VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MẠNH THẮNG

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

Mã số: 8.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

GS.TS. HỒ TRỌNG NGŨ

HÀ NỘI, NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ

Luật học “Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành

phố Hà Nội” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác

trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đều được

ghi rõ nguồn gốc.

Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Mạnh Thắng

MỤC LỤC

1 MỞ ĐẦU

9 Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội

phạm

1.1 Khái niệm, nguyên tắc, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình 9

hình tội phạm

1.2 Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm 24

37 Chƣơng 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa

bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội

2.1 Phần hiện của tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm 37

thành phố Hà Nội

2.2 Thực tiễn công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn 44

huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội

54 Chƣơng 3: Các biện pháp tăng cƣờng phòng ngừa tình hình tội

phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội trong thời

gian tới

3.1 Tăng cường nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa 54

bàn huyện Gia Lâm

3.2 Tăng cường biện pháp kinh tế - xã hội 55

3.3 Tăng cường biện pháp về văn hóa – giáo dục 57

3.4 Tăng cường biện pháp về tổ chức, quản lý xã hội 59

3.5 Tăng cường chất lượng hoạt động phát hiện tội phạm 60

3.6 Tăng cường biện pháp tự phòng ngừa tội phạm từ trong nhân dân 63

69 T LUẬN

71 ANH MỤC T I LIỆU THAM HẢO

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài:

Gia Lâm – một huyện ngoại thành, là vùng đất địa linh nhân kiệt, nằm

ở cửa ngõ phía Đông của thủ đô Hà Nội, ngàn năm văn hiến, nơi giao thương

của dòng văn hóa Thăng Long là Kinh Bắc, trước năm 1945, huyện Gia Lâm

thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Vị trí địa lý huyện Gia Lâm, phía Bắc

là quận Long Biên, phía Tây nam là địa giới giáp sông hồng, bên kia bờ là

huyện Thanh Trì và quận Hoàng Mai, phía Đông Bắc và Đông giáp các huyện

Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành của tỉnh Bắc Ninh, phía Nam giáp với huyện

Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, đặc biệt hơn nữa là con đường huyết mạch – đường

Nguyễn Văn Linh, nối thủ đô Hà Nội tới các tỉnh Hưng Yên, Hải Phòng, Thái

Bình, Quảng Ninh, nhánh khác rẽ sang tỉnh Nam Định.

Huyện Gia Lâm có bề dầy truyền thống văn hóa và lịch sử, nơi đây gắn

liền với tên tuổi của Chử Đồng Tử, Nguyên Phi Ỷ Lan, Ngọc Hân Công chúa,

Cao Bá Quát…huyện Gia Lâm có diện tích 114,79 km2 dân số gần 243.957

người, với 180 thôn, làng, tổ dân phố, cụm dân cư thuộc 22 xã, thị trấn. Trên

địa bàn có nhiều khu đô thị, khu công nghiệp và các khu trung tâm thương

mại được hình thành.

Trong những năm qua huyện Gia Lâm đẩy mạnh phát triển mọi mặt của

đời sống xã hội như, kinh tế chính trị, văn hóa – xã hội cùng với đó là xu

hướng hội nhập khu vực và quốc tế khiến đời sống nhân dân, từng bước được

nâng cao. GPD huyện Gia Lâm đạt mức 32,7 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo

có xu hướng giảm và nay chỉ còn 1,3%; giáo dục được nâng cao; tỷ lệ mù chữ

chỉ còn 0,09%; tỷ lệ thất nghiệp chỉ còn 2,44% theo số liệu thống kê năm

2015.

Trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội, tình hình tội phạm diễn

ra hết sức phức tạp, nguy hiểm và có chiều hướng gia tăng. Trước đây một số

1

loại tội phạm chưa từng xảy ra thì trong những năm gần đây đã phát sinh như:

môi giới mại dâm, tội chống người thi hành công vụ, tổ chức đánh bạc,… Tội

phạm cố ý gây thương tích, đánh bạc, vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ, giết người chiếm số lượng tương đối lớn

trong cơ cấu tội phạm trên địa bàn (Biểu 4.2 – phần Phụ lục).

Thực tiễn đấu tranh của các lực lượng phòng, chống tội phạm đã đạt

được những kết quả nhất định, tuy vậy, do còn nhiều hạn chế, bất cập trong

công tác này nên tình hình tội phạm trên địa bàn vẫn diễn biễn phức tạp, một

số vụ án, số bị can không giảm, tính chất nguy hiểm của tội phạm ngày càng

nghiêm trọng hơn.

Vì vậy, công tác phòng chống tội phạm hình sự cần phải được tập trung

cao độ, đổi mới phương thức, nội dung đấu tranh, từng bước đẩy lùi tội phạm.

Đây thật sự là vấn đề bức xúc, cấp bách nhất của xã hội hiện nay. Do đó việc

nghiên cứu về tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà

Nội dưới góc độ tội phạm là rất cần thiết.

Với cách nhìn nhận như trên đồng thời trong thời gian làm công tác

thực tiễn, tôi đã chọn đề tài “Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn

huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội” đề nghiên cứu và thực hiện luận văn

thạc sĩ Luật học nhằm góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội.

2 Tình hình nghiên cứu:

Trong những năm qua, tình hình tội phạm ở nước ta diễn biến hết sức

phức tạp, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ của tất cả các

ngành, các cấp và của toàn xã hội. Do đó, nghiên cứu tình hình tội phạm,

nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa đã luôn được chú trọng, trong mỗi

công trình nghiên cứu đều có những đóng góp nhất định cho công tác đấu

tranh phòng chống tội phạm nói chung hoặc cũng có thể chỉ rõ phương pháp

2

đấu tranh phòng chống đối với một số tội, nhóm tội đặc thù trên phạm vi toàn

quốc.Những đóng góp to lớn đó, phải nói đến những công trình nghiên cứu về

tình hình tội phạm của các tác giả có tên tuổi như GS.TSKH Đào Trí Úc,

GS.TS Võ Khánh Vinh, PGS.TS Lê Cảm, PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng,

PGS.TS Phạm Hồng Hải, PGS.TS Phạm Văn Tỉnh trong cuốn “Tội phạm học,

luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, năm

1994. Đây là cuốn sách đầu tiên đặt nền móng cho sự nhận thức biện chứng

về các vấn đề cơ bản của tội phạm học, trong đó có tình hình tội phạm.

Trong số các công trình nghiên cứu, không thể không kể đến sự đóng

góp đáng kể của bộ sách “Khoa học hình sự Việt Nam” do GS.TS Nguyễn

Xuân Yêm – Giám đốc học viện cảnh sát nhân dân đã chủ trì nghiên cứu biên

soạn, phát hành. Quá trình nghiên cứu về tình hình tội phạm, tác giả còn thấy

các công trình như:

- Đặc điểm của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay, PGS.TS Phạm Văn

Tỉnh, 2004;

- Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam, PGS.TS

Phạm Văn Tỉnh, NXB Tư pháp, 2007;

- Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam, PGS.TS Trần

Hữu Tráng, Tạp chí Luật học, số 3, 2000;

- Tội phạm ở Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, tác giả

Lê Thế Tiệm, Phạm Tự Phả (chủ biên) 1994;

Một số bài viết khác nghiên cứu về thông tin tội phạm học của tác giả

Dương Tuyết Miên như: Quan điểm của Tội phạm học nước ngoài về một số

vấn đề của Tội phạm học, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7, 2007, Bàn về tình

hình tội phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12, 2007;

Luận văn còn sử dụng một số giáo trình, tài liệu có liên quan thể hiện ở các

bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành như: Giáo trình Tội phạm học của

3

Trung tâm đào tạo từ xa Đại học Huế (1999), tác giả GS.TS Võ Khánh Vinh;

Giáo trình tội phạm học của trường Đại học Công an nhân dân, Học viện

Cảnh sát nhân dân (2002), sách chuyên khảo Tội phạm học và phòng ngừa tội

phạm (GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, 2001); Tác giả PGS.TS Hồ Sỹ Sơn các giai

đoạn thực hiện tội phạm nhìn từ góc độ so sánh pháp luật hình sự của một số

nước trên thế gới. Tạp chí nhà nước và pháp luật. Tác giả Hồ Sỹ Sơn. Các

nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ quy định tội phạm trong Luật sửa đổi,

bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự năm 2009. Một số vấn đề cơ bản về

chính sách hình sự dưới ánh sáng nghị quyết đại hội IX của Đảng (PGS.TS

Hồ Trọng Ngũ, 2002), giáo trình Đặc diểm tội phạm học tội phạm kinh tế và

các biện pháp phòng ngừa (GS.TS Hồ Trọng Ngũ, 2010), Tạp chí Tòa án, Tạp

chí Luật học, Tạp chí Kiểm sát… Trên phạm vi địa phương, có các công trình

nghiên cứu như công trình nghiên cứu của tác giả Luận văn thạc sĩ luật học:

-Đặng Thị Bích Nga( 2011) “ Đấu tranh phòng, chống tội đánh bạc và

tổ chức đánh bạc trên địa bàn huyện Gia Lâm- Luận văn thạc sỹ luật học, Học

viện Khoa học xã hội;

- Trần Minh Sơn (2011) “Phòng ngừa tội đào ngũ trên địa bàn quân khu

7” – Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật TP.Hồ Chí Minh;

-Nguyễn Thế Nam( 2012) “ Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy,

theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay- Luận văn thạc sỹ luật học, Học

viện Khoa học xã hội;

- Lê Hữu Nhân( 2014) “ Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu trên địa

bàn tỉnh Quảng Ngãi – Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội;

- Trần Thị Phương Thảo( 2015) “ Phòng ngừa tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Nam Định-

Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;

4

- Nông Thanh Huyền( 2015) “ Tội phạm trên địa bàn tỉnh Lào Cai: tình

hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” Luận văn thạc sỹ luật học, Học

viện Khoa học xã hội;

- Cao Thu Trang ( 2017) “Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em

ở Việt Nam hiện nay – Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội;

Các công trình nghiên cứu kể trên đều rất có giá trị để Luận văn kế

thừa, đặc biệt là những tư duy lý luận về tội phạm và tình hình tội phạm nói

chung, từ đó, luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp nhằm

đảm bảo việc nghiên cứu đúng phạm vi, trong thời hạn đã được xác định. Mặt

khác, với mỗi công trình nghiên cứu khoa học như đã đề cập thì mỗi tác giả

có cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu khác nhau nhằm đạt được mục đích

nghiên cứu của mình. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tình

hình tội phạm, trên phạm vi của chuyên ngành hình sự. Các luận văn, các

công trình nghiên cứu này được thực hiện ở các tỉnh, địa bàn khác nhau, các

giai đoạn, các góc độ, khía cạnh khác nhau nên có giá trị tham khảo cho việc

thực hiện đề tài luận văn của học viên vẫn không bị trùng lặp.

3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1Mục đích nghiên cứu.

Luận văn nghiên cứu nhằm đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả

phòng ngừa tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, từ đó đề

xuất các giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phòng

ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm trong thời gian tới.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có một số nhiệm

vụ cụ thể như sau:

- Tổng hợp những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm nói

chung và những vấn đề lý luận về phòng ngừa nhóm tội phạm cụ thể.

5

- Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện

Gia Lâm, cụ thể là tổ chức phòng ngừa và thực trạng áp dụng các biện pháp

phòng ngừa tình hình tội xâm phạm các nhóm tội trên địa bàn huyện Gia

Lâm.

- Phân tích các thông số về tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia

Lâm giai đoạn 2013 – 2017.

- Trên cơ sở dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa

bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

-Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình các

nhóm tội trên địa bàn huyện Gia Lâm- thành phố Hà Nội.

4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quan điểm khoa học về

phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng ngừa tình hình tội phạm nói

riêng và thực tiễn trong phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện

Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

4.2 Phạm vi nghiên cứu:

Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và có sử

dụng ở mức độ nhất địnhkiến thức của khoa học luật hình sự khi phân tích các

khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của các nhóm tội trên địa bàn huyện Gia

Lâm, theo pháp luật hình sự Việt Nam. Các số liệu trình bầy trong luận văn

được thu thập từ kết quả xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án huyện Gia Lâm

trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2017

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận:Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở

phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mac- Lenin, các

6

quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tội

phạm và hình phạt, về phòng, chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác

giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng trong việc

thống kê số vụ phạm tội, số người phạm tội, thống kê một số đặc điểm nhân

thân người phạm tội, thống kê các hình phạt được Tòa án áp dụng, thống kê

thiệt hại do các tội phạm này gây ra tại chương 2 của luận văn.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng khi tác giả nghiên

cứu mức độ, cơ cấu của tình hình tội phạm trong những gai đoạn khác nhau.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1 Ý nghĩa Lý luận:

- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, học tập và

nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự. Kết quả nghiên có thể

làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa

bàn huyện Gia Lâm. Bên cạnh đó, luận văn còn góp phần làm rõ hơn lý luận

về phòng ngừa tình hình tội phạm trên một địa bàn cụ thể.

6.2Ý nghĩa thực tiễn:

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng

trong thực tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động đấu tranh, phòng chống tội

phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, đặc biệt những hạn chế còn tồn tại đã làm

ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động này trong thời gian qua, luận văn còn

là tài liệu tham khảo, các chủ thể phòng ngừa tội phạm tham khảo, rút kinh

nghiệm nhằm nâng cáo hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm

trên địa bàn huyện Gia Lâm, đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan đấu

tranh phòng chống tội phạm (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án).

7

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội

dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể là:

Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm.

Chƣơng 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn

huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội

Chƣơng 3: Các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm

trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

8

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẮN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

1.1 Khái niệm, nguyên tắc, mục đích ý nghĩa của phòng ngừa tình

hình tội phạm

1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của tình hình tội phạm

Tội phạm phát sinh luôn gây ra những tác hại to lớn đối với xã hội, con

người. Do vậy các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam đều kiên quyết

đấu tranh phòng ngừa tội phạm.Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ đều xây

dựng những đạo luật khác nhau để đấu tranh, xử lý và ngăn chặn tội phạm.

Trong giai đoạn hiện nay, tội phạm ngày càng gia tăng cả về số vụ và tính

chất phức tạp cũng như mức độ tinh vi và phương thức, thủ đoạn.

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 8 của BLHS năm 2015 thì: “Tội phạm

là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có

năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hoặc pháp nhân thương mại thực hiện

một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc

phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm

phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi

ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự xã

hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải xử lý hình sự.

Phòng ngừa chính là phát hiện những nhân tố nguyên nhân, điều kiện

dẫn đến tội phạm áp dụng các biện pháp cần thiết để loại trừ những nguyên

nhân, điều kiện hoặc hạn chế tác hại những hành vi phạm tội do các nguyên

nhân điều kiện đó gây ra.

Về tình hình tội phạm: Tình hình tội phạm là khái niệm cơ bản đầu tiên

của khoa học tội phạm học. Đây là một thuật ngữ khoa học, nhưng đồng thời

9

cũng là một thuật ngữ thường được dùng trong ngôn ngữ thông dụng, đời

thường. Có rất nhiều những quan điểm về định nghĩa của tình hình tội phạm

nhưng nhìn chung nhất thì:

“Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự được

thay đổi về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất

các loại tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong

một thời gian nhất định” [56, Tr.10]

Từ khái niệm tình hình tội phạm nói trên, ta có thể thấy một số đặc

điểm của phòng ngừa tình hình tội phạm như sau:

Thứ nhất,phòng ngừa nói chung, theo từ điển bách khoa:“ là một cái gì

đó trước khi sự việc hiện tượng diễn ra nhằm ngăn chặn không để xẩy ra hậu

qủa“. Quan điểm này thường được áp dụng đối với các hiện tượng xấu, phức

tạp, ảnh hưởng tới cuộc sống con người và xã hội.tình hình tội phạm là hiện

tượng xã hội tiêu cực, nên tương tự tình hình tội phạm cần phải được phòng

ngừa, ngăn chặn hay nói cách khác, phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt

động mang tính tất yếu. ( 37, Tr328)

Thứ hai,Phòng ngừatình hình tội phạm là đối tượng nghiên cứu của tội phạm

học và cũng là mục đích cuối cùng của tội phạm học. Tội phạm nghiên cứu

tình hình tội phạm, nguyên nhân điều kiện của tình hình tội phạm, nhân thân

người phạm tội..phát hiện quy luật phát sinh, tồn tại và vận động của tình hình

tội phạm để tìm ra các biện pháp tác động vào quy luật đó nhằm mục đích

cuối cùng là không để tội phạm xẩy ra.

Thứ ba,Tội phạm học có mục đích đưa ra những kiến nghị về các giải pháp

nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm ..“. Do đó, mục

đích cuối cùng và quan trọng nhất của ngành khao học này là tìm ra được

những biện pháp tác động vào quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của tội

10

phạm, đồng thời khắc phục được những nguyên nhân và điều kiện tội phạm.(

Trịnh Tiến Việt Tr47)

Thứ tư,chủ nghĩa Mác –Lenin cho rằng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa,

tội phạm phát sinh và tồn tại là do những nguyên nhân và điều kiện khác

nhau, xong“ với bản chất tốt đẹp của mình, Nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn

toàn có khả năng tiến hành cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm có kết quả.

Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm phải

được coi là một bộ phậm của cuộc đấu tranh giai cấp và trong cuộc đấu tranh

đó, phải đặc biệt quan tâm đến công tác phòng ngừa tội phạm..“. Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã từng nói „ Xét xử là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng

tốt hơn ’’. Câu nói này của Người đã thể hiện phương châm rất quan trọng

trong đường lối xử lý của nhà nước ta – lấy giáo dục, phòng ngừa là chính,

phòng ngừa tốt cũng chính là chống tội phạm tốt.( 47).

Thứ năm,theo GS.TS. Nguyễn Xuân Yên:“ phòng ngừa tội phạm là

tổng hợp các biện pháp có quan hệ tác động lẫn nhau, được tiến hành bởi các

cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm và

hạn chế, loại trừ những nguyên nhân sinh ra tội phạm( 47)

Thứ sáu,GS.TS. Đỗ Quang Lại chỉ ra phòng ngừa tội phạm theo hai

nghĩa: Theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để

cho tội phạm xẩy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Mặt khác,

bằng mọi cách để ngăn chăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý

nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người

phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội; theo nghĩa hẹp,

phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xẩy ra, không để cho tội phạm

gây hậu quả cho xã hội, không để cho thành viên của xã hội phải chịu hình

phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nướctrong

công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội“ ( 47).

11

Thứ bẩy: PGS.TS Nguyễn Chí Dũng và tập thể tác giả định nghĩa:“

Phòng ngừa tội phạm là sử dụng các phương pháp, chiến thuật, biện pháp,

phương tiện nghiệp vụ cần thiết, với sự tham gia của các lực lượng nhằm khắc

phục mọi nguyên nhân, điều kiện không để tội phạm phát sinh, phát triển’’ (

47)

Thứ tám: Theo GS.TS Võ Khánh “ Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ

thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà

nước- xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm

hoặc làm vô hiệu hóa ( làm yếu, hạn chế) chúng bằng cách đó làm giảm và

dần dần loại bỏ tình hình tội phạm.{49,tr154}.

Thứ chín: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa đã đưa ra khái niệm này dưới góc

độ tội phạm học: Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức

và công dân thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm

nguyên nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác dụng và laoij trừ dần

những nhóm nguyên nhân này...{47}.

Thứ mười: theo từ điển Luật học định nghĩa: ’’ Phòng ngừa tội phạm là

ngăm ngừa tội phạm và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn

bộ những biện pháp liên quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã

hội tiến hành’’.

Trên cơ sở tổng hợp các các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với

thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm ở nước ta trong thời gian vừa

qua, dưới góc độ tội phạm học, có thể định nghĩa khái niệm phòng ngừa tình

hình tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật như Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội

và mọi công dân trong xã hội áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp

khác nhau hướng vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện phạm tội,

cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành tất

12

cả nhân tố tiêu cực, đồng thời từng bước hạn chế, đẩy luaif và tiến tới loại bỏ

tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Nói một cách ngắn gọn khác, phòng ngừa

tội phạm là một bộ phận cấu thành của lý luận tội phạm học, đồng thời là

hoạt động của toàn xã hội trong việc tìm ra các nguyên nhân phát sinh tội

phạm, khắc phục cũng như để ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm

ra khởi đời sống xã hội{ 47}

1.1.2 Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm

Khoa học nghiên cứuvề tội phạm học của Việt Nam hiện nay, các nhà

khoa học sử dụng hai thuật ngữ là “phòng ngừa tội phạm” và “phòng ngừa

tình hình tội phạm”. “Phòng ngừa tội phạm” không chỉ là phòng ngừa tội

phạm cụ thể (cái riêng) và “Phòng ngừa tình hình tội phạm” cũng không chỉ

giới hạn ở mức độ phòng ngừa toàn bộ tình hình tội phạm (cái chung) mà

không kết hợp với phòng ngừa tội cụ thể. Thực chất, về mặt nội hàm thì cả

hai thuật ngữ trên đều thể hiện phòng ngừa tội phạm ở tất cả các mức độ: tình

hình tội phạm là của chung, tội phạm là chung.

Tình hình tội phạm chỉ có thể biểu hiện nó diễn ra, hàng trăm ngàn lần,

sau đó mới đi tìm quy luật của nó.

Phòng ngừa tình hình tội phạm được hiểu theo hai quan điểm. Quan

điểm thứ nhất cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm cả hoạt động

phòng và chống tội phạm. Quan điểm thứ hai coi phòng ngừa tình hình tội

phạm chỉ bao gồm hoạt động tác động và nguyên nhân và điều kiện của tội

phạm nhằm ngăn ngừa trước không cho tội phạm xảy ra. Theo PGS.TS. Võ

Khánh Vinh thì:

Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ các biện pháp

mang tính chất Nhà nước, xã hội, và Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các

nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu, hạn

13

chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm.

[46, tr.154]

Phòng ngừa tình hình tội phạm được thực hiện thông qua hoạt động

phối hợp, sự tác động lẫn nhau, sự giúp đỡ lẫn nhau của các chủ thể phòng

ngừa. Phòng ngừa tình hình tội phạm là một công tác phức tạp, khó khăn đòi

hỏi phải có sự quan tâm thực hiện của tất cả các cấp chính quyền một cách

khoa học, chính xác mới có thể phát huy hiệu quả. Tính hệ thống, kết cấu chặt

chẽ của công tác phòng ngừa tình hình tội phạm quyết định mật thiết đến hiệu

quả của công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn thực hiện.

1.1.3 Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm

Tội phạm như là một hiện tượng xã hội, xã hội tự nhiên, hiện tượng

pháp lý. Theo xã hội học để nghiên cứu tội phạm trước hết nghiên cứu con

người phạm tội ở môi trường được sống và tự sống.

Tội phạm hay phạm tội như một nghiên cứu xã hội luật hình sự. Tội

phạm không mặc nhiên sinh ra. Nên không được xem nó như là một hiện

tượng trừu tượng.

Xét về thực chất tội phạm là chính sản phẩm của cá nhân tội phạm, vì

vậy tính chất của tình hình tội phạm phù hợp với đặc điểm nhân thân người

phạm tội, phù hợp vào đặc điểm nhân thân, nơi điều kiện người phạm tội sinh

sống.

Đánh giá tội phạm: cân nhắc nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh người

phạm tội. Tội phạm đi ra từ hành vi con người.

Phòng ngừa tình hình tội phạm là một hoạt động thực tiễn xã hội, có

những đặc điểm đặc thù của mình. Cách thức tổ chức và hoạt động của hệ

thống đó phải được xây dựng theo những nguyên tắc nhất định.

Hoạt động trong đó được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc

cơ bản sau: pháp chế xã hội chủ nghĩa; dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân đạo;

14

khoa học và tiến bộ; phối hợp chặt chẽ hoạt động phòng ngừa giữa các chủ

thể phòng ngừa, phân hóa trong phòng ngừa

Từ việc hiểu như trên có các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm

như sau:

Nguyên tắc pháp chế: thể hiện ở chỗ hoạt động phòng ngừa tình hình

tội phạm nói chung và việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa phải có cơ sở

pháp luật, phải phù hợp với các quy định của pháp luật. Trong quá trình tiến

hành hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, các chủ thể tuân thủ nghiêm

chỉnh, nhất quán các quy định của pháp luật về hoạt động đó. Cụ thể trong

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử phải đảm bảo quy định của BLTTHS.

Mặc dù mục đích của hoạt động phòng ngừa là bảo vệ Đảng, bảo vệ

chế độ, bảo vệ thành quả của cách mạng và tài sản hợp pháp của nhân

dân….nhưng không phải vì thế mà hoạt động phòng ngừa tội phạm được phép

làm bừa, làm ẩu, không tuân thủ pháp luật. Do đó hoạt động phòng ngừa tội

phạm phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình tuyên truyền về nhóm tội nhóm tội phạm về ma túy.

Nhóm xâm phạm sở hữu: Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài

sản. Nhóm trật tự xã hội: Giết người, Gây thương tích, Đánh bạc, các cơ quan

hải quan, kiểm lâm, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, UBND các cấp đến các

tuyên truyền viên có tuyên truyền không

Như tội phạm về Ma túyxảy ra là tất yếu, có cả nguyên nhân và điều

kiện – Tính quyết định luận của nó.

Nó là sản phẩm tiêu cực của xã hội hay xã hội không mong muốn. Từ

nhóm tội này nó làm ảnh hưởng đến nhóm tội khác, dẫn đến không có tiền hút

chích, dẫn đến trộm cắp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, gây thương tích, cờ bạc để

có tiền hút chích, và dẫn đến hành động giết người để có tiền sử dụng ma túy.

15

- Môi trường xã hội tác động đến từng lĩnh vực một, môi trường gia

đình không tốt, sẽ ảnh hưởng đến, sử dụng ma túy, trộm cắp…

- Tuyên truyền về tổ dân phố khác nhau, cũng dẫn đến con đường tệ

nạn xã hội.

Nguyên tắc phối hợp:Vì hoạt động phòng ngừa tội phạm bao giờ cũng

mang tính quốc gia và xã hội, nó là trách nhiệm của toàn xã hội, nhưng đồng

thời mỗi lực lượng, mỗi ngành, khác nhau, suy cho cùng đều nhằm mục đích

để phòng ngừa tình hình tội phạm. Do đó, trong hoạt động phòng ngừa tình

hình tội phạm nói chung, tình tội phạm về ma túy. Nhóm xâm phạm sở hữu:

Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản. Nhóm trật tự xã hội:

Giết người, Gây thương tích, Đánh bạc phải có sự phối hợp của nhiều ngành,

nhiều cấp, phải sử dụng tổng hợp sức mạnh của nhiều lực lượng, nhiều biện

pháp phương tiện.

Để có sự phối hợp, trước hết phải có sự lãnh đạo thống nhất từ một cơ

quan đầu mối chuyên trách, đồng thời có một cơ chế, phối hợp được định rõ

các chương trình, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm. Ngoài vấn đề

trách nhiệm cá nhân của các chủ thể có nhiệm vụ phối hợp cũng được đề cao

nhằm ngăn ngừa tình trạng đùn đẩy, cản trở hoặc trì hoãn quá trình phối hợp.

Nếu như nguyên tắc này được tuân thủ, chắc chắn sẽ phát huy nhiều lợi thế

của các chủ thể và nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa

bàn huyện Gia Lâm.

Bên cạnh đó, đối với phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy. Nhóm

xâm phạm sở hữu: Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản.

Nhóm trật tự xã hội: Giết người, Gây thương tích, Đánh bạc, ngoài việc phối

hợp giữa các ngành, các cấp. Chủ thể phòng ngừa, nguyên tắc này còn được

thể hiện sự phối hợp, hợp tác trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội

phạm.

16

Nguyên tắc nhân đạo: Vì mục đích của phòng ngừa tội phạm là không

để cho tội phạm xảy ra, không để cho một công dân nào phải bị xử lý. Do đó,

nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc xuyên suốt quá trình và toàn bộ hoạt động

phòng ngừa tội phạm.

Đối với nhóm xâm phạm sở hữu là các biện pháp phòng ngừa các tội

phạm này không nhằm làm tổn thương con người, mà phải hướng con người

tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Con người được đề cập ở đây, có thể là bị can, bị

cáo, người liên quan chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người

phạm tội, những người khác chịu sự tác động từ các biện pháp phòng ngừa tội

phạm.

Xét cho cùng, mục đích của phòng ngừa tội phạm là nhằm bảo vệ con

người, chính vì vậy khi phòng ngừa tội phạm, các chủ thể phòng ngừa không

được sử dụng các biện pháp nhằm gây tổn thương đến con người. Khi trển

khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu, chủ thể

phòng ngừa tội phạm vì mục đích phòng ngừa tội phạm có thểsẽ áp dụng các

biện pháp vô tình gây tổn thương, đến bị can, bị cáo, người phạm tội, nạn

nhân trực tiếp và những người là nạn nhân gián tiếp của tội phạm.

Chính vì vậy, ngoài việc tuân thủ pháp luật, tiêu chí rất quan trọng để

các chủ thể quyết định áp dụng một biện pháp phòng ngừa tội phạm là cân

nhắc xem biện pháp đó có nguy cơ gây tổn thương đến đối tượng nào trong xã

hội hay không. Chính vì vậy, để nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế

thì yêu cầu nội dung của nguyên tắc phải được thể hiện trong các văn bản

pháp luật về phòng ngừa các tội phạm xâm phạm sở hữu . Bên cạnh đó, các

chủ thể phòng ngừa tội phạm cần nắm rõ tinh thần nội dung của nguyên tắc

nhân đạo khi xây dựng chương trình phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là khi xây

dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp này mặc dù hướng

đến mục đích cuối cùng là phòng ngừa tội phạm, nhưng nếu như các biện

17

pháp lại gây tổn thương cho con người, thì các biện pháp đó không được áp

dụng.

Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc nhân đạo trong hoạt động phòng

ngừa tội phạm có ý nghĩa bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của những người

có liên quan, bảo đảm tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta trong

hoạt động phòng ngừa tội phạm và nhằm hướng đến mục đích chung nhất là

nâng cao hiệu quảhoạt động phòng ngừa tội phạm, bảo vệ tối đa quyền lợi ích

hợp pháp của con người.

Nguyên tắc dân chủ:trong phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu được

thể hiện là hoạt động phòng ngừa phải có sự tham gia của các đoàn thể, các

tầng lớp, lực lượng trong xã hội, đặc biệt là quần chúng nhân dân. Phòng

ngừa tình hình phạm tội các tội xâm phạm sở hữu, thực chất là hoạt động

quản lý xã hội, mà hoạt động này muốn đạt hiệu quả cần phải có sự tham gia

của toàn xã hội.

Các tội phạm xâm phạm sở hữu hay tội phạm trật tự xã hội và tội phạm

về Ma túy có liên quan đến vấn đề đặc điểm về dân cư, văn hóa của từng khu

dân cư, chính vì vậy phòng ngừa các tội phạm này phải được sự hưởng ứng,

tham gia rộng rãi, từ phía người dân thì mới có thể đạt hiệu quả như mong

muốn.

Do đó. Để có nguyên tắc này được áp dụng trong thực tế thì cần thiết

phải có sự ghi nhận nội dung này trong các quy định của pháp luật về phòng

ngừa các tội xâm phạm sở hữu, bên cạnh đó cần phải nhận thức rằng, các chủ

thể phòng ngừa tội phạm là quần chúng nhân dân, là lực lượng đông đảo nhất,

nhưng không có công cụ, phương tiện nhằm đấu tranh trực tiếp với tội phạm

cho nên quần chúng nhân dân cần được sự hướng dẫn, tạo điều kiện từ các

chủ thể chuyên trách là cơ quan nhà nước trực tiếp áp dụng các biện pháp

phòng ngừa hay phát hiện, xử lý tội phạm. Sự hướng dẫn, tạo điều kiện cho

18

quần chúng nhân dân tham gia phòng ngừa tội phạm thể hiện ở nhiều hình

thức khác nhau như xây dựng, triển khai các trương trình phòng chống tội

phạm huy động sự tham gia của quần chúng nhân dân, tiếp nhận xử lý và có

hiệu quả các tin báo tố giác tội phạm từ quần chúng nhân dân, hướng dẫn

huấn luyện cho các tổ chức nhân dân tự quản các biện pháp cần thiết trong

việc phát hiện, xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm.

Việc thực hiện, tuân thủ nguyên tắc dân chủ trong hoạt động phòng

ngừa các tội xâm phạm sở hữu nhằm phát huy trước hết sức mạnh của các

tầng lớp nhân dân trong xã hội, trong hoạt động phòng ngừa trước không để

cho tội phạm xảy ra và kịp thời phát hiện tội phạm, góp phần nâng cao hiệu

quả hoạt động phòng ngừa tội phạm, nhằm phát huy được hết sức mạnh của

các tầng lớp nhân dân trong xã hội trong hoạt động phòng ngừa trước không

để cho tội phạm xảy ra và kịp thời phát hiện tội phạm, góp phần nâng cao

hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm.

Nguyên tắc cụ thể hóa: trong hoạt động phòng ngừa tội phạm là xâm

phạm sở hữu trật tự xã hội hay ma túy được hiểu là phòng ngừa các tội phạm

này phải được tiến hành cụ thể, phù hợp với những đặc điểm nhân thân của

người chịu sự tác động bởi các biện pháp phòng ngừa, đặc biệt là phải tùy

thuộc vào khu vực địa lý, đặc điểm lịch sử, tự nhiên, xã hội, dân cư người đó

đang sinh sống. Nói cách khác, nguyên tắc này thể hiện ở hai khía cạnh:

Thứ nhất: phòng ngừa các loại tội này, được tiến hành cụ thể đối với

các đối tượng có nhân thân khác nhau. Tùy thuộc vào độ tuổi, trình độ học

vấn, nghề nghiệp, đặc biệt là đối với các đối tượng có nguy cơ phạm tội cao

như người chưa thành niên, người không có nghề nghiệp, người có nhân thân

xấu, người có tiền án, tiền sự, người nghiện ma túy…thì cần được áp dụng

những biện pháp phòng ngừa riêng biệt, khác với những người bình thường

trong xã hội.

19

Thứ hai: ở mỗi địa phương sẽ có thể tồn tại những đặc điểm đặc trưng

về tự nhiên, xã hội có ảnh hưởng đến tình hình các tội xâm phạm sở hữu, hay

trật tự xã hội. Nguyên nhân các điều kiện của tội phạm. Chính vì vậy, tương

ứng với những đặc điểmvề tự nhiên và xã hội này mà chủ thể phòng ngừa cần

thiết kế, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm cho phù hợp, với hoàn

cảnh của mỗi địa phương, nói cách khác, phòng ngừa tội xâm phạm sở hữu

hay trật tự xã hội căn cứ vào thực tiễn tình hình tội phạm ( Trong đó có thực

tiễn nhân thân người phạm tội), thực tiễn tự nhiên ,xã hội( lịch sử, dân cư,

kinh tế, văn hóa, giáo dục) và thực tiễn khả năng của chủ thể phòng ngừa tình

hình tội phạm( trong đó có thực tiễn nhân thân người phạm tội), thực tiễn tự

nhiên, xã hội ( lịch sử, dân cư, kinh tế, văn hóa, giáo dục) và thực tiễn khả

năngcủa chủ thể phòng ngừa tội phạm.

Để áp dụng nguyên tắc này khi thiết kế các biện pháp phòng ngừa, các

chủ thể phòng ngừa sẽ nghiên cứu kỹ đối tượng chịu sự tác động cũng như

điều kiện xã hội như kinh tế, văn hóa, phong tục vùng miền mà đối tượng đó

đang sống để có các biện pháp tác động phù hợp. Ý nghĩa quan trọng nhất của

nguyên tắc này là nhằm bảo đảm hiệu quả cho hoạt động phòng ngừa tội

phạm.

Nguyên tắc khoa học và tiến bộ:Hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm ở lĩnh vực nhóm về Ma túy, nhóm về trật tự và xã hội là đánh bạc là

hoạt động của cả xã hội bao gồm nhiều lực lượng tham gia với rất nhiều các

biện pháp, do đó đòi hỏi hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nhóm về

ma túy, nhóm về trật tự và xã hội là đánh bạc, nhóm xâm phạm sở hữu,phải

được tiến hành một cách khoa học, luôn được cải tiến và áp dụng các thành

tựu khoa học kỹ thuật, làm cho phòng ngừa tình hình tội phạm ngày càng có

hiệu quả. Muốn vậy cần phải có nghiên cứu đưa ra được quy trình, phương

pháp trong phòng ngừa tình hình tội phạm làm sao cho việc điều hành, thực

20

hiện các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nhóm về Ma túy, nhóm về

trật tự và xã hội là đánh bạc, nhóm xâm phạm sở hữu được diễn ra phù hợp,

tiết kiệm hiệu quả.

1.1.4 Mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm

- Mục đích của phòng ngừa tình hình tội phạm:

Mục đích chung của công tác phòng ngừa tình hình tội phạm là việc

không để hình thành và tồn tại các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, hạn chế,

cô lập, tiến tới loại trừ những nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. Đây là

mục tiêu cao nhất của công tác phòng ngừa tội phạm và theo ý kiến chủ quan

của tác giả thì phải rất lâu nữa chúng ta mới đạt được mục tiêu này.

Phòng ngừa tình hình tội phạm là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức

tạp, tuy nhiên từ những lý luận của khoa học nghiên cứu về tội phạm học, từ

thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tác giả tin tưởng rằng đất nước ta sẽ

đấu tranh thắng lợi với các loại tội phạm và dần dần loại bỏ được hiện tượng

tội phạm trong tương lai. Phòng ngừa tội phạm là yêu cầu tất yếu của đất

nước và mỗi người dân để đảm bảo cuộc yên bình, hạnh phúc.

Trong từng thời kỳ phát triển của xã hội, tùy thuộc vào điều kiện của

mỗi quốc gia. Trong tình hình hiện nay, Đảng ta đã ban hành Chỉ thị số

48/CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh

phòng chống tội phạm trong tình hình mới” trong đó chỉ rõ “trong thời gian

tới, công tác phòng chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội

phạm, nhất là các loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo môi trường

lành mạnh phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội bảo vệ cuộc

sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân”.

Như vậy, mục đích công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trong thời

kỳ mới của chúng ta có những mục đích cụ thể sau:

21

- Hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân điều kiện của tình hình tội phạm và các

vụ phạm tội đối với toàn bộ các tội phạm, đặc biệt là các loại tội phạm mới.

Đây cũng chính là nội hàm của công tác phòng ngừa chung đối với tội phạm.

Hệ thống các loại tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự của chúng ta

vô cùng đa dạng và phong phú, dựa vào động cơ, mục đích riêng biệt mà mỗi

loại tội phạm có nguyên nhân và điều kiện riêng. Để loại bỏ được nguyên

nhân chung của tất cả tội phạm thì không gì khác phải tạo môi trường xã hội

lành mạnh, người dân có đời sống vật chất và tinh thần cao từ đó tự động loại

bỏ những yếu tố tiêu cực gây nên việc phạm tội.

- Ngăn chặn kịp thời, không để xảy ra những hành vi tội phạm mới.

Việc ngăn chặn hành vi phạm tội chính là nội dung của phòng ngừa tình hình

tội phạm vì có sự tác động đến đối tượng trước khi thực hiệm hành vi phạm

tội làm cho tội phạm không xảy ra, không gây ra hậu quả, thiệt hại cho các

quan hệ xã hội. Ngăn chặn là hoạt động mang tính tức thời, cấp bách, khi đối

tượng đang có ý đồ, âm mưu và chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội.

- Phòng ngừa người phạm tội tái phạm: Những người đã từng phạm tội

là người có những điều kiện, hoàn cảnh, đặc điểm tâm lý phù hợp dẫn đến

việc thực hiện hành vi phạm tội, nếu không có biện pháp phòng ngừa hợp lý

thì sau khi bị xử lý về hình sự thì các đối tượng này rất dễ dàng thực hiện lại

hành vi phạm tội. Thậm chí hành vi tái phạm sẽ có tính chất nguy hiểm cho xã

hội nhiều hơn do đối tượng đã có kinh nghiệm trong việc phạm tội, những thủ

đoạn của đối tượng sẽ tinh vi, xảo quyệt hơn và cũng sẽ gây ra những thiệt hại

lớn hơn cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Để hạn chế việc tái

phạm của người phạm tội, Nhà nước đã có những chính sách như tạo công ăn

việc làm thuận lợi cho người phạm tội sau khi bị xử lý hình sự, nâng cao ý

thức, giáo dục pháp luật, yêu cầu gia đình, bạn bè thường xuyên động viên,

giúp đỡ, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, Ngoài ra, các

22

cơ quan chuyên môn cũng tiến hành một số hoạt động quản lý như giáo dục

chính trị, lao động, quản lý chặt chẽ hoạt động của đối tượng khi đối tượng

mới mãn hạn tù,…

Để hoàn thành được những mục tiêu trên cần có sự tham gia, phối hợp

của cả hệ thống chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân vì vậy để công tác

phòng ngừa có hiệu quả cần thiết phải xây dựng tốt về chương trình, kế hoạch

phòng ngừa tình hình tội phạm phù hợp với đặc điểm của từng địa bàn, từng

loại đối tượng cụ thể.

- Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm:

Việc phòng ngừa tình hình tội phạm có một tổ hợp nhất định và thứ bậc

các mục đích được cụ thể hóa theo thời gian, ở những địa phương và ngành

nghề nhất định, được áp dụng đối với các phạm trù ( loại) tội phạm và mức độ

phòng ngừa khác nhau. Chúng được thực hiện thông qua hoạt động phối hợp,

sự tác động lẫn nhau, sự giúp đỡ lẫn nhau của các chủ thể phòng ngừa. Điều

đó cho phép nói về việc phòng ngừa tình hình tội phạm như các cơ quan:

CQĐT, VKSND, TAND là một hệ thống toàn bộ, có kết cấu chặt chẽ.

Trên địa bàn huyện Gia Lâm lấy việc phòng ngừa tình hình tội phạm là

hệ thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội, và

Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội

phạm hoặc làm vô hiệu hóa ( làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm

giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm.

Việc phòng ngừa tình hình tội phạm được thực hiện bằng cách giải

quyết cả những nhiệm vụ chuyên môn. Tương ứng người ta phân biệt hai mức

độ phòng ngừa; mức độ chung toàn xã hội và mức độ chuyên môn( chuyên

ngành).

Việc nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm, còn tác động đến các

lĩnh vực tác động khác trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, như phát

23

triển kinh tế, văn hóa- xã hội, an ninh quốc phòng… Thông qua việc làm tốt

công tác phòng ngừa tình hình tội phạm, sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi

cho các mặt công tác phòng ngừa tình hình tội phạm khác, như hỗ trợ công

tác tấn công trấn áp có hiệu quả cao, hỗ trợ công tác bảo vệ an ninh quốc gia,

trật tự xã hội tốt hơn. Đặc biệt, đối với lĩnh vực điều tra, xử lý tội phạm, làm

tốt công tác phòng ngừa, phát động quần chúng nhân dân có ý thức tham gia

đấu tranh phòng chống tội phạm, quản lý chặt chẽ các đối tượng sưu tra, xác

minh hiền nghi, chuyên án, là điều kiện phục vụ công tác điều tra vụ án nhanh

chóng, khẩn trương và đem lại hiệu quả chính xác.

Ở khía cạnh quản lý, việc nghiên cứu tình hình tội phạm được coi là

một “kênh” quản lý xã hội có hiệu quả. Thông qua hoạt động phòng ngừa tình

hình tội phạm này, các cơ quan chức năng kiểm soát được một mảng tối. Tình

hình tội phạm trong các nhóm này, góp phần duy trì trật tự xã hội. Vì vậy,

việc nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm

có ý nghĩa về mặt quản lý xã hội.

1.2 Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm

1.2.1 Các chủ thể của phòng ngừa tình hình tội phạm

Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm ở đây cần phải chia ra là lực

lượng lãnh đạo, lực lượng chỉ đạo, lực lượng chuyên trách.Những lực lượng

này phân việc ra là làm những gì, để phòng ngừa tội phạm, đối với người dân,

nhìn thấy tội phạm, thì không muốn làm chứng, cũng phải đứng ra làm

chứng,hay đứng ra tố giác tội phạm, như đối với một số loại tội như bạo hành

trẻ em, làm hàng giả như hiện nay.

Đối với người phạm tội: đôi khi người dân cũng cho rằng người phạm

tội hợp lý.

Ví dụ : kẻ trộm đột nhập vào một gia đình giầu có và có chức vụ quyền

hạn trong nhà nước hiện nay.

24

Đối khi môi trường cũng tạo ra hành vi tội phạm.

Ví dụ: một người dân lơ đãng với tài sản của mình, và tính tình thích

khoekhoang của cải trong gia đình, bị kẻ trộm lấy trộm tài sản.

Từ những yếu tố đó mà sự tham gia của các tổ chức xã hội, của các tập

thể lao động và công dân vào hoạt động phòng ngừa là một trong những luận

điểm cơ bản trong hệ thống phòng ngừa tình hình tội phạm.

Chủ thể lãnh đạo hoạt động phòng ngừa nhóm tội phạm về ma túy.

Nhómxâm phạm sở hữu: Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài

sản. Nhóm trật tự xã hội: Giết người, Gây thương tích, Đánh bạc.

Chủ thể lãnh đạo hoạt động phòng ngừa các tội phạm này tại Việt Nam

là Đảng cộng Sản Việt Nam. Với vai trò là tổ chức chính trị duy nhất lãnh đạo

xã hội( Điều 4 Hiến pháp 2013), ĐảngCộng Sản Việt Nam phòng ngừa các tội

phạm này thông qua việc định hướng phòng chống tội phạm nói chung, trong

đó có các tội phạm xâm phạmsở hữu trong từng giai đoạn, định hướng hoàn

thiện cơ cấu tổ chức các cơ quan đấu tranh phòng chống tội phạm, thông qua

các Nghị quyết của Đảng. Bên cạnh đó, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản

trong hoạt động phòng ngừa tình hình nhóm tội này còn thể hiện sự tiên

phong giữ vai trò nòng cốt trong hoạt động phòng ngừa tội phạm của các

Đảng viên.

1.2.1.1 Chủ thể lãnh đạo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm

Về cơ sở pháp lý, Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp 2013 quy định: “Đảng

Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Phòng

ngừa tình hình tội phạm là một hoạt động mang tính Nhà nước và xã hội nên

nó cũng nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với vai trò là tổ

chức chính trị lãnh đạo đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra các chủ

chương, đường lối định hướng hòng chống tình hình tội phạm nói chung theo

từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển của đất nước; từng bước hoàn thiện, cải

25

tổ bộ máy các cơ quan đấu tranh phòng chống tội phạm. Để thực hiện được

vai trò lãnh đạo của mình, ngoài việc đề ra các chủ chương, đường lối, Đảng

còn hiện thực hóa những chủ trương đường lối đó qua hoạt động cụ thể của

từng Đảng viên.

1.2.1.2 Chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm

Phòng ngừa tội phạm bao gồm rất nhiều các hoạt động khác nhau từ

khâu ban hành pháp luật cho đến khâu tổ chức thực hiện trên thực tế. Với

từng khâu cụ thể tương ứng có một hoặc một số chủ thể được giao trách

nhiệm thực hiện.

Chủ thể ban hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm

Theo Điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001, Quốc hội là cơ quan

quyền lực cao nhất, có quyền lập hiến và lập pháp do đó Quốc hội là chủ thể

có vai trò ban hành các luật điều chỉnh hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm (Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự,...). Sau khi ban

hành pháp luật, Quốc hội có vai trò kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ

quan Nhà nước, của cán bộ nhằm phòng ngừa các hành vi phạm tội. Ngoài

ra, Quốc hội còn là chủ thể thực hiện việc tuyên truyền phổ biến pháp luật,

động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản lý nhà nước. Khi

có hành vi vi phạm pháp luật, Quốc hội có quyền yêu cầu các cá nhân, cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện những biện pháp cần thiết theo quy

định của pháp luật để ngăn chặn, chấm dứt hành vi trái pháp luật đó.

Theo Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì “Hội đồng

nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”. Với quy định như

vậy thì Hội đồng nhân dân đưa ra những chủ trương, biện pháp kinh tế, xã hội

quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, hạn chế những nguyên

nhân và điều kiện phát sinh tội phạm; Quyết định các biện pháp phòng ngừa

26

tình hình tội phạm trong phạm vi địa phương mình; Kiểm tra, giám sát các cơ

quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương về công tác phòng ngừa tội phạm.

* Chủ thể triển khai, thi hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm.

Các chủ thể triển khia thi hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm

gồm Chính phủ, UBND các cấp, cơ quan hành chính nhà nước, các cơ quan

tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá nhân và công dân. Cụ thể như sau:

- Chính phủ: Xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế, xã

hội, văn hóa – giáo dục nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

nhân dân từ đó gián tiếp phòng ngừa tình hình tội phạm; Tổ chức thực hiện

các chính sách, biện pháp để củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân,

an ninh nhân dân, trật tự an toàn xã hội; Lãnh đạo hoạt động hòng chống tội

phạm quốc gia, xây dựng các chương trình quốc gia về phòng chống tội

phạm.

- Ủy ban nhân dân các cấp: Xây dựng và thực hiện các kế hoạch phát

triển kinh tế, xã hội, văn hóa – giáo dục ở địa phương mình nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần cho nhân dân từ đó gián tiếp phòng ngừa tình hình tội

phạm. Xây dựng chương trình, kế hoạch và lãnh đạo hoạt động phòng ngừa

tội phạm ở địa phương; phát động quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ an

ninh trật tự; quản lý hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng đặc biệt đối với những đối

tượng có nhân thân xấu,…

- Các cơ quan hành chính nhà nước chuyên môn: Bao gồm các Bộ, Sở,

Phòng,… từ trung ương đến địa phương. Các chủ thể này phối hợp tiến hành

hoạt động triển khai, thi hành pháp luật phòng ngừa tình hình tội phạm.

+ Các cơ quan tư pháp đưa ra sáng kiến lập pháp, tham gia vào việc xây

dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; Thông qua công tác thi hành án thực

hiện phòng ngừa tội phạm; Tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân,

nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân để họ tình nguyện tham gia vào công

27

tác phòng tội phạm; Nghiên cứu, bổ sung các lý thuyết lý luận về phòng ngừa

tình hình tội phạm.

+ Cơ quan công an là lực lượng nòng cốt trong việc bảo vệ an ninh

quốc gia và trật tự xã hội. Lực lượng công an thực hiện việc hoạch định các

chương trình phòng chống tội phạm, trực tiếp tham gia hoạt động phòng ngừa

tình hình tội phạm. Kịp thời phát hiện, điều tra, khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Hướng dẫn các chủ thể khác tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm.

+ Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp, có vai trò phối hợp với các chủ thể khác xây dựng, triển khai

các chương trình phòng ngừa tình hình tội phạm, thực hiện tuyên truyền, giáo

dục pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm, kiểm sát hoạt động điều tra

tội phạm của cơ quan công an, thực hiện truy tố người phạm tội trước pháp

luật.

+ Tòa án nhân dân thông qua hoạt động xét xử tội phạm để thực hiện

phòng ngừa chung đối với toàn xã hội và phòng ngừa riêng đối với từng đối

tượng phạm tội cụ thể. Ngoài ra, Tòa án nhân dân cũng tham gia vào hoạt

động tuyên truyền pháp luật và đóng góp, xây dựng các kế hoạch phòng ngừa

tình hình tội phạm.

+ Các tổ chức, cá nhân và công dân bao gồm các tổ chức chính trị, tổ

chức chính trị - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,… tham gia phòng ngừa tình hình

tội phạm bằng cách kiểm tra, giám sát các hoạt động của cán bộ, cơ quan; Đề

nghị các biện pháp xử lý, giải quyết tiêu cực xã hội, tổ chức thực hiện các

biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm theo chức năng, giáo dục các thành

viên của tổ chức thực hiện đúng pháp luật; Phát hiện, thông tin, tố giác tội

phạm.

28

1.2.2 Nội dung phòng ngừa tình hình tội phạm

Trong nội dung công tác phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm các

hoạt động như sau:

- Tiến hành các hoạt động phòng ngừa xã hội. Đây là hoạt động tạo ra

những biến đổi, những tác động làm biến mất những nguyên nhân và điều

kiện của tội phạm. Đây là việc các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm tiến

hành cải thiện các quan hệ xã hội, hoàn thiên hệ thống pháp luật, thực hiện

các chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa – giáo dục, giúp đỡ các thành viên

trong cộng đồng xã hội phát triển làm triệt tiêu những yếu tố tiêu cực trong

đời sống vật chất và tinh thần của con người.

- Phát hiện, xử lý tội phạm. Trung tâm của nội dung này là sự hoạt

động có hiệu quả của hệ thống các cơ quan tố tụng trong việc điều tra, khởi

tố, truy tố, xét xử, thi hành án. Trong những trường hợp tội phạm đã xảy ra

trong thực tế thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là

cần thiết. Tác dụng phòng ngừa tình hình tội phạm phát huy ngay khi áp dụng

các biện pháp ngăn chặn, tiến hành đúng các thủ tục tố tụng và áp dụng các

hình phạt hợp lý. Không thể có tính răn đe tội phạm nếu không áp dụng hình

phạt nghiêm khắc đối với những hành vi phạm tội. Việc áp dụng hình phạt là

cần thiết nhưng không phải vì thế mà lạm dụng việc áp dụng hình phạt hoặc

quyết định những hình phạt quá nặng. Hình phạt luôn phải đảm bảo phù hợp

với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì mới thể hiện được đúng chức

năng răn đe của mình.

1.2.3 Các loại biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm.

Công tác phòng ngừa tình hình tội phạm được tổ chức trên thực tế bằng

cách phối hợp nhiều biện pháp khác nhau nhằm mục đích triệt tiêu những

nguyên nhân hoặc những yếu tố xã hội tiêu cực làm nảy sinh các nguyên nhân

của việc thực hiện tội phạm. Có nhiều cách phân loại các biện pháp của công

29

tác phòng ngừa tình hình tội phạm nhưng để có cái nhìn cặn kẽ và xây dựng

hệ thống phòng ngừa tội phạm một cách hoàn chỉnh, đạt kết quả cao thì ta tìm

hiểu các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm theo nội dung của từng loại

biện pháp. Theo đó ta có những loại biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm

sau:

Biện pháp về kinh tế:

Biện pháp về kinh tế là các biện pháp tác động bằng kinh tế để khắc

phục, hạn chế và loại trừ nguyên nhân và điều kiện của các nhóm tội phạm

này. Một trong những biện pháp cơ bản để giải quyết vấn đề tội phạm trong

xã hội là biện pháp phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất của nhân

dân, giải quyết công ăn việc làm cho những người lao động, hay người dân

địa phương của huyện Gia Lâm bị nhà nước thu hồi đất ruộng hay đất ở, xóa

đói giảm nghèo trong xã hội..

Biện pháp về kinh tế là những biện pháp có tính chất về kinh tế, tác

động chủ yếu đến lĩnh vực kinh tế, làm hạn chế khả năng phát sinh nhóm tội

phạm này. Ví dụ : khu công nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm có biện pháp

cải cách tiền lương cho công nhân, nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất của con

người, tác động phòng ngừa tình hình tội phạm như nhóm xâm phạm sở hữu

hay trật tự xã hội.

Việc loại trừ nguyên nhân điều kiện của tình hình tội phạm, là một

trong những biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, nhóm tội

phạm này nói riêng, là một quá trình lâu dài, gắn liền với phát triển kinh tế -

xã hội ở địa bàn huyện Gia Lâm. Do đó, ở mỗi giai đoạn của chiến lược phát

triển cần đảm bảo hài hòa lợi ích chung của toàn thể cộng đồng, tạo sự công

bằng về cơ hội phát triển toàn diện cho các thành viên trong xã hội.

Biện pháp chính trị - tư tưởng:

30

Là biện pháp tác động vào ý thức, tư tưởng của con người, nâng cao ý

thức trách nhiệm của công dân, chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính

sách pháp luật đã đề ra, xây dựng nếp sống văn minh, đạo đức trong sạch, tự

giác tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm.

Loại biện pháp này làm hạn chế khả năng phát sinh tình hình những

nhóm tội phạm về ma túy. Nhóm xâm phạm sở hữu: Cướp giật tài sản, Cưỡng

đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản. Nhóm trật tự xã hội: Giết người, Gây thương

tích, Đánh bạc, các hoạt động phòng ngừa hướng đến phòng ngừa và khắc

phục các biến dạng phạm tội trong ý thức nhóm, trong dư luận xã hội.

Ví dụ: Trong các nhóm tội phạm này, cần tuyên truyền vận động quần

chúng nhân dân cảnh giác với tội phạm, Ma túy, nhómxâm phạm sởhữu, hay

trật tự xã hội. Giáo dục người dân có thái độ không khoan nhượng với tình

hình các nhóm tội phạm này không để dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật

khác. Khắc phục các quan điểm đạo đức không đúng đắn, hình thành tư tưởng

lệch lạc dễ phạm tội trong mỗi con người.

Biện pháp xã hội- Văn hóa- giáo dục

Không ngừng nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân. Đảm

bảo phổ cập văn hóa, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa xã hội.

Tổ chức hệ thống giáo dục rộng khắp địa bàn huyện Gia Lâm, tạo điều

kiện cho con em gia đình có điều kiện khó khăn, khó khăn về nhận thức, khó

khăn trong việc nhà nước chưa hỗ trợ đền bù thỏa đáng trong việc thu hồi đất

để những người này đến lớp đến trường.

Tổ chức các sân chơi, giao lưu tại nhà văn hóa hay tổ chức văn hóa lành

mạnh, bổ ích thu hút các tổ chức xã hội và quần chúng nhân dân cùng tham

gia. Bên cạnh việc giáo dục, tuyên truyền pháp luật cũng như tuyên truyền về

các hành vi của các nhóm tội trên cho quần chúng nhân dân được biết.

31

Những biện pháp này có tác động to lớn, lâu dài với việc hạn chế, khắc

phục vào phòng ngừa tình hình tội phạm.

Biện pháp tổ chức- quản lý:

Yêu cầu của tổ chức –quản lý xã hội là không tạo ra điều kiện thuận lợi

cho quá trình hình thành động cơ, ý thức phạm tội, không tạo sơ hở cho việc

thực hiện tội phạm. Khắc phục tình trạng quản lý lỏng lẻo hoặc thiếu quản lý

tạo điều kiện cho tội phạm được thực hiện.

Ví dụ: Đối với lực lượng Công an cần thường xuyên kiểm tra nhân

khẩu ở những khu công nghiệp, như đăng ký tạm trú, tạm trú, tạm vắng, đối

với đối tượng có tiền án, tiền sự đối tượng là nạn nhân của tội phạm về ma

túy, giết người, hay trong nhóm tội này, hỗ trợ nạn nhân trong nhóm tội này

sớm tái hòa nhập cộng đồng.

Biện pháp pháp luật:

Các biện pháp pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa

bàn huyện Gia Lâm, không chỉ có ý nghĩa nhưphương tiện sắc bén với điều

tra, truy tố, xét xử. Xử lý các vụ việc đã xảy ra, mà còn có ý nghĩa thiết thực

đối với lĩnh vực phòng ngừa tình hình tội phạm. Các quy định của Hiến pháp,

pháp luật và các văn bản pháp quy khác, tạo ra khả năng phòng ngừa tội

phạm, hướng dẫn mọi người thực hiện theo quy định chung phù hợp với lợi

ích của nhà nước, xã hội. Sử dụng biện pháp pháp luật với tính cách là biện

pháp phòng ngừa tình hình tội phạm đòi hỏi phải:

- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng Nhà nước

pháp quyền.

- Thực hiện đúng thẩm quyền của các cơ quan và những người có trách

nhiệm trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm các nhóm tội phạm

trên.

32

- Biện pháp áp dụng cho tất cả mọi người trong xã hội. Đây là các biện

pháp mang tính định hướng, tuyên truyền, giúp đỡ phù hợp điều kiện chung

của nhiều người. Ví dụ: biện pháp tổ chức dậy nghề cho người lao động, bị

nhà nước thu hồi đất Ruộng, đất thổ cư để làm đường, trường học, cơ quan

công sở,hướng nghiệp tạo việc làm cho thanh niên cơ nhỡ..

- Biện pháp phòng ngừa những người có đặc điểm nhân thân xấu, dễ

phạm vào các nhóm tội phạm này, những người tái phạm, phạm tội chuyên

nghiệp, có quan hệvới các tệ nạn xã hội…những biện pháp này đòi hỏi mức

độ sâu sắc hơn về chuyên môn nghiệp vụ. Ví dụ dậy nghề cho những người

có thời gian lầm đường lạc lối. về ma túy, hay trộm cắp tài sản.

- Biện pháp phòng ngừa đối với những người đã phạm tội ở đây. Đây là

biện pháp trách nhiệm hình sự, có tính cưỡng chế, áp dụng riêng biệt cho từng

người phạm tội trên cơ sở quy định của pháp luật.

- Biện pháp phòng ngừa đối với cán bộ công chức- viên chức trong địa

bàn huyện Gia Lâm. Những người này có điều kiện phạm tội do có quyền lực,

có quyền quản lý tài sản công. Khả năng phát hiện xử lý khó. Những biện

pháp này đòi hỏi tính chất chuyên mônnghiệp vụ cao, có cơ chế phối hợp thực

hiện giữa các cơ quan quản lý, giám sát một cách chặt chẽ. Ví dụ: đối với biện

pháp giáo dục nhận thức trong cán bộ có ý thức đẩy lùi , chống các nhóm tội

phạm trên ở trong cơ quan nơi làm việc cũng như tại địa phương là các xã

xóm, thôn góp phần xóa bỏ các tư tưởng lệch lạc có thể hình thành nhận thức

phòng ngừa tình hình tội phạm dối với nhóm tội phạm trên.

- Biện pháp phòng ngừa đối với người chưa thanh niên, Người chưa

thành niên có nguy cơ phạm tội cao như ma túy, cờ bạc, trộm cắp, do những

hạn chế về tâm sinh lý. Vì vậy biện pháp phòng ngừa cho người chưa thành

niên cần chú ý tính chất giáo dục, quản lý giúp đỡ và tránh nhữngtác động gây

tổn thương về thể chất, tinh thần đối với người chưa thành niên

33

Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể

hiện bản chất xã hội của con người đã thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy

nghiên cứu nhân thân người phạm tội cũng chính là nghiên cứu con người cụ

thể. Nhân thân của những người đã thực hiện tội phạm, là chủ thể của tội

phạm.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác lênin, nhân thân con người là một

phạm trù xã hội lịch sử. Nó là một sản phẩm của một thời đại nhất định, được

quy định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể của hiện thực xã hội. Mỗi thời đại

khác nhau sản sinh ra những mẫu người không giống nhau, song dù ở thời đại

nào thì bản chất của con người luôn luôn là “ tổng hòa các mối quan hệ xã

hội” như C. Mác đã khẳng định. Tất cả những đặc điểm, sinh lý cùng những

gì biểu hiện các quan hệ xã hộicó liên quan đến một con người, thể hiện bản

chất riêng của họ, hợp thành nhân thân của con người đó.

Dấu hiệu đặc trưng trong nhân thânngười phạm tội khác với nhân thân

con người bình thường trước hết ở chỗ, nhân thân của họ có đầy đủ các dấu

hiệu chủ thể của tội phạm theo quy định của luật hình sự. Có nghĩa rằng tại

thời điểm thực hiện tội phạm họ là những con người cụ thể đang sống, có

năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định, và đặc biệt họ đã

thực hiện hành vi phạm tội.

Việc nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng này trong nhân thân người

phạm tội nói chung, nhóm các tội phạm này nói riêng, chúng ta có cơ sở để áp

dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm sớm đối với những người

có phẩm chất cá nhân tiêu cực, có biểu hiện vi phạm đạo đức, vi phạm phạm

pháp luật, cần ngăn chặn hành vi phạm tội. Từ việc nghiên cứu nhân thân

người phạm tội, nhóm về ma túy. Nhóm xâm phạm sở hữu: Cướp giật tài sản,

Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản. Nhóm trật tự xã hội: Giết người, Gây

34

thương tích, Đánh bạc, ta thấy hầu hết những người phạm tội ở các nhóm này

đều nhắm đến nạn nhân ít hểu biết, hoặc do lợi dụng lòng tin.

Tóm lại: Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm có các nhóm

tội phạm về ma túy. Nhóm xâm phạm sở hữu là: Cướp giật tài sản, Cưỡng

đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản. Nhóm trật tự xã hội: Giết người, Gây thương

tích, Đánh bạc. Nhân thân người phạm các tội này, đều là đối tượng nghiên

cứu tội phạm học. Chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau vì nghiên cứu

nhân thân người phạm tội đều hướng mục đích cuối cùng của tội phạm học,

đó là Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm.

Kết luận Chƣơng 1

Chương 1 của luận văntrình bày những vấn đề lý luận về phòng ngừa

tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, mụcđích, ý nghĩa của phòng

ngừa tình hình tội phạm, đã nêu các chủ thể trực tiếp phòng ngừa tình hình tội

phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm cũng như mối quan hệ giữa phòng ngừa

tình hình tội phạm của từng nhóm tội, như nhóm về ma túy. Nhóm xâm phạm

sở hữu là: Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản. Nhóm trật

tự xã hội: Giết người, Gây thương tích, Đánh bạc. Trên cơ sở đó xây dựng nội

dung và các biện pháp phòng ngừa , để đánh giá mức độ và thực trạngphòng

ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm.

Việc phân tích các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm, của các

nhóm tội phạm xẩy ra trên địa bàn huyện Gia Lâm, có cơ chế phối hợp với

các chủ thể. Từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm.

Xuất phát từ bản chất của hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, hoạt

động phòng ngừa các nhóm tội, như ma túy, trật tự xã hội, hay xâm phạm sở

hữu có ý nghĩa rất quan trọng, trong việc bảo vệ con người( tính nhân đạo),

trong việc phát triển nền kinh tế và trong việc bảo đảm trật tự xã hội, nâng cao

uy tín của nhà nước, trong quan hệ đối nội và đối ngoại. Tuy hoạt động phòng

35

ngừa tình hình tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống, nhưng

không vì thế mà hoạt động này được tiến hành tùy tiện mà phải tuân theo

những nguyên tắc nhất định, đặc biệt là các nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc

dân chủ, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc cụ thể hóa. Để tiến hành hoạt động

phòng ngừa tình hình tội phạm, các chủ thể phòng ngừa phải tiến hành các

biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm, từng nhóm tội cụ thể. Thực tế các

chủ thể, phòng ngừa các nhóm tội này, thì các chủ thể triển khai, thi hànhpháp

luật phòng ngừa các tội về ma túy, tội trật tự xã hội, tội xâm phạm sở hữu

khác nhau, tùy thuộc theo tiêu chí khác nhau.

Ví dụ: phòng ngừa móm tội về ma túy với nhóm tội về xâm phạm trật

tự xã hội khác nhau. Các biện pháp phòng ngừa các nhóm tội này cũng khác

nhau.

Các biện pháp mang tính cưỡng chế, nhằm phát hiện, xử lý khi tội

phạm xẩy ra: tuy nhiên nếu căn cứ tính chất của các biện pháp tác động thì

các biện pháp này có thể được phân loại thành các biện pháp kinh tế- xã hội,

các biện pháp về văn hóa, giáo dục, tâm lý xã hội, các biện pháp về tổ chức-

quản lý xã hội, các biện pháp về pháp luật….Các vấn đề lý luận về phòng

ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, là cơ sở để chúng tôi

đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm này, trên thực tế, nâng

cáo hiệu quả, đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn

huyện Gia Lâm giai đoạn 2013- 2017.

36

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1 Phần hiện của tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm

thành phố Hà Nội

Để tiến hành nghiên cứu tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia

Lâm, tác giả đã thu thập và phân tích các số liệu thống kê từ biểu mẫu 1A của

Tòa án nhân dân tối cao các năm từ 2013 đến 2017, số liệu thống kê của Đội

tham mưu - Tổng hợp Công an huyện Gia Lâm, số liệu thống kê của Viện

kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm để có cái nhìn tổng quan về bức tranh tình

hình tội phạm trong địa bàn huyện Gia Lâm trong giai đoạn năm 2013 đến

2017. Phần hiện của tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm ở mục

này được coi là hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm.

2.1.1 Thực trạng của tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm

thành phố Hà Nội

Trên cơ sở nghiên cứu và theo số liệu thống kê tại Bảng 1 (phần phụ

lục) của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm thì tổng

số vụ án và tổng số người phạm tội về nhóm tội: về ma túy;nhóm xâm phạm

sở hữu: cướp giật tài sản, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp tài sản nhóm trật tự xã

hội: giết người, gây thương tích, đánh bạc, trên địa bàn huyện Gia Lâm trong

5 năm: có tổng cộng 991 vụ án hình sự với 1373 người phạm tội hình sự.

-Để thấy rõ hơn thực trạng tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia

Lâm giai đoạn 2013- 2017 tác giải nghiên cứu những nhóm tội phạm thực sự,

những tội phạm phổ biến được coi là tội đặc trưng của huyện Gia Lâm trong

giai đoạn 2013 -2017. Từ số liệu của Tòa án huyện Gia Lâm ta thấy, số lượng

phạm tội và số vụ phạm tội hình sự trên huyện Gia Lâm thực chất chỉ tập

trung vào một số nhóm cụ thể. Những nhóm tội có nhiều tội phạm nhất là:

37

nhóm về tội về ma túy chiếm 33%, nhóm tội về xâm phạm sở hữu chiếm

34%, nhóm tội về trật tự xã hội chiếm 30%, nhóm tội khác 3% (theo biểu 1.2

phần phụ lục). Điều này có nghĩa là công tác phòng ngừa tội phạm trên địa

bàn huyện Gia Lâm thực chất chính là phòng ngừa tội phạm thuộc các nhóm

nêu trên.

2.1.2 Diễn biến của tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm

giai đoạn 2013- 2017

Diễn biến của tình hình tội phạm là sự vận động và thay đổi của thực

trạng và cơ cấu tình hình tội phạm trong khoảng thời gian nhất định(một năm,

ba năm, mười năm). Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội nên nó

không thể thay đổi vận động và nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu, các cơ

quan chức năng đấu tranh phòng chống tội phạm là phải nắm bắt được những

thay đổi của tình hình tội phạm.

Để thấy được sự vận động và xu hướng phát triển của tình hình tội

phạm, tác giải đã tìm hiểu sự thay đổi của số vụ phạm tội và số người phạm

tội qua từng năm và tổng hợp tại biểu đồ 1.1 ( phần phụ lục)

Nhìn vào biểu đồ ta thấy trong giai đoạn 2013-2017 trên địa bàn huyện

Gia Lâm số vụ phạm tội có diễn biến hết sức phức tạp. Giai đoạn 2013- 2014

các nhóm tội có xu hướng tăng nhẹ. Đến năm 2015 số vụ phạm tội về ma túy

và trật tự xã hội giảm mạnh cho thấy chính sách hợp lý trong công tác phòng

ngừa các nhóm tội trên, trên địa bàn huyện Gia Lâm, tuy nhiên nhóm tội về

xâm phạm sở hữu vẫn diễn biến phức tạp. Từ giai đoạn 2016-2017 số vụ

phạm tội thuộc cả ba nhóm tội có xu hướng tăng trở lại, điều này cho thấy

chính sách phòng ngừa tội phạm trên thời điểm này không còn phù hợp, tạo

điều kiện cho các loại tội phạm phát triển, điều này đòi hỏi cần có những

nghiên cứu mới về tình hình tội phạm để tiến hành những biện pháp phòng

ngừa mới hợp lý hơn.

38

- Sự biến động của tình hình tội phạm tại các nhóm tội về ma túy, được

thể hiện bằng bảng số liệu “Bảng 2” và “Biểu đồ 2,1” (phần phụ lục). Theo

đó, số vụ phạm tội và số người phạm tội này, đang có diễn biến phức tạp,

trong 2 năm đầu số vụ và số người phạm tội thuộc nhóm này có tăng nhẹ.

Điều này chứng tỏ chính sách hình sự của huyện Gia Lâm trong thời gian này

chưa thực sự hợp lý, mới chỉ hạn chế được sự gia tăng của tình hình tội phạm.

Đáng chú ý, năm 2015 số người phạm tội và số vụ phạm tội giảm cho

thấy chính sách phòng chống tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Gia Lâm

có phần chuyển biến tích cực về mọi mặt của cơ quan tư pháp, về phát huy

hiệu quả về phòng chống tội phạm về nhóm ma túy. Tuy nhiên giai đoạn 2016

đến 2017, số lượng các vụ án, và số người phạm tội tăng trở lại. Điều này đòi

hỏi phải ngay lập tức xem xét lại công tác đấu tranh, phòng ngừa các loại tội

phạm này để có sự thay đổi trong phương pháp đấu tranh một cách hợp lý.

Những biện pháp mà huyện Gia Lâm đã thực hiện trong năm 2015,

2016,2017 đã không còn phù hợp trên địa bàn huyện Gia Lâm là làm giảm về

lượng của tình hình tội phạm mà thay vào đó còn khiến cho số lượng tội phạm

ngày càng tăng.

- Sự biến động của tình hình tội phạm của nhóm xâm phạm sở hữu

được thể hiện bằng bảng số liệu “Bảng 7” và “Biểu đồ 3.1” (phần phụ lục).

Từ bảng số liệu và biểu đồ về các tội phạm thuộc nhóm xâm phạm sở hữu, ít

bị biến động về số vụ và số người phạm tội, năm 2013 -2014 số vụ phạm tội

và số bị can có xu hướng giảm nhẹ. Mức độ giảm không lớn, điều này chính

sách của huyện Gia Lâm trong thời gian này chỉ hạn chế được sự gia tăng của

nhóm tội này. Năm 2015, tuy công tác phòng ngừa tình hình tội phạm đối với

các nhóm tội khác đạt được hiệu quả cao, nhưng nhóm trật tự xã hội không bị

ảnh hưởng quá nhiều về số vụ mà chỉ giảm về số bị can. Giai đoạn 2016-2017

số lượng vụ án và bị can tăng trở lại, điều này cho thấy, công tác đấu tranh

39

phòng ngừa tình hình tội phạm đối với nhóm tội này còn lơ là, chủ quan. Các

cơ quan tư pháp chưa thực sự vào cuộc. Đòi hỏi phải ngay lập tức công tác

đấu tranh phòng ngừa nhóm tội phạm này một cách hợp lý, để đạt được hiệu

quả cao.

- Sự biến động của tình hình tội phạm tại các nhóm tội về trật tự xã hội,

được thể hiện bằng bảng số liệu “Bảng 4” và “Biểu đồ 4.1” (phần phụ lục).

Theo đó, số vụ phạm tội và số người phạm tội này, đang có diễn biến phức

tạp, trong 2 năm đầu số vụ và số người phạm tội thuộc nhóm này có tăng nhẹ.

Điều này chứng tỏ chính sách hình sự của huyện Gia Lâm trong thời gian này

chưa thực sự hợp lý, mới chỉ hạn chế được sự gia tăng của tình hình tội phạm.

Đáng chú ý, năm 2015 số người phạm tội và số vụ phạm tội giảm cho

thấy chính sách phòng chống tội phạm về trật tự xã hội trên địa bàn huyện Gia

Lâm có phần chuyển biến tích cực về mọi mặt của cơ quan tư pháp, về phát

huy hiệu quả về phòng chống tội phạm về trật tự xã hội. Tuy nhiên giai đoạn

2016 đến 2017, số lượng các vụ án, và số người phạm tội có xu hướng tăng

trở lại. Điều này cho thấy những biện pháp phòng chống tội phạm trên địa bàn

huyện Gia Lâm thuộc các nhóm tội nói chung và nhóm tội xâm phạm sở hữu

nói riêng trong năm 2015 là rất hiệu quả, tuy nhiên nó đang dần bộc lộ những

điểm yếu kém, tạo điều kiện để các nhóm tội có điều kiện tăng trở lại và ngày

càng khó kiểm soát hơn.

2.1.3 Cơ cấu của tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm

thành phố Hà Nội

Để làm rõ hơn tính chất của tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia

Lâm giai đoạn 2013 – 2017, tác giả nghiên cứu một số cơ cấu của tội phạm

theo những tiêu chí được phân loại thống kê của Tòa án nhân dân huyện Gia

Lâm. Việc làm rõ được tính chất của tình hình tội phạm cho ta thấy được bản

40

chất của tội phạm và từ đó đưa ra những biện pháp phòng ngừa và đấu tranh

hợp lý.

2.1.3.1 Cơ cấu của tội phạm theo giới tính của người phạm tội

Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm thì trên địa

bàn của huyện trong giai đoạn 2013 – 2017 số lượng tội phạm là nữ chiếm từ

15% tùy theo từng năm, trên tổng số 1373 người phạm tội chỉ có khoảng 205

người là nữ, còn lại 1168 người phạm tội là nam giới. Với số lượng người

phạm tội là nữ ít hơn nhiều so với số người phạm tội là nam giới (số người

phạm tội là nữ chỉ bằng 15% số người phạm tội là nam) thì có thể khẳng định

tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm trong giai đoạn 2013-2017 chủ yếu là

nam giới.

Việc xác định được giới tính chủ yếu của những người phạm tội giúp

cho người nghiên cứu và người vạch định chính sách, cũng như việc tuyên

truyền cảnh báo người dân chính xác hơn. Người dân từ đó tự có tinh thần

cảnh giác đối với những đối tượng xung quanh mình khi tham gia vào những

quan hệ xã hội.

2.1.3.2 Cơ cấu của tội phạm theo độ tuổi.

Theo kết quả nghiên cứu số liệu thống kê của Tòa án nhân dân huyện

Gia Lâm các năm từ 2013, 2014,2015,2016, 2017, thì trên địa bàn huyện Gia

Lâm trong giai đoạn này tác giả nhận thấy số người phạm tội trên địa bàn

huyện Gia Lâm có độ tuổi từ 18 đến 60 tuổi. Số lượng người phạm tội thuộc

nhóm tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi rất thấp (trung bình mỗi năm chỉ có khoảng

từ 5-10 người phạm tội thuộc trường hợp này). Theo quan điểm của tác giả

đây chưa hẳn là con số chính xác về số lượng những cá nhân từ 14 – 16 tuổi

thực hiện hành vi phạm tội, do đặc điểm của độ tuổi này chỉ phải chịu trách

nhiệm hình sự với tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng do cố ý

nên số liệu trên hợp lý vì với các nhóm tội phạm phổ biến của người phạm tội

41

trong địa bàn huyện Gia Lâm đã phân tích ở trên thì không tội nào có tính

chất nguy hiểm cho xã hội quá lớn. Số liệu trên chưa phản ánh được hoàn

toàn bức tranh về tình hình tội phạm. Vẫn có một số lượng cá nhân từ 14-16

tuổi đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự do

chính sách hình sự đặc biệt của nhà nước đối với những người chưa thành

niên phạm tội.

2.1.3.3 Cơ cấu của tội phạm theo trình độ văn hóa của người phạm tội

Đối với cơ cấu này, tác giả tổng hợp từ báo cáo tổng kết công tác từng

năm của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm giai đoạn 2013-

2017, tác giả tổng hợp có khoảng 30%-40% số người phạm tội có trình độ

Trung học phổ thông; số người phạm tội có trình độ Đại học và trên Đại học

có phạm tội nhưng rất thấp, những người phạm tội chủ yếu có trình độ Trung

học cơ sở. Đây là con số hợp lý vì đặc điểm địa bàn của huyện Gia Lâm là

vùng tập chung khu công nghiệp, 02 làng nghề, những người sống ở đây

thường là dân lao động và từ các vùng miền khác nhau đến Hà Nội tìm việc

làm, nên về trình độ văn hóa của người phạm tội không cao là điều dễ hiểu.

Đây cũng là con số hợp lý nếu đối chiếu với các loại tội phạm phổ biến được

thực hiện trên địa bàn huyện Gia Lâm là phạm các nhóm tội: nhóm về ma túy,

nhóm trật tự xã hội, nhóm phạm tội sở hữu.

2.1.3.4 Cơ cấu của tội phạm theo tiêu chí nghề nghiệp của người

phạm tội

Qua nghiên cứu báo cáo tổng kết công tác từng năm của ngành kiểm sát

nhân dân huyện Gia Lâm giai đoạn 2013-2017 theo tiêu chí nghề nghiệp của

người phạm tội tác giả nhận thấy người phạm tội chủ yếu là người làm nghề

lao động tự do, nghề lao động theo thời vụ hoặc không có nghề nghiệp.

Từ việc nghiên cứu cơ cấu người phạm tội theo trình độ văn hóa và

nghề nghiệp của người phạm tội, thấy được một điều rằng: việc không có việc

42

làm ổn định, không có nguồn thu nhập để nuôi sống bản thân chính là một

trong những lý do lớn dẫn đến việc phát sinh tội phạm trên địa bàn huyện Gia

Lâm giai đoạn 2013-2017.

2.1.4 Phần ẩn của tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm

thành phố Hà Nội

Qua nghiên cứu bản án, đồng thời hàng tháng, cán bộ cảnh sát khu vực

và cán bộ công án xã có báo cáo. Khi tìm hiểu về tình hình tội phạm, ngoài

nghiên cứu về tội phạm rõ các nhà tội phạm học luôn quan tâm đến vấn đề tội

phạm ẩn, nhiều quan điểm cho rằng số liệu về tội phạm rõ chỉ là “phần nổi

của tảng băng chìm”, còn tội phạm ẩn mới là phần chiếm đa số. Việc xác định

các con số về tội phạm ẩn là vô cùng quan trọng vì phải có được nó ta mới thể

hiện được đầy đủ bức tranh về tình hình tội phạm. Những số liệu thống kê về

tội phạm rõ chỉ thể hiện được phần nào bức tranh về tình hình tội phạm.

Trong một số trường hợp hành vi cấu thành tội phạm đã được thực hiện

nhưng cơ quan chức năng không có thông tin gì về chúng. Điều này có thể

xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như cơ quan chức năng lơ là, tắc

trách; nạn nhân hoặc những người có thông tin về hành vi phạm tội không

thông báo cho cơ quan chức năng hoặc có thông báo nhưng do hành vi phạm

tội của kẻ phạm tội quá tinh vi khiến cho cơ quan chức năng không thể xử lý

được.

Để nghiên cứu tội phạm ẩn, các nhà tội phạm học thường sử dụng hai

phương pháp là phương pháp nghiên cứu nạn nhân của tội phạm và phương

pháp nghiên cứu tội phạm tự tường thuật. Phương pháp thứ nhất người nghiên

cứu xây dựng bảng hỏi (hoặc trực tiếp phỏng vấn) rồi phát cho những người

trong phạm vi nghiên cứu (có thể là cư dân trong một khu phố, một quận, một

thành phố….). Với phương pháp thứ hai người nghiên cứu cũng xây dựng

43

bảng hỏi và phát cho những người phạm tội để họ tự tường thuật lại hành vi

phạm tội theo định hướng của câu hỏi mà nhà nghiên cứu đưa ra.

Một lợi thế nữa của việc sử dụng phương pháp nghiên cứu nạn nhân là

ta có thể khai thác được những trường hợp có tội phạm xảy ra nhưng nạn

nhân không đi trình báo cơ quan công an. Mặc dù việc tiến hành các phương

pháp này là cần thiết để khắc họa bức tranh về tội phạm nhưng trong khuôn

khổ luận văn này tác giả không có đủ các nguồn lực cần thiết để thực hiện các

cuộc điều tra dạng này.

2.2 Thực tiễn phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện

Gia Lâm thành phố Hà Nội

Trong khoảng thời gian từ năm 2013 - 2017, công tác phòng ngừa tình

hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm luôn được cả hệ thống chính trị,

các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức xã hội, công dân quan tâm, thực hiện.

Những cơ quan, tổ chức, cá nhân đã cố gắng thực hiện tốt vai trò của mình

trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm đặc biệt là những chủ thể

chuyên trách phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.

2.2.1 Thực trạng về chủ thể trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ

phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm

Trong giai đoạn 2013 – 2017, các chủ thể trực tiếp thực hiện chức năng,

nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm đã tổ

chức thực hiện rất nhiều những chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của

Nhà nước, cụ thể như sau

- Ngày 25/10/2013, Ban chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành

Nghị quyêt số 28-NQ/TW về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới;

- Ngày 22/6/2015, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự

trong tình hình mới;

44

- Huyện ủy Gia Lâm tích cực thực hiện Chương trình 05 của Thành ủy

Hà Nội về tăng cường quốc phòng – an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội

trong tình hình mới giai đoạn 2016-2021..

Công tác tham mưu của đơn vị công an cho huyện ủy, UBND huyện

ban hành kế hoạch để cụ thể hóa các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước

và thành phố, tiêu biểu là Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 về việc tăng

cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng chống tội

phạm trong tình hình mới; Kế hoạch 06-KH/HU ngày 6/10/2015 của huyện

ủy Gia Lâm về việc thực hiện chỉ thị số 46-CT/TW; Chỉ thị số 33-CT/HU

ngày 13/1/2015 của huyện ủy huyện Gia Lâm về tăng cường lãnh đạo công

tác đảm bảo an ninh trật tự năm 2015; Kế hoạch của UBND huyện về triển

khai đợt cao điểm đảm bản an ninh trật tự năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017;

Kế hoạch số 05, 12, 49 về đấu tranh chống buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng

giả, vi phạm sở hữu trí tuệ, tham nhũng; Kế hoạch 72 ngày 21/4/2015 về

phòng chống tội phạm mua bán người; Kế hoạch 74 ngày 22/4/2015 về đấu

tranh phòng chống tội phạm trộm cắp tài sản. Năm 2015, tổ chức sơ kết 2

năm thực hiện kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nắm tình

hình về an ninh chính trị trong tình hình mới. Công an huyện Gia Lâm tham

gia kiểm tra tuyến giao thông các tỉnh phía bắc và phía tây, con đường huyết

mạch về Hà Nội do công an thành phố Hà Nội chủ trì phát hiện nhiều sai

phạm trong việc thực hiện vận chuyển hàng hóa bằng xe khách; Triển khai kế

hoạch phòng ngừa giải quyết hoạt động tập trung đông người, tuần hành trái

pháp luật; Kế hoạch phòng, chống tội phạm cướp, cướp giật tài sản; Kế hoạch

triển khai tháng vệ sinh an toàn thực phẩm; Triển khai các biện pháp công tác

phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động của các đối tượng chính trị, không để

các đối tượng trên tham gia hoặc kích động lôi kéo người tham gia biểu tình,

tuần hành trái pháp luật; Kiểm tra, xử lý những cơ sở tẩm quất massage trá

45

hình, cơ sở kinh doanh có điều kiện vi phạm; Phối hợp với các trường học tổ

chức tuyên truyền công tác phòng chống bạo lực học đường và phòng ngừa

tội phạm cho học sinh, sinh viên; Tổ chức hội nghị tuyên truyền về phương

thức, thủ đoạn và công tác phòng ngừa, phối hợp với đoàn thể, khu dân cư

vận động các đối tượng ngáo đá đi cai nghiện tự nguyện; Tổ chức tuyên

truyền vận động quần chúng nhân dân tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an

ninh tổ quốc.

Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm. Tham gia vào các đội tuyên

truyền pháp luật của huyện ủy, tham gia giảng dạy thực tế về các quy định

của pháp luật ở một số trường học, trung tâm giáo dục thường xuyên, trường

đại học và cao đẳng, trên địa bàn,

Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm ngoài thực hiện công tác chuyên môn

là xét xử có đóng góp vào công tác phòng ngừa tội phạm. Bằng chức năng

xét xử, thông qua các phiên Tòa đã xét xử lưu động tại các xã và thị trấn.

Bộ tư pháp trong giai đoạn 2013 -2017 ngoài việc ban hành các chính

sách về tuyên truyền phổ biến pháp luật thì Bộ đã trình Quốc hội ban hành Bộ

luật hình sự Việt Nam năm 2015 và đã được thông qua và có hiệu lực kể từ

ngày 01/01/2018, đây là bước tiến mới mở ra một thời kỳ mới của các chính

sách hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, do còn tồn tại một số lỗi nên Bộ Tư pháp

đang tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung và xây dựng các Nghị định để

giải thích, hướng dẫn áp dụng những quy định của Bộ luật Hình sự mới.

Phòng tư pháp huyện Gia Lâm tiến hành nhiều những chương trình tuyên

truyền và phổ biến pháp luật chủ yếu thông qua các buổi họp tổ dân phố ngoài

ra có kết hợp với việc tuyên truyền qua hệ thống loa phát thanh.

2.2.2. Thực trạng về quan hệ phối hợp giữa các chủ thể phòng ngừa

tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm giai đoạn 2013 – 2017

- Trong hoạt động phối hợp giữa các chủ thể tuyên truyền phòng ngừa

46

tình hình tội phạm: Trong giai đoạn 2013 – 2017, huyện Ủy, UBND huyện

Gia Lâm đã thường xuyên chỉ đạo cho các cơ quan chuyên trách như Phòng

Tư pháp, đội hình sự huyện, Viện kiểm sát nhân dân huyện, Phòng Giáo dục

và đào tạo, Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn Thanh niên,... xây dựng các chương

trình giáo dục, tuyên truyền phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn

huyện. Tuy nhiên do đặc điểm của huyện Gia Lâm là nơi tập trung công nhân

của khu công nghiệp, là vùng cửa ngõ Hà Nội để đi các tỉnh phía Đông nên

việc tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng của

huyện vào những khung giờ nhiều người chú ý lại chủ yếu là về vấn đề giao

thông. Những thông tin tuyên truyền liên quan đến việc phòng ngừa tội phạm

chủ yếu thực hiện dưới hình thức giáo dục, báo cáo thực tế đến từng khu dân

cư.

Phòng Tư pháp huyện Gia Lâm thực hiện chương trình giáo dục và phổ

biến pháp luật với mục tiêu phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn

huyện. Phối hợp tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân những nội

dung cơ bản, chủ yếu của các văn bản Luật đã được Quốc hội thông qua có

liên quan đến việc phòng ngừa tình hình tội phạm. Thông qua các đợt tuyên

truyền, pháp luật tại tổ dân phố, các buổi báo cáo thực tế lồng ghép công tác

phổ biến tình hình, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm

trên địa bàn và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm đến từng cán bộ,

Đảng viên, Đoàn viên và nhân dân nhằm nâng cao cảnh giác và ý thức trách

nhiệm của từng người dân trong việc tham gia phát hiện, tố giác tội phạm, tạo

sức mạnh tổng hợp tấn công tội phạm.

Công an huyện Gia Lâm thường xuyên thực hiện chế độ thông tin, báo

cáo với Công an thành phố Hà Nội để giải quyết những vụ việc thuộc thẩm

quyền của mình. Đối với Bộ công an, Công an huyện Gia Lâm có sự phối hợp

chặt chẽ với các Cục nghiệp vụ đặc biệt là Cục quản lý xuất nhập cảnh để tiến

47

hành quản lý, theo dõi những đối tượng hình sự hoạt động trên địa bàn.

Trong quan hệ với các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã

hội, Ban chỉ huy Quân sự huyện thực hiện công tác chuyển hóa địa bàn phức

tạp về trật tự xã hội. Chủ động xây dựng phối hợp tấn công trấn áp tội phạm

bảo vệ an ninh, an toàn những ngày Lễ, Tết và các sự kiện chính trị quan

trọng diễn ra trên địa bàn huyện.

Công an huyện Gia Lâm trong giai đoạn này chủ yếu chỉ phối hợp với

Viện kiểm sát nhân dân huyện và Tòa án nhân dân huyện để thực hiện nhiệm

vụ chống tội phạm, xử lý tin báo và xem xét khởi tố vụ án, đẩy nhanh tiến độ

điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xảy ra trên địa bàn; giữa cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát, mở những cuộc họp liên ngành, hoặc hai ngành nhằm tháo gỡ

những vướng mắc trong quá trình tố tụng liên quan đến các vụ án hình sự.

Nội dung thường xuyên được trao đổi giữa ba cơ quan chính là việc đánh giá

tình hình tội phạm bị phát hiện, xét xử, tìm ra nguyên nhân và điều kiện làm

phát sinh tội phạm, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc phòng

ngừa tình hình tội phạm theo chức năng hoạt động của từng chủ thể. Ngoài ra,

riêng cơ quan điều tra và cơ quan Viện kiểm sát còn thực hiện phối hợp mở

các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm.

Công an huyện triệt để phối hợp với các Đoàn kiểm tra liên ngành trong

việc kiểm tra những cơ sở kinh doanh có điều kiện như Karaoke, quán bar, vũ

trường, nhà nghỉ,...

Có một thực tế rằng công tác phòng ngừa tình hình tội phạm cần rất

nhiều nguồn lực về vật chất và con người của toàn xã hội, với điều kiện của

đất nước ta hiện nay và điều kiện của huyện Gia Lâm nói riêng thì việc đấu

tranh một cách dàn trải không có trọng tâm thì sẽ gây thất thoát, lãng phí mà

không đạt được những kết quả cần thiết của công tác phòng ngừa. Chính vì

48

thế, theo ý kiến của tác giả, việc tìm ra được những tội phạm đặc trưng của

địa bàn huyện Gia Lâm có ý nghĩa rất lớn trong công tác phòng ngừa thực tế.

2.2.3 Những ưu điểm và hạn chế trong phòng ngừa tình hình tội

phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội

2.2.3.1. Những ưu điểm trong phòng ngừa tình hình tội phạm trên

địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội

Trong khoảng thời gian 2013-2017, các lực lượng bảo vệ, các cơ quan

chuyên trách thực hiện việc đấu tranh, phòng chống tội phạm của huyện Gia

Lâm đã bám sát và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chỉ thị,

nghị quyết, chương trình, kế hoạch của Đảng, Nhà nước, Bộ công an, Công

an thành phố Hà Nội, Huyện ủy, UBND huyện. Vận dụng sáng tạo, triển khai

phù hợp với các đặc điểm, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Kịp thời tham

mưu cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết ổn định các tình hình phức tạp

liên quan tới an ninh quốc gia và đảm bảo trật tự an toàn xã hội tại địa

phương.

Đảm bảo ổn định an ninh quốc gia, đấu tranh, vô hiệu hóa các hoạt

động chống phá của các thế lực thù địch, các đối tượng cơ hội chính trị, các

vấn đề phức tạp khi quản lý người nước ngoài, tôn giáo, nông thôn – đô thị.

Công tác quản lý nhà nước về trật tự xã hội được duy trì, đã triển khai

nhiều biện pháp, giải pháp quản lý cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm có

điều kiện về an ninh, trật tự, đã tổ chức kiểm tra, phát hiện và kiên quyết xử lý

các cơ sở vi phạm; thực hiện có hiệu quả các chuyên đề về cải cách hành

chính, qua công tác của Bộ công an về công tác cải cách hành chính. Tham

mưu các biện pháp tuyên truyền, nâng cao ý thức thực hiện pháp luật đối với

người dân đặc biệt là học sinh, sinh viên.

Tổ chức nhiều mô hình, chuyên đề về phong trào toàn dân bảo vệ an

ninh tổ quốc được triểu khai, nhân rộng; từ đó, ý thức cảnh giác, tự bảo vệ tài

49

sản của nhân dân tăng lên. Chủ động tham mưu ban chỉ đạo 138 huyện ủy Gia

Lâm xây dựng và tổ chức Hội nghị triển khai mô hình cụm liên kết an ninh

trật tự và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc trên địa bàn

huyện.

2.2.3.2 Những hạn chế trong công tác phòng ngừa tình hình tội

phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội

Do ảnh hưởng của sự khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh tế trong

nước trong giai đoạn 2013-2017 cũng gặp rất nhiều khó khăn. Kinh phí quốc

gia và thành phố được ưu tiên tập trung vào việc xây dựng và phát triển cơ sở

hạ tầng, cơ sở kinh tế nhằm khôi phục tình trạng khủng hoảng chung. Nguồn

kinh phí phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm rất hạn chế trong

khi các mục tiêu chương trình đặt ra không có sự thay đổi phù hợp với từng

giai đoạn. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc hoàn thành các chỉ tiêu đặt

ra, đồng thời làm giảm hiệu quả việc thực hiện các đề án, dự án trên địa bàn.

Số vụ phạm pháp hình sự mang tính trọng án không có dấu hiệu giảm

mà còn tăng nhẹ trong năm 2015 và 2016, nằm ở nhóm tội ma túy và trật tự

xã hội. Điều này cho thấy tuy đã hạn chế được số lượng tội phạm nói chung

nhưng mức độ nghiêm trọng của tội phạm trên địa bàn huyện lại tăng lên.

Một số mặt công tác phòng ngừa đạt được thấp như: đưa đối tượng đi

cai nghiện bắt buộc, đi cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng. Nguyên nhân là do

áp dụng Luật xử lý vi phạm hành chính từ 01/01/2014, các văn bản dưới luật

hướng dẫn thi hành và thực hiện chưa đầy đủ nên còn nhiều vướng mắc khi

thực hiện.

Sự chỉ đạo giữa các cấp, các ngành còn thiếu đồng bộ, nhất quán, chủ

yếu tập trung vào các lực lượng chuyên trách trong đấu tranh phòng, chống

tội phạm, chưa tạo được sự đồng bộ nên tình hình tội phạm vẫn diễn biến

50

phức tạp. Mức độ quan tâm, phối hợp của một số ban ngành còn hời hợt, chưa

thực sự phối hợp chặt chẽ, tích cực để hoàn thành mục tiêu chung.

Công tác tuyên truyền, vận động phối hợp giữa các ban ngành, đoàn

thể, giữa các tầng lớp nhân dân, học sinh và sinh viên còn hạn chế cho nên

thiếu đi sự thống nhất trong việc huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ

thống chính trị vào công tác đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp

luật hình sự.

Công tác nắm và dự báo đánh giá tình hình và chế độ phối hợp, thông

tin, báo cáo của các đơn vị đôi khi còn chưa đầy đủ, kịp thời ảnh hưởng đến

công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của lãnh đạo các cấp, các

ngành. Công tác điều tra cơ bản, nắm tình hình địa bàn, công tác quản lý đối

tượng chưa hiệu quả.

Công tác tuần tra, mật phục có nơi, có lúc mang tính hình thức; công

tác tuyên truyền về phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm chưa

thường xuyên; bên cạnh đó ý thức bảo vệ tài sản của người dân còn hạn chế,

do vậy, một số loại tội xâm phạm sở hữu như: cướp giật, trộm cắp tài sản,

nhất là trộm cắp xe máy, trộm cắp vào ban đêm, diễn ra hết sức phức tạp,

chiếm tỷ lệ cao trong số vụ phạm pháp, nhưng chưa có biện pháp phòng ngừa,

ngăn chặn kịp thời.

Một số xã đăng ký, xây dựng mô hình Tự phòng – Tự quản chưa sát với

thực tế, chưa thu hút được sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân.

Chưa có những biện pháp quản lý, đấu tranh, phòng ngừa hợp lý đối

với các khu nhà xưởng của khu công nghiệp, nhà ở nơi sinh viên, công nhân

thuê trọ, gây ra nhiều hiện tượng phức tạp về an ninh trật tự của địa bàn. Do

lực lượng còn mỏng, địa bàn một số xã như: xã Ninh Hiệp, thị Trấn Yên Viên

nhiều bất cập nên có nhiều điểm bất thường chưa được giải quyết một cách

kịp thời.

51

Công tác cán bộ của tất cả các cơ quan còn yếu, lực lượng mỏng không

thể đáp ứng đủ nhu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Trình

độ chuyên môn của đội ngũ báo cáo viên pháp luật không đồng đều, những

người có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm thường kiêm nhiệm vị trí lãnh đạo,

không có nhiều thời gian để tham gia báo cáo thực tế. Số lượng cán bộ trong

ngành Tòa án và Viện kiểm sát là quá ít, nhưng lượng công việc giao là lớn,

đặc biệt công tác cán bộ không ổn định, thường xuyên có sự luân chuyển cán

bộ đi các cơ quan khác ảnh hưởng đến chất lượng của công tác chuyên môn.

Cán bộ công an trực tiếp đấu tranh với tội phạm hình sự là đội hình sự của

Công an huyện hiện tại số lượng trinh sát được đào tạo so đến nay chưa bắt

kịp với loại án về công nghệ cao.

Việc tuyên truyền kiến thức pháp luật, giáo dục pháp luật của các cơ

quan tiến hành rời rạc không có sự liên kết với nhau tạo ra hiện tượng thiếu

đồng bộ và không thu hút được sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân

dân, cán bộ, Đảng viên. Các buổi tuyên truyền, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ

còn mang nặng lý thuyết, ứng dụng vào thực tế địa bàn chưa thực sự phù hợp

dẫn đến hiệu quả phòng ngừa chưa cao ở một số loại tội phạm cụ thể.

Hạn chế trong việc phối hợp hoạt động của các cơ quan tiến hành tố

tụng liên quan đến nghiệp vụ điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Còn tồn tại

tình trạng hồ sơ để quá thời hạn làm chậm quá trình tiến hành tố tụng ảnh

hưởng đến chức năng phòng ngừa xã hội.

Kết luận chƣơng 2

Trong chương 2 tác giả đã khái quát được các kết quả đã đạt được và

những hạn chế trong việc nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trên

địa bàn huyện Gia Lâm. Về các kết quả đã đạt được điểm nổi bật, có thể thấy

phòng ngừa đã tập trung vào các hoạt động phát triển kinh tế xã hội, chăm no

đời sống của nhân dân không thực hiện vi phạm pháp luật. Bên cạnh các biện

52

pháp về kinh tễ xã hội, các biện pháp về văn hóa, giáo dục, cũng được các chủ

thể phòng ngừa tình hình tội phạm chú trọng. Đó là hoạt động tuyên truyền,

phổ biến pháp luật, hoạt động nâng cao trình độ học vấn, tạo điều kiện cho

việc hình thành ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật của mỗi người dân. Kết

quả của hoạt động ngăn ngừa trước không để cho tội phạm xẩy ra còn thể hiện

ở việc tăng cường quản lý các đối tượng có nguy cơ phạm tội cao như người

có tiền án, tiền sự, người nghiện ma túy, người chưa thành niên bỏ học

sớm….Song song với những hoạt động ngăn ngừa trước, các chủ thể phòng

ngừa còn kiên quyết trong việc phát hiện, xử lý tội phạm, tiến hành tuần tra

kịp thời phát hiện, giải quyết nhanh chóng các tin tố giác tội phạm, tiến hành

tuần tra kịp thời phát hiện, giải quyết nhanh chóng các tin tố giác tội phạm từ

quần chúng nhân dân, tiến hành khởi tố truy tố, xét xử theo quy định của pháp

luật.

Tuy những vụ việc đã được khởi tố, truy tố, xét xử đã đạt được một số

kết quả nhất định, nhìn chung hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm chưa

cao. Nguyên nhân hạn chế của các cơ quan tiến hành tố tụng xuất phát từ

thiếu sót chủ động của các chủ thể trong việc hoạch định các chương trình

phòng ngừa, sự không thường xuyên trong hoạt động tổ chức, quản lý,sự

thiếu hợp tác của quần chúng trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm.

Bên cạnh đó, cũng phải thừa nhận rằng, tác động của tình hình tội phạm trong

phạm vi thành phố Hà Nội sau khi được mở rộng địa giới hành chính từ năm

2008 đến nay và tình hình tội phạm trong phạm vi cả nước, cũng ảnh hưởng

không nhỏ đến tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm.

Từ những kết quả đạt được từ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, nguyên nhân

và hạn chế nêu trên, từ đó làm tăng cường hiệu quả công tác của tình hình tội

phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm trong thời gian tới.

53

CHƢƠNG 3

CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƢỜNG

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN GIA LÂM THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI

Việc phân tích tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm giai đoạn

2013 - 2017 tại chương 2 của luận văn này đặt ra cho công tác phòng ngừa tội

phạm nhiều vấn đề trong đó có vấn đề tang cường nhận thức lý luận và thực

tiễn tình hình tội phạm, vấn đề hoàn thiện pháp luật, vấn đề hoàn thiện các

giải pháp phòng ngừa khác

Chỉ khi tiến hành trong một tổng thể các giải pháp thì mới có thể có

hiệu quả, không thể quá tập trung vào giải pháp này mà bỏ ngỏ, không thực

hiện các giải pháp khác nên tác giả đưa ra nhóm giải pháp như sau:

3.1 Tăng cƣờng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trên

địa bàn huyện Gia Lâm

Cầnhoàn thiện cơ sở lý luận về công tác phòng ngừa tình hình tội phạm

trên địa bàn huyện Gia Lâm là yêu cầu cấp thiết cần được hoàn thiện trong

thời gian tới. Đây là cơ sở nền tảng quan trọng để xây dựng những chính sách

hình sự hợp lý, hoàn thiện hệ thống các cơ quan chuyên trách, bán chuyên

trách và các cơ quan phối hợp trong việc phòng ngừa tình hình tội phạm. Hệ

thống các cơ quan này phải có nguồn nhân lực là những người được đào tạo

chuyên ngành về Tội phạm học, có trình độ lý luận, khả năng nghiên cứu và

khả năng trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm. Đây chính là những con

người then chốt trong hoạt động nghiên cứu khoa học, xây dựng hệ thống lý

luận phòng ngừa tình hình tội phạm, tham mưu cho huyện ủy, UBND huyện

Gia Lâm những giải pháp, chính sách hợp lý để tổ chức triển khai, áp dụng

thực tế trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm.

54

Hoàn thiện những cơ sở pháp lý của hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm, chính quyền huyện nghiên cứu ban hành các chương trình phòng ngừa

tội phạm riêng cụ thể phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội trong từng giai

đoạn; kịp thời xây dựng, ban hành những văn bản hướng dẫn xử lý những

vướng mắc về mặt pháp lý liên quan đến hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm.

Có chính sách nâng cao trình độ các chủ thể của công tác phòng ngừa

tình hình tội phạm, tạo điều kiện cho nguồn nhân lực này phát triển, thường

xuyên tổ chức giao lưu kinh nghiệm, cử cán bộ đi thực tế, học hỏi các chính

sách phòng ngừa tình hình tội phạm ở các khu vực khác. Xây dựng hệ thống

nhận thức lý luận phòng ngừa tình hình tội phạm phù hợp với các đặc điểm về

kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện mình.

Cần thu hút hơn nữa sự tham gia phòng chống tội phạm của cộng đồng

dân cư, tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức về sự nguy hiểm của tội

phạm nói chung đối với chính bản thân từng cá nhân và với toàn xã hội; đề

nghị nhân dân tăng cường cảnh giác, tố cáo tội phạm, không cho tội phạm có

môi trường ẩn náu và hoạt động. Tạo ra môi trường sống chung lành mạnh

trên địa bàn huyện.

3.2 Tăng cƣờng biện pháp kinh tế - xã hội

Biện pháp kinh tế - xã hội là một trong những biện pháp phòng ngừa

chung hướng đến việc khắc phục hoặc làm mất hiệu lực các nguyên nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm nói chung. Để làm được điều đó cần phải có

sựphối hợp của nhiều ngành, nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Phòng ngừa

chung tốt tức là công tác phòng ngừa tội phạm của xã hội tốt, tạo ra một môi

trường xã hội trong sạch, có khả năng tự chống lại, tự đào thải những hành vi

xấu, những hành vi phạm tội ra khỏi đời sống xã hội. Nếu coi xã hội như một

cơ thể sống thì công tác phòng ngừa chung giúp cho cả cơ thể trở nên khỏe

55

mạnh và tự nó sẽ chống trả lại hoặc miễn nhiễm với các ảnh hưởng tiêu cực

(tội phạm).

Nhìn chung các vấn đề liên quan đến kinh tế xã hội như sự nghèo đói,

hoàn cảnh gia đình khó khăn, thu nhập không ổn định, thu nhập không đủ

nuôi sống bản thân gia đình, sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp trong

xã hội rõ rệt,… luôn luôn là nguyên nhân và điều kiện của nhiều tội phạm

trong các nhóm tội phạm kể trên.

Cho nên, việc xây dựng và hoàn thiện các biện pháp kinh tế - xã hội là

một trong những giải pháp cơ bản lâu dài nhằm hạn chế nguồn gốc phát sinh

của các loại tội phạm, nhóm tội phạm. Biện pháp kinh tế nhằm bảo đảm nhu

cầu sống, nâng cao chất lượng sống cho người dân bảo đảm các phúc lợi xã

hội an sinh cho người dân, từ đó hạn chế và đẩy lùi những nhân tố tiêu cực là

nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm. Luận văn đề xuất một số nội

dung cần chú ý khi thực hiệnbiện pháp kinh tế như sau:

Thứ nhất: Phát triển các thành phần kinh tế, cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nước, nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất – kinh doanh; phát triển các

ngành công nghiệp, dịch vụ, làng nghề; thu hút vốn đầu tư vào huyện Gia

Lâm bằng các chính sách ưu đãi về vốn, thuế phí, cải cách các thủ tục hành

chính tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong khu chế xuất, các công ty tư

nhân, hộ kinh doanh vừa và nhỏ vay vốn được dễ dàng, tạo điều kiện cho

doanh nghiệp duy trì hoạt động và phát triển, mở rộng quy mô sản xuất

Thứ hai: giải quyết việc làm cho người lao động, tạo điều kiện cho

người lao động trên địa bàn có việc làm. Nhất là những lao động mà nhà nước

đã thu hồi đất, đất phần trăm, đất thổ cư. Để thực hiện điều này, trong khi dân

nhập cư từ các tỉnh khác vào huyện ngày càng tăng cần có chính sách khuyến

khích các doanh nghiệp công ty thành lập trên huyện và mở rộng quy mô như

56

nói trên, để một mặt thúc đẩy kinh tế trên địa bàn huyện, mặt khác tạo thêm

nhiều việc làm cho người lao động giúp họ cải thiện cuộc sống.

Thứ ba, chính quyền địa phương cần quan tâm, nắm bắt số lượng hộ

nghèo thực tế tại các xã, từ đó có chính sách hỗ trợ từng hộ nghèo cho phù

hợp, cụ thể dậy nghề, giới thiệu việc làm, xây nhà tình thương, cấp thẻ bảo

hiểm ý tế, khám chữa bệnh miễn phí…hỗ trợ vốn để người dân có điều kiện

kinh doanh, lao động để sinh sống, giảm bớt khó khăn về kinh tế, nâng cao

mức sống của bộ phận dân cư nghèo.

3.3 Tăng cƣờng biện pháp về văn hóa giáo dục

Vấn đề văn hóa giáo dục hiện nay trở nên rất cấp bách trên cả nước nói

chung, địa bàn huyện Gia Lâm nói riêng, bởi hầu như hành vi phạm tội đã và

sẽ xảy ra đều chịu anh hưởng rất lớn từ văn hóa – giáo dục. Chỉ có thông qua

văn hóa- giáo dục mới có thể cho con người có được nhận thức đầy đủ về các

giá trị văn hóa có được định hướng đúng đắn cho mọi hành động của họ. Để

góp phần vào việc phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia

Lâm, cần tập trung vào các nội dung như sau:

Thứ nhất: mở rộng hệ thống đào tạo, giáo dục rộng khắp các xã thôn,

tạo điều kiện để mọi người được đến trường, được phổ cập giáo dục, khuyến

khích hỗ trợ cho các lớp học tình thương để trẻ có điều kiện trong gia đình

gặp khó khăn: gia đình gặp khó khăn ở đây có thể do bố mẹ lầm lỡ, con

không có người chăm lo, không thể đến trường được, hoặc do các cháu sinh

ra trong một cuộc tình vụng trộm nào đó, hoặc các cháu cơ nhỡ có thể đến

lớp, đến trường.

Thứ hai: cần đổi mới hệ thống giáo dục – đào tạo, nâng cao chất lượng

giáo dục. Nâng cao giáo dục hiện nay chứ không phải việc nâng cao giáo dục

phải đổi chữ quốc ngữ như hiện nay một số nhà tiến sĩ hay giáo sư đang thực

hiện cải cách là không đúng. Đào tạo tại các trường nhất là các trường dạy

57

nghề để có nguồn nhân lực có chất lượng cung cấp cho các doanh nghiệp, khu

công nghiệp, làng nghề; tăng cường sự liên kết giữa các trường đào tạo và các

doanh nghiệp, làng nghề để tạo nguồn việc làm cho các sinh viên; việc đào

tạo nguồn nhân lực phải theo nhu cầu của thị trường lao động, gắn giáo dục

đào tạo, dạy nghề với nhu cầu xã hội.

Thứ ba: tăng cường biện pháp tuyên truyền, vận động quần chúng tích

cực chủ động nâng cao cảnh giác phòng ngừa phát hiện tội phạm, nhóm tội

phạm về ma túy. Nhóm xâm phạm sở hữu: Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài

sản, Trộm cắp tài sản. Nhóm trật tự xã hội: Giết người, Gây thương tích,

Đánh bạc. Đối với cơ quan tư pháp: tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động về

các nhóm tội trên để giúp người dân hiểu rõ hơn thế nào là phạm tội về ma

túy, thế nào là phạm tội nhóm về sở hữu, thế nào là nhóm về trật tự xã hội.

Tuy nhiên, việc xét xử phải thật nghiêm minh, đúng người, đúng tội, bản án

được tuyên mọi người đồng tình để ngoài việc tuyên truyền còn mang tính răn

đe cho những người có và đang nung nấu ý định phạm tội.

Thứ tư: nhà trường và gia đình, ngoài việc tuyên truyền về các nhóm

tội: ma túy, nhóm tội về sở hữu, nhóm tội về trật tự xã hội cần giáo dục về ý

thức trách nhiệm đối với bản thân, công việc, tổ chức, xã hội và cộng đồng

của học sinh từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, để chính bản thân những

học sinh đó khi trưởng thành sẽ xây dựng ý thức tự kiểm soát bản thân không

thực hiện hành vi phạm tội.

Thứ năm: cần đầu tư xây dựng thêm một số trung tâm văn hóa, khu vui

chơi giải trí ở khu chung cư cũng cần có khu vui chơi cho phù hợp với từng

lứa tuổi khác nhau thu hút nhiều thành phần xã hội tham gia, nhất là các tổ

chức xã hội, vừa tham gia tuyên truyền phòng ngừa các nhóm tội trên quan

tâm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp, đa dạng của dân

58

tộc, tránh việc tiếp thu những luồng văn hóa phương Tây không phù hợp trên

địa bàn huyện Gia Lâm.

3.4 Tăng cƣờng biện pháp về tổ chức, quản lý xã hội

Chính sách hình sự phải được định hướng nhằm tham gia giải quyết

những vấn đề mấu chốt, thắt nút của các vấn đề xã hội liên quan đến hình sự.

Đó là những vấn đề mà khi giải quyết chúng động đến hàng loạt những khúc

mắc khác. Trong những vấn đề mấu chốt như thế, hiện nay về chính sách hình

sự cần được định hướng mạnh mẽ nhằm phát hiện đấu tranh với những hiện

tượng và hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Thứ nhất: cần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về cư trú. Huyện

Gia Lâm đang trong giai đoạn phát triển về kinh tế có khu công nghiệp nên

tập trung triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính trên các lĩnh vực an

ninh trật tự, tiến hành ra soát các quy định để đăng ký hộ khẩu, khai báo tạm

trú tạm vắng để cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các thủ tục hành

chính gây phiền hà làm mất thời gian của nhân dân. Cần niêm yết công khai

các thủ tục hành chính để người dân biết và tạo điều kiện thuận lợi cho nhân

dân đăng ký hộ khẩu, tăng cường các điểm đăng ký tại xã, thôn.

Tăng cường hơn nữa công tác quản lý cư trú, công tác nắm hộ, nắm số

lượng người, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc khai báo tạm trú, tạm vắng

để nắm rõ những đối tượng đang cư trú trên từng xã, khu công nghiệp, làng

nghề, ngoài việc góp phần cung cấp thông tin khi cần phục vụ công tác điều

tra, phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm. Việc tăng

cường này nhằm phục vụ công tác điều tra phát hiện tội phạm cũng như biện

pháp phòng ngừa không để hành vi phạm tội xảy ra.

Cần thu thập đầy đủ thông tin về các đối tượng có tiền án, tiền sự hoặc

đối tượng đi làm ăn ở nước ngoài hay trên biên giới về địa phương có các

hành vi như: mua bán sử dụng chất ma túy, xâm phạm sở hữu hay có hành vi

59

đe dọa giết người, hay có nhiều dấu hiệu nghi vấn để có biện pháp quản lý,

theo dõi vì đây là những đối tượng có nguy cơ phạm tội.

Thứ hai: tăng cường công tác quản lý đối với các cơ sở kinh doanh

nhạy cảm trong trường và khu công nghiệp như nhà hàng khách sạn, quán

bar, karaoke, dịch vụ cầm đồ bọn tội phạm thường chọn những nơi này làm tụ

điểm tập kết các nạn nhân của các nhóm tội phạm, vừa có thể làm nơi “xem

mắt”, giao nhận hàng hóa, vừa là nơi ở tạm của các nạn nhân khi được chuyển

từ các vùng lân cận đến.

Thứ ba: cần có biện pháp quản lý để thắt chặt hơn nữa việc cấp hộ

chiếu, thị thực đi du lịch, xuất khẩu lao động, xác nhận tình trạng độc thân và

kết hôn với người nước ngoài nhất là các đối tượng lao động nghèo không có

khả năng đi du lịch ở nước ngoài. Vì khi đối tượng có hành động xâm phạm

xã hội thường hay đi ra nước ngoài để trốn tránh sự điều tra của cơ quan chức

năng.

3.5 Tăng cƣờng chất lƣợng hoạt động phát hiện tội phạm

Các giải pháp ngăn chặn tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia

Lâm, bao gồm ngăn chặn không cho tái phạm.

Thứ nhất: Các giải pháp ngăn chặn không cho tội phạm xẩy ra là những

giải pháp kiểm soát xã hội và quản lý xã hội đối với điều kiện tồn tại của hành

vi phạm tội tiềm tàng và nạn nhân tiềm tàng của tội phạm nhằm làm tê liệt

quá trình chuẩn bị và thực hiện tội phạm.

Đối với các Nhóm tội phạm về ma túy. Nhóm xâm phạm sở hữu là:

Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản. Nhóm trật tự xã hội:

Giết người, Gây thương tích, Đánh bạc.Tội phạm tiềm tàng là khái niệm chỉ

tội phạm ở trạng thái chưa xẩy ra, tức là trên thực tế có những dấu hiệu nó sẽ

xẩy ra. Những đối tượng thực hiện hành vi phạm tội trên ở trong địa bàn

huyện Gia Lâm có đặc điểm là Nam giới, độ tuổi từ 18 đến dưới 35 tuổi, 70%

60

là dân nhập cư, 30% là dân bản địa, nghề nghiệp không ổn định, có trình độ

học vấn từ cấp thấp, đặc biệt chú ý các đối tượng có tiền án, tiền sự. Do vậy

trong công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm,

các cơ quan chức năng phải đáng lưu ý đến các đối tượng có đặc điểm nhân

thân như trênbởi vì đây là đối tượngcó nguy cơ phạm vào các nhóm tội phạm

về ma túy. Nhóm xâm phạm sở hữu là: Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài sản,

Trộm cắp tài sản. Nhóm trật tự xã hội: Giết người, Gây thương tích, Đánh

bạc.

Thứ hai: Nhóm giải pháp tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm

của các nhóm tội phạm về ma túy. Nhóm xâm phạm sở hữu: Cướp giật tài

sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản. Nhóm trật tự xã hội: Giết người,

Gây thương tích, Đánh bạc: Qua nghiên cứu 179 bản án của Tòa án nhân dân

huyện Gia Lâm cho thấy, các đối tượng phạm vào các nhóm phạm tội như

trên:

Nhóm xâm phạm sở hữu: trong các trường hợp thuận lợi, lợi dụng sơ

hở, mất cảnh giác, của người có tài sản, chủ sở hữu tài sản, là những người

thế yếu trong xã hội như phụ nữ, người già, lợi dụng chủ nhà quên đóng cửa,

hay cửa tum thường không đóng nghĩ rằng ở trên cao không leo được lên,

nhưng các đối tượng bò từ nhà này sang tum nhà khác, chủ sở hữu để chìa

khóa trên xe, lợi dụng chỗ hoang vắng, thời gian về khuya, nạn nhân là người

có điều kiện khá giả, thật thà dễ tin người.

Nhóm về trật tự xã hội: lười lao động, thích chơi trò chơi bạo lực, tính

tình tham lam.

Nhóm về ma túy: lợi dụng lòng tốt của một số người, lười lao động

thích làm giầu bất minh.

Những nhóm phạm tội trên cần thực hiện nhiều biện pháp nhằm không

cho các đối tượng có cơ hội thực hiện hành vi phạm tội.

61

-Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phát động quần chúng nhân

dân ý thức bảo vệ tài sản của mình và tham gia bảo vệ tài sản của người khác.

Cần phổ biến phương thức, thủ đoạn phạm tội, nâng cao tinh thần cảnh giác

và có ý thức bảo vệ tính mạng và tài sản của mình.

-Bản thân gia đình, mỗi công dân cần nâng cao cảnh giác, trong công

tác quản lý tài sản. Khi thuê người giúp việc, Công nhân làm thuê phải biết rõ

nơi cư trú, nhân thân của họ, không nhận vào làm những đối tượng có biểu

hiện nghi vấn. Đề phòng những người giả danh nhân viên, tiếp thị, thu tiền

điện nước, điện thoại, giả làm người sửa bếp Ga…Lợi dụng vào nhà để thực

hiện hành vi xâm phạm trật tự xã hội, hay xâm phạm sở hữu.

-Tăng cường phát hiện người có động cơ phạm tội về sở hữu. Đây là

việc rất khó, bởi lẽ động cơ phạm tội chỉ mới tồn tại trong thế gới tinh thần

của con người mà chưa qua biểu hiện qua hành vi cụ thể, chính vì vậy, phát

hiện động cơ phạm tội về sở hữu của con người chủ yếu là những ngườicó

mối liên hệ gần gũi, như người thân trong gia đình, bạn bè thân thiết. Tuy

nhiên, những chủ thể khác cũng có thể phát hiện một người có động cơ phạm

tội sở hữu thông qua các biểu hiện tâm lý của người đó như nhu cầu vật

chấtcao hơn khả năng thu nhập của họ, người đang lâm vào hoàn cảnh khó

khăn về kinh tế như thất nghiệp, gia đình có người thân đau ốm, người nghiện

ma túy đang cần tiền mua ma túy, người vừa chấp hành xong hình phạt chưa

có việc làm. Trong những trường hợp này, cảnh sát khu vực, tổ dân phố, cũng

là các chủ thể có khả năng phát hiện động cơ phạm vào tội nhóm tội ma túy,

nhóm xâm phạm trật tự xã hội, nhóm xâm phạm sở hữu.

-Tăng cường phát hiện quá trình chuẩn bị phạm tội của người đã có

động cơ phạm tội. Đó là việc phát hiện quá trình chuẩn bị công cụ, phương

tiệnđể thực hiện hành vi phạm tội. Các biện pháp tác động ngăn ngừa không

để cho hành vi phạm tội xẩy ra ở trường hợp này có thể là áp dụng các biện

62

pháp thuyết phục( chủ yếu từ gia đình) hoặc thường xuyên thực hiện các biện

pháp tuần tra, có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước như thu

giữ phương tiện….

Thứ ba: UBND các xã, thị Trấn có công nhân lao động, sinh viên thuê

trọ, cần thường xuyên kết hợp với Trung tâm y tế huyện Gia Lâm để phun

khử trùng nơi làm việc của công nhân lao động và sinh hoạt của Công nhân,

sinh viên, tránh phát sinh ổ dịch bệnh như thời gian vừa qua.

3.6 Tăng cƣờng biện pháp tự phòng ngừa tội phạm từ trong nhân dân

Từ những phân tích ở chương 2, tác giả nhận thấy rằng tội phạm ở

huyện Gia Lâm thực chất chỉ tập trung vào hai nhóm tội là nhóm về ma túy,

nhóm về trật tự xã hội, nhóm về sở hữu. Để thực hiện có hiệu quả việc phòng

ngừa ngoài việc áp dụng những biện pháp phòng ngừa chung của cơ quan

chức năng phải tập trung, hướng dẫn cho người dân tự có ý thức bảo vệ mình,

tự tìm cách tránh cho mình không trở thành nạn nhân của những loại tội phạm

trên. Cụ thể gồm có:

Thứ nhất, để tránh trở thành nạn nhân của tội phạm cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người dân cần chú ý thể

hiện cái tôi cá nhân một cách hợp lý, cư xử có văn hóa, tránh sử dụng những

lời lẽ xúc phạm đến người khác, giải quyết mâu thuẫn bằng biện pháp thương

lượng hoặc nhờ đến cơ quan có thẩm quyền. Sở dĩ cần phải làm như vậy vì

người dân sống ở địa bàn huyện Gia Lâm thường là người dân lao động,

không có trình độ học thức cao, khó giữ được kiềm chế khi bị kích động. Nếu

có những hành vi giao tiếp thiếu kiềm chế rất dễ gây ra những hành vi phạm

tội thuộc nhóm tội trật tự xã hội, gây tổn hại cho tính mạng, sức khỏe, nhân

phẩm, danh dự của người khác.

Đối với lứa tuổi dưới 18 thì quan trọng nhất là phối hợp giáo dục giữa

gia đình và nhà trường; bố, mẹ, thầy cô giáo phải làm gương cho con em

63

mình ngay từ trong lối sống, tập trung giáo dục những bài học đạo đức từ khi

còn nhỏ đến tuổi vị thành niên; với lứa tuổi từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thì nên

kết hợp giáo dục đạo đức với giáo dục pháp luật; với lứa tuổi từ 18 trở lên thì

giáo dục pháp luật phải được đặt lên hàng đầu. Phương pháp tuyên truyền và

giáo dục có thể là thông báo những chế tài nghiêm khắc mà người phạm tội

có thể phải gánh chịu trên các phương tiện thông tin đại chúng như hệ thống

phát thanh của xã, thị trấn vào khoảng thời gian từ 8 giờ sáng đến 18 giờ tối

và trên radio trong khoảng thời gian từ 20 giờ đến đêm khuya.

Nhà nước, các cơ quan, đoàn thể nên vận động người dân học các khóa

học nâng cao khả năng kiềm chế bản thân như học kỹ năng sống và học thiền,

yoga; có thêm những công cụ, biện pháp để tự bảo vệ mình, giảm khả năng

trở thành nạn nhân của tội phạm như học thêm võ thuật, thường xuyên rèn

luyện thể dục thể thao để tăng cường sức khỏe, sức bền.

Tránh tiếp xúc với những người có mâu thuẫn từ trước, trường hợp

không thể tránh mặt được thì khi giao tiếp với họ phải hết sức bình tĩnh, nên

lịch sự, nhã nhặn, không nên sử dụng những ngôn từ hoặc hành động mang

tính khiêu khích hoặc có những lời nói, hành động làm ảnh hưởng đến lợi ích,

danh dự, nhân phẩm của họ.

Trong công việc, trong làm ăn kinh doanh cần có đạo đức kinh doanh,

tránh những hành vi kinh doanh không trong sáng, cạnh tranh không lành

mạnh gây ra những mối thù hằn.

Khi đi lại, tham gia giao thông phải hết sức bình tĩnh, tuân thủ đúng

luật lệ giao thông, tránh việc va chạm, khi có va chạm phải giải quyết một

cách nhẹ nhàng, không nên chửi rủa dễ dẫn đến việc mất kiềm chế của đối

tượng. Hạn chế ra đường vào những khung giờ cao điểm, chỉ nên tham gia

giao thông khi thực sự có việc cần thiết.

64

Thứ hai,để tránh trở thành nạn nhân của tội phạm trộm cắp tài sản thì

người dân cần tránh đi đến những khu vực tập trung đông người không công

ăn việc làm, những nơi có nhiều điều kiện để người phạm tội có điều kiện

thực hiện hành vi trộm cắp.

Bản thân mỗi gia đình, mỗi công dân cần nâng cao cảnh giác trong

công tác quản lý tài sản. Khi thuê người giúp việc, công nhân làm thuê phải

biết rõ nơi cư trú, nhân thân của họ, không nhận đối tượng có biểu hiện nghi

vấn. Đề phòng những người giả danh nhân viên tiếp thị, bán hàng, nhân viên

thu tiền điện nước, điện thoại,… lợi dụng vào nhà để thực hiện hành vi trộm

cắp tài sản.

Không để tài sản ở những nơi hớ hênh, dễ thấy, có biện pháp trông giữ

tài sản hợp lý, không nên quá phô trương đối với những tài sản mà mình có.

Khi đi ngủ hoặc ra khỏi nhà phải kiểm tra, khóa cửa cẩn thận, nhất là cửa sổ,

cửa ra vào sân thượng đề phòng kẻ gian lợi dụng, đột nhập. Cần khóa xe cẩn

thận hoặc dắt xe vào nhà mỗi lần đi về. Xây nhà kiên cố, tăng cường trang bị

thêm những công cụ kỹ thuật hiện đại để phòng ngừa việc trộm cắp như khóa

chống trộm, lắp đặt camera, thuê bảo vệ,…

Đối với các cơ quan, doanh nghiệp cần đề phòng người lạ mặt trà trộn

và cơ quan, quán triệt tinh thần cảnh giác đến cán bộ, công chức, nhân viên.

Trang bị két sắt chuyên dụng để cất giữ tiền, tài sản có giá trị. Bố trí lực lượng

bảo vệ trực 24/24 giờ. Sắp xếp, bố trí nơi trông giữ xe có bảo vệ trông coi.

Thứ ba, để tránh trở thành nạn nhân của tội phạm cướp tài sản, người

dân không nên thường xuyên đi lại ở những khu vực cao điểm, tập trung

nhiều tội phạm vào những khoảng thời gian đặc biệt trong ngày như khi sáng

sớm, lúc đêm muộn. Khi đi ra đường không nên quá phô trương về tài sản dễ

khiến cho mình trở thành mục tiêu, đích ngắm của tội phạm.

Chủ thể thực hiện hành vi cướp tài sản chủ yếu là nam giới, có sức

khỏe, ở độ tuổi từ 18 đến 50 tuổi, không công ăn việc làm, có trình độ văn hóa

65

thấp nên khi thấy những người có đặc điểm nhân thân này có dấu hiệu đang

theo dõi hoặc chú ý tới mình cần hết sức cảnh giác. Trường hợp này phải

tránh đi vào ngõ hẻm, chỗ tối, nơi ít người để tránh tạo ra những điều kiện

phạm tội, chủ động cắt đuôi đối tượng, đi vào những khu vực đông người

hoặc nhờ đến sự trợ giúp của các cơ quan chức năng.

Thường xuyên rèn luyện thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe để có thể

chống trả lại hành vi xâm hại của người phạm tội. Nên tham gia học thêm

những lớp võ thuật, chủ động mang theo những công cụ phương tiện phòng

vệ khi cần thiết.

Trường hợp khi bắt buộc phải đi qua những khu vực bất ổn về an ninh

trật tự, có tỷ trọng tội phạm cao hoặc đi đến nơi vắng vẻ, ít người vào những

thời gian nhạy cảm dễ dàng cho đối tượng thực hiện hành vi phạm tội thì nên

đi thành tốp đông người để hạn chế sự manh động của đối tượng.

Thứ tư, đối với nhóm tội về ma túy,thì đây là loại tội không có nạn

nhân là con người cụ thể, tội này xâm hại đến trật tự an toàn xã hội nói chung

chứ không trực tiếp xâm hại đến một cá nhân, một con người cụ thể nào nên

tác giả không xây dựng những biện pháp phòng ngừa tội phạm từ phía nạn

nhân.

Tóm lại, phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội

phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, là hoạt động khó khăn và phức tạp, cần sự

đầu tư lâu dài của nhà nước và cả xã hội. Để hoạt động này đi đúng hướng và

đạt hiệu quả, như mong muốn thì đòi hỏi có sự nghiên cứu kỹ lưỡng về lý

luận kết hợp đặc trưng tình hình tội phạm trên thực tế tại mỗi khu vực, địa bàn

và nhất thiết phải có sự đồng lòng, nhất trí mạnh mẽ từ các cơ quan nhà nước,

tổ chức,các tầng lớp nhân dân, có như vậy trong tương lai chúng ta mới hy

vọng ngăn ngừa, kiểm soát, hạn chế thấp nhất những thiệt hại do các tội phạm

này gây ra.

66

Kết luận chƣơng 3

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, phân tích đánh giá, khái quát phòng

ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm. Giai đoạn 2013- 2017.

Tỷ lệ tội phạm xẩy ra trên địa bàn huyện chiếm tỷ lệ cao, mặc dù đã được

tuyên truyền của các cơ quan chức năng. Trong thời gian tới sẽ tiếp tục tăng

và chiếm tỷ lệ cao, không chỉ tăng về số lượng, mà tính chất, mức độ ngày

càng phức tạp, nguy hiểm hơn.

Ở phần mở đầu có nêu, huyện Gia Lâm nằm ở cửa ngõ phía Đông của

thủ đô Hà Nội, rất thuận lợi về kinh tế địa lý, kinh tế, về giao thông đường bộ.

Mặc dù có những thành tựu đáng kể về kinh tế nhưng huyện Gia Lâm hiện

nay phải đối diện với sự phức tạp của tình hình tội phạm nói chung. Có 13

nhóm tội, đây là những nhóm đã được tuyên truyền phòng ngừa, nhưng không

giảm, là các nhóm tội phạm về ma túy. Nhóm xâm phạm sở hữu: Cướp giật

tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản. Nhóm trật tự xã hội: Giết người,

Gây thương tích, Đánh bạc. Trên phạm vi địa bàn huyện, cũng như mang

những nét riêng với đặc trưng về địa lý, đặc điểm dân cư và tốc độ phát triển

kinh tế. Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, không chỉ nhiều về

số vụ mà còn nguy hiểm về tính chất, thể hiện ở thủ đoạn liều lĩnh của các đối

tượng khi gây án, một số vụ án như đánh bạc, Mua bán trái phép chất ma túy,

trộm cắp tài sản… thân nhân của nạn nhân cũng tham gia vào các tội phạm

này. Ngoài ra, tính chất nguy hiểm của tình hình các nhóm tội phạm này, còn

thể hiện những thiệt hại mà tội phạm gây ra cho nạn nhân và xã hội, đó không

chỉ là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, những thiệt hại tinh

thần của người dân khi sống trong bối cảnh tình hình tội phạm phức tạp.

Với thực tế trên, các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa

bàn huyện Gia Lâm đã có nhiều nỗ lực trong việc phòng ngừa, hạn chế tội

phạm, tuy nhiên hiệu quả của hoạt động này trong thời gian qua chưa cao và

67

tính nguy hiểm của tội phạm là một minh chứng. Trong phạm vi là một luận

văn chuyên ngành Tội phạm học, đã được học trong Học viện khoa học xã hội

và kinh nghiệm trong công tác, học viên đã trình bầy những vấn đề sau đây:

Thứ nhất, những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm,

những vấn đề lý luận này bao gồm định nghĩa, bản chất, ý nghĩa của phòng

ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, các nguyên tắc trong

hoạt động phòng ngừa tội phạm, các biện pháp phòng ngừa tội phạm, cùng

với các chủ thể phòng ngừa tương đương.

Thứ hai, đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm, trên địa

bàn huyện Gia Lâm. Xuất phát từ định nghĩa, bản chất của phòng ngừa tội

phạm là áp dụng những biện pháp xã hội tác động vào nguyên nhân, điều kiện

của tội phạm nhằm ngăn ngừa trước không cho tội phạm xẩy ra, đồng thời

phải phát hiện, xử lý sau khi tội phạm xẩy ra cho nên tác giả đã đánh giá thực

trạng qua các nội dung: thực trạng nhận thức phòng ngừa, thực trạng hoạt

động của các chủ thể phòng ngừa và thực trạng thực hiện các biện pháp phòng

ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm. Ở mỗi nội dung, tác giả

trình bầy những kết quả mà hoạt động này đã đạt được trong thời gian qua,

đồng thời cũng đề cập đến hạn chế còn tồn tại và những nguyên nhân của

những hạn chế đó.

Thứ ba, kiến nghị một số biện pháp nhằm tăng cường tình hình tội phạm

trên địa bàn huyện Gia Lâm thời gian tới. Dựa trên thực trạng phòng ngừa của 2

chương, tác giả kiến nghị tăng cường nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm

trên địa bàn huyện Gia Lâm, cho các chủ thể, hoàn thiện tổ chức lực lượng phòng

ngừa và tăng cường các biện pháp phòng ngừa của các nhóm tội phạm trên địa

bàn huyện Gia Lâm. Mặc dù còn những hạn chế nhất định tác giả đã cố gắng kiến

nghị một số biện pháp phòng ngừa cụ thể cho từng nhóm tội.

68

K T LUẬN

Từ việc nghiên cứu lý thuyết về phòng ngừa tình hình tội phạm, trên cơ

sở số liệu thống kê chính thức của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Viện

Kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, báo cáo tình hình tội phạm trên địa bàn

huyện Gia Lâm các năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017 của Công an huyện

Gia Lâm, tác giả rút ra một số kết luận như sau:

1. Công tác phòng ngừa tình hình tội phạm là một công tác đa dạng,

phức tạp và hết sức khó khăn. Tùy thuộc vào từng địa bàn, từng giai đoạn mà

tình hình tội phạm khác nhau, không thể áp dụng công tác phòng ngừa tình

hình tội phạm giữa địa phương này với địa phương khác, giữa mốc thời gian

này với mốc thời gian khác. Cần thường xuyên nghiên cứu khoa học chuyên

sâu, tìm ra những đặc điểm riêng biệt của tình hình tội phạm từng địa bàn,

từng khu vực, dự báo trước xu hướng phát triển của tình hình tội phạm để đưa

ra những phương án phòng ngừa tình hình tội phạm một cách hiệu quả.

Phòng ngừa tình hình tội phạm là trách nhiệm của toàn dân, không thể

chỉ sử dụng sức mạnh của những cơ quan chuyên trách về phòng ngừa tình

hình tội phạm. Huy động được sự ủng hộ của đa số các tầng lớp nhân dân,

xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc thì công tác phòng ngừa mới

hiệu quả.

2. Tội phạm hình sự trên địa bàn huyện Gia Lâm giai đoạn 2013- 2017

là khá lớn. Số lượng các vụ phạm tội, số người phạm tội biến đổi phức tạp

trong cả giai đoạn nhưng nhìn chung thì số vụ phạm tội và số người phạm tội

đều giảm. Số lượng tội phạm phân bố chủ yếu ở 3 nhóm tội chính là: ma túy,

xâm phạm sở hữu và trật tự xã hội. Chính quyền mới chỉ thực hiện khá tốt

công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm về ma túy và trật tự xã hội trong giai

đoạn năm 2015, những năm sau đó những biện pháp này đã không còn phù

69

hợp trên địa bàn huyện nữa; công tác phòng ngừa nhóm tội phạm xâm phạm

sở hữu cần đặc biệt quan tâm theo dõi vì những biện pháp hiện đang áp dụng

chưa thật sự hiệu quả đối với nhóm tội này,cần phải có phương án khắc phục

ngay lập tức

Trong giai đoạn nghiên cứu, giới tính đặc trưng của người phạm tội là

nam giới, thường nằm trong độ tuổi từ 18 đến dưới 60 tuổi, có trình độ học

vấn thấp, không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không ổn định.

Các cơ quan chuyên trách trong vấn đề phòng ngừa tình hình tội phạm đã

làm được rất nhiều những công tác nhằm hạn chế, đấu tranh với tội phạm. Tuy

nhiên, ngoài những thành tựu đạt được thì vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế.

3. Trên cơ sở nghiên cứu những tài liệu về tội phạm học, các văn bản

chỉ đạo của các cơ quan Trung ương, những kết quả đấu tranh, phòng chống

tội phạm của huyện Gia Lâm giai đoạn 2013 – 2017, tác giả đã mạnh dạn đề

xuất một số nhóm các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn

huyện Gia Lâm trong thời gian tới nhằm khắc phục những hạn chế, phát huy

những yếu tố tích cực trong hoạt động phòng ngừa tội phạm. Đảm bảo huy

động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong đấu tranh

phòng ngừa tội phạm.

Do hạn chế về điều kiện thời gian, tài liệu tham khảo, số liệu thống kê

và khả năng phân tích, nhận định, đánh giá vấn đề nên luận văn không tránh

khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của

quý Thầy, Cô và bạn đọc để luận văn được hoàn thiện hơn.

70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Đảng Cộng sản Việt Nam( 2005, Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ

Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

đến năm 2010 định hướng đến năm 2020)

2. Bộ chính trị (2005, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020)

3. Chính phủ (1998, Nghị quyết số 09/CP ngày 31/07/1998 về tăng cường

công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới)

4. Bộ Chính trị 2002, nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 22/10/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới

5. Ban chỉ đạo 138 của Chính phủ (1999), kế hoạch số 01/BCDD138/CP ngày

10/12/1999 triển khai thực hiện nghị quyết 09/CP ngày 31/07/1998 của Chính

phủ và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm

6. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2016) văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

7. Giáo trình Đặc điểm tội phạm học tội phạm kinh tế và các biện pháp phòng

ngừa (2010, GS.TS Hồ Trọng Ngũ)

8. Học viện Cảnh sát nhân dân (2005), Giáo trình Tội phạm học, Hà Nội.

9. Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam,

tài liệu tham khảo dùng cho hệ đào tạo sau Đại học, Hà Nội.

10. Một số vấn đề cơ bản về chính sách hình sự dưới ánh sáng nghị quyết đại

hội IX của Đảng (2002, PGS.TS Hồ Trọng Ngũ)

11. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự

12. Quốc hội(2003) Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân

13. Quốc hội (2003) Bộ luật lao động

14. Quốc hội (2011) Luật tổ chức Quốc hội

15. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

71

16. Quốc hội (2014) Luật công an nhân dân

17. Quốc hội (2014) Luật tổ chức Tòa án nhân dân

18. Quốc hội (2014) Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

19. Phạm Văn Tỉnh (1996), Cơ chế hành vi phạm tội cơ sở để xác định

nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa tội phạm, Tạp chí Kiểm sát (số 01)

trang 18 – 21

20. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở

Việt Nam, Nxb Tư pháp

21. Phạm Văn Tỉnh (2007), Vấn đề định nghĩa khái niệm tội phạm học và nhu

cầu nâng cao trình độ lý luận tội phạm học ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật (số 12), trang 11-19

22. Phạm Văn Tỉnh (2008), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm

ở nước ta hiện nay – Mộ hình lý luận, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (sô 6),

trang 10-17

23. PGS.TS. Dương Tuyết Miên (2010), Bài viết “Bàn về tội phạm rõ, tội

phạm ẩn trong tội phạm học”, tạp chí Luật học 3/2010.

24. PGS.TS. Dương Tuyết Miên (2013), Tội phạm học đương đại, Nxb Chính

trị hành chính, Hà Nội

25. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội

26. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2000), tội phạm học Việt Nam –

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

27. Trịnh Tiến Việt (2008), Khái niệm phòng ngừa tội phạm dưới góc độ tội

phạm học, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội (sô 24), trang 185 – 199

28. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội

29. Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an nhân dân, Huế

72

30. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội

31. Hồ Sỹ Sơn( 2013), Các giai đoạn thực hiện tội phạm nhìn từ góc độ so

sánh pháp luật hình sự của một số nước trên thế gới. Tạp chí nhà nước và

pháp luật, (số 7), tr.76-83.

32. Hồ Sỹ Sơn ( 2010), Các nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ quy định

tội phạm trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự năm

2009, Tạp chí luật học, ( số 1), Tr. 35-41.

33. Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam

một số vấn đề lý luận và thực tiễn; NXB Công an nhân dân.

34. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Tình hình tội phạm ở Việt Nam

năm 2015, Hà Nội.

35. Nguyễn Hồng Vinh( 2007), Hoạt động phòng ngừa tội phạm của Viện

kiểm sát nhân dâ, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

36. Nguyễn Ngọc Hòa ( 2007), Phòng ngừa tội phạm trong tội phạm học, Tạp

chí Luật học, ( số 6), Tr,4-8.

37. VKSND huyện Gia Lâm, Báo cáo thống kê án hình sự năm 2013

38. VKSND huyện Gia Lâm, Báo cáo thống kê án hình sự năm 2014

39. VKSND huyện Gia Lâm, Báo cáo thống kê án hình sự năm 2015

40. VKSND huyện Gia Lâm, Báo cáo thống kê án hình sự năm 2016

41. VKSND huyện Gia Lâm, Báo cáo thống kê án hình sự năm 2017

42. TAND huyện Gia Lâm, Báo cáo thống kê án hình sự năm 2013

43. TAND huyện Gia Lâm, Báo cáo thống kê án hình sự năm 2014

44. TAND huyện Gia Lâm, Báo cáo thống kê án hình sự năm 2015

45. TAND huyện Gia Lâm, Báo cáo thống kê án hình sự năm 2016

46. TAND huyện Gia Lâm, Báo cáo thống kê án hình sự năm 2017

73

Website:

1. http://gialam.hanoi.gov.vn/chi-tiet-tim-kiem/-/view_content/386452-hoi- nghi-trien-khai-cong-tac-phong-chong-toi-pham-tnxh-va-phong-trao-toan- dan-bao-ve-an-ninh-to-quoc-hoat-dong-cua-ban-chi-dao-197-nam-2015.html

2. http://gialam.hanoi.gov.vn/chi-tiet-tim-kiem/-/view_content/1592125-hoi- nghi-tong-ket-cong-tac-phong-chong-toi-pham-tnxh-va-phong-trao-toan-dan- bao-ve-an-ninh-to-quoc-hoat-dong-cua-ban-chi-dao-197-nam-201-1.html

3. http://gialam.hanoi.gov.vn/chi-tiet-tim-kiem/-/view_content/384301-hoi- nghi-tuyen-truyen-cong-tac-phong-chong-toi-pham.html

4. https://baomoi.com/ubnd-huyen-gia-lam-trien-khai-ke-hoach-phong-chong- toi-pham-ven-do/c/8592405.epi

5. http://anninhthudo.vn/chinh-tri-xa-hoi/huyen-gia-lam-ha-noi-pham-phap- hinh-su-trong-an-deu-giam/667447.antd

74

PHỤ LỤC

Bảng 1: Thống kê số vụ phạm tội và số bị can thuộc các nhóm tội qua các

năm từ 2013 đến 2017

Tổng số bị can

405

348

433

Tổng số vụ 339 Nhóm tội Phạm tội về ma túy

304

535

Xâm phạm sở hữu

991

1373

Trật tự xã hội

Tổng cộng

( Nguồn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm)

90

80

70

60

50

Nhóm tội về ma túy

40

Nhóm tội về xâm phạm sở hữu

30

Nhóm tội về trật tự xã hội

20

10

0

2013

2014

2015

2016

2017

Biểu đồ 1.1: So sánh số vụ phạm tội thuộc các nhóm tội trên địa bàn huyện Gia Lâm giai đoạn từ năm 2013 - 2017

( Nguồn của Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm)

75

Biểu đồ 1.2: Cơ cấu các nhóm tội trên địa bàn huyện Gia Lâm từ năm 2013 – 2017

Cơ cấu các nhóm tội trên địa bàn huyện Gia Lâm

3%

33%

30%

Nhóm tội về ma túy

Nhóm tội về xâm phạm sở hữu

Nhóm tội về trật tự xã hội

Nhóm tội khác

34%

(Nguồn của Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm)

Bảng 2: Tình hình tội phạm về ma túy từ năm 2013 – 2017

Tổng số vụ

Tỏng số bị can

Năm

98

80

2013

103

82

2014

43

36

2015

86

75

2016

75

66

2017

339

Tổng cộng

405 (Nguồn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm)

76

120

103

98

100

86

82

80

75

75

80

66

Số vụ

60

Số bị can

43

36

40

20

0

2013

2014

2015

2016

2017

Biểu 2.1: So sánh số vụ phạm tội và số bị can của nhóm tội về ma túy qua các năm từ 2013 - 2017

(Nguồn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm)

Biểu 2.2: Cơ cấu của nhóm tội ma túy trên địa bàn huyện Gia Lâm

Cơ cấu nhóm tội về ma túy trên địa bàn huyện Gia Lâm từ năm 2013 - 2017

33%

Tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy

67%

Mua bán trái phép chất ma túy

(Nguồn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm)

77

Biểu 3: Tình hình tội phạm về nhóm xâm phạm sở hữu từ năm 2013 – 2017

Tổng số vụ Tỏng số bị can Năm

74 100 2013

72 94 2014

68 69 2015

75 104 2016

59 66 2017

348 Tổng cộng

408 (Nguồn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm)

120

104

100

94

100

75

74

80

72

69

68

66

59

60

Số vụ

Số bị can

40

20

0

2013

2014

2015

2016

2017

Biểu 3.1: So sánh số vụ phạm tội và số bị can của nhóm tội về xâm phạm sở hữu qua các năm từ 2013 - 2017

(Nguồn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm)

78

7%

8%

19%

60%

6%

Lửa đảo chiếm đoạt tài sản Cướp giật tài sản

Trộm cắp tài sản

Cưỡng đoạt tài sản

Hủy hoại tài sản

Biểu 3.2: Cơ cấu của nhóm tội về xâm phạm sở hữu từ năm 2013 - 2017

(Nguồn của Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm)

Bảng 4: Tình hình tội phạm về nhóm trật tự xã hội từ năm 2013 – 2017

Tổng số vụ Tỏng số bị can Năm

143 75 2013

147 78 2014

71 52 2015

77 42 2016

97 57 2017

304 535

Tổng cộng ( Nguồn của Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm)

79

160

147

143

140

120

97

100

78

77

75

Số vụ

80

71

Số bị can

57

60

52

42

40

20

0

2013

2014

2015

2016

2017

Biểu 4.1: So sánh số vụ phạm tội và số bị can của nhóm về trật tự xã hội từ năm 2013 - 2017

( Nguồn của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm)

Giết người

1%

Cố ý gây thương tích

2% 3%

1%

Đánh bạc

8%

14%

Tổ chức đánh bạc

31%

6%

Vi phạm quy định về điều khiển PTGT đường bộ Đe dọa giết người

34%

Tội chống người thi hành công vụ Tội chứa mại dâm

Tội môi giới mại dâm

Biểu 4.2: Cơ cấu nhóm trật tự xã hội từ năm 2013 – 2017

(Nguồn từ Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm)

80