ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN QUANG HUY “NHỮNG CAM KẾT VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP). CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM”

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN QUANG HUY

“NHỮNG CAM KẾT VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP). CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM”

Chuyên ngành: Luật Quốc Tế

Mã số

: 8380101.06

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Tiến Vinh

Hà Nội – 2020

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn

khoa học của PGS.TS. Nguyễn Tiến Vinh.

Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa hề

được công bố hoặc sử dụng để bảo vệ một học hàm nào.

Các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Học viên

Nguyễn Quang Huy

3

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các

thầy cô giáo và sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, các đồng nghiệp và gia đình.

Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới:

Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm Khoa Luật - Trường Đại học quốc gia Hà Nội.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đới với PGS.TS. Nguyễn Tiến Vinh –

Giảng viên Khoa Luật - Trường Đại học quốc gia Hà Nội.

Xin cảm ơn các cơ quan, các thầy cô giáo, anh chị em đồng nghiệp và gia

đình đã giúp tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Học viên

4

Nguyễn Quang Huy

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. 3 LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... 4 MỤC LỤC ............................................................................................................. 5 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT .............................................. 8 MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 9 1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 9 2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................................. 12 3. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 13 4. Những đóng góp mới của luận văn ............................................................ 13 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn ........................................... 13 6. Kết cấu của Luận văn ................................................................................. 14

CHƯƠNG 1: HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP) VÀ CÁC CAM KẾT VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG HIỆP ĐỊNH ...................................................................... 15 1.1. Sơ lược nội dung Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) ...................................................................................... 15 1.2. Các vấn đề về môi trường trong thương mại quốc tế ........................... 16 1.3. Nguồn gốc về vấn đề môi trường trong Hiệp định CPTPP ................. 17 1.4. Các cam kết về môi trường trong Hiệp định CPTPP ........................... 19 1.4.1. Mục tiêu, phạm vi, các cam kết chung của Chương Môi trường . 19 1.4.1.1. Mục tiêu của Chương Môi trường ......................................... 19 1.4.1.2. Phạm vi của Chương Môi trường .......................................... 20 1.4.1.3. Các cam kết chung ................................................................. 21 1.4.2. Các lĩnh vực bảo vệ môi trường cụ thể trong Chương 20 Hiệp định CPTPP ..................................................................................................... 21 1.4.2.1. Bảo vệ tầng ô-zôn .................................................................. 21 1.4.2.2. Bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm từ tàu ......................... 23 1.4.2.3. Đa dạng sinh học .................................................................... 28 1.4.2.4. Loài ngoại lai xâm hại ............................................................ 33 1.4.2.5. Nền kinh tế ít phát thải ........................................................... 34 1.4.2.6. Khai thác hải sản .................................................................... 35

5

1.4.2.7. Bảo tồn động, thực vật hoang dã............................................ 38 1.4.2.8. Hàng hóa và dịch vụ môi trường............................................ 42 1.5. Một số cam kết liên quan đến môi trường trong các Chương khác của CPTPP ....................................................................................................... 43 1.5.1. Tiếp cận thị trường hàng hóa môi trường ..................................... 43 1.5.2. Các biện pháp phi thuế quan ......................................................... 43 1.5.3. Cung cấp dịch vụ môi trường qua biên giới ................................. 45 CHƯƠNG 2: CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH TRONG VIỆC THỰC THI CÁC CAM KẾT MÔI TRƯỜNG CỦA HIỆP ĐỊNH CPTPP ........................................... 46 2.1. Cơ hội đặt ra đối với Việt Nam ............................................................... 46 2.1.1. Thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế ................................................. 46 2.1.2. CPTPP tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới .................................................... 46 2.1.3. CPTPP tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài cũng như khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại. ........................................................................................................... 47 2.1.4. Cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu. .......................................... 48 2.1.5. Góp phần xóa đói, giảm nghèo và tạo thêm nhiều việc làm. ........ 49 2.1.6. Tạo động lực để Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế. ................ 50 2.2. Thách thức đặt ra đối với Việt Nam ...................................................... 50 2.2.1. Áp lực cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp (DN) nước ngoài. ................................................................................................................. 50 2.2.2. Thứ hai, thách thức về hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế. 55 2.2.3.Thách thức đối với việc đáp ứng được các tiêu chuẩn cao của FTA thế hệ mới. ............................................................................................... 69 2.2.4. Thách thức về giảm nguồn thu ngân sách nhà nước. .................... 71 2.2.5. Thách thức về ổn định lao động - xã hội. ................................. 71 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA .................................................................. 75 3.1. Hoàn thiện về mặt cải cách thể chế nền kinh tế .................................... 75 3.2. Hoàn thiện về mặt xây dựng pháp luật .................................................. 77

6

3.2.1. Kiến nghị chung ............................................................................ 77 3.2.2. Kiến nghị điều chỉnh các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường ................................................................................................................. 79 3.2.3. Kiến nghị điều chỉnh các quy định về bảo đảm thực thi pháp luật môi trường nội địa ................................................................................... 82 3.2.4. Kiến nghị các biện pháp thực thi nghĩa vụ quốc tế ....................... 86 3.3. Hoàn thiện về mặt tổ chức, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp ................................................................................................... 87 3.4. Tăng cường giám sát tổ chức thực hiện, tuyên truyền phổ biến về các FTA nói chung và CPTPP nói riêng ....................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 92

7

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương Bảo vệ môi trường Công ước về đa dạng sinh học Công ước về buôn bán các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) Đầu tư trực tiếp nước ngoài Tổ chức nông lương của Liên Hợp quốc Hiệp định tự do thương mại Hiệp định chung về thương mại dịch vụ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại Hợp chất Hydrochlorofluorocarbons Trung tâm quốc tế giải quyết mâu thuẫn đầu tư Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế Liên minh quốc tế về bảo tồn thiên nhiên Bất hợp pháp, không được báo cáo và không được quản lý Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) Công ước quốc tế về Chống ô nhiễm từ tàu biển Hiệp định môi trường đa phương Bộ Xây dựng (Bộ XD) Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TNMT) Bộ Công Thương Bộ Giao thông vận tải (Bộ GTVT) Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển Ủy ban nhân dân tỉnh (UBND tỉnh) Hợp tác công tư Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương Tiêu chuẩn Việt Nam

8

APEC BVMT CBD CITES EIA FDI FAO FTA GATS GATT HCFCs ICSID ISO IUCN IUU MARD MARPOL MEA MOC MONRE MOIT MOT OECD PPC PPP SEA SME TPP TCVN UNCITRAL Hội đồng của Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế Công ước của Liên hợp quốc về luật biển UNCLOS Công ước của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu UNFCCC Đại diện thương mại Hoa Kỳ USTR Thuế giá trị gia tăng VAT Đồng Việt Nam VND WTO Tổ chức thương mại thế giới

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Năm 2005, bốn quốc gia bao gồm Singapore, Chile, New Zealand và Bruney

cùng nhau ký kết Hiệp định hợp tác kinh tế chiến lược Xuyên Thái Bình Dương

(Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – còn gọi là P4). Năm

2007, các nước P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán của Hiệp định này ra các

vấn đề về dịch vụ tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ về khả năng nước này

tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Tháng 9/2008, Đại diện Thương mại Hoa

Kỳ (USTR) thông báo quyết định của Hoa Kỳ tham gia đàm phán P4 mở rộng và

chính thức tham gia một số cuộc thảo luận về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính

với các nước P4. Tháng 11/2008, các nước Úc, Peru và Việt Nam cũng bày tỏ sự

quan tâm và tham gia đàm phán TPP. Cũng từ thời điểm này, đàm phán mở rộng P4

được đặt tên lại là đàm phán Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tiến trình đàm phán TPP kéo dài đã kéo dài hơn so với dự định của các quốc

gia. Vòng đàm phán đầu tiên được tiến hành tại Melbourn nước Úc vào tháng

3/2010 và phải đến tận tháng 10/2015 mới kết thúc. Trong quá trình đó, TPP đã có

thêm các quốc gia khác tham gia gồm Nhật Bản, Malaysia, Canada, Mexico cùng

tham gia đàm phán. Phạm vi đàm phán/cam kết của TPP không chỉ dừng lại ở các

vấn đề về thương mại truyền thống (tiếp cận thị trường, dịch vụ và đầu tư) mà còn

mở rộng ra rất nhiều các vấn đề khác có liên quan như lao động, môi trường, hỗ trợ

doanh nghiệp nhỏ và vừa, cạnh tranh, minh bạch và chống tham nhũng,…

Đầu năm 2017, sau khi Donald Trump nhận chức tổng thống, Mỹ rút khỏi

TPP. Đến ngày 9/3/2018 lễ ký kết Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên

Thái Bình Dương (CPTPP) đã diễn ra bao gồm 11 nước còn lại không có Mỹ. Về cơ

bản, CPTPP vẫn giữ nguyên nội dung so với phiên bản gốc với 8.000 trang và chỉ

tạm hoãn thực thi 22 điều khoản chủ yếu liên quan tới sở hữu trí tuệ nhằm bảo đảm

sự cân bằng giữa 11 nước thành viên.

CPTPP được coi là một trong những hiệp định thương mại tự do đồ sộ nhất

9

thế giới bởi 3 lý do. Thứ nhất, quy mô của CPTPP rất lớn với với tổng dân số các

nước thành viên lên đến 800 triệu người, chiếm 40% kinh tế thế giới. Thứ hai, phạm

vi cam kết của CPTPP rộng nhất từ trước đến nay trong các hiệp định thương mại tự

do, bao gồm nhiều vấn đề chưa từng có trong các hiệp định thương mại khác. Thứ

ba, mức độ cam kết cũng rất sâu thông qua việc đưa ra nhiều rất nhiều yêu cầu bắt

buộc đi kèm với các biện pháp bảo đảm thực thi chặt chẽ, nghiêm túc.

Hiệp định CPTPP gồm 30 chương có thể chia thành 04 nhóm:

(1) Các quy định chung, nguyên tắc và giải thích từ ngữ (chương 1).

(2) Các quy định về thương mại hàng hóa (từ Chương 2 đến Chương 8), bao

gồm cả các nội dung về rào cản kỹ thuật và biện pháp vệ sinh dịch tễ: các quy định

về thương mại hàng hóa của CPTPP được xây dựng nhằm giảm đến mức tối đa các

rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa luân chuyển giữa các quốc gia

thành viên. CPTPP yêu cầu việc loại bỏ hoàn toàn thuế quan đối với hầu hết các mặt

hàng và giảm thuế lớn đối với các mặt hàng còn lại. Các biện pháp phi thuế quan

cũng sẽ bị kiểm soát chặt chẽ để tránh bị lạm dụng nhằm mục đích bảo hộ thương

mại. Nguyên tắc xuất xứ trong CPTPP đối với nhiều loại hàng hóa sẽ làm dịch

chuyển về mặt địa lý các dự án đầu tư sản xuất.

(3) Các quy định về đầu tư và thương mại dịch vụ (Chương 9 đến Chương

14): các quy định về đầu tư và thương mại dịch vụ trong CPTPP yêu cầu cao hơn

rất nhiều so với WTO. Thứ nhất, nguyên tắc chỉ tiến không lùi yêu cầu các quốc gia

không được ban hành các quy định liên quan đến đầu tư kém thuận lợi hơn so với

quy định trước đó. Thứ hai, nguyên tắc chọn bỏ thay vì chọn cho được hiểu rằng tất

cả những lĩnh vực không được liệt kê trong văn kiện là mở cửa toàn diện. Thứ ba,

cơ chế giải quyết tranh chấp nhà đầu tư và nhà nước sẽ giúp các nhà đầu tư được

quyền khởi kiện cả những văn bản pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.

(4) Các quy định về thể chế kinh tế gồm các vấn đề đấu thầu, cạnh tranh,

doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường, hỗ trợ doanh nghiệp,

hợp tác, phát triển, doanh nghiệp nhỏ và vừa, hài hòa hóa, chống tham nhũng…(từ

Chương 15 đến Chương 26). Mỗi chương đề cập đến một vấn đề khác nhau, nhưng

10

đều dựa theo nguyên tắc chung là các quốc gia bảo đảm việc xây dựng các thể chế

kinh tế sao cho tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh

nghiệp nội khối. Đây được coi là các vấn đề "có liên quan đến thương mại" và nhiều

chương trong số đó lần đầu tiên xuất hiện trong các hiệp định thương mại tự do như

môi trường, lao động, chống tham nhũng…

(5) Các quy định về thực thi CPTPP bao gồm tổ chức và hoạt động của các

cơ quan CPTPP, giải quyết tranh chấp, ngoại lệ và điều khoản cuối cùng (Chương

27 đến Chương 30).

Hệ thống pháp luật về tài nguyên và môi trường đã, đang được xây dựng,

hoàn thiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu, góp phần quan trọng trong công tác quản lý

nhà nước về tài nguyên và môi trường. Hàng lang pháp lý quản lý tài nguyên và bảo

vệ môi trường của một số lĩnh vực được thiết lập từ rất sớm và từng bước hoàn

thiện, tăng cường và cơ bản phù hợp với yêu cầu tình hình mới; một số lĩnh vực đã

cập nhật, nội luật hóa các cam kết quốc tế và từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập

quốc tế và gắn liền với công tác ứng phó với biến đổi khí hậu.

Tuy nhiên, một số lĩnh vực mới còn chưa có hành lang pháp lý cần thiết cho

công tác quản lý nhà nước như viễn thám, đo đạc bản đồ, biến đổi khí hậu. Chất

lượng, tính minh bạch, ổn định và tính khả thi của một số quy định chưa cao; còn

nhiều khoảng trống, bất cập, vướng mắc, thiếu đồng bộ về quy định pháp luật giữa

các lĩnh vực; các quy định pháp luật còn cồng kềnh, phức tạp, chồng chéo, thậm chí

là mâu thuẫn gây khó khăn cho việc áp dụng và tăng gánh nặng chi phí tuân thủ;

chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Tính kết nối,

đồng bộ của chính sách, pháp luật giữa các lĩnh vực về tài nguyên và môi trường

cũng như với các lĩnh vực khác còn thấp, mang tính cục bộ; các quy định pháp luật

về thủ tục hành chính còn phức tạp, rườm rà và thiếu rõ ràng, minh bạch….khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh các vướng mắc, bấp cập của quy định pháp luật về

tài nguyên và môi trường còn nhiều, chiếm tỷ lệ cao.

Trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và thực thi Hiến pháp năm

2013, chủ động hội nhập quốc tế và thực thi các cam kết của Việt Nam đặc biệt là

11

các cam kết của WTO, TPP, EV- FTA …và các điều ước quốc tế về tài nguyên và

môi trường … đòi hỏi hệ thống chính sách, pháp luật về tài nguyên và môi trường

phải được cải cách, đổi mới đáp ứng với yêu cầu, đòi hỏi của quốc tế, khu vực,

đồng thời đáp ứng nhu cầu “tự thân” của Việt Nam về hoàn thiện pháp luật trong

tình hình, bối cảnh mới. Các tác động của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng tính

cực đoan trên diện rộng đặt các chính sách, pháp luật và tài nguyên và môi trường

phải có những điều chỉnh phù hợp.

Hiện nay chưa có công trình nghiên cứu trong nước có nội dung liên quan

trực tiếp đến các cam kết về môi trường trong Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ

xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Hiện mới chỉ có một số nhiệm vụ chuyên môn

về xây dựng lộ trình thực hiện hoàn thiện hệ thống pháp luật và đề xuất kế hoạch

thực thi Hiệp định CPTPP. Do vậy việc tập trung nghiên cứu vào cam kết về môi

trường trong Hiệp định CPTPP sẽ là hết sức cần thiết để có thể đưa ra những cơ hội

và thách thức đặt ra đối với Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về

môi trường của Việt Nam,

2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài

Về mục tiêu: đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của Hiệp định CPTPP

nhằm xác định cụ thể các nghĩa vụ của Việt Nam cần phải thực hiện liên quan đến tài

nguyên và môi trường; trên cơ sở đó rà soát pháp luật của nước ta về tài nguyên và

môi trường, đưa ra phân tích, đánh giá để xác định sự phù hợp, sự mâu thuẫn, những

vấn đề còn chưa rõ ràng, chưa được quy định; đồng thời đánh giá thực trạng thực thi

các quy định này trên thực tế; từ đó đưa ra được cơ hội và thách thức để đề xuất hoàn

thiện hệ thống pháp luật về tài nguyên và môi trường ở nước ta, một mặt bảo đảm sự

thực hiện hiệu quả Hiệp định CPTPP; mặt khác góp phần bảo đảm sự hoàn thiện của

hệ thống pháp luật về tài nguyên và môi trường ở nước ta.

Trong phạm vi nghiên cứu về:

Phạm vi địa lý: Việt Nam

12

Phạm vi thời gian: từ 2010 đến 2020.

Phạm vi học thuật: Đề tài tập trung vào nghiên cứu các quy định trong

Chương Môi trường (Chương 20) của Hiệp định CPTPP và các quy định của pháp

luật Việt Nam hiện hành.

3. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thống kê, tổng hợp, thu thập, đánh giá, xử lý tài liệu, dữ liệu

hiện có liên quan đến các quy định về tài nguyên và môi trường, về Hiệp định

CPTPP của một số nước trên thế giới và của Việt Nam.

- Phương pháp kế thừa các kết quả nghiên cứu điển hình hiện có về đánh giá

tác động của Hiệp định CPTPP trên cơ sở đó, xác định các yêu cầu thu thập, bổ

sung và phân tích các số liệu, tài liệu để hoàn chỉnh, bổ sung các quy định của Việt

Nam về tài nguyên và môi trường.

- Đề tài sẽ lập, sử dụng các bảng trong các nghiên cứu, phân tích để hình ảnh

hóa các so sánh, đánh giá để cung cấp cái nhìn rõ ràng và khách quan cho các phân

tích trong nghiên cứu.

4. Những đóng góp mới của luận văn

Thứ nhất, Đề tài đáp ứng nhu cầu cấp thiết hoàn thiện chính sách pháp luật

về tài nguyên và môi trường của Việt Nam bảo đảm thực thi hiệu quả Hiệp định

CPTPP. Đồng thời, đề tài đưa ra các giải pháp chính sách giải quyết các vấn đề tồn

tại liên quan đến nâng cao năng lực, minh bạch trong tham gia thị trường CPTPP.

Thứ hai, các kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm thực thi Hiệp định CPTPP

một mặt giúp Việt Nam hoàn thành các nghĩa vụ đã cam kết, tránh các xung đột,

tranh chấp trong quản lý nhà nước. Đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

tổ chức, cá nhân, đặc biệt là nhà đầu tư, kinh doanh, thương mại khi Hiệp định

CPTPP có hiệu lực trên cơ sở hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường phù

hợp với Hiệp định CPTPP, từ đó giúp doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu của

CPTPP về bảo vệ môi trường tránh vi phạm, xung đột, tranh chấp, khiếu nại trong

quá trình đầu tư, kinh doanh.

13

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn

Ý nghĩa khoa học: kết quả nghiên cứu đề tài có góp phần thực hiện các chủ

trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tài nguyên và môi trường,

đồng thời nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường của xã hội,

đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền trung ương và địa phương,

các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp, cộng

đồng dân cư.

Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài là bộ tài liệu tham khảo tốt cho

các cơ quan nhà nước, các trường Đại học, Viện nghiên cứu nhằm phục vụ nghiên

cứu, giảng dạy và đào tạo.

6. Kết cấu của Luận văn

Kết cấu của luận văn, ngoài phần tóm tắt, mở đầu, kết luận, tài liệu tham

khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm ba chương:

Chương 1: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

(CPTPP) và các cam kết về môi trường trong Hiệp định.

Chương 2: Cơ hội, thách thức đối với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành

trong việc thực thi các cam kết môi trường của Hiệp định CPTPP

14

Chương 3: Giải pháp đối với Việt Nam trước những cơ hội và thách thức đặt ra

CHƯƠNG 1: HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN

THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP) VÀ CÁC CAM KẾT VỀ MÔI TRƯỜNG

TRONG HIỆP ĐỊNH

1.1. Sơ lược nội dung Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình

Dương (CPTPP)

Hiệp định CPTPP gồm 30 chương có thể chia thành các nhóm như sau:

- Chương 1: các quy định chung và giải thích từ ngữ

- Từ Chương 2 đến Chương 8 là các quy định về thương mại hàng hóa, bao

gồm cả các nội dung về rào cản kỹ thuật và biện pháp vệ sinh dịch tễ

Các quy định về thương mại hàng hóa của CPTPP được xây dựng nhằm

giảm đến mức tối đa các rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa luân

chuyển giữa các quốc gia thành viên. CPTPP yêu cầu việc loại bỏ hoàn toàn thuế

quan đối với hầu hết các mặt hàng và giảm thuế lớn đối với các mặt hàng còn lại.

Các biện pháp phi thuế quan cũng sẽ bị kiểm soát chặt chẽ để tránh bị lạm dụng

nhằm mục đích bảo hộ thương mại. Nguyên tắc xuất xứ trong CPTPP đối với nhiều

loại hàng hóa sẽ làm dịch chuyển về mặt địa lý các dự án đầu tư sản xuất.

- Từ Chương 9 đến Chương 14 là các quy định về đầu tư và thương mại dịch vụ

Các quy định về đầu tư và thương mại dịch vụ trong CPTPP yêu cầu cao hơn

rất nhiều so với WTO. Thứ nhất, nguyên tắc chỉ tiến không lùi yêu cầu các quốc gia

không được ban hành các quy định liên quan đến đầu tư kém thuận lợi hơn so với

quy định trước đó. Thứ hai, nguyên tắc chọn bỏ thay vì chọn cho được hiểu rằng tất

cả những lĩnh vực không được liệt kê trong văn kiện là mở cửa toàn diện. Thứ ba,

cơ chế giải quyết tranh chấp nhà đầu tư và nhà nước sẽ giúp các nhà đầu tư được

quyền khởi kiện cả những văn bản pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.

- Từ Chương 15 đến Chương 26 là các quy định về thể chế kinh tế gồm các

vấn đề đấu thầu, cạnh tranh, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, lao động, môi

trường, hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác, phát triển, doanh nghiệp nhỏ và vừa, hài hòa

15

hóa, chống tham nhũng…

Mỗi chương đề cập đến một vấn đề khác nhau, nhưng đều dựa theo nguyên

tắc chung là các quốc gia bảo đảm việc xây dựng các thể chế kinh tế sao cho tạo

môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp nội khối. Đây

được coi là các vấn đề "có liên quan đến thương mại" và nhiều chương trong số đó

lần đầu tiên xuất hiện trong các hiệp định thương mại tự do như môi trường, lao

động, chống tham nhũng…

- Từ Chương 27 đến Chương 30 là các quy định về thực thi CPTPP bao gồm

tổ chức và hoạt động của các cơ quan CPTPP, giải quyết tranh chấp, ngoại lệ và

điều khoản cuối cùng.

1.2. Các vấn đề về môi trường trong thương mại quốc tế

Tác động của việc tự do hóa thương mại quốc tế lên môi trường luôn là yếu

tố không thể bỏ qua trong các hiệp định thương mại. Có thể kể đến một số tác động

chủ yếu sau:

- Sự gia tăng hoạt động kinh tế tác động lên nhu cầu sử dụng tài nguyên và

sức chịu tải của môi trường

Đối với các hiệp định thương mại truyền thống, việc gỡ bỏ rào cản đối với

hàng hóa giúp mở rộng thị trường từ đó làm gia tăng các hoạt động sản xuất kinh tế

của con người, như tăng quy mô các nhà máy sản xuất, gia tăng hoạt động vận tải,

tăng khối lượng chất thải… Các hoạt động kinh tế đó cũng sẽ kéo theo các tác động

môi trường về nhu cầu sử dụng tài nguyên và khả năng tiếp nhận chất thải của môi

trường. Đây là tác động trực tiếp, dễ nhận thấy nhất của các hiệp định thương mại tự

do lên môi trường và tài nguyên của tất cả các quốc gia tham gia.

- Sự dịch chuyển đầu tư về các quốc gia có chi phí bảo vệ môi trường thấp hơn

Pháp luật về bảo vệ môi trường tại các quốc gia không tương đồng nhau nên

các doanh nghiệp sẽ có xu hướng lựa chọn đầu tư sản xuất tại những nơi có pháp

luật lỏng lẻo hơn nhằm tiết kiệm chi phí. Điều này sẽ khiến cho các tác động môi

trường tổng thể gia tăng, bao gồm cả việc sự dụng quá mức tài nguyên thiên nhiên

16

và phát sinh chất thải, biến đổi đối với môi trường tự nhiên. Sự dịch chuyển đầu tư

này có thể giúp các quốc gia đang phát triển có thêm nguồn lực để phát triển kinh

tế, nhưng cũng đặt ra quan ngại về tình trạng ô nhiễm môi trường gia tăng.

Theo một nghiên cứu của Đinh Đức Trường được công bố gần đây, một

trong những lý do để các doanh nghiệp FDI chọn đầu tư vào Việt Nam là do chi phí

môi trường thấp, với mức tiết kiệm chủ yếu nằm trong khoảng từ 10% đến 50% so

với đầu tư vào nước mẹ.

- Không bình đẳng về chi phí bảo vệ môi trường trong sản xuất

Trong trường hợp giữa các quốc gia khác nhau có sự chênh lệch quá lớn về mức độ

bảo vệ môi trường có thể dẫn đến tình trạng các chi phí bảo vệ môi trường trong quá

trình sản xuất của các doanh nghiệp tại các quốc gia này khác nhau. Quốc gia nào

có quy định bảo vệ môi trường chặt chẽ hơn có thể sẽ khiến sản phẩm được sản xuất

tại nước đó có chi phí cao hơn từ đó kém cạnh tranh hơn so với sản phẩm cùng loại

đến từ quốc gia có tiêu chuẩn môi trường thấp hơn. Điều đó dẫn đến nhu cầu cần có

sự điều chỉnh trong pháp luật về thương mại quốc tế nhằm hạn chế bớt sự chênh

lệch này.

- Hạn chế quyền đặt hàng rào kỹ thuật nhằm bảo vệ môi trường

Mặc dù các hiệp định thương mại đều có ngoại lệ cho phép các quốc gia đặt

ra rào cản đối với hàng hóa nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường, nhưng trong khuôn

khổ WTO và GATT đã ghi nhận 9 vụ tranh chấp liên quan đến vấn đề môi trường.

Nội dung chủ yếu của các vụ kiện này là xác định ranh giới giữa quyền bảo vệ môi

trường một cách chính đáng của các quốc gia và việc lợi dụng nó nhằm mục đích

bảo hộ thương mại .

Những tác động này khiến các vấn đề môi trường ngày càng được quan tâm

trong các hiệp định thương mại tự do.

1.3. Nguồn gốc về vấn đề môi trường trong Hiệp định CPTPP

CPTPP là một hiệp định thương mại, do đó, các vấn đề CPTPP đề cập cũng

phải xuất phát từ các lý do thương mại. Mặc dù không có giải thích một cách công

khai và chính thức, song có thể phỏng đoán rằng chương môi trường được đưa vào

17

CPTPP bởi các lý do sau:

- Thứ nhất, do sự lo ngại tác động tiêu cực của việc gia tăng các hoạt động

sản xuất lên tài nguyên và môi trường nên nhiều tổ chức hoạt động vì môi trường đã

vận động để Chính phủ các nước phát triển đưa nội dung về bảo vệ tài nguyên và

môi trường trong các hiệp định thương mại như CPTPP.

- Thứ hai, chi phí bảo vệ môi trường không bình đẳng giữa các quốc gia. Các

doanh nghiệp sản xuất tại các nước phát triển lo ngại về việc mình sẽ bị mất thị

phần do hàng hóa đến từ các nước đang phát triển mà quá trình sản xuất ra chúng đã

không bảo đảm công tác bảo vệ môi trường. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến

doanh nghiệp mà còn là việc làm của người dân tại các nước phát triển. Do đó,

chính phủ các nước phát triển có lý do để đưa các nội dung về môi trường vào một

hiệp định thương mại như CPTPP nhằm hạn chế việc các nước đang phát triển thu

hút đầu tư thông qua việc cắt giảm các biện pháp bảo vệ môi trường.

Lý do thứ hai này dẫn đến nguy cơ việc thực thi các nội dung về môi trường

trong CPTPP sẽ rất khác nhau giữa những mặt hàng khác nhau. Ví dụ, nếu nước

phát triển và đang phát triển cùng sản xuất một thứ mặt hàng có sự cạnh tranh với

nhau thì các nước phát triển sẽ có động lực để yêu cầu nước đang phát triển bảo

đảm yếu tố môi trường trong quá trình sản xuất mặt hàng đó. Nhưng nếu không có

sự cạnh tranh này, thậm chí nước phát triển là nơi tiêu thụ sản phẩm thì việc yêu cầu

nước đang phát triển tăng cường bảo vệ môi trường lại có tác động làm tăng giá

hàng hóa đấy tại nước phát triển. Đây là vấn đề cần được lưu ý trong quá trình thực

thi CPTPP ở Việt Nam.

Ngay trong lời nói đầu, các nước CPTPP đã xác định một trong những mục

tiêu của Hiệp định CPTPP là: “nhằm thúc đẩy việc bảo vệ môi trường ở cấp độ cao,

thông qua việc thực thi có hiệu quả pháp luật về môi trường; và đẩy mạnh các mục

tiêu phát triển bền vững, thông qua các chính sách và hành động hộ trợ đồng thời cả

thương mại và môi trường”. Như vậy, quan điểm của CPTPP về vấn đề môi trường

rất rõ ràng, bao gồm 2 nội dung: (1) tăng cường thực thi pháp luật về môi trường và

(2) ban hành và thực thi các chính sách cân bằng giữa thương mại và môi trường

18

theo hướng phát triển bền vững.

1.4. Các cam kết về môi trường trong Hiệp định CPTPP

1.4.1. Mục tiêu, phạm vi, các cam kết chung của Chương Môi trường

1.4.1.1. Mục tiêu của Chương Môi trường

Điều 20.2.(1) khẳng định Chương Môi trường có 3 mục tiêu: (1) thúc đẩy các

chính sách tương hỗ giữa thương mại và môi trường; (2) thúc đẩy việc thực thi pháp

luật bảo vệ môi trường; và (3) nâng cao năng lực của các quốc gia trong việc giải

quyết các vấn đề môi trường có liên quan đến thương mại.

Mặc dù đây là các mục tiêu phù hợp với chính sách chung của Việt Nam về

vấn đề môi trường, nhưng cách tiếp cận của CPTPP có điểm khác biệt so với cách

tiếp cận truyền thống của pháp luật môi trường Việt Nam, nằm ở hai điểm:

- Thứ nhất, CPTPP chú trọng sự cân bằng giữa thương mại và môi trường.

Xuất phát từ bản chất là một hiệp định thương mại, CPTPP không điều chỉnh các

vấn đề môi trường phi thương mại như các Hiệp định môi trường mà Việt Nam đã

ký kết trước đây. Điều này đòi hỏi các cơ quan xây dựng và thực thi chính sách về

môi trường cũng cần có cách tiếp cận riêng khi chính sách có tác động đến các hoạt

động thương mại.

- Thứ hai, CPTPP tập trung nhiều vào vấn đề thực thi luật môi trường so với

việc chỉ dừng lại ở giai đoạn xây dựng pháp luật như nhiều điều ước quốc tế về môi

trường trước đây. Nói cách khác, nếu Việt Nam chỉ "tuân thủ trên giấy", tức là có

ban hành quy định tương thích với CPTPP, nhưng không thực thi thì coi như không

tuân thủ.

Ngoài ra, CPTPP cũng chú trọng đến vấn đề nâng cao năng lực của các quốc

gia khi giải quyết vấn đề môi trường. Việt Nam được xem là một trong những quốc

gia có trình độ phát triển thấp trong khối, nên Việt Nam chủ yếu sẽ là đối tượng đón

nhận hỗ trợ từ các nước CPTPP khác trong việc nâng cao năng lực. Điều này không

có gì mới lạ so với các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam đã tham gia

trước đây. Tuy nhiên, như đã phân tích trong phần trên, xuất phát điểm của CPTPP

19

cũng là một hiệp định thương mại tự do chứ không phải là một điều ước về môi

trường, do đó, phạm vi hỗ trợ mà Việt Nam nhận được sẽ chỉ dừng lại ở các vấn đề

môi trường có ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư giữa các quốc gia CPTPP.

Nguyên tắc không cản trở trá hình đối với thương mại

Điều 20.2.(3) nhắc lại nguyên tắc các quốc gia không được lạm dụng pháp

luật về môi trường để hạn chế thương mại và đầu tư một cách trá hình. Điều khoản

này tương tự như nguyên tắc đã được áp dụng trong WTO, nhưng mở rộng hơn.

Nếu như WTO chỉ áp dụng nguyên tắc này đối với các biện pháp hàng rào kỹ thuật

đối với hàng hóa tại biên giới, thì CPTPP còn áp dụng cho toàn bộ các quy định về

môi trường khác. Nói cách khác, nếu như trước đây việc cấm "trá hình" chỉ áp dụng

cho các chính sách đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thì với TPP đã mở rộng ra toàn

bộ pháp luật về môi trường như phạm vi xác định tại Điều 20.1.

Đây là quy định quan trọng, nhưng cũng rất khó để xác định, đặc biệt là xác

định yếu tố "trá hình" trong việc ban hành và thực thi chính sách. Bởi mỗi chính

sách luôn có nhiều tác động khác nhau đồng thời đến cả kinh tế, thương mại và môi

trường. Việc xác định xem chính sách đó thực sự vì mục đích bảo vệ môi trường

hay chỉ "trá hình" để phục vụ mục tiêu hạn chế thương mại là điều không dễ dàng.

Kinh nghiệm của WTO trong vấn đề xuất nhập khẩu hàng hóa cho thấy, việc phân

biệt hai trường hợp này chủ yếu dựa trên việc xác định cơ sở khoa học của chính

sách đó. Nếu chính sách đưa ra có cơ sở khoa học, dựa trên kết quả nghiên cứu khoa

học về môi trường, thì được coi là không "trá hình". WTO không yêu cầu quá cao

về việc nghiên cứu khoa học đó phải thực sự đáng tin cậy mà chỉ cần có bằng chứng

về mặt khoa học là được.

Điều luật này không quy định nghĩa vụ bắt buộc đối với Việt Nam, song

cũng đưa ra gợi ý cho việc đánh giá tác động khi xây dựng chính sách môi trường.

Các cơ quan xây dựng chính sách môi trường chỉ cần đưa ra được bằng chứng khoa

học để chứng minh rằng quy định mình xây dựng có tác dụng bảo vệ môi trường là

đủ.

20

1.4.1.2. Phạm vi của Chương Môi trường

Phạm vi của Chương 20 CPTPP được xác định theo định nghĩa của pháp luật

về môi trường tại Điều 20.1 CPTPP. Theo định nghĩa này, thì lĩnh vực bảo vệ môi

trường bao trùm nhiều lĩnh vực bảo vệ môi trường được bảo hiểm, trong khi đó vấn

đề về an toàn và sức khỏe người lao động bị loại trừ.

Theo định nghĩa về luật môi trường, phạm vi của Chương 20 CPTPP đi vượt

ra ngoài các lĩnh vực được nêu cụ thể tại các Điều 20.5 đến 20.17 CPTPP. Trong đó

gồm bảo vệ môi trường nước, không khí và đất; cũng như quản lý hóa chất và chất

thải

1.4.1.3. Các cam kết chung

Điều 20.3 đưa ra 7 cam kết chung, trong đó có 4 vấn đề có tác động đến hệ

thống pháp luật Việt Nam, bao gồm:

Những yêu cầu bắt buộc được quy định tại Điều 20.3 (1), (2) và (7) CPTPP.

Với những khoản này, các bên CPTPP nhận ra mối tương quan giữa thương mại và

bảo vệ môi trường, chủ quyền của các bên CPTPP để quyết định mức độ bảo vệ môi

trường và thiết lập các ưu tiên, và sự không phù hợp của các hoạt động thực thi của

một bên CPTPP trong lãnh thổ của một bên trong CPTPP.

1.4.2. Các lĩnh vực bảo vệ môi trường cụ thể trong Chương 20 Hiệp định CPTPP

Một số lĩnh vực môi trường được đặc biệt chú ý quy định cụ thể trong

Chương 20 CPTPP, bao gồm: bảo vệ tầng ô-zôn, bảo vệ môi trường biển khỏi ô

nhiễm từ tàu biển; bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học; kiểm sát loài

ngoại lại xâm lấn, chuyển đổi sang nền kính tế các bon thấp, đánh bắt hải sản và bảo

vệ động vật nguy cấp.

1.4.2.1. Bảo vệ tầng ô-zôn

Các biện pháp kiểm soát các chất gây suy giảm tầng ô-zôn

CPTPP yêu cầu các quốc gia có biện pháp kiểm soát sản xuất, buôn bán và

tiêu thụ các chất gây suy giảm tầng ô-zôn. Phụ lục 20-A cũng đã liệt kê các văn bản

pháp luật về bảo vệ tầng ô-zôn mà Việt Nam đã ban hành và có nghĩa vụ duy trì,

bao gồm: Điều 42 Luật Bảo vệ môi trường 2014, Thông tư liên tịch 47/2011/TTLT-

21

BCT-BTNMT và Quyết định 15/2006/QĐ-BTNMT. Như vậy, pháp luật Việt Nam

đã hoàn toàn tuân thủ các quy định tại Điều 20.5 (1) của CPTPP và không cần thiết

phải điều chỉnh.

Hiệu lực của Điều 20.5.1 không cao vì Việt Nam chỉ bị coi là vi phạm khi

Việt Nam không thực hiện các biện pháp kiểm soát sản xuất, sử dụng, buôn bán

chất gây suy giảm tầng ô-zôn mà có tác động xấu đến sức khỏe con người, môi

trường và phải ảnh hưởng đến thương mại giữa các quốc gia CPTPP. Như vậy, các

điều kiện để chứng minh vi phạm là rất ngặt nghèo.

Ngoài các văn bản đã được liệt kê tại Phụ lục 20-A, qua rà soát cho thấy Việt

Nam có nhiều các văn bản khác cũng có quy định nhằm bảo vệ tầng ô-zôn. Ví dụ

Danh mục các công nghệ cấm chuyển giao theo Luật Chuyển giao công nghệ cũng

có nội dung bao gồm các Công nghệ sử dụng chất CFC và HCFC. Thông tư

14/2009/TT-BNNPTNT hướng dẫn quản lý môi trường trong chế biến thủy sản

cũng có quy định về việc loại bỏ hoặc giảm tiêu thụ tiến tới loại bỏ đối với các thiết

bị làm lạnh có sử dụng CFCs. Thông tư 53/2012/TT-BGTVT cũng yêu cầu các

hãng hàng không dân dụng phải có kế hoạch thay thế tiến tới loại trừ việc sử dụng

các chất làm lạnh nhóm CFC. Trong Bộ tiêu chí nhãn du lịch bền vững cũng có một

tiêu chí về việc cơ sở lưu trú có sử dụng thiết bị làm lạnh CFC hay không. Như vậy,

pháp luật Việt Nam đã vượt trên yêu cầu của CPTPP về nội dung này.

Minh bạch và sự tham gia của công chúng trong hoạt động bảo vệ tầng ô-

zôn

Điều 20.5.(2) yêu cầu Việt Nam phải công bố công khai các thông tin phù

hợp về các chương trình và hành động, bao gồm cả các chương trình hợp tác quốc tế

về bảo vệ tầng ô-zôn. Ngoài ra, điều luật này cũng khuyến khích Việt Nam thực

hiện các hoạt động tham vấn cộng động về các biện pháp bảo vệ tầng ô-zôn.

Trong Chương 20, có 3 điều luật yêu cầu các quốc gia thành viên phải công

bố thông tin về các chương trình, hoạt động gồm: Điều 20.5.(2) về chương trình,

hoạt động bảo vệ tầng ô-zôn; Điều 20.6.(2) về chống ô nhiễm từ tàu biển; Điều

20.13.(5) về bảo vệ đa dạng sinh học. Vấn đề tham vấn cộng đồng và công khai

22

thông tin sẽ được bàn sâu hơn tại nội dung về các quy định thủ tục tại Điều 20.7.(1).

Riêng đối với các thông tin về chương trình, hoạt động bảo vệ tầng ô-zôn,

qua thực tiễn rà soát, chưa ghi nhận trường hợp nào các chương trình, kế hoạch

hành động liên quan đến bảo vệ tầng ô-zôn được tiến hành tham vấn trước khi quyết

định. Về công khai thông tin, hiện nay website của Cơ quan đầu mối quốc gia thực

hiện Nghị định thư Montreal ở Việt Nam là Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi

khí hậu (http://www.dmhcc.gov.vn/) và Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo thực

hiện Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu và Nghị định thư

Kyoto (http://www.noccop.org.vn/) cũng không có nhiều thông tin về các dự án,

chương trình hoạt động của Việt Nam về bảo vệ tầng ô-zôn. Qua rà soát, hai

website này chỉ đăng tải hai hoạt động là "Kế hoạch quản lý loại trừ các chất HCFC

của Việt Nam giai đoạn 1" (năm 2012) do Quỹ đa phương thi hành Nghi định thư

Montreal tài trợ ủy thác qua Ngân hàng Thế giới WB và Chương trình quốc gia của

Việt Nam nhằm loại trừ dần các chất làm suy giảm tầng ô-zôn (năm 1994).

Hợp tác quốc tế về bảo vệ tầng ô-zôn

CPTPP cũng quy định các quốc gia phải hợp tác với nhau để giải quyết các

vấn đề về các chất gây suy giảm tầng ô-zôn, tập trung chủ yếu vào vấn đề trao đổi

thông tin và kinh nghiệm liên quan đến (1) các chất thay thế chất gây suy giảm tầng

ô-zôn; (2) các thực tiễn, chính sách và chương trình quản lý thiết bị làm lạnh; (3)

các phương pháp đo ô-zôn trong tầng bình lưu; và (4) chống lại việc buôn bán trái

phép các chất gây suy giảm tầng ô-zôn. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tiếp cận

với thông tin, học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác trong việc bảo vệ tầng ô-

zôn hoặc nhận được các hỗ trợ trong việc loại bỏ, thay thế các chất gây suy giảm

tầng ô-zôn và các thiết bị làm lạnh có sử dụng các chất này.

1.4.2.2. Bảo vệ môi trường biển khỏi ô nhiễm từ tàu

Điều 20.6 Hiệp định CPTPP quy định việc bảo vệ môi trường với việc thực

thi các biện pháp bảo vệ ô nhiễm từ tàu biển, quy định về sự minh bạch và sự tham

gia của công chúng và nêu các lĩnh vực hợp tác giữa các bên trong CPTPP

23

Các biện pháp kiểm soát

CPTPP yêu cầu Việt Nam thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường biển

khỏi ô nhiễm từ tàu được quy định trong 4 văn bản gồm: (1) Luật Bảo vệ môi

trường 2014; (2) Bộ luật Hàng hải 2005; (3) Thông tư 50/2012/TT-BGTVT về quản

lý tiếp nhận và xử lý chất thải chứa dầu từ tàu biển tại cảng của Việt Nam; (4) Quy

chuẩn kỹ thuật quốc gia 26:2014/BGTVT về hệ thống chống ô nhiễm của tàu biển.

Theo quy định này, hệ thống pháp luật Việt Nam chỉ cần duy trì các quy định tại 4

văn bản này là được coi đã tương thích với yêu cầu của CPTPP.

Tương tự như các biện pháp bảo vệ tầng ô-zôn, một quốc gia chỉ bị xem là vi

phạm quy định này nếu việc vi phạm đó có ảnh hưởng đến thương mại nội khối

CPTPP. Do đó, khả năng Việt Nam vi phạm quy định này là rất nhỏ.

Tuy nhiên, vấn đề thực thi các quy định tại 4 văn bản này phức tạp hơn so

với bảo vệ tầng ô-zôn. Một số quy định cụ thể như:

- Luật Bảo vệ môi trường 2014 đưa ra một số biện pháp để chống ô nhiễm

môi trường từ tàu biển gồm: (1) chất thải từ tàu biển phải được thống kê, phân loại,

đánh giá và có giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu, xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi

trường; (2) dầu, mỡ, dung dịch khoan, nước dằn tàu, hóa chất và các chất độc hại

khác từ tàu biển phải được thu gom, lưu giữ, vận chuyển và xử lý theo quy định vể

quản lý chất thải; (3) phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường trên biển; (4) quản lý

chất thải rắn thông thường trong toàn bộ quá trình phát sinh, giảm thiểu, phân loại,

thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và tiêu hủy; (5) lập hồ sơ, đăng ký, cấp

phép thu gom, lưu trữ, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại; và (6) quản lý, thu

gom, xử lý nước thải.

- Bộ Luật Hàng hải 2005 đưa ra các biện pháp chống ô nhiễm môi trường từ

tàu biển gồm: (1) đăng kiểm tàu biển; (2) tàu biển chuyên dùng để vận chuyển dầu

mỏ, chế phẩm từ dầu mỏ hoặc các hàng hoá nguy hiểm khác bắt buộc phải có bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu về ô nhiễm môi trường; và (3) không cho phép

tàu ra vào cảng hoặc bắt giữ tàu biển khi không đủ điều kiện cần thiết về phòng

24

ngừa ô nhiễm môi trường;

- Các biện pháp chống ô nhiễm của Thông tư 50/2012/TT-BGTVT bao gồm:

(1) cảng biển, bến cảng phải trang bị phương tiện tiếp nhận hoặc trạm xử lý chất

thải lỏng có dầu; (2) các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tiếp nhận và xử lý

chất thải lỏng có dầu từ tàu biển phải được cấp phép hành nghề quản lý chất thải

nguy hại; (3) bên tiếp nhận chất thải lỏng có dầu tại cảng phải báo cáo kết quả giao

nhận và xử lý sau mỗi lần thực hiện; (4) bên tiếp nhận, xử lý chất thải phải đăng ký

hoạt động với cơ quan nhà nước; (5) tàu biển vào cảng phải khai báo về lượng chất

thải lỏng có dầu hiện có trên tàu; (6) nếu tàu biển có yêu cầu về phương tiện tiếp

nhận và xử lý chất thải lỏng có dầu phải khai báo với Cảng vụ hàng hải; (7) kế

hoạch giao nhận chất thải lỏng có dầu tại khu vực cảng biển, bến cảng nơi tàu đến

phải được gửi cho Cảng vụ hàng hải; và (8) phải có Nhật ký dầu, được ghi chép đầy

đủ và trình cho cơ quan chức năng khi có yêu cầu.

- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia 26:2014/BGTVT đưa ra các biện pháp như:

thiết bị ngăn ngừa ô nhiễm, kế hoạch ứng cứu ô nhiễm do dầu, do thải các chất lỏng

độc, thiết bị ngăn ngừa ô nhiễm do nước thải của tàu, thiết bị ngăn ngừa ô nhiễm

không khí.

Rõ ràng, việc bảo đảm thực thi các quy định này không đơn giản. Ví dụ, quy

định chất thải từ hoạt động của tàu biển phải được thu gom, xử lý theo quy chuẩn kỹ

thuật môi trường là tương đối khó thực thi bởi rất khó để giám sát tuân thủ. Hơn

nữa, Việt Nam cũng chưa có quy chuẩn kỹ thuật môi trường riêng đối với nước thải

từ tàu biển, mà buộc phải áp dụng quy chuẩn kỹ thuật nước thải công nghiệp chung.

Ngoài ra, Việt Nam còn có một số văn bản khác cũng liên quan đến vấn đề

chống ô nhiễm từ tàu biển như Nghị định 21/2012/NĐ-CP ngày 21/3/2012 về Quản

lý cảng biển và luồng hàng hải, Quyết định 02/2013/QĐ-TTg Ban hành Quy chế

hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu; Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia số 17:2011/BGTVT

về “Quy phạm về ngăn ngừa ô nhiễm do phương tiện thủy nội địa”; Nghị định số

93/2013/NĐ-CP ngày 21/6/2011 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực hàng hải có quy định một số hành vi vi phạm như (1) không ghi nhật ký bơm

25

nước la canh; (2) không trang bị các thùng chứa, phân loại rác theo quy định; (3)

bơm, xả các loại rác hoặc nước dằn tàu, nước có cặn bẩn từ tàu xuống cầu cảng

hoặc vùng nước cảng biển; (4) cọ rửa hầm hàng hoặc mặt boong gây ô nhiễm môi

trường; (5) tiến hành bơm chuyển nhiên liệu giữa tàu thuyền và phương tiện khác

khi chưa được phép của Cảng vụ hàng hải; (6) không có đủ các trang thiết bị phân

ly dầu nước theo quy định hoặc có trang thiết bị nhưng không sử dụng được; (7) để

xảy ra rò rỉ nước thải có lẫn dầu từ trên tàu xuống cầu cảng hoặc vùng nước cảng

biển; (8) không chấp hành một trong những quy trình, quy tắc an toàn kỹ thuật khi

tiếp nhận nhiên liệu; (9) cho tàu thuyền khác cập mạn khi đang trong quá trình tiếp

nhận nhiên liệu giữa hai tàu…

Theo báo cáo của Cục Hàng hải, Việt Nam đã gia nhập Phụ lục I và II của

Công ước MARPOL từ năm 1991 và đã có nhiều biện pháp để thực thi như tăng

cường công tác kiểm tra nhà nước cảng biển, xây dựng hệ thống tiếp nhận nước thải

lẫn dầu tại các cảng biển, dần tiến tới xây dựng các trung tâm thu gom, xử lý chất

thải lỏng lẫn dầu từ tàu biển. Việt Nam đã đặt mục tiêu đến năm 2015 có 30% cảng

biển quốc tế có trang bị phương tiện thu gom, xử lý rác thải, dầu thải từ tàu biển và

đến năm 2020, con số này đạt 70%. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống văn bản

pháp luật hoàn chỉnh để hướng dẫn việc thực hiện tiếp nhận và xử lý chất thải từ tàu

đáp ứng công ước quốc tế MARPOL, và cũng chưa có các chính sách hỗ trợ trang

bị phương tiện, thiết bị, công trình để tiếp nhận và xử lý chất thải này. Từ đó dẫn

đến sự manh mún trong công tác tiếp nhận và xử lý chất thải từ tàu tại các cảng, gây

không ít khó khăn cho việc quản lý và kiểm soát công tác này. Mặc dù đã có nhiều

cố gắng và đã đạt được những kết quả nhất định trong việc thực hiện Công ước

MARPOL, nhưng trong lĩnh vực này Việt Nam vẫn còn có những hạn chế nhất

định, cụ thể: (1) công tác tuyên truyền thực hiện Công ước còn chậm, hiệu quả thấp;

(2) chậm ban hành văn bản hướng dẫn thực thi công ước; (3) số lượng cảng biển

trang bị hệ thống tiếp nhận nước thải lẫn dầu, cặn dầu từ các tàu còn rất ít [Đề án

“Nghiên cứu, đánh giá hiện trạng, đề xuất quy hoạch và triển khai xây dựng các

26

công trình tiếp nhận và xử lý chất thải từ tàu đáp ứng yêu cầu của công ước

MARPOL và các quy định của pháp luật liên quan” – Cục Hàng hải Việt Nam,

2014.].

Ngày 16/10/2014, Việt Nam đã tham gia thêm các Phụ lục III, IV, V và VI

của Công ước MARPOL. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định

795/QĐ-TTg ngày 11/05/2016 về việc phê duyệt kế hoạch thực hiện các Phụ lục II,

IV, V và VI của Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra nhằm tăng

cường việc thực hiện các nội dung mà Việt Nam đã cam kết trong Công ước này.

Theo đó, từ năm 2016 đến năm 2020, Việt Nam sẽ tiến hành rà soát, hoàn thiện hệ

thống văn bản quy phạm pháp luật về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường do tàu gây ra

và quản lý chất thải phát sinh từ tàu trong hoạt động hàng hải, hoạt động thăm dò,

khai thác dầu khí ngoài khơi, công tác điều tra, phát hiện vi phạm, tai nạn hàng hải.

Hàng năm, các cơ quan nhà nước thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát thể thực

hiện trách nhiệm của quốc gia có tàu mang cờ, trách nhiệm của quốc gia ven biển và

trách nhiệm của quốc gia có cảng. Từ năm 2016 đến năm 2030, Việt Nam sẽ tập

trung vào việc đầu tư xây dựng, nâng cấp các hệ thống tiếp nhận chất thải tại các

cảng biển, triển khai áp dụng các trang thiết bị kiểm tra, kiểm soát chất thải phát

sinh từ tàu biển.

Ngoài ra, pháp luật Việt Nam cũng đã ban hành quy chế hoạt động ứng phó

sự cố tràn dầu ban hành theo Quyết định 02/2013/QĐ-TTg. Tuy nhiên, theo một số

phản ánh thực tế thì việc ứng phó với sự cố tràn dầu vẫn còn nhiều lúng túng, chưa

có sự đồng bộ về phân công phối hợp hay có trang thiết bị phù hợp.

Công khai về các chương trình, hành động

Điều 20.6.(2) yêu cầu Việt Nam phải công khai các thông tin phù hợp về các

chương trình và hành động, bao gồm cả các chương trình hợp tác, có liên quan đến

việc chống ô nhiễm từ tàu biển. Tương tự phần về bảo vệ tầng ô-zôn, vấn đề pháp

luật về công khai thông tin sẽ được tập trung phân tích tại Điều 20.7.(1).

Đơn vị chịu trách nhiệm thực thi công ước MARPOL ở Việt Nam là Cục

Hàng hải Việt Nam và các đề án, chương trình hành động để thực hiện công ước

27

này đã được công bố trên website của Cục tại địa chỉ

http://www.vinamarine.gov.vn/. Hiện nay, trên website này có đăng tải Danh mục

các đề án được phê duyệt qua các nă 2013 và 2014 trong đó có cả các đề án liên

quan đến việc chống ô nhiễm từ tàu biển. Ngoài ra, một văn bản hết sức quan trọng

là Đề án kiểm soát ô nhiễm môi trường trong hoạt động giao thông vận tải (ban

hành theo Quyết định số 855/QĐ-TTg ngày 06/06/2011 của Thủ tướng Chính phủ)

cũng đã được đăng tải đầy đủ. Như vậy, về cơ bản, Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ

công khai thông tin đối với các đề án, dự án, chương trình hành động có liên quan

trong lĩnh vực chống ô nhiễm từ tàu biển tương đối đầy đủ.

Hợp tác quốc tế về chống ô nhiễm từ tàu biển

CPTPP yêu cầu các quốc gia phải hợp tác để giải quyết các vấn đề chung liên

quan đến chống ô nhiễm từ tàu biển. Nội dung hợp tác bao gồm: (1) ô nhiễm do sự

cố từ tàu biển; (2) ô nhiễm từ hoạt động thường ngày của tàu; (3) ô nhiễm do cố ý;

(4) phát triển công nghệ nhằm giảm thiểu chất thải từ tàu; (5) khí thải từ tàu biển;

(6) trang bị thiết bị tiếp nhận chất thải tại cảng; (7) tăng cường bảo vệ các khu vực

địa lý đặc biệt; và (8) các biện pháp bảo đảm thi hành bao gồm thông báo đến quốc

gia mà tàu mang cờ.

Hiện nay, một trong những vấn đề mà Việt Nam gặp phải khi thực thi công

ước MARPOL là không đủ nguồn lực để trang bị các thiết bị bảo vệ môi trường trên

đội tàu mang cờ Việt Nam và thiết bị tiếp nhận chất thải từ tàu biển. Với các nội

dung hợp tác trong CPTPP như vậy, Việt Nam có thể sẽ nhận được sự hỗ trợ từ

quốc gia khác trong việc trang bị thiết bị bảo vệ môi trường trên tàu và thiết bị tiếp

nhận chất thải tại cảng.

1.4.2.3. Đa dạng sinh học

Điều 20.13 CPTPP nêu lên vấn đề về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng

sinh học, thông qua việc khuyến khích các hoạt động bảo vệ đa dạng sinh học, minh

bạch, sự tham gia của công chúng và chỉ ra các nội dung hợp tác giữa các bên trọng

CPTPP. Ngoài ra, còn bảo tồn và phát huy các kiến thức truyền thống trong bảo tồn

28

bền vững đa dạng sinh học và tiếp cận nguồn gen

Về vấn đề đa dạng sinh học, Việt Nam đã là thành viên của Công ước quốc

tế về đa dạng sinh học (CBD) nên hầu như tất cả các yêu cầu của CPTPP đã được

thể hiện trong pháp luật Việt Nam. Cũng do Hoa Kỳ không phải là thành viên của

CBD nên các cam kết ở đây không quá chi tiết hay bắt buộc cao đối với các thành

viên CPTPP. Vì vậy, việc tuân thủ nội dung này của CPTPP đối với Việt Nam

tương đối đơn giản.

Việt Nam đã có Luật Đa dạng sinh học từ năm 2008 với đầy đủ các nội dung

cần thiết để đáp ứng CBD, trong đó có cả các yêu cầu về (1) tri thức truyền thống

của cộng đồng; (2) giấy phép tiếp cận nguồn gen; (3) sự tham gia của công chúng

và công bố thông tin; và (4) hợp tác quốc tế.

Tri thức của cộng đồng có đóng góp cho bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh

học

Điều 3.28 của Luật Đa dạng sinh học đã đưa ra khái niệm "tri thức truyền

thống về nguồn gen là sự hiểu biết, kinh nghiệm, sáng kiến của người dân địa

phương về bảo tồn và sử dụng nguồn gen." Tiếp đó, Điều 5.3 của Luật Đa dạng sinh

học về các chính sách chung của Nhà nước có quy định việc Nhà nước khuyến

khích và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, áp dụng tiến

bộ khoa học, công nghệ, tri thức truyền thống vào việc bảo tồn, phát triển bền vững

đa dạng sinh học.

Luật đa dạng sinh học quy định tri thức truyền thống về nguồn gen tại Việt

Nam được coi là tài sản trí tuệ và được bảo hộ bản quyền. Luật cũng khuyến khích

việc đăng ký sở hữu đối với loại tài sản trí tuệ này. Cho đến nay, mới chỉ có Thông

tư 01/2007/TT-BKHCN hướng dẫn thi hành về sở hữu công nghiệp có quy định về

đơn đăng ký sáng chế liên quan đến nguồn gen hoặc tri thức truyền thống. Theo đó,

ngoài các yêu cầu chung đối với đơn đăng ký sáng chế, đơn đăng ký sáng chế liên

quan đến nguồn gen hoặc tri thức truyền thống còn phải có tài liệu thuyết minh về

nguồn gốc của nguồn gen và/hoặc của tri thức truyền thống mà tác giả sáng chế

hoặc người nộp đơn đã tiếp cận, nếu sáng chế trực tiếp dựa trên nguồn gen và/hoặc

29

tri thức truyền thống đó. Nếu tác giả sáng chế hoặc người nộp đơn không xác định

được nguồn gốc của nguồn gen và/hoặc của tri thức truyền thống thì phải nêu rõ

như vậy và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của điều đó.

Lưu ý, trong chương 18 về sở hữu trí tuệ của CPTPP, Điều 16 về hợp tác

trong các lĩnh vực tri thức truyền thống cũng có quy định nghĩa vụ đối với Việt

Nam trong việc hợp tác quốc tế nhằm nâng cao sự hiểu biết về các vấn đề liên quan

đến tri thức truyền thống gắn với nguồn gen, và các nguồn gen. Việt Nam sẽ thực

hiện việc thẩm định sáng chế, bao gồm: (1) khi xác định tác phẩm gốc, thông tin sẵn

có trong tài liệu liên quan đến tri thức truyền thống gắn với các nguồn gen có thể

được xem xét; (2) một cơ hội cho các bên thứ ba trích dẫn bằng văn bản cho cơ

quan kiểm tra có thẩm quyền các tác phẩm gốc mà có thể được bằng sáng chế, bao

gồm các tác phẩm gốc trước đây liên quan đến tri thức truyền thống gắn với các

nguồn gen; (3) việc sử dụng các cơ sở dữ liệu hoặc thư viện số có chứa tri thức

truyền thống gắn với các nguồn gen khi thích hợp và phù hợp; và (4) hợp tác trong

việc đào tạo giám định viên bằng sáng chế trong việc xem xét đơn xin cấp bằng

sáng chế liên quan đến tri thức truyền thống gắn với các nguồn gen. Đây có thể

được xem là tiêu chí phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam liên quan đến

việc công nhận tri thức truyền thống về nguồn gen.

Mục đích sử dụng thương mại của nguồn gen tương đối đa dạng, tập trung

chủ yếu vào các công dụng trong dược liệu và thực phẩm. Việt Nam là quốc gia có

nhiều tri thức truyền thống về nguồn gen và cũng có mức độ đa dạng sinh học cao.

Rất nhiều ví dụ về tri thức truyền thống của người Việt có thể kể đến như công

dụng chữa bệnh bồi bổ sức khỏe của một số loại thực vật. Chính vì thế, việc bảo hộ

đối với tri thức truyền thống về nguồn gen là khá quan trọng. Tuy nhiên, trên thực tế

việc đăng ký cấp bằng sáng chế đối với tri thức truyền thống về nguồn gen chưa

được thực hiện đúng mức.

Tiếp cận nguồn gen và giấy phép tiếp cận nguồn gen

Việc tiếp cận nguồn gen cũng đã được quy định trong Luật Đa dạng sinh học

30

của Việt Nam. Nghị định 65/2010/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đa dạng sinh học cũng

đã quy định chi tiết về trình tự thủ tục tiếp cận nguồn gen, theo đó, chủ thể có nhu

cầu sử dụng nguồn gen phải thực hiện các thủ tục sau: (1) đăng ký tiếp cận nguồn

gen tại UBND cấp tỉnh nơi có nguồn gen; (2) ký hợp đồng việc tiếp cận nguồn gen

và chia sẻ lợi ích với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quản lý nguồn gen

(hợp đồng này phải được UBND cấp xã xác nhận); và (3) gửi hồ sơ đề nghị cấp

giấy phép tiếp cận nguồn gen. Điều kiện để được cấp giấy phép tiếp cận nguồn gen

là việc sử dụng nguồn gen không được có nguy cơ gây hại đối với con người, môi

trường, an ninh, quốc phòng và lợi ích quốc gia. Thẩm quyền cấp giấy phép tiếp cận

nguồn gen thuộc về UBND cấp tỉnh, riêng đối với các loài được ưu tiên bảo vệ thì

thuộc thẩm quyền của Bộ TNMT. Chủ thể quản lý nguồn gen ở Việt Nam là các

Ban quản lý khu bảo tồn hoặc tổ chức được giao quản lý khu bảo tồn; chủ cơ sở bảo

tồn đa dạng sinh học, cơ sở nghiên cứ khoa học và phát triển công nghệ, cơ sở lưu

giữ, bảo quản nguồn gen, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được giao quản lý, sử dụng

đất, rừng, mặt nước, và UBND cấp xã. Bên tiếp cận nguồn gen phải chia sẻ lợi ích

với các bên liên quan, bao gồm cả việc phân chia quyền sở hữu trí tuệ. Việc chia sẻ

lợi ích có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như bằng tiền, hiện

vật, đào tạo, chuyển giao công nghệ, đóng góp kinh tế địa phương, hỗ trợ xóa đói

giảm nghèo… và được xác định trong hợp đồng và giấy phép, nhưng không được

thấp hơn 30% tổng lợi ích ích thu được từ việc tiếp cận nguồn gen đó.

Thủ tục mang tính tiền kiểm của việc tiếp cận nguồn gen như vậy là tương

đối chặt chẽ, song lại chưa thực sự minh bạch. Pháp luật yêu cầu phải đăng ký và

được UBND cấp tỉnh chấp nhận tiếp cận nguồn gen trước khi ký hợp đồng, nhưng

lại không có quy định về tiêu chí chấp nhận hay không chấp nhận. Tiêu chí để

không cấp giấy phép tiếp cận nguồn gen là "có nguy cơ gây hại đối với con người,

môi trường, an ninh, quốc phòng và lợi ích quốc gia" cũng rất chung chung và

không có nhiều ý nghĩa thực tiễn. Các quy định này sẽ tạo nguy cơ tùy tiện trong

quá trình áp dụng. Việc điều chỉnh các quy định này theo hướng tăng tính minh

bạch không chỉ giúp quá trình thực thi trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn mà còn có tác

31

dụng giúp Việt Nam tuân thủ tốt hơn các quy định của CPTPP. Bởi lẽ, dù CPTPP

cho phép Việt Nam áp dụng cơ chế tiền kiểm trong việc tiếp cận nguồn gen, nhưng

cơ chế tiền kiểm đó cũng cần đáp ứng các tiêu chuẩn chung của CPTPP về không

tạo rào cản trá hình cho thương mại hoặc phân biệt đối xử.

Ngoài quản lý bằng giấy phép tiếp cận nguồn gen, pháp luật Việt Nam còn

hạn chế việc xuất khẩu nguồn gen thông qua các quy định về cấm xuất khẩu giống

cây trồng, vật nuôi, loài thủy sản. Việt Nam đã ban hành Danh mục các giống vật

nuôi, cây trồng, loài thủy sản không được phép xuất khẩu (Quyết định 69/2004/QĐ-

BNN, Quyết định 78/2004/QĐ-BNN, và Thông tư 04/2015/TT-BNNPTNT).

Công khai thông tin về đa dạng sinh học

Tương tự như các vấn đề công khai thông tin về chương trình và hành động

bảo vệ tầng ô-zôn và chống ô nhiễm từ tàu biển, pháp luật về vấn đề này của Việt

Nam tương đối hoàn thiện. Thậm chí, pháp luật về đa dạng sinh học còn có khá

nhiều quy định mang tính công khai thông tin, bao gồm: (1) danh mục loài nguy

cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; danh mục loài hoang dã bị cấm khai thác trong

tự nhiên và Danh mục loài hoang dã được khai thác có điều kiện trong tự nhiên; (2)

danh mục loài ngoại lai xâm hại, thông tin về khu vực phân bổ, mức độ xâm hại,

biện pháp kiểm soát, cô lập, diệt trừ; (3) thông tin về mức độ rủi ro và các biện pháp

quản lý rủi ro của sinh vật biến đổi gen đối với đa dạng sinh học; (4) quy hoạch bảo

tồn đa dạng sinh học của cả nước và cấp tỉnh. Các thông tin này đều đã được công

bố trên thực tế thông qua các văn bản quy phạm pháp luật.

Ngoài ra, Luật Đa dạng sinh học cũng có quy định về việc lấy ý kiến cộng

đồng dân cư sinh sống trong khu vực dự kiến thành lập khu bảo tồn hoặc tiếp giáp

với khu bảo tồn đối với dự án thành lập khu bảo tồn cấp quốc gia và cấp tỉnh.

Trách nhiệm quản lý các chương trình và hoạt động về đa dạng sinh học của

Việt Nam được giao cho Cục Bảo tồn đa dạng sinh học thuộc Tổng cục Môi trường,

Bộ TNMT. Website đăng tải thông tin về các chương trình và hoạt động này tại địa

chỉ: http://bca.vea.gov.vn/. Hiện nay, website đã có nhiều chuyên mục về thông tin,

32

dữ liệu, danh mục và báo cáo đề tài, nhiệm vụ và nhiều chuyên mục khác liên quan

đến các hoạt động, chương trình bảo tồn đa dạng sinh học. Tuy nhiên, các chuyên

mục này đều trống rỗng. Thông tin có được về các chương trình, hoạt động bảo tồn

đa dạng sinh học trên website được thể hiện ở mục tin tức chứ không được lập

thành các thông báo hay báo cáo đầy đủ. Điều đáng ghi nhận là website đã có mục

Hợp tác quốc tế nhằm đăng tải thông tin về các chương trình hợp tác quốc tế gồm:

dự án “Ngăn ngừa và quản lý sinh vật rừng ngoại lai xâm hại ở rừng sản xuất và

rừng được bảo vệ khu vực Đông Nam Á” (dự án IAS) và dự án “Xây dựng Chiến

lược và Kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học của Việt Nam và lồng

ghép bảo tồn đa dạng sinh học vào quy hoạch sử dụng đất tại địa phương”.

Như vậy, các quy định pháp luật về công khai thông tin các chương trình và

hoạt động về bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam đã tương thích với CPTPP. Về

triển khai trên thực tế thì cần chú trọng hơn việc công bố thông tin trên website của

Cục Bảo tồn đa dạng sinh học.

1.4.2.4. Loài ngoại lai xâm hại

Điều 20.14.(1) của CPTPP đề cập đến vấn đề loài ngoại lai xâm hại nhưng

lại không đưa ra yêu cầu cứng về việc các quốc gia thành viên phải áp dụng biện

pháp phòng ngừa, phát hiện, kiểm soát và diệt trừ các loài ngoại lai xâm hại. Do

Hoa Kỳ không phải là một thành viên của Công ước về Đa dạng sinh học (CBD)

nên các cam kết ở điều luật này chỉ mang tính ghi nhận, trong khi CBD coi đây là

nội dung bắt buộc.

Luật Đa dạng sinh học của Việt Nam cũng đã có quy định về loài ngoại lai

xâm hại và các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, kiểm soát và diệt trừ. Trách nhiệm

điều tra và lập danh mục loài ngoại lai xâm hại thuộc về UBND cấp tỉnh, Bộ TNMT

và Bộ NNPTNT. Nhiệm vụ chính kiểm soát việc nhập khẩu loài ngoại lai xâm hại

thuộc về cơ quan hải quan tại cửa khẩu. Đối với các loài ngoại lai có nguy cơ xâm

hại, phải thực hiện khảo nghiệm để bảo đảm loài đó không có nguy cơ xâm hại

trước khi nuôi trồng. UBND cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm soát sự lây lan, phát triển,

33

cô lập và diệt trừ loài ngoại lai xâm hại. Hiện nay, danh mục các loài ngoại lai xâm

hại và loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại đã được công bố tại Thông tư liên tịch

27/2013/TTLT-BTNMT-BNNPTNT quy định tiêu chí xác định và danh mục loài

ngoại lai xâm hại do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường - Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn ban hành.

Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định 1896/QĐ-

TTg năm 2012 phê duyệt Đề án ngăn ngừa và kiểm soát sinh vật ngoại lai xâm hại ở

Việt Nam đến năm 2020. Theo đó, tập trung kiểm soát và diệt trừ một số loài ngoại

lai đang xâm hại nghiêm trọng ở Việt Nam gồm: ốc bươu vàng, cây mai dương, cây

trinh nữ móc.

1.4.2.5. Nền kinh tế ít phát thải

Điều 20.15 của CPTPP đề cập đến nền kinh tế ít phát thải, tuy nhiên, các quy

định ở đây chỉ mang tính tuyên ngôn mà không có cam kết cụ thể. Về vấn đề này,

CPTPP chỉ nhấn mạnh vào việc hợp tác quốc tế và nâng cao năng lực. Các nội dung

hợp tác mà CPTPP quan tâm bao gồm: (1) hiệu quả năng lượng; (2) phát triển các

công nghệ hiệu quả, ít phát thải và các nguồn năng lượng thay thế, sạch và tái tạo;

(3) giao thông bền vững và phát triển hạ tầng đô thị bền vững; (4) giải quyết nạn

phá rừng và suy thoái rừng; (5) giám sát phát thải; (6) các cơ chế thị trường và phi

thị trường; (7) phát triển ít phát thải, linh hoạt và chia sẻ thông tin và kinh nghiệm

để giải quyết vấn đề này.

Việt Nam là thành viên của Công ước khung của liên hợp quốc về biến đổi

khí hậu (UNFCCC), Việt Nam cũng tham gia Nghị định thư Kyoto và đang có kế

hoạch tham gia Thỏa thuận Paris. Do đó, các biện pháp pháp lý về giảm thiểu phát

thải, chống biến đổi khí hậu đã được Việt Nam thực hiện từ lâu.

Việc hướng tới nền kinh tế ít phát thải đã được thể hiện trong nhiều quy định

pháp luật cũng như chương trình hành động của Việt Nam. Về mặt quy định pháp

luật, có thể kể đến nhiều quy định cả bắt buộc và khuyến khích nhằm giảm phát thải

34

hoặc tăng khả năng hấp thụ khí gây hiệu ứng nhà kính. Có thể kể đến như Luật bảo

vệ môi trường, Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, Luật bảo vệ và phát

triển rừng, pháp luật về khoa học công nghệ, pháp luật về giao thông, hạ tầng…

Về mặt chương trình hành động, Việt Nam đã xây dựng và thực hiện nhiều

các chiến lược, dự án, chương trình hành động nhằm thực hiện UNFCCC và Nghị

định thư Kyoto, có thể kể đến như Quyết định 2139/QĐ-TTg năm 2011 phê duyệt

Chiến lược quốc gia về biến đổi khi hậu do Thủ tướng Chính phủ ban hành; Chỉ thị

35/2005/CT-TTg thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung của Liên

hợp quốc về biến đổi khí hậu do Thủ tướng Chính phủ ban hành; Quyết định

158/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi

khí hậu do Thủ tướng Chính phủ ban hành; Quyết định 1092/QĐ-TTg năm 2012

phê duyệt Khung ma trận chính sách thuộc Chương trình Hỗ trợ ứng phó với biến

đổi khí hậu (SR-RCC) do Thủ tướng Chính phủ ban hành.

1.4.2.6. Khai thác hải sản

Điều 20.16 về khai thác hải sản là một trong những nội dung quan trọng của

Chương Môi trường trong CPTPP và có nhiều nghĩa vụ có khả năng "gây khó" cho

việc thực thi Việt Nam.

Hệ thống quản lý khai thác thủy sản trên biển

Với Điều 20.16(1) CPTPP, các bên ghi nhận tầm quan trọng của việc thực

hiện các biện pháp nhằm bảo tồn và phát triển bền vững nghề cá. Các bên cam kết

thực hiện hệ thống quản lý nghề cá; bảo tồn cá mập; chống lại việc đánh bắt bất hợp

pháp, không được báo cáo và không dược quản lý.

Việt Nam cam kết sẽ cố gắng vận hành một hệ thống quản lý khai thác hải

sản đối với việc đánh bắt các loài động vật biển hoang dã và được thiết kế để:

- Ngăn chặn đánh bắt cá quá mức;

- Giảm bắt nhầm các loài sinh vật khác và con non, thông qua việc quản lý

ngư cụ, thiết bị đánh cá và quản lý khu vực đánh cá dễ bị bắt nhầm;

- Khuyến khích việc phục hồi nguồn lợi thủy sản tại các ngư trường đã bị

35

khai thác quá mức bởi ngư dân Việt Nam.

CPTPP yêu cầu hệ thống quản lý đánh cá này phải dựa trên cơ sở khoa học

và kinh nghiệm quốc tế như Thỏa thuận về việc thực hiện một số nội dung của

Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) liên quan đến bảo tồn và quản lý

các ngư trường, Bộ quy tắc ứng xử của FAO về đánh cá có trách nhiệm, Thỏa thuận

của FAO về khuyến khích tuân thủ các biện pháp bảo tồn và quản lý quốc tế bởi các

tàu cá tại vùng biển quốc tế và Kế hoạch hành động đánh cá bất hợp pháp, không

khai báo và không bị quản lý (International Plan of Action to Prevent, Deter and

Eliminate Illegal, Unreported and Unregulated Fishing 2001 (IUU fishing)).

Lưu ý, CPTPP sử dụng khái niệm « IUU fishing » theo quy định của FAO tại

Kế hoạch hành động năm 2001. Theo đó, đánh cá bất hợp pháp là (1) hoạt động

đánh cá mà không được phép của Nhà nước hoặc trái với pháp luật của quốc gia đó,

hoặc (2) hoạt động đánh cá vi phạm các biện pháp bảo tồn và quản lý của tổ chức

quản lý đánh cá khu vực có liên quan; hoặc (3) vi phạm pháp luật quốc gia hoặc

nghĩa vụ quốc tế. Đánh cá không báo cáo là (4) hoạt động đánh cá không được báo

cáo hoặc báo cáo không chính xác đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (5) hoặc

đánh cá tại khu vực thuộc thẩm quyền của tổ chức quản lý đánh cá khu vựv mà

không được báo cáo hoặc báo cáo không chính xác. Đánh cá không được quản lý là

(6) hoạt động đánh cá tại khu vực quản lý của tổ chức quản lý đánh cá khu vực có

liên quan bởi tàu không có quốc tịch hoặc mang cờ của quốc gia không phải là

thành viên của tổ chức đó, hoặc vi phạm các biện pháp bảo tồn và quản lý của tổ

chức đó; hoặc (7) tại ngư trường mà không có biện pháp bảo tồn hoặc quản lý

nhưng hoạt động đánh cá đó được thực hiện theo cách thức không phù hợp với

trách nhiệm của quốc gia trong việc bảo tồn các nguồn lợi hải sản theo luật quốc tế.

Bảo tồn sinh vật biển

Việt Nam cam kết sẽ khuyến khích việc bảo tồn dài hạn các loài cá mập, rùa

biển, chim biển và các loài thú biển, thông qua việc thực thi các biện pháp bảo tồn

và quản lý. Các biện pháp đó có thể bao gồm: đối với cá mập: thu thập dữ liệu về

36

các loài cụ thể, các biện pháp giảm thiểu bắt nhầm, giới hạn đánh bắt và cấm lấy

vây cá mập, một cách phù hợp; đối với rùa biển, chim biển và thú biển: các biện

pháp giảm thiểu đánh bắt nhầm, các biện pháp bảo tồn và quản lý có liên quan, lệnh

cấm và các biện pháp khác phù hợp với cam kết quốc tế có liên quan mà Việt Nam

là thành viên.

Việc bảo tồn sinh vật biển cũng đã được quy định trong Luật Thủy sản của

Việt Nam, tuy nhiên, các quy định hướng dẫn cụ thể hơn thì chưa được ban hành.

Luật Thủy sản có quy định về việc quy hoạch và quản lý khu bảo tồn vùng nước nội

địa, khu bảo tồn biển. Đây là các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ sinh vật biển, đặc

biệt là các loài chim biển, rùa biển cần nơi trú ngụ và sinh sản.

Danh mục các loài thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam

cần được bảo vệ đã có tên các loài cá nhám (cá mập), cá voi, cá ông sư, bò biển, cá

heo, rùa da, quản đồng, vích, đồi mồi, cá nhà táng,… Tất cả các loài thủy sinh này

đều bị cấm khai thác nhưng tùy vào nguy cơ tuyệt chủng theo các cấp độ (tuyệt

chủng – EX, tuyệt chủng ngoài thiên nhiên – EW, rất nguy cấp – CR, nguy cấp –

EN, sẽ nguy cấp – VU) tương ứng với đó là các mức phạt khác nhau. Ví dụ, khai

thác, mua bán, thu gom, nuôi, lưu giữ, sơ chế, chế biến các loài thủy sinh quý hiếm

ở cấp VU thì bị phạt ít nhất 5 triệu đồng, ở cấp EN thì bị phạt ít nhất 10 triệu đồng,

ở cấp CR thì bị phạt ít nhất 20 triệu đồng.

Các biện pháp trợ cấp đánh cá

Việt Nam cam kết không trợ cấp cho hoạt động đánh cá có tác động tiêu cực

đến các ngư trường đã bị khai thác quá mức và không trợ cấp cho bất kỳ một tàu cá

nào đã bị nêu tên bởi quốc gia mang cờ, Tổ chức quản lý đánh cá khu vực. Đánh cá

ở đây được hiểu là bao gồm cả các hành động như tìm kiếm, dẫn dụ, xác định, bắt

giữ cá hoặc bất kỳ hành động nào có thể được coi là dẫn đến việc dẫn dụ, xác định,

bắt giữ cá một cách hợp lý. Thời gian để xóa bỏ các biện pháp trợ cấp này là 3 năm

kể từ khi CPTPP có hiệu lực và Việt Nam có thể được xin gia hạn thêm 2 năm nếu

37

được sự đồng ý của Ủy ban.

Khái niệm tàu cá trong Luật Thủy sản của Việt Nam là "tàu, thuyền và các

cấu trúc nổi khác chuyên dùng cho khai thác, nuôi trồng, bảo quản, chế biến thuỷ

sản." Khái niệm này chưa thực sự tương thích với khái niệm tàu cá của CPTPP là

tàu, thuyền các và cấu trúc nổi khác được sử dụng, được trang bị để sử dụng, hoặc

được dự định để sử dụng cho mục đích đánh cá hoặc các hoạt động có liên quan đến

đánh cá. Các hoạt động liên quan đến đánh cá có thể bao gồm cả các tàu thuyền làm

dịch vụ hậu cần nghề cá mà khái niệm tàu cá trong Luật Thủy sản đã không bao

quát. Do đó, cần cân nhắc lại định nghĩa này trong Luật Thủy sản của Việt Nam.

Các biện pháp chống đánh các IUU

Việt Nam cam kết sẽ có các biện pháp chống đánh cá IUU như hỗ trợ các hệ

thống giám sát, kiểm soát tuân thủ bao gồm việc thực hiện các biện pháp để ngăn

cản các tàu cá mang cờ của Việt Nam tham gia vào các hoạt động đánh cá IUU và

xử lý việc chuyển giao hải sản trên biển đã bị đánh bắt IUU. Việt Nam cũng cần

thực hiện các nghĩa vụ của quốc gia có cảng, cố gắng thực hiện các biện pháp bảo

tồn và quản lý của các Tổ chức quản lý đánh cá khu vực kể cả khi không phải là

thành viên.

Hiện nay, vấn đề chống đánh cá IUU của Việt Nam đang được thực thi thông

qua ba công cụ chính là (1) thiết bị, thông tin quan sát tàu cá, (2) lực lượng kiểm

ngư, thanh tra chuyên ngành thủy sản, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, hải quân,

và (3) quản lý cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão. Ngoài ra, đối với tàu cá nước

ngoài hoạt động tại vùng biển của Việt Nam thì còn có thể bị kiểm soát bởi giám sát

viên do cơ quan nhà nước Việt Nam cử trên tàu.

1.4.2.7. Bảo tồn động, thực vật hoang dã

Với Điều 20.17 CPTPP, các bên muốn tăng cường các hoạt động hướng đến

việc chống khai thác bất hợp pháp và kinh doanh trái phép động thực vật hoang dã.

Các bên thống nhất thực hiện Công ước về buôn bán các loài động, thực vật hoang

dã nguy cấp (CITES) năm 1973, nhằm tăng cường thực hiện CITES và bổ sung các

38

biện pháp nhằm bảo tồn động thực vật hoang dã, chống lại việc kinh doanh trái

phép. Hầu hết cấc yêu cầu trong Điều 20.17 của TPP đều bắt buộc đối với các thành

viên.

Điều 20.17 của CPTPP về bảo tồn động thực vật hoang dã quy định lại hầu

hết các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết trong Công ước CITES. Việc đánh giá hệ

thống pháp luật Việt Nam tương thích với Công ước CITES đã được thực hiện bởi

chính ban thư ký của Công ước này vào tháng 1 năm 2016 . Kết quả cho thấy, Việt

Nam được xếp vào các quốc gia nhóm 1 tức là Việt Nam có các quy định của pháp

luật được tin là đã đáp ứng các yêu cầu về thực thi CITES một cách cơ bản. Do đó,

việc đánh giá mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam đối với nội dung này của

CPTPP không thực sự cần thiết.

Ngoài các nghĩa vụ đã cam kết theo Công ước CITES, Việt Nam còn cam kết

một số nội dung khác về bảo vệ động thực vật hoang dã trong CPTPP. Cụ thể, Việt

Nam cam kết:

- Thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo vệ và bảo tồn động thực vật hoang

dã thuộc diện nguy cấp, thông qua các biện pháp bảo vệ hệ sinh thái của các khu

bảo tồn tự nhiên đặc biệt, ví dụ như đất ngập nước

- Duy trì và nâng cao năng lực của chính phủ và các khung thể chế nhằm

khuyến khích quản lý rừng bền vững và bảo tồn động thực vật hoang dã, và thu hút

sự tham gia của cộng đồng và sự minh bạch của các khung thể chế này

- Khuyến khích phát triển và củng cố hợp tác và tham vấn với các tổ chức

phi chính phủ quan tâm nhằm tăng cường thực thi các biện pháp chống lại việc săn

bắt, buôn bán động thực vật hoang dã.

Về vấn đề bảo tồn động thực vật hoang dã, Luật đa dạng sinh học và Luật

bảo vệ phát triển rừng của Việt Nam đã có quy định tương đối đầy đủ. Luật Đa dạng

sinh học quy định: "Khu bảo tồn thiên nhiên (sau đây gọi là khu bảo tồn) là khu

vực địa lý được xác lập ranh giới và phân khu chức năng để bảo tồn đa dạng sinh

học." Việc bảo vệ các loài động thực vật hoang dã, quý hiếm gắn chặt chẽ với các

39

khu bảo tồn, thể hiện ở các nội dung sau: (1) Một trong những tiêu chí của vườn

quốc gia, khu bảo tồn loài – sinh cảnh là phải có ít nhất một loài thuộc Danh mục

loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; (2) Cấm săn bắt, đánh bắt, khai thác

loài hoang dã trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu bảo tồn; (3) Một trong

những mục đích của việc thành lập khu bảo tồn là để bảo tồn loài hoang dã sinh

sống; (4) dự án thành lập khu bảo tồn phải nêu được thực trạng các loài hoang dã

sinh sống trong khu vực; (5) Một trong những nội dung của báo cáo hiện trạng khu

bảo tồn là thực trạng và kế hoạch bảo tồn các loài thuộc Danh mục loài nguy cấp,

quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; (6) Ban quản lý khu bảo tồn hoặc cá nhân, tổ chức

được giao quản lý khu bảo tồn có quyền đề nghị loài được đưa vào hoặc đưa ra khỏi

Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; và (7) khu vực nào có loài

thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ sinh sống phải được

điều tra, đánh giá để lập dự án thành lập khu bảo tồn. Việt Nam cũng đã tham gia

công ước Ramsar và cũng đã có các quy định của pháp luật về bảo vệ đất ngập

nước. Ngoài việc bảo vệ các loài động thực vật hoang dã trong các khu bảo tồn

thiên nhiên, pháp luật về đa dạng sinh học còn cho phép việc bảo tồn các loài này

tại các cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, như cơ sở nuôi trồng loài thuộc Danh mục

loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hay cơ sở cứu hộ loài hoang dã.

Về các thể chế quản lý rừng bền vững và thu hút sự tham gia của cộng đồng,

pháp luật Việt Nam cũng đã có nhiều quy định tương thích. Các chính sách đó có

thể kể đến là (1) giao rừng, cho thuê rừng; (2) chi trả dịch vụ môi trường rừng. Trên

thực tế, các chính sách này đã phát huy hiệu quả trong việc huy động sự tham gia

của cộng đồng vào công tác bảo vệ phát triển rừng và bảo tồn các loài động thực vật

hoang dã.

- Xử lý hành vi săn bắt, buôn bán trái phép động thực vật hoang dã

Điều 20.17.(5) của CPTPP yêu cầu Việt Nam phải có các biện pháp để xử lý

hành vi săn bắt, buôn bán trái phép động thực vật hoang dã, bao gồm cả các bộ phận

của động thực vật, bằng việc phải có các biện pháp để chống lại, và hợp tác để ngăn

40

ngừa, việc buôn bán động thực vật hoang dã, trên cơ sở các chứng cứ rõ ràng, đã

được săn bắt hoặc buôn bán vi phạm pháp luật của Việt Nam hoặc luật áp dụng

khác, mục tiêu chủ yếu là nhằm bảo tồn, bảo vệ hoặc quản lý động thực vật hoang

dã. Các biện pháp đó phải bao gồm các chế tài, hình phạt hoặc các biện pháp hữu

hiệu khác, bao gồm biện pháp hành chính, mà có thể ngăn chặn việc buôn bán đó.

Thêm vào đó, Việt Nam phải cố gắng thực hiện các biện pháp chống buôn bán động

thực vật hoang dã đã bị săn bắt hoặc buộc bán trái phép trung chuyển qua lãnh thổ

Việt Nam, dựa trên các chứng cứ đáng tin cậy.

Quy định này tương đồng với quy định trong CITES, nhưng có hai điểm cần

lưu ý. Thứ nhất, Việt Nam vẫn giữ quyền xem xét các chứng cứ xem có đáng tin

cậy không. Thứ hai, việc xác định hành vi săn bắt hay buôn bán trái phép có thể

được áp dụng pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật của quốc gia nơi mà hành vi đó

được thực hiện. Vấn đề thứ hai này là điểm khác biệt căn bản của CPTPP so với

CITES về vấn đề này. Nói cách khác, nếu một con vật hoang dã bị săn bắt tại quốc

gia A mà hành vi săn bắt đó được coi là trái phép theo pháp luật quốc gia A, nhưng

nếu áp dụng pháp luật Việt Nam thì lại là hợp pháp. Lúc này, Việt Nam vẫn có

nghĩa vụ trừng phạt hành vi săn bắt đó tương tự như một hành vi trái phép theo

pháp luật Việt Nam nếu các chứng cứ là đáng tin cậy.

Hiện nay, pháp luật Hình sự của Việt Nam có 3 tội danh liên quan đến các

hành vi này, gồm: Điều 232 - Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và

quản lý lâm sản; Điều 234 - Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật

hoang dã; và Điều 244 - Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy

cấp, quý, hiếm. Các tội danh này xử lý các hành vi sau: (1) khai thác trái phép gỗ

rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, thực vật rừng ngoài gỗ; (2) tàng trữ,

vận chuyển, chế biến, mua bán trái phép gỗ rừng hoặc các loài thực vật hoang dã

khác; (3) săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật nguy

cấp quý hiếm nhóm IIB hoặc thuộc Phụ lục II của CITES; (4) tàng trữ, vận chuyển,

buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ chể hoặc sản phẩm của loài động vật nguy

cấp quý hiếm nhóm IIB hoặc thuộc Phụ lục II của CITES; (5) săn bắt, giết, nuôi,

41

nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý

hiếm được ưu tiên bảo vệ; (6) tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ

phận cơ thể hoặc sản phẩm của động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm

được ưu tiên bảo vệ, ngà voi, sừng tê giác; (7) săn bắt, giết, nuôi nhốt, vận chuyển,

buôn bán trái phép động vật nguy cấp, quý hiếm nhóm IB hoặc thuộc Phụ lục I của

CITES; (8) tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép bộ phận cơ thể không thể tách

rời sự sống thuộc loài động vật nguy cấp, quý hiếm nhóm IB hoặc thuộc Phụ lục I

của CITES.

Như vậy, về mặt quy định, pháp luật của Việt Nam đã tương thích với yêu

cầu của CPTPP. Riêng vấn đề áp dụng luật nước ngoài khi xác định tính trái phép

của hành vi thì pháp luật Việt Nam cũng đã có quy định lường trước thể hiện ở việc

xác định loài động thực vật hoang dã nguy cấp. Theo đó, nếu động thực vật đó có

nguồn gốc trong nước thì xác định dựa vào nhóm IA, IIA, IB, IIB và Danh mục loài

nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, nhưng nếu mẫu vật có nguồn gốc từ nước

ngoài thì áp dụng Phụ lục I và Phụ lục II của Công ước CITES. Xét về mặt ngôn

ngữ, việc cho phép áp dụng Phụ lục của Công ước CITES để xác định loài là hẹp

hơn so với việc áp dụng luật nước ngoài để xác định tính trái phép của hành vi.

Song, trên thực tế, đây là trường hợp phổ biến nhất có sự xung đột pháp luật của các

quốc gia khi xác định tính hợp pháp của hành vi. Một vấn đề nữa là việc áp dụng

Phụ lục I và Phụ lục II của Công ước CITES có tương ứng với việc áp dụng pháp

luật quốc gia khác không, khi mà CITES cho phép các quốc gia được điều chỉnh các

phụ lục này tùy thuộc vào tình hình thực tế tại đất nước mình.

1.4.2.8. Hàng hóa và dịch vụ môi trường

Điều 20.18 quy định về hàng hóa và dịch vụ môi trường. Đây là một quy

định không mang tính bắt buộc nên việc điều chỉnh pháp luật nội địa là không nhất

thiết phải thực hiện. Nội dung duy nhất đáng chú ý trong Điều luật này là việc một

quốc gia khác có thể nêu ý kiến về các hàng rào thương mại của Việt Nam cản trở

lưu thông hàng hóa và dịch vụ môi trường và cần thực hiện các biện pháp để tháo

gỡ, có thể thông qua Ủy ban. Do đó, về lâu dài, các quy định quản lý trong lĩnh vực

42

hàng hóa và dịch vụ môi trường có thể sẽ bị nước khác kiến nghị điều chỉnh.

1.5. Một số cam kết liên quan đến môi trường trong các Chương khác của

CPTPP

1.5.1. Tiếp cận thị trường hàng hóa môi trường

CPTPP không xác định danh mục hàng hóa môi trường. Trên thực tế hiện

nay cũng chưa có sự thống nhất cách hiểu khái niệm hàng hóa môi trường trên thế

giới. Tuy nhiên, trong khuôn khổ vòng đám phán Doha, nhiều quốc gia, tổ chức

kinh tế đã đưa ra đề xuất danh mục hàng hóa môi trường nhằm thúc đẩy các quốc

gia mở cửa thị trường đối với loại hàng hóa này. Danh mục hợp nhất về hàng hóa

môi trường của APEC và OECD có 230 mã HS với các hàng hóa có tác dụng như

(1) kiểm soát ô nhiễm không khí; (2) quản lý nhiệt/năng lượng; (3) quan trắc/nghiên

cứu; (4) giảm tiếng ồn/độ rung; (5) các hệ thống tái chế khác; (6) xử lý nước sinh

hoạt; (7) xử lý/cải tạo/làm sạch; (8) chất thải rắn/nguy hại; (9) quản lý nước thải.

Theo biểu cam kết thuế quan của Việt Nam trong CPTPP thì có 186 dòng

thuế sẽ giảm về 0% ngay từ khi CPTPP có hiệu lực, 37 dòng thuế giảm dần theo

thời gian, đa số đến năm thứ tư sẽ về 0%, một vài dòng thuế khác đến năm thứ 12

mới về 0% (các dòng thuế còn lại không tìm được thông tin). Như vậy, có thể thấy

Việt Nam cam kết giảm tương đối nhanh và mạnh các dòng thuế đối với hàng hóa

môi trường. Điều này sẽ giúp các loại hàng hóa này thâm nhập thị trường Việt Nam

tốt hơn, các chi phí để bảo vệ môi trường sẽ giảm xuống và có lợi cho công tác bảo

vệ môi trường của Việt Nam. Hơn nữa, đa phần các quốc gia CPTPP đều là các

nước có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam, công nghệ bảo vệ môi trường cũng

tốt hơn, do đó, việc giảm thuế này còn giúp Việt Nam tránh nhập khẩu các hàng hóa

bảo vệ môi trường không bảo đảm chất lượng.

1.5.2. Các biện pháp phi thuế quan

Các quy định về hàng rào kỹ thuật trong CPTPP tương tự như trong WTO.

Sự khác biệt lớn nhất nằm ở quy định về quy trình đánh giá sự phù hợp. Theo đó,

CPTPP yêu cầu các quốc gia phải công nhận kết quả đánh giá sự phù hợp của tổ

chức chuyên môn có trụ sở tại bất kỳ quốc gia CPTPP nào mà không được yêu cầu

43

tổ chức đó phải có trụ sở hay văn phòng đại diện tại nước mình. Ngoài ra, CPTPP

còn có quy định riêng về các hàng rào kỹ thuật đối với một số loại sản phẩm, gồm:

(1) rượu và đồ uống có cồn; (2) sản phẩm công nghệ thông tin và viễn thông; (3)

dược phẩm; (4) mỹ phẩm; (5) thiết bị y tế; (6) thực phẩm đóng gói và phụ gia thực

phẩm; (7) các sản phẩm hữu cơ.

Thực tế hiện nay, Việt Nam sử dụng một số hàng rào kỹ thuật về môi trường

đối với hàng hóa nhập khẩu, gồm: máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua

sử dụng, phương tiện giao thông đã qua sử dụng; động cơ của phương tiện giao

thông cơ giới đường bộ; tàu biển đã qua sử dụng để phá dỡ; hàng tiêu dùng đã qua

sử dụng như dệt may, giày dép, quần áo, hàng điện tử, điện lạnh, điện gia dụng,

trang thiết bị y tế, hàng trang trí nội thất, phế liệu, thiết bị làm lạnh chứa CFC…

Trên thực tế, rất khó xác định được mục đích của việc áp dụng các rào cản kỹ thuật

đối với một loại hàng hóa cụ thể là nhằm mục đích bảo vệ môi trường hay mục đích

khác.

Trong lĩnh vực nhập khẩu phế liệu, Việt Nam yêu cầu phế liệu phải đáp ứng

các quy chuẩn kỹ thuật, và phải được chứng nhận bởi một tổ chức đánh giá sự phù

hợp được Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ định. Điều kiện để một tổ chức được

chỉ định gồm: (1) được thành lập theo quy định của pháp luật, có chức năng hoạt

động trong lĩnh vực chứng nhận phù hợp; (2) có năng lực chứng nhận phù hợp đáp

ứng yêu cầu quy định trong tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 17020:2001 hoặc tiêu

chuẩn quốc tế ISO/IEC 17020:1998 và lĩnh vực được công nhận phù hợp với các

yêu cầu về bảo vệ môi trường được quy định tại quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối

với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất; (3) có ít nhất năm giám định viên

có trình độ chuyên môn phù hợp tham gia kiểm tra, đánh giá và có ít nhất ba năm

kinh nghiệm trong lĩnh vực giám định; (4) đã xây dựng và công bố quy trình chứng

nhận phù hợp đối với từng loại phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất theo

yêu cầu bảo vệ môi trường phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường đối với phế

liệu nhập khẩu để làm nguyên liệu sản xuất. Mặc dù điều kiện này không trực tiếp

xác định cơ sở đó buộc phải có trụ sở tại Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật

44

về trình tự, thủ tục chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp nước ngoài của Bộ Tài

nguyên và Môi trường được xây dựng đầy đủ, nên điều này có thể cản trở việc thực

thi cam kết. Như vậy, cần sớm ban hành quy định về điều kiện và chỉ định tổ chức

chứng nhận sự phù hợp ở nước ngoài để làm cơ sở thực thi CPTPP.

Ngoài ra, CPTPP còn có quy định rằng khi có vấn đề phát sinh liên quan đến

các rào cản phi thuế quan đối với hàng hóa và dịch vụ môi trường, các bên có quyền

yêu cầu Ủy ban Môi trường xem xét hoặc tham gia xem xét với sự phối hợp của các

Ủy ban khác để giải quyết rào cản đó.

1.5.3. Cung cấp dịch vụ môi trường qua biên giới

Đối với việc cung cấp dịch vụ qua biên giới, nhìn chung CPTPP sử dụng

phương pháp chọn bỏ, có nghĩa là nội dung nào không có bảo lưu thì sẽ được mở

cửa tự do. Như vậy, việc mở rộng cung cấp dịch vụ môi trường sẽ giúp ích cho hoạt

động bảo vệ môi trường. Riêng đối với dịch vụ môi trường, Việt Nam có các cam

kết mở rộng hơn so với trong WTO, cụ thể như sau:

Dịch vụ chất thải Phương thức 1: chưa cam kết, ngoại trừ dịch vụ tư vấn

Phương thức 2: không hạn chế

Dịch vụ vệ sinh và các Phương thức 1: không hạn chế

dịch vụ tương tự Phương thức 2: không hạn chế

Phương thức 3: không hạn chế

Bảo vệ thiên nhiên và Phương thức 1: không hạn chế

cảnh quan Phương thức 2: không hạn chế

Phương thức 3: không hạn chế

Dịch vụ khác: làm sạch Phương thức 1: chưa cam kết, ngoại trừ dịch vụ tư vấn

45

khí thải và giảm tiếng ồn Phương thức 2: không hạn chế

CHƯƠNG 2: CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

VIỆT NAM HIỆN HÀNH TRONG VIỆC THỰC THI CÁC CAM KẾT MÔI

TRƯỜNG CỦA HIỆP ĐỊNH CPTPP

2.1. Cơ hội đặt ra đối với Việt Nam

2.1.1. Thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế

Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu kinh tế quốc tế Peterson, CPTPP giúp

Việt Nam tăng thêm hơn 2% GDP vào năm 2030(1), thậm chí, tăng trưởng có thể

lên tới 3,5% GDP nếu có kích thích tăng năng suất. Ngoài tác động tích cực tới tăng

trưởng kinh tế, CPTPP có vai trò quan trọng trong việc chống lại chủ nghĩa bảo hộ

mậu dịch đang cản trở tăng trưởng thương mại toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh

cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc đang leo thang và có nguy cơ lan rộng

Ngoài ra, Việt Nam còn được tiếp cận những thị trường tốt hơn với thuế suất

thấp hơn và những thị trường mà hiện Việt Nam chưa ký kết hiệp định tự do thương

mại, như Ca-na-đa, Mê-hi-cô, Chi-lê và Pê-ru. Hiệp định sẽ bổ sung động lực cho

mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư và xuất khẩu của Việt Nam.

2.1.2. CPTPP tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh

tranh trên thị trường thế giới

Là một nền kinh tế mở với quy mô xuất, nhập khẩu cao, việc ký kết CPTPP

với các thị trường lớn, như Nhật Bản, Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Mê-hi-

cô... cùng với lộ trình giảm thuế xuất khẩu xuống còn 0% - 5% giúp các doanh

nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh về giá cả sản phẩm. Việc giảm thuế

sang các quốc gia nhập khẩu giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thêm cơ hội mới

để mở rộng việc cung cấp các sản phẩm vào thị trường các quốc gia thành viên.

Giảm thuế nhập khẩu cho sản phẩm khi về Việt Nam cũng sẽ giúp các doanh nghiệp

Việt Nam có thêm chủng loại hàng hóa mới để mở rộng quy mô hàng hóa cho hoạt

động sản xuất, kinh doanh. Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình

Dương tạo ra một “sân chơi” công bằng, minh bạch, là cơ sở, nền tảng để các doanh

nghiệp có định hướng phát triển bền vững. Tham gia CPTPP là cơ hội cho các

46

doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng

hóa, dịch vụ và phát triển sản xuất, bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới, từ đó

tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

2.1.3. CPTPP tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam thu hút mạnh mẽ vốn đầu

tư nước ngoài cũng như khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại.

Quá trình tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu

rộng và CPTPP sẽ giúp Việt Nam trở thành một trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu

tư, từ đó các doanh nghiệp có thể thu hút được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI) với giá trị lớn hơn, có được kinh nghiệm quản lý điều hành và nhận chuyển

giao công nghệ hiện đại từ các tập đoàn lớn nước ngoài. Tham gia CPTPP giúp các

doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia chuỗi giá trị ở khu vực và trong khối, từ đó

hạn chế sự phụ thuộc vào một khu vực hay một thị trường.

Đầu tư nước ngoài sẽ chảy vào nền kinh tế Việt Nam nhiều hơn, dẫn tới việc

xây mới hoặc thuê các khu công nghiệp để phục vụ sản xuất. Nhờ sự vận động này,

nhóm doanh nghiệp kinh doanh kết cấu hạ tầng sẽ có đà phát triển trong trung và

dài hạn. Doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam giúp thay đổi ngành công nghiệp

hỗ trợ và Việt Nam sẽ thu hút các doanh nghiệp FDI ngành công nghiệp hỗ trợ chứ

không phải là đơn thuần lắp ráp. Các doanh nghiệp FDI sản xuất linh phụ kiện ngay

tại Việt Nam, đáp ứng được yếu tố “nguồn gốc xuất xứ” giúp giảm thâm hụt thương

mại với Trung Quốc.

Đầu tư tăng làm cho xuất khẩu ít phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu hơn,

thay vào đó sẽ dựa nhiều hơn vào chuỗi cung ứng trong nước để khắc phục các hạn

chế của quy tắc xuất xứ. Tăng trưởng đầu tư nước ngoài kéo theo tăng trưởng ngành

dịch vụ và tăng năng suất lao động. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước sẽ có

thêm cơ hội tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, nhờ vậy khuyến khích phát triển khu

vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương tạo thuận lợi

cho hoạt động đầu tư qua biên giới, do vậy khi Hiệp định có hiệu lực thì Việt Nam

47

có điều kiện tốt hơn để thu hút FDI từ các nước thành viên khác vì thương mại gắn

liền với đầu tư, nhất là với các nước mà Việt Nam chưa có thỏa thuận thương mại tự

do, như Ca-na-đa, Mê-hi-cô...

2.1.4. Cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu.

Tham gia CPTPP giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, từ đó

thúc đẩy tăng trưởng nhiều ngành sản xuất trong nước. Dệt may và da giày được

cho là những ngành sẽ hưởng lợi nhiều nhất về tăng thêm quy mô sản xuất cũng

như giá trị xuất khẩu. Tốc độ xuất khẩu tăng thêm của dệt may sẽ ở mức cao, từ

8,3% đến 10,8% bởi đây là ngành có sức cạnh tranh về giá lớn hơn ở các thị trường

mới trong CPTPP, trong khi vẫn giữ được các thị trường chủ lực là Mỹ và Liên

minh châu Âu (EU). Tham gia CPTPP sẽ là cơ hội lớn để ngành dệt may Việt Nam

đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước nội khối, nhất là những thị trường

tiềm năng, như Ô-xtrây-li-a và Ca-na-đa - hai thị trường có mức tiêu thụ khoảng 10

tỷ USD/năm trong khi thị phần xuất khẩu dệt may Việt Nam vào các thị trường này

còn nhỏ, chỉ khoảng 500 triệu USD. Vì vậy, dung lượng mở rộng thị phần rất lớn,

đóng góp vào mục tiêu tăng trưởng hơn 10% của ngành dệt may.

Các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường của các

nước thành viên CPTPP sẽ được hưởng những cam kết cắt giảm thuế từ hơn 90%,

thậm chí lên đến 95%. Lợi ích từ CPTPP không chỉ là tăng xuất khẩu mà còn bao

gồm tăng hàm lượng công nghệ của hàng xuất khẩu, góp phần thúc đẩy xuất khẩu

hàng hóa sang các thị trường lớn, như Nhật Bản, Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a và Mê-hi-

cô.

Việc tăng xuất khẩu sẽ chủ yếu ở nội khối với tốc độ tăng xuất khẩu sang các

nước trong CPTPP thêm 14,3% (giả định lũy tiến đến năm 2035), tương đương 2,61

tỷ USD, trong khi xuất khẩu sang các quốc gia ngoài CPTPP sẽ tăng thêm 1,7%

(tương đương 1,4 tỷ USD). Như vậy, CPTPP có tác động chuyển hướng thương mại

khá lớn và việc tham gia hiệp định này có thể giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường

xuất khẩu, từ đó thúc đẩy tăng trưởng nhiều ngành sản xuất trong nước.

Trong đó, dệt may và da giày được cho là những ngành sẽ hưởng lợi nhiều

48

nhất về tăng thêm quy mô sản xuất cũng như giá trị xuất khẩu. Cụ thể, tốc độ tăng

trưởng xuất khẩu tăng thêm của dệt may được dự báo sẽ ở mức cao (từ 8,3% đến

10,8%), do đây là ngành có sức cạnh tranh về giá lớn hơn ở các thị trường mới

trong CPTPP, trong khi vẫn giữ được các thị trường chủ lực là Mỹ và EU.

CPTPP có thể giúp GDP và xuất khẩu của Việt Nam tăng tương ứng là

1,32% và 4,04% đến năm 2035. Tổng kim ngạch nhập khẩu cũng có thể tăng thêm

3,8% thấp hơn tốc độ tăng xuất khẩu nên tác động tổng thể đến cán cân thương mại

là thuận lợi.

Ngoài ra, việc có quan hệ FTA với các nước CPTPP sẽ giúp cơ cấu lại thị

trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn, từ đó nâng cao tính độc lập tự chủ

của nền kinh tế. Việt Nam cũng có cơ hội tham gia chuỗi cung ứng hình thành sau

khi CPTPP có hiệu lực, là điều kiện quan trọng để nâng cao trình độ phát triển nền

kinh tế, từ đó có thể tham gia vào các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao

hơn.

2.1.5. Góp phần xóa đói, giảm nghèo và tạo thêm nhiều việc làm.

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế và nhiều lợi ích xã hội, tạo ra khoảng 17.000 - 27.000 việc làm từ

năm 2020. Tham gia CPTPP không chỉ tạo thêm số lượng việc làm mà còn hứa hẹn

sẽ đem lại điều kiện làm việc, mức lương tốt hơn cho người lao động. Mặc dù mức

việc làm tạo ra chỉ bằng 1/2 so với TPP, nhưng CPTPP tạo cơ hội mới cho cả người

lao động và doanh nghiệp, góp phần nâng cao mức sống của người lao động, giảm

nghèo, thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), CPTPP

giúp Việt Nam giảm được gần 1 triệu người thuộc diện đói nghèo.

Về thu hút đầu tư, các cam kết trong CPTPP về dịch vụ và đầu tư dự kiến

giúp cải thiện môi trường đầu tư, góp phần thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

Cơ hội việc làm, thu nhập của người dân cũng sẽ tăng lên, bình quân mỗi năm

khoảng 20.000 - 26.000 USD. Còn theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB),

đến năm 2030, CPTPP dự kiến sẽ giúp giảm 0,6 triệu người nghèo ở mức chuẩn

49

nghèo có thu nhập 5,5 USD một ngày. “Với việc Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba

thế giới tham gia, hiệp định bao phủ 13,5% GDP toàn cầu. Vì vậy, việc tham gia

CPTPP về tổng thể là có lợi cho Việt Nam", Phó Thủ tướng nói.

2.1.6. Tạo động lực để Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế.

Bên cạnh việc tận dụng cơ hội CPTPP mang lại về ưu đãi thuế, CPTPP còn

tạo áp lực thúc đẩy cải cách thể chế để mở rộng thị trường, tạo môi trường đầu tư,

kinh doanh thông thoáng, minh bạch. Cải cách thể chế sẽ mang lại nhiều lợi ích cho

Việt Nam nên vừa là nhu cầu, vừa là yêu cầu bắt buộc khi Việt Nam tham gia “sân

chơi chung”. Việt Nam phải duy trì được đà cải cách liên tục và có chất lượng sau

khi gia nhập CPTPP. Nếu cải cách thể chế có tính thụ động và thiếu sự tích cực,

xuyên suốt tới các cấp cơ sở thì chắc chắn thách thức sẽ nhiều hơn cơ hội mà

CPTPP mang lại.

2.2. Thách thức đặt ra đối với Việt Nam

2.2.1. Áp lực cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp (DN) nước ngoài.

Sự cạnh tranh diễn ra quyết liệt không chỉ ở thị trường các nước tham gia

Hiệp định mà ngay tại thị trường Việt Nam trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh

nghiệp và quốc gia.

Theo Sách trắng Doanh nghiệp (DN) Việt Nam 2020, tính đến ngày

31/12/2019, cả nước có 758.610 DN đang hoạt động, tăng 6,1% so với cùng thời

điểm năm 2018. Trong số đó, có 508.770 DN hoạt động trong khu vực dịch vụ,

chiếm 67,1% tổng số DN cả nước, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2018; Khu vực

công nghiệp và xây dựng có 239.755 DN, chiếm 31,6%, tăng 5,1%; Khu vực nông,

lâm nghiệp và thủy sản có 10.085 DN, chiếm 1,3%, giảm 6,3%.

Riêng năm 2019, cả nước có 138.139 DN thành lập mới, tăng 5,2% so với

năm 2018. Tổng vốn đăng ký của DN thành lập mới năm 2019 đạt 1,73 triệu tỷ

đồng, tăng 17,1% so với năm 2018; vốn đăng ký của khu vực dịch vụ đạt cao nhất

đạt 1,17 triệu tỷ đồng, chiếm 67,6%, tăng 12,9% so với năm 2018; tiếp đến, khu vực

công nghiệp 531,15 nghìn tỷ đồng, tăng 30,2%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy

sản 25,6 nghìn tỷ đồng, giảm 16,5% so với năm 2018. Khu vực dịch vụ có số DN

50

thành lập mới năm 2019 nhiều nhất với 99.548 DN, tăng 5,1% so với năm 2018;

khu vực công nghiệp và xây dựng có 36.562 DN, tăng 5,3%; khu vực nông, lâm

nghiệp và thủy sản có 2.029 DN, tăng 9,9%.

Trong giai đoạn 2016-2019, bình quân có 126.593 DN thành lập mới/năm,

vốn đăng ký khoảng 1,35 triệu tỷ đồng, tốc độ tăng số DN thành lập mới là 49,3%,

vốn đăng ký tăng 24,8%. Cũng trong giai đoạn này, mỗi năm có 31.642 DN quay

trở lại hoạt động, tăng 71,4% so với giai đoạn 2014-2015; có 24.365 DN tạm ngừng

hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) có đăng ký, tăng 78,0% so với bình quân

giai đoạn 2014-2015; có 14.436 DN hoàn thành thủ tục giải thể, tăng 52% so với số

DN hoàn tất thủ tục giải thể bình quân giai đoạn 2014-2015.

Cũng theo Sách trắng DN Việt Nam 2020, giai đoạn 2016-2018 số DN đang

hoạt động có kết quả SXKD trong cả nước bình quân 1 năm là 558.703 DN, tăng

47,8% so với bình quân giai đoạn 2011-2015; thu hút 14,45 triệu lao động, tăng

24,2% so với bình quân giai đoạn 2011-2015. Tổng nguồn vốn sử dụng cho hoạt

động SXKD tại thời điểm 31/12/2018 đạt 38,93 triệu tỷ đồng, tăng 18% so với cùng

thời điểm năm 2017. Bình quân giai đoạn 2016-2018, mỗi năm DN đang hoạt động

có kết quả SXKD thu hút 33,34 triệu tỷ đồng vốn cho SXKD, tăng 77,1% so với

vốn bình quân giai đoạn 2011-2015; trung bình mỗi năm tạo ra khoảng 20,58 triệu

tỷ đồng doanh thu thuần, tăng 65,6% so với bình quân giai đoạn 2011-2015; tạo ra

828,36 nghìn tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 80,8% so với mức lợi nhuận thu

được bình quân giai đoạn 2011-2015.

Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, khu vực DN nhỏ và vừa (DNNVV)

chiếm trên 95% tổng số DN đăng ký, tạo ra khoảng 60% GDP, tạo ra hơn 90% việc

làm cho người lao động. Điều này khẳng định, DNNVV đang là trụ cột chính trong

nền kinh tế đất nước.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, DN Việt Nam nói chung và cộng đồng DNNVV

nói riêng đã và đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức làm ảnh hưởng đến

hiệu quả, sức cạnh tranh. Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố hàng năm cho thấy, chi phí

51

vay vốn ngân hàng của DNNVV thường cao hơn so với của DN lớn, khoảng 1-

2%/năm; tỷ lệ chi phí không chính thức đối với DNNVV còn lớn. Các rào cản về

thể chế, liên quan đến các vấn đề như: Thừa nhận vai trò DN tư nhân nói chung,

pháp lý tài sản, thủ tục hành chính, môi trường cạnh tranh bất bình đẳng, chất lượng

đội ngũ công vụ, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của Nhà nước... là những

rào cản ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của DN.

So với nhiều quốc gia trên thế giới, DN Việt Nam còn tồn tại nhiều hạn chế

như: DNNVV đa phần làm dịch vụ, chỉ khoảng trên 20% là hoạt động sản xuất; trên

40% DN có doanh thu dưới 1 tỷ đồng/1 năm; 85% DN có doanh thu dưới 2 tỷ

đồng/năm. Mặc dù, số lượng DN tư nhân tăng hàng năm nhưng quy mô bình quân

của mỗi DN còn nhỏ. Cùng với đó, bởi năng suất lao động thấp, các DN lại chưa

thực hiện đầy đủ các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động

đã làm giảm đi chất lượng công việc trong khu vực DNNVV, do vậy, các DN này

càng rơi vào vị thế bất lợi khi cạnh tranh.

Trong cộng đồng DN Việt Nam, trên 95% là DNNVV, quy mô nhỏ vì các lý

do trên phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong cạnh tranh trên thị trường

trong và ngoài nước, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và thị trường toàn cầu

do các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia chi phối. Điển hình các khó khăn chung

DNNVV đang gặp phải như: Tình trạng thiếu vốn, khó tiếp cận các nguồn vốn tín

dụng, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn đang là rào cản lớn nhất cho sự phát

triển của DNNVV Việt Nam.

Bên cạnh đó, máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở các DN Việt Nam chỉ

có 10% hiện đại, 38% trung bình và 52% là lạc hậu và rất lạc hậu; tỷ lệ sử dụng

công nghệ cao mới chỉ có 2%; Các DN Việt Nam đầu tư cho đổi mới công nghệ rất

thấp, chỉ khoảng 0,2%-0,3% tổng doanh thu... Trình độ thiết bị công nghệ trong các

DNNVV ngoài nhà nước chỉ bằng 3% mức trang bị kỹ thuật trong các DN lớn...

Thực trạng này đang đặt ra những thách thức lớn đối với năng lực cạnh tranh của

DN Việt Nam.

Hiện nay, đa số DN Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào, công

52

nghiệp chế tạo vẫn chủ yếu là gia công lắp ráp. Nhiều sản phẩm xuất khẩu và sản

phẩm có sự tăng trưởng cao đều phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu và bán thành

phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, giá cả các loại nguyên vật liệu này

trên thế giới luôn biến động tăng dẫn đến nhiều nhóm sản phẩm có tỷ trọng chi phí

nguyên vật liệu khá cao, chiếm hơn 60% giá thành sản phẩm. Đối với các DNNVV,

do quy mô nhỏ, vị thế yếu, nếu không có hình thức liên kết hợp tác thích hợp để

mua nguyên vật liệu thì sẽ luôn ở thế bất lợi trong đàm phán về giá cả.

Một trong những thách thức rất lớn của DN Việt Nam là chất lượng nhân lực

thấp. Đội ngũ chủ DN, cán bộ quản lý DN rất thiếu kiến thức quản trị và kỹ năng,

kinh nghiệm quản lý... Tất cả các yếu tố hạn chế trên đều phản ánh năng lực cạnh

tranh của DN.

Bên cạnh đó, còn phát sinh vấn đề lớn về đầu tư và giải quyết tranh chấp đối

với nhà đầu tư

Thứ nhất, về bảo hộ đầu tư, Việt Nam vẫn duy trì quyền tịch thu, cưỡng chế

hay quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư với mục tiêu bảo vệ các lợi ích công cộng

chính đáng, trong đó có bảo vệ môi trường với điều kiện là biện pháp đó được thực

thi không phân biệt đối xử. Như vậy, các biện pháp chế tài cao để thực thi pháp luật

môi trường như buộc đóng cửa nhà máy, buộc di dời, thậm chí tịch thu, quốc hữu

hóa vẫn có thể được duy trì áp dụng.

Thứ hai, về tự do dịch chuyển vốn, Việt Nam vẫn bảo lưu quyền ngăn chặn

chuyển vốn tự do (vốn góp, lợi nhuận, cổ phần, lợi tức, thù lao, thanh toán hợp

đồng, bồi thường tranh chấp…) trong trường hợp nhà đầu tư bị cáo buộc các tội

hình sự hoặc các thủ tục tố tụng tại Tòa án. Như vậy, trong trường hợp nhà đầu tư

nước ngoài có vi phạm pháp luật về môi trường, Việt Nam vẫn có quyền thực hiện

các biện pháp tư pháp khẩn cấp như phong tỏa tài khoản, cấm chuyển tiền ra nước

ngoài, tuy nhiên, điều này phải được thực hiện thông qua con đường tố tụng hình

sự.

Thứ ba, Việt Nam chấp nhận việc có thể bị nhà đầu tư nước ngoài kiện ra cơ

quan trọng tài độc lập vì lý do vi phạm các quy định về đầu tư gây thiệt hại cho nhà

53

đầu tư. Đây là vấn đề gây tranh cãi vì trong những vụ việc như thế này, Nhà nước

luôn ở vị thế bất lợi, dù có thắng kiện thì cũng chỉ là giữ nguyên như cũ, nhưng nếu

thua kiện thì phải đền bù cho nhà đầu tư các khoản tiền rất lớn từ ngân sách, và có

thể sẽ hạn chế quyền ban hành và thực thi chính sách của Nhà nước.

Vấn đề tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước bị chỉ trích là có thể làm ảnh

hưởng đến chủ quyền quốc gia khi cản trở quyền đặt ra pháp luật và thực thi pháp

luật của Nhà nước. Việt Nam có thể sẽ là quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất của quy

định này trong CPTPP vì các cơ quan nhà nước sẽ phải đứng trước các nhà đầu tư

nhiều kinh nghiệm của nước ngoài trong một vụ kiện. Tuy nhiên, điều này cũng có

thể sẽ khiến các cơ quan nhà nước của Việt Nam buộc phải hành xử đúng nguyên

tắc, đúng pháp luật và công bằng đối với nhà đầu tư.

Quy định này áp dụng trong lĩnh vực môi trường được hiểu rằng khi cơ quan

quản lý nhà nước về môi trường ban hành và thực thi một quy định pháp luật nội địa

mà vi phạm quy định của CPTPP, gây thiệt hại cho nhà đầu tư nước ngoài, thì cơ

quan đó có thể sẽ bị khởi kiện và đứng trước nguy cơ phải bồi thường. Kinh nghiệm

của một số quốc gia khác có thỏa thuận tương tự cũng cho thấy, lĩnh vực môi

trường là một trong những lĩnh vực đứng trước nguy cơ bị kiện nhiều nhất, bên

cạnh các lĩnh vực giao thông, thực phẩm, dược phẩm…

Theo cơ chế này của CPTPP, phía bị đơn là cơ quan nhà nước Việt Nam, bao

gồm cả cấp trung ương và địa phương, thậm chí cả các doanh nghiệp nhà nước,

hoặc bất kỳ chủ thể nào khác khi thực thi chức năng do các cơ quan nhà nước ủy

quyền. Điều kiện để khởi kiện là phía bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ theo Chương Đầu

tư của CPTPP, vi phạm giấy phép hoặc thỏa thuận/hợp đồng đầu tư và nguyên đơn

đã chịu tổn thất hoặc thiệt hại vì hành vi vi phạm trên. Thẩm quyền giải quyết tranh

chấp thuộc về trọng tài theo cơ chế ICSID hoặc trọng tài UNCITRAL. Trước khi

khởi kiện, nguyên đơn buộc phải thực hiện việc tham vấn để giải quyết vấn đề và

chỉ được khởi kiện nếu sau 6 tháng mà vấn đề chưa được giải quyết.

Do lo ngại tình trạng các nhà đầu tư sẽ tìm cách đe dọa, gây sức ép đối với

cơ quan nhà nước nhằm đạt được mục đích, nên các điều khoản của CPTPP đã tìm

54

cách ngăn chặn hành vi dọa khởi kiện như trong các hiệp định thương mại trước đó.

Ví dụ, nếu Hội đồng trọng tài quyết định rằng việc khởi kiện không đúng thẩm

quyền hoặc đơn kiện không có căn cứ pháp lý thì vụ việc phải bị dừng lại và nguyên

đơn phải chi trả chi phí tố tụng cho cả hai bên. Số tiền bồi thường khi bị đơn thua

kiện cũng chỉ dừng lại ở thiệt hại đã xảy ra, không được tính đến lợi nhuận kỳ vọng.

CPTPP cũng yêu cầu thủ tục tố tụng là minh bạch, công khai, có sự tham gia của

công chúng như công đoàn, tổ chức xã hội…

2.2.2. Thứ hai, thách thức về hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế.

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đòi hỏi các

quốc gia phải chủ động và linh hoạt trong cải cách thể chế, chuyển đổi cơ cấu kinh

tế, điều chỉnh mô hình tăng trưởng; các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh

tranh, coi trọng hiệu quả quản lý, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,... để phát

triển sản xuất, kinh doanh.

Để thực thi cam kết trong CPTPP, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một

số quy định pháp luật về thương mại, hải quan, sở hữu trí tuệ, lao động... Tuy nhiên,

sức ép thay đổi hệ thống pháp luật để tuân thủ những chuẩn mực mới của Hiệp định

sẽ vượt qua được bởi phần lớn những cam kết tuy mới nhưng phù hợp hoàn toàn với

đường lối, chủ trương của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước (ví dụ như trong

lĩnh vực mua sắm của Chính phủ, bảo vệ môi trường, doanh nghiệp nhà nước,

doanh nghiệp nhỏ và vừa...) nên sức ép thay đổi hệ thống pháp luật không lớn.

Trong khi, cam kết khó nhất, đòi hỏi nguồn lực thực thi lớn (trong lĩnh vực sở hữu

trí tuệ) lại được “tạm hoãn” do Mỹ không tham gia.

Về mặt văn bản, pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam được đánh giá là

tương đối khắt khe. Việt Nam có đủ các quy định về đánh giá tác động môi trường,

quy chuẩn kỹ thuật về môi trường xung quanh và chất thải, giấy phép xả thải, hệ

thống quản lý môi trường, các quy định về kiểm soát hóa chất nguy hại, phòng

ngừa, ứng phó sự cố môi trường, bảo tồn thiên nhiên… Đối với vấn đề quản lý hóa

chất, vật liệu nguy hại, hệ thống pháp luật Việt Nam cũng khá hoàn thiện khi đã quy

định cụ thể về các vấn đề sản xuất, vận chuyển, nhập khẩu, lưu trữ, buôn bán, sử

55

dụng và thải bỏ các loại hóa chất, vật liệu nguy hại. Hầu như tất cả các công cụ

chính sách để bảo vệ môi trường đều đã có mặt trong văn bản pháp luật của Việt

Nam.

Tuy nhiên, một số văn bản quy định chi tiết còn thiếu để thực thi Luật Môi

trường được đầy đủ. Ngoài ra, có những mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn bản

pháp luật trong lĩnh vực môi trường giữa các Bộ, ngành dẫn đến sự hiểu lầm; việc

áp dụng một số công cụ pháp lý không khả thi. Và cuối cùng, có những khoảng

trống cho phép hiểu rằng hành vi gây ô nhiễm môi trường sẽ không phải chịu trách

nhiệm pháp lý. Đây cũng là một đặc thù của hệ thống pháp luật về môi trường của

Việt Nam, khác biệt so với một số quốc gia khác trên thế giới. Lịch sử xây dựng

pháp luật bảo vệ môi trường của nhiều quốc gia khác tiếp cận theo hướng ban đầu

sử dụng ít công cụ chính sách, nhưng mỗi công cụ đều được thực thi một cách

nghiêm túc, sau đó mời dần dần bổ sung thêm các công cụ chính sách phù hợp với

nhu cầu thực tiễn. Ngược lại, pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam lại có

nhiều công cụ chính sách, nhưng biện pháp thực thi lại không triệt để.

Việc các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường của Việt Nam cao hay thấp so

với thế giới vẫn là đề tài tranh cãi [Nguyễn Xuân Sinh, Phó cục trưởng Cục Hóa

chất Bộ Công Thương và Trần Thế Loãn, nguyên Phó cục trưởng Cục Kiểm soát ô

nhiễm, Bộ Tài nguyên và Môi trường. (http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/gs-dang-

hung-vo-tham-nhung-trong-van-de-moi-truong-hau-qua-se-rat-lon-3400553.html)],

nhưng chắc chắn là các quy chuẩn đó vẫn chưa đủ chi tiết và đầy đủ cho từng ngành

kinh tế. Ví dụ, đối với nước thải công nghiệp (QCVN 40:2011/BTNMT), Việt Nam

có quy chuẩn cho 33 thông số môi trường tương đương với các nước như Nhật Bản,

Hàn Quốc. Tuy nhiên, không phải tất cả các thông số này đều được áp dụng trong

tất cả các lĩnh vực. Quy chuẩn nước thải cho ngành dệt may (QCVN 13-MT:

2015/BTNMT), cho ngành thép (QCVN 51: 2013/BTNMT), quy chuẩn nước thải

chôn lấp chất thải rắn (QCVN 01-MT: 2015/BTNMT) chỉ quy định áp dụng một số

lượng nhỏ các thông số của quy chuẩn nước thải công nghiệp. Vì vậy, có quy định

chung về mức độ bảo vệ môi trường trong quy chuẩn kỹ thuật là không thể.

56

Về vấn đề công bố thông tin

Pháp luật Việt Nam đã có quy định về công khai thông tin theo Luật Tiếp

cận thông tin, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Bảo vệ môi trường

và Luật Đa dạng sinh học. Cụ thể như sau:

Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật yêu cầu các thông tin sau phải được đăng

tải trên website của cơ quan nhà nước cấp bộ hoặc chính quyền cấp tỉnh: (1) văn

bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực hoạt động hoặc do cơ quan nhà

nước đó ban hành; (2) các thủ tục hành chính thuộc trách nhiệm của cơ quan đó; (3)

dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Tương tự, Luật Ban hành văn bản quy phạm

pháp luật cũng có quy định về việc đăng tải công khai các văn bản quy phạm pháp

luật, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trên website của cơ quan nhà nước và

đăng công báo. Trên thực tế, quy định này cũng đã được thực hiện một cách đầy đủ,

kể cả các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến môi trường tại website của các

Bộ TNMT, Bộ Xây dựng, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ GTVT,

và nhiều Bộ khác. Do đó, về việc công bố thông tin đối với các văn bản quy phạm

pháp luật va thủ tục hành chính thì không cần có sự điều chỉnh nào.

Luật Tiếp cận thông tin đã có yêu cầu công khai đối với các chiến lược,

chương trình, dự án, đề án, kế hoạch, quy hoạch phát triển, quy hoạch ngành,

phương thức, kết quả thực hiện, chương trình, kế hoạch công tác hàng năm; công

khai danh mục dự án, chương trình đầu tư công, mua sắm công và quản lý sử dụng

vốn đầu tư công, tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án đầu

tư công; báo cáo công tác định kỳ, cơ sở dữ liệu quốc gia ngành, lĩnh vực, thống kế

về ngành; thông tin về danh mục và kết quả chương trình, đề tài khoa học. Đây là

chính là các chương trình và hoạt động theo yêu cầu phải công khai của CPTPP tại

các Điều 20.5.(2), Điều 20.6.(2) và Điều 20.7.(1). Về hình thức công bố thông tin,

Luật Tiếp cận thông tin cũng yêu cầu các chương trình, dự án, đề án, kế hoạch, quy

hoạch, kết quả thực hiện, chương trình công tác; danh mục dự án, chương trình và

kết quả thực hiện đầu tư, mua sắm công phải được công khai trên trang thông tin

57

điện tử của cơ quan nhà nước.

Qua những quy định trên của Luật Tiếp cận thông tin, có thể thấy hệ thống

pháp luật Việt Nam có mức độ tương thích rất cao so với yêu cầu của CPTPP. Tuy

nhiên, có một vấn đề cần phải lưu ý, đó là, liệu các chương trình và hoạt động được

công khai theo Luật Tiếp cận thông tin có bao gồm cả các chương trình hợp tác

quốc tế không? Mặc dù Luật tiếp cận thông tin yêu cầu các cơ quan nhà nước phải

công khai cả các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên, song điều này cũng

chưa bảo đảm sẽ bao quát hết cả các chương trình hợp tác quốc tế. Vấn đề này

không quá lớn và có thể không cần phải điều chỉnh Luật Tiếp cận thông tin, nhưng

ít nhất cũng cần có các hướng dẫn cụ thể để bảo đảm việc thực thi.

Về công tác tham vấn cộng đồng, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật

yêu cầu tham vấn đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật các cấp. Luật

Bảo vệ môi trường có yêu cầu bắt buộc tham vấn ý kiến người dân đối với báo cáo

đánh giá tác động môi trường. Ngoài ra, Nghị định 19 còn yêu cầu tham vấn đối với

việc (1) Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án bảo vệ môi

trường cấp quốc gia, vùng, liên vùng và cấp tỉnh; (2) Xây dựng các văn bản quy

phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; (3) Xác lập các chỉ tiêu về môi trường trong

chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia, liên vùng,

vùng và cấp tỉnh. Tuy nhiên, theo quan sát, mới chỉ có công tác tham vấn ý kiến đối

với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về môi trường được thực hiện đầy đủ. Việc

tham vấn đối với báo cáo đánh giá tác động môi trường là một yêu cầu bắt buộc để

được phê duyêt báo cáo, xong nhiều nghiên cứu trước đây [Trung tâm con người và

thiên nhiên, Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam: từ pháp luật đến thực tiễn,

2009; Nguyễn Hoàng Phượng, Đỗ Hải Linh, Trần Thanh Thủy, Thể chế hóa quy

trình tham vấn trong đánh giá tác động môi trường, 2015.] đã chỉ ra rằng hoạt động

này rất hình thức, không thực chất. Ngoài ra, các thông tin khác rất hiếm khi được

đưa ra lấy ý kiến người dân.

Nhìn chung, việc công bố thông tin về môi trường của Việt Nam đã được

58

quy định tại nhiều văn bản pháp luật, xong có hai vấn đề lớn.

- Thứ nhất, các quy định về công khai thông tin còn tương đối chung chung,

chưa cụ thể, trao quá nhiều quyền tự quyết cho người thực thi. Đối với vấn đề này,

cách tiếp cận phù hợp nhất là quy định về mức công bố thông tin tối thiểu mà cơ

quan nhà nước và doanh nghiệp phải thực hiện. Ngoài ra, cơ quan nhà nước và

doanh nghiệp có thể công bố thêm thông tin, hoặc sử dụng các hình thức công bố

hiệu quả hơn, tùy từng vấn đề cụ thể.

- Thứ hai, thực tiễn triển khai việc công bố thông tin không thực sự thân

thiện với người tiếp cận. Hình thức phù hợp nhất hiện nay vẫn là đăng tải trên

website của cơ quan nhà nước vì nó bảo đảm cơ hội truy cập cho số đông người

dân, với chi phí thấp và thuận tiện về thời gian, địa điểm thực hiện. Tuy nhiên, điều

này chỉ trở thành nghĩa vụ bắt buộc khi Luật Tiếp cận thông tin đi vào thực tiễn.

Theo kết quả điều tra của Đinh Đức Trường [Quản lý môi trường tại các

doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN,

Tập 31, Số 5 (2015) 46-55], việc công khai thông tin về các vi phạm pháp luật về

môi trường bị xử lý có tác động rất lớn làm thay đổi hành vi của doanh nghiệp.

Theo đó, nếu thông tin về hành vi vi phạm/tuân thủ pháp luật môi trường của doanh

nghiệp được công khai đối với cộng đồng dân cư địa phương và đối với người tiêu

dùng/đối tác của doanh nghiệp đó thì sẽ có tác động khiến các doanh nghiệp tập

trung hơn cho biện pháp bảo vệ môi trường, thậm chí còn có tác dụng lớn hơn cả

biện pháp xử phạt hành chính.

Tóm lại, xét về nghĩa vụ cứng, Việt Nam không cần điều chỉnh pháp luật.

Tuy nhiên, việc công bố các thông tin về môi trường rất có lợi cho việc bảo đảm

thực thi pháp luật về môi trường. Người dân, các tổ chức xã hội, đại biểu dân cử sẽ

có thêm thông tin để giám sát công tác bảo vệ môi trường cũng như việc quản lý

nhà nước về lĩnh vực này. Do đó, việc sửa đổi quy định về công khai thông tin môi

trường là vấn đề cấp thiết.

Về tố cáo, tố giác

Việt Nam đã có các quy định phù hợp. Điều 162 Luật Bảo vệ môi trường quy

59

định: “Cá nhân có quyền tố cáo vi phạm pháp luật về BVMT với cơ quan, người có

thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố cáo”. Theo Luật Tố cáo, việc tố cáo

được thực hiện bằng đơn tố cáo hoặc tố cáo trực tiếp. Trường hợp tố cáo bằng đơn,

trong đơn tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ tên, địa chỉ của người tố

cáo; nội dung tố cáo và phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tố cáo. Trường hợp

tố cáo trực tiếp, người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo viết đơn tố cáo, hoặc người

tiếp nhận ghi lại việc tố cáo bằng văn bản và yêu cầu người tố cáo ký tên hoặc điểm

chỉ xác nhận vào văn bản. Tố cáo vi phạm pháp luật về BVMT có thể được thực

hiện bởi nhiều người. Mỗi người có thể làm đơn tố cáo riêng, hoặc nhiều người

cùng làm một đơn tố cáo và ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn. Tất cả những người tố

cáo có thể cử đại diện để thuận tiện trong việc phối hợp với cơ quan giải quyết tố

cáo.

Theo Nghị định 179/2013 ngày 14/11/2013, có nhiều cơ quan có thẩm quyền

giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về BVMT, tùy thuộc vào hành vi vi phạm và

mức độ vi phạm, như: kiểm lâm, bộ đội biên phòng, quản lý thị trường, công an các

cấp, chủ tịch UBND các cấp xã, huyện, tỉnh… Đối với các vi phạm thông thường,

thuộc thẩm quyền giải quyết của công an, chủ tịch UBND các cấp xã, quận, huyện.

Đối với các vi phạm khác, tùy từng hành vi cụ thể để xác định thẩm quyền giải

quyết. Công dân vẫn có thể nộp đơn tố cáo tại UBND các cấp, UBND các cấp sẽ

chuyển đơn tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền.

Theo Luật Tố cáo, nếu công dân tố cáo đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải

quyết, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, cơ quan có thẩm

quyền phải kiểm tra, xác minh họ tên, địa chỉ của người tố cáo và quyết định việc

thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết tố cáo, đồng thời thông báo cho người tố cáo

biết lý do không thụ lý (nếu có yêu cầu). Trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại

nhiều địa điểm, thời hạn kiểm tra, xác minh có thể dài hơn nhưng không quá 15

ngày. Nếu công dân tố cáo đến cơ quan không có thẩm quyền, trong thời hạn 5 ngày

làm việc, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, người tiếp nhận phải chuyển đơn tố cáo

cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết, và thông báo cho người tố

60

cáo (nếu có yêu cầu). Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp, người tiếp nhận

tố cáo hướng dẫn người tố cáo đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền giải quyết. Tố cáo sẽ được giải quyết trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày thụ

lý, hoặc có thể là 90 ngày đối với vụ việc phức tạp.

Phản ánh của nhiều cơ quan nhà nước và người dân là vấn đề giải quyết tố

cáo vẫn chưa thực sự hiệu quả, do một số vướng mắc sau:

- Thứ nhất, là người dân thiếu hiểu biết về quyền tố cáo của mình

- Thứ hai, vấn đề xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo vẫn chưa rõ ràng.

Điều này dẫn đến khó khăn cho cả người tố cáo và người xử lý tố cáo.

- Thứ ba, nghĩa vụ tiếp nhận tố cáo và trách nhiệm thụ lý chưa được xác định

rõ ràng.

Trên thực tế, để hoạt động bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn, có thể cân

nhắc việc xây dựng một văn bản pháp luật hướng dẫn việc tố giác, tố cáo riêng cho

nhóm hành vi vi phạm pháp luật môi trường (hoặc hành vi gây ô nhiễm). Đồng thời

có các biện pháp phổ biến, tuyên truyền thực thi như đường dây nóng, các bài báo,

tài liệu hướng dẫn, tập huấn công tác xử lý tố cáo, khiếu nại, tố giác về môi trường.

Theo kết quả điều tra [Đinh Đức Trường, Quản lý môi trường tại các doanh

nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập

31, Số 5 (2015) 46-55], các doanh nghiệp từng bị cộng đồng dân cư tố cáo, khiếu

nại về hành vi gây ô nhiễm môi trường có thái độ tích cực hơn trong việc bảo vệ

môi trường. Điều này là do các doanh nghiệp này ý thức được những thiệt hại mà

họ phải gánh chịu do việc bị người dân địa phương khiếu kiện và có ý thức cẩn

trọng hơn đối với vấn đề đó. Bởi vậy, việc đưa ra cơ chế tạo thuận lợi cho người

dân tố cáo, khiếu kiện các vi phạm pháp luật về môi trường là rất cần thiết.

Như vậy, về nguyên tắc, không phải điều chỉnh pháp luật Việt Nam hiện

hành về vấn đề này. Trên thực tế, để hoạt động bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn,

có thể cân nhắc việc xây dựng một văn bản pháp luật hướng dẫn việc tố giác, tố cáo

riêng cho nhóm hành vi vi phạm pháp luật môi trường (hoặc hành vi gây ô nhiễm).

61

Đồng thời có các biện pháp phổ biến, tuyên truyền thực thi như đường dây nóng,

các bài báo, tài liệu hướng dẫn, tập huấn công tác xử lý tố cáo, khiếu nại, tố giác về

môi trường.

Vấn đề xử lý vi phạm

Hiện nay, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Việt Nam đã có quy

định tương đối đầy đủ về trình tự, thủ tục và thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm

pháp luật môi trường. Điều 3.1.b của Luật này cũng đã đưa ra nguyên tắc: Việc xử

phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng

thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật. Nguyên tắc này

tương tự như quy định của CPTPP tại Điều 20.7.(3).

Các quy định tại Chương III của Luật này về thủ tục xử phạt cũng đã tương

đối hoàn thiện, bao gồm các bước về buộc chấm dứt hành vi vi phạm; lập biên bản;

xác minh tình tiết; xác định giá trị tang vật; giải trình; sử dụng phương tiện, thiết bị

kỹ thuật; và ra quyết định xử phạt. Luật cũng đã có quy định về thời hạn tối đa để

thực hiện các bước trong thủ tục xử phạt.

Tuy nhiên, ở đây có một vấn đề mà pháp luật Việt Nam chưa tương thích với

quy định của CPTPP. Một trong những yêu cầu của CPTPP đối với thủ tục xử lý là

phải minh bạch, và nhấn mạnh vào việc các phiên xử phải được công khai trước

công chúng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong thủ tục xử phạt vi

phạm hành chính của Việt Nam cho phép người vi phạm có quyền giải trình trực

tiếp hoặc hoặc bằng văn bản đối với một số vi phạm có mức phạt tối đa trong khung

từ 15 triệu đồng trở lên. Đây có thể coi là một dạng phiên xử trong thủ tục hành

chính. Tuy nhiên, pháp luật chưa có quy định về việc phải công khai phiên xử này.

Đối với nhiều hành vi vi phạm trong các lĩnh vực khác, đôi khi việc xử lý chỉ

cần có sự tham gia của cơ quan quản lý và người vi phạm là đủ. Tuy nhiên, đối với

các vi phạm pháp luật về môi trường thường là các hành vi gây ô nhiễm, hoặc có

nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, gây tác động xấu đến quyền lợi của người dân.

Do đó, việc tăng cường tính minh bạch của thủ tục xử lý vi phạm hành chính là điều

62

cần thiết. Về vấn đề này, có thể nghiên cứu việc bổ sung quy định về công khai,

minh bạch riêng đối với việc xử phạt vi phạm hành chính về môi trường (bao gồm

cả hóa chất và bảo tồn).

Thủ tục xử lý vi phạm bằng con đường tư pháp của Việt Nam đã được thể

hiện trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Các nguyên tắc tòa án xét xử kịp thời, công

bằng và công khai đã được quy định tại Điều 25 của Bộ luật này. Đây không chỉ là

vấn đề của Bộ luật Tố tụng hình sự mà ngay tại Hiến pháp Việt Nam năm 2013

cũng đã có quy định: "Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời

hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật

thì việc tuyên án phải được công khai", và "Tòa án nhân dân xét xử công khai.

Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân

tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng

của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín." Như vậy, các quy định này hoàn

toàn tương thích với các cam kết của Việt Nam trong Điều 20.7.(3) của CPTPP.

Cũng tiếp tục liên quan đến thủ tục xử lý vi phạm, Điều 20.7.(4) của CPTPP

còn yêu cầu những người có quyền và lợi ích liên quan phải được tiếp cận các thủ

tục này một cách phù hợp. Quyền tiếp cận các thủ tục này tương đối rộng, bao gồm

một số nội dung sau: (1) tố cáo, tố giác hành vi vi phạm; (2) theo dõi, nắm bắt thông

tin về việc xử lý vi phạm; (3) tham gia ý kiến về việc xử lý vi phạm; (4) giám sát

việc thực thi quyết định xử lý vi phạm.

Như đã trình bày, Việt Nam có hai thủ tục xử lý vi phạm pháp luật về môi

trường là tố tụng hình sự và hành chính.

Trong thủ tục xử lý hình sự, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận các quyền về tố

cáo, tố giác tội phạm, theo dõi, nắm bắt thông tin về việc điều tra, truy tố, xét xử,

tham gia ý kiến khi được yêu cầu. Bộ luật Tố tụng hình sự còn cho phép xử lý yếu

tố dân sự trong vụ án hình sự. Nói cách khác, việc xử lý các tội phạm về môi trường

có thể được thực hiện cùng với việc yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại do tội

phạm môi trường gây ra. Trong giai đoạn điều tra và truy tố, quyền tham gia tố tụng

của người có quyền và lợi ích liên quan tương đối hạn chế, hoàn toàn phụ thuộc vào

63

nhu cầu của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát mà không có quyền đề nghị tham gia.

Trong giai đoạn xét xử, quyền tiếp cận vụ án của người có quyền và lợi ích liên

quan được mở rộng hơn, bao gồm cả quyền khởi kiện đòi bổi thường dân sự, quyền

được tham dự phiên tòa, được nêu ý kiến tại phiên tòa khi được yêu cầu. Mặc dù,

pháp luật Việt Nam vẫn quy định các quyền này của người có quyền và lợi ích liên

quan chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của các cơ quan tiến hành tố tụng, song

quy định như vậy đã bảo đảm tương thích với Điều 20.7.(4) của CPTPP, bởi Điều

luật này cũng chỉ yêu cầu quyền "tiếp cận hợp lý" của người có lợi ích liên quan.

Đối với xử lý hành chính, các quy định của Việt Nam chưa đáp ứng tốt như

vậy. Pháp luật Việt Nam cho phép người có quyền và lợi ích liên quan có thể tố cáo

hoặc tố giác hành vi vi phạm pháp luật về môi trường. Tuy nhiên, các quyền khác

liên quan đến việc được cung cấp thông tin hoặc có ý kiến về việc xử lý hành vi vi

phạm pháp luật môi trường, hay quyền giám sát thực thi quyết định xử phạt vi phạm

hành chính chưa được quy định.

Để rõ hơn về quy định này của CPTPP và pháp luật Việt Nam có thể lấy ví

dụ khi xảy ra một sự việc ô nhiễm môi trường, người dân có quyền báo cáo với

chính quyền địa phương, tố giác hành vi xả thải của một cơ sở sản xuất. Tuy nhiên,

đến khi cơ quan chức năng thực hiện các hoạt động như điều tra, thanh tra, kiểm tra,

xác minh thông tin thì thường không có sự tham gia của người dân chịu ô nhiễm.

Đến khi ra quyết định xử lý, có thể nảy sinh trường hợp người dân muốn áp dụng

biện pháp đóng cửa, di dời cơ sở gây ô nhiễm, nhưng cơ quan nhà nước chỉ lựa

chọn phương án xử phạt hành chính và yêu cầu cơ sở tăng cường biện pháp xử lý

chất thải. Đến khi thực hiện các nội dung của quyết định xử lý vi phạm, người dân

cũng không có quyền giám sát xem cơ sở đó có thực hiện đúng không. Đây chính là

vấn đề về quyền tham gia của các bên có lợi ích liên quan đến việc thực thi pháp

luật môi trường.

Qua các phân tích trên, dễ dàng thấy rằng mức độ minh bạch trong các thủ

tục xử lý vi phạm hành chính về môi trường của Việt Nam tương đối kém. Trên

thực tế, số lượng các trường hợp xử lý vi phạm theo con đường tố tụng hình sự rất

64

nhỏ, mà chủ yếu là sử dụng các biện pháp xử lý hành chính. Do đó, việc tăng cường

tính minh bạch của việc xử phạt vi phạm hành chính về môi trường là vấn đề pháp

luật Việt Nam cần điều chỉnh. Một số giải pháp có thể kể đến là:

- Thứ nhất, công khai các thông tin về thanh tra, kiểm tra, giải trình và xử lý

vi phạm hành chính về môi trường.

- Thứ hai, có quy định bắt buộc việc cung cấp thông tin và lấy ý kiến người

có quyền và lợi ích liên quan trong quá trình xử lý vi phạm hành chính về môi

trường.

- Thứ ba, có quy định bắt buộc về việc cung cấp thông tin cho người có

quyền và lợi ích liên quan về việc thực hiện các quyết định xử lý vi phạm.

Đối với nhiều vấn đề khác, việc xử lý vi phạm hành chính có thể chỉ cần sự

tham gia của 2 bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt và đối tượng bị xử

phạt. Tuy nhiên, riêng đối với vấn đề môi trường, quyền tham gia và biết thông tin

của các đối tượng có quyền và lợi ích liên quan là rất quan trọng, bởi hành vi vi

phạm pháp luật về môi trường không chỉ ảnh hưởng đến trật tự quản lý nhà nước

mà còn có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tác động rộng lớn đến sức khỏe, tính

mạng và tải sản của người dân. Do đó, việc cung cấp thông tin và bảo đảm quyền

tiếp cận của các chủ thể có liên quan là đặc biệt quan trọng.

Các biện pháp chế tài

Các biện pháp chế tài xử lý vi phạm pháp luật về môi trường của Việt Nam

tương đối phức tạp bao gồm 4 loại chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật về

môi trường, gồm hành chính, dân sự, hình sự và kỷ luật. Chế tài hình sự được thể

hiện trong Bộ luật Hình sự, chế tài hành chính trong Luật xử lý vi phạm hành chính

và các văn bản hướng dẫn. Chế tài dân sự trong Bộ luật Dân sự và Luật Bảo vệ môi

trường, Nghị định 03/2015/NĐ-CP trong trường hợp gây thiệt hại đối với môi

trường tự nhiên. Chế tài kỷ luật nằm tại Luật Cán bộ công chức và Luật Viên chức.

Bộ luật Hình sự của Việt Nam đã có một chương riêng quy định về tội phạm

môi trường từ năm 1999. Đến năm 2009 và năm 2015, các quy định này đã nhiều

lần được rà soát, sửa đổi theo hướng tăng nặng và chi tiết hơn để tăng tính khả thi

65

nhằm giúp cho việc thi hành pháp luật môi trường. Mặc dù trên thực tế thời gian

qua, số lượng vụ việc gây ô nhiễm môi trường bị truy cứu trách nhiệm hình sự chưa

nhiều, nhưng những sửa đổi của Bộ Luật Hình sự 2015 được kỳ vọng sẽ giúp khắc

phục thực tế này.

Việc xác định mức xử lý hình sự của Việt Nam dựa vào khung hình phạt đối

với từng hành vi được quy định trong luật, phụ thuộc vào tính chất và mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm

nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy, so với yêu cầu của Điều 20.7.(6)

của CPTPP, pháp luật Việt Nam vẫn chưa đề cập đến vấn đề bản chất và mức độ

nguy hiểm của hành vi, thiệt hại đến môi trường nhưng chưa có yếu tố về lợi ích

kinh tế mà người phạm tội thu được từ hành vi vi phạm. Trong các tình tiết tăng

tặng và giảm nhẹ hiện nay của Bộ luật Hình sự cũng không có yếu tố liên quan đến

lợi ích kinh tế mà người vi phạm thu được từ hành vi không bảo vệ môi trường gây

ô nhiễm. Trong khi đó, nhiều tội danh khác của Bộ luật Hình sự đã căn cứ vào yếu

tố giá trị thu lợi bất chính để làm tình tiết định khung. Ví dụ, Tội vi phạm quy định

về vệ sinh an toàn thực phẩm, một tội có bản chất hành vi tương tự như tội phạm về

môi trường đã có căn cứ vào mức thu lợi bất chính để định khung hình phạt.

Đối với chế tài hành chính, Luật xử lý vi phạm hành chính cho phép mức

phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm hành chính về môi trường lên đến 2 tỷ

đồng, đây là mức phạt cao nhất được phép theo quy định của Luật này. Nghị định

179/2013/NĐ-CP về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

cũng có mức xử phạt rất nặng cho các hành vi vi phạm, cao hơn nhiều so với các

lĩnh vực khác. Ngoài ra, Nghị định 179 còn cho phép áp dụng các hình thức xử lý

bổ sung như tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn, đình chỉ hoạt động có thời

hạn, tịch thu tang vật phương tiện, và các biện pháp khắc phục hậu quả gồm: (1)

buộc khôi phục tình trạng ban đầu; (2) buộc tháo dỡ công trình; (3) buộc khắc phục

ô nhiễm; (4) buộc đưa nguồn ô nhiễm ra khỏi lãnh thổ; (5) buộc tiêu hủy; (6) buộc

thu hồi sản phẩm; (7) buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp; (8) buộc di dời; (9) truy thu

số tiền phí bảo vệ môi trường; (10) buộc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường

66

khác. Các biện pháp xử phạt bổ sung hoặc khắc phục hậu quả này có thể có chi phí

lớn hơn rất nhiều so với mức phạt tối đa 2 tỷ đồng. Ví dụ, trong vụ việc vi phạm

pháp luật môi trường của công ty Vedan, số tiền truy thu phí bảo vệ môi trường lên

đến 111 tỷ đồng, cao hơn rất nhiều so với mức phạt vi phạm.

Chế tài dân sự của Việt Nam đối với hành vi vi phạm pháp luật về môi

trường tương đối phức tạp, bao gồm hai loại: (1) thiệt hại đối với tính mạng, tài sản,

sức khỏe của tổ chức, cá nhân và (2) thiệt hại đối với môi trường tự nhiên.

Nguyên tắc chung của việc tính toán thiệt hại đối với sức khỏe, tài sản, tính

mạng của tổ chức, cá nhân đã được quy định trong Bộ luật dân sự theo nguyên tắc,

mức bồi thường không vượt quá mức thiệt hại. Nói cách khác, pháp luật Việt Nam

không áp dụng thiệt hại trừng phạt. Việc chứng minh trách nhiệm bồi thường dân sự

của Việt Nam cũng tương tự như pháp luật của nhiều nước khác, đòi hỏi các yếu tố:

(1) hành vi, (2) lỗi, (3) thiệt hại, (4) quan hệ nhân quả. Tuy nhiên, riêng việc bồi

thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường thì không cần chứng minh yếu tố lỗi theo

quy định tại Điều 602 Bộ luật Dân sự 2015.

Trên thực tế, số lượng vụ việc bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe, tài

sản do ô nhiễm môi trường tại Việt Nam chưa nhiều. Nguyên nhân lớn nhất là khó

khăn trong việc chứng minh quan hệ nhân quả. Trách nhiệm chứng minh quan hệ

nhân quả thuộc về người đòi bồi thường, và điều này rất hiếm khi thực hiện được,

chủ yếu nằm ở các vụ việc gây ô nhiễm "cấp tính" như là các sự cố môi trường.

Trong những trường hợp việc gây ô nhiễm kéo dài, hoặc chỉ làm suy giảm môi

trường thì chưa ghi nhận bất kỳ một vụ kiện đòi bồi thường nào tại Việt Nam.

Đặc biệt, pháp luật Việt Nam đã có quy định riêng về việc bồi thường thiệt

hại đối với môi trường tự nhiên và đã có văn bản hướng dẫn việc xác định thiệt hại

đối với môi trường tự nhiên tại Nghị định 03/2015/NĐ-CP. Trên thực tế, mới chỉ

ghi nhận trường hợp sự việc gây ô nhiễm môi trường của nhà máy thép Formosa

năm 2016 áp dụng cơ chế này. Vấn đề năng lực và động lực để sử dụng cơ chế yêu

cầu bồi thường này chưa thực sự phù hợp. Nghị định 03/2015/NĐ-CP xác định

trách nhiệm yêu cầu bồi thường thuộc về UBND cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và Bộ

67

TNMT. Tuy nhiên, nhiều ý kiến đánh giá rằng năng lực của các cấp từ tỉnh trở

xuống khó lòng thực hiện được nhiệm vụ này. Hơn nữa, động lực của các cơ quan

này khi thực hiện việc đòi bồi thường không rõ ràng. Nghị định chỉ cho phép sử

dụng tiền thu được từ việc đòi bồi thường sử dụng để đầu tư khắc phục ô nhiễm, suy

thoái và cải tạo môi trường nơi xảy ra ô nhiễm, suy thoái. Tuy nhiên, nếu đã xác

định được người gây ô nhiễm thì các cơ quan có quyền xử phạt vi phạm hành chính

đồng thời áp dụng biện pháp yêu cầu khắc phục ô nhiễm như một biện pháp khắc

phục hậu quả xử lý vi phạm hành chính. Điều này dễ làm hơn rất nhiều so với việc

yêu cầu bồi thường rồi dùng tiền bồi thường để khắc phục ô nhiễm.

Riêng đối với vi phạm pháp luật môi trường của cán bộ công chức (vi phạm

kỷ luật) thì pháp luật chưa thực sự hoàn thiện. Việt Nam đã có Luật cán bộ, công

chức, Luật viên chức, cũng đã có quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên

chức. Xong pháp luật về lĩnh vực này mới chỉ dừng lại ở các nguyên tắc chung chứ

chưa có quy định cụ thể hơn về các biện pháp chế tài cụ thể tương ứng với từng

hành vi cụ thể. Ví dụ, nếu một cán bộ nhà nước vẫn phê duyệt kế hoạch, quy hoạch

khi chưa có báo cáo ĐMC (vi phạm Điều 17.3 của Luật Bảo vệ môi trường 2014)

thì chưa có quy định cụ thể về hình thức kỷ luật tương ứng. Do đó, đây có thể là gợi

ý để rà soát và bổ sung các quy định pháp luật phù hợp.

Qua rà soát 4 loại chế tài nêu trên, có thể thấy vấn đề kém tương thích nhất

của pháp luật Việt Nam so với yêu cầu của CPTPP là yếu tố lợi ích kinh tế thu được

từ hành vi vi phạm là căn cứ để xác định mức phạt. Điều này chưa được đưa vào

pháp luật Việt Nam có thể vì việc xác định lợi ích kinh tế thu được từ hành vi vi

phạm pháp luật về môi trường chủ yếu nằm ở việc tiết kiệm các chi phí của việc bảo

vệ môi trường. Việc chứng minh lợi ích kinh tế và tính toán các chi phí này không

phải đơn giản đối với các cơ quan nhà nước của Việt Nam.

Xét về yếu tố hiệu quả của pháp luật trong việc điều chỉnh hành vi, rõ ràng

yếu tố lợi ích kinh tế rất cần được xem xét, tính toán khi quyết định mức chế tài. Về

cơ bản, các hành vi gây ô nhiễm môi trường hoặc vi phạm các quy định về bảo vệ

môi trường chủ yếu xuất phát từ động cơ kinh tế, lợi nhuận (tiết kiệm chi phí xây

68

dựng, vận hành hệ thống xử lý chất thải hoặc giảm bớt các biện pháp phòng tránh

sự cố môi trường). Trước khi thực hiện các hành vi này, chủ thể đã tính toán kỹ

được và mất từ việc đó. Cái được là lợi ích kinh tế thu được từ hành vi, còn cái mất

là việc bị xử phạt khi hành vi vi phạm bị phát hiện. Nếu mức phạt vượt nhân với xác

suất bị xử phạt lớn hơn lợi ích kinh tế thu được, chủ thể sẽ có xu hướng điều chỉnh

hành vi theo hướng không vi phạm. Do đó, việc xác định mức chế tài dựa trên lợi

ích kinh tế thu được từ hành vi vi phạm sẽ có tác dụng trực tiếp điều chỉnh hành vi.

2.2.3.Thách thức đối với việc đáp ứng được các tiêu chuẩn cao của FTA thế hệ mới.

Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương là một FTA

thế hệ mới, tiêu chuẩn cao và toàn diện, không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền

thống, như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu

trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại... mà còn xử lý những vấn đề

mới, phi truyền thống, như lao động, môi trường, mua sắm của chính phủ, doanh

nghiệp nhà nước. CPTPP đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa,

các quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ, đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp có tính

ràng buộc và chặt chẽ, do vậy, tham gia Hiệp định này không tránh khỏi những khó

khăn khi phải đáp ứng đầy đủ những chuẩn mực về chất lượng hàng xuất khẩu, cạnh

tranh nguồn lao động chất lượng cao... CPTPP đưa ra một số quy định rất khó khăn,

đặc biệt quy tắc xuất xứ nguyên liệu đầu vào đối với ngành dệt may (sợi phải được

nhập từ các nước thành viên CPTPP).

Về cơ bản, Việt Nam tham gia khá nhiều các điều ước quốc tế trong lĩnh vực

môi trường. Danh mục các văn bản giúp nội luật hóa hoặc thực thi công ước được

thể hiện trong bảng trên. Qua danh mục này có thể thấy công tác nội luật hóa và ban

hành các chương trình, kế hoạch, hành động được Việt Nam hết sức chú trọng.

Hầu hết các điều ước này không có cơ chế bảo đảm thực thi hoặc cơ chế này

bảo đảm thực thi rất yếu, hiếm khi được sử dụng. Mặc dù vậy, việc nội luật hóa các

quy định của các điều ước quốc tế về môi trường cũng đã được Việt Nam chú trọng

thực hiện. Nhiều trường hợp, với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, Việt Nam đã

xây dựng được nhiều chương trình, đề án, kế hoạch để thực hiện các cam kết trong

69

điều ước quốc tế về môi trường.

Để đánh giá công tác thực thi các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt

Nam là thành viên đòi hỏi nhiều nguồn lực và vượt quá phạm vi nghiên cứu của báo

cáo này. Hơn nữa, việc thực hiện các cam kết này không nghiêm khắc như các cam

kết khác trong Chương 20, nên các tác động đến hệ thống pháp luật Việt Nam sẽ

không đáng kể.

Mặc dù vậy, CPTPP vẫn có những áp lực nhất định nếu trong trường hợp

Việt Nam không tuân thủ các cam kết của mình trong các MEAs mà làm ảnh hưởng

đến quan hệ thương mại giữa các quốc gia CPTPP. Do đó, điều Việt Nam cần làm

trong lúc này là thực hiện rà soát tuân thủ các MEAs mà mình là thành viên.

Bên cạnh đó, việc Việt Nam tham gia thêm các MEAs sau này cũng cần

được cân nhắc thấu đáo hơn các tác động kinh tế, xã hội, môi trường và pháp luật.

Ví dụ, thời điểm hiện nay, Việt Nam cũng đang nghiên cứu việc tham gia Công ước

Paris về biến đổi khí hậu (trong khuôn khổ Công ước khung của Liên hợp quốc về

biến đổi khí hậu UNFCCC).

Tuy nhiên, CPTPP cũng có điểm khác với các điều ước hợp tác quốc tế về

bảo vệ môi trường khác, đó là các chương trình và dự án hợp tác sẽ phải có các tiêu

chí và phương pháp để đánh giá hiệu quả, năng suất và sự tiến bộ của từng chương

trình và hoạt động hợp tác cụ thể. Các quốc gia cũng sẽ phải chia sẻ các biện pháp

và tiêu chí đó, cũng như kết quả của việc đánh giá trong và sau khi hoành thành

hoạt động hoặc chương trình hợp tác. Đây là điểm khác biệt tương đối lớn, giúp cải

thiện các chương trình hợp tác trước đây mà Việt Nam tham gia. Cùng với các quy

định về tuân thủ chặt chẽ hơn, theo đúng chuẩn mực của một hiệp định thương mại,

sẽ giúp các chương trình hợp tác bảo vệ môi trường của Việt Nam đi vào thực chất

hơn, mang lại hiệu quả thật sự chứ không chỉ dừng lại ở các hoạt động mang tính bề

nổi hay giải ngân như một số chương trình trước đây.

Thêm vào đó, Việt Nam và các quốc gia khác sẽ phải định kỳ rà soát việc

thực hiện Điều luật về khung hợp tác này và báo cáo các kết luận, kiến nghị đến Ủy

ban môi trường và có thể cân nhắc việc thành lập một cơ quan chuyên trách để hỗ

70

trợ hành chính cho các hoạt động hợp tác.

Ngoài ra, Việt Nam cũng sẽ phải khuyến khích sự tham gia của cộng đồng

vào việc xây dựng và thực thi các hoạt động hợp tác. Tài chính của việc hợp tác sẽ

được quyết định theo từng hoạt động, phù hợp với nguồn lực và pháp luật của từng

quốc gia chứ không được cam kết sẵn.

Mặc dù chương môi trường của CPTPP chỉ điều chỉnh pháp luật môi trường

ở cấp trung ương mà không điều chỉnh các quy định ở cấp địa phương của Việt

Nam, tuy nhiên, CPTPP vẫn cho phép các quốc gia khác có thể yêu cầu đối thoại

với Việt Nam nếu pháp luật của chính quyền địa phương không được thực thi một

cách đầy đủ.

Như vậy, có thể thấy rằng khung hợp tác quốc tế trong CPTPP tương đối

rộng, cho phép Việt Nam cũng như các quốc gia khác tự đề xuất các hoạt động phù

hợp với nhu cầu và nguồn lực của mình. Tuy nhiên, các hoạt động hợp tác này sẽ

được giám sát và đánh giá kỹ lưỡng hơn so với một số chương trình hợp tác về bảo

vệ môi trường trước đây mà Việt Nam tham gia. Ngoài ra, sự tham gia của cộng

đồng và yếu tố minh bạch thông tin của các hoạt động hợp tác quốc tế cũng cao hơn

chứ không chỉ dừng lại ở công việc nội bộ của các cơ quan nhà nước như trước đây.

2.2.4. Thách thức về giảm nguồn thu ngân sách nhà nước.

Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết sẽ làm giảm doanh thu của nhà

nước, tuy nhiên sẽ không tác động đột ngột do trong CPTPP có đến 7/10 nước đã có

FTA với Việt Nam; chỉ còn 3 nước là Ca-na-đa, Mê-hi-cô và Pê-ru là chưa có FTA

với Việt Nam, nhưng thương mại với 3 nước hiện còn khiêm tốn. Sức ép thương

mại song phương với 3 nước không lớn bởi cơ cấu xuất, nhập khẩu của những nước

này có tính bổ sung hơn là cạnh tranh đối với cơ cấu xuất, nhập khẩu của Việt Nam

và hiện Việt Nam đang xuất siêu sang cả 3 nước.

2.2.5. Thách thức về ổn định lao động - xã hội.

Thách thức liên quan đến sửa đổi luật pháp về quyền thành lập tổ chức của

người lao động tại doanh nghiệp và sự quản lý của Nhà nước để bảo đảm hoạt động

của các tổ chức luôn tuân thủ đúng pháp luật Việt Nam, phù hợp với nguyên tắc

71

“tuân thủ pháp luật của nước sở tại”, đồng thời giữ vững ổn định chính trị - xã hội.

Cạnh tranh tăng lên khi tham gia CPTPP có thể làm cho một số doanh nghiệp lâm

vào tình trạng khó khăn, kéo theo đó là khả năng thất nghiệp trong một bộ phận lao

động sẽ xảy ra. Tuy nhiên, do cơ cấu xuất, nhập khẩu của phần lớn các nền kinh tế

trong CPTPP không cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam, nên tác động này có tính cục

bộ, quy mô không đáng kể và chỉ mang tính ngắn hạn.

Chính phủ đang thực hiện việc sửa đổi Bộ luật Lao động, theo hướng những

yêu cầu đặt ra trong Hiệp định CPTPP và EU-Việt Nam FTA, với mục tiêu sẽ trình

Quốc hội bản Dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi vào tháng 05/2019. Các chương về

quan hệ lao động có vai trò mấu chốt đối với không chỉ Hiệp định CPTPP và EU-

Việt Nam FTA, mà còn là mục tiêu tổng quát hiện đại hoá cách thức lao động được

quy định tại Việt Nam trong thời kỳ hiện đại.

Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, điều kiện cho người lao động, bao gồm

tiền lương, được quyết định thông qua đối thoại xã hội và thương lượng tập thể giữa

đại diện người lao động và người sử dụng lao động, được trao quyền và điều chỉnh

bởi các luật và quy định liên quan đến quan hệ lao động. Đây là điểm yếu trong Bộ

luật Lao động hiện hành, cần phải cải thiện để phù hợp với Tuyên bố năm 1998 của

ILO. Trong quá trình sửa đổi Bộ luật Lao động, cần cân nhắc đến việc phê chuẩn

các Công ước số 98 và 87, vì các công ước này đưa ra những nguyên tắc phổ quát

dựa trên quan hệ lao động hiện đại được xây dựng ở hầu hết các nước thành viên

của ILO.

Tuy nhắc tới những khía cạnh đó, chúng ta vẫn còn nhiều vấn đề quan trọng

sẽ ảnh hưởng tới doanh nghiệp, người lao động và xã hội, bao gồm hợp đồng lao

động, phân biệt đối xử, tuổi nghỉ hưu, tiền lương và thời giờ làm việc.

Một vấn đề khác cũng không kém phần quan trọng là câu hỏi căn bản là về

phạm vi áp dụng của Bộ Luật Lao động – liệu Bộ luật chỉ áp dụng cho người lao

động và người sử dụng lao động ở khu vực kinh tế chính thức, hay chỉ ở những

người lao động có hợp đồng lao động? Những tài xế Grab và Ubers thì sao? Việt

Nam hiện có một lực lượng lao động hơn 53 triệu người, trong đó 29 triệu người

72

làm các công việc tự làm hoặc là lao động gia đình không được trả lương, phần lớn

thuộc nền kinh tế phi chính thức, và 23 triệu người là lao động làm công ăn lương.

Vậy bao nhiêu trong số họ sẽ nằm trong phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Lao động?

Đây có lẽ là câu hỏi đầu tiên cần được trả lời.

Trong bối cảnh đó, cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tham gia đầy đủ

của công đoàn, đại diện doanh nghiệp và các bên liên quan khác trong suốt quá trình

sửa đổi Bộ Luật Lao động. Việc đổi mới pháp luật lao động có thành công hay

không phụ thuộc vào cách thức tiếp thu một cách cân bằng giữa nhu cầu được bảo

vệ tốt hơn của người lao động và nhu cầu về tính linh hoạt của doanh nghiệp. Cân

bằng những nhu cầu của người lao động và người sử dụng lao động là khả thi chỉ

khi đại diện của họ tham gia vào quá trình này.

Kết luận chương 2

Việc tham gia, thực hiện CPTPP đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất

khẩu, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh phụ thuộc vào một thị trường truyền

thống. Nền kinh tế nước ta có sự tăng trưởng cao, phát triển từng bước và vững

chắc. Nền tảng kinh tế vĩ mô được duy trì tốt, ngày càng được củng cố. Góp phần

tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thu hút nhiều nhà đầu tư lớn từ các nước trong

khu vực và thế giới. Tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập, đời sống của nhân dân

được nâng cao. Dễ dàng tiếp cận với các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có chất lượng

cao của các nước đối tác. Tạo động lực nâng cao chất lượng nhiều sản phẩm về

nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghệ cao. Văn hóa hội nhập kinh tế quốc

tế cũng có phát triển. Tạo động lực để Việt Nam hoàn thiện thể chế, khung khổ

pháp lý tiếp cận các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, cải cách thủ tục hành chính.

Việc thanh toán, thu ngân sách trong nước, tạo việc làm… cũng có nhiều đổi mới

nhờ sự hoàn thiện của luật pháp. Các luật liên quan đến sở hữu trí tuệ, lao động, môi

trường, nông nghiệp, chính sách cạnh tranh cũng có bước tiến bộ mới. Luật pháp về

mua sắm công được hoàn thiện hơn. Bước đầu nghiên cứu việc tham gia giải quyết

các tranh chấp về kinh tế, đầu tư, thương mại quốc tế…

Bên cạnh những lợi ích, cơ hội, việc tham gia CPTPP còn mang đến nhiều

73

khó khăn, thách thức, nhất là với các doanh nghiệp trong nước. Cần nâng cao hàm

lượng giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu, đây là một trong những yêu cầu

nâng cao năng lực của doanh nghiệp trong nước. Trong định hướng thu hút vốn đầu

tư nước ngoài, cần khẳng định rằng, đến thời điểm này, nước ta có quyền lựa chọn,

ưu tiên những dự án thân thiện với môi trường, có công nghệ hiện đại. Cần sẵn sàng

ứng phó, đặt ra các biện pháp phòng vệ thương mại và giải quyết tranh chấp về kinh

74

tế, đầu tư, thương mại quốc tế…

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG CƠ HỘI

VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA

3.1. Hoàn thiện về mặt cải cách thể chế nền kinh tế

Thể chế có thể được hiểu là những yếu tố tạo thành khung khổ trật tự cho các

quan hệ của con người, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các

bên tham gia tương tác; là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật

tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi

người chia sẻ… Môi trường thể chế được xác định là khung khổ hành chính và pháp

lý điều chỉnh hành vi và các mối quan hệ giữa chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân

nhằm tạo ra thu nhập và của cải vật chất của một nền kinh tế. Cải cách thể chế kinh

tế là một khái niệm chính trị học liên quan đến sự vận hành của nhà nước đối với

mọi nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Vấn đề cải cách thể chế kinh tế được coi là vấn

đề trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay.

Năng lực cạnh tranh của quốc gia được quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó chất

lượng thể chế và môi trường kinh doanh có tầm quan trọng hàng đầu. Chất lượng

thể chế không chỉ tác động như một yếu tố tự thân mà còn ảnh hưởng có tính quyết

định đến môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế, của từng

doanh nghiệp và là điều kiện tiên quyết để phát huy có hiệu quả lợi thế quốc gia.

Không thể có được năng lực cạnh tranh cao nếu không có một thể chế chất lượng

cao và một nền quản trị quốc gia hiện đại.

Việc tham gia các Hiệp định Thương mại tự do với yêu cầu cao hơn, toàn

diện hơn tạo ra nhiều cơ hội cho hợp tác cùng phát triển đồng thời cũng đặt ra

những thách thức lớn đối với nền kinh tế. Để nâng cao nội lực nền kinh tế, vừa tận

dụng được các cơ hội do FTA mang lại, vừa tuân thủ các cam kết đã đề ra, Việt

Nam cần áp dụng các biện pháp cơ bản và lâu dài để hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường như: cải cách mạnh mẽ doanh nghiệp nhà nước, tạo lập môi trường cạnh

tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả với

doanh nghiệp FDI. Ngoài ra, Việt Nam cần thực hiện nhất quán cơ chế giá thị

75

trường, loại bỏ mọi hình thức trợ cấp trái với quy định của WTO; xây dựng môi

trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, có thể tiên liệu được; tăng cường thể

chế thực thi và chế tài xử phạt, bảo đảm sự tham gia của các bên liên quan trong quá

trình xử lý tranh chấp; sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật như Luật Doanh nghiệp,

Luật Đầu tư, Luật Mua sắm công, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Hình sự… Một vấn đề

cấp thiết đặt ra là phải định vị lại vai trò của ba trụ cột trong một thể chế kinh tế thị

trường hiện đại là: Thị trường, Nhà nước và Xã hội, trong đó: (1) Thị trường giữ vai

trò quyết định trong việc phân bổ nguồn lực; (2) Nhà nước sử dụng các công cụ

điều tiết nhằm khắc phục những bất cập của thị trường, thực hiện chức năng kiến

tạo phát triển và chiến lược tăng trưởng bao trùm; (3) Xã hội đóng vai trò phản biện

và giám sát. Cần tiếp tục đổi mới tư duy hội nhập, quán triệt đường lối hội nhập sâu

rộng vào thị trường khu vực và quốc tế; tăng cường đồng thuận xã hội thông qua 5

kênh: (i) Giữa các Bộ, ngành, cơ quan hữu quan; (ii) Giữa Chính phủ và Quốc hội;

(iii) Giữa Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp; (iv) Phương tiện thông tin đại

chúng; (v) Các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, cần gắn việc đàm phán và ký kết FTA

với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, tái cấu trúc nền

kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, đa dạng hóa thị trường, đóng góp hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tăng cường nghiên cứu, hoàn

thiện và giải quyết các xung đột trong khung pháp lý tạo thuận lợi cho quá trình

đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế trên cơ sở đảm bảo chủ quyền và

lợi ích quốc gia, phát triển bền vững và an sinh xã hội; tăng cường sự tham gia của

Quốc hội và thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với quá trình đàm phán, ký

kết và thực hiện các FTA, đảm bảo tính hài hòa pháp luật của các Hiệp định này.

Vượt xa nội dung của những Hiệp định thương mại thông thường, Hiệp định

Thương mại tự do thế hệ mới, điển hình là CPTPP mở ra viễn cảnh xây dựng một

khu vực tự do thương mại rộng lớn với những chuẩn mực mới của thế kỷ XXI. Việc

tham gia các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP sẽ tạo ra áp lực để

cải cách thể chế nhưng cũng là cơ hội để hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị

trường định hướng XHCN. Kinh nghiệm từ việc tham gia và thực thi cam kết WTO

76

cho thấy, sẽ không thể tận dụng được cơ hội, đối phó thành công với các thách thức

khi tham gia CPTPP nếu không quyết tâm, mạnh dạn đổi mới từ quan điểm quản lý,

chính sách của Chính phủ đến quản trị và sự chủ động của mỗi doanh nghiệp trong

nền kinh tế.

Cải cách thể chế mà chúng ta đang đề cập đã bao hàm trong đó cả cải cách

thể chế pháp lý và thể chế kinh tế. Với các cam kết CPTPP và EVFTA, chúng ta

hầu như chỉ phải thực hiện các cải cách thể chế pháp lý để nội luật hóa hay tổ chức

thực hiện cam kết.

Cải cách thể chế kinh tế, xoay quanh các yếu tố chính sách kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu

kinh tế, chính sách phát triển ngành… luôn là vấn đề nội bộ của riêng chúng ta,

không có FTA nào can thiệp vào cả. Vấn đề là các FTA như thế này sẽ tác động tới

nhiều yếu tố kinh tế, từ cơ cấu ngành đến các chuyển dịch về vốn, lao động vào các

khu vực có lợi thế từ các FTA.

Và để tận dụng được các cơ hội từ các FTA, thể chế kinh tế của chúng ta

cũng phải chuyển động tương ứng, điều chỉnh các yếu tố kinh tế vĩ mô theo các

cách thức thích hợp để đón đầu cơ hội, cũng để khắc phục các tác động chuyển

hướng bất lợi.

3.2. Hoàn thiện về mặt xây dựng pháp luật

3.2.1. Kiến nghị chung

Về lý thuyết, CPTPP chỉ là hiệp định có 11 thành viên, Việt Nam chỉ có

nghĩa vụ tuân thủ các cam kết của mình trong CPTPP đối với 10 quốc gia thành

viên còn lại, các quốc gia khác sẽ không được hưởng những cam kết này. Tuy

nhiên, trên thực tế, vấn đề không chỉ dừng lại ở các quốc gia nội bộ CPTPP, mà tất

cả các quốc gia khác cũng sẽ được hưởng các cam kết này. Điều này xuất phát từ

những bất cập thực tiễn của việc duy trì hai hay nhiều quy định song song trong

pháp luật Việt Nam để điều chỉnh các đối tượng khác nhau. Đối với một số nghĩa

vụ, Việt Nam có thể chỉ tiến hành sửa đổi pháp luật nhằm áp dụng cho các quốc gia

trong CPTPP mà thôi. Ví dụ, về việc mở cửa thị trường dịch vụ xử lý chất thải nguy

77

hại, Việt Nam có thể lựa chọn phương án chỉ mở cửa cho phép nhà đầu tư nước

ngoài trong khối CPTPP mà không cho phép nhà đầu tư đến từ các quốc gia khác.

Lúc này, việc cho phép hay không cho phép nhà đầu tư từ quốc gia ngoài CPTPP

cung cấp dịch vụ phụ thuộc vào đánh giá tác động chính sách của các nhà làm luật

Việt Nam. Nếu hạn chế nhà đầu tư đến từ quốc gia khác thì sẽ giúp bảo hộ các nhà

đầu tư của Việt Nam khi tham gia thị trường dịch vụ xử lý chất thải nguy hại.

Ngược lại, nếu nhà làm luật muốn có thêm nguồn vốn đầu tư, tăng số lượng nhà

cung cấp, tăng tính cạnh tranh của dịch vụ xử lý chất thải thì có thể cho phép nhà

đầu tư nước ngoài và bỏ qua việc bảo hộ doanh nghiệp nội địa.

Ngược lại, đối với rất nhiều các cam kết khác, việc điều chỉnh pháp luật sẽ

áp dụng cho toàn bộ các quốc gia khác, không chỉ dừng lại ở các quốc gia thành

viên CPTPP. Ví dụ:

- Việt Nam cam kết trong CPTPP có biện pháp chế tài phù hợp để trừng phạt

các hành vi gây ô nhiễm môi trường, các biện pháp đó phải căn cứ vào lợi ích kinh

tế thu được của người thực hiện hành vi. Về lý thuyết, Việt Nam có thể ban hành

hai mức chế tài khác nhau dành cho những trường hợp vi phạm pháp luật môi

trường có ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư giữa các quốc gia CPTPP, và không

có ảnh hưởng. Tuy nhiên, rõ ràng là việc chia 2 mức chế tài đó rất phức tạp, tạo ra

sự thiếu nhất quán của hệ thống pháp luật, cũng như gây khó khăn cho công tác

thực thi. Giải pháp tốt hơn đối với hệ thống pháp luật Việt Nam là xây dựng một

quy định về chế tài, thỏa mãn cam kết của CPTPP và áp dụng chung cho cả các

quốc gia trong và ngoài CPTPP.

- Một ví dụ khác là khi Việt Nam cam kết dỡ bỏ các biện pháp trợ cấp đánh

bắt thủy sản trong CPTPP. Như vậy, Việt Nam chỉ phải dỡ bỏ trợ cấp đối với việc

đánh bắt thủy sản mà thủy sản đó sau này được xuất khẩu sang các nước CPTPP, và

Việt Nam vẫn có thể duy trì biện pháp trợ cấp đối với thủy sản được đánh bắt để

xuất khẩu sang quốc gia khác. Tuy nhiên, điều này sẽ dẫn đến nảy sinh khó khăn

trong việc xây dựng và thực thi pháp luật. Nếu làm theo cách đó, Việt Nam buộc

phải có hai quy định song song về việc có trợ cấp cho tàu cá nào đánh bắt để xuất

78

khẩu trong khối CPTPP và tàu cá nào đánh bắt để xuất khẩu ngoại khối, sau đó lại

phải có quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền xác định sản phẩm nào

xuất khẩu đi đâu. Đến khi thực thi, cơ quan nhà nước buộc phải xem xét nơi tiêu thụ

của sản phẩm để thực hiện biện pháp trợ cấp, và điều này đòi hỏi rất nhiều công

sức.

Như vậy, có thể thấy rằng việc điều chỉnh hệ thống pháp luật nội địa sẽ cần

được cân nhắc đối tượng áp dụng chỉ dừng lại ở các vấn đề có liên quan đến thương

mại và đầu tư trong CPTPP hay sẽ áp dụng cho toàn bộ các trường hợp mà pháp

luật Việt Nam có quyền tài phán.

3.2.2. Kiến nghị điều chỉnh các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường

Quy định về đánh giá tác động kinh tế, xã hội và môi trường

Như đã phân tích, quy trình đánh giá tác động môi trường so sánh với đánh

giá tác động kinh tế, xã hội hiện đang có sự không đồng nhất, đặc biệt là vấn đề

thẩm quyền và tiêu chí. Pháp luật về vấn đề này cần sửa đổi như sau:

- Thứ nhất, cần sửa đổi Luật Đầu tư theo hướng, trong quá trình thẩm định

dự án đầu tư phải thẩm định cả các tác động môi trường. Nhiệm vụ này do cơ quan

nhà nước thực hiện và theo hướng dẫn kỹ thuật của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

- Thứ hai, khi thẩm định dự án đầu tư phải gửi lấy ý kiến của cơ quan bảo vệ

môi trường cấp trung ương và cấp tỉnh tương ứng.

- Thứ ba, xây dựng tiêu chí thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường.

- Thứ tư, quy định thẩm quyền phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi

trường thuộc về hội đồng thẩm định và các thành viên hội đồng phải chịu trách

nhiệm cá nhân khi báo cáo được phê duyệt không đáp ứng các tiêu chí thẩm định

(trừ các thành viên đã bỏ phiếu chống).

- Thứ năm, công khai toàn bộ các báo cáo đánh giá môi trường chiến lược

kèm với các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch được phê duyệt, công khai toàn bộ các

báo cáo đánh giá tác động môi trường trên website của cơ quan nhà nước quản lý

môi trường.

79

Quy định về công nhận và khuyến khích trách nhiệm xã hội

Việt Nam cần sớm ban hành quy định pháp luật về trách nhiệm xã hội, giải

quyết các vấn đề sau:

- Thứ nhất, công nhận các tiêu chuẩn quốc tế được thừa nhận rộng rãi về

trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

- Thứ hai, điều kiện, trình tự, thủ tục để Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ

định các các tổ chức chứng nhận sự phù hợp với các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã

hội của doanh nghiệp, bao gồm cả các tổ chức ở nước ngoài.

- Thứ ba, ban hành quy định khuyến khích doanh nghiệp áp dụng trách

nhiệm xã hội và được chứng nhận, ví dụ như miễn phí bảo vệ môi trường đối với

hoạt động khai thác khoáng sản của các doanh nghiệp mà đã được chứng nhận đáp

ứng tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội.

Cải cách thủ tục hành chính về tiếp cận nguồn gen

Đối với vấn đề tiếp cận nguồn gen, Việt Nam cần tính đến việc sửa đổi quy

định về thủ tục hành chính sao cho minh bạch, hiệu quả, cụ thể như sau:

- Thứ nhất, cắt giảm bước đăng ký tiếp cận nguồn gen, chuyển bước xin giấy

phép tiếp cận nguồn gen thành thông báo tiếp cận nguồn gen. Theo đó, thủ tục tiếp

cận nguồn gen chỉ còn đàm phán, ký hợp đồng và thông báo về việc tiếp cận nguồn

gen.

- Thứ hai, xây dựng rõ ràng tiêu chí từ chối tiếp cận nguồn gen như trong

trường hợp loài quý hiếm, loài có nguy cơ ngoại lai xâm hại, có nguy cơ về kiểm

dịch, vệ sinh dịch tễ… Còn lại các trường hợp khác thì tự động thực hiện.

Tăng cường giám sát và xử lý vi phạm về khai thác thủy sản

Biện pháp giám sát và xử lý vi phạm về khai thác thủy sản là một trong

những nghĩa vụ bắt buộc phải điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, cụ thể như sau:

- Thứ nhất, yêu cầu trang bị thiết bị giám sát cho tất cả các tàu cá mang cờ

của Việt Nam. Hoạt động này có thể được thực hiện thông qua các hoạt động hợp

80

tác quốc tế.

- Thứ hai, điều chỉnh khái niệm đánh cá trái phép và khái niệm tàu cá để phù

hợp với cách hiểu quốc tế về các khái niệm này, đồng thời giúp cho việc xử lý vi

phạm của Việt Nam tuân thủ yêu cầu của TPP.

- Thứ ba, thực hiện biện pháp kiểm tra nhật ký đánh cá đối với các tàu cá của

Việt Nam khi cập cảng.

Điều chỉnh pháp luật về trợ cấp đánh cá

Trợ cấp đánh cá cũng là một trong những nội dung mà Việt Nam cần điều

chỉnh pháp luật để bảo đảm tuân thủ. TPP yêu cầu Việt Nam phải loại bỏ các biện

pháp trợ cấp đối với (1) hoạt động đánh cá có tác động tiêu cực đến các ngư trường

đã bị khai thác quá mức và (2) không trợ cấp cho bất kỳ một tàu cá nào đã bị nêu

tên bởi quốc gia mang cờ, Tổ chức quản lý đánh cá khu vực. Do các biện pháp trợ

cấp của Việt Nam rất đa dạng nên phương án tốt nhất để bảo đảm tuân thủ TPP về

nội dung này là sửa đổi quy định về điều kiện được nhận trợ cấp. Theo đó, các

khoản trợ cấp sẽ bị cắt nếu người thụ hưởng rơi vào một trong các trường hợp trên.

Phương án xử lý cụ thể sẽ được tính đối với từng loại trợ cấp, ví dụ, đối với các

khoản trợ cấp tín dụng thì có thể ngừng hỗ trợ lãi suất, chuyển sang mức lãi suất thị

trường, phạt lãi suất, hoặc dừng các gói hỗ trợ chi phí….

Điều chỉnh các quy định bảo vệ môi trường

- Xây dựng cơ chế quản lý (nghiên cứu, thẩm định, đánh giá, công bố) các

công nghệ xử lý nước thải của Việt Nam làm cơ sở xây dựng quy chuẩn xả thải phù

hợp với trình độ công nghệ hiện có của Việt Nam.

- Xác định sức chịu tải của các thủy vực là cơ sở dữ liệu cho: rà soát và phê

duyệt dự án đầu tư và xây dựng quy chuẩn xả thải thích hợp. Lập danh sách các

ngành công nghiệp/dự án đầu tư có rủi ro môi trường cao cần phải có ý kiến của

nhiều thành phần trong xã hội (tổ chức xã hội, nhà khoa học, NGOs, cộng đồng)

trước khi được phê duyệt đầu tư.

- Xây dựng công cụ để tiếp nhận thông tin phán ánh về tình trạng ô nhiễm

81

môi trường từ cộng đồng một cách hiệu quả và phổ biến rộng rãi đến cộng đồng.

3.2.3. Kiến nghị điều chỉnh các quy định về bảo đảm thực thi pháp luật môi trường

nội địa

Xây dựng cơ sở dữ liệu về pháp luật môi trường cũng như căn cứ khoa học

trong xây dựng pháp luật về môi trường

- Hệ thống hóa lại các văn bản pháp luật tránh sự dàn trải, tạo thuận lợi cho

việc tuân thủ của doanh nghiệp.

- Rà soát lại các công cụ pháp luật đảm bảo tránh trùng lặp gây phiền hà, tổn

thất cho doanh nghiệp (ĐTM, giấy phép xả thải,…).

- Xây dựng nền tảng khoa học, công nghệ môi trường vững chắc hỗ trợ xây

dựng, hoàn thiện các công cụ chính sách nhằm hạn chế các quyết định chủ quan của

con người.

Xây dựng cơ sở dữ liệu về môi trường

Cần xây dựng một cơ sở dữ liệu về môi trường gồm 2 nội dung: (1) dữ liệu

về môi trường xung quanh; và (2) hồ sơ của nguồn thải. Dữ liệu môi trường xung

quanh được thu thập từ các hoạt động quan trắc môi trường, tập trung kết quả về

cùng một cơ sở dữ liệu. Thông tin về hồ sơ nguồn thải được xây dựng gồm toàn bộ

các thông tin có được từ lúc thiết kế, xây dựng và trong quá trình vận hành của một

dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.

Cơ sở dữ liệu này được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau. Thứ nhất, nó

cung cấp thông tin đầu vào cho việc xây dựng chính sách về môi trường, ví dụ,

quyết định loại dự án, quy mô, công suất nào thì phải lập báo cáo ĐTM, phải có hệ

thống quản lý môi trường, tránh tình trạng xây dựng pháp luật dựa trên kinh nghiệm

cá nhân như hiện nay. Thứ hai, cơ sở dữ liệu này giúp minh bạch thông tin đến

người dân, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành và cơ hội giám

sát của người dân. Thứ ba, cơ sở dữ liệu sẽ giúp xác định trọng tâm, trọng điểm để

phân bổ các nguồn lực cho việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm theo đúng nguyên

tắc quản lý rủi ro môi trường. Thứ tư, cơ sở dữ liệu sẽ giúp đơn giản hóa, liên thông

thủ tục hành chính giữa các cơ quan nhà nước, ví dụ, giữa cơ quan quản lý hóa chất

82

và cơ quan bảo vệ môi trường.

Biện pháp đánh giá dự thảo văn bản pháp luật về môi trường trước khi ban

hành

Theo Hiệp định CPTPP, các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam có

thể trở thành đối tượng bị khởi kiện trong hai trường hợp: (1) theo cơ chế giải quyết

tranh chấp giữa quốc gia với quốc gia khi văn bản đó có dấu hiệu vi phạm các quy

định của CPTPP; và (2) theo cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà

nước khi văn bản đó có dấu hiệu vi phạm các cam kết về đầu tư. Để phòng ngừa

sớm nguy cơ này, công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật về môi trường

cần được chú trọng nhiều hơn. Trong giai đoạn soạn thảo, các quy định pháp luật về

môi trường cần được đánh giá tác động kỹ hơn, đặc biệt là các tác động đến thương

mại và đầu tư nhằm lựa chọn được phương án chính sách phù hợp nhất.

Công tác cán bộ

Công tác cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ môi trường rất quan trọng. Thực hiện

công tác cán bộ cần bảo đảm cả hai nội dung: (1) số lượng, chất lượng nhân lực và

(2) kỷ luật, đạo đức cán bộ.

- Thứ nhất, tăng cường số lượng, chất lượng nhân lực làm công tác quản lý

nhà nước về bảo vệ môi trường. Nâng cao năng lực công chức quản lý nhà nước

thông qua hợp tác quốc tế, đề nghị các quốc gia phát triển là thành viên TPP hỗ trợ

nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ xây dựng và thực thi pháp luật môi trường

của Việt Nam. Ví dụ, bồi dưỡng kiến thức về giải quyết tranh chấp môi trường cho

thẩm phán, Chi cục BVMT cấp địa phương,…

- Thứ hai, nâng cao kỷ luật, đạo đức cán bộ thông qua việc làm chặt chẽ hơn

công tác kỷ luật cán bộ như quy định rõ các hành vi phạm kỷ luật của cán bộ, công

chức khi làm nhiệm vụ và biện pháp chế tài tương ứng. Ví dụ, ban hành văn bản về

xử lý vi phạm kỷ luật đối với cán bộ môi trường với các hành vi như nếu người nào

phê duyệt kế hoạch, quy hoạch mà chưa có báo cáo ĐMC thì bị hạ bậc lương.

Quy trình phân bổ nguồn lực dựa trên quản lý rủi ro

Việc phân bổ nguồn lực quản lý môi trường của nhà nước phải dựa trên cơ

83

sở quản lý rủi ro. Dựa vào cơ sở dữ liệu đã được xây dựng ở trên, cơ quan nhà nước

có thể xây dựng tiêu chí để đánh giá, phân loại các nguồn thải để từ đó có biện pháp

quản lý phù hợp. Ví dụ, nguồn thải nào có chất thải nguy hại, có công suất lớn, có

kim loại nặng trong nước thải… thì bị đánh giá mức độ rủi ro cao hơn. Các nguồn

thải được phân loại thành rủi ro cao, rủi ro vừa, rủi ro thấp, hoặc chi tiết hơn nữa.

Công tác thanh tra, kiểm tra sẽ dựa vào sự phân loại rủi ro này. Ví dụ, nguồn thải rủi

ro cao thì phải có quan trắc tự động liên tục, việc thanh kiểm tra ngẫu nhiên phải

được chú trọng; đối với nguồn thải rủi ro trung bình thì áp dụng quan trắc tự động,

thực hiện thanh tra, kiểm tra theo định kỳ và giảm số lần thanh tra, kiểm tra, hoặc

chỉ thanh tra, kiểm tra khi có phản ánh kiến nghị về tình trạng gây ô nhiễm môi

trường;, nguồn thải rủi ro thấp thì thanh kiểm tra 3 năm/lần.

Cơ chế này giúp minh bạch hoạt động của cả các cơ quan nhà nước, giảm

tình trạng nhũng nhiễu tiêu cực đối với doanh nghiệp, và quan trọng nhất là khiến

cho nguồn nhân lực, vật lực sử dụng vào công tác quan trắc, thanh tra, kiểm tra,

giám sát tuân thủ được tận dụng mang lại hiệu quả tối đa. Ví dụ, một cơ quan quản

lý chỉ có 100 ngày làm việc/năm để đi kiểm tra các nguồn thải trên địa bàn, thì việc

phân loại mức độ rủi ro của nguồn thải sẽ giúp cơ quan đó phân bổ hợp lý 100 ngày

làm việc sao cho mang lại hiệu quả phòng ngừa ô nhiễm môi trường cao nhất.

Minh bạch thông tin và sự tham gia của cộng đồng

Minh bạch thông tin để tăng cường sự giám sát của cộng đồng. Ví dụ, công

bố các thông tin về môi trường một cách đầy đủ, tập trung và thân thiện với người

truy cập sẽ tạo điều kiện để cộng đồng có thể giám sát, đẩy mạnh thực thi pháp luật

về môi trường. Chỉ cần công khai các thông tin hợp lý của cơ sở dữ liệu trên đã đề

cập ví dụ như các thông tin về quan trắc môi trường xung quanh, hay kết quả thanh

tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của các nguồn thái sẽ được công khai trên website sẽ

giúp người dân dễ dàng giám sát các hoạt động này. Việc minh bạch thông tin cũng

là một trong những cam kết của Việt Nam trong TPP. Lưu ý, sự tham gia của cộng

đồng ở đây không chỉ giới hạn ở cộng đồng dân cư nơi vấn đề môi trường diễn ra

mà là quảng đại người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các tổ chức quốc

84

tế.

- Xây dựng cơ chế cụ thể hỗ trợ người dân và các tổ chức xã hội trong việc

giám sát, khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị về các vấn đề môi trường; xây dựng

đầy đủ cơ chế xác định thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra; cơ chế bảo vệ người

làm chứng…

Xử lý tố cáo vi phạm pháp pháp luật môi trường

Nên xây dựng một văn bản hướng dẫn về việc xử lý tố cáo đối với các hành

vi gây ô nhiễm môi trường bởi loại tố cáo có đặc thù so với các lĩnh vực khác. Thứ

nhất, các vụ việc ô nhiễm môi trường thường ảnh hưởng đến cả một cộng đồng,

người dân thường sẽ tụ tập đông người để phản đối chứ không phải là một cá nhân

làm đơn như các trường hợp khác. Thứ hai, việc trả lời xử lý tố cáo cần được thực

hiện công khai theo hình thức họp cộng đồng dân cư hoặc phát thông báo đến từng

nhà, điều này cũng khác so với biện pháp trả lời tố cáo thông thường.

Ngoài ra, văn bản cũng có thể đề cập đến các biện pháp phổ biến, tuyên truyền thực

thi như đường dây nóng, các bài báo, tài liệu hướng dẫn, tập huấn công tác xử lý tố

cáo, khiếu nại, tố giác về môi trường.

Thủ tục xử lý vi phạm hành chính

Như trên đã phân tích, thủ tục xử lý vi phạm hành chính về môi trường của

Việt Nam cần được điều chỉnh, cụ thể như sau:

- Thứ nhất, công khai thông tin về việc phát hiện hành vi và ra quyết định xử

lý vi phạm hành chính về môi trường.

- Thứ hai, bổ sung quy định về công khai minh bạch đối với thủ tục giải trình

khi xử lý vi phạm hành chính.

- Thứ ba, bổ sung quy định về quyền tham gia của cá nhân, tổ chức có lợi ích

liên quan vào thủ tục xử lý vi phạm hành chính.

Chuyển nghĩa vụ chứng minh quan hệ nhân quả

Việc xử lý bồi thường dân sự cần bổ sung quy định về chuyển nghĩa vụ

chứng minh quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm môi trường với thiệt hại

của cá nhân, tổ chức và thiệt hại môi trường. Đây là kinh nghiệm của nhiều quốc gia

85

khác trên thế giới và đã phát huy hiệu quả.

Thêm vào đó, cần bổ sung hướng dẫn về việc xử lý vụ việc tranh chấp tập

thể tại Tòa án. Quy định cụ thể hơn về các trường hợp tách nhập vụ án, quy định về

việc thông báo rộng rãi của tòa án cho những người có thể là bên bị hại, chọn người

đại diện của bên tập thể, quy định cấm bên bị tiếp xúc với từng cá nhân đơn lẻ của

bên tập thể mà không có mặt người đại diện…

Quyết định mức phạt dựa vào lợi ích kinh tế thu được

Việt Nam cần bổ sung yếu tố lợi ích kinh tế thu được từ hành vi vi phạm vào

làm căn cứ để quyết định hình phạt đối với các tội phạm môi trường, bổ sung tình

tiết tăng nặng là thu lợi bất chính lớn vào Bộ luật Hình sự và căn cứ vào mức lợi thu

được từ hành vi vi phạm để xác định mức phạt tiền. Đối với xử lý vi phạm hành

chính cũng cần cân nhắc yếu tố lợi ích kinh tế thu được từ hành vi vi phạm để quyết

định mức xử lý.

Hỗ trợ doanh nghiệp tuân thủ pháp luật về môi trường và giám sát bảo vệ

môi trường

Xây dựng các chương trình nâng cao năng lực pháp lý cho doanh nghiệp.

Theo đó, xây dựng khung pháp lý yêu cầu công tác bảo vệ môi trường trong doanh

nghiệp cần được chú trọng như phải có tư vấn luật về bảo vệ môi trường (lao động

cơ hữu của doanh nghiệp hoặc thuê tổ chức tư vấn luật); tăng cường công tác phổ

biến giáo dục pháp luật về môi trường cho doanh nghiệp ….

3.2.4. Kiến nghị các biện pháp thực thi nghĩa vụ quốc tế

Rà soát việc thực thi các hiệp định môi trường đa phương

Việt Nam cần tiến hành rà soát việc thực hiện các hiệp định môi trường đa

phương, dựa vào báo cáo của các cơ quan chịu trách nhiệm đầu mối thực thi. Các

thông tin này sẽ giúp cho việc bảo đảm tuân thủ các nghĩa vụ của CPTPP một cách

đầy đủ hơn.

Phân công đầu mối liên lạc

Như đã phân tích, đầu mối liên lạc trong Chương môi trường là vị trí rất

quan trọng có trách nhiệm tiếp nhận yêu cầu của quốc gia khác, cung cấp thông tin

86

theo định kỳ hoặc khi có yêu cầu, công khai các thông tin về thực thi Chương Môi

trường, làm thư ký của Hội đồng tư vấn quốc gia, điều phối các hoạt động hợp tác

quốc tế. Do đó, ngay sau khi CPTPP có hiệu lực, Việt Nam cần nhanh chóng phân

công đầu mối này và chuẩn bị các cơ chế phối hợp để thực hiện.

Chuẩn bị kế hoạch hợp tác quốc tế

CPTPP mở ra khung hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường tương đối rộng và

hoàn toàn dựa vào nhu cầu, mong muốn và năng lực của mỗi quốc gia. Do đó, để có

thể thực hiện tốt hơn các hoạt động này, Việt Nam cần sớm nghiên cứu để xác định

các nhu cầu hợp tác, đề xuất các mô hình phù hợp để có thể tận dụng tốt hơn cơ hội

từ CPTPP.

3.3. Hoàn thiện về mặt tổ chức, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh

nghiệp

Đối với Nhà nước

Để thực thi hiệu quả các cam kết trong tương lai, ít nhất là từ góc độ các

nghĩa vụ bắt buộc, cần thiết lập một cơ chế chung, thống nhất, ở cấp Chính phủ với

các mục tiêu như: Rà soát hệ thống pháp luật, để điều chỉnh đồng bộ pháp luật,

kiểm soát tiến độ, hiệu quả điều chỉnh pháp luật theo cam kết… Cách thức vận hành

của thiết chế này cũng cần được thiết kế phù hợp để đảm bảo khả năng chỉ đạo

thống nhất việc thực thi trên thực tế.

Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin thông qua nhiều hình thức về

các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang tham gia, đặc biệt là DN vừa và nhỏ; tổ

chức tập huấn cho các cán bộ thuộc cơ quan quản lý nhà nước các cấp và cộng đồng

DN về các cam kết cụ thể có liên quan, bảo đảm hiểu rõ, hiểu đúng, từ đó giúp việc

thực thi các hiệp định FTA thế hệ mới đầy đủ và hiệu quả.

Hoàn thiện các chính sách đầu tư nhằm phát triển thị trường xuất nhập khẩu

hàng hóa; Tăng cường đầu tư và hoàn thiện các chính sách nhằm đẩy mạnh và đổi

mới công tác xúc tiến thương mại và đầu tư.

Tăng cường giám sát, quản lý trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.

87

Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành hàng, lĩnh vực có tiềm năng.

Hoàn thiện thể chế đối với tổ chức công đoàn và các tổ chức của người lao

động tại cơ sở DN. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ

lao động, tiêu chuẩn lao động phù hợp với các tiêu chuẩn, cam kết, công ước quốc

tế mà Việt Nam đã tham gia.

Tận dụng tối đa cơ hội từ các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia, cụ thể:

Tăng cường công tác nghiên cứu và dự báo thị trường; Xây dựng hồ sơ ngành

hàng/mặt hàng, hồ sơ thị trường; Xây dựng hệ thống cơ sở và cập nhật dữ liệu thị

trường để từ đó đưa ra cảnh báo sớm cho DN và các nhà sản xuất, kinh doanh, từ đó

đưa gia những giải pháp ứng phó kịp thời; Thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp

phụ trợ; Tăng cường các chính sách hỗ trợ phát triển logictics...

Đối với doanh nghiệp (DN)

Cập nhật thông tin thường xuyên về diễn biến quá trình thực thi các cam kết

trong FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia, đi đôi với việc tăng cường đầu tư

nhập khẩu công nghệ nguồn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực

cạnh tranh cho sản phẩm và DN.

Mở rộng mạng lưới và tăng cường kết nối DN trong nước, trong khu vực và

trên thế giới thông qua việc hình thành các bộ phận về hội nhập quốc tế trong DN

nhằm: Chuẩn bị và nâng cao khả năng xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống

(như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, DN nhà nước); Tăng cường

kết nối và hợp tác với các DN nước ngoài để tăng cường khả năng tham gia vào

chuỗi giá trị; Sẵn sàng vượt qua các hàng rào kỹ thuật về kiểm dịch, môi trường, an

toàn thực phẩm, lao động và công đoàn; DN cần có sự chuẩn bị sẵn sàng cho các

vấn đề phát sinh liên quan đến phòng vệ thương mại, sở hữu trí tuệ và các phát sinh

khác liên quan đến những cam kết mới, phi truyền thống...

DN cần chủ động nghiên cứu sâu nội dung các cam kết FTA nhằm xây dựng

mô hình hoạt động, chiến lược kinh doanh, xúc tiến đầu tư thương mại, quản lý rủi

88

ro của DN một cách hiệu quả.

DN nếu muốn có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế thì cần phải thực hiện tốt

trách nhiệm xã hội của mình, hướng tới đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp

dụng những bộ Quy tắc ứng xử.

3.4. Tăng cường giám sát tổ chức thực hiện, tuyên truyền phổ biến về các FTA

nói chung và CPTPP nói riêng

Việc tham gia các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới, tiêu chuẩn cao và

toàn diện như CPTPP và EVFTA không chỉ mang lại cơ hội mà còn kèm theo

những rủi ro và thách thức. Vì vậy, Đoàn giám sát đề xuất Quốc hội, Ủy ban

Thường vụ Quốc hội tăng cường giám sát công tác tổ chức thực hiện, kết quả, tác

động của việc thực hiện các FTA, nhằm khai thác các lợi thế của FTA mang lại,

cũng như hạn chế rủi ro, đảm bảo sự thành công, hiệu quả; sửa đổi, bổ sung, ban

hành mới các văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội để nội luật hóa các cam kết

trong FTA đúng theo lộ trình.

Đối với Chính phủ và các Bộ, ngành trung ương, đề nghị tiếp tục rà soát,

hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để thực hiện đầy đủ các cam kết FTA

theo lộ trình đã cam kết, việc sửa đổi, bổ sung các VBQPPL hiện hành, bảo đảm

tính đồng bộ, hiệu quả, duy trì ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh, không gây

xáo trộn, ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp và người dân. Đồng thời,

nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành để tận dụng tối đa những lợi ích từ các

FTA.

Đồng thời, cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo cơ chế một cửa

nhằm cải cách công tác cấp các loại giấy phép liên quan cho doanh nghiệp, rút ngắn

thời gian cấp giấy phép, giảm chi phí xuất nhập khẩu, thông quan hàng hóa, tạo

thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa.

Bên cạnh đó, khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp và cá nhân thực hiện

nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ để nâng cao năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp và sản phẩm; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đổi

89

mới sáng tạo để hỗ trợ cho quá trình đổi mới công nghệ quốc gia.

Ngoài ra, tăng cường tuyên truyền, phổ biến với nhiều hình thức về các FTA

thế hệ mới mà Việt Nam đang tham gia, đặc biệt là cho các doanh nghiệp vừa và

nhỏ; tổ chức tập huấn cho các cán bộ thuộc cơ quan quản lý nhà nước các cấp và

cộng đồng doanh nghiệp về các cam kết cụ thể, bảo đảm hiểu rõ, hiểu đúng, vừa tận

dụng những cơ hội FTA mang lại vừa hạn chế các rủi ro phát sinh, từ đó thực thi

các hiệp định FTA thế hệ mới đầy đủ, hiệu quả; xây dựng trang web hỗ trợ doanh

nghiệp vừa và nhỏ.

Trọng tâm là phổ biến các cam kết khi Việt Nam tham gia vào các FTA, nhất

là lộ trình cắt giảm thuế quan, phương pháp vượt qua các rào cản phi thuế quan...

đến các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân

dân, dưới nhiều hình thức như tổ chức học tập, quán triệt trong các hội nghị, giới

thiệu trên Đài Phát thanh và Truyền hình.

Đồng thời thường xuyên cập nhật, đăng tải trên trang website, Bản tin Công

thương các thông tin, quy định về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa nhập khẩu, lộ

trình thực hiện cắt giảm thuế, các rào cản thương mại của các nước trong tổ chức

WTO đến các tổ chức, doanh nghiệp và người dân.

Tổ chức các hội nghị phổ biến kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế, cam kết tại

các FTA mà Việt Nam đã tham gia cho hơn cán bộ, công chức thuộc các Sở, ban,

ngành, UBND các huyện, thành phố. Trong đó tập trung vào các nội dung liên quan

đến nghĩa vụ và xu hướng quản lý, xu hướng thị trường thể hiện tại các FTA mà

Việt Nam đã, đang và sẽ ký kết. Các Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN

(AFTA), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), FTA Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á

- Âu (EAEU), FTA Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến

bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực

(RCEP), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các cam kết

trong WTO; bài học kinh nghiệm của các nước trong quá trình hội nhập quốc tế....

Qua đó giúp nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức về các cơ hội và

90

thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Đối với cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức phổ biến về quy tắc xuất xứ trong

các FTA mà Việt Nam là thành viên; cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo

chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập của Liên minh châu Âu, Na Uy, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ

Kỳ và FTA Việt Nam - EU; những biện pháp doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện

để nắm bắt các lợi ích và cơ hội các FTA mang lại; quy tắc xuất xứ hàng hóa cần

91

thiết để hưởng thuế quan từ các FTA…

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Đình Đức (2015), Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 46-55

2. Center for International Environmental Law (2015): The Trans-Pacific

Partnership and the Environment: An Assessment of the Commitments and Trade

Agreement Enforcement, available at: http://www.ciel.org/wp-

content/uploads/2015/11/TPP-Enforcement-Analysis-Nov2015.pdf.

3. Sierra Club (2016): TPP Text Analysis: Environment Chapter Fails to Protect the

Environment, available at:

https://www.sierraclub.org/sites/www.sierraclub.org/files/uploads-

wysiwig/TPPanalysis.pdf.

4. Meltzer, Joshua Paul (2014): The Trans-Pacific Partnership Agreement, the

environment and climate change, available at: https://www.brookings.edu/wp-

content/uploads/2016/06/Meltzer-TPP-Environment-Chapter_version-2.pdf

5. Terry, Simon (2016): The Environment under TPPA Governance, Trans-Pacific

Partnership Agreement, New Zealand Expert Paper Series, Expert Paper #4,

available at: https://tpplegal.files.wordpress.com/2015/12/tpp-environment.pdf

6. Tung, Ko-Yung (2015): Investor-State Dispute Settlement under the Trans-

Pacific Partnership, The California International Law Journal, Vol. 23, No.1.

7. Wold, Chris (2016): Empty Promises and Missed Opportunities: An Assessment

of the Environmental Chapter of the Trans-Pacific Partnership, available at:

https://law.lclark.edu/live/files/20857-assessing-the-tpp-environmental-chapter

8. International Plan of Action to Prevent, Deter and Eliminate Illegal, Unreported

and Unregulated Fishing (2001 IUU Fishing Plan of Action)

9. website trungtam wto.vn của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

10. Wold, 2014, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

11. http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/gs-dang-hung-vo-tham-nhung-trong-van-de-

moi-truong-hau-qua-se-rat-lon-3400553.html

92

12. https://www.wto.org/english/tratop_e/envir_e/edis00_e.htm

13. The WTO Agreements Series Technical Barriers to Trade, trang 18-20

(https://www.wto.org/english/res_e/publications_e/tbttotrade_e.pdf)

14. Nguyễn Xuân Sinh, Phó cục trưởng Cục Hóa chất Bộ Công Thương và Trần

Thế Loãn, nguyên Phó cục trưởng Cục Kiểm soát ô nhiễm Bộ Tài nguyên và Môi

trường. (http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/gs-dang-hung-vo-tham-nhung-trong-

van-de-moi-truong-hau-qua-se-rat-lon-3400553.html)

15. Nguyễn Hoàng Phượng, Đỗ Hải Linh, Trần Thanh Thủy, Thể chế hóa quy trình

tham vấn trong đánh giá tác động môi trường, 2015. Trung tâm con người và thiên

nhiên, Đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam: từ pháp luật đến thực tiễn, 2009

http://nature.org.vn/vn/2011/11/danh-gia-tac-dong-moi-truong-tham-dinh-tren-ban-

giay/

16. http://www.vinamarine.gov.vn/Index.aspx?page=projectdetail&id=17

93

17. https://cites.org/eng/legislation