nhận của người cùng thực
hiện tội phạm và có dấu vết của tội phạm ở “trên phương tiện của người bị nghi
thực hiện tội phạm”, quy định như vậy xuất phát từ thực tiễn đấu tranh và phòng
chống tội phạm hiện nay.
Thứ hai, về trình tự thủ tục được quy định cụ thể và chi tiết: Lệnh giữ người
trong trường hợp này không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát. Trong thời hạn 12
giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp thì các Cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành ngay một số
hoạt động điều tra: lấy lời khai ngay của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
43
phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người
đó. Như vậy, BLTTHS 2015 đã quy định về thời gian phải ra quyết định tạm giữ,
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do khi xét thấy không
có căn cứ giữ người là 12 tiếng thay vì 24 tiếng như BLTTHS 2003. Lệnh bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp
hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người
để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị phê
chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong trường hợp, Viện kiểm sát
không phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra
lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã nhận người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.
Thứ ba, về chủ thể có thẩm quyền áp dụng: BLTTHS 2015 đã mở rộng phạm
vi những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Ngoài
những chủ thể được quy định tại khoản 2 điều 81 BLTTHS 2003, thì tại điểm b,
khoản 2 điều 110 BLTTHS 2015 quy định bổ sung các chủ thể như sau: Đồn
trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy
trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục
trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và
tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và
tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng
Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm
phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm ngư vùng.Quy định như trên là để phù hợp với quy định tố tụng 2015 về các
chủ thể, được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Tuy nhiên qua thực tiễn áp dụng, có một số bất cập như sau: Theo quy định
tại Khoản 1, Điều 118 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ được tính kể từ khi áp giải
người bị giữ về trụ sở của mình. Theo như Điều luật quy định, có thể hiểu việc tính
thời hạn tạm giữ được tính kể từ khi Cơ quan điều tra thực hiện việc áp giải người
bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp về trụ sở của Cơ quan điều tra. Nhưng ngày
12/6/2018, Cơ quan CSĐT, Bộ Công an có Công văn số 2000/CSĐT(C44) hướng
dẫn việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp và cách tính thời hạn tạm giữ theo
44
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, có hướng dẫn như sau: Trường
hợp Cơ quan điều tra trực tiếp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và thực hiện
áp giải người đó về trụ sở của mình thì thời hạn tạm giữ được tính từ khi áp giải
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đó về đến trụ sở Cơ quan điều tra. Trong
một số trường hợp Cơ quan điều tra thực hiện việc giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, sau đó đưa về trụ sở Công an xã để hoàn thiện một số thủ tục ban đầu,
sau đó mới đưa về trụ sở của Cơ quan điều tra. Khoảng thời gian từ khi giữ ở trụ sở
Công an xã đến khi đưa về đến trụ sở Cơ quan điều tra nhiều khi mất rất nhiều thời
gian, kéo dài từ đêm hôm trước đến rạng sáng ngày hôm sau; Trên thực tế, ngay khi
cơ quan điều tra thực hiện việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp để đưa người
về trụ sở công an xã là đã hạn chế quyền công dân và để tránh việc giữ, bắt người
oan sai, Cơ quan điều tra đã tiến hành ngay một số hoạt động thu thập chứng cứ
ban đầu như ghi lời khai, xác định nhân thân, lý lịch của người bị giữ. Do đó, thời
hạn tạm giữ trong trường hợp này chỉ được tính từ khi áp giải người bị giữ về đến
trụ sơ Cơ quan điều tra là chưa hợp lý, chưa đảm bảo nguyên tắc có lợi cho người
thực hiện hành vi vi phạm, tội phạm.
Theo quy định tại Điều 115 BLTTHS năm 2015 và theo Công văn
số 2000/CSĐT(C44) ngày 12/6/2018, của Bộ Công an thì trong các trường hợp
khẩn cấp, thi hành lệnh hoặc quyết định bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên
bản. Do vậy, sau khi Viện kiểm sát cùng cấp đã phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp thì Điều tra viên phải tiến hành lập Biên bản bắt người
bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp tại cơ sở giam giữ. Vậy, biên bản lập cần
có người chứng kiến không và việc lấy cán bộ của Nhà tạm giữ là người chứng
kiến có được không.
Có thể nói rằng, BLLTTHS 2015 đã có những quy định rất mới về biện pháp
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, điều luật mới có sự thay đổi về căn cứ, nội
dung điều chỉnh, bổ sung các quy định để phù hợp với thực tiễn áp dụng, khắc phục
những bất cập khó khăn của BLTTHS 2003 vào quá trình giải quyết các vụ án hình
sự. Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét thận trọng nhằm áp dụng
chính xác, tránh lạm dụng quy định trên để xâm phạm quyền con người và làm thay
đổi kết quả giải quyết vụ án.
45
2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tạm giữ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh có ảnh hướng
đến việc áp dụng biện pháp tạm giữ
Tỉnh Quảng Ninh là tỉnh địa đầu vùng Đông Bắc của Tổ quốc, nằm trên khu
vực có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh; Quảng Ninh hội tụ đầy
đủ các điều kiện đảm bảo cho phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học kỹ
thuật, an ninh quốc phòng mang tính đặc trưng của Việt Nam, phù hợp với xu thế
phát triển hiện đại của thế giới. Quảng Ninh đang và sẽ trở thành điểm kết nối quan
trọng giữa ASEAN - Trung Quốc, với vị trí điểm đầu tuyến trong khu vực hợp tác
“hai hành lang, một vàng đai” kinh tế Việt - Trung, hợp tác liên vùng Vịnh Bắc bộ,
đồng thời là một cực nằm trong khu vực động lực phát triển Bắc Bộ.
Tỉnh Quảng Ninh có diện tích khoảng 12.000 km2, bao gồm 6.000 km2 đất
liền và 6.000 km2 mặt biển với hơn 2.000 hòn đảo lớn nhỏ, 80% diện tích đất của
tỉnh là đồi núi, đường bờ biển dài 250km. Có hai khu vực miền núi chính, một ở
phía đông giáp với Trung Quốc và khu vực còn lại ở phía tây. Dân số tỉnh phần lớn
tập trung ở khu vực miền núi và đồng bằng ven biển.
Dân số tỉnh Quảng Ninh đạt gần 1.415 triệu người người (năm 2019), có 22
thành phần dân tộc, trong đó có 6 dân tộc có hàng nghìn người trở lên, cư trú thành
những cồng đồng và có ngôn ngữ, bản sắc dân tộc rõ nét, đó là dân tộc Kinh, Dao,
Tày, Sán Dìu, Sán Chỉ, Hoa.
Quảng Ninh là tỉnh có vị trí chiến lược về chính trị, kinh tế, quốc phòng - an
ninh và đối ngoại, là tỉnh duy nhất có đường biên giới trên bộ và trên biển với
Trung Quốc, là địa bàn trọng điểm trong vùng động lực kinh tế phía Bắc. Trong
những năm qua, Quảng Ninh đã có bước phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2011-2015 là 9,2%; thu ngân sách trên địa bàn
luôn đứng vào tốp 5 tỉnh, thành phố cao nhất cả nước. Cùng với phát triển kinh tế,
đảm bảo an sinh xã hội, nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh luôn
được giữ vững, phục vụ hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Đi liền với những lợi thế, tiềm năng nổi trội, từ năm 2014 đến nay tỉnh cũng
gặp phải những thách thức về công tác đảm bảo an ninh, trật tự. Trong đó, tình
trạng tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự an
toàn xã hội, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự. Theo
46
thống kê từ năm 2014 đến 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có trên 7.000 vụ việc
hình sự với số bị can trên 10.000 người.
Một vấn đề đáng quan tâm là trong khoảng thời gian 3 năm trở lại đây, số vụ
việc hình sự có xu hướng tăng với tính chất phức tạp và mức độ nghiêm trọng tăng
cao. Thực trạng trên đòi hỏi chúng ta phải có biện pháp phòng ngừa chủ động, mặt
khác cần nghiêm minh và cứng rắn hơn trong quá trình xử lý các đối tượng phạm
tội.
2.2.2. Khái quát tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014
- 2018
Trong những năm qua cùng với sự phát triển KTXH của đất nước, KTXH
của tỉnh Quảng Ninh cũng có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cũng có nhiều diễn biến phức tạp, các vụ án hình
sự tăng cao, xuất hiện các loại tội phạm nguy hiểm hơn, mức độ nghiêm trọng của
các loại tội phạm tăng.
Bảng 2.1: Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2014-2018
Trong đó
Tội phạm về TTXH
Tội phạm về ANQG
Tội phạm về ma túy
Tội phạm KT-MT
Tội phạm XPSH
TP xâm phạm HĐTP
Năm
Tội phạm tham nhũng
Tổng số bị can
Tổng số vụ hình sự
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số vụ
Số bị can
Số bị can
Số bị can
Số bị can
Số bị can
Số bị can
Số bị can
504
677
11
46
66
114
470
602
391
688
2014 1446
2135
4
8
426
583
12
71
128
397
448
378
710
2
2015 1276
1886
1
3
2
1
544
799
4
83
107
366
401
360
991
2
2016 1357
2306
1
3
1
1
488
734
20
59
461
452
440
843
5
32
2017 1427
2118
1
10
512
725
11
25
69
510
538
441
767
62
2018 1538
2129
1
4
1
1
2474
3518
2441
2204
7044
10574
3
4
31
107
314
477
2010
3999
8
28
Tổng số
Nguồn: Công an tỉnh Quảng Ninh
Từ năm 2014 đến năm 2018, trên địa bàn Quảng Ninh đã xảy ra 10.574 vụ án
hình sự gây thiệt hại lớn về người, tài sản và làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an
toàn xã hội trên địa bàn Quảng Ninh, trong đó:
Năm 2014, Khởi tố 1.446 vụ/ 2.135 bị can, giảm 16,7% số vụ, 23,33 % số bị
can. Nhưng tính chất tội phạm vẫn diễn biến phức tạp. Cụ thể như sau: (i) Tội phạm
47
về ma tuý: Khởi tố 504 vụ/ 677 bị can, giảm 0,6% số vụ nhưng bằng số bị can so
với cùng kỳ. Tình trạng mua bán, vận chuyển ma túy tổng hợp từ Trung Quốc về
Việt Nam tiêu thụ với số lượng lớn tăng đột biến. Việc vận chuyển Heroin từ Lào
và các tỉnh qua Quảng Ninh sang Trung Quốc bán vẫn tiếp diễn; (ii) Tội phạm về
tham nhũng và chức vụ: Khởi tố 11 vụ /46 bị can, tăng 83,3 % số vụ, 35,3% số bị
can so với cùng kỳ; (iii) Tội phạm Kinh tế - Môi trường: Khởi tố 66 vụ/ 114 bị can,
giảm 34% số vụ, 38,4 % số bị can so với cùng kỳ. Nhóm tội kinh tế 65 vụ (giảm 10
vụ), riêng tội Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới 23 vụ, tăng 3 vụ; tội
mua bán hàng cấm 23 vụ, tăng 2 vụ; (iiii) Tội xâm phạm sở hữu: Phát hiện khởi tố
470 vụ/602 bị can, so với cùng kỳ năm trước giảm 16% số vụ, 33% số bị can. Các
tội Cướp, cưỡng đoạt, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều giảm.
Riêng tội trộm cắp, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản tăng so cùng kỳ năm
2013; (v) Tội phạm về trật tự xã hội: Phát hiện khởi tố 391 vụ/ 688 bị can, so với
cùng kỳ năm trước giảm 29,8 % số vụ, 29,8 % số bị can. Các loại tội giảm như Cố
ý gây thương tích 149 vụ (giảm 94 vụ), tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng 14 vụ
(giảm 12 vụ). Tội giết người xảy ra 18 vụ (giảm 8 vụ). Số vụ tụ tập đông người, sử
dụng hung khí nguy hiểm, súng bắn đạn hoa cải để giải quyết mâu thuẫn vẫn xảy ra
với động cơ đa dạng như giết người do mâu thuẫn trong sinh hoạt, trong làm ăn
kinh tế, giết người để cướp tài sản...;(vi) Tội xâm phạm hoạt động tư pháp: Khởi tố
4 vụ/ 8 bị can, về các tội Trốn khỏi nơi giam và Không tố giác tội phạm, số vụ bằng
nhưng bị can giảm 20% so cùng kỳ năm 2013.
Năm 2015, khởi tố 1.276 vụ/ 1.886 bị can;. Cụ thể: (i) Tội phạm về an ninh:
Phát hiện, khởi tố 1 vụ/2 bị can về tội “Gián điệp”; (ii) Tội phạm về ma tuý: Khởi
tố 426 vụ/ 583 bị can, so với cùng kỳ giảm 78 vụ, 94 bị can (15,48% số vụ và
13,88% số bị can); (iii) Tội phạm về tham nhũng và chức vụ: Khởi tố 2 vụ /12 bị
can, so với cùng kỳ giảm 8 vụ, 33 bị can so với cùng kỳ năm 2014. (80% số vụ và
76,74% số bị can); (iiii) Tội phạm về kinh tế và môi trường: Khởi tố 71 vụ/ 128 bị
can, so với cùng kỳ tăng 7 vụ, 16 bị can (10,94% số vụ và 14,29% số bị can), một
số tội tăng nhiều là tội Vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục
loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ (tăng 6 vụ, 5 bị can), tội kinh doanh
trái phép (tăng 4 vụ, 5 bị can); (v) Tội phạm xâm phạm sở hữu: Phát hiện khởi tố
397 vụ/ 448 bị can, so với cùng kỳ giảm 73 vụ, 154 bị can (15,53% số vụ và
48
25,58% số bị can); (vi) Tội phạm về trật tự an toàn xã hội: Khởi tố 378 vụ/710 bị
can, so với cùng kỳ giảm 12 vụ nhưng tăng 22 bị can (giảm 3,08% số vụ và tăng
3,2% số bị can). Tuy nhiên, một số tội tăng như: Hiếp dâm trẻ em 5 (tăng 2 vụ),
Mua bán người 7 vụ (tăng 6 vụ), Bắt giữ người trái pháp luật 5 vụ (tăng 3 vụ), Tàng
trữ vũ khí quân dung 18 vụ (tăng 4 vụ)... (vii) Tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp: Khởi tố 1 vụ/ 3 bị can (trong đó: 1 vụ/ 1 bị can tội trốn khỏi nơi giam; 2 bị
can tội che giấu tội phạm khởi tố trong các vụ án khác), so với cùng kỳ năm 2014
giảm 3 vụ, 5 bị can (75% số vụ và 62,5% số bị can).
Năm 2016, khởi tố là 1.335 vụ/ 2.206 bị can. Cụ thể: (i) Tội phạm về an ninh;
Khởi tố mới 1 bị can về tội “Gián điệp”; (ii) Tội phạm về ma tuý: Khởi tố 544vụ/
799 bị can thu giữ trên 65 kg ma túy tổng hợp và trên 91 kg Heroine. (iii) Tội phạm
tham nhũng và chức vụ: khởi tố 2 vụ/ 4 bị can; (iiii) Tội phạm về kinh tế và môi
trường: Khởi tố 63 vụ/ 107 bị can; (v) Tội phạm xâm phạm sở hữu: Khởi tố 366 vụ/
401 bị can, so với cùng kỳ năm 2015 giảm 31 vụ (7,81%) và 47 bị can (10,49%).
Tội trộm cắp tài sản giảm đáng kể - khởi tố 230 vụ (cùng kỳ năm 2015 là 270 vụ);
các tội lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tăng (lừa đảo khởi tố 35vụ -
năm 2015 là 32 vụ; lạm dụng khởi tố 32 vụ - năm 2015 là 22 vụ); (vi) Tội phạm về
trật tự an toàn xã hội: Khởi tố 360 vụ/ 991 bị can, so với cùng kỳ năm 2015 tăng 18
vụ (4,76 %) và 201 bị can (28,31%). Đáng lưu ý là tội “Giết người” tăng cả về số
vụ và tính chất, mức độ phạm tội, đã khởi tố 21vụ/ 28 bị can (năm 2015 là 18 vụ/
21 bị can), đặc biệt là hành vi giết người mang tính thảm sát như vụ Doãn Trung
Dũng giết 4 bà cháu xảy ra tại thành phố Uông Bí. (vii) Tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp: Khởi tố mới 1 bị can trong vụ án cũ(cùng kỳ năm 2015 khởi tố 1 vụ/
3 bị can)
Năm 2017, Khởi tố là 1.427 vụ/ 2.118 bị can. Cụ thể: (i) Tội phạm về ma tuý:
Khởi tố 488 vụ/734 bị can, so với cùng kỳ giảm 56 vụ (10,3%) và giảm 45 bị can
(5,8%); thu giữ trên 22 kg ma túy tổng hợp và trên 3,7 kg Heroine (cùng kỳ thu giữ
trên 60 kg ma túy tổng hợp và trên 91 kg Heroine); (ii) Tội phạm về tham nhũng,
chức vụ: Khởi tố 5 vụ/ 20 bị can (3 vụ/ 7 bị can tội “Tham ô tài sản”, 2 vụ/ 3 bị can
tội “Nhận hối lộ”, 6 bị can tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành
công vụ” và 4 bị can tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" trong các
vụ án) ; (iii) Tội phạm về kinh tế và môi trường: Khởi tố 32 vụ/ 59 bị can; (iiii)Tội
49
phạm xâm phạm sở hữu: Khởi tố 461 vụ/ 452 bị can, so với cùng kỳ năm 2016 tăng
95 vụ (25,96%) và tăng 51 bị can (12,72%). Hầu hết các tội đều tăng như: Tội “Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản” khởi tố 67 vụ - cùng kỳ 35 vụ; tội “Trộm cắp tài sản” khởi
tố 281 vụ - cùng kỳ 230 vụ; tội “Cướp giật tài sản” khởi tố 15 vụ - cùng kỳ 10 vụ;
tội “Cưỡng đoạt tài sản” khởi tố 10 vụ - cùng kỳ 9 vụ. Riêng tội "Cướp tài sản"
giảm, khởi tố 18 vụ - cùng kỳ 23 vụ; (v) Tội phạm về trật tự an toàn xã hội: Khởi tố
440 vụ/ 843 bị can, so với cùng kỳ năm 2016 tăng 80 vụ (22,2%), nhưng giảm 68 bị
can (6,86%). Một số tội tăng như: Tội “Cố ý gây thương tích” khởi tố 177vụ - cùng
kỳ 137 vụ; tội "Mua bán phụ nữ" khởi tố 7 vụ - cùng kỳ 3 vụ; tội “Chống người thi
hành công vụ” khởi tố 8 vụ - cùng kỳ 3 vụ - Điển hình là vụ Liêu Văn Dưỡng cùng
13 bị can chống đối đoàn cưỡng chế giải phóng mặt bằng dự án đường cao tốc Hạ
Long - Vân Đồn, xảy ra tại Hoành Bồ; (vi) Tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp:
Khởi tố 1 vụ/ 10 bị can (1 vụ/ 1 bị can tội “Trốn khỏi nơi giam”, 9 bị can tội "Khai
báo gian dối", “Che giấu tội phạm” và “Không tố giác tội phạm” trong các vụ án
khác)
Năm 2018, khởi tố 1.538 vụ/ 2.129 bị can. Cụ thể: (i) Tội phạm về an ninh
quốc gia: Khởi tố 1 vụ/ 1 bị can về tội Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân; (ii) Tội phạm về ma tuý: Khởi tố 512 vụ/725 bị can, so với cùng kỳ tăng 24
vụ(4,91%) và giảm 9 bị can (1,23%); thu giữ trên 13 kg ma túy tổng hợp và trên 66
kg Heroine (cùng kỳ thu giữ trên 22 kg ma túy tổng hợp và trên 3,7kg Heroine).
(iii) Tội phạm về tham nhũng, chức vụ: Khởi tố 11 vụ/25 bị can (5 vụ/ 9 bị can tội
“Tham ô tài sản”, 2 vụ/ 3 bị can tội “Nhận hối lộ”, 1 vụ/3 bị can tội “Môi giới hối
lộ”, 3 vụ/ 7 bị can tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” và
3 bị can tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”) (iiii) Tội phạm về kinh
tế và môi trường: Khởi tố 62 vụ/69 bị can, so với cùng kỳ tăng30 vụ (93,75%) và
tăng 10 bị can (16,95%). Trong đó các tội mua bán, tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
là pháo nổ, thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất tăng mạnh, khởi tố 42 vụ / 42 bị can
(cùng kỳ 14 vụ/ 17 bị can) (v) Tội phạm xâm phạm sở hữu: Khởi tố 510 vụ/538 bị
can, so với cùng kỳ năm 2017 tăng 49 vụ (10,63%) và tăng 86 bị can (19,03%).
Một số loại tội tăng như: tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” khởi tố 57 vụ
- cùng kỳ 29 vụ (tăng 28 vụ); Tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” khởi tố 72 vụ - cùng
kỳ 67 vụ (tăng 5 vụ); tội “Hủy hoại tài sản” khởi tố 51 vụ - cùng kỳ 40 vụ (tăng 11
50
vụ); (vi) Tội phạm về trật tự an toàn xã hội: Khởi tố 441 vụ/767 bị can, so với cùng
kỳ tăng 1 vụ (0,23%), nhưng giảm 76 bị can (9,02%). Một số tội tăng như: Tội “Cố
ý gây thương tích” khởi tố 185 vụ - cùng kỳ 177 vụ (tăng 8 vụ); tội "Giết người",
khởi tố 15 vụ/17 bị can - cùng kỳ 11 vụ (tăng 4 vụ); tội “Đánh bạc” và “Tổ chức
đánh bạc” khởi tố 54 vụ/284 bị can – cùng kỳ 38 vụ/331 bị can (tăng 16 vụ).* Vi
phạm về an toàn giao thông: 329 vụ tai nạn giao thông (326 vụ tai nạn giao thông
đường bộ, 03 vụ tai nạn giao thông đường thủy), có 248 người chết, 197 người bị
thương. Khởi tố 97 vụ/ 86 bị can về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ” (tăng 4 vụ so với cùng kỳ 2017). Nhiều vụ gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng như vụ Đặng Ngọc Thuấn điều khiển xe ô tô gây tai nạn làm chết 2 người xảy
ra tại TP Uông Bí; vụ Nguyễn Quang Hưng điều khiển xe đầu kéo rơ moóc gây tai
nạn liên hoàn với 02 phương tiện ô tô đang lưu thông trên quốc lộ 18A, sau đó đâm
vào 01 người đi bộ trên vỉa hè làm 02 người bị tử vong, 01 người bị thương, các
phương tiện bị hư hỏng khi vào cua xuống dốc tại đoạn nối đường tránh Quang
Hanh ra Quốc lộ 18A thuộc TP. Cẩm Phả.(vii) Tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp: Khởi tố 1 vụ/ 4 bị can về các tội “Trốn khỏi nơi giam”, “Không tố giác tội
phạm” và tội “Che giấu tội phạm”.
Thời gian qua tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh cũng có những diễn biến phức tạp đây là chủ thể đặc biệt trong TTHS,
với tính chất và số vụ cũng như số người nước ngoài phạm tội ngày càng gia tăng.
Quảng Ninh là một trong 9 tỉnh, thành phố có tỉ lệ người nước ngoài thực hiện
tội phạm ở mức độ cao, chiếm tỉ lệ 6,41% trên cả nước; đối tượng người nước
ngoài phạm tội đến từ nhiều quốc gia, đây cũng là vấn đề đáng quan tâm, nhất là
công tác điều tra và áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người nước ngoài phải đảm
bảo yêu cầu chính trị, ngoại giao. Trong đó, đáng lưu ý đối với các đối tượng có
quốc tịch Trung Quốc nên liên hệ để xác minh nhân thân, lai lịch của đối tượng và
những thông tin thủ tục cần thiết khác là hết sức khó khăn.
Qua các số liệu trên có thể thấy, tình hình tội phạm trên địa bàn Quảng Ninh
vẫn đang diễn biến phức tạp, tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm cho xã hội, sử
dụng các loại hung khí có tính sát thương cao, các đối tượng manh động, liều
lĩnh… Tuy nhiên, Công an Quảng Ninh đã ra quân thực hiện nhiều đợt cao điểm
tấn công truy quét tội phạm ở địa bàn trung tâm các điểm nóng về tình hình tội
51
phạm như Móng Cái, thành phố Hạ Long, Cẩm Phả...do đó tình hình tội phạm trên
địa bàn giảm dần, tỉ lệ phá án thành công tăng dần.
2.2.3. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giữ trên địa bàn địa tỉnh Quảng Ninh từ
năm 2014 đến năm 2018
- Khái quát về thực trạng tình hình tạm giữ
Bảng 2.2: Tình hình áp dụng BPNC tại tỉnh Quảng Ninh năm 2014-2018
Trong đó
Năm
Tạm giữ hình sự
Khẩn cấp Quả tang Truy nã
Đầu thú
Tự thú
2014
1754
529
955
69
198
3
2015
1554
433
780
90
250
1
2016
1790
452
958
81
293
6
2017
1708
487
843
87
287
4
2018
1598
521
815
65
192
5
8404
Tổng số
2422
4351
392
1220
19
Nguồn: Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh
Khởi tố
Năm
Tổng số tạm giữ hình sự
Số người bị tạm giữ chết
Truy nã chuyển tạm giam
Cơ quan bắt trả tự do
Viện kiểm sát trả tự do
Chuyển tạm giam
Áp dụng BPNC khác
2014
1754
Tổng số tạm giữ hình sự đã được giải quyết 1727
1374
224
124
1
1
3
2015
1554
1538
1237
240
59
0
2
2016
1790
1763
1459
259
32
9
4
2017
1708
1697
1345
278
64
8
1
1
2018
1598
1575
1178
345
47
3
2
Bảng 2.3: Tình hình áp dụng Biện pháp tạm giữ tại tỉnh Quảng Ninh năm 2014-2018
8300
6593
Tổng số
8404
1346
326
21
10
4
Nguồn: Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh
Căn cứ vào bảng số liệu ta thấy: Trong 5 năm từ 2014 đến 2018 số vụ phạm
pháp hình sự xảy ra trên địa bàn là: 7.044 vụ, bắt: 10.547 trường hợp, Công an
Quảng Ninh đã tạm giữ hình sự tổng số 8.404 người, trong đó:
- Năm 2014, tạm giữ 1.754 người và đã giải quyết 1.727 trường hợp. Trong
đó: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp 529 người (chiếm tỷ lệ 30,16%), giữ
ngươi phạm tội quả tang 955 người (chiếm tỷ lệ 54,45%), giữ người bị bắt truy nã
69 người (chiếm tỷ lệ 3,93%), giữ người phạm tội đầu thú 198 người (chiếm tỷ lệ
52
11,29%), giữ người phạm tội tự thú 3 người (chiếm tỷ lệ 0,17%). Sau khi tạm giữ
đã giải quyết 1.727 người: chuyển khởi tố tạm giam 1.374 người (chiếm tỷ lệ
79,56%), áp dụng BPNC khác 224 người (chiếm tỷ lệ 12,97%), truy nã chuyển tạm
giam 124 người (chiếm tỷ lệ 7,18%), trả tự do cho người bị tạm giữ 2 người (chiếm
tỷ lệ 0,12%); người bị tạm giữ chết 3 người (chiếm tỷ lệ 0,17%);
- Năm 2015, tạm giữ 1.554 người và đã giải quyết 1.538 trường hợp. Trong
đó: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp 433 người (chiếm tỷ lệ 27,86%), giữ
ngươi phạm tội quả tang 780 người (chiếm tỷ lệ 50,19%), giữ người bị bắt truy nã
90 người (chiếm tỷ lệ 5,79%), giữ người phạm tội đầu thú 250 người (chiếm tỷ lệ
16,09%), giữ người phạm tội tự thú 1 người (chiếm tỷ lệ 0,06%). Sau khi tạm giữ
đã giải quyết 1.538 người: chuyển khởi tố tạm giam 1.237 người (chiếm tỷ lệ
80,43%), áp dụng BPNC khác 240 người (chiếm tỷ lệ 15,60%), truy nã chuyển tạm
giam 59 người (chiếm tỷ lệ 3,84%), trả tự do cho người bị tạm giữ 2 người (chiếm
tỷ lệ 0,13%);
- Năm 2016, tạm giữ 1.790 người và đã giải quyết 1.763 trường hợp. Trong
đó: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp 452 người (chiếm tỷ lệ 25,25%), giữ
người phạm tội quả tang 958 người (chiếm tỷ lệ 53,52%), giữ người bị bắt truy nã
81 người (chiếm tỷ lệ 4,53%), giữ người phạm tội đầu thú 293 người (chiếm tỷ lệ
16,37%), giữ người phạm tội tự thú 6 người (chiếm tỷ lệ 0,34%). Sau khi tạm giữ
đã giải quyết 1763 người: chuyển khởi tố tạm giam 1.459 người (chiếm tỷ lệ
82,76%), áp dụng BPNC khác 259 người (chiếm tỷ lệ 14,69%), truy nã chuyển tạm
giam 32 người (chiếm tỷ lệ 1,82%), trả tự do cho người bị tạm giữ 13 người (chiếm
tỷ lệ 0,74%);
- Năm 2017, tạm giữ 1.708 người và đã giải quyết 1.697 trường hợp. Trong
đó: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp 487 người (chiếm tỷ lệ 28,51%), giữ
ngươi phạm tội quả tang 843 người (chiếm tỷ lệ 49,36%), giữ người bị bắt truy nã
87 người (chiếm tỷ lệ 5,09%), giữ người phạm tội đầu thú 287 người (chiếm tỷ lệ
16,80%), giữ người phạm tội tự thú 4 người (chiếm tỷ lệ 0,23%). Sau khi tạm giữ
đã giải quyết 1.697 người: chuyển khởi tố tạm giam 1.345 người (chiếm tỷ lệ
79,26%), áp dụng BPNC khác 278 người (chiếm tỷ lệ 16,38%), truy nã chuyển tạm
giam 64 người (chiếm tỷ lệ 3,77%), trả tự do cho người bị tạm giữ 9 người (chiếm
tỷ lệ 0,53%); người bị tạm giữ chết 1 người (chiếm tỷ lệ 0,06%);
53
- Năm 2018, tạm giữ 1.598 người và đã giải quyết 1.575 trường hợp. Trong
đó: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp 521 người (chiếm tỷ lệ 32,60%), giữ
ngươi phạm tội quả tang 815 người (chiếm tỷ lệ 51%), giữ người bị bắt truy nã 65
người (chiếm tỷ lệ 4,07%), giữ người phạm tội đầu thú 192 người (chiếm tỷ lệ
12,02%), giữ người phạm tội tự thú 5 người (chiếm tỷ lệ 0,31%). Sau khi tạm giữ
đã giải quyết 1.575 người: chuyển khởi tố tạm giam 1.178 người (chiếm tỷ lệ
74,79%), áp dụng BPNC khác 345 người (chiếm tỷ lệ 21,9%), truy nã chuyển tạm
giam 47 người (chiếm tỷ lệ 2,98%), trả tự do cho người bị tạm giữ 5 người (chiếm
tỷ lệ 0,32%).
- Đánh giá kết quả thực hiện:
Qua số liệu trên ta có thể nhận định rõ, tỷ lệ tạm giữ tại tỉnh Quảng Ninh có
chiều hướng tăng từ 2014 đến 2017; từ năm 2017, 2018 có xu hướng giảm dần.
Theo thống kê, trong tổng số 8.404 đối tượng bị tạm giữ thì giải quyết 8.300 đối
tượng (chiếm tỷ lệ 98,76%), trong đó:
Khởi tố chuyển tạm giam 6.593 đối tượng, chiếm tỷ lệ 79,43%. Khởi tố áp
dụng BPNC khác 1.346 đối tượng, chiếm tỷ lệ 16,22%. Chuyển số người bị bắt truy
nã để tạm giam 326 đối tượng, chiếm tỷ lệ 3,94%;
Viện kiểm sát trả tự do 10 đối tượng, chiếm tỷ lệ 0,17 %;
Cơ quan điều tra trả tự do 21 đối tượng, chiếm tỷ lệ 0,25%;
Số người chết trong khi tạm giữ 4 đối tượng, chiếm tỷ lệ 0,05%;
Số người bị tạm giữ trả tự do chiếm 0,37%. Số người này chủ yếu chuyển xử
phạt vi phạm hành chính hoặc trả tự do vì không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự,
không thực hiện hành vi phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm (tội phạm về
ma túy: Không đủ lượng để xử lý hình sự hoặc không phải là chất ma túy)...[2].
Từ số liệu trên, có thể khẳng định công tác tạm giữ đã và đang được áp dụng
hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh, là biện pháp hữu hiệu phục vụ các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra khám
phá các vụ án hình sự.
- Những vướng mắc, tồn tại trong quá trình áp dụng biện pháp tạm giữ trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh.
Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giữ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm
2014 đến năm 2018 của các cơ quan có thẩm quyền tỉnh Quảng Ninh đã được thực
54
hiện một cách nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật hiện hành, góp phần quan
trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, không để xảy ra oan sai,
khiếu kiện, phản ánh về áp dụng biện pháp tạm giữ. Tuy nhiên việc áp dụng cũng
đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc đó là:
Trong nhiều trường hợp khi bắt giữ các đối tượng có hành vi mua bán, vận
chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy, khi đối tượng bị bắt cùng nhiều đối tượng
khác nhưng do sử dụng ma túy, đối tượng này bị “phê thuốc” hay còn gọi là “ngáo
đá”, khi bị cơ quan Công an bắt giữ không thể lấy lời khai đối tượng ngay được mà
có khi phải 02 hoặc 03 ngày sau mới ghi được lời khai đối tượng thì mới có thể ra
quyết định tạm giữ đối tượng. Như vậy việc ghi quyết định tạm giữ đối tượng vào
ngày nào cũng là khó khăn vướng mắc đối với cơ quan điều tra. Ví dụ: Thực hiện
Kế hoạch số 3063/KH-CAT-PV11 ngày 15/12/2017 của Giám đốc Công an tỉnh
Quảng Ninh về triển khai đợt cao điểm tấn công trấn áp, truy nã tội phạm bảo vệ tết
Nguyên đán Mậu Tuất năm 2018. Vào khoảng 00h34 ngày 02/01/2018, tổ công tác
phòng Cảnh sát cơ động gồm 100 cán bộ, chiến sĩ đã phối hợp với phòng Cảnh sát
ma túy kiểm tra 02 quán karaoke (Đất Việt và Hoàng Anh) trên địa bàn Thành phố
Cẩm Phả; kết quả: tại hiện trường đã thu giữ một số túi nilon bên trong có chứa tinh
thể màu trắng nghi là ma túy đá và các dụng cụ để sử dụng ma túy, cùng 62 đối
tượng có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã đưa các đối tượng
và tang vật về trụ sở Công an tỉnh để điều tra làm rõ theo quy định. Khi đưa đối
tượng về để phân loại xác định hành vi phạm tội, thì có 03 đối tượng là Nguyễn Thị
Thắm (19 tuổi), Nguyễn Văn Hùng (20 tuổi) và Phạm Đức Dũng (21 tuổi) có biểu
hiện “phê thuốc” và “ngáo đá”, các điều tra viên không thể lấy lời khai ngay được,
phải đến ngày 03/01/2018 mới lấy được lời khai của Nguyễn Thị Thắm và đến
ngày 04/01/2018 mới lấy được lời khai của Nguyễn Văn Hùng và Phạm Đức Dũng;
sau đó xác định 03 đối tượng này có hành vi mua bán ma túy, tổ chức sử dụng ma
túy cần áp dụng biện pháp tạm giữ để điều tra, tuy nhiên vấn đề đặt ra là quyết định
tạm giữ ghi từ thời gian nào ngày 02/1, ngày 03/1 hay ngày 04/1/2018, nếu ghi
ngày 02 thì chưa biết đối tượng có hành vi phạm tội hay không, nên không ghi
được, ghi ngày 03/1 hoặc ngày 04/1/2018 thì trái luật, do vậy đã gây khó khăn cho
cơ quan điều tra và nảy sinh tranh cãi giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
55
Thời gian gần đây trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tình trạng người nước ngoài,
nhất là số đối tượng người Trung Quốc phạm tội ngày càng gia tăng trên rất nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là phạm tội đánh bạc công nghệ cao và trộm cắp tài sản, điển hình
như: Vào khoảng 02h45 ngày 20/3/2018 tại Trụ sở mục tiêu UBND tỉnh Quảng
Ninh; cán bộ, chiến sĩ phòng Cảnh sát cơ động, Công an tỉnh Quảng Ninh đang
thực hiện ca gác bảo vệ mục tiêu phát hiện đối tượng YANG WEN AI; giới tính:
nữ; sinh năm: 2001; Quốc tịch: Trung Quốc trèo tường rào vào trong trụ sở mục
tiêu để trộm cắp tài sản; cán bộ, chiến sĩ đã nhanh chóng truy đuổi, khống chế bắt
quả tang đối tượng. Vấn đề đặt ra là đối tượng khi bị bắt giữ đã nhanh chóng giả vờ
có biểu hiện không bình thường, hỏi không nói, Công an tỉnh Quảng Ninh cho mời
phiên dịch làm việc nhưng đối tượng kiên quyết không khai, sau cùng không thể
tạm giữ được đối tượng mà phải trục xuất về Trung Quốc.
Hay mới đây, Ngày 06/6/2018, phòng Cảnh sát cơ động đã cử 86 cán bộ,
chiên sĩ phối hợp với đơn vị nghiệp vụ thuộc Công an tỉnh đồng loạt kiểm tra,
khám xét 09 địa điểm phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long, Quảng Ninh; quá
trình kiểm tra, khám xét đã phát hiện bắt giữ 22 đối tượng người Trung Quốc cùng
nhiều tang vật liên quan đến sử dụng Internet; qua đấu tranh ban đầu các đối tượng
khai nhận đã có hành vi đánh bạc qua mạng cho người Trung Quốc. Vấn đề đặt ra,
mặc dù có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các đối tượng, nhưng có
tiến hành biện pháp tạm giữ hay không, sau cùng các đối tượng này bị trục xuất,
bàn giao cho Công an Trung Quốc xử lý.
Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giữ có trường hợp cũng gặp nhiều khó khăn
như: Vào hồi 11h10, ngày 24/6/2017, tại lán trong khuôn viên nuôi trồng thủy sản
nhà ông Ngô Văn Ba thuộc khu 2, phường Hải Hòa, TP Móng Cái, tỉnh Quảng
Ninh. Tổ công tác phòng Cảnh sát cơ động gồm 150 cán bộ, chiến sĩ phối hợp với
phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội triệt phá 01 ổ nhóm đánh bạc
bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền, tạm giữ 130 đối tượng, hơn 400 triệu
đồng cùng tang vật. Vấn đề đặt ra ở đây là với số lượng đối tượng rất lớn, lực lượng
điều tra biên chế ít, mặc dù Công an tỉnh đã huy động cán bộ điều tra của các huyện
lân cận, tuy nhiên vấn đề là ghi xong lời khai một đối tượng phải mất 2 đến 3 giờ,
sau đó đánh giá chứng cứ mới có thể phân loại được đối tượng, như vậy thực tế
phải mất 4 đến 5 ngày sau mới ra quyết định tạm giữ 39 đối tượng, số còn lại xử lý
56
vi phạm hành chính. Vậy có đảm bảo về thủ tục, thời hạn tạm giữ theo quy định của
pháp luật hay không, đây cũng là khó khăn vướng mắc cho cơ quan điều tra khi áp
dụng biện pháp tạm giữ.
Trong các quy định của điều luật hiện nay và các văn bản hướng dẫn thi hành
chưa quy định cụ thể về thời gian tạm giữ của Công an phường và của cơ quan điều
tra khi tạm giữ đối tượng có được tính vào thời gian tạm giữ hay không, vì thực tiễn
trước khi củng cố chứng cứ, lời khai để quyết định có tạm giữ hay không tạm giữ
phải có thời gian tạm giữ hành chính để phân loại xác định đối tượng, do vậy cần
thiết phải có văn bản hướng dẫn cụ thể và vấn đề này, trước khi đề nghị sửa đổi, bổ
sung quy định của pháp luật có liên quan.
Do số lượng hồ sơ vụ án nhiều, án phức tạp và điều tra mở rộng nhiều đối
tượng, nhưng thời hạn tạm giữ quá ngắn để cán bộ điều tra viên thu thập chứng cứ,
hoàn chỉnh để chuyển hồ sơ vụ án cho VKS phê chuẩn nên đôi khi cán bộ điều tra
không nhớ gia hạn tạm giữ cho người bị tạm giữ khi hết thời hạn. Cơ quan điều tra
phải gia hạn tạm giữ trước khi hết thời hạn tạm giữ, nhưng cán bộ điều tra thường
gửi lệnh khi hết hạn tạm giữ. Vì vậy VKS buộc phải phê chuẩn do lệnh tạm giữ cũ
đã hết hạn.
Trong cơ quan điều tra tiêu chí đánh giá cán bộ cuối năm dựa trên tiêu chí
đánh giá cán bộ điều tra thường xuyên quá hạn hồ sơ, bị trả hồ sơ điều tra, tạm giữ
không đúng đối tượng phải trả tự do. Dẫn tới áp lực cho cán bộ điều tra phải gia
hạn tạm giữ, quá hạn tạm giữ để hoàn tất hồ sơ chứng minh bằng được người bị
tạm giữ có vi phạm pháp luật để chuyển khởi tố, tạm giam.
Ngoài ra cũng có nhiều nguyên nhân khách quan, Cơ quan điều tra cũng
không mong muốn tạm giữ quá thời hạn, sai về qui trình, trình tự, thủ tục, giam giữ
không đúng nơi qui định, do có những khó khăn về nghiệp vụ, không đủ chứng cứ
chứng minh người phạm tội vi phạm; những thành phố, thị xã, huyện là điểm nóng
về tội phạm số vụ án tăng cao nhưng lực lượng tiến hành tố tụng không tăng; cơ sở
vật chất không đảm bảo….
Về thời hạn tạm giữ cũng có khó khăn vướng mắc đó là: Trong trường hợp bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thời hạn tạm giữ được tính như thế nào?
phải tính cả thời gian giữ người trong trường hợp khẩn cấp trước khi ra lệnh tạm
giữ, hay là tính được tính từ khi có quyết định tạm giữ. Hơn nữa luật chỉ quy định
57
thời hạn tạm giữ theo ngày, giờ tạm giữ được ghi cụ thể trong lệnh. Thời gian tính
thời hạn tạm giam thì tính theo ngày của lệnh tạm giữ bắt đầu từ 00h kết thúc lúc
24h. Vấn đề đặt ra là cách tính như thế nào để chuyển một đối tượng từ tạm giữ
sang tạm giam cho đúng luật. Ví dụ: một đối tượng bị tạm giữ từ 10h ngày
18/7/2018 đến 10h ngày 20/7/2018 (được ghi trong lệnh tạm giữ), sau đó đối tượng
này tiếp tục bị tạm giam phải tính từ ngày 21/7/2018 và bắt đầu từ 00h ngày
21/7/2018, vậy trong 14 giờ (từ 10h ngày 20/7/2018 đến 00h ngày 21/7/2018)
người này tiếp tục bị tạm giữ mà không có lệnh. Rất cần phải có văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để thực hiện thống nhất.
Người bị tạm giữ không được đảm bảo giam đúng nơi qui định do phòng tạm
giữ ở thành phố, thị xã, huyện thiếu hơn phòng tạm giam nên nhiều khi tình trạng
người bị tạm giữ bị giam chung với người bị tạm giam xảy ra thường xuyên. Nhất
là những huyện khi xảy ra vụ án đánh bạc, đối tượng bị tạm giữ nhiều, vì nghiệp vụ
điều tra phải hạn chế các đối tượng bàn bạc thông cung. Nên nhiều trường hợp tạm
giữ phải giam chung với can phạm để chống thông cung và lấy tin tức về vụ án.
Tiểu kết chương 2
Việc nghiên cứu các quy định về biện pháp tạm giữ trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam và tình hình áp dụng biện pháp tạm giữ qua thực tiển đấu tranh
phòng chống tội phạm trên địa bàn Quảng Ninh những năm qua có thể thấy biện
pháp tạm giữ có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội
phạm. Qua nghiên cứu về biện pháp tạm giữ và lịch sử của biện pháp ngăn chặn
này trên thực tiễn quá trình áp dụng để thấy những mặt trái, những hạn chế của chế
định này giúp cho việc phát huy hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra, đảm bảo
pháp chế xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
58
Chương 3: QUAN ĐIỂM, YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN
NẦNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
3.1. Quan điểm, yêu cầu nâng cao chất lượng biện pháp tạm giữ và bảo
đảm quyền con người trong áp dụng biện pháp tạm giữ
3.1.1. Những quan điểm cơ bản về xây dựng pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về chế định các biện pháp ngăn chặn
Theo tinh thần Nghị quyết 48-NQ/TW về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020", đó là: Xây
dựng và hoàn thiện pháp luật hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công
khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực
hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã
hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà
nước trong sạch vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của
công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020 [22, tr. 2-3] Và các điểm chỉ đạo là: 1) Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ,
đúng đắn đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;
xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển văn hóa - xã hội, giữ
vững quốc phòng, an ninh; 2) Phát huy cao độ nội lực, tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ
quyền, an ninh quốc gia và định hướng XHCN; 3) Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam,
đồng thời, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tổ chức thi hành pháp luật;
kết hợp hài hòa bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tính hiện đại
của hệ thống pháp luật; 4) Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình
xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật; 5) Tiến hành đồng bộ với cải
cách hành chính, cải cách tư pháp, với những bước đi vững chắc; coi trọng số
lượng và chất lượng, có trọng tâm, trọng điểm; dự tính đầy đủ các điều kiện bảo
đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật, cũng như các định hướng xây dựng và
59
hoàn thiện pháp luật theo từng quan điểm đó được đề cập trong các nghị quyết của
Đại hội đại biểu toàn quốc [23, tr. 2-3].
Xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chỉ ra định hướng: “Nâng cao
hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ an ninh quốc
gia và trật tự, an toàn xã hội. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và thực hiện tốt
Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm” [24, tr. 229].
Dựa vào định hướng trên của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, một trong
ba định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội đã được Nghị quyết 48-NQ/TW xác định là: Hoàn thiện hệ thống pháp
luật về đấu tranh phòng và chống tội phạm theo hướng xây dựng các cơ quan bảo
vệ pháp luật là nòng cốt, phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc phát hiện,
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Hoàn thiện chính sách hình sự, bảo đảm yêu cầu
đề cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm [22, tr. 10].
Trên tinh thần đó, Nghị quyết 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020” đã định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS về chế định các
BPNC, như: Đối với nhiệm vụ hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự, pháp luật
dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp: a) Xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân
dân, cơ quan, các tổ chức quần chúng trong việc phòng ngừa tham nhũng [23, tr. 3];
b) Đề cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc
ngăn ngừa, kiểm sát các hành vi tham nhũng [23, tr. 3];
Đối với nhiệm vụ hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp: a) Xây dựng lực
lượng Cảnh sát hỗ trợ tư pháp chính quy, đáp ứng kịp thời cho hoạt động xét xử, thi
hành án [23, tr. 6]; b) Hoàn thiện chế định giám định tư pháp [23, tr. 6].
Xây dựng và hoàn thiện hệ pháp luật về hội nhập quốc tế: “Hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ
quốc tế” [24, tr. 204];
Trên tinh thần đó, Nghị quyết 49-NQ/TW đã định hướng xây dựng và hoàn
thiện pháp luật TTHS về chế định các BPNC, như sau: a) Tiếp tục ký kết Hiệp định
TTTP&PL với những nước có nhiều người Việt sinh sống; b) Tăng cường sự phối
hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và ĐTCTP có yếu tố quốc tế và khủng bố
quốc tế với các tổ chức INTERPOL, ASEANPOL,… với Cảnh sát các nước láng
60
giềng và khu vực, với cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh
sống, lao động, học tập [20, tr. 7]; c) Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình
độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế [22, tr. 7].
3.1.2.Yêu cầu nâng cao chất lượng biện pháp tạm giữ
- Yêu cầu cải cách tư pháp
Đánh giá vai trò của tư pháp đối với dân chủ, Hồ Chí Minh viết: “thực hiện
chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ”
[33, tr. 250]. Với tư duy đó, Hiến pháp 1946 quy định các Tòa án được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tiến bộ, dân chủ, như: Độc lập xét xử tại Điều 69, xét xử
có Phụ thẩm nhân dân tham gia tại Điều 65, xét xử công khai tại Điều 67, bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo tại Điều 67.
Bên cạnh, việc xây dựng bộ máy tư pháp, Người còn quan tâm đến việc phát
triển tổ chức luật sư với vai trò bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo và bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự nên đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày
10/10/1945 cho phép duy trì các tổ chức Luật sư của chế độ cũ để thực hiện quyền
bào chữa và Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định bào chữa viên nhân dân là
người do bị can lựa chọn hoặc Chánh án chỉ định được quyền bào chữa trước Tòa
án trong điều kiện đất nước có chiến tranh để kịp thời bảo vệ lợi ích của bị can, bị
cáo.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X khẳng định tiếp tục xây dựng nhà nước
pháp quyền lên một tầm cao mới khi gắn việc này với yêu cầu tích cực phòng ngừa
và chống tham nhũng, lãng phí có yêu cầu về cải cách tư pháp như:
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, quyền con người
Trong cải cách tư pháp hiện nay, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân cần được thực hiện đầy đủ trong các hoạăt động điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án; tổ chức cơ quan công tố, tổ chức Tòa án một cách khoa học, gần dân
và thuận tiện cho việc đi lại cho dân; việc tổ chức các cơ quan bổ trợ tư pháp, hành
chính tư pháp làm sao tốt nhất để phục vụ cho xét xử, bảo đảm quyền công dân;
việc huy động các thành phần xã hội tham gia vào hoạt động tư pháp…đòi hỏi
61
chúng ta phải có trách nhiệm làm tốt để thực hiện đầy đủ tư tưởng của Người về
một nền tư pháp kiểu mới, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp.
Theo đó, với yêu cầu cải cách tư pháp, cần thiết xây dựng và hoàn thiện chế
định các BPNC phải theo hướng: huy động sức mạnh của toàn xã hội vào công
cuộc phòng ngừa và ĐTCTP bằng việc quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
cá nhân vào các hoạt động giám sát, theo dõi bị can, bị cáo để nâng cao hiệu quả áp
dụng các Biện pháp tạm giữ được thực hiện ở cộng đồng; theo hướng mở rộng dân
chủ nên luật hóa đối tượng có quyền bào chữa đối với người bị bắt khẩn cấp, bị
khám xét khẩn cấp; áp dụng triệt để Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
năm 2017 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan; đối tượng được bồi thường;
trách nhiệm bồi thường của CQTHTT và nghĩa vụ bồi hoàn của NTGTT v.v...
- Yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa
Đây là nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất trong hoạt động của cơ quan, tổ chức
và công dân được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến
pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Trong TTHS, nguyên
tắc này bảo đảm cho cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm được kiên
quyết, triệt để, kịp thời, bảo đảm giáo dục người phạm tội, đồng thời ngăn chặn
việc làm oan người vô tội và tránh việc hạn chế các quyền con người, quyền công
dân trái pháp luật.
Yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa biểu hiện cụ thể trong tố tụng hình sự như
sau:
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng hình sự... phải nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định và trình tự, thủ tục do
BLTTHS quy định.
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cũng như biện pháp nghiệp vụ trong đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm nhất thiết phải theo đúng quy định của pháp
luật, bảo đảm cưỡng chế chỉ áp dụng đối với người phạm tội, nghiêm cấm làm oan
người vô tội. Tất cả quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
hình sự đều dựa trên cơ sở của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự...
Biện pháp tạm giữ là một hoạt động trong TTHS, được qui định trong
BLTTHS, do đó đòi hỏi quá trình thực hiện cần phải tuân thủ đúng qui trình theo
62
pháp luật TTHS. Các cơ quan tiến hành tố tụng, mọi tổ chức, cá nhân có liên quan
phải có trách nhiệm phải tuân thủ, thực hiện nghiêm túc các quy định về hoạt động
tạm giữ. Tất cả những trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật trong tạm
giữ cần được phát hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời, góp phần bảo đảm pháp chế
XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân
- Yêu cầu mở rộng hợp tác quốc tế
Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, có tác động mạnh mẽ tới nhiều quốc gia.
Việt Nam cũng nằm trong quỹ đạo đó. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
đã xác định yêu cầu mở rộng hợp tác quốc tế với các nội dung: Phải tích cực hội
nhập quốc tế sâu rộng trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong vấn đề xây xây dựng
pháp luật, hoàn thiện pháp luật có liên quan đến biện pháp tạm giữ theo xu thế phát
triển chung của thế giưới về đảm bảo quyền con người, quyền công dân, việc áp
dụng biện pháp tạm giữ cũng cần phải được nghiên cứu, hoàn thiện vừa đảm bảo
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta, vừa phải phù hợp với quy
định, luật pháp quốc tế, phục vụ cho việc đảm bảo an ninh, trật tự vì sự ổn định
chung của đất nước, giữ vững ổn định xã hội, góp phần xây dựng và phát triển đất
nước theo xung hướng phát triển chung của nhân loại.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác.
- Yêu cầu bảo vệ quyền con người
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm,…”;
“Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang...”[40, tr.
3]. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp BLTTHS năm 2015 quy định các
nguyên tắc: Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp
pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết
(Điều 8 BLTTHS năm 2015); mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không
63
phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết
định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người theo
Điều 9, Điều 10 BLTTHS năm 2015; Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của công dân, cá nhân, theo đó mọi người (cả người bị tạm giữ) có
quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản của cá nhân đều bị xử lý theo pháp luật (Điều 11 BLTTHS năm 2015). Thực
hiện các quy định trên, cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng Biện pháp tạm giữ
phải đối xử với người bị áp dụng biện pháp tạm giữ như một người bình thường.
Ngoài ra, phải kịp thời thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giữ theo đúng quy định
theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân.
Một trong những nguyên tắc quan trọng trong TTHS của nhà nước ta là tôn
trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân . Đáp ứng và bảo đảm yêu cầu đầy
đủ các quyền dân chủ cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định đó là
quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và tài sản.
Đối với người bị tạm giữ trong các giai đoạn tố tụng BLTTHS đều quy định
việc trả lại tự do hoặc thay đổi bằng BPNC khác nếu thấy rằng những việc đó
không cần thiết nữa.
Biện pháp tạm giữ không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước đối với
người có hành vi xâm hại các quyền của công dân mà còn là một phương tiện hữu
hiệu để bảo vệ các quyền đó khi nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại.
Biện pháp tạm giữ tuy hạn chế một số quyền của công dân nhưng mặt khác lại bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân
khác.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do nhân dân, vì nhân dân nên những hoạt
động của Nhà nước không nhằm mục đích nào khác là phục vụ quyền lợi của nhân
dân lao động. Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là một chế độ dân chủ trong đó
64
các quyền của công dân được tôn trọng, pháp luật bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Pháp luật XHCN không cho phép một hành vi trái pháp luật
nào xâm phạm đến các quyền và lợi ích của công dân dù đó là hành vi của cơ quan
Nhà nước hay những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định về tạm giữ là nhiệm vụ của cơ
quan tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng không những tự mình phải tuân
theo các quy định của BLTTHS mà còn phải kịp thời ngăn chặn mọi vi phạm pháp
luật của những người tiến hành tố tụng. Mọi hành vi trái với quy định của pháp luật
về việc áp dụng Biện pháp tạm giữ đều bị xử lý nghiêm khắc, có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định các biện
pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Việc hoàn thiện chế định các BPNC để nâng cao hiệu quả áp dụng được thể
hiện trên ba phương diện thực tiễn, lý luận và lập pháp sẽ trình bày dưới đây:
Về phương diện thực tiễn áp dụng pháp luật
Cơ quan có thẩm quyền và người THTT đã áp dụng Biện pháp tạm giữ để giải
quyết tình hình tội phạm có hiệu quả. Tuy nhiên, có có nơi, có lúc đã lạm dụng việc
áp dụng biện pháp tạm giữ trong điều tra các vụ án hình sự, nguyên nhân do áp lực
về thành tích, thời gian khám phá vụ án, một phần cũng do sự am hiểu pháp luật
còn hạn chế của điều tra viên, bên cạnh đó còn có nguyên nhân chủ quan vì lợi ích
cá nhân của một bộ phận cán bộ điều tra, kiểm sát viên gây bức xúc, bất bình trong
dư luận nhân dân, nhất là việc áp dụng biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp. Do vậy cần có giải pháp quán triệt cho điều tra viên, kiểm soát viên phải
xác định rõ tính chất đặc biệt quan trọng của biện pháp tạm giữ là ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền con người, quyền công dân, từ đó phải thực sự khách quan, chính
xác khi xác định căn cứ, chứng cứ để quyết định tạm giữ hay không tạm giữ, không
được áp dụng nhận định chủ quan cá nhân trong giải quyết các vụ án hình sự,
không vì lợi ích cá nhân mà lạm dụng biện pháp tạm giữ làm oan sai cho người vô
tội. Cần thiết phải hoàn thiện quy phạm pháp luật, nhất là về căn cứ, thủ tục, thời
hạn tạm giữ (lưu ý tham mưu ban hành các văn bản hướng dẫn pháp luật, tạo hành
lang pháp lý chặt chẽ khi quyết định biện pháp tạm giữ). Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền phổ biến pháp luật, đặc biệt là quy định pháp luật về biện pháp tạm giữ, từ
65
đó có sự phản biện, phản hồi của người dân khi bị điều tra viên, kiểm sát viên lạm
dụng biện pháp tạm giữ. Đồng thời phải đề ra cơ chế kiểm soát quyền lực của điều
tra viên, kiểm sát viên, có như vậy mới hạn chế và dần loại bỏ việc làm dụng biện
pháp tạm giữ trong điều tra các vụ án hình sự.
Về phương diện lý luận
Từ thực tiễn áp dụng các Biện pháp tạm giữ đã phân tích ở chương 2 của luận
án, đặt ra những vấn đề cần được lý luận giải quyết như sau:
Một là, bằng cách nào khắc phục được tư tưởng “bắt thay cho điều tra” và hạn
chế việc lạm dụng bắt khẩn cấp và tạm giữ; hình sự hóa các vi phạm hành chính;
Hai là, quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cần được xác định như
thế nào, cần phải có cơ chế để kiểm soát quyền lực của nhau, nhằm nâng cao hiệu
quả công tác kiểm sát đối với việc phê chuẩn Biện pháp tạm giữ mà BLTTHS năm
2015 đã quy định;
Ba là, cần có những nghiên cứu lý luận một cách đầy đủ, khoa học về biện
pháp tạm giữ, đánh giá đúng, đầy đủ các khía cạnh của vấn đề này, đặc biệt là
những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc khi áp dụng biện pháp tạm giữ để áp
dụng hiệu quả hơn trong thực tiễn.
Về phương diện lập pháp
Từ những tồn tại của thực tiễn áp dụng chế định các Biện pháp tạm giữ và
những vấn đề nảy sinh từ lý luận cần giải quyết cho thấy, pháp luật thực định có
những nội dung còn thiếu, chưa được xác định hoặc chưa rõ nghĩa để từ đó, bổ
sung, sửa đổi, hủy bỏ cho phù hợp với thực tiễn, đồng thời, đáp ứng được khả năng
phòng ngừa và ĐTCTP theo dự báo tình hình tội phạm trong giai đoạn mới.
Vấn đề tiếp theo cho lập pháp là cần phải hoàn thiện những quy phạm về chế
định các Biện pháp tạm giữ để nâng cao hiệu quả áp dụng với nội dung như:
Một là, khắc phục những nhược điểm sau: a) Thiếu quy phạm đối với định
nghĩa pháp lý của khái niệm BPNC, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ; b) Quy
phạm không rõ ràng, như: Thời điểm khởi đầu và kết thúc của thời hạn tạm giữ; c)
Quy phạm chưa đầy đủ nội dung, gồm: các căn cứ trả tự do, hủy bỏ các BPNC
được quy định tại BLHS không được liệt kê đầy đủ trong BLTTHS; d) chưa có
hướng dẫn cụ thể đối với tạm giữ người nước ngoài phạm tội; đ) Có nội dung về
thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại trong Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH và Luật
66
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước mâu thuẫn với nguyên tắc “Người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về
vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự” được quy định tại điều 31 BLTTHS năm
2015.
Dựa trên cơ sở những quan điểm, yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật
nói chung và pháp luật TTHS nói riêng đã được làm rõ, chúng ta cần có nhiều giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định Biện pháp tạm giữ.
3.3.1. Giải pháp lập pháp
- Thứ nhất, sửa đổi bổ sung mục đích của biện pháp tạm giữ:
Điều 105, Bộ luật TTHS 2015 quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn với hai
mục đích, đó là: 1) Ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại cho
xã hội, không để người bị buộc tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật; 2) Tạo điều kiện
thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết vụ án như không để người bị buộc tội có
thể xóa bỏ dấu vết phạm tội, tiêu huỷ chứng cứ, làm giả chứng cứ, thông cung giữa
những người bị buộc tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của người
bị buộc tội khi có yêu cầu của cơ quan THTT. Ngoài hai mục đích trên biện pháp
ngăn chặn không được được áp dụng bởi bất kỳ mục đích nào khác nhất là đối với
ý đồ xâm phạm quyền con người.
Tuy nhiên, việc qui định biện pháp ngăn chặn có hai mục đích, trong đó mục
đích: Tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết vụ án đã làm cho cơ
quan hoặc cá nhân có thẩm quyền dễ lạm quyền khi áp dụng các biện pháp ngăn
chặn và do đó đã xâm hại đến quyền con người trong tố tụng hình sự.
- Thứ hai, sửa đổi bổ sung căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ:
Theo quy định của Luật TTHS khi có một trong các căn cứ sau đây sẽ được áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạp giữ: 1) Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; 2) Khi có
căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội; 3) Khi có căn cứ chứng tỏ bị can,
bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra. Những căn cứ này được cụ thể hóa khi qui
định các biện pháp ngăn chặn cụ thể.
Như vậy, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ là những tài liệu,
chứng cứ mang tính dự báo về khả năng người bị buộc tội, bị can, bị cáo thực hiện
67
các hành vi cản trở điều tra, tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn cho công tác điều
tra. Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ phải dựa vào một trong những căn cứ
vừa nêu trên chứ không phải bất kỳ trường hợp nào người bị buộc tội, bị can cũng
đều bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ.
Đối với Biện pháp tạm giữ Luật TTHS có quy định những căn cứ cụ thể tránh
sự áp dụng tràn lan không có căn cứ. Tuy nhiên, những căn cứ áp dụng biện pháp
bắt, tạm giữ còn những hạn chế sau: (1) Loại tội được sử dụng là căn cứ để qui định
giữ người (Chẳng hạn: Căn cứ Điều 110 BLTTHS qui định: a) Có đủ căn cứ để xác
định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng; b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có
mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực
hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; c) Có dấu vết
của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của
người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn
hoặc tiêu hủy chứng cứ...) thể hiện sự duy ý chí của qui định. Bởi lẽ, khi có hành vi
nguy hiểm cho xã hội xảy ra việc xác định hành vi đó có phải là tội phạm hay
không còn khó khăn và phải phụ thuộc vào việc điều tra do đó xác định hành vi đó
thuộc loại tội nào để áp dụng biện pháp ngăn chặn lại càng khó khăn nếu không
muốn nói là duy ý chí. Thực tiễn cho thấy, việc xác định đó hoàn toàn phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng, dễ dẫn đến việc lạm quyền khi áp
dụng Biện pháp tạm giữ; (2) Các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn còn qui định
quá chung chung, gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn này, như:
“xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn (điểm b, khoản 1, điều 110
BLTTHS 2015); hoặc “xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu
hủy chứng cứ” (điểm b, khoản 1, điều 110 BLTTHS 2015). Vì vậy, cần hoàn thiện
căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn này theo hướng bỏ các căn cứ dựa vào tiêu chí
loại tội và cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam cũng như những
biện pháp ngăn chặn khác.
3.3.2. Giải pháp áp dụng pháp luật
Đối với Cơ quan điều tra, trước tiên và quan trọng nhất là nâng cao chất lượng
công tác áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp nhằm khắc phục tình trạng lạm dụng bắt
khẩn cấp; thứ hai, tuyệt đối chấp hành các quyết định không phê chuẩn bắt khẩn
68
cấp, gia hạn tạm giữ của Viện kiểm sát; thứ ba, chấm dứt những sự việc nhục hình,
tra tấn trong điều tra. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật trong điều tra
và thứ tư, thụ lý giải quyết dứt điểm các trường hợp yêu cầu đòi bồi thường thiệt
hại cho người bị oan.
Đối với VKS, trong giai đoạn điều tra, với chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTHS, Viện kiểm sát có vai trò quyết định trong việc sử dụng các
BPNC có tính chất nghiêm khắc hơn cả các hoạt động điều tra. Cho nên, khi nghiên
cứu hồ sơ đề nghị phê chuẩn bắt khẩn cấp, Kiểm sát viên cần xác định tài liệu có
trong hồ sơ vụ án bảo đảm các căn cứ được quy định tại BLTTHS hay không và tốt
hơn hết là nên gặp đối tượng bị bắt khẩn cấp để lấy lời khai làm rõ trường hợp bắt
và hành vi phạm tội của họ. Nếu khẳng định trường hợp bắt là đúng thủ tục tố tụng,
có căn cứ, thì đề xuất phê chuẩn bắt khẩn cấp, nếu không, thì cương quyết từ chối
phê chuẩn để Cơ quan điều tra trả tự do cho người bị bắt. Khi Cơ quan điều tra đề
nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, nếu tài liệu khẳng định các sự kiện phạm
tội, sự kiện chứng minh, hậu quả tội phạm đã xảy ra, thì mới phê chuẩn. Trường
hợp ngược lại, thì từ chối phê chuẩn.
Khi nghiên cứu hồ sơ gia hạn tạm giữ, cần đánh giá phân loại từng trường hợp
bắt quả tang. Nếu đó là vi phạm hình sự mới gia hạn tạm giữ, tuyệt đối không gia
hạn tạm giữ đối với vi phạm hành chính.
3.3.3. Giải pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật, bồi dưỡng nghiệp vụ
Cần quán triệt đầy đủ quan điểm của Đảng về áp dụng các BPNC, trách nhiệm
của Viện kiểm sát đối với trường hợp áp dụng các BPNC sai được nói rõ trong Chỉ
thị số 53-CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị: “Việc bắt, giam phải được xem
xét cụ thể; đối với trường hợp bắt, giam cũng được, không bắt, giam cũng được, thì
không bắt, giam”.
Như vậy biện pháp tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật luôn có ý nghĩa
quan trọng không chỉ đối với những điều tra viên, kiểm sát viên, mà còn rất có ý
nghĩa với những người có liên quan khi áp dụng biện pháp tạm giữ. Có tuyên
truyền, giáo dục pháp luật tốt, thì việc áp dụng pháp luật mới có hiệu quả. Thực tiễn
có những quy định pháp luật về biện pháp tạm giữ còn có nhiều cách hiểu khác
nhau, do vậy việc tuyên truyền giáo dục pháp luật, nhất là các quy phạm pháp luật
liên quan đến biện pháp tạm giữ, giúp cho điều tra viên, kiểm sát viên hiểu một
69
cách đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về pháp luật, đặc biệt là bản chất các quy định của
pháp luật về biện pháp tạp giữ, từ đó áp dụng một cách đúng đắn khi giải quyết các
vụ án hình sự.
Việc bồi dưỡng pháp luật cũng là nhu cầu hết sức cần thiết cho điều tra viên,
kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng. Ở đây, bên cạnh giải pháp bồi
dưỡng chuyên sâu về pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, nhất là các quy định, căn
cứ, thủ tục, thời hạn, thẩm quyền áp biện pháp tạm giữ; cũng rất cần thiết bồi
dưỡng kiến thức pháp luật khác có liên quan, bởi khi quyết định áp dụng biện pháp
tạm giữ, người tiến hành tố tụng cần phải hiểu thêm các quy định của pháp luật
khác để thực hiện cho đúng luật. Đặc biệt là phải đẩy mạnh việc bồi dưỡng, tập
huấn cho điều tra viên, kiểm sát viên những kiến thức, kỹ năng cơ bản khi thực hiện
biện pháp tạm giữ, lưu ý đến việc xác định căn cứ tạm giữ (lời khai và chứng cứ
khác), cách thức lập biên bản, viết quyết định tạm giữ…để đảm bảo thực hiện cho
đúng các quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Các ngành Công an, VKS cần phối hợp tổ chức tập huấn những quy định về
Biện pháp tạm giữ để thống nhất thực hiện, phổ biến những vi phạm trong thực tiễn
áp dụng để rút kinh nghiệm cho cán bộ làm công tác, điều tra, truy tố, xét xử và
phòng ngừa tích cực không để vi phạm xảy ra.
3.3.4. Các giải pháp khác
Để thực hiện, áp dụng các BPNC nói chung, việc áp dụng BPNC nói riêng
được đúng pháp luật, có hiệu quả ngăn ngừa và chặn đứng tội phạm trước tình hình
mới, chúng ta cần:
Tham mưu hướng dẫn ban hành các văn bản pháp luật về áp dụng biện pháp
tạm giữ trong đó cần quy định cụ thể như: ghi thời hạn tạm giữ đối với các trường
hợp không thể lấy lời khai ngay vì đối tượng bị “ngáo đá”; đối tượng là người nước
ngoài phạm tội và các vụ việc đông đối tượng cần có thời gian phân loại để làm căn
cứ ra quyết định tạm giữ.
Đối với các trường hợp tạm giữ người nước ngoài phạm tội, nhất là người
Trung Quốc được nêu trong những khó khăn, vướng mắc tại Quảng Ninh, các cơ
quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là điều tra viên phải thực hiện trên cơ sở hiệp định
tương trợ tư pháp giữa nước ta với Trung Quốc, ở đây mạnh dạn đề xuất phải có
70
quy chế phối hợp cấp tỉnh giữa Quảng Ninh với Đông Hưng (Trung Quốc) để kịp
thời giải quyết có hiệu quả việc tạm giữ các đối tượng người Trung Quốc phạm tội.
Cần phải có giải pháp đầu tư kinh phí xây dựng, sửa chữa ngay các nhà tạm
giam cấp tỉnh và nhà tạm giữ cấp huyện để đảm bảo yêu cầu tạm giữ các đối tượng
phạm tội, vì trong quy định pháp luật hiện nay nếu người bị tạm giữ, tạm giam bỏ
trốn, Viện kiểm sát tối cao sẽ xem xét khởi tố ngay cán bộ làm nhiệm vụ canh giữ
các đối tượng này và thực tế các nhà tạm giam, tạm giữ của tỉnh Quảng Ninh đã
được xây dựng từ lâu, xuống cấp nghiêm trọng, tường gạch bị mòn, hư hỏng, đối
tượng rất dễ lợi dụng đào tường, khoét gạch để bỏ trốn.
Để chống gây ra oan, các cơ quan tư pháp cần nâng cao chất lượng hoạt động
tố tụng và trách nhiệm của những cán bộ trực tiếp vận hành công việc này. Cơ quan
điều tra, VKS, Tòa án phải chịu trách nhiệm về những trường hợp oan trong phạm
vi, thẩm quyền của mình.
Đề cao vai trò kiểm tra, giám sát việc thi hành biện pháp tạm giữ của các cơ
quan, tổ chức, hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân đối với hoạt động áp
dụng biện pháp tạm giữ, đảm bảo việc áp dụng này được thực thi đúng luật, đúng
đối tượng, tránh oan sai, đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong xã hội.
Tiểu kết chương 3
Sự cần thiết của việc hoàn thiện những quy phạm về chế định các BPNC xuất
phát từ: Yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân, yêu cầu cải các tư pháp và yêu cầu mở rộng hợp tác quốc tế;
Đòi hỏi của nhân dân bảo vệ quyền tự do, dân chủ và những mục tiêu, quan điểm,
định hướng của Đảng ta về xây dựng và hoàn thiện pháp luật theo những yêu cầu
và các phương hướng cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.
Việc hoàn thiện những quy phạm về chế định các BPNC dựa trên quan điểm
cơ bản của Đảng ta về xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, như: xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các
thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công
dân; xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an
71
toàn xã hội; xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế, cũng như các
định hướng cụ thể theo từng quan điểm cơ bản nói trên.
Biện pháp tạm giữ là cơ sở pháp lý cho công cuộc phòng ngừa và ĐTCTP,
đồng thời, cũng là phương tiện pháp lý để bảo vệ quyền và tự do cá nhân.
72
KẾT LUẬN
Biện pháp tạm giữ là một chế định quan trọng của pháp luật TTHS. Bởi vì,
chúng là biện pháp cưỡng chế Nhà nước mang tính phòng ngừa do người có quyền
hạn được quy định trong BLTTHS áp dụng đối với người bị buộc tội có liên quan
đến việc thực hiện tội phạm để ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án nên được coi là phương tiện pháp lý sắc bén, có hiệu quả
nhất để giải quyết tình hình tội phạm.
Biện pháp tạm giữ là cơ sở pháp lý cho công cuộc phòng ngừa và ĐTCTP,
đồng thời, cũng là phương tiện pháp lý để bảo vệ quyền và tự do cá nhân. Bên cạnh
đó, Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do
người có thẩm quyền trong TTHS gây ra và Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2015 đều là cơ sở pháp lý giải quyết nếu oan xảy ra. Tuy nhiên, chúng có
một số nội dung không rõ hoặc không được điều chỉnh, thậm chí mâu thuẫn làm
ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng.
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng Biện pháp tạm giữ cho thấy: lạm dụng bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, hình sự hóa các vi phạm hành chính...
không ít vi phạm trong áp dụng Biện pháp tạm giữ gây ra hậu quả nghiêm trọng,
đặc biệt có lúc tính mạng, sức khỏe của người bị tạm giữ bị chính Điều tra viên
xâm phạm; Việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan chỉ đạt kết quả ở
mức trung bình; nhiều đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại còn tồn đọng chưa giải
quyết.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện chế định Biện pháp tạm giữ xuất phát từ:
Yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân, vì dân, yêu cầu cải các tư pháp và yêu cầu mở rộng hợp tác quốc tế; Đòi hỏi
của nhân dân bảo vệ quyền tự do, dân chủ và những mục tiêu, quan điểm, định
hướng của Đảng ta về xây dựng và hoàn thiện pháp luật theo những yêu cầu và
phương hướng cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.
Việc hoàn thiện chế định Biện pháp tạm giữ dựa trên quan điểm cơ bản, định
hướng của Đảng ta về xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, như: xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các
thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng và
73
hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công
dân; xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội; xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế, cũng như các
phương hướng cụ thể theo từng quan điểm cơ bản và định hướng nói trên.
Việc hoàn thiện chế định Biện pháp tạm giữ nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
được xem xét trên ba phương diện: thực tiễn, lý luận và lập pháp. Nhằm giải quyết
thực tiễn áp dụng có hiệu quả quy định của pháp luật; hạn chế, phòng chống lạm
dụng tạm giữ hình sự thay cho tạm giữ hành chính và những vi phạm trong áp dụng
Biện pháp tạm giữ gây hậu quả nghiêm trọng, như: dùng tra tấn, nhục hình biến
tướng, gây chết người. Sự cần thiết và những quan điểm cơ bản, cũng như định
hướng của từng quan điểm nêu trên sẽ là tiền đề quan trọng cho phương hướng
thiết lập các kiến giải về lập pháp, áp dụng pháp luật, tuyên truyền giáo dục pháp
luật và một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định Biện pháp
tạm giữ. Trong các giải pháp đó, thì giải pháp tuyên truyền giáo dục pháp luật là
tiền đề, tiến hành thường xuyên lâu dài và bền bỉ. Nó có tác dụng nâng cao nhận
thức của người THTT, người có trách nhiệm trong việc áp dụng Biện pháp tạm giữ,
đồng thời, cũng là biện pháp phòng ngừa tội phạm xảy ra trong khâu bắt, giam, giữ.
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Đức Anh (2008), Quy định thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm
giam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số
(10);
2. Báo cáo tổng kết năm 2014-2918, của Công an tỉnh và của Viện Kiểm sát
tỉnh Quảng Ninh
3. Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Nguyên (1989), Những điều cần biết về bắt
người, tạm giữ, tạm giam đúng pháp luật, Nxb pháp lý, Hà Nội;
4. Trần Văn Biên (2017), Bình luận khoa học Luật thi hành tạm giữ, tạm giam,
Nxb Hồng Đức, Hà Nội;
5. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Hà Nội;
6. Mai Đắc Biên (2016) (Chủ biên), Những nội dung mối trong chế định biện
pháp ngăn chặn trong BLTTHS năm 2015,Tạp chí Kiểm sát số (05);
7. Mai Bộ (2006), Áp dụng Biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối
với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí TAND (số 5);
8. Nguyễn Mai Bộ (2007), Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự,
Nxb Chính trị Quốc gia.
9. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội
10. Các bộ luật An Nam (1992), Nxb Đông Dương, Hà Nội
11. Nguyễn Ngọc Chí (2014), Hiến pháp 2013 và việc hoàn thiện biện pháp
ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN: Luật học, Tập 30, số 3(2014) tr.15-23;
12. Chính phủ (1998), Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ban hành quy chế về tạm
giữ, tạm giam;
13. Chính phủ (2002), Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ban hành quy chế về tạm
giữ, tạm giam sửa đổi, bổ sung Nghị định số 89/1998/NĐ-CP;
14. Chính phủ (2011), Nghị định số 09/2011/NĐ-CP ban hành quy chế về tạm
giữ, tạm giam sửa đổi, bổ sung Nghị định số 89/1998/NĐ-CP Nghị định số
09/2011/NĐ-CP;
75
15. Chính phủ (2017), Nghị định 120/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều
của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam;
16. Nguyễn Ngọc Chí (2011) (Chủ biên), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội ;
17. Đỗ Văn Chỉnh (2005), Xác định trách nhiệm đối với người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự để người bị tạm giữ, tạm giam vẫn bị giam,
giữ khi đã hết thời hạn tạm giữ, tạm giam, Tạp chí TAND;
18. Nguyễn Văn Cừ (1998), Một số vấn đề về biện pháp tạm giữ trong tố tụng
hình sự, Tạp chí TTATXH (số 3);
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ-TW ngày 02/01 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, Hà Nội;
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW, Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội;
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW, Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
25. Nguyễn Văn Điệp (1999), Một số vấn đề về quy định tạm giữ trong
BLTTHS, Tạp chí Dân chủ và pháp luật ;
26. Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam
trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận
án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
27. Bùi Kiên Điện (1998), Những nguyên tắc cần tuân thủ khi áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, Tạp chí TTATXH
(số 8);
76
28. Nguyễn Tĩnh Gia và Mai Đình Chiến (2006), Vận dụng học thuyết Mác để
xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
29. Phạm Mạnh Hùng (2007), Hoàn thiện các quy định về các biện pháp ngăn
chặn trong BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát (số
21);
30. Đặng Thị Mai Hương (2016)¸ Những nội dung cơ bản của Luật thi hành tạm
giữ, tạm giam, Tạp chí Kiểm sát (số 05);
31. Nguyễn Ngọc Khánh (2011), Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong việc
quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong hoạt động điều tra theo
yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát (số 01);
32. Những văn bản của Nhà nước về an ninh trật tự (1998), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội;
33. Vũ Gia Lâm (2000), Về biện pháp tạm giữ trong BLTTHS năm 1998, Tạp
chí Luật học (số 2);
34. Lưu Xuân Lợi (2017), Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong pháp luật TTHS
Việt Nam từ thực tiễn TP Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học Viện Khoa
học xã hội;
35. Đỗ Thị Phượng (2005)¸ Bắt, tạm giữ, tạm giam, và giám sát bị can, bị cáo
chưa thành niên, Tạp chí Luật học (số 4);
36. Nguyễn Văn Quảng (2009), Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát đối
với việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, Tạp chí Kiểm sát
(số 16);
37. Nguyễn Trọng Phúc (2015), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn,Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội;
38. Quốc hội (1980), Hiến pháp 1980, Hà Nội;
39. Quốc hội (1992), Hiến pháp 1992, Hà Nội;
40. Quốc hội (2013), Hiến pháp 2013, Hà Nội;
41. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự 1999, Hà Nội
42. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự 2009, Hà Nội
43. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự 2015, Hà Nội
77
44. Quốc hội (2015), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13, Hà Nội
45. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hà Nội
46. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hà Nội;
47. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hà Nội
48. Quốc hội (2015), Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Hà Nội;
49. Quốc hộ (2016), Nghị quyết 144/2016/QH13 “ về việc lùi hiệu lực thi hành
của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, Bộ luật tố tụng hình sự số
101/2015/QH13; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13;
Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 và bổ sung một số điều
của BLHS số 100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
năm 2016”;
50. Nguyễn Đức Thuận (2008), Về áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy
định của BLTTHS năm 2003, Tạp chí Luật học (số 7);
51. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội;
52. Trần Quang Tiệp (2009), Về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội;
53. Trần Quang Tiệp (2004), Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
54. Trần Quang Tiệp (2005), Về tự do cá nhân và biện pháp ngăn chặn trong tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
55. Nguyễn Duy Thuân (1999), Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự-
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CAND, Hà Nội;
56. Tòa án nhân dân tối cao (1979), Hệ thống hòa luật lệ về tố tụng hình sự, Tập
II, Hà Nội.
57. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng,
Hà Nội
58. Trịnh Tiến Việt (2005), Về biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa
thành niên phạm tội trong BLTTHS n ăm 2013, Tạp chí TAND (số 6);
78
59. Trường Đại học Luật Hà Nội (1994), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Xí nghiệp in GEOPRICO;
60. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
61. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (1993), Giáo trình luật Hiến
pháp, thành phố Hồ Chí Minh Hà Nội;
62. Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
63. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), Tội phạm học, luật hình sự
và luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội;
64. Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an (1963), Thông tư số liên bộ
số 42/TT-LB, ngày 28/6 về việc xác định thẩm quyền áp dụng biện pháp
cưỡng chế nhà nước và trách nhiệm phê chuẩn của Viện kiểm sát, Hà Nội
65. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH ngày
17/3 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Hà Nội
66. Võ Khánh Vinh (2012), Bình luận khoa học BLTTHS của Nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
67. Võ Khánh Vinh (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội
68. Võ Khánh Vinh (2004) Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội
69. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb khoa học xã
hội, Hà Nội
70. Võ Khánh Vinh (2014) Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội;
71. Võ Khánh Vinh (2014) Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội
72. Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông (1996), Nxb pháp lý, Hà Nội.
73. https://vnexpress.net/phap-luat/vks-dong-nai-neu-phai-boi-thuong -
1994044.html; truy cập ngày 15/4/2019
74. https://vnexpress.net/phap-luat/vien-kiem-sat-o-dong-nai-xin-loi-nguoi-dan-
ong-bi-bat-oan-3824404.html; truy cập ngày 20/4/2019