ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––
BÙI THỊ THÚY
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG HAI TẬP TRUYỆN CỦA MA VĂN KHÁNG (SAN CHA CHẢI VÀ XA XÔI THÔN NGỰA GIÀ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN – 2015
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ––––––––––––––––––––
BÙI THỊ THÚY
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG HAI TẬP TRUYỆN CỦA MA VĂN KHÁNG (SAN CHA CHẢI VÀ XA XÔI THÔN NGỰA GIÀ)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
THÁI NGUYÊN – 2015
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn
Bùi Thị Thúy
i Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu, dưới sự chỉ bảo, dạy dỗ tận tình
của các thầy cô giáo và sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, luận văn
đã được hoàn thành.
Trước tiên, tôi xin gửi lời tri ân đến PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện - người
thầy đã tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn,Trường
Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 04/2015
Tác giả luận văn
Bùi Thị Thúy
ii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ................... 6
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu .................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................. 7
6. Đóng góp của luận văn ................................... 7
7. Cấu trúc của luận văn .................................... 8
NỘI DUNG ........................................... 9
Chƣơng 1: MA VĂN KHÁNG VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ
CON NGƢỜI .......................................... 9
1.1. Ma Văn Kháng với văn xuôi Việt Nam từ đổi mới đến nay .......... 9
1.2. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong hai tập truyện
của Ma Văn Kháng (San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già) ......... 14
1.2.1. Vài nét về tiểu sử và con đường đến với văn chương của Ma Văn Kháng . 14
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong văn xuôi sau
đổi mới .............................................. 16
1.2.3. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong hai tập truyện
“San Cha Chải” và “Xa xôi Thôn Ngựa Già” của Ma Văn Kháng ....... 20
Tiểu kết chương 1....................................... 25
Chƣơng 2: CÁC KIỂU LOẠI NHÂN VẬT TRONG TẬP TRUYỆN
NGẮN SAN CHA CHẢI VÀ TẬP TRUYỆN VỪA XA XÔI THÔN
NGỰA GIÀ CỦA MA VĂN KHÁNG ......................... 26
2.1. Khái niệm truyện ngắn, truyện vừa ........................ 26
2.1.1. Truyện ngắn ...................................... 26
iii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
2.1.2. Truyện vừa ....................................... 26
2.2. Khái niệm nhân vật văn học và thế giới nhân vật ............... 27
2.2.1. Nhân vật văn học ................................... 27
2.2.2. Thế giới nhân vật ................................... 28
2.3. Tổng quan về hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già .. 30
2.3.1. Tập truyện San Cha Chải ............................. 30
2.3.2. Tập truyện vừa Xa xôi Thôn Ngựa Già .................... 30
2.4. Thế giới nhân vật trong hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn
Ngựa Già ............................................ 31
2.4.1. Nhân vật bản năng .................................. 32
2.4.2. Nhân vật tha hóa ................................... 43
2.4.3. Nhân vật bi kịch ................................... 50
2.4.4. Nhân vật có phẩm chất tốt đẹp .......................... 56
2.4.4.1. Người dân tộc thiểu số tính tình hiền lành, tốt bụng ........... 57
2.4.4.2. Người chiến sĩ an ninh dũng cảm, thông minh ............... 60
Tiểu kết chương 2....................................... 63
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG HAI TẬP TRUYỆN SAN CHA CHẢI VÀ XA XÔI THÔN
NGỰA GIÀ CỦA MA VĂN KHÁNG ......................... 65
3.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật ............................. 65
3.2. Miêu tả nhân vật qua hành động .......................... 71
3.3. Miêu tả tâm lý nhân vật ................................ 73
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu ................................ 80
3.4.1. Ngôn ngữ ........................................ 80
3.4.2. Giọng điệu ....................................... 85
3.4.2.1. Khái niệm ...................................... 85
3.4.2.2. Giọng điệu ngợi ca ................................. 86
3.4.2.3. Giọng điệu xót xa, thương cảm ......................... 87
3.4.2.4. Giọng điệu triết lý, tranh biện ......................... 90
Tiểu kết chương 3....................................... 93
iv Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
KẾT LUẬN .......................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................ 97
v Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ma Văn Kháng là một trong số những nhà văn có đóng góp đáng kể vào
công cuộc đổi mới văn xuôi giai đoạn sau 1975. Với tinh thần miệt mài, cần mẫn
và niềm say mê với nghề viết, Ma Văn Kháng được đánh giá là “một cây bút văn
xuôi lực lưỡng, sung sức, một đời văn sáng tạo” của nền văn học đương đại.
Ma Văn Kháng bước vào làng văn với truyện ngắn đầu tay Phố cụt đăng
trên báo Văn nghệ năm 1961, cho đến nay Ma Văn Kháng đã có hơn chục tiểu
thuyết, trên 200 truyện ngắn, 4 tập truyện viết cho thiếu nhi và một hồi kí văn
chương đầy đặn, một tập tiểu luận - bút kí về nghề văn. Với những cách tân táo
bạo về tư duy nghệ thuật, Ma Văn Kháng đã tạo được một phong cách riêng,
độc đáo trong văn nghiệp của mình. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng cao
quý: Giải Nhì (không có giải nhất) cuộc thi viết truyện ngắn 1967 của tuần báo
Văn nghệ (Xa Phủ); Giải thưởng văn học ASEAN năm 1998 (Trăng soi sân
nhỏ); Giải “Cây bút vàng” (giải cao nhất) của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt
Nam 1996 – 1998; Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001;
Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2009 với tiểu thuyết Một mình một
ngựa; Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật đợt 4, năm 2012.
Một số tác phẩm của Ma Văn Kháng đã từng gây xôn xao dư luận bởi
vấn đề mà nó đặt ra có ý nghĩa quan trọng làm thay đổi tư tưởng, nhận thức của
con người và cho đến nay vẫn còn mang tính thời sự như: Mưa mùa hạ (1982),
Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989).
Không chỉ thành công ở thể loại tiểu thuyết, Ma Văn Kháng còn rất thành công
ở thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn đã đem lại vinh quang cho nhà văn ngay từ
buổi đầu khởi nghiệp. Nhà văn luôn có ý thức tìm tòi đổi mới trong sáng tác,
đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn sau 1976 - Ma Văn Kháng tạm biệt Lào Cai
trở về Hà Nội. Sự hỗn độn, xô bồ của cuộc sống hiện tại đã làm chuyển biến cái
nhìn trong sáng tác của nhà văn. Ông quan niệm “ Văn chương là chuyện đời
thông qua việc đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn, chứ đâu phải là đi hớt lấy
1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cái váng bọt nổi trên bề mặt của ngoại vật”. Thế giới nhân vật được mở rộng,
quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người uyển chuyển và tinh tế hơn.
Truyện ngắn của Ma Văn Kháng có thể tạm thời chia thành hai nhóm:
nhóm đề tài miền núi và nhóm đề tài thành thị. Hai tập truyện ngắn, truyện vừa
San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già gần đây nhất viết về đề tài miền núi và
thành thị đã khẳng định tài năng, tâm huyết của nhà văn và góp phần làm cho
bức tranh hiện thực cuộc sống được phản ánh trong nền văn học hiện đại Việt
Nam trở nên phong phú, đa dạng.
Trong luận văn này, chúng tôi quan tâm tới thế giới nhân vật - một thế
giới nhân vật vô cùng phong phú trong hai tập truyện của Ma Văn Kháng: San
Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già. Nghiên cứu nhân vật chính là nghiên cứu
cách nhà văn nhìn nhận, cắt nghĩa về con người như thế nào và bằng cách nào
trong văn chương của mình. Trong thực tế, đã có có nhiều công trình nghiên
cứu về truyện ngắn của ông nhưng chưa có công trình chuyên biệt nào về thế
giới nhân vật trong hai tập truyện này. Xuất phát từ tình cảm yêu mến, trân
trọng các tác phẩm của Ma Văn Kháng và mong muốn góp thêm tiếng nói vào
sự khẳng định về thế giới nhân vật trong hai tập truyện, chúng tôi lựa chọn đề
tài Thế giới nhân vật trong hai tập truyện của Ma Văn Kháng (San Cha
Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già)
2. Lịch sử vấn đề
Với sức viết dồi dào và quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật nghiêm
túc, Ma Văn Kháng đã có một gia tài văn chương khá đồ sộ. Có thể thấy rằng
khi mới dấn thân vào sự nghiệp văn chương, tác phẩm của Ma Văn Kháng đã
được giới nghiên cứu, phê bình và độc giả quan tâm. Nhiều công trình nghiên
cứu, phê bình của GS Phong Lê, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện, PGS.TS Đào
Thủy Nguyên, PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu, PGS.TS Lã Nguyên...được
đăng tải trên nhiều sách báo và tạp chí.
Đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng Ma Văn Kháng dành toàn bộ sự
chú ý của mình vào việc khám phá những con người trên nhiều bình diện khác
2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhau với cái nhìn không xuôi chiều. Khi thể hiện con người, nhà văn đã đạt tới
độ sắc sảo về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Bàn về truyện ngắn của Ma
Văn Kháng trước 1986 có thể kể đến bài viết của Nguyễn Văn Toại “Đọc các
sáng tác miền núi của Ma Văn Kháng, nghĩ về trách nhiệm của nhà văn trước
một đề tài lớn”. Tác giả chia truyện ngắn của Ma Văn Kháng thời kỳ này có hai
dạng: dạng có cốt truyện đầy đủ, coi trọng việc xây dựng chân dung nhân vật
và dạng truyện “lấy tứ làm cốt, lấy tình làm nền, được viết như những bài thơ
văn xuôi”. Bên cạnh đó, tác giả còn chỉ ra nhân vật của Ma Văn Kháng hoạt
động, bộc lộ tính cách trong hoàn cảnh được đẩy lên theo yêu cầu tư tưởng của
tác phẩm [46]. Tác giả Nguyễn Nguyên Thanh khi viết về tập Ngày đẹp trời
đã chỉ ra đặc điểm nhân vật thường thấy “Người tốt cứ tốt, kẻ xấu cứ xấu,
người hy sinh mình cứ tiếp tục hy sinh cho kẻ khác vụ lợi tiếp tục sống trên dư
thừa may mắn” [36]
GS Phong Lê đã nhận định “Truyện ngắn Ma Văn Kháng là hiện tượng
nổi bật trong những năm 90” [21]. Có thể nhận ra rằng bước sang thời kỳ đổi
mới, Ma Văn Kháng đã khẳng định vị trí của mình ở thể loại truyện ngắn.
PGS. TS Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết “Một cây bút văn xuôi sung sức,
một đời văn cần mẫn” đã nhấn mạnh: “Đặc biệt, trong vận dụng thể loại tự sự,
nhà văn đã phát huy được ưu thế của việc miêu tả tâm lí nhân vật khi lách sâu
vào vùng tâm linh bí ẩn của con người” [42].
PGS.TS Lã Nguyên với bài viết “Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều
sâu tâm hồn” [29] đã nêu lên những nét tổng quát về truyện ngắn Ma Văn
Kháng. Đây là một công trình nghiên cứu công phu, toàn diện với những đánh
giá mang tính khoa học về truyện ngắn Ma Văn Kháng. Tác giả đã chia truyện
ngắn Ma Văn Kháng thành ba nhóm: nhóm thứ nhất thể hiện “Cái nhức nhối
xót xa, giận mà thương cho sự hoang dã, mông muội của những kẻ chưa thành
người và những kẻ không được làm người”. Nhóm thứ nhất gắn với đề tài miền
núi, biên ải. Nhóm thứ hai “Cảm khái thâm trầm trước thế sự hôm nay”, là
những truyện ngắn viết về đời sống thành thị sau chiến tranh trong sự đổi thay
3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mạnh mẽ của đất nước. Ở nhóm này, Ma Văn Kháng đã góp phần “đưa truyện
ngắn xích lại gần tiểu thuyết”. Nhóm thứ ba gắn với tinh thần lạc quan ở sự
năng động, hồn nhiên của cuộc sống. Đó là “Cảm hứng trào lộng trang nghiêm
trước vẻ đẹp của đời sống sinh hóa hồn nhiên”. Tác giả cũng chỉ ra một số đặc
điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng: tính công khai bộc lộ chủ đề,
sự cố ý tô đậm chân dung, tính cách nhân vật, việc lồng giai thoại vào cốt
truyện, đưa thành ngữ, tục ngữ vào ngôn ngữ nhân vật...Tác giả bài viết đã đưa
ra những gợi mở quan trọng cho những người nghiên cứu về truyện ngắn Ma
Văn Kháng. Cũng trong bài viết này, tác giả đã đưa ra một cái nhìn tổng quát
về truyện ngắn của Ma Văn Kháng “Ma Văn Kháng là nhà văn của cái đẹp
trong dòng đời sinh hóa bình dị, hồn nhiên, cái đẹp trong niềm hạnh phúc được
làm người với ý nghĩa đích thực của nó chứ không phải là cái gì khác”, “Ma
Văn Kháng đã cất lên tiếng nói riêng”.
Với công trình Đặc điểm truyện ngắn của Ma Văn Kháng về đề tài dân
tộc và miền núi [27], PGS.TS Đào Thủy Nguyên đã đi sâu nghiên cứu và
khẳng định những vấn đề nhân sinh, thế sự, những thành công, đặc sắc về nghệ
thuật xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn từ trong truyện ngắn về đề tài dân tộc
và miền núi của Ma Văn Kháng. Ngoài ra, trong bài viết “Vấn đề đạo đức, lối
sống của người cán bộ vùng cao trong truyện ngắn Ma Văn Kháng viết về miền
núi”, tác giả Đào Thủy Nguyên đã đi sâu bàn về những nhân vật người cán bộ
miền núi trong một số truyện ngắn của Ma Văn Kháng [28]
Phạm Mai Anh qua luận văn Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma
Văn Kháng từ sau những năm 1980 đã tập trung khai thác một số yếu tố nghệ
thuật trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng như cốt truyện, các kiểu kết cấu,
nhân vật, một số nét về ngôn ngữ... Tác giả đã có những đóng góp đáng kể khi
nhìn nhận một số phương diện nghệ thuật nhưng chưa có một cái nhìn tổng
quát về truyện ngắn Ma Văn Kháng [1]. Trong đề tài: Phong cách Ma Văn
Kháng trong truyện ngắn sau 1975 [41], tác giả Đào Tiến Thi đã cắt nghĩa tư
tưởng nghệ thuật của Ma Văn Kháng bằng cái nhìn tổng hợp: Quan niệm nghệ
4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thuật của Ma Văn Kháng về con người với hướng tiếp cận trên tất cả các bình
diện. Luận văn đã có những đóng góp nhất định trong việc xác định giá trị nghệ
thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng ở phương diện phong cách nghệ thuật của
nhà văn.
Với bài viết “Đổi mới tư duy nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn
Kháng những năm 1980” [8], tác giả Nguyễn Thị Huệ đã đưa ra những nhận
định xác đáng về tư duy nghệ thuật với sự đổi mới rõ nét trong sáng tác của Ma
Văn Kháng “Ma Văn Kháng đã có những thể nghiệm mở ra khả năng khám
phá con người ở nhiều chiều, nhiều bình diện xuất phát từ cái nhìn nhân đạo về
con người”. Đỗ Phƣơng Thảo trong bài viết “Vài suy nghĩ về một phương
diện nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng” đã cho rằng: yếu tố tạo nên sự
hấp dẫn trong truyện ngắn Ma Văn Kháng là cách dựng truyện “cốt truyện đơn
giản, không có nhiều tình huống nổi bật, then chốt, ít xung đột và mâu thuẫn
lớn song có sự bứt phá đầy sức sáng tạo” [39, tr.70].
Bàn về những đổi mới nghệ thuật của Ma Văn Kháng, tác giả Nguyễn
Thị Bình trong cuốn “Văn xuôi Việt Nam 1975-1995, những đổi mới cơ bản”
cho rằng: tác phẩm của Ma Văn Kháng chú trọng hiện thực của tâm trạng và
tâm linh khi miêu tả con người. Cũng theo Nguyễn Thị Bình, trong khi quan
tâm đến con người, Ma Văn Kháng “có thiên hướng nghiêng hẳn về việc khám
phá giá trị nhân cách, cắt nghĩa sự nhào nặn của môi trường đạo đức - văn
hóa với tính cách và số phận cá nhân” [4, tr.61].
2.2. Về cách xây dựng nhân vật trong sáng tác của Ma Văn Kháng,
Lã Nguyên đã nhấn mạnh: “Nhân vật của Ma Văn Kháng dù phức tạp đến
đâu, có những biểu hiện phong phú như thế nào, sau khi tiếp xúc, ta có thể
nhận diện được ngay nhân vật ấy thuộc hạng người nào, cao thượng hay đê
tiện, độc ác hay nhân từ, ích kỉ hay hảo tâm...” [29].
Bên cạnh đó, chúng tôi có thể nhắc đến một số luận văn và đề tài khoa
học tiêu biểu như: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ
đổi mới của Phạm Thị Lan (2001), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma
5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Văn Kháng từ 1986 tới nay của Đào Thị Minh Hường (2007). Thế giới nhân
vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng của Nguyễn Thị Thanh Nga (2007). Thế
giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975 của Ngô Trí Tài
(2010)...
Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu truyện ngắn Ma Văn Kháng,
chúng tôi nhận thấy những bài viết của các tác giả trên không chỉ khẳng định
đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng mà còn ít
nhiều quan tâm đến nhân vật và cách thể hiện nhân vật trong truyện ngắn của
ông. Tuy nhiên, phần lớn mới chỉ dừng lại ở cảm nhận, đánh giá chung về
truyện ngắn và thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng mà chưa
đi sâu tìm hiểu thế giới nhân vật trong hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi
Thôn Ngựa Già. Chúng tôi hết sức trân trọng những ý kiến đánh giá, nhận xét
của các nhà nghiên cứu đi trước và xem đó là những gợi ý quý báu để chúng tôi
triển khai đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi chọn đề tài Thế giới nhân vật trong hai tập truyện của Ma
Văn Kháng (San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già) nhằm làm nổi bật nét
phong phú về thế giới các kiểu nhân vật và nét đặc sắc về nghệ thuật xây dựng
nhân vật. Từ đó, chúng tôi muốn khẳng định chiều sâu tư tưởng, giá trị nhân
văn và những đóng góp mới của nhà văn Ma Văn Kháng trong nền văn học
đương đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Dựa trên những lí luận về nhân vật văn học đã được các công trình
nghiên cứu chuyên biệt xây dựng, chúng tôi sẽ tìm hiểu yếu tố nhân vật văn học
trong sáng tác của Ma Văn Kháng từ góc độ ứng dụng lí thuyết đó vào trường hợp
cụ thể: hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già của Ma Văn Kháng.
3.2.2. Khảo sát, phân tích các truyện trong hai tập truyện trên, đặt chúng
trong mối tương quan với các truyện ngắn khác trong nền văn học đương đại để
6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thấy được những nét đặc sắc trong thế giới nhân vật của hai tập truyện và những
quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong sáng tác của nhà văn.
3.2.3. Phát hiện, phân tích những sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong tập truyện ngắn San Cha Chải và tập truyện vừa Xa xôi
Thôn Ngựa Già, chỉ ra những điểm đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
của nhà văn.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc tìm hiểu thế giới nhân vật trong hai tập
truyện của Ma Văn Kháng (San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn chủ yếu chủ yếu qua hai tập truyện của Ma Văn Kháng: Tập
truyện ngắn San Cha Chải (Nhà xuất bản Công an nhân dân - Tháng 10/
2013); Tập truyện vừa Xa xôi Thôn Ngựa Già (Nhà xuất bản Phụ nữ - Quý
III, năm 2013).
Đối chiếu, so sánh với một số tác phẩm tiêu biểu khác của nhà văn và
các tác giả cùng thời khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, luận văn
vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tác giả.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân loại, thống kê.
- Phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp.
6. Đóng góp của luận văn
Với đề tài Thế giới nhân vật trong hai tập truyện của Ma Văn Kháng
(San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già), luận văn của chúng tôi khám phá,
phân tích sự đa dạng, phong phú về thế giới nhân vật trong hai tập truyện trên.
7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Qua đó, chúng tôi khẳng định tài năng, phong cách nghệ thuật của nhà văn và
những đóng góp về tư tưởng, giá trị nhân văn của hai tập truyện trên.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được triển khai thành ba chương:
Chương 1: Ma Văn Kháng và quan niệm nghệ thuật về con người.
Chương 2: Các kiểu loại nhân vật trong hai tập truyện San Cha Chải và
Xa xôi Thôn Ngựa Già của Ma Văn Kháng.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện thế giới nhân vật trong hai tập truyện San
Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già của Ma Văn Kháng.
8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
NỘI DUNG Chương 1
MA VĂN KHÁNG VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI
1.1. Ma Văn Kháng với văn xuôi Việt Nam từ đổi mới đến nay
Từ 1986, công cuộc đổi mới của Đảng đã đem lại những chuyển biến lớn
trong đời sống văn học. Văn xuôi có một vị trí rất quan trọng trong nền văn học
dân tộc. Nó đã tạo dựng được bức tranh hiện thực rộng lớn về cuộc sống, con
người trong cách mạng, kháng chiến và công cuộc xây dựng đất nước. So với
giai đoạn trước thì các sáng tác thời kì này đã phần nào bao quát được chiều
rộng, chiều sâu của cuộc sống và tâm hồn con người. Sự phong phú, đa dạng và
đặc sắc của nền văn học Việt Nam có được là một phần dựa vào khả năng khơi
gợi cái riêng, nét độc đáo của mỗi dân tộc, vùng miền. Nhiều vấn đề đã được
các nhà văn tìm tòi, khai thác giúp cho văn học phát triển cả về số lượng lẫn
chất lượng.
Đến thời kì đổi mới, những cây bút có nhiều kinh nghiệm vẫn tiếp tục đề
tài dân tộc và miền núi như Tô Hoài, Ma Văn Kháng, Triều Ân, Mã A Lềnh, Vi
Hồng...Tiếp đến là tác giả Hà Đức Toàn (tiểu thuyết Tiếng hổ gầm - 1999, tập
truyện Hương rừng - 2006), Hoàng Thế Sinh (tiểu thuyết Xứ mưa - 2000, tập
truyện Luật của rừng - 2002), Đoàn Hữu Nam (các tiểu thuyết Tình rừng -
2000, Dốc người - 2002), Phạm Duy Nghĩa (các tập truyện Cơn mưa hoa mận
trắng - 2006, Đường về xa lắm - 2007)...Vẻ đẹp của thiên nhên, cuộc sống và
con người miền núi đã trở thành tình yêu, thành nhựa sống nuôi dưỡng tâm hồn
và thôi thúc các nhà văn cầm bút để viết về mảnh đất này.
Hiện thực cuộc sống và con người vùng cao đã được phản ánh khá sâu
sắc, một số tác phẩm của Triều Ân và Vi Hồng mang tính thời sự được độc giả
quan tâm. Đặc biệt các sáng tác của Vi Hồng đã đề cập đến những sai lầm của
mô hình hợp tác xã nông nghiệp, cái ác, cái xấu hoành hành trong các tác
phẩm: Người trong ống (1990), Gã ngược đời (1990), Vào hang (1990), Chồng
9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thật vợ giả (1994)...Tiểu thuyết Gã ngược đời của Vi Hồng có nhân vật Quản-
một người dám đấu tranh với những việc sai trái nên không được lòng lãnh đạo,
cấp trên. Họ loại anh ra khỏi guồng máy của sự bon chen, lừa lọc bằng cách vu
cho anh có quan hệ nam nữ bất chính, cấp kinh phí ít ỏi để anh không thực hiện
được đề tài khoa học và cuối cùng buộc anh phải thôi việc. Nhân vật Quản và
các nhân vật khác như: Tú, bác sĩ Huy (Người trong ống), họ là những người
dám đấu tranh với cái xấu và vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống
để thực hiện lí tưởng của mình. Đối lập với những nhân vật đại diện cho Chân,
Thiện, Mĩ đó là những nhân vật đại diện cho cái xấu, cái ác như: Đương, Hỷ
(Gã ngược đời), Ba (Người trong ống)...Thông qua các tác phẩm của mình, Vi
Hồng muốn cảnh báo về sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, công
chức ở miền núi trong thời kì đổi mới. Gắn bó với cuộc sống và con người
miền núi nên Vi Hồng thấu hiểu cả những nỗi đau và số phận của người dân
miền núi.
Cùng với Vi Hồng, Triều Ân có những tác phẩm tái hiện chân thực xã
hội và con người miền núi như: Nắng vàng bản Dao, Nơi ấy biên thùy, Dặm
ngàn rong ruổi. Bao biến động khác thường trong cuộc sống của đồng bào các
dân tộc những năm đổi mới ở nông thôn vùng núi phía Bắc đã được tác giả
phản ánh cụ thể. Viết về đề tài dân tộc và miền núi còn phải kể đến Cao Duy
Sơn - một nhà văn luôn tâm niệm “Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài về người miền
núi”. Điều đó được minh chứng qua các tác phẩm: Người lang thang (1992),
Cực lạc (1995), Những chuyện ở lũng Cô Sầu (1996), Hoa mận đỏ (1999),...
Bức tranh đời sống miền núi trong sáng tác của Cao Duy Sơn với những
gam màu khác nhau: sáng - tối; giàu - nghèo; tốt - xấu... Con người miền núi
trong sáng tác của ông hồn nhiên, chất phác, giàu đức hy sinh, thủy chung,
nghĩa tình. Trong Đàn Trời- tiểu thuyết mang tính chính luận, Cao Duy Sơn đã
nói lên thực trạng về sự nghèo đói của người dân vùng cao, sự sa đọa cùng
những hành vi đen tối của quan tham thời đại mới. Đó là “mảng tối” trong chốn
quan trường ở một tỉnh lẻ với miếng mồi béo bở là các chương trình của dự án
10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
135. Người đứng sau tấm màn tối đó là chủ tịch tỉnh Đinh Xuân Ấn - kẻ luôn tự
xưng mình là Hoàng thượng, dùng quyền lực mà nhân dân tín nhiệm mưu cầu
lợi ích cho chính bản thân mình. Bên cạnh đó còn có những kẻ trục lợi như:
Tuệ - giám đốc Đài PT-TH tỉnh nhu nhược, đê tiện, trả thù riêng; giám đốc
Lương Nhân với bản chất con buôn. Qua tác phẩm này, nhà văn thẳng thắn
nhận ra một điều: có đấu tranh sẽ có mất mát nhưng tà không thể thắng chính.
Viết về đề tài dân tộc và miền núi thành công còn có nhà văn Phạm Duy Nghĩa
với các tác phẩm: Tiếng gọi lưng chừng dốc (1999), Cơn mưa hoa mận trắng
(2006), Đường về xa lắm (2007)...
Hòa chung vào dòng chảy của văn xuôi về đề tài dân tộc và miền núi từ
sau đổi mới, Ma Văn Kháng được đông đảo bạn đọc biết đến với hàng loạt
truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết. Những đứa con tinh thần của Ma Văn
Kháng là kết quả của hơn hai mươi năm gắn bó với mảnh đất Lào Cai. Hiện
thực và con người miền núi là chất liệu, là nguồn cảm hứng nghệ thuật vô tận
cho những sáng tác của Ma Văn Kháng. Ông là nhà văn tài năng, tâm huyết và
thành công ở đề tài dân tộc và miền núi. Nếu tính theo thời gian thì truyện ngắn
viết về mảng đề tài này của Ma Văn Kháng được bắt đầu từ năm 1969 với tập
Xa Phủ. Trong truyện Xa Phủ, tác giả đã đề cập đến sự thay đổi trong nhận
thức, suy nghĩ và hành động của con người miền núi. Ở họ, dù còn những tàn
tích của những ngày đã qua, song điều quan trọng là họ tích cực, chủ động
chuyển mình thành những con người mới, làm chủ cuộc đời. Thông qua các tác
phẩm của mình, tác giả còn đặt ra vấn đề: con người miền núi ra sao, cuộc sống
của họ như thế nào trước hiện thực lớn lao của dân tộc.
Với một tư duy nhận thức đúng đắn và toàn diện, một bản lĩnh nghệ
thuật vững vàng cùng với vốn sống phong phú, Ma Văn Kháng đã có những
thành công nối tiếp thành công ở mảng sáng tác về đề tài dân tộc và miền núi.
Riêng truyện ngắn, ông đã từng tâm sự: “Càng ngày tôi càng mê truyện ngắn.
Phần đông các nhà văn vào nghề bằng truyện ngắn, kết thúc bằng truyện ngắn
và quãng giữa là tiểu thuyết. Truyện ngắn là một sự ám ảnh khủng khiếp. Có
11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
một truyện ngắn hoàn thiện là ao ước của bất kì nhà văn nào” [11]. Sau Xa Phủ,
hàng loạt truyện ngắn, truyện vừa về đề tài dân tộc và miền núi từ sau đổi mới
ra đời: “Giàng Tả - kẻ lang thang”, “Ngựa bất kham”, “Móng vuốt thời gian”,...
Ở thời kì sau đổi mới, truyện ngắn và truyện vừa viết về miền núi của Ma Văn
Kháng đã phản ánh, đề cập đến những vấn đề có liên quan đến con người, số
phận con người. Con người và cuộc sống vùng biên ải vẫn có mặt trong các
trang viết về đề tài thành thị.
Những trang viết về thiên nhiên miền núi của Ma Văn Kháng có sức lay
động lòng người bởi đó là kết quả của sự gắn bó sâu nặng với cảnh vật nơi đây.
Sống giữa thiên nhiên thanh sạch, con người sẽ được gột rửa về tâm hồn, không
bị vẩn đục bởi thói ô trọc của xã hội rối ren: “Khắp đất nước có lẽ không ở đâu
hoa gạo có cung màu đẹp tuyệt trần như ở đây. Ở đây trời xanh trong vắt,
thanh lọc đến kì hết vẩn bụi và mắt người như nhìn thấu tới tận cõi vô cùng. Ở
đây, sau một mùa đông giá lạnh, xo ro, cây bung nở hết mình cái sức tích tụ
bao tháng ngày” [17, tr. 43]. Màu đỏ rực rỡ của hoa gạo không chỉ làm đẹp cho
bản mường mà còn nói lên được lòng nhiệt tình của người dân miền núi. Thiên
nhiên San Cha Chải dần hiện lên và gợi ra cho người đọc sự khát khao khám phá
những chân trời mới với vẻ đẹp thuần khiết, nguyên sơ. Không gian San Cha Chải
thật yên tĩnh “không khí heo hút như thời khởi thủy”, “cỏ ngải tàn rồi cỏ ngải lại
xanh, hoa tục đoạn nở và hoa tam thất rừng mọc nhơ nhởn” [17, tr.53].
Ma Văn Kháng từng suy nghĩ rằng: “Thôi thúc tôi viết là cái đẹp của
cuộc sống”. Chính vẻ đẹp của cuộc sống và con người vùng biên cương đã khơi
dậy trong ông nguồn cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ, giàu ý nghĩa nhân văn. Nhà
văn từng tâm sự: “Vẻ cổ kính của những làng Giáy có vòng hàng rào gỗ vây
quanh và những đêm vườn Giáy trữ tình thắm thiết. Suối Mường Hum đẹp đến
huyễn hoặc, rừng Pơ-mu lão đại trùng trùng vóc dáng đại hiệp sĩ khu Seo Mi
Tí. Ngọn Păng-xi-păng kiêu hùng và những khu ruộng bậc thang ở Sa Pa quẫy
lượn những đường nét khi mùa xuân về...Tất cả đã vọng về, đọng lại và hợp
thành một bầu trời lung linh các vì tinh tú quay vòng không ngớt trong ký ức
12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tôi, khiến tôi không biết bao lần nghẹn ngào nước mắt” (Ma Văn Kháng-
Những năm tháng tập rèn). Cảnh sắc thiên nhiên miền núi có sức níu giữ lạ kì để
rồi khi đi xa, nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn con người
(Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn! - Chế Lan Viên).
Cùng với truyện ngắn và truyện vừa, Ma Văn Kháng còn rất thành công
ở thể loại tiểu thuyết khi viết về đề tài dân tộc miền núi và thành thị. Những tác
phẩm được coi là sự kết tinh thành tựu của Ma Văn Kháng về mảng đề tài này
như: Đồng bạc trắng hoa xòe (1977), Vùng biên ải (1983), Gặp gỡ ở La Pan
Tẩn (2001). Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn tiên phong đưa bộ
phận văn xuôi đến với tiểu thuyết - một thể loại có tầm vóc sử thi và quy mô
lớn, đủ sức khái quát một hiện thực rộng lớn và có ý nghĩa lịch sử. Bên cạnh
đó, Ma Văn Kháng cũng là người đi đầu trong việc đưa đề tài về công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở miền núi vào tiểu thuyết.
Thời kì này, khuynh hướng đời tư, thế sự được các nhà văn chú trọng.
Những vấn đề của cuộc sống và con người thời hậu chiến, những quan hệ phức
tạp, chồng chéo, những câu chuyện đời thường đã trở thành đối tượng của nghệ
thuật. Các nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Võ Thị Hảo, Lê
Minh Khuê... đã quan tâm lật xới từ những số phận cá nhân nhỏ bé đến những vấn
đề xã hội rộng lớn mang ý nghĩa nhân sinh. Bên cạnh đó, văn học thời kỳ đổi mới
còn có sự cách tân về thể loại, có cả văn xuôi kỳ ảo trong sáng tác của Hồ Anh
Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh...Ngoài ra, khuynh hướng triết luận
cũng trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong văn học thời kỳ này.
Ma Văn Kháng được coi là người “đi tiền trạm” cho đổi mới văn học.
Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985) là những tác phẩm có tính
chất mở đường. Thời kỳ này Nguyễn Khải viết Gặp gỡ cuối năm (1982), Thời
gian của người (1985) như trên hành trình của sự tìm kiếm mới. Nguyễn Minh
Châu viết các tác phẩm Bức tranh (1982), Bến quê (1985) như một sự đột phá.
Bảo Ninh với Thân phận của tình yêu (1990), Dương Hướng với Bến không
chồng (1990), Chu Lai với Ăn mày dĩ vãng (1991)…
13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Sau đổi mới, Ma Văn Kháng vững bước trên con đường đổi mới với
những cảm hứng mới, tâm thế mới và khí thế ngày càng mạnh mẽ. Bên cạnh
các sáng tác về đề tài miền núi, khi chuyển hướng ngòi bút về đồng bằng, Ma Văn
Kháng nhanh chóng tiếp cận với một hiện thực mới, đó là cuộc sống thành thị với
nhiều màu sắc phong phú và độc đáo. Bằng sự nhạy cảm tinh tế của mình cộng
với tinh thần trách nhiệm của một ngòi bút tâm huyết, Ma Văn Kháng viết về cuộc
sống và con người đô thị trong sự day dứt, trăn trở khi phát hiện ra những “lỗ
hổng”, những “khoảng trống” đang tồn tại và vây bủa con người.
1.2. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con ngƣời trong hai tập truyện
của Ma Văn Kháng (San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già)
1.2.1. Vài nét về tiểu sử và con đường đến với văn chương của Ma Văn Kháng
Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 01/12/1936, quê
ở làng Kim Liên, thuộc Kẻ Chợ, nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa,
Hà Nội. Ngay từ thuở thiếu niên, Ma Văn Kháng đã tham gia thiếu sinh quân
và được cử đi học ở Khu học xá Trung Quốc. Năm 1954, kháng chiến chống
Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại ở miền Bắc. Theo tiếng gọi của Tổ quốc,
Đinh Trọng Đoàn đã xung phong lên Tây Bắc và được cử dạy học ở Lào Cai.
Năm 1960, ông về Hà Nội học Đại học Sư phạm I. Sau khi tốt nghiệp, ông trở
lại Lào Cai dạy học và từng là hiệu trưởng trường trung học. Trong một lần đi
công tác ở nông thôn, Đinh Trọng Đoàn làm quen với ông Ma Văn Nho, rồi hai
người kết nghĩa anh em và cải tên họ là Ma Văn Kháng. Cái tên Ma Văn Kháng
đã phần nào nói lên sự gắn bó và tình yêu của ông đối với Lào Cai. Năm 1967,
Ma Văn Kháng nhận được quyết định về làm thư kí riêng cho Bí thư tỉnh ủy
Lào Cai, phó Tổng biên tập báo Lào Cai. Tháng 5 năm 1976, Ma Văn Kháng
rời Lào Cai trở về Hà Nội công tác với tư cách nhà văn. Ông từng giữ chức Phó
tổng biên tập Nhà xuất bản Lao động, Tổng biên tập Tạp chí Văn học nước
ngoài, ủy viên ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Cuộc đời vất vả, nhiều
trải nghiệm: tiễu phỉ, làm thuế, xây dựng hợp tác xã, làm thư kí, dạy học, viết
báo... đã để lại dấu ấn trên trang viết đậm đà hơi thở cuộc sống của Ma Văn
14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Kháng. Thế giới nhân vật cũng được mở rộng hơn, tư duy nghệ thuật về cuộc
sống và con người càng uyển chuyển hơn. Ma Văn Kháng viết nhiều, viết khỏe
và được bạn đọc đón nhận ở cả hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Cùng
với khoảng thời gian gần năm mươi năm cầm bút, các tác phẩm của ông ra đời
đã để lại cho độc giả những ấn tượng khó quên.
Ma Văn Kháng từng tâm sự: “Viết văn là một công việc quá khó khăn, ở
ngoài sự cố gắng ở trên sức người” và “để có những trang viết sâu sắc, cảm
động, phải nỗ lực rất nhiều, phải có những hiểu biết mang tính học thuật sâu
sắc”. Cũng giống như nhà văn Nam Cao, Ma Văn Kháng quan niệm “sống rồi
mới viết”, không ngại khó khăn, gian khổ thì mới có những chất liệu sáng tác
phong phú. “Sống nghiêm túc, hết lòng thực sự với cuộc sống ở tất cả các chiều
kích của nó, nuôi dưỡng hướng thẩm mỹ lớn” [3], “Cần cù, bền bỉ đi vào cuộc
sống, gặp gỡ, hỏi han, ghi chép và lặng lẽ, khiêm nhường chuyển hóa những
hiểu biết về cuộc sống nhân dân, hiện thực đất nước...lên những trang viết”
[38]. Theo ông “Cuộc sống là một tác phẩm của tự nhiên, cuốn sách lớn nhất
của nhà văn viết ra là sáng tạo của anh ta về căn bản cũng từ cuộc sống mà
ra” [9, tr.36]. Ma Văn Kháng lao động văn chương như “một người H’mông
trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị” [40]. Với những tác phẩm của
mình, nhà văn đã lần lượt đặt ra những vấn đề bức xúc từ các khía cạnh của đời
sống muôn mặt và qua các nhân vật đủ hình, đủ kiểu. Đối với Ma Văn Kháng
“Đã chọn văn chương là chọn một con đường gian nan, khổ ải, là tự đày đọa
mình”, song với niềm đam mê, tài năng và sáng tạo, Ma Văn Kháng đã khẳng
định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Văn nghiệp của
Ma Văn Kháng hàng trăm truyện ngắn, hàng chục tiểu thuyết, một hồi kí- tự
truyện.. Giai đoạn nào ông cũng có những sáng tác nổi bật, mang dấu ấn cá
nhân đậm nét. Sáng tác của Ma Văn Kháng ra đời luôn được đông đảo bạn đọc
đón đợi, hưởng ứng nhiệt tình. Ông được mệnh danh là “người khuấy động văn
đàn Việt Nam hiện đại” (Lưu Khánh Thơ).
15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Tây Bắc - “Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất/ Nay dạt dào đã chín trái
đầu xuân” (Chế Lan Viên), mảnh đất xa xôi ấy chính là nơi nuôi dưỡng tâm
hồn Ma Văn Kháng. Ông bắt đầu viết những trang viết đầu tiên về con người
miền núi trong những ngày xây dựng cuộc sống mới, đấu tranh chống bọn thổ
ty, chúa đất, phục vụ kháng chiến. Sự nghiệp văn chương của ông được đánh
dấu bằng truyện ngắn đầu tay Phố cụt (1961). Truyện ngắn này được trang
trọng in trên trang nhất tuần báo Văn nghệ số 136 ngày 3/3/1961. Với cốt
truyện đơn giản, mạch văn rõ ràng, Phố cụt đã báo hiệu những đường nét cơ
bản sẽ được bồi đắp dày dặn tiếp về sau của đời văn tác giả. Đó là sự cần mẫn
bám sát cuộc sống, khám phá những vấn đề nảy sinh từ cuộc đời và thân phận
người lao động, từ đó phát huy trí tưởng tượng, sáng tạo trong những câu
chuyện đậm đà ý vị, nóng hổi hơi thở của cuộc sống.
Sau truyện ngắn đầu tay Phố cụt, người đọc biết đến các tập truyện ngắn
khác như Xa phủ (1969), Bài ca trăng sáng (1972), Người con trai họ Hạng
(1972), Cái móng ngựa (1973)...Trở về Hà Nội, Ma Văn Kháng vẫn tiếp tục đề
tài miền núi và hướng đến thế sự, đời tư ở thành thị. Bên cạnh truyện ngắn, gần
đây nhất Ma Văn Kháng còn cho ra mắt tập truyện vừa Xa xôi Thôn Ngựa Già
(2013)... Những thay đổi trong cái nhìn về hiện thực và con người đã tạo ảnh
hưởng nhất định đến đổi mới quan niệm nghệ thuật văn học của tác giả.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong văn xuôi sau
đổi mới
Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người của nhà văn thể hiện sự
thống nhất giữa hiện thực được phản ánh và năng lực cắt nghĩa, lí giải nghệ
thuật ứng với một thế giới nghệ thuật tồn tại ngay trong khám phá của nhà văn.
Sau năm 1986, đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới trên mọi bình diện của
xã hội. Hiện thực cuộc sống thay đổi: từ hiện thực chiến trận, sử thi sang hiện
thực thế sự, cá nhân. Các nhà văn cũng đổi mới quan niệm và cách viết của
mình để phù hợp với thời đại và thị hiếu công chúng. Quan niệm về con người,
quan niệm nghệ thuật, đề tài, chủ đề, các kiểu nhân vật...đều có sự thay đổi
16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đáng kể. Thực tế, trong một loạt tác phẩm văn học ra đời sau 1986 đã xuất hiện
cách nhìn, cách tiếp cận hiện thực đa dạng, nhiều chiều, thể hiện mối quan hệ
tự do của nhà văn đối với hiện thực. Từ đó, nhà văn có những khám phá, phát
hiện mới mẻ, sâu sắc đậm giá trị nhân văn và đầy sức hấp dẫn về hiện thực. Các
nhà văn thời kì này đã tạo ra một hiện thực đa dạng, sáng tạo hiện thực qua trải
nghiệm cá nhân. Đúng như quan niệm của nhà văn Hồ Anh Thái: “Nói hiện
thực là những gì ta thấy, ta nghe, ta trải nghiệm là chưa đủ. Hiện thực còn là cái ta
cảm”. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: phản ánh hiện thực cũng không phải
là việc xâu chuỗi các sự kiện mà phải nắm được cả cái chìm khuất sâu xa trong
bản chất của hiện thực. Tác phẩm văn học chỉ đạt được tính chân thực khi nó phản
ánh hiện thực với sự khái quát, chọn lọc, tái tạo chứ không phải là sự sao chép
giản đơn. Cuộc sống hiện lên trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu đa chiều, ở
đó có cả niềm vui, nỗi buồn, sự vật vã, bức bối đầy phức tạp và biến động.
Trong văn học, con người là sản phẩm sáng tạo của nhà văn, gắn với
quan niệm, phong cách nghệ thuật của nhà văn và cũng là sản phẩm của thời
đại. Khi đánh giá thành tựu của bất kì một nền văn học, một trào lưu, giai đoạn,
tác giả... ta không thể không đánh giá quan niệm nghệ thuật về con người. Tố
Hữu từng nhận xét: “Văn học không phải là chuyện văn chương mà là chuyện
cuộc sống, trước hết là con người”. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: “Quan
niệm nghệ thuật về con người thực chất là vấn đề tính năng động của chủ thể
nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực, lý giải con người bằng các phát hiện
nghệ thuật, về vấn đề và giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh đời sống của một hệ
thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập của nó vào các miền khác nhau của
đời sống”. Nói đến quan niệm nghệ thuật về con người là nói đến sự sáng tạo
về chất trong cảm thụ và miêu tả hiện thực của nhà văn. Các nhà nghiên cứu
phương Tây cho rằng: con người là phương tiện “tất yếu quan trọng nhất để thể
hiện tư tưởng trong tác phẩm” [31,tr.18]. Cũng nói về vấn đề này, Pospelov
khẳng định:“Nhân vật bộc lộ bản thân chủ yếu không phải trong hành động,
việc làm mà qua cảm xúc đối với xung quanh và các suy nghĩ về những điều
17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trông thấy” [31, tr.17]. Như vậy, nhân vật được khắc họa qua cái nhìn của tác
giả và được thể hiện thông qua các hình thức nghệ thuật. Qua nhân vật văn học,
người đọc nhận ra được quan điểm, tư tưởng, tình cảm của nhà văn đối với
cuộc sống và con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù của thi pháp học
hiện đại, được coi như một biểu hiện của tư duy nghệ thuật. Thi pháp học cho
rằng: “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, sự cảm thấy con người
đã được hóa thân thành những nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con
người trong văn học tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng
nhân vật trong đó” [34, tr.41].
Quan niệm nghệ thuật về con người cũng được xem như một trong
những tiêu chí để xác định phong cách nghệ thuật của một nhà văn. Ở trong
cùng một hệ đề tài, những quan niệm khác nhau về con người là dấu hiệu để
nhận diện tác giả. Những biến đổi trong văn học được bắt đầu từ việc đổi mới,
cắt nghĩa con người “Chừng nào chưa có sự đổi mới trong quan niệm nghệ
thuật về con người thì sự tái hiện các hiện tượng trong đời sống khác nhau chỉ
có ý nghĩa mở rộng về lượng trên cùng một chiều sâu” [33, tr.91]. Có thể nói
rằng, cơ sở quan trọng tạo nên sự vận động của văn học đó là sự đổi mới trong
quan niệm nghệ thuật về con người. Và ở mỗi giai đoạn lịch sử sẽ có những
chuẩn mực riêng trong quan niệm nghệ thuật về con người, sẽ có những sự
khác nhau trong cách lý giải, cảm thụ, phản ánh về con người.
Sau 1975, đất nước được độc lập, tự do và thống nhất nhưng dư âm của
chiến tranh vẫn còn. Năm 1986, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng đã
tác động mạnh mẽ đến văn học. Quan niệm con người kiểu sử thi cũng được
chuyển dần sang quan niệm con người đời tư cá nhân và được các nhà văn hình
dung ở nhiều chiều, nhiều phía. “Con người trong văn học hôm nay được, khám
phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống
tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục
vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại
18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
phổ quát”, “con người không còn là nhất phiến, đơn trị mà luôn là con người
đa diện, đa trị, lưỡng phân, trong con người đan cài, chen lẫn, giao tranh bóng
tối và ánh sáng, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và quỷ sứ, cao cả và tầm
thường...” [23, tr.55].
Con người trong văn xuôi sau đổi mới là con người chân thực đúng như
nó vốn có trong hiện thực cuộc đời. Bởi vậy, hiện thực cuộc sống đã được các
nhà văn chú trọng đưa vào trang viết của mình.Trong hầu hết các tác phẩm,
nhân vật trung tâm là những con người bình thường và nhiều khi là những số
phận thiệt thòi, những con người bất hạnh. Con người trong sáng tác của
Nguyễn Khải là con người hành động, luôn trăn trở, suy xét, lựa chọn. Con
người trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu có đời sống nội tâm bí ẩn, phức
tạp, mâu thuẫn, giằng xé, với những nỗi đau và bi kịch của sự đói nghèo, lạc
hậu. Nguyễn Minh Châu luôn đặt ra và trả lời câu hỏi: “cái gì làm nên một tác
phẩm văn học” .Và ông đã từng khẳng định: Cuối cùng, nói gọn lại, đó là
những con người và triết lí sống của những con người ấy”. Bên cạnh việc quan
tâm đến cái chung, cái cộng đồng thì tác phẩm văn học còn là “câu chuyện của
mỗi con người”. Văn chương và cuộc sống là hai đường tròn đồng tâm mà tâm
điểm của nó chính là con người.
Ở thời kỳ này “Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào cuộc sống đời
thường, trong các mối quan hệ để khám phá những mặt tốt và cả những mặt
khuất tất trong mỗi con người, góp phần khơi nguồn cho dòng sông văn
chương trở về với đời sống bình thường của nó” [19, tr.21]. Như vậy, đối tượng
phản ánh của nghệ thuật và chuẩn mực để nhà văn đánh giá đó chính là con
người cá nhân. Con người cá nhân đã thay thế con người xã hội. Các nhà văn
bao giờ cũng lấy con người là hệ quy chiếu của mọi giá trị. Văn xuôi sau 1986
đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực, con người trong giai
đoạn mới. Với Ma Văn Kháng - một nhà văn có quá trình sáng tác trải dài qua
nhiều giai đoạn thì quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả cũng có sự
biến đổi.
19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
1.2.3. Quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người trong hai tập truyện
“San Cha Chải” và “Xa xôi Thôn Ngựa Già” của Ma Văn Kháng
Ma Văn Kháng là nhà văn có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của người
cầm bút nên trong sáng tác ông luôn tìm tòi, đổi mới cái nhìn đối với hiện thực
và con người. Quan niệm về hiện thực miền núi của Ma Văn Kháng cũng có sự
thay đổi. Hiện thực mang tính sử thi chuyển dần sang hiện thực thế sự - đời tư,
nhà văn thể hiện hiện thực về những điều khó cắt nghĩa và lý giải trong cuộc
sống. Nói đến con người trong tác phẩm nghệ thuật là nói đến việc các nhà văn
lựa chọn nhân vật và cách xây dựng nhân vật trong văn học. Xuất phát từ thế
giới quan, cá tính sáng tạo, lý tưởng thẩm mỹ mà mỗi nhà văn đều có quan
niệm nghệ thuật về con người khác nhau. Nằm trong dòng chảy chung của văn
học Việt Nam trước 1975, các sáng tác của Ma Văn Kháng mang tính sử thi,
tính cộng đồng, gắn với cái “ta chung”, coi nhẹ con người cá nhân. Con người
trong các tác phẩm của giai đoạn này là những con người có ý thức chính trị
cao, quên “cái tôi” riêng. Với khuynh hướng sử thi, các nhân vật được hiện lên
như một người đại diện xứng đáng cho sức mạnh của cộng đồng dân tộc. Điều
đó cũng phù hợp với quy luật tất yếu của lịch sử bởi khi vận mệnh đất nước
đang được đặt lên trên hết thì những suy tư, trăn trở, những quyền lợi cá nhân
sẽ phải lùi xuống hàng thứ yếu.
Truyện ngắn của Ma Văn Kháng trước thời kì đổi mới là những bức
tranh sinh động đầy mầu sắc về cuộc sống của đồng bào các dân tộc vùng Tây
Bắc.Thực tiễn cuộc sống đã giúp nhà văn thấu hiểu tâm tư tình cảm, nghĩ suy
của đồng bào dân tộc. Vì thế qua sáng tác của Ma Văn Kháng, hình ảnh người
dân miền núi hiện lên rất đẹp. Người đọc bắt gặp ở những con người miền núi
tình yêu quê hương xứ sở, sự trung thực, thật thà, say mê, yêu đời và nhiệt tình
cách mạng. Nhà văn luôn có ý thức tìm kiếm vẻ đẹp của đồng bào các dân tộc
miền núi ẩn dấu sau bề ngoài mộc mạc. Song ở các nhân vật này, ta bắt gặp
một sự giản đơn trong suy nghĩ, trong hành động. Hạn chế của truyện ngắn thời
kỳ này là sự đơn điệu, lặp lại trong chủ đề tư tưởng tác phẩm. Đó cũng là hạn
20 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chế chung của của cả một thời kỳ văn học. Nhà văn cũng thừa nhận “những
truyện ngắn tôi viết những năm ấy bị chi phối bằng những cảm quan ấu trĩ, thô
thiển, chốc lát. Do đó phần nhiều kém cỏi” [46]. Như vậy, cùng với Tô Hoài và
các nhà văn hiện đại khác, truyện ngắn của Ma Văn Kháng đã góp phần khởi
sắc cho nền văn học viết về đề tài miền núi.
Bước sang thời kỳ đổi mới, truyện ngắn Ma Văn Kháng thực sự đổi mới
cả về nội dung và nghệ thuật. Cách nhìn cuộc sống, con người giờ đây đã có sự
sâu sắc, thể hiện sự chiêm nghiệm, đúc kết của một nhà văn từng trải, sống hết
mình với cuộc đời. Cuộc sống, bản thân nó là tổng hòa những vấn đề phức tạp.
Bên cạnh mặt tốt đẹp còn có những góc khuất mà con người không dễ gì nhận
ra. Đây là thời điểm nhà văn dám nói thẳng, nói thật, dám bộc lộ những điều
mình chưa dám nói ra trước kia. Một giai đoạn mới đã mở ra với nhà văn: sáng
tác của ông nở rộ, bút lực ngày càng tỏ ra sung sức, đề tài được mở rộng, nhiều
chủ đề được khai thác sâu và tinh tế. Với Ma Văn Kháng, cuộc sống thật sự đa
dạng, phong phú, bề bộn và phức tạp. Sự phong phú, phức tạp đó đã đem đến
cho ông cách nhìn mới và cảm hứng mới: cảm hứng sử thi nhường chỗ cho cảm
hứng thế sự, đời tư.
Sự đổi mới đầu tiên chính là đổi mới đề tài. Truyện ngắn tập trung vào
hai đề tài chính: đề tài miền núi và đề tài thành thị. Giai đoạn trước 1975, Ma
Văn Kháng viết về đề tài miền núi để phản ánh cuộc sống lao động và cuộc đấu
tranh của đồng bào dân tộc với các thế lực thù địch chống phá cách mạng. Đó
còn là cuộc đấu tranh âm thầm giữa hai mặt tốt - xấu, đúng - sai trong mỗi con
người để cuối cùng tìm ra được những giá trị đích thực của cuộc sống. Đến thời
kì đổi mới, số lượng truyện ngắn viết về đề tài miền núi không nhiều song nhà
văn đã phản ánh, đề cập những vấn đề về cuộc đời và số phận con người. Các
tác phẩm được viết ở giai đoạn này có thể kể đến các truyện ngắn và truyện
vừa: “San Cha Chải”, “Giàng Tả, kẻ lang thang”,... Dù “canh tác trên mảnh đất
đã có người cày xới” song đề tài miền núi đã đem lại cho Ma Văn Kháng một
vị trí xứng đáng trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
21 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Truyện ngắn “Giàng Tả - kẻ lang thang” không chỉ đề cập đến cuộc đời,
số phận cá nhân cụ thể - Giàng Tả- mà còn đặt ra vấn đề: cách nhìn nhận, đánh
giá con người. Đánh giá con người cho đúng, khách quan, công bằng, cần phải
tìm hiểu kỹ càng, thấu đáo về con người. Bởi “biết không thấu đáo còn tệ hơn
là không biết”, “Cái đáng biết lại không biết. Cái không nên quên lại quên.
Lịch sử thế là mất đi cái hồn nhiên của nó” [17, tr.42]. Nhân vật Giàng Tả hồn
nhiên trong cách nghĩ và cách sống, lang thang khắp các làng bản, bán sức lao
động để kiếm ăn. Giàng Tả trở thành người làm công cho lý trưởng, trùm phỉ
Ly Si Gơ. Nhưng khi thấy Ly Si Gơ bỏ chết một người bạn thợ xây lô cốt, thấy
quân của hắn ta cướp bóc, hãm hiếp dân lành, nhận ra sự tàn bạo, tham lam bất
lương thì Giàng Tả lập tức rời bỏ bọn chúng. Vậy mà chỉ vì không hiểu thấu
đáo cuộc đời Giàng Tả mà người cán bộ đã quy kết những tội danh hết sức
nặng nề cho Giàng Tả. Người cán bộ ấy đâu có hiểu rằng Giàng Tả là người
trung thực, thẳng thắn, giàu tình thương đồng loại, đã có lúc Giàng Tả “ một
mình thồ cả khẩu cối 80, cả nòng lẫn bệ, vốn phải bốn người khiêng cho bộ đội
ta và dẫn đường cho các chiến sĩ công an của tỉnh mò vào tận đồn Ly Si Gơ
trinh sát” [17, tr.40].
Còn trong truyện vừa “Seo Ly, kẻ khuấy động tình trường”, Ma Văn
Kháng đã nêu lên quan điểm thẩm mỹ, nhân sinh về cái đẹp: Người nuôi
dưỡng, bảo vệ cái đẹp một cách hồn nhiên và vô tư nhất đó là nhân dân. Qua
truyện ngắn này, ta bắt gặp niềm tin và mong muốn của tác giả về con người,
về cái đẹp. Câu chuyện kể về Seo Ly - “trang tuyệt sắc xứ Mèo” [18, tr.10] có
số phận chìm nổi, gian truân. Seo Ly đẹp nhưng là cái đẹp luôn trong tình trạng
bị rình rập, chiếm đoạt. Bởi vậy, tác phẩm này không chỉ dừng lại ở câu
chuyện: nam nữ quan hệ bất chính mà nó còn mang ý nghĩa triết học, có tính
biểu tượng cao. Mọi thế lực chiếm đoạt Seo Ly đều phải trả giá: bị chết, bị cách
chức, bị sỉ nhục. “Seo Ly, nàng không là Bao Tự, Tây Thi, Đát Kỷ, nhưng
từa tựa các mỹ nhân nọ, nàng đã kết thúc mấy triều đại quan chức huyện
22 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhà” [18, tr.10]. Kết thúc câu chuyện là hình ảnh ông bí thư già và Seo Ly lõa
lồ trong sự chứng kiến của bao người.
Bên cạnh đó, truyện ngắn của Ma Văn Kháng còn đề cập đến vấn đề
nhân sinh muôn thuở của con người.Vấn đề số phận con người ra sao, như thế
nào được nhà văn đề cập đến trong truyện ngắn “Móng vuốt thời gian”. Thi sĩ
Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng đã từng có ước muốn táo bạo, kì lạ là “tắt
nắng”, “ buộc gió” để giữ lại hương sắc cuộc đời và vẻ đẹp đầy quyến rũ của
mùa xuân, nhưng rồi nhận ra „Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua/ Xuân
còn non, nghĩa là xuân sẽ già”. Con người, sự sống của con người là cái hữu
hạn trước cái vô hạn của thời gian “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”.
Điều đó thật đáng trân trọng. Còn trong “Móng vuốt thời gian”, thổ ty Sề Sào
Lỉn - “tri châu xứ Giáy tự trị miền Tây tỉnh K” [17, tr.99] có khát vọng, ham
muốn chế ngự thời gian để trường sinh bất tử một cách mù quáng. Sề Sào Lỉn
sống một cuộc sống dư thừa về vật chất và khoái lạc dựa trên sự bóc lột ruộng
đất và bóc lột sức lao động của những người dân ngu muội xứ Giáy xa xôi.
Cuộc sống của Lỉn chẳng khác nào cuộc sống của những ông vua phong kiến
thuở trước. Vào tuổi bảy mươi, Lỉn bỗng nhận ra tính chất độc đáo của đời mỗi
con người “con người ai cũng như ai, từ bậc đế vương đến tên đánh giậm, gã
mã phu, chỉ được sống có một lần,và chỉ một lần mà thôi. Con người đi trên
con đường của mình, đi thẳng, đã qua là thôi, không quay trở lại”. “Con người
chẳng có cách nào thoát khỏi được móng vuốt thời gian...” [17, tr.106]. Mặc
dù biết như vậy song Lỉn vẫn cố tìm mọi phương kế để chiến thắng cái chết,
chiến thắng số mệnh, luật trời. Không những giải hạn, yểm bùa trừ thần dịch
mà Lỉn còn tăng cường nội sinh, nội lực bằng việc dùng các bài thuốc trường
sinh bất lão khắp xa gần. Thêm nữa là bài thuốc cầu kì, tốn kém “ăn tinh hoàn
hổ lớn và tủy tươi của sư tử, đồng thời tiêm vào người chất lọc của tinh
hoàn dê và mỗi sáng lúc đói phải nuốt một phôi gà mới ấp được bảy, tám
ngày” [17, tr.110]. Để rồi Lỉn thấy trong người phơi phới sau nửa tháng dùng
đơn thuốc ấy. Hắn lại lao vào các cuộc truy hoan gấp gáp, tận lực với chín
người vợ và đám đàn bà thuộc quyền. Chẳng bao lâu Lỉn thấy mỏi gối, chồn
23 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chân, mắt hoa, đầu váng, mỗi ngày một hao kiệt, héo mòn. Những tưởng mệnh
Lỉn đã tận nhưng năm bảy mươi hai tuổi lại gặp thầy gặp thuốc. Một phương sĩ
đã dùng bí thuật luyện đan giúp Lỉn chế ngự thời gian. Sau gần ba tháng liên
tục nung nấu, hỏa chế, kết tinh, tuyển chọn hao tiền tốn của thì công việc luyện
đan đã hoàn thành. Tiên dược - „chất lỏng vàng óng ánh, sắc lạnh” được đựng
trong cốc bạc, càng có vẻ biến huyền kì lạ, Lỉn sung sướng, đắc thắng uống
cạn. Kết quả là “Lỉn chết sau một đêm ói mửa, rên la quằn quại, ỉa đái dầm dề,
đau khắp mình mẩy, rồi bại xuội tứ chi, mặt đen tím dần” [17, tr.117]. Những
tưởng quan thổ ty Sề Sào Lỉn là một người giàu có và hiểu biết, vậy mà hắn lại
chết trong sự mê muội ngông cuồng. Vậy bức thông điệp mà tác giả gửi đến
người đọc ở đây là: nếu ngu dốt, mù quáng muốn vượt khỏi vòng cương tỏa của
thời gian sẽ bị trả giá. Dù tiền tài, danh vọng, địa vị thế nào đi chăng nữa thì
con người cũng không thể thoát khỏi móng vuốt thời gian.
Ở mảng đề tài thành thị, Ma Văn Kháng hướng ngòi bút của mình vào
những vấn đề nóng hổi: vấn đề đời tư, thế sự, nhân sinh...Ông đề cập đến nhiều
lĩnh vực của cuộc sống hôm nay: tình yêu, tình dục, hôn nhân, gia đình, những
toan tính vụ lợi...Nhà văn trăn trở nhiều cho số phận con người, cho sự tác
động chi phối khủng khiếp của hoàn cảnh với con người. Ông chú ý đến mối
quan hệ giữa con người với con người, con người với môi trường, con người
trong mối quan hệ với chính mình để giữ vững và hoàn thiện nhân cách. Xã hội
càng hiện đại thì cuộc sống của con người càng trở nên phức tạp. Cùng với việc
lên án những kẻ suy thoái về đạo đức, nhân cách, Ma Văn Kháng còn thuyết
phục những kẻ lầm đường, lạc lối trở về với cuộc sống lương thiện. Qua mỗi
trang văn, người đọc dễ dàng nhận ra những lời tâm sự của tác giả về cuộc đời,
số phận và lẽ sống. Nhiều truyện ngắn và truyện vừa viết về đề tài này như:
“Thắp một tuần hương”, “Cánh bướm tím”, “Người khổ nhất trần gian”,
“Hương hoa Đà Lạt”... Như vậy, hoàn cảnh sống và môi trường công tác thay
đổi cùng với công cuộc đổi mới của Đảng đã khởi sắc cho văn học, giúp nhà
văn thoát khỏi vòng cương tỏa của sự bao cấp.Với mảng đề tài này, Ma Văn
24 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Kháng là một trong những cây bút có nhiều đóng góp to lớn vào việc đổi mới
nền văn xuôi nghệ thuật của dân tộc.
Trong truyện vừa “Thắp một tuần hương”, nhân vật Thược băn khoăn,
trăn trở cho số phận của ông Tương Bằng - người ở cùng phòng trong khu tập
thể, đang chờ lĩnh sổ hưu. Ông Tương Bằng dù đã ra khỏi quỹ đạo của chức
trách nhưng vẫn làm việc theo quán tính dăm bữa nửa tháng ông xách cái cặp
da trên tay và lại lên đường. “Ông như con tàu đã được đặt trên hai thanh ray.
Giờ, con tàu ấy chỉ việc chạy. Chạy theo thói quen, theo quán tính đã ăn sâu
vào máu thịt, đã trở thành một bản thể tự nhiên” [18, tr.37]. Qua tác phẩm này,
Ma Văn Kháng còn muốn nói đến nghệ thuật sống của con người: “ Đạo làm
người quan trọng nhất là ở chỗ biết mình là ai và đang sống ở thời điểm nào.
Tài cán dẫu có được thiên phú thì cũng chỉ là hữu hạn trong vòng trời đất khôn
cùng” [18, tr.38]. Bên cạnh đó, tác phẩm này còn nói đến mối quan hệ giữa con
người với con người trong xã hội.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của Ma Văn Kháng, có thể khẳng
định: cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn và truyện vừa chiếm một vị trí quan
trọng. Ông đã phát huy hết năng lực khi lựa chọn hai thể loại này để khám phá
và thể hiện cuộc sống. Ở chương này, chúng tôi giới thiệu ngắn gọn đôi nét văn
xuôiViệt Nam từ đổi mới đến nay. Đồng thời giới thiệu vài nét về tiểu sử và
con đường đến với văn chương của Ma Văn Kháng. Đặc biệt là quan niệm về
hiện thực và con người của Ma Văn Kháng thông qua hai tập truyện San Cha
Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già. Từ đó, chúng tôi khẳng định truyện ngắn và
truyện vừa của Ma Văn Kháng đã thể hiện được quan niệm riêng của nhà văn
khi miêu tả cuộc sống và con người. Đến nay, dù tuổi đã cao nhưng Ma Văn
Kháng vẫn có những đóng góp đáng kể cho nền văn học đương đại Việt Nam.
25 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chƣơng 2
CÁC KIỂU LOẠI NHÂN VẬT TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN
SAN CHA CHẢI VÀ TẬP TRUYỆN VỪA XA XÔI THÔN NGỰA GIÀ
CỦA MA VĂN KHÁNG
2.1. Khái niệm truyện ngắn, truyện vừa
2.1.1. Truyện ngắn
Từ điển văn học đã định nghĩa truyện ngắn: “Truyện ngắn là hình thức tự
sự loại nhỏ. Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ hơn, tập trung
mô tả một mảnh của cuộc sống: Một biến cố hay một vài biến cố xảy ra trong
một giai đoạn nào đó của nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách
nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội” [24, tr.47].
“Truyện ngắn là hình thức ngắn của tự sự. Khuôn khổ ngắn nhiều khi
làm cho truyện ngắn có vẻ gần gũi với các truyện kể dân gian như truyện cổ,
giai thoại, truyện cười hoặc gần với bài kí ngắn. Nhưng thực ra không phải. Nó
gần với tiểu thuyết hơn cả bởi hình thức tự sự tái hiện cuộc sống đương thời”
[24, tr.397].
Truyện ngắn là một thể loại thu hút được sự quan tâm của đông đảo độc
giả và đã trở thành một thể loại tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại.
2.1.2. Truyện vừa
Trong cuốn Lí luận văn học nhà nghiên cứu Phương Lựu cho rằng:
“Truyện vừa là thể loại văn xuôi tự sự cỡ trung bình. Không nên hiểu truyện
vừa là sự thu hẹp phạm vi tái hiện đời sống. Dung lượng truyện vừa thể hiện ở
bình diện trần thuật. So với tiểu thuyết, trần thuật của truyện vừa thường cô
đọng, hàm súc hơn, bám sát sự phát triển của cốt truyện và đặc điểm nhân vật
hơn. Đối tượng tái hiện của truyện vừa là các sự kiện, các cuộc đời thường là
đặc sắc, khác thường hoặc các hiện tượng đời sống nổi bật. Truyện vừa ít miêu
tả quá trình vận động của tính cách, quan hệ hơn là tiểu thuyết. Có thể coi
26 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
truyện vừa là tiểu thuyết cỡ nhỏ”, “Những câu văn của truyện vừa thường giản
dị, gọn gàng, sáng rõ” [24, tr.397].
Bên cạnh tiểu thuyết, truyện ngắn và truyện vừa là hai thể loại có vị trí
và khối lượng tác phẩm đồ sộ trong văn nghiệp của Ma Văn Kháng.
2.2. Khái niệm nhân vật văn học và thế giới nhân vật
2.2.1. Nhân vật văn học
Văn học phản ánh cuộc sống và con người bằng hình tượng nhân vật cụ
thể, sống động. Nhân vật vừa là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong
tác phẩm, vừa là thể hiện sự sống động tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, đồng
thời cũng đánh giá được cá tính sáng tạo của tác giả. Nó chuyển tải quan niệm
của nhà văn về con người và cuộc sống. Nhân vật là nơi nhà văn kí thác những
nỗi niềm, những trăn trở, những ước mơ được biểu đạt ở dạng khái quát nhất.
Nhân vật văn học là yếu tố quan trọng quyết định thành công hay thất bại của
tác phẩm văn học.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học có viết: “Nhân vật văn học là một
thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về
sự tồn tại của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân
vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường
được gán cho những đặc điểm giống với con người...”[2, tr.241]
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Trần Đình Sử: “ Nhân vật văn học
là những con người cụ thể được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng phương
tiện văn học. Đó là những nhân vật có tên như Tấm, Cám, Thúc Sinh, Kim
Trọng... Đó là những nhân vật không có tên như thằng bán tơ, một mụ nào đó
trong Truyện Kiều... Đó là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần
thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỷ, những con vật mang đặc
điểm và tính cách con người...’‟[35, tr.115].
Các nhà văn, các nhà nghiên cứu, nhà lí luận văn học vẫn cơ bản gặp
nhau ở những nội hàm không thể thiếu của khái niệm này: Thứ nhất, đó phải là
đối tượng mà văn học miêu tả, thể hiện bằng những phương tiện văn học. Thứ
27 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hai, đó là những con người hoặc là những con vật, đồ vật, sự vật, hiện tượng
mang linh hồn con người, là hình ảnh ẩn dụ của con người. Thứ ba, đó là đối
tượng mang tính ước lệ và có cách điệu so với đời sống hiện thực bởi nó đã
được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ tài năng.
Nhân vật văn học có vai trò như thế nào trong tác phẩm? Nhân vật văn
học chính là hình ảnh thu nhỏ của con người. Qua cái nhìn của nhà văn, tính
cách của nhân vật được nhào nặn ở mức độ nào đó, nhân vật sẽ trở thành hình
tượng về con người và cao hơn, nếu tính cách được khắc họa ở những nét điển
hình thì nhân vật sẽ trở thành điển hình với con người. Mà theo Biêlinxki: nhà
triết học tư duy bằng phép tam đoạn luận, còn nhà thơ tư duy bằng hình tượng
cụ thể của một bức tranh. Nói rộng ra tức là văn học phản ánh cuộc sống bằng
hình tượng, bằng những nhân vật cụ thể. Do đó nhân vật là phương tiện để nhà
văn khái quát hiện thực. Văn học không thể thiếu nhân vật bởi vì chỉ có thể qua
nhân vật nhà văn mới thể hiện nhận thức của mình về xã hội, về con người với
những đặc điểm về số phận, tính cách của nó.
Dựa vào chức năng nghệ thuật, nhân vật chia thành nhân vật chính, nhân
vật phụ, nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện, nhân vật phản diện. Trong đó,
nhân vật chính diện mang trong mình phẩm chất đạo đức phù hợp với lý tưởng
xã hội thẩm mỹ của tác giả và thời đại, được nhà văn khẳng định và đề cao.
Ngược lại, nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất xấu xa, trái với lý
tưởng đạo đức của tác giả và thời đại, đáng lên án và phủ định. Dựa vào cấu
trúc hình tượng, nhân vật chia thành nhân vật chức năng, nhân vật loại hình,
nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng. Dựa vào thành phần xã hội, ta có thể chia
thành các loại nhân vật: nông dân, công nhân, trí thức, bộ đội, công an, thanh
niên, trẻ em, lưu manh...
2.2.2. Thế giới nhân vật
“Thế giới nhân vật” là một tổng thể những hệ thống nhân vật được xây
dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối của tư tưởng tác giả. Thế
giới ấy cũng mang tính chỉnh thể trong sáng tác nghệ thuật của nhà văn, có tổ
28 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
chức và có sự sống riêng, phụ thuộc vào ý thức sáng tạo của nghệ sĩ. Nằm trong
thế giới nghệ thuật, “thế giới nhân vật” cũng là sản phẩm tinh thần, là kết quả
của trí tưởng tượng sáng tạo của nhà văn và chỉ xuất hiện trong tác phẩm văn
học, trong sáng tác nghệ thuật. “Thế giới nhân vật” là cảm nhận một cách trọn
vẹn, toàn diện và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật xuất hiện
trong tác phẩm, mối quan hệ, môi trường hoạt động của họ, ý nghĩ, tư tưởng,
tình cảm của họ trong cách đối nhân xử thế, trong giao lưu với xã hội và gia
đình...Thế giới nhân vật vì thế bao quát rộng hơn hình tượng nhân vật. Trong
lịch sử văn học, có thể nói, mỗi tác giả lớn đều có thế giới nhân vật riêng mang
đậm dấu ấn cá nhân. Đến với sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân, thế giới nhân
vật của ông là những nho sĩ cuối mùa, là nghệ sĩ rất mực tài hoa, có thiên lương
trong sáng, sống ngông nghênh kiêu bạc... Qua đó ta thấy thái độ bất hòa của
tác giả với xã hội thực dân, thể hiện lòng yêu nước, ngợi ca những giá trị văn
hóa cổ truyền của dân tộc. Gấp trang sách của Nguyễn Tuân lại nhưng người
đọc vẫn nhớ mãi hình ảnh của một người lái đò tài hoa trong nghệ thuật leo
ghềnh, vượt thác - “chất vàng mười đã qua thử lửa của vùng Tây Bắc”. Đó còn
là một Huấn Cao có tài “viết chữ rất nhanh và đẹp”, có được chữ Huấn Cao mà
treo là có “báu vật trên đời”...Thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyên
Hồng là những con người lao động nghèo khổ dưới chế độ thực dân nửa phong
kiến. Thật xót xa, tội nghiệp cho những đứa trẻ vất vưởng đầu đường xó chợ và
những cô gái quê nghèo khổ cùng đường phải làm nghề gái mại dâm, những kẻ
vì túng quẫn mà trở thành lưu manh...Qua hệ thống nhân vật đó, ta hiểu được tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn: lòng yêu thương những con người nghèo khổ
và thái độ tố cáo xã hội. Đến với những trang viết của Vũ Trọng Phụng -
ông vua phóng sự đất Bắc, người đọc nhận ra biết bao nhân vật phản diện
dâm ô, đểu cáng, nhố nhăng, đảo điên vì tiền. Trong tiểu thuyết “Số đỏ”, vì
tiền mà con cháu mong cho cụ cố tổ mau chết để được chia gia tài, vì tiền
mà các thành viên trong và ngoài gia đình vô cùng hạnh phúc khi “ông cụ
già chết thật”...Bức tranh hiện thực về xã hội tư sản thành thị Việt Nam
29 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thời Pháp thuộc đã được Vũ Trọng Phụng vẽ lên qua thế giới nhân vật
phong phú của mình.
Có thể nói, mỗi thể loại văn học cũng có thế giới nhân vật với quy luật
riêng của nó. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn và truyện vừa rất đông đúc,
nhiều dáng vẻ. Thế giới nhân vật trong hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi
Thôn Ngựa Già của Ma Văn Kháng cũng vô cùng phong phú, đặc sắc: từ người
nông dân miền núi ít học nhưng chất phác, người quét chợ, đến những chiến sĩ
trên mặt trận anh ninh, rồi những trí thức hiền lành, những cán bộ về hưu
nhưng vẫn tâm huyết với công việc...Nhân vật trong hai tập truyện trên của Ma
Văn Kháng có tốt, có xấu, có bản năng, có tha hóa nhưng cũng có những nhân
vật phẩm chất tốt đẹp. Qua thế giới nhân vật phong phú đó, người đọc nhận ra
những chiêm nghiệm của tác giả về cuộc sống, về con người. Đối với Ma Văn
Kháng, thế giới nhân vật đã phản ánh trung thành, rõ nét quan điểm nghệ thuật
về hiện thực và con người của ông.
2.3. Tổng quan về hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già
2.3.1. Tập truyện San Cha Chải gồm 17 truyện ngắn viết sau năm 1975 với
hai mảng nội dung chính:
Những truyện ngắn viết về cuộc sống của đề tài miền núi: “Vệ sĩ của
quan châu”, “Giàng Tả, kẻ lang thang”, “Hoa gạo đỏ”, “San Cha Chải”, “Ngựa
bất kham”, “Móng vuốt thời gian”, “Những chiếc chum bạc”, “Mã Đại Câu,
người quét chợ Mường Cang”, “Mùa săn ở Na Le”, “Thím Hoóng”, “Vùng sâu
vùng xa”, “Ông lão gác vườn và chó Phúm”.
Những truyện ngắn viết về hình ảnh các chiến sĩ công an: “Bí mật nghiệp
vụ”, “Cỏ hoang”, “Đỉa bám chân ai”, “Người có khuôn mặt giống vợ anh”,
“Hương hoa Đà Lạt”.
2.3.2. Tập truyện vừa Xa xôi Thôn Ngựa Già gồm 6 truyện vừa được viết từ
năm 2005 đến 2012: “Seo Ly, kẻ khuấy động tình trường”, “Thắp một tuần
hương”, “Cố Vinh, người xứ lạ”, “Cánh bướm tím”, “Người khổ nhất trần
gian”, “Xa xôi Thôn Ngựa Già”.
30 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
“Xa xôi Thôn Ngựa Già” là câu chuyện kể về ông lão sáu lăm tuổi nhưng
vẫn đam mê, nhiệt huyết, làm giàu vốn hiểu biết của mình bằng cách tự bỏ tiền
túi để đi khắp nơi trên đất nước. Ông đã lên Thôn Ngựa Già (còn gọi là Thôn
Ngựa Mới) để khai hoang, đưa máy móc vào áp dụng sản xuất nông nghiệp ở
nơi đây, mặc cho mọi người nghĩ rằng ông là kẻ hoang tưởng. Ông được người
dân Thôn Ngựa Già gọi là “ bông hoa đức hạnh mang màu lửa”, “chàng hiệp
sĩ” bởi vì ông đã góp phần làm cho họ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn.
Còn trong truyện “Cố Vinh, người xứ lạ” kể lại câu chuyện một cha xứ đi mở
mang nước chúa ở đồng bào dân tộc Mông. Ông đã cống hiến bằng trái tim và
tâm hồn, bằng “cái đam mê của kẻ tạo vĩ nghiệp ở bước khởi đầu” nhưng lại có
kết cục buồn thảm vì đã sống thành thực với chính mình.
Qua tập truyện vừa Xa xôi Thôn Ngựa Già một lần nữa tác giả cho người
đọc thấy cái nhìn đa chiều về những mặt tích cực cũng như tiêu cực của đời
sống xã hội. Nhà văn đã đào sâu đến những khía cạnh gai góc của hiện thực
như con đường tiếp nhận tôn giáo còn nhiều chông gai, thử thách của người dân
tộc thiểu số. Bên cạnh đó, những hiểu biết tinh tường về đời sống văn hóa
người dân vùng núi được thể hiện qua lời văn mộc mạc, giản dị của một tác giả
đã “nhập cuộc, dấn thân và sống hết mình với đời sống hiện sinh”. Đằng sau
những tủi nhục, mất mát, xót xa...là niềm cảm thông, tin yêu, trân trọng con
người và những vấn đề nhân văn cao đẹp.
2.4. Thế giới nhân vật trong hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn
Ngựa Già
Thế giới nhân vật trong truyện của Ma Văn Kháng thật đông đảo và sinh
động trong những bức tranh đời sống thế sự đa tạp. “Nhập vào đời sống thành
thị, tầm quan sát và khả năng bao quát của Ma Văn Kháng bỗng được mở ra
trên một trường diện rất rộng, thế giới nhân vật của anh bỗng trở nên đông đúc,
khó có thể quy vào các tuyến quen thuộc cũ” [21, tr.19]. Không phải bất cứ
nhân vật nào cũng minh họa cho một kiểu nhân vật nhất định. Trên thực tế có
những nhân vật cùng một hội tụ một vài tính cách tạo nên một kiểu người nào
31 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đó được nhà văn xây dựng, những cũng có những nhân vật xuất hiện như
những nhân vật đám đông. Trong thế giới nhân vật đông đảo ấy, chúng tôi tạm
phân định thành 4 kiểu loại nhân vật nhân vật: nhân vật bản năng, nhân vật tha
hóa, nhân vật bi kịch, nhân vật có phẩm chất tốt đẹp. Qua các kiểu loại nhân vật
trên, Ma Văn Kháng muốn tìm nguyên nhân của cái xấu, cái ác và những biểu
hiện nhiều màu sắc của sự tha hóa trong tính cách con người.
2.4.1. Nhân vật bản năng
Theo Từ điển Tiếng Việt (Sđd - tr 21) định nghĩa: Bản năng của con
người là “ khả năng vốn có do bẩm sinh chứ không phải do kinh nghiệm luyện
tập”. Như vậy yếu tố bản năng thuộc mặt tự nhiên, vốn có của con người, tồn
tại trong con người nên phủ nhận nó là trái với tự nhiên. Thông thường, người
ta vẫn cho rằng bản năng là mặt xấu, thuần “động vật”, phần con trong con
người, vì thế nó ít được đề cập tới, thậm chí khi đưa vào các sáng tác văn
học còn bị phê phán, phủ nhận. Văn học sau 1975 có sự nhìn nhận, đánh
giá lại vấn đề này. Trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp con người
bản năng được nâng lên thành một ý thức, một khát vọng. Những sáng tác
đích thực về bản năng đã giúp Ma Văn Kháng làm rõ triết lý trong truyện
ngắn “Người đánh trống trường làng”: “Con người là tổng hòa của lý trí và
bản năng” [14, tr.301].
Vì vậy, trong các sáng tác của mình, Ma Văn Kháng không chỉ công
nhận bản năng của con người mà ông còn khẳng định: thừa nhận bản năng
trong con người không phải là hạ thấp con người mà góp phần nâng cao giá trị
của con người. Trong mảng truyện ngắn và truyện vừa, Ma Văn Kháng đã đi
sâu vào khám phá, thể hiện bản năng con người.
Trước hết là bản năng sinh tồn, là một thực thể tự nhiên, lẽ đương nhiên,
để tồn tại được con người cần phải có nơi ăn, chốn ở. Nhưng là một sản phẩm
của xã hội, con người cũng cần phải làm sao để việc ăn, ở, mặc hàng ngày càng
có văn hóa. Bản năng sống là bản năng gốc, bản năng nguyên thủy của con
người. Với bản năng sinh tồn thì con người còn muốn sự sống và hoạt động của
32 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mình có ảnh hưởng trực tiếp đến những người thân trong và ngoài gia đình, đến
môi trường sinh hoạt. Sau cùng, con người cũng muốn rằng sau khi mình mất
đi, một phần sự sống sẽ lưu lại trần thế. Đó có thể là sự cố gắng để tạo một tác
phẩm nghệ thuật, một công trình vĩ đại hay một sự nghiệp hiển hách, sự tha
thiết muốn truyền bá tư tưởng của mình cho người khác...Tất cả cuộc đời của
mỗi người đều quây quần xung quanh hai chữ “sinh tồn” cả về vật chất và tinh
thần. Về mặt vật chất, con người hoạt động để nuôi thân, giữ gìn tính mạng,
kéo dài và nâng cao sự sống của mình. Về mặt tinh thần, con người muốn được
tự do phát biểu tình cảm,tư tưởng, theo đuổi nguyện vọng và tổ chức đời sống
riêng của mình theo sở thích. Có thể coi sinh tồn là một chân lý ngàn đời nên
nó chi phối hoạt động của con người. Bản năng sinh tồn xuất hiện khi con
người cất tiếng khóc chào đời cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Vì bản năng sinh
tồn mà con người có một ý chí sinh tồn mạnh mẽ.
Trong văn học Việt Nam, cái đói, miếng ăn đã đi vào trang viết của các
nhà văn Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Kim
Lân...như là một vấn đề nổi bật. Vì đói mà chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô
Tất Tố phải bán con, bán chó thậm chí bán sữa. Cũng vì muốn sống mà thị
trong “Vợ nhặt” của Kim Lân đã theo Tràng về làm vợ chỉ với bốn bát bánh
đúc. Đặc biệt, ám ảnh tâm trí người đọc là miếng ăn, cái đói nghèo đã khiến
bản năng sống, bản năng sinh tồn của con người mạnh hơn lý trí trong các sáng
tác về đề tài người nông dân của Nam Cao. Xót xa biết bao khi chỉ vì miếng ăn,
con người có thể bán rẻ phẩm giá, nhân cách, đánh mất lương tâm của mình
(“Một bữa no”, “Tư cách mõ”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”...).
Thời đại chúng ta đang sống, cái ăn, cái mặc, chỗ ở không còn là vấn đề
đặt lên hàng đầu.. Nhưng cái gọi là “miếng ăn”, “chốn ở”, công cuộc mưu sinh
của con người vẫn là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn như Ma Văn Kháng tiếp
tục đào xới, khám phá ra biết bao điều thú vị, hấp dẫn, mang ý nghĩa nhân sinh
sâu sắc. Vẻ đẹp cuộc đời thực sự được cất lên từ những cuộc mưu sinh nhọc
nhằn. Mưu sinh vì lẽ đó không đơn thuần chỉ là bản năng sinh tồn. Đó còn là
33 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hạnh phúc của con người - hạnh phúc giản dị được dệt nên từ mồ hôi, nước mắt
của niềm đam mê lao động, sáng tạo.
Qua nhân vật ông Chí trong “Xa xôi Thôn Ngựa Già”, Ma Văn Kháng
muốn nói đến niềm vui của một người đã chế tạo ra bếp dầu không bấc, không
khói trong khi mọi người ở khu tập thể từ trước đến giờ vẫn phải hì hụi nhóm
và đun bếp than giữa tiết trời nóng bức. Sáng chế này của ông Chí đã đoạt giải
vàng trong cuộc thi phát minh, sáng chế kỹ thuật dân dụng hàng năm của thành
phố: “ Ông ngồi xuống, rút từ trong túi ra một bao diêm, que diêm xòe lửa.
Mấy cái lỗ trên nắp bếp thông với bầu dầu bắt lửa hập hờ nhận một hơi gió rồi
hiện ra một vòng lửa tròn đều nhoang nhoáng xanh lơ dập dờn hư có như
không. Tịnh không một sợi khói. Cũng không thoảng mùi hôi của dầu. Bếp dầu
không khói vì không có bấc, vì nhiên liệu được đốt hết. Mặt ông Chí ngẩng dậy
hừng lên một niềm vui thật thơ trẻ”[18, tr.179].Trước lúc nghỉ hưu, ông Chí đã
từng đảm nhiệm qua nhiều chức vụ, ở nhiều địa phương khác nhau. Sau khi
miền Nam giải phóng, với “khí chất xông pha, ưa động, thích phiêu lưu đây đó,
nghe trong hơi gió lớn của cách mạng lời nhắn nhe của cuộc sống, kí ức Tây
Nguyên trong ông sống lại bừng bừng giục giã. Về với Tây Nguyên, ở đó người
chiến binh là ông được thỏa sức dọc ngang, bận bịu, say sưa ngày đêm với các
chiến công, với đủ các công việc”[18, tr.185]. Nghỉ hưu nhưng ông thường
xuyên vắng nhà để đến với các vùng núi cao như Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang,
Cao Bằng, Lạng Sơn. Đó là con người của công việc, phương châm sống của
ông có lẽ thu gọn trong hai chữ hành động. Ông làm việc theo sở thích và
nguyện vọng của bản thân. Rồi ông Chí đã tự mầy mò nghiên cứu phương án
xử lý chất độc hại từ tấm lợp phibrôxi măng. Kết quả là ông đã tạo ra một sản
phẩm mới với tên gọi tấm lợp chất lượng cao sản xuất từ phế liệu cao su và
chất keo nhựa phủ lên tấm lợp phibrôxi măng để chống độc.
Công cuộc mưu sinh của mỗi cá nhân trong giai đoạn đất nước sau chiến
tranh nhất là thời kì đổi mới cũng đặt con người trước những thử thách mới
không kém phần nghiệt ngã. Đời sống kinh tế thị trường cũng là môi trường,
34 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thước đo năng lực, đạo đức và phẩm hạnh của con người. Một mặt, khẳng định
nhu cầu được ăn ngon, mặc đẹp, cuộc sống vật chất đủ đầy là nhu cầu chính
đáng cần được quan tâm của con người. Nhưng mặt khác cũng luôn có sự định
hướng, điều chỉnh, uốn nắn bản năng sống, cái nhu cầu tự nhiên ấy theo chuẩn,
theo quỹ đạo chung của cộng đồng xã hội. Bởi ranh giới giữa bản năng, nhu
cầu tự nhiên chính đáng và lòng tham, dục vọng thấp hèn, ranh giới giàu nghèo
Tác giả đã đồng tình với vợ Nội: “Của tám vạn nghìn tư, chết cũng hai
là vô cùng mong manh.
tay buông xuôi”. Còn đây là suy nghĩ của Lân:“Ngẫm ra, cứ như cái đời anh
giáo khổ, anh nhà văn quèn, chưa biết thế nào là mùi Tây, ngoài miếng cơm
rau dưa tương cà ra, chưa hề được nếm bơ sữa xứ người, hóa ra lại sướng. Cái
sướng, cái khổ ở đời người ta, nói ra thật là vô cùng. Chắc gì kẻ đang ở nhà
lầu, đi xe hơi, ăn toàn thịt cá, đặc sản, đã là sướng hơn người ở nhà cấp bốn,
kẽo kẹt cái xe đạp cà tàng, cơm rau dưa hai bữa ngày mà tâm hồn thanh
thoát”[18, tr.154]
Bên cạnh bản năng sinh tồn, trong hai tập truyện trên của Ma Văn Kháng
ta còn gặp bản năng tự vệ, nó giúp con người có những hành động phản kháng
đối phương kịp thời để tự bảo vệ bản thân. Dù mỗi cá nhân là một thực thể đơn
lẻ song thực tế mỗi người lại có mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng. Cộng
đồng luôn có xu hướng bảo vệ từng thành viên của mình. Nhưng trong những
hoàn cảnh nào đó, cuộc sống nảy sinh những tình huống buộc mỗi cá nhân phải
có hành động tự bảo vệ mình để tồn tại. Hành vi ấy như là sự biểu hiện của nhu
cầu chính đáng là bản năng tự nhiên của con người. Tuy vậy, đây cũng là bản
năng cần có sự can thiệp của ý thức. Ma Văn Kháng luôn ý thức được sứ mệnh
của người cầm bút: Viết là để bảo vệ, khẳng định những giá trị chân chính của
con người. Ông cho rằng: tồn tại trong góc khuất của bản năng con người còn
có sự hiện diện của cái ác. Cái ác có thể được nảy sinh một cách vô thức, vì vậy
nếu không được chế ngự thì nó sẽ có dịp hoành hành. Đó là điều mà nhà văn
luôn day dứt, trăn trở. Trong “Vệ sĩ của quan châu”, Khun từ khi sinh ra đã
35 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mang dòng máu của kẻ bạo tàn, ác một cách bản năng. Như những động vật
bậc thấp, như thú rừng, Khun cũng có những giác quan tinh nhạy để tự vệ
“ngửi được hơi lạ trong gió, nghe được cả bằng da thịt, nhìn xuyên thấu đêm
tối” Từ dáng hình đến tính cách Khun “là sự hồi tổ, là sự lộn giống, là cái
hoang sơ của buổi khai thiên” [17, tr.6]. Bản năng hiện hình ngay trên thân xác
của Khun “một đống bù xù hỗn mang mông muội”. Người ta băn khoăn không
hiểu “quỷ sứ hiện hình vào Khun hay chính Khun là quỷ sứ siêu đẳng”, “Hắn
vừa là người, vừa là khỉ độc, vừa là hùm beo, lợn lòi, vừa là rắn rết. Dường
như hắn không phải dòng giống người hoàn toàn mà là “con của một người đàn
bà quái ác ngủ với với một con đực mãnh thú nên bản năng mới tàn bạo vậy”.
Ở Khun “bản năng bán khai kinh thiên động địa” [17, tr.15] được buông phóng
không còn giới hạn. Mang sẵn trong máu cái khoái cảm giết người, mười lăm
tuổi Khun đã là tay chân, trợ thủ đắc lực bảo vệ quan châu Vàng A Ký. Khun
thản nhiên, thích thú đập nát đầu của xác chết. Bố mẹ nuôi của hắn kinh sợ phải
bỏ đi vì đã nuôi nấng một hòn máu rơi thành hung thần tai ác. Quan châu Vàng
A Ký đã biến Khun thành “nanh hổ, vuốt gấu, răng chó, dao, súng, đao phủ
khát máu, chết chóc và mù lòa”. Thật đáng sợ bởi Khun bạo liệt tàn nhẫn,
nhưng Khun không ý thức được hành động của mình. Khi được hỏi vì sao thích
giết người và trung thành với quan châu thì hắn lờ mờ nhớ rằng chỉ vì một bữa
tiệc mười một món mà hắn được cho ăn khi đang đói. Bản năng thú tính - quái
vật như Khun khiến vùng biên ải trong văn Ma Văn Kháng dữ dội khác thường.
Nhân vật Khun khiến cho người đọc vừa ghê sợ, kinh hãi vừa thấy đau đớn bởi
hóa ra vẫn còn có sự tồn tại của một kiểu người như vậy trong cuộc sống này.
Khun sinh ra không hề biết đến niềm vui được làm người.
Ở nơi hoang dã, những con người ít học, nông cạn dễ bị kích động, dễ bị
lôi kéo vào các cuộc chiến tranh và sát phạt lẫn nhau, thậm chí giết cả mẹ của
mình. Đến với “Thím Hoóng”, người đọc đớn đau xiết bao khi cái Léng say
máu “hồng vệ binh” đã nhét mẹ của mình vào cái thống vẫn được dùng đựng
gạo để cho mẹ chết dần mà không một lần quay trở lại.Tuyên bố của cái
36 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Léng khiến ta phải giật mình “Trái tim tôi không có chỗ dành cho mẹ cha”
[17, tr.179].
Có thể nói, tự vệ là bản năng tự nhiên đảm bảo cho sự an toàn của mỗi cá
thể song nhiều khi người ta lảng tránh hoặc quá đề cao phần tăm tối của nó. Đó
là căn nguyên của cái ác, cái xấu, “cải biến nó là một công việc nhọc nhằn”.
Bởi vậy, con người cần phải tự điều chỉnh hành vi của mình để mặt tốt được đề
cao, và phát huy còn cái xấu, cái ác bị đẩy lùi. Qua các tác phẩm của mình, Ma
Văn Kháng muốn gửi gắm niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người.
Cùng với bản năng sinh tồn, bản năng tự vệ, người đọc còn nhận ra bản
năng tính dục của con người trong sáng tác của Ma Văn Kháng. Ông được nhắc
đến là người đi tiên phong về vấn đề này trong văn học.Vấn đề bản năng tính
dục đã được thể hiện như một vấn đề nổi bật trong quan niệm nghệ thuật về con
người của Ma Văn Kháng. Cái nhìn, sự thể hiện mới mẻ trên tinh thần nhân
bản, tiến bộ về vấn đề tính dục đã góp phần khẳng định: con người vừa là sản
phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của xã hội.
Bản năng tính dục là bản năng sinh vật và cũng là biểu hiện khá phức tạp
trong đời sống của mỗi con người và toàn xã hội. Hạnh phúc của con người
được tạo nên từ một phần quan trọng - sinh hoạt tình dục. Đây là lĩnh vực khá
tế nhị và nhạy cảm cho nên trong văn học nghệ thuật nó vẫn bị coi là “vùng
cấm kị” vì ít nhiều có liên quan đến những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức.
Tuy vậy, từ xưa tín ngưỡng phồn thực đã tồn tại trong đời sống văn hóa dân tộc
suốt chiều dài lịch sử với hai dạng biểu hiện: thờ cơ quan sinh dục và thờ hành
vi giao phối. Cho đến nay chúng ta đều dễ dàng tìm thấy trên bức tường đá ở
Văn Điển (Hà Nội), trên nhà mồ ở Tây Nguyên, điệu múa “tùng dí” ở lễ hội
Đền Hùng…Còn trong văn học nghệ thuật, từ văn học dân gian đến văn học
trung đại, hiện đại vấn đề tính dục được đề cập đến với cảm hứng: ngợi ca và
phê phán. Từ các sáng tác dân gian đến thơ của Hồ Xuân Hương, Truyền kì
mạn lục của Nguyễn Dữ, sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn, sáng tác của Vũ
Trọng Phụng.Nhưng phải sau 1975, nhất là thời kì đổi mới (1986) với tinh
37 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thần: con người là đối tượng phản ánh của văn học nên vấn đề tính dục cũng
được quan tâm thể hiện đầy đủ, đúng mực.
Ma Văn Kháng là nhà văn khá thành công khi mạnh dạn đưa vấn đề tính
dục vào trong các sáng tác của mình, miêu tả nóng bỏng nhưng cảm nhận rất
hiền lành. Đó là đóng góp riêng của nhà văn, đổi mới trên nền truyền thống.
Người đọc ấn tượng với sự hăm hở trong tình ái của các nhân vật như chị Lý
“Mùa lá rụng trong vườn”, Xuyến trong “Đám cưới không có giấy giá thú”, chị
Cả trong “Thanh minh trời trong sáng”, Uyển “Vòng quay cổ điển”, Thoan,
Thiều “Anh thợ chữa khóa”…Ma Văn Kháng đã phản ánh một cách chân thực
những nhu cầu tự nhiên, chính đáng của con người. Qua đó, bộc lộ những quan
niệm về con người bản năng ở hai khía cạnh: bản năng tính dục - thể hiện con
người có văn hóa, đạo đức và bản năng tính dục - thể hiện sự vô văn hóa, lố
lăng, vô đạo đức. Khi bản năng tính dục được điều khiển bởi văn hóa thì đó là
một phần quan trọng làm nên hạnh phúc, niềm lạc thú của con người. Thiếu sự
điều khiển của “sợi dây cương” văn hóa thì bản năng tính dục thuần túy là bản
năng của động vật, chỉ làm nên khoái lạc thể xác của những kẻ tham lam, đạo
đức giả.
Trong truyện “Xa xôi Thôn Ngựa Già”, cả ông Chí và ông Khái “vừa
vào tuổi sáu lăm”, hai bà vợ đã mất nên đều hướng về cô giáo Loan - người
hàng xóm. Đó là người phụ nữ có chồng mất sớm, con gái đang đi du học ở
Mỹ,“ngót năm mươi tuổi có khuôn mặt tròn trịa, mái tóc đen nhánh, đoan
trang một vẻ đẹp cổ điển. Cô có cặp mắt phượng và làn môi đỏ” [18, tr.204].
Quả thực đó là “một người đàn bà đang ở thời kỳ đẹp thuần thục”. Chân dung
ấy đã tạo nên sức hút cho rất nhiều người: Từ một gã chuyên viên cao cấp, một
vị đại tá ăn lương tướng, một ngài thứ trưởng đến những nhà đầu tư Việt Kiều.
Ông Khái đã có những mong ước, cảm nhận về cô Loan mỗi sáng khi thấy cô
Loan trong bộ trang phục lụa trắng uyển chuyển ở từng động tác của bài Thái
cực quyền “ Chao ôi! Hai mươi bốn thế giản hóa động tác tạo hình như thiên
nga uốn lượn mà huyền ảo như có như không. Bàn tay ngọc thu vào đẩy ra, nhẹ
38 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhàng mà ẩn tàng đây đó cả nội lực tiềm ẩn của toàn thân, một hình ảnh nơi ảo
mộng”. Nhiều lúc chỉ cần nghe tiếng nói của cô Loan vọng lại từ xa là ông Khái
“ngây người như bị thôi miên, trong tâm tưởng lại rực lên cái khát muốn được
tỏ bày, chiếm hữu”. Cũng có khi ngồi nói chuyện với cô Loan mà ông Khái
“ngước lên, cái nhìn vừa sỗ vừa khát muốn bừng dậy trong đôi mắt nhỏ của
ông, như hai mũi nhọn lia vào khuôn ngực tròn đầy của cô” [18, tr.245].
Bản năng tính dục thôi thúc bên trong điều khiển con người bằng cả ý thức và
vô thức.
Tình yêu, niềm đam mê tình ái vốn có sức mạnh trường tồn, là bản năng
tự nhiên, nhu cầu tất yếu của mỗi con người không giới hạn ở địa vị, tuổi tác
“Tuổi xấp xỉ bảy mươi vẫn còn là một suối nguồn tươi trẻ, nghĩa là cây cổ thụ
vẫn còn có năng lực trổ hoa” [18, tr.237]. Ông Chí sau trận ốm nặng nay được
ra viện, dưới sự thúc ép của con gái, ông đã cùng cô Loan đi đánh cầu lông vào
buổi sáng để phục hồi sức khỏe. Và thật lạ khi ông nhận ra không phải môn cầu
lông làm cho ông trẻ lại mà chính là bóng hình của người phụ nữ cầm vợt ở bên
kia sân. Cô Loan từ lâu đã tỏa ra sức quyến luyến lạ thường với ông. Ông Chí
hay nghĩ đến cô Loan để rồi thấy mình như được hồi sinh, tràn đầy sức sống,
yêu đời. Có lẽ vì vậy mà trong giấc mơ của ông Chí đã xuất hiện cuộc ái ân với
người vợ đã khuất cách hơn chục năm nay “ tan hòa vào nhau”,“biểu tượng
cho sự khăng khít dắt dìu nhau vượt qua mọi lao lung khốn khó trong cuộc
sống. Giao ái trong tình yêu là khoảnh khắc mình thấy mình qua người đàn bà.
Mà không có chuyện ái ân này thì cuộc sống làm gì có cái gọi là sung sướng,
gọi là đau khổ, và cuộc sống sẽ tẻ nhạt đi bao nhiêu” [18, tr.239]. Rõ ràng là
khi đề cập đến con người với bản năng tính dục, Ma Văn Kháng cũng bày tỏ
quan điểm của mình về vấn đề này đối với hạnh phúc gia đình. Đời sống tính
dục là một phần không thể thiếu trong cuộc sống vợ chồng. Ta cũng từng gặp
điều đó trong “Dao sắc nhờ cán”, ông Thực đã nhận ra “sự sống ở dạng song
trùng, ngọn lửa cháy trong ông hợp thành hai ngọn lửa hòa quyện vào nhau,
39 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
kích thúc nhau để cùng bốc cháy cao ngùn ngụt: lòng ham mê sáng tạo và niềm
ái dục vô bờ” [12, tr.119].
Bản năng tính dục còn là chất keo kết dính lứa đôi, chẳng thế mà mỗi
lần có cơ hội gần gũi là nhân vật Thược và cô người yêu có tên Giang trong
“Thắp một tuần hương” lại quấn lấy nhau làm đủ trò yêu đương cho thỏa nỗi
nhớ mong. Bên cạnh đó, bản năng tính dục còn được nhắc đến trong “Cố Vinh,
người xứ lạ” để rồi cha xứ Ravina nhiều đêm trằn trọc, quằn quại bên gối. Cố
Vinh nhận ra cuộc sống thường nhật ở Lao Chải và muốn gần gụi đàn bà con
gái“đẹp mẩy mang, hoang dã và rất phồn thực”, “Gái tắm truồng nồng nỗng
bên suối cả bầy. Trai gái yêu nhau là có thể dâng tặng nhau thân thể mình, và
trong ngày hội phóng đãng của bản làng, bất kể ai cũng có thể làm tình với ai.”
Để rồi cuối cùng “Thiếu nữ Mông nọ đã kéo bàn tay Cố đặt nó vào khuôn ngực
ấm áp của mình. Cố vòng tay còn lại ôm trọn tấm lưng thăn lẳn nóng hổi của
người đàn bà trẻ” [18, tr.93- 95].
Ma Văn Kháng miêu tả sự có mặt cùng vẻ đẹp, sức sống phồn thực căng
tràn, hấp dẫn đến mê hồn, hoàn mỹ của Seo Ly trong “Seo Ly, kẻ khuấy động
tình trường”. Sự uể oải, buồn tẻ, lặng lẽ, của phố huyện đã nhường chỗ cho sự
sống động sôi nổi. Nhịp sống của cả phố huyện như bừng dậy, biến đổi một
cách kì lạ. Người đọc bắt gặp sự hóa thân, lột xác chưa từng có ở phố huyện
này, từ khuôn mặt, dáng vẻ đến đời sống tâm hồn của con người. Họ được sống
bằng tất cả niềm hăng say, năng lực sống, năng lực yêu với ý nghĩa đầy đủ
nhất: “Nhờ nàng, đàn ông bỗng dồi dào năng lực yêu và đàn bà bỗng diêm
dúa, tơ tuốt và phong tình hơn. Nhờ nàng, mọi người cảm được cái thú vui
vô tận của đời sống dục tình và chốn bồng lai cực lạc của đời sống lứa
đôi” [18, tr.20]. Quả thật Seo Ly có một sức sống phồn thực thiên phú.
Nàng đã vượt lên trên giới hạn của người thường để thực sự trở thành biểu
tượng của Đấng sáng tạo.
Ma Văn Kháng đã khám phá, thể hiện tất cả những biểu hiện tốt đẹp
lành mạnh từ đời sống bản năng tính dục của con người. Với cái nhìn từ góc độ
40 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
văn hóa pha chút hài hước, nhà văn đã đem lại cho người đọc sự bất ngờ bởi
chất dân gian và tính nhân văn trong quan niệm về con người.
Bên cạnh vẻ đẹp tự nhiên phồn thực, cường tráng, năng động đậm chất
dân gian, Ma Văn Kháng còn khám phá, phát hiện mặt bi hài của cuộc sống, sự
thô tục tham lam, dâm ô của những kẻ thiếu văn hóa, vô đạo đức xoay quanh
vấn đề đời sống tình dục của con người. Có thể nói, trong các sáng tác văn học
dân gian như “Nghêu Sò Ốc Hến”, “Quan Âm Thị Kính”… cảm hứng phê phán
mặt trái của đời sống tình dục đã xuất hiện. Đặc biệt trong dòng văn học hiện
thực phê phán 1930 - 1945, Vũ Trọng Phụng là nhà văn có tiếng nói đầy căm
phẫn đả kích xã hội giả dối, lố lăng, đồi bại buổi “Âu hóa” trước cách mạng
tháng Tám qua hàng loạt các tác phẩm: “Làm đĩ”, “Số đỏ”, “Giông tố”…Sáng
tác của Ma Văn Kháng, bên cạnh cái nhìn linh hoạt, mềm dẻo cùng thái độ cảm
thông cho nhu cầu bản năng tự nhiên của con người còn có sự phê phán những
hiện tượng dâm ô, đồi bại. Nhà văn đã tập trung thể hiện thái độ văn hóa, đạo
đức, nhân tính của con người qua vấn đề tính dục.
Trong “Seo Ly, kẻ khuấy động tình trường”, đám đàn ông háo sắc ham
nhục dục tầm thường đã tranh giành chiếm đoạt, sở hữu Seo Ly. Nàng là
nguyên do của cuộc tranh chấp giữa seo phải họ Lý và lý trưởng Cử A Tỏa.
Nhưng khi đã chiếm được Seo Ly thì “Tỏa lăn cổ ra chết. Chết ngay trong lúc
hung hăng chiếm hữu thân xác thơm tho của nàng, chết như kẻ leo núi cao quá,
đứt hơi đằng ngực mà chết”. Những kẻ chiếm đoạt Seo Ly thuộc đủ loại người,
từ anh chàng gù hàng xóm bên tả đến ông thợ rèn hàng xóm bên hữu; từ những
tên lý trưởng thổ ty thời phong kiến đến những quan chức thời nay. Chúng
dùng quyền lực, vị thế và những thủ đoạn bỉ ổi hèn hạ, đê tiện để chiếm đoạt
Seo Ly: kẻ thì rình nàng tắm để cưỡng đoạt, kẻ thì cho nàng một công việc,
người thì cậy quyền thế ép kẻ dưới buộc phải nhường Seo Ly cho mình, kẻ thì
dùng mưu mô đưa đối thủ vào bẫy để giành lấy nàng. Tất cả bọn họ tưởng đã
chiếm được Seo Ly nhưng đều thất bại thảm hại. Cử A Tỏa thì bất đắc kì
tử, sau này Phếu - con trai Tỏa khi chung đụng với Seo Ly đã khám phá ra
41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nguyên nhân cái chết của cha mình có tên gọi: thượng mã phong. Dù Phếu
đã thủ sẵn con dao nhọn nhưng năm ngày sau, y chết cái chết từa tựa như
cha của mình. Tiếp đến là những kẻ tan tành sự nghiệp, bại hoại công danh,
bị làm trò nhục nhã cho thiên hạ đàm tếu: “nàng đã đánh đổ ba bí thư
huyện ủy, bốn trưởng phòng cấp huyện, và mười chủ tịch xã, bí thư xã, ông
thường vụ tỉnh già” [18, tr.29].
Thổ ty Sề Sào Lỉn trong “Móng vuốt thời gian”, tri châu xứ Giáy có tới
chín người vợ.Vào tuổi bảy mươi, nhờ vào các phương thuốc tăng cường sinh
lực cầu kỳ và tốn kém, Lỉn đã lao vào các cuộc truy hoan gấp gáp, tận lực với
đám đàn bà thuộc quyền. Trong “Vệ sĩ của quan châu”, Khun đã cưỡng bức mụ
Coỏng - người đàn bà ngoài bốn mươi, không chồng con, vừa là kẻ nấu ăn, vừa
là đồ chơi của Vàng A Ký. Sau lần cưỡng bức đầu tiên, Khun vẫn mò vào
buồng mụ Coỏng đều đặn “Người đàn bà nấu ăn hóa ra đã đánh thức và nuôi
dưỡng đời sống tình dục của Khun. Sức lực Khun lần đầu tiên không dùng để
hủy hoại. Nó đem khoái lạc cho người phụ nữ nọ”. Nhưng oái oăm thay: “hắn
cấu, đánh đấm, có lúc gào gầm như hổ báo động cỡn ngay trong lúc làm tình.
Vẫn thói bạo liệt, ác thú, như con mèo vờn con chuột đến chết mới ăn thịt, hắn
hành hạ một thôi một hồi rồi mới hành lạc”[17,tr.15]. Rõ ràng, Khun là một kẻ
sống theo bản năng - một thứ bản năng ghê rợn, tàn bạo của chốn hoang sơ,
rừng rú.
Nhân vật Tủa trong “San Cha Chải” hai mươi hai tuổi, là công an xã
cũng không thể không xao lòng “đánh nhanh tia mắt vào khuôn ngực nở bồng”
của bà góa Cài ba mươi tuổi mà vẫn tươi mởn: “Cổ trắng mịn, ngực bồng bềnh,
đàn ông nhìn vào như bị say sóng”,“áo hở cổ trắng nhễu, má đỏ rạn, ngực nở
phập phồng”[17, tr.65].
Dù bản năng tính dục được nhìn nhận linh hoạt hơn nhưng không vì thế
mà con người dễ dàng được thỏa mãn những ham muốn tầm thường của mình.
Mọi sự tham lam, lố bịch, ham hố thái quá sẽ đẩy con người ta rơi vào những bi
hài kịch. Tình dục phải xuất phát từ tình yêu, sự tôn trọng, tự nguyện và bình
42 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đẳng. Khi đó con người mới có hạnh phúc.Văn học sau thời kỳ đổi mới đã có
rất nhiều nhà văn viết về vấn đề tính dục của con người nhưng Ma Văn
Kháng là nhà văn có những khám phá, phát hiện và giải quyết triệt để. Với
ông, tính dục không chỉ là bản năng tự nhiên mà còn là hành vi biểu hiện
thái độ văn hóa, nhân tính của con người. Qua đây, có thể thấy, Ma Văn
Kháng là nhà văn tiên phong đi sâu khai thác bản năng tính dục của con
người. Điều quan trọng là ông luôn có ý thức hướng người đọc đến với
những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
2.4.2. Nhân vật tha hóa
Trong văn học trước 1975, các nhân vật loại hình đã thể hiện tập trung
những phẩm chất ưu tú của dân tộc, của thời đại, trở thành hình mẫu lý tưởng
của xã hội và được miêu tả trong vẻ đẹp kì diệu khác thường. Đến thời kì đổi
mới, con người bước ra khỏi ánh hào quang của chiến thắng để trở về với đời
sống xã hội, phải đối diện với mọi nhu cầu cá nhân, khi ấy con người mới sống
thật với chính mình. Cái nhìn đa chiều, xuyên thấu con người của các nhà văn
thời kỳ này đã khiến văn học trở nên gần với đời sống, theo sát hơi thở cuộc
sống. Đó là “hiện thực của đời sống hàng ngày với các quan hệ vốn dĩ đa đoan,
phức tạp chằng chịt, đan dệt nên những mạch nổi và mạch ngầm của đời sống”
[29]. Thực tế đời sống khó khăn, thiếu thốn đã tác động trực tiếp đến tính cách
con người. Những nhu cầu về cuộc sống đủ đầy, tròn trịa là nguyên nhân dẫn
đến thói ích kỷ, vụ lợi, nhỏ nhen, bần tiện và thói vô cảm của con người.
Ở Việt Nam, nhân vật tha hóa là một khái niệm xuất hiện trong trào lưu
văn học hiện thực phê phán1930 -1945 với các tên tuổi lớn như Nam Cao,
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng…Đến thời kỳ đổi mới, loại hình nhân
vật này miêu tả khá phổ biến trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Lê Minh
Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng... Nhân vật tha hóa là một khái niệm
rất mở và được hiểu theo nhiều khía cạnh, lớp lang. Có thể là tha hóa về đạo
đức, tha hóa về lối sống, tha hóa về tinh thần, dục vọng, quyền lực…Nói cách
khác, đó là sự biến đổi nhân cách con người theo chiều hướng xấu đi. Có
43 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
những nhân vật vì không làm chủ được bản thân trước những biến đổi của hoàn
cảnh mà rơi vào con đường tội lỗi.
Trong xu hướng chung của văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Ma Văn
Kháng viết nhiều về nhân vật tha hóa. Đó là những con người bị biến chất, tha
hóa về đạo đức chỉ vì tình và tiền, tha hóa trong các mối quan hệ luân thường vì
ghen ghét, đố kị, phản trắc, bội tình, khả năng không thể yêu thương người
khác ngoài bản thân, ngoài huyết thống. Sự tha hóa nhân cách đã khiến con
người trở nên xấu xa, độc ác. Thông qua các nhân vật này, nhà văn muốn cảnh
báo tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống của con người.
Trước tiên, sự tha hóa bắt nguồn từ thói ghen ghét, đố kị ở con người.
Dường như sự đố kị đã trở thành mô típ quen thuộc trong sáng tác của Ma Văn
Kháng. Nhà văn như lách sâu ngòi bút của mình để phát hiện những nghĩ suy,
toan tính của các nhân vật. Trong truyện vừa “Người khổ nhất trần gian”, vợ
của Lân đố kị, ghen ghét khi vợ chồng nhà Nội bên hàng xóm lại có cuộc sống
vật chất đầy đủ hơn mình: “Giữa đám người bình dân hàng ngày còn phải sấp
mặt xuống lo cho đủ ba bữa ăn thì cái cuộc sống quá ư sung túc của Nội thật là
một tòa lâu đài chỉ có trong mơ”. Làm sao người ta lại có thể vô tư khi mình thì
quá khổ mà người khác lại cứ sung sướng được. Mỗi lần vợ Nội sang nhà trò
chuyện là vợ Lân lại dè bỉu, giễu cợt. Bởi vậy mà “Từ hôm được tin Nội được
cử sang Pari công tác một nhiệm kì những năm năm, mặt y cứ lầm lầm và hễ có
dịp là y xổ ra, toàn những lời tức tối, đố kỵ âm ỉ sẵn ở trong lòng” [18, tr.147].
Vợ Lân thường xuyên đay nghiến, so bì chồng với người khác cũng chỉ vì mình
nghèo hơn, không có điều kiện như họ. Lương công chức nhà nước eo hẹp,
không đủ nuôi thân, nhà cửa chật chội, thói đạo đức giả, tất cả điều đó đã khiến
vợ Lân không tin vào ai nữa nên chị ta muốn phanh phui, tố cáo. Vợ Lân không
quan tâm đến chuyện Nội bị bệnh tim và lần này đi công tác còn kết hợp với
chữa bệnh. Có lẽ chị ta nhận ra rằng: “cái thói đời vô cùng xấu xa là con người
sống chỉ với một mục đích duy nhất là kiếm chác lợi lộc từ người khác cho bản
thân mình” [18, tr.175].
44 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Sự tha hóa của con người còn bắt nguồn từ quyền lực. Con người có thể
chạy theo quyền lực, danh lợi mà quên đi trách nhiệm của con cái là phải làm
tròn chữ hiếu với những người có công sinh thành dưỡng dục, nhân vật Nội
trong “Người khổ nhất trần gian” có thể xem là một trường hợp như vậy. Mẹ
Nội mất, anh được cấp trên cho xe riêng đưa về chịu tang mẹ, nhưng: “chỉ kịp
nhìn mặt mẹ, hờ mấy câu rồi lại vội lên xe trở về cơ quan, không kịp đưa mẹ ra
đồng” [18, tr.162]. Cũng vì quyền lực, địa vị và danh vọng mà Nội quên cả
bệnh tật của bản thân để rồi cung cúc, tận tụy phục vụ cấp trên cả việc chung
lẫn việc riêng. Qua đây, nhà văn muốn con người hãy cảnh giác với chính mình
bởi cái xấu, cái ác có thể nảy sinh trong mỗi con người một cách vô thức từ
những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Quan trọng hơn là con người cần phải
biết vượt qua để hướng đến tình yêu đồng loại.
Sự tha hóa về đạo đức xuất phát từ đồng tiền diễn ra ở khắp mọi nơi, mọi
lúc trong cuộc sống. Trước đây, Vũ Trọng Phụng đã miêu tả sự tha hóa của con
người vì tiền qua các tác phẩm: “Số đỏ”, “Giông tố”…Vì tiền mà con người
đánh mất những giá trị nhân bản, phá vỡ những truyền thống tốt đẹp. Nó khiến
cho nhân cách của con người bị méo mó, biến dạng. Ma Văn Kháng đã tái hiện
những mảng tối, khuất lấp đằng sau vẻ ngoài hào nhoáng về địa vị của Lễ và
Nghĩa cùng hai người vợ trong “Cánh bướm tím”. Anh cả Lễ - thứ trưởng một
bộ kinh tế, anh hai Nghĩa là viện phó một viện khoa học.Về địa vị, về tiền bạc
đâu có thua kém nhiều so với người khác nhưng về cách đối xử với người cha
của họ khiến người đọc không khỏi giật mình. Khi cha còn sống họ thờ ơ, thiếu
sự kính trọng với cha chỉ vì theo họ nếu ông cụ thức thời thì cả gia đình đã
được hưởng sự sung túc, đủ đầy. Cha họ là một người hiền lành và cương nghị
nhưng họ cho rằng ông “ngu ngơ”,“đụt đâu có đụt đến thế” [18,tr.109]. Theo
lẽ thông thường, với tình thương yêu của con cái dành cho cha mẹ thì ai cũng
mong cha mẹ sống lâu để có cơ hội phụng dưỡng. Nhưng khi cha mất, anh cả
Lễ đã nói trong lời cám ơn ở buổi tang lễ: “Trời đã cho cha tôi hưởng dương
bảy mươi hai tuổi là đủ”. Cha mất, Bỉnh và Thìn - hai người con dâu cũng chỉ
45 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
quan tâm đến tiền. Ngay cả khi muốn đưa ông cụ lên chùa, hai cô con dâu cũng
hỏi đến sổ tiết kiệm của cha. Người Việt có quan niệm “Dâu con, rể khách” sao
hai cô con dâu lại vô tình đến vậy? Họ đo đạc đánh giá căn nhà, mảnh sân rồi
tính toán thiệt hơn với cô em chồng, thậm chí còn dựng lên chuyện bà Xuân -
người đã gắn bó lâu dài với gia đình, nay đầu độc cha để bòn rút của cải. Người
đọc không khỏi xót xa, ngậm ngùi trước những suy nghĩ và việc làm ấy. Quả
thật đó chính là “cơn thác loạn của sự tha hóa nhân cách đang rắp ranh hủy
hoại những giá trị tinh thần” [18, tr.127]. Ma Văn Kháng muốn dóng lên hồi
chuông cảnh tỉnh con người ta cần phải nhận ra giá trị đích thực của cuộc sống.
Trong “Ông lão gác vườn và chó Phúm”, sự tha hóa của con người còn
hiện diện qua nhân vật ông giám đốc nông trường. Ngày trước còn khó khăn,
nghèo khổ: “cái lúc vỡ đất, vung tay hét: Mưa nhỏ coi như không mưa, các
đồng chí ơi! Còn khi nông trường thành cơ ngơi, đi xe ô tô, thấy ai vẫy đi nhờ,
ngoảnh mặt lạnh như tiền” [17, tr.210]. Rõ ràng đây là một kẻ chỉ giỏi nói
khoác, bất tài, tham lam và sống vị kỉ. Hắn có thể cho chó ăn thịt bò nhưng để
nhân viên của mình sống đói khổ. Cuộc sống thay đổi khiến cho con người ta
không còn nghĩ đến tình nghĩa giữa con người với con người.
Trong truyện ngắn “Ngựa bất kham”, sự tha hóa của con người cũng
được nói tới thông qua nhân vật Phềnh. Vốn là một phó ban công an xã hoạt
bát, tài năng, khỏe mạnh, giàu tự ái và ý chí, nhưng Phềnh lại trở thành kẻ gàn
dở, không tự chủ được hành động của mình, xô xát với vợ rồi gây lộn đánh
nhau, cuối cùng bị khai trừ ra khỏi lực lượng công an. Nguyên nhân là Phềnh
không đủ bản lĩnh để vượt qua cái xấu, nghe mọi người khích bác, say đến nỗi
không hiểu tại sao “chân mình lại cứ cái dài cái ngắn. Cái chợ này sao ngu thế,
ai lại chọn cái mảnh đất dốc như sườn núi thế này mà họp”. Xung quanh Phềnh
lúc này là “Trời nghiêng nghiêng, đất nghiêng nghiêng” [17, tr.85]. Tiếng cười
bật ra cùng với sự chê trách Phềnh, một cán bộ tốt vậy mà lại thiếu bản lĩnh.
Cư A Cấu trong “San Cha Chải” là một kẻ tha hóa, hắn đã đem cái xấu,
cái ác về San Cha Chải. Nơi đây vốn bình an vậy mà nay: “Cấu thổ vào không
46 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
khí thanh sạch mùi á phiện khài khài” [tr.67] .Vì nghiện thuốc phiện nên Cấu
ăn trộm quả bí, con gà, ổ trứng, đột nhập vườn cây tam thất ăn trộm. Cấu bị bắt
giải lên huyện dưới sự giám sát của Pao nhưng Cấu đã lừa Pao để trốn thoát.
Trong “Seo Ly, kẻ khuấy động tình trường”, một tập thể cán bộ huyện nọ
chỉ vì mê đắm sắc dục mà đấu đá lẫn nhau để rồi mất tất cả. Đầu tiên là Giàng
A Páo, ba mươi lăm tuổi, sức vóc vác nổi một con ngựa hai tuổi, là chủ tịch
huyện. Páo có công phát hiện ra kho báu Seo Ly, đưa Seo Ly về làm nhân viên
văn thư của ủy ban huyện. Tiếp theo là bí thư huyện ủy Cư A Tráng “mới ba
mươi hai, mặt mũi sáng sủa, tính tình hoạt bát, quyết đoán” [18, tr.15]. Ông
Tráng đã đưa Seo Ly từ nhân viên văn phòng sang công tác ở cơ quan huyện
Hội Phụ nữ. Nhưng cả hai nhân vât quan trọng này đều không giữ nổi vị trí của
mình được lâu. Ông Tráng bị cách chức bí thư huyện ủy. Chủ tịch Páo kiêm
luôn cả hai nhiệm vụ đó nhưng được hơn một tháng ông Páo cũng không giữ
nổi chức vụ vinh quang ấy. Việc hai ông bị giáng chức căn nguyên là do cả hai
đều lỡ bước chân vào phòng ngủ của Seo Ly. Ông phó bí thư - người được
nhận trách nhiệm quyền bí thư đã lên gân lên cốt hô hào: “Ta phải dùng nghị
lực, phẩm chất cách mạng để giữ gìn tư cách chứ! Thật là nhục! Để cả thằng
quét chợ nó khinh” [18, tr.19]. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, ông phó bí thư
được mang tên là Phó Gầm. Không phải vì ông mới tậu xe máy Start, mỗi lần
qua phố gầm điếc tai bà con phố huyện mà đơn giản vì ông trót dại chui vào
gầm giường Seo Ly. Sau đó ông giám đốc công an kéo cả đám thủ túc tin cậy
vào điều tra, tổng kết thành tích bất hảo của Seo Ly: nàng đã đánh đổ ba bí thư
huyện ủy, bốn trưởng phòng cấp huyện, và mười chủ tịch, bí thư xã, họ liền
quyết định điều một ông thường vụ tỉnh già vào để trị nàng. Nhưng oái oăm
thay, ông ta cũng là đàn ông sao tránh khỏi vòng xoáy nghiệt ngã mà những
người trước đã bị hút vào đó. Mượn lời nhân vật Quốc, kết thúc tác phẩm, Ma
Văn Kháng đã khẳng định: “Quả là một trò chơi quái ác của tự nhiên, ông trời
chơi khăm tất cả lũ đàn ông” [18, tr.30]. Nếu không có bản lĩnh thì dù là cán bộ
47 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hay thường dân, con người cũng dễ bị tha hóa bởi những ham muốn dục vọng
thấp hèn.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, con người rất dễ bị cuốn theo
những cám dỗ về vật chất, những ham muốn tầm thường. Không ít người vì thế
mà hủy hoại mất nhân cách và ngày càng trượt dốc trên con đường bị tha hóa
nhân cách. Các nhà văn thời kỳ đổi mới đã đề cập, vạch trần lối sống thực dụng
của con người như trong tác phẩm “Tướng về hưu” (Nguyễn Huy Thiệp),
“Đồng đôla vĩ đại”(Lê Minh Khuê)…Đồng tiền đã trở thành chìa khóa vạn
năng, ma lực của đồng tiền đã vượt qua thời gian, không gian và tồn tại ở mỗi
góc phố, con đường, mỗi gia đình. Tiền có thể thay đổi số phận của bao người
giúp cho con người ta sung sướng, hạnh phúc. Nhưng khi đồng tiền không
được sử dụng đúng mục đích, nó khiến cho con người ta có thể bị khánh kiệt
gia sản, trở thành kẻ bất nhân, thậm chí lâm vào đường lao lí. Nhân vật Sùng,
Phàn, Liệu trong “Bí mật nghiệp vụ” vì tiền mà tham gia vào dường dây buôn
bán ma túy - gieo cái chết trắng cho biết bao gia đình. Ma túy là kẻ thù không
đội trời chung của loài người và bọn buôn ma túy như Sùng gà là tội phạm
nguy hiểm. Chúng vừa xảo quyệt vừa hung hãn manh động. Tên Sùng - chủ xới
gà, ngông ngạo và lắm mưu mẹo, đầu mối tiêu thụ ma túy, có tiền nên hắn
ngang nhiên tuyên bố: “ Không phải cứ có tiền là cái gì cũng mua được, nhưng
có nhiều tiền thì có tất cả, kể cả tự do” [17, tr.229]. Hắn xấu xí nhưng nhiều
tiền, bởi vậy hắn đã dùng tiền để rước về một cô vợ xinh đẹp, tổ chức một đám
cưới nổi đình đám.
Cái thiện, cái đẹp được lên ngôi, được chở che, bảo vệ thì cái xấu, cái ác
cần phải loại bỏ. Đến những năm gần đây, sáng tác của Ma Văn Kháng ở cả hai
mảng tiểu thuyết và truyện ngắn, cái ác được phơi bày trước ánh sáng. Tội ác
của những kẻ bất nhân gây ra thật kinh hoàng. Nó không đơn thuần ngự trị
trong tiềm thức mà đã trở thành hành động vô luân thú tính. Điều này được
phản ánh trong “Hương hoa Đà Lạt” và “Người có khuôn mặt giống vợ anh”. Ở
truyện ngắn “Hương hoa Đà Lạt”, nhân vật Kình là một tên cướp khét tiếng ghê
48 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
gớm, gian ác. Hắn đã : “bắn chết cả gia đình chủ hiệu vàng ở Thái Nguyên gồm
sáu người, chiếm đoạt tài sản của họ trị giá năm tỉ đồng, bắn trọng thương một
chiến sĩ công an và thoát vòng vây, trốn biệt” [17, tr.278]. Lệnh truy nã Kình
đã được gửi đi sáu mươi mốt tỉnh thành và ảnh của hắn đã in cả vạn bản dán
khắp các nơi công cộng. Thấy hắn im ắng khoảng một năm người ta nghĩ hay là
hắn đã chết. Vậy mà liên tiếp xảy ra những án mạng giết người, cướp của rất dã
man. Tội ác của tên Lê Văn Kình chất chồng khiến người đọc bàng hoàng. Vì
tiền mà hắn trở thành ác thú mất hết nhân tính, gieo đau thương cho bao người.
Cũng qua truyện ngắn này, Ma Văn Kháng còn thể hiện sự đau xót, day dứt
trước hành động bao che tội ác cho Kình của người phụ nữ đẹp có tên Duyên ở
Đà Lạt: “Tại sao một người đàn bà đẹp như thế lại có thể ngu muội đến thế!
Tại sao chị ta lại hiến mình cho một tên cướp?” [17, tr.285]. Một lần nữa,
người đọc thấy được quan niệm về cái đẹp của nhà văn: người phụ nữ được trời
phú cho vẻ đẹp hình thể, điều đó thật đáng trân trọng. Nhưng cái đẹp hình thể
không quan trọng bằng cái đẹp trong nhân cách của con người, đúng như người
xưa đã nói: “Cái nết đánh chết cái đẹp”,“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Kết thúc
truyện, Ma Văn Kháng đã mượn lời một nhà tiểu thuyết lớn của Châu Âu để
gửi đến người đọc thông điệp: “Cái cười không thuộc phạm trù cái đẹp của văn
học. Vậy, nỗi buồn là nơi con người phải đi tới để hoàn thiện nhân cách đẹp đẽ
của mình” [17, tr.286].
Cái ác, sự tha hóa về đạo đức, lối sống và nhân cách của con người còn
được thể hiện rõ tác phẩm “Người có khuôn mặt giống vợ anh”. Vụ án mạng
xảy ra ở nông trường Ngòi Bo, cô gái tên Vân bị giết: “Người thiếu nữ hai
mươi tuổi chết thê thảm vì bị đập vỡ đầu, nằm úp mặt bên bìa rừng” [San Cha
Chải, tr. 271]. Kẻ xấu muốn thỏa mãn dục vọng thấp hèn nên đã giết người và
có những hành động đốn mạt khác.
Qua việc xây dựng những nhân vật tha hóa, Ma Văn Kháng đã cho
người đọc thấy rõ những mặt trái của xã hội kim tiền. Ông đã đứng về phía cái
tốt, cái thiện, đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, sự tha hóa về
49 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đạo đức và nhân cách của con người. Từ đó lay tỉnh và đốt lên ở người đọc ý
thức tẩy trừ, gột sạch những góc khuất, những phần tăm tối trong tâm hồn con
người, hướng con người đến giá trị Chân -Thiện - Mĩ.
2.4.3. Nhân vật bi kịch
Những năm 80, đời sống xã hội chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có nhiều biến động, phức tạp. Cảm hứng bi kịch
với nhiều hình thức, thể loại đã đem đến nhiều nét mới cho văn học. Số phận
con người trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhà văn “thể hiện cái nhìn dân
chủ đối với sự phức tạp của tính người. Nhiều tác phẩm đã hướng tới miêu tả
số phận của những con người bình thường với những bi kịch của đời họ. Bi
kịch giữa khát vọng và thực trạng, giữa cái muốn vươn lên và cái kìm hãm,
giữa cái thanh lọc và cái tha hóa, giữa cái nhân bản và cái phi nhân bản” [41].
Có thể nói nhân vật bi kịch là loại nhân vật thể hiện sự đổi mới quan niệm nghệ
thuật về con người của nhà văn trong việc khám phá số phận cá nhân, lấy số
phận cá nhân làm khởi điểm. Song hành với số phận con người, đôi khi có cả
hạnh phúc lẫn bi kịch.
Bi kịch là khi con người bị đặt vào những đối kháng, mâu thuẫn giằng xé
mà không có lối thoát. Đó có thể là nỗi thất vọng của những con người luôn cố
gắng vươn tới cái tốt đẹp, sự hoàn hảo nhưng cuộc đời lại quay lưng với họ.
Cũng có thể đó còn là bi kịch của những con người không vượt qua nổi chính
mình, những đắng cay, trái ngang trong cuộc đời để tìm lấy hạnh phúc. Đó có
thể là bi kịch của những con người có khát vọng, ước mơ nhưng lại bị gánh
nặng áo cơm chi phối, cản trở…Trong văn học Việt Nam, có nhiều nhân vật
văn học rơi vào bi kịch. Chẳng hạn trong sáng tác của Nam Cao, nhân vật Chí
Phèo (Chí Phèo) rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, còn Hộ (Đời
thừa) lại mang bi kịch giữa tình thương và sự nghiệp. Trong vở kịch Vũ Như Tô
(Nguyễn Huy Tưởng) nhân vật Vũ Như Tô bị chết, Cửu Trùng Đài bị đốt phá.
Nhân vật Trương Ba trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang
Vũ) rơi vào bi kịch vì phải sống nhờ trong thân xác của người khác…
50 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Là nhà văn luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến số phận con người, ở giai
đoạn sáng tác sau đổi mới, Ma Văn Kháng đi sâu khám phá thế giới tâm hồn
con người và làm nổi bật bi kịch mà họ gặp phải. Trong truyện ngắn và truyện
vừa, Ma Văn Kháng lo âu trăn trở cho số phận bất ổn của con người. Đó còn là
nỗi ám ảnh về con người luôn bị cái ác săn đuổi, con người bị mưu phản, mưu
hại. Hàng loạt các nhân vật của ông luôn có những kết cục số phận đầy bất ngờ.
Trong San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già, những người phụ nữ dù
được miêu tả ở nhiều góc độ sáng - tối khác nhau song họ đều là những người
không chỉ có sắc đẹp mê hồn mà còn có sức sống dồi dào cả về tâm hồn và thể
xác. Phần lớn các nhân vật này đều có số phận éo le hoặc rơi vào hoàn cảnh trớ
trêu. Seo Ly trong “Seo Ly, kẻ khuấy động tình trường” là một phụ nữ có vẻ
đẹp mê hồn, nàng như bông hoa rừng, đẹp một vẻ đẹp lộng lẫy với hương thơm
quyến rũ: “Vóc dáng nàng đã thuần thục, đã nảy nở hết độ. Mỗi chi tiết trên cơ
thể nàng đã được đào thải, gạn lọc, chọn tuyển và bây giờ định hình như những
tuyệt phẩm của tạo hóa. Nổi bật trên cơ thể nàng là khuôn hình eo hông mượt
mà và bầu ngực tràn trề sinh lực phồn thực, chúng uyển chuyển khi nàng bước
đi. Nàng là sản phẩm chín nục của yêu đương mê mệt, của đàn ông háo sắc và
các cơn đắm dục chứa chan” [18, tr.9]. Đẹp nhưng Seo Ly chưa bao giờ được
hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc, nàng là điển hình của một cuộc đời người phụ
nữ Mèo bị vùi dập trong thung lũng đau thương. Mười ba tuổi nàng là con dâu
gạt nợ.Vì quá khổ nên nàng bỏ nhà chồng “làm gái gầu phàng ăn ở không công
ở nhà lý trưởng”. Rồi nàng lại tiếp tục bị gả bán, biết bao ê chề, đau đớn trong
máu và nước mắt. Mười lăm tuổi Seo Ly trở thành “cái máng lợn bị tha đi, đá
lại’’[18, tr.24] trong cuộc tranh chấp giữa seo phải họ Lý và lý trưởng Cử A
Tỏa. Sau hai lần lấy chồng, Seo Ly lại trở về với đời người phụ nữ Mèo lầm
lũi: “Còn tối trời đã dậy xay ngô, đồ ngô, rồi bọc rúm rím, đi đến nương trời
mới sáng tờ mờ và từ đó chài chãi trong nắng gió, cho tới tận trăng lên” [18,
tr.25]. Tưởng thế là xong một kiếp người nhưng thực tế lại không phải như vậy.
Cuộc đời nàng ngỡ bước sang một trang mới khi nàng được chủ tịch huyện là
51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Giàng A Páo đưa về làm nhân viên văn thư của ủy ban huyện. Cũng từ đây, Seo
Ly giống như một món đồ trong tay đám đàn ông háo sắc. Bao kẻ khát khao
chiếm đoạt Seo Ly nhưng không ai đứng ra bảo vệ nàng khi nàng cần nhất:
nàng bị khỏa thân diễu phố “mắt nàng đẫm lệ và ngơ ngác”. Người đọc không
khỏi ngậm ngùi, xót xa cho Seo Ly giữa những ánh mắt thô phàm, trần tục. Cay
đắng, nhục nhã xiết bao khi không có một “thằng đàn ông tử tế” nào đưa tay ra
đỡ lấy nàng. Chỉ có gã quét chợ dũng cảm dám bảo vệ Seo Ly - bảo vệ cái đẹp.
Gã quét chợ trong truyện này giúp ta nhớ đến hình ảnh của Quasimodo (Nhà
thờ Đức Bà Pa-ri) của V.Huy-gô. Có thể thấy rằng, Seo Ly chính là biểu tượng
cho cái đẹp thuần khiết tồn tại giữa hoàn cảnh sống ô trọc. Qua tác phẩm này,
Ma Văn Kháng khẳng định một triết lý: Không thể có được cái đẹp bằng quyền
lực, sức mạnh cơ bắp hay âm mưu thủ đoạn. Nếu không có sự trân trọng thì
chạm vào cái đẹp hoặc là mang họa, hoặc thất bại. Cái đẹp sẽ đến với những
trái tim thánh thiện, thuần khiết. Đó cũng là những lí do giúp cho tác phẩm
sống được với thời gian và nhiều người say mê, ngưỡng mộ.
Trong “Hương hoa Đà Lạt”, người phụ nữ tên là Duyên cũng mang một
vẻ đẹp đầy quyến rũ: “Gương mặt tròn xinh, hai má đỏ rạn, đôi mắt trong vắt,
đôi môi mọng chín, cái cằm chẽ đôi cùng vóc người nở nang, khuôn ngực đầy,
eo hông rộng của chị đã biểu hiện đầy đủ vẻ sung mãn và phồn thực của người
đàn bà đang ở thời đoạn hồi xuân mãnh liệt.”[17, tr.280]. Chồng Duyên chết
bệnh đã mười năm, chị là chủ nhân của năm hecta đất vườn trồng rau. Vậy mà
Duyên đã không vượt qua được chính mình, lại có quan hệ với một tên tội
phạm nguy hiểm đang bị truy nã.
Cũng là một người phụ nữ bất hạnh, Thím Hoóng trong truyện ngắn
cùng tên phải chết trong cô đơn, đau khổ và tuyệt vọng. Thím vốn là một người
đàn bà tính tình điềm đạm, hòa nhã, thậm chí khép nép, né tránh mọi sự va
chạm, phiền hà với bạn bè. Nghề khâu giầy vải để kiếm sống đã hun đúc ở thím
sự chu đáo, tỉ mỉ, kĩ càng. Tưởng chừng Thím sẽ được bình an bên gia đình với
chồng và con gái. Nào ngờ, sóng gió ập đến khi chồng thím chết vì bệnh ung
52 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thư phế quản. Thím chỉ còn cái Léng là chỗ dựa khi về già. Khi còn nhỏ, Léng
cũng giống như bao đứa trẻ khác: “khỏe mạnh, mập mạp, tóc đuôi sam lũn
chũn, má bầu, mắt một mí”, lớn thêm một chút cái Léng có nét “rắn rỏi, thẩm
lẩm, lầm lì” [17, tr.176]. Cái Léng bước vào tuổi thiếu nữ cũng là lúc nổ ra
cuộc nổi loạn. Nó vụt lớn lên với một tốc độ phi thường và nhanh chóng gia
nhập vào đoàn thiếu niên Hồng vệ binh. Say mê, cuồng tín, quăng mình vào các
cuộc đại náo ngu xuẩn, ngông cuồng. Thím Hoóng ốm đau, bệnh tật nhưng cái
Léng không hề ngó ngàng đến mẹ, thậm chí còn cho mẹ vào thống gạo cho chết
dần. Trái tim của người mẹ đau đớn đến nhường nào khi phải nói với con gái:
“Ai xui mày mà mày ác thế, Léng ơi!”[17, tr.183]. Khi nhận ra sự thật tàn nhẫn, thím
Hoóng suy sụp tinh thần, tuyệt vọng vì sự dày vò của lương tâm và hoàn cảnh.
Ông Chí trong “Xa xôi Thôn Ngựa Già” là một nhân vật bi kịch. Ông là
người có khát vọng và ý tưởng cao đẹp, có nghị lực vượt qua buồn đau, bệnh
tật của bản thân. Ông đã từng mổ thủy tinh thể cả hai mắt, lại thêm viêm xoang
mãn tính, u sơ tiền liệt tuyến, mắc bệnh tim, thấp khớp, trào ngược dạ dày, trật
đĩa đệm đốt sống lưng, cao huyết áp.Vậy mà về hưu ông không chịu ở nhà nghỉ
ngơi, dưỡng bệnh. Ông tự bỏ tiền túi lên đường làm những cuộc viễn du không
ai mời mọc, để thực hiện những dự án không có tính khả thi và mong nhận
được những lời khen xã giao. Ông là người không hiểu thực tế cuộc sống đang
vận động, biến đổi không ngừng và có nhiều thách thức mới. Không hiểu đúng
về mình cùng những năng lực có thật của bản thân, nhiều khi ông sinh ra ảo
tưởng để rồi thất bại trong công việc cũng như trong cuộc đời. Người ta coi ông
là người lạc thời hâm dở, tự huyễn hoặc mình. Nhân vật ông Chí phảng phất
bóng dáng của Đôn Kihôtê của M.Cervantes. “Nhà quý tộc đã từng đọc quá
nhiều sách kiếm hiệp nên mắc chứng hoang tưởng, tưởng mình đang thực hiện
sứ mệnh thanh trừ mọi xấu xa, tàn bạo, bất công, phù nguy cứu khổ, phò chính
trừ tà” [18, tr.190].
Gần giống như ông Chí, trong “Thắp một tuần hương”, ông Tương Bằng
cũng rơi vào bi kịch. Đó là bi kịch của một người sống trong hoàn cảnh xã hội
53 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
một thời bao cấp kéo dài, chức vụ, thành tích công tác thời kháng chiến của ông
là do lí lịch. Ông đã nghỉ hưu đang chờ sổ, đã ra khỏi quỹ đạo của chức trách.
Tuổi cao, đã từng mổ tim, đau dạ dày, phì đại tuyến tiền liệt và đái tháo
đường…giờ đây, lục phủ ngũ tạng thảy đều đã suy. Nhưng cứ dăm bữa nửa
tháng, ông lại nai nịt gọn gàng, đeo cái ba lô lên vai, xách chiếc cặp da trên tay
và lên đường. Ông sống theo quán tính, tự tạo hư giác cho mình mà không hay:
“ông như con tàu đã đã được đặt trên hai thanh ray. Giờ con tàu chỉ việc
chạy”, “Ông trung thành với chính mình. Trước sau ông vẫn là một chính trị
gia, một nhà cách mạng chuyên nghiệp” [18, tr.41]. Ông luôn đóng vai lãnh
đạo quan trọng nhưng thật ra không đóng góp được gì cho cơ quan, cho xã hội.
Ngoài ra, trong tập truyện ngắn San Cha Chải, người đọc còn thấy nỗi
bất hạnh của những con người hiền lành, muốn sống có trách nhiệm, cống hiến
sức mình cho xã hội nhưng lại rơi vào bi kịch như ông Tài trong “Ông lão gác
vườn và chó Phúm”. Bi kịch của ông Tài là ở chỗ: những gì ông tin tưởng,
mong đợi lại sụp đổ ngay trước mắt. Ông nhận ra giám đốc của mình là một kẻ
ích kỉ, tiểu nhân, ăn nói bỗ bã, xô bồ. Trong lúc mệt mỏi ông muốn được về
nhà - chốn nương thân cuối cùng, mong tìm chút bình an nhưng oái oăm thay
lại phải chứng kiến cảnh thông đồng giữa hai kẻ gian phu dâm phụ. Bà Tài -
người mà ông yêu thương xưa nay được tiếng là đứng đắn đã phản bội ông
trong khi miệng thì ngon ngọt dối lừa. Thì ra bấy lâu nay bà không chịu theo
ông lên nông trường cũng là vì bà ở nhà dan díu với người khác. Chính lúc đó
ông đã xót xa nhận ra rằng: “Đời chẳng chút công bằng, ông thấy số phận quá
nhiều cay đắng thiệt thòi”. Ông “có cảm giác biến thành một con ngựa điên lao
bừa về phía trước. Mệt nhọc và giày vò đau đớn, cay đắng và căm phẫn chất
đầy” [17, tr.226].
Mã Đại Câu trong “Mã Đại Câu, người quét chợ Mường Cang” là một
người khổ cả về vật chất lẫn tinh thần. Lão lủi thủi, vật vờ như cái bóng ma ở
trấn Mường Cang. Lão cô đơn giữa cộng đồng, chẳng có ai quen thân, chẳng có
ai gần gũi. Khi có việc như vác đá, chôn người chết vô thừa nhận thì người ta
54 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhớ đến lão. Người ta nhận ra rằng: “Người Mã Đại Câu mỗi ngày một quắt
queo, đứng cạnh lão, người lão toát ra hơi tử khí vừa lạnh lẽo vừa tanh tưởi
thật; mỗi ngày lão càng giống một cái xác chết” [17, tr.137]. Lão bỏ cái lều nơi
góc chợ để lên hang đá ở, lão chẳng nhớ tuổi, chẳng nhớ tên mẹ, tên cha và quê
hương bản quán. Rồi lão cũng được mọi người trong thị trấn cưu mang, đùm
bọc, tha thứ nhưng lại sẵn sàng theo “Pên Tầu” một cách ngu dại. Lần thứ nhất
lão sống sót trở về nhưng người ta nhận ra ở lão không còn bóng hình hăm hở
của ngày ra đi.Thay vào đó là: “Lão bước chậm chạp, uể oải. Chân trái quấn
băng ở gót. Tay phải chống gậy. Cái chăn chiên không thấy trên người. Lão
dừng lại giữa phố, ngẩng lên lờ đờ cái mặt mất hẳn nhuệ khí hảo hớn hồi nọ;
lại vẫn là cái mặt gớm guốc, bẩn thỉu ngày nào, nay gia tăng thêm sự mệt mỏi
quá độ” [17, tr.145]. Nhìn lão như vậy, người trong phố thấy mủi lòng, và lão
lại tiếp tục công việc quét chợ nhờ sự giúp đỡ của chủ tịch Lục Vân Hài.
Nhưng khi chiến tranh bùng nổ, thị trấn biên giới Mường Cang bị quân Tầu tấn
công, Mã Đại Câu một lần nữa muốn theo “Pên Tầu”. Khi viên sư trưởng chĩa
nòng súng vào ngực lão, chuẩn bị chết mà lão vẫn không biết mình chết vì lẽ
gì: “Lão ngã rụi xuống, óc tăm tối vẫn chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra. Lão đã
bị lừa mà vẫn chưa tỉnh ngộ” [17, tr.150]. Bi kịch của Mã Đại Câu là bi kịch
của sự ngu dốt, u mê.
Cố Vinh trong “Cố Vinh, người xứ lạ” cũng là một nhân vật bi kịch. Cố
Vinh - cha xứ đạo vùng Sapả, là người có trí tuệ, tài năng và khát vọng truyền
đạo ở vùng đất trắng còn mông muội. Cảnh quan thịnh vượng của xứ đạo có
được là nhờ công sức và tài cán của Cố Vinh - của đức cha Ravina. Cố hàng
ngày ban sức khỏe và phúc lành cho mọi người. Nụ cười, nét mặt của Cố hoàn
toàn trong trẻo “không vướng xót tí chút dục năng phàm tục, ham muốn tầm
thường” [18, tr.77]. Cố đóng trọn vai trò của một nhà truyền giáo vĩ đại. Cố đã
răn dạy con chiên bằng lối sống đạm bạc, minh tĩnh và nghiêm cẩn: “chỉ cần
ngó đàn bà mà động lòng ham muốn cũng đủ là kẻ phạm tội tà dâm rồi”
[18, tr.91]. Cố cho rằng câu nói của Sùng Sử là “lời nói dâm bôn”. Nhưng vấn
55 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đề là: Cố Vinh còn rất trẻ, ngoài hai mươi tuổi, “cuộc sống phàm tục ngài chưa
trải. Cuộc sống ấy bấy lâu nay bị ngài coi như địa ngục. Và dục năng chính là
con quỷ dâm loàn trong quan niệm của ngài”. Cuộc sống thường nhật hiện ra
thiết thân, sục sôi, hấp dẫn, Cố Vinh cố nhắm mắt bỏ qua, bịt tai không nghe
nhưng vô hiệu. Nó khiến ngài phải rền rĩ: “Lạy Chúa! Sao con nghe rạo rực
trong người quá thế! Xưa kia, đã có đôi lúc trong giấc mơ có quỷ ám, con đã
từng biết tiết chế, kìm hãm, nay con thật không hiểu trong con đang quẫy động
những cám dỗ đê tiện nhuốc nhơ, hay đang nảy nở những ao ước thần tiên?”
[18, tr.93]. Cố đã đọc lẫn lộn lời kinh. Cố đã bị cả “một vùng ngực trắng thăm
thẳm niềm liên tưởng” gieo hoang mê. Trong đầu Cố xuất hiện hình ảnh con
ngựa đực với những hành vi bản năng, rồi hình ảnh tên vệ sĩ của mình làm tình
với cô gái Lao Chải. Cố đã bị thất bại một cách thảm hại. Biết bao công sức
đem cái Đạo của Chúa đến xứ Mông hẻo lánh với mong muốn khai hóa những
con người còn u mê, lạc hậu nhưng không thành. Lý trí không thể kìm chế
được bản năng. Công cuộc khai hóa văn minh mở mang nước Chúa kết thúc
khi Cố bị chính đệ tử thân cận Sùng Sử chặt đầu. Bi kịch của Cố Vinh là khát
vọng tính dục mang tính bản năng xung đột với những giáo lý hà khắc của nhà
thờ. Cái chết của Cố Vinh không chỉ là cái chết của thân xác ông ta mà còn là
sự cáo chung của những giáo lý trái tự nhiên mà ông ta thường rao giảng.
Thông qua việc xây dựng những nhân vật bi kịch, Ma Văn Kháng muốn
góp tiếng nói xót thương cho những số phận bất hạnh. Mỗi nhân vật, mỗi cảnh
đời đều để lại sự day dứt, xót xa trong lòng người đọc. Điều đáng trân trọng là,
dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, con người có thể chưa hoàn hảo nhưng mỗi
người cần phải nỗ lực để vượt lên hoàn cảnh, vượt lên số phận để sống tốt hơn.
2.4.4. Nhân vật có phẩm chất tốt đẹp
Ma Văn Kháng là nhà văn luôn dành sự quan tâm đặc biệt khi xây dựng
những nhân vật mang nhiều phẩm chất tốt đẹp. Đó có thể là những con người
có vẻ đẹp hài hòa từ hình thức bên ngoài đến nội dung bên trong. Song cũng có
những nhân vật vẻ ngoài xấu xí nhưng lại có tấm lòng vàng. Nhìn chung, họ
56 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đều có tinh thần trách nhiệm cao với công việc. Đến với những trang viết của
ông, người đọc rất ấn tượng với những gương mặt hiền lành, chất phác, giàu
lòng vị tha và đức hi sinh như ông Tài (“Ông lão gác vườn và chó Phúm”), Lý
A Lừ (“Hoa gạo đỏ”), Sìn (“Những chiếc chum bạc”), Mo Chúng, Pao, thầy
Tính (“San Cha Chải”), Quân (“Mùa săn ở Na Le”),… Khi viết về những nhân
vật này, tác giả thể hiện sự yêu mến, trân trọng, cảm thông ngậm ngùi cho số
phận của họ. Trong số những nhân vật có phẩm chất tốt đẹp, chúng ta thấy nổi
bật lên là hình ảnh người dân tộc thiểu số tính tình hiền lành, tốt bụng; người
chiến sĩ an ninh dũng cảm thông minh.Tuy nhiên sự sắp xếp này cũng chỉ mang
tính tương đối vì mỗi nhân vật trong hai tập San Cha Chải và Xa xôi Thôn
Ngựa Già của Ma Văn Kháng đều là những con người đa nhân cách, có sự
phức tạp, đan xen trong tính cách.
2.4.4.1. Người dân tộc thiểu số tính tình hiền lành, tốt bụng
Trong tập truyện ngắn San Cha Chải, hình ảnh những người dân tộc
thiểu số hiện lên khá toàn diện. Hai mươi năm Ma Văn Kháng gắn bó sâu nặng
với Lào Cai, ông không chỉ thấy ở họ tình yêu thương đồng loại hồn nhiên,
chân thành mà còn nhận ra ở họ tinh thần trách nhiệm cao, hết lòng vì việc
làng, việc nước. Khi viết về những con người này, nhà văn đã thể hiện sự cảm
phục, tin tưởng đối với họ. Nhân vật Lý A Lừ trong “Hoa gạo đỏ” là người suốt
đời chỉ biết làm lụng vất vả như con trâu, con ngựa để nuôi gia đình. Ông Lừ
dẫu không được học hành nhưng lại là người trọng danh dự, giữ chữ tín. Ông
và ba tráng đinh khác trong làng được lý trưởng Tráng Vần Đa giao cho nhiệm
vụ ra tận huyện để đón đức vua. Đối với ông, việc chung thật quan trọng. Vì
việc chung mà sẵn sàng tận tụy phục vụ cho chỉ còn một chút sức lực cuối
cùng. “Vì việc làng việc nước mà vụ xuân này bỏ cả việc bán công sinh nhai. Vì
việc làng việc nước mà mang cái khó nhọc vào thân. Việc làng việc nước!
Phàm việc làng, việc nước thiêng liêng, cao quý thì phải tận lực mà làm cho
trọn vẹn” [17, tr.53]. Với họ được đem sức mình ra để phục vụ việc chung lần
này là niềm vinh hạnh không thể mua được bằng vàng, không phải ai cũng có
57 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
được.Vì việc chung ấy mà họ có thể đánh đổi công sức, xương máu để hoàn
thành cho thật tốt. Cho dù đến nơi không được gặp mặt đức vua, chỉ là một
phiến đá nặng có khắc dòng chữ: “An Nam dân quốc địa giới”. Thời gian đầu,
phiến đá nặng ba trăm ki lô gam được di chuyển dễ dàng. Nhưng rồi trên chặng
đường đầy gian khó, hiểm nguy, phiến đá càng trở nên nặng nề gấp bội, trì níu
bước chân của họ. Sau một ngày đi cùng họ vượt qua suối trơn, qua dốc cao
ngửa ngực, người lính “nhìn bốn người bạn đường, bỗng thấy yêu quý họ
khác thường. Họ, giản đơn, thô sơ vậy thôi, mà thật là những tấm lòng
vàng” [17, tr.55]. Người ta có thể nhận ra đâu là bạn tốt khi đặt vào hoàn cảnh
khó khăn gian khổ, giữa sống và chết. Ông Lừ không chỉ có trách nhiệm với
công việc mà còn là người chu toàn với bạn đường. Khi chỉ còn ông Lừ và ông
Tỉn khiêng phiến đá, dù ngất đi tỉnh lại mấy lần nhưng động lực để cho hai
người vượt qua đó là việc làng việc nước. Với sức mạnh phi thường được khởi
nguồn từ ý thức trách nhiệm, ông đã mang được phiến đá - cột mốc biên giới
của đất nước về đặt trên ngọn núi San Cha Chải. Đẹp xiết bao hình ảnh ông Lừ
địu phiến đá, đó là một bức tranh mà đường viền của bức tranh là những bông
hoa gạo đỏ. Lý A Lừ - nhân vật mang trong mình lý tưởng thẩm mỹ và con
người thời đại của Ma Văn Kháng, đã trở thành một hình mẫu lý tưởng của cái
đẹp. Cuộc đời này cần có những con người như vậy.
Ông lão Sìn trong “Những chiếc chum bạc” vốn là gia nô của thổ ti Sể
Cồ Siu “đã ngoại bảy mươi, người bé nhỏ, xấu xí và còm cõi”[17, tr.119]. Giờ
đây, dù cái dương cơ bề thế của thổ ti họ Sể đã trở thành đống đổ nát hoang tàn
nhưng bao năm nay rồi, ông chẳng chịu rời bỏ cái khu nhà hoang vắng này.
Ông chỉ cười mỗi khi mọi người thắc mắc không hiểu vì sao lại như vậy. Cũng
có người nghi ngờ, dị nghị: “Chẳng lẽ là dở người, trái tính trái nết? hay đó là
thói ươn hèn, ngại đổi thay, chỉ biết tuân theo sự an bài cố định? Hay ngu đần,
mê muội đến mức thủy chung như nhất trong cái danh phận tôi đòi, tình nguyện
làm kẻ giữ nhà cho ông chủ họ Sể đã cao chạy xa bay” [17, tr.123]. Bỏ qua tất
cả những lời đồn thổi, dị nghị đó của mọi người, ông vẫn quyết bám trụ với
58 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mảnh đất này. Thông qua cuộc đối thoại với Sể Cồ Sán - cái rễ con của dòng họ
Sể, ta thấy quan niệm sống của ông thật đúng đắn: “Cá sống với nhau trong
nước, người sống với nhau trong đạo lý” và “đất chẳng chở riêng ai, trời
chẳng che riêng ai”. Ông cho rằng: “không ai là kẻ thù của ai suốt đời
được”[17, tr.130] mỗi người cần chọn cho mình lẽ đời để sống. Vậy là cái lẽ
đời mà ông nhẫn nại theo đuổi, kiếm tìm âm thầm bao năm đó chính là: “Giữa
hủm đất mới đào hiện lên những chiếc chum sành miệng mở tròn long lánh bạc
vàng. Đó là của cải dòng họ Sể cướp bóc của dân chúng suốt mấy trăm năm
dòng, đã chôn giấu mấy chục năm trước” [17, tr.133]. Theo ông, sống là phải
trả hết món nợ nào có thể trả được, bằng việc chuộc lại lỗi lầm xưa. Tất cả
những kẻ đã gây ra tội lỗi cần phải trả món nợ cho đời. Và ông đã hoàn thành
được nhiệm vụ thanh toán nợ nần với đời giúp cha con thổ ti họ Sể. Thành quả
của sự chờ đợi, kiếm tìm của ông hơn ba mươi năm nay đã giải thích cho
những gì mà người ta hoài nghi. Gấp trang sách, người đọc thêm trân trọng và
cảm phục một con người tuy bề ngoài thô sơ, đơn giản nhưng ẩn chứa bên
trong là tấm lòng nhân hậu, vị tha.
Bên cạnh đó, trong “Vùng sâu vùng xa” chúng ta còn bắt gặp những con
người hiền lành, tốt bụng, thật thà như chị em Liêu, Phin. Hai chị em vừa là hai
cá thể, vừa là đại diện cho tấm lòng của bà con ba chục gia đình ở Phiềng La.
Muốn đến với vùng sâu Phiềng La, từ huyện lỵ, từ tỉnh lộ phải đi bộ hai ngày
đường, phải lội qua mười con suối lớn và leo qua mười ngọn núi cao. Nhưng
người dân nơi đây hết lòng giúp đỡ những người khác mà không nhận tiền công
bởi “lòng tốt chỉ đổi lấy lòng tốt” [17, tr.199].
Trong truyện ngắn “Đỉa bám chân ai”, ông lão Xuyển cả đời nghiện
thuốc phiện đã làm khổ vợ con. Những tưởng ông sẽ không bao giờ bỏ được
“nàng tiên nâu” song nhờ nghị lực mà ông Xuyển quyết tâm cai nghiện để
xứng đáng với sự hi sinh của anh công an xã Thào A Sẩu. Ông cai nghiện bằng
cách tự mình đóng một chiếc cũi với hy vọng nó sẽ giúp chế ngự được những
cơn thèm thuốc: “Lão Xuyển đã chui vào cũi, bấm khóa gang và rút chìa, ném
59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tọt xuống ao”. Đã qua một ngày đêm không hút thuốc, lão Xuyển lên cơn vật
vã đau đớn: “Mắt lão đỏ ké. Rớt rãi nhễu ra hai bên mép. Lão nhe răng gầm
ghè rồi bất chợt chồm dậy, há miệng ngoạm răng vào cây chấn song…”
[17, tr.267-268]. Lão Xuyển đau đớn về thể xác, bức bối về tâm hồn nhưng
không quên lời khuyên của Thào A Sẩu. Dù trình độ nhận thức của những
người dân miền núi còn thấp nhưng nghị lực sống, quyết tâm trở thành một
người tốt của họ giúp ta càng thêm yêu quý, trân trọng. Con người ta không ai
hoàn hảo, cả hai mặt tốt, xấu cùng tồn tại, có những lúc vì hoàn cảnh, vì không
làm chủ được bản thân mà sa ngã. Điều quan trọng là mỗi người tự nhìn nhận
lại chính mình, phát huy điểm tốt, chế ngự thói xấu, vượt qua khó khăn một
cách dũng cảm, kiên cường. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Khải: “Ở đời
không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức
mạnh để bước qua những ranh giới ấy” (“Mùa lạc”).
Ở “San Cha Chải”, người đọc không quên được hình ảnh của Mo
Chúng. Mo Chúng tiếng là làm nghề tâm linh nhưng từ lâu hình như đã thôi
cúng lễ, biết làm giàu từ cây tam thất rừng. Mo Chúng sáu mươi tuổi nhưng
“lúc nào cũng luôn chân luôn tay”, và là người “giàu có tiền bạc và trí khôn, là
nhà thông thái, bậc thánh triết dân gian” [17, tr.62]. Mo Chúng là người có
vốn hiểu biết sâu sắc về con người và sự vật. Ông cũng rất vững tin ở tương lai
“cái gì đến, nó khắc đến”. Mo Chúng là già làng, là người dẫn đường chỉ lối
cho người dân San Cha Chải, cho Pao. Theo Mo Chúng: “cái xấu, cái ác là cái
ích kỉ nhằm hại người nên nó phải khôn ranh quỷ quái. Cái tốt đẹp là cái hiền
hậu. Nó là cái khởi thủy. Có điều nó phải chuyển động, tự khôn lớn dần lên để
trở nên có ích” [17, tr.79]
Qua những câu chuyện trên, Ma Văn Kháng đã tập trung làm nổi bật
những phẩm chất tốt đẹp của người dân miền núi: hiền lành, chất phác, nhân
hậu, tinh thần trách nhiệm cao.
2.4.4.2. Người chiến sĩ an ninh dũng cảm, thông minh
60 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trong các sáng tác của mình, Ma Văn Kháng cũng dành sự quan tâm
đặc biệt đến việc khắc họa hình tượng người chiến sĩ trên mặt trận an ninh với
những phẩm chất cao đẹp giàu đức hy sinh, giàu lòng vị tha, dũng cảm, kiên
cường, nhất quán trong suy nghĩ và hành động. Họ luôn nêu cao tinh thần trách
nhiệm bảo vệ, giữ gìn cuộc sống bình yên cho người dân. Cùng với các tiểu
thuyết Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Bóng đêm, Bến bờ, nhà văn còn
quan tâm tới đề tài này thông qua các truyện ngắn: “San Cha Chải”, “Mùa săn
ở Na Le”, “Bí mật nghiệp vụ”, “Cỏ hoang”, “Đỉa bám chân ai”, “Người có
khuôn mặt giống vợ anh”, “Hương hoa Đà Lạt”.
Trong cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, không phải lúc nào thuận
lợi cũng thuộc về phía ta và thắng lợi giành được là dễ dàng. Bọn tội phạm
không từ một thủ đoạn đê hèn nào để chống trả quyết liệt. Thương tích, hi sinh
là điều không thể tránh được nhưng trận chiến đấu với các thế lực hắc ám
không vì thế mà dừng lại. Trưởng công an xã Thào A Sẩu trong “Đỉa bám chân
ai” là người được dân giao phó trách nhiệm giữ gìn trật tự trị an ở làng Quán
Dín Ngài. Anh là người có trách nhiệm trong công việc: “đến tất cả các hộ
trong xã, gõ từng nhà, rà từng người” khuyên giải mọi người từ bỏ “thứ cơm
đen ma quỷ” để đến lớp cai nghiện của xã. Nhờ anh mà lão Xuyển - một người
nghiện thuốc phiện từ năm mười hai tuổi nay đã lên lão bảy mươi có thêm
quyết tâm cai nghiện “Đỉa bám chân ai thì phải tự gỡ lấy”. Nhưng cũng vì thế
mà bọn buôn ma túy đã đe dọa Sẩu: cắm nhiều bơm tiêm ma túy trên cửa nhà,
vẽ hình Sẩu “cưỡi ngựa bị một dòng đạn năm viên bắn vào ngực lên tờ giấy rồi
dán vào cánh cửa” [17, tr.260]. Trong một lần đi truy kích bắt bọn buôn lậu
thuốc phiện có vũ khí ở thôn Tả Chải, anh đã bị chúng bắn chết. Cái chết của
anh đã để lại nỗi xót thương cho bao người. Quả thật, để chống lại cái ác thì cái
giá phải trả là vô giá.
Qua truyện ngắn “Hương hoa Đà Lạt”, người đọc nhận ra sự thông
minh, dũng cảm của những chiến sĩ an ninh trên mặt trận đấu tranh với cái xấu,
cái ác. Tên cướp Lê Văn Kình - tên cướp gian ác khét tiếng đã gây biết bao tội
61 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ác dã man đã trở thành nỗi kinh hoàng cho mọi người. Lệnh truy nã phát ra
nhưng hắn vẫn im bặt. Trước những tội ác dã man của tên Kình, một đơn vị
quân đội phối hợp với công an tỉnh và trung ương tiến hành cuộc ra quân vây
bắt ròng rã hơn một tháng trời, sục vào từng ngóc ngách khu rừng nơi Kình ẩn
náu. Ba lần bị vồ trượt, Kình hung hãn bắn trả và chạy vào các tỉnh phía Nam.
Nghiên cứu các mối quan hệ của Kình, thấy y có thể trốn vào Đà Lạt, nhân vật
T đã được cấp trên cử vào Đà Lạt truy tìm hung thủ. Quả thật nhờ sự thông
minh, nhạy bén và kinh nghiệm mà T đã phát hiện tên Kình đang nương nhờ tại
nhà một người phụ nữ đồng hương ở Đà Lạt. Hắn còn bỉ ổi lợi dụng tình cảm
để ăn nằm với chị đồng thời cũng là để gây dựng cơ sở đảm bảo cho việc lẩn
trốn của hắn. Nhờ người đàn bà này che chở, hắn đã trốn thoát khỏi sự truy bắt
của công an. Nhưng lưới trời lồng lộng, dẫu tên Kình có xảo quyệt, biến hóa
như quỷ quái thì cuối cùng T và đồng đội đã tóm gọn hắn ở bến phà Mỹ Thuận.
Nhân vật Pao trong “San Cha Chải”, cậu học sinh mười sáu tuổi nhờ sự
giáo dục, dạy dỗ tận tụy của thầy Tính và sự quan tâm, nhắc nhở của bậc cha
anh đã nhiệt tình tham gia lực lượng an ninh.Vì dễ thương người nên Pao để
xổng kẻ gian là Cư A Cấu nên liên tục trong 5 năm, Pao tìm mọi cách bắt tên
Cấu ra chịu tội, trừ cái họa cho dân làng. Còn nhân vật Quân - phó ban công an
xã, người lo việc an ninh thôn bản trong “Mùa săn ở Na Le” đã trừ được cái
tinh hổ dữ cho buôn làng, cứu được anh họa sĩ và ông mình khỏi bị kẻ ác sát
hại. Quân là hiện thân của những người anh hùng trong những bộ sử thi xưa đã
đưa bộ tộc của mình thoát ra khỏi vòng nguy hiểm, ra khỏi sự đe dọa của cái
xấu, cái ác.
Trong truyện ngắn “Bí mật nghiệp vụ”, nhiệm vụ được đặt ra với Điền -
một chiến sĩ công an là phải tìm cách lọt vào đường dây buôn bán ma túy của
tên Sùng gà “thực hiện một cuộc đấu cân não, một cuộc sống lưỡng diện đầy
bất trắc nguy hiểm”. Điền hiểu công việc cao cả, trọng đại mà mình sẽ dấn thân
và sẵn sàng hy sinh quên mình vì nghĩa lớn: “Tôi không sợ nguy hiểm, không
sợ hy sinh” [17, tr232]. Anh khôn khéo và quả cảm tham gia vào đường dây
62 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
buôn ma túy và được bọn chúng tin cẩn. Ma túy như một con rắn độc nhiều đầu
đã gây ra quá nhiều tác hại, không thể không bị trừng trị. Bởi vậy, Điền cùng
đồng đội, dưới sự điều hành trực tiếp của đội trưởng đặc nhiệm bên Cục phòng
chống ma túy, đã thâm nhập được vào hang ổ của bọn chúng. Lần lượt các tên
Phàn, Liệu, Sùng bị bắt và chịu tội trước pháp luật. Có thể thấy rằng, Điền
không chỉ thông minh, dũng cảm mà còn giàu lòng trắc ẩn, nhất là với những
phụ nữ đang mang thai.
Chiến sĩ trinh sát Tùng trong “Người có khuôn mặt giống vợ anh” trăn
trở, ám ảnh, day dứt trước cái chết của một cô gái trẻ. Anh căm giận những kẻ
bất lương đã gây ra tội ác dã man, mong sao sớm tìm ra thủ phạm để bắt chúng
phải đền tội. Đấu tranh diệt trừ cái xấu, cái ác đó là những việc mà các chiến sĩ
công an hàng ngày, hàng giờ vẫn làm để đem lại sự bình yên cho nhân dân.
Điều đó còn được thể hiện ở nhân vật Thoan trong “Cỏ hoang”. Trân trọng biết
bao trước những tấm lòng cao cả vì nghĩa quên thân, vì dân quên mình.
Thông qua việc xây dựng nhân vật người chiến sĩ an ninh dũng cảm, kiên
cường, thông minh, Ma Văn Kháng đã ca ngợi, tôn vinh sự hy sinh thầm lặng
của họ vì cuộc sống bình yên của nhân dân.
Tiểu kết chƣơng 2
Ma Văn Kháng đã xây dựng một thế giới nhân vật rất phong phú về số
lượng, về phẩm chất đạo đức, về tính cách. So với văn học giai đoạn trước,
nhân vật trong truyện ngắn và truyện vừa của Ma văn Kháng thời kỳ sau đổi
mới hiện lên chân thực, đa dạng và gần gũi hơn. Trong quá trình khảo sát các
nhân vật qua hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già, chúng tôi
đưa ra kiểu loại nhân vật theo tính cách, số phận (bản năng, tha hóa, bi kịch,
phẩm chất tốt đẹp). Con người trong hai tập truyện trên là con người trần thế
với tất cả bản chất tự nhiên của nó như: thiện- ác, tốt - xấu…Việc phân chia các
kiểu loại như trên cũng chỉ mang tính tương đối, bởi trong một nhân vật cũng
63 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
có nhiều nét tính cách đan cài. Chẳng hạn nhân vật Tương Bằng (“Thắp một
tuần hương”), vừa là nhân vật tha hóa, vừa là nhân vật có cuộc sống bi kịch.
Bên cạnh việc khắc họa nhân vật bản năng, tha hóa, bi kịch, nhà văn còn khắc
họa những nhân vật vừa có vẻ đẹp hình thể vừa có vẻ đẹp tâm hồn.
Qua các kiểu nhân vật tiêu biểu đó, Ma Văn Kháng muốn lay tỉnh và đốt
lên trong lòng độc giả một ngọn lửa của tình yêu cuộc sống, tình yêu thương
giữa con người với con người. Nhà văn muốn tìm hiểu căn nguyên của cái xấu,
cái ác, sự tha hóa trong tích cách con người, từ đó mỗi người cần nhìn nhận,
điều chỉnh lại bản thân.
64 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chƣơng 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG HAI TẬP
TRUYỆN SAN CHA CHẢI VÀ XA XÔI THÔN NGỰA GIÀ
CỦA MA VĂN KHÁNG
Văn học là nhân học, là sự hiểu biết, khám phá sáng tạo về con người.
Hệ thống nhân vật là thước đo tầm vóc của nhà văn. Mỗi nhà văn đều có những
sở trường riêng, cách thức riêng trong việc khắc họa nhân vật của mình. Vì thế,
thành công trong việc xây dựng nhân vật chính là sự thành công của tác phẩm
văn học. Nhân vật của Ma Văn Kháng để lại dấu ấn đậm nét trong mỗi trang
viết của nhà văn. Thành công ấy có được một phần quan trọng là ở việc xây
dựng, khắc họa chân dung nhân vật. Những khía cạnh tiêu biểu mà Ma Văn
Kháng thường sử dụng để xây dựng nhân vật của mình như: miêu tả tâm lý
nhân vật, ngoại hình và hành động, yếu tố tâm linh, ngôn ngữ và giọng điệu.
3.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật
Khi nói đến ngoại hình là nói đến những đặc điểm về hình dáng bên
ngoài, bao gồm: diện mạo, hình dáng, trang phục, cử chỉ, tác phong…Ngoại
hình là thứ ngôn ngữ không lời của nhân vật, tính cách nhân vật phần nào sẽ
được bộc lộ qua ngoại hình. Ngoại hình nhân vật cũng góp phần biểu hiện nội
tâm, đây chính là sự thống nhất giữa cái bên trong và bên ngoài của nhân vật.
Vì vậy, tìm hiểu ngoại hình nhân vật chúng ta sẽ hiểu thêm những nét tính cách
bên trong của nhân vật. Khảo sát hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn
Ngựa Già của Ma Văn Kháng, chúng tôi thấy ông đã rất quan tâm đến diện
mạo của các nhân vật.
Trong văn học, việc miêu tả ngoại hình để từ đó chỉ ra tính cách và số
phận của nhân vật không phải đến Ma Văn Kháng mới xuất hiện. Song Ma Văn
Kháng cho rằng tính cách con người được bộc lộ rõ nhất ở vẻ bề ngoài. Dân
gian ta có câu: “trông mặt mà bắt hình dong”, bởi vậy trong sáng tác của Ma
Văn Kháng, chúng tôi nhận thấy ông đã vận dụng triệt để kinh nghiệm dân gian
ấy. Các nhân vật thường có những đặc điểm khác nhau về nét mặt, dáng người,
65 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
qua đó thể hiện tính cách, bản chất của nhân vật quan niệm về con người của
các nhà văn.
Những nhân vật tha hóa lưu manh thường có ngoại hình xấu, thậm chí dị
hình, dị dạng. Nhà văn đã miêu tả ngoại hình của Khun trong “Vệ sĩ của quan
châu” - ngoại hình của một con người thuở hồng hoang, là sự hiện diện của tăm
tối, u mê, tàn bạo, của bản năng rừng rú bạo liệt thuở khai thiên. Hồi còn bé
“nó đen đúa và xấu xí hơn những đứa trẻ khác”, lớn lên là vệ sĩ cho quan châu
Vàng A Ký hắn có dáng vẻ của “quỷ sứ cỡ siêu đẳng. Thấp, lùn, hai chân đã
cái cao cái thấp lại khuệnh khoạng, vòng kiềng. Một mắt lép, một tai không
vành. Cả cái mặt cũng nham nhở như cái đầu lâu bị khoét, gặm dở dang, vì chỗ
nào cũng thấy có vết sẹo, vết xây xước, vết dao chém. Cái sọ người gớm ghiếc
ấy cuối cùng lọt thỏm vào đám tóc, râu, lông lá rậm bù, hôi rình. Chẳng phải
thông thạo thuật tướng số mới nói được về con người Khun. Cái mặt ấy là trang lý
lịch đời Khun, là cái bức dư đồ của hành trình đời Khun…” [17, tr.12- 13]. Diện
mạo của Khun là nỗi ám ảnh ghê sợ rùng rợn đối với người đọc. Nó giúp ta liên
tưởng tới ngoại hình của Chí Phèo - “con quỷ dữ làng Vũ Đại” trong tác phẩm
cùng tên của Nam Cao. Chỉ có điều ở nhân vật Chí Phèo phần “người” vẫn còn,
Chí khao khát hoàn lương. Khun bạo liệt tàn nhẫn, không ý thức được những
hành động của mình, phần “con” ngự trị, lấn át.
Chân dung của Cư A Cấu trong “San Cha Chải” đã đủ nói lên tính cách
của một kẻ tha hóa, lêu lổng, vừa nghiện hút vừa chuyên trộm cắp vặt, làm hại
người khác: “Cấu lẻo khoẻo, tiểu nhân lộ tướng, da dẻ quánh chắc. Đầu hói,
mũi khoằm, mặt rỗ, mắt rắn, bao nhiêu tinh tướng ác nghiệt giờ hiện ra cả”
[17, tr.67]. Tướng mạo của Cấu lộ rõ tâm địa độc ác lắm mưu ma chước quỷ,
gian ngoan, xảo trá, mông muội, u tối. A Cấu chính là “cơn gió độc”, “cây thuốc
phiện” đem bệnh tật, dông bão đến phá vỡ cuộc sống bình yên ở San Cha Chải.
Còn đây là Sể Cồ Sán - con trai của thổ ty Sề Cổ Siu trong “Những chiếc
chum bạc”: “Cái đầu hói hai bên, cái mũi ác điểu, đôi môi bậm trễ hai mép,
những nét đặc trưng của dòng giống, nhưng đã biến dị đi, gây ấn tượng ma
66 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
quái hơn là thực thể…Sán nhếch mép, cái cười của dòng giống, vừa ranh mãnh
vừa tự thị” [17, tr.125]. Sau quãng thời gian đi tù, nay Sán trở về với mục đích
tìm lại của cải dòng họ Sể đã cướp bóc của dân chúng trước đây: “Sán như một
hoàng hôn sắp nổi cơn giông tố. Đồng tử ở hai con mắt Sán vừa tiết ra những
tia sáng quái dị” Quả thật ngoại hình đã nói lên tính cách của con người. Hắn
trở thành một con thú hung ác khi phát hiện ra kho báu được chôn dưới đất.
Ngoại hình của Mã Đại Câu trong “Mã Đại Câu, người quét chợ Mường
Cang”: “Người cao chừng thước rưỡi, da đen sạm, quắt như cái roi trâu, cóc
cáy đóng vảy như xưa rày chưa hề biết tắm táp rửa ráy là gì. Đặc sắc nhất là
cái đầu to quá khổ, do nặng quá nên cứ phải ngoẹo như là ngả trên vai. Các bộ
phận trên mặt lão thì thế này: Mắt trắng dã, mồm hõm, răng vẹo vọ, má trái bị
một vết sẹo xẻ đôi, cái tai phải cụt, đôi môi trơn lì như hai vết sẹo và thâm đen”
[17, tr.137]. Khuôn mặt của Mã Đại Câu dị dạng nên chẳng gây được thiện
cảm, người dân Mường Cang suy đoán. Qua những chi tiết miêu tả ngoại hình,
người đọc cảm nhận được một Mã Đại Câu vừa khôn vừa dại và ngờ nghệch.
Như vậy, sự tác động của đời sống xã hội khiến con người ta bị tha hóa về đạo
đức, nhân cách.
Ta không thể quên hình ảnh của ông giám đốc nông trường trong “Ông
lão gác vườn và chó Phúm”, với vẻ “tráng kiện, mặt ngắn, mũi tẹt, môi dày rất
khó xác định tư chất” [17, tr.221]. Đó là con người giả tạo, khoác lác, bất tài,
tham lam và sống vị kỉ. Tên giám đốc này cho người ta cái cảm giác khinh bỉ
trước lối ăn nói bỗ bã xô bồ và cái kiểu cười “khặc khặc…héhéhé…”
Qua một vài nhân vật phân tích ở trên, có thể thấy những nhân vật ác
tâm, ác tướng đã được nhà văn miêu tả ngoại hình, tướng mạo với những chi
tiết chọn lọc kĩ càng. Chỉ qua vài chi tiết miêu tả mà toàn bộ tính cách, bản chất
nhân vật đã được bộc lộ rõ ràng, cụ thể mà không cần những câu văn giải thích
trực tiếp, dài dòng. Đó là những chi tiết ngoại hình đắt giá góp phần thể hiện
quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn.
67 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trái ngược với kiểu nhân vật trên, trong sáng tác của Ma Văn Kháng ta
còn bắt gặp những nhân vật có dáng vẻ thanh cao, sáng sủa - những người tốt
tính, phúc hậu. Vì thế nhân vật của Ma Văn Kháng dù phức tạp đến đâu, biểu
hiện như thế nào thì “sau khi tiếp xúc người đọc cũng có thể nhận diện được
ngay nhân vật ấy thuộc hạng người nào, cao thượng hay đê tiện, độc ác hay
nhân từ, ích kỉ hay hảo tâm…” [13]. Nhân vật Pao trong “San Cha Chải” hiện
lên với ngoại hình đẹp đẽ, cân đối hài hòa của một chàng trai mới lớn. Từ
khuôn mặt sáng “rõ hơn là hai con mắt một mí, cái cằm vuông và gò mũi
thẳng” cho đến thân hình “tròn trĩnh, dáng thẳng” [17, tr.63]. Mỗi đường nét
trên mặt Pao không hề mảy may một gợn đục, một nét gì khuất tất. Cái đẹp tâm
hồn trẻ trung, trong sáng, cái thần thái khôi ngô “chất phác hồn hậu” cứ rạng
ngời trên khuôn mặt Pao. Pao giống như sản phẩm hoàn thiện của tự nhiên, là
sự kết tinh những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên. Điều đó làm nên nét độc đáo,
đặc sắc trong nghệ thuật miêu tả con người, nhất là những con người sống ở
miền núi trong sáng tác của Ma Văn Kháng.
Bên cạnh Pao, trong “Mùa săn ở Na Le” ta còn bắt gặp vẻ đẹp hoàn hảo
của Quân: “Quân cao lớn, cân đối. Bắp tay, bắp chân, độ vồng khuôn
ngực…tất cả đều hoàn hảo như khuôn mẫu”. Đó là thân hình, còn khuôn mặt:
“Cái tác phẩm tuyệt đẹp ấy tỏa sáng cái cá tính đặc sắc nhất, tinh túy nhất của
linh hồn Quân. Ý chí phi thường bắt nguồn từ một chiều sâu nội lực rất kín
đáo, chỉ thấp thoáng ở đôi ba đường nét hiện hiện trên gương mặt anh ”
[17, tr.155]. Vẻ đẹp đó là sự kết tinh của những gì tinh túy, là sự rắn rỏi, là sự
hòa quyện của núi rừng. Đó là vẻ đẹp của sức mạnh phi thường, dũng mãnh bởi
chính anh đã trừ được cái họa cho dân làng của mình.
Trong “Cỏ hoang”, cá tính và phẩm chất của ông Thoan được hiện lên
qua “khuôn miệng trành rộng, cười thật hiền lành”. Vợ mất đã hơn chục năm
nhưng ông âm thầm cảnh gà trống nuôi cô con gái lớn khôn, trưởng thành. Đó
là: “một người đàn ông tính tình bình đạm mà sâu sắc, coi trọng sự chiêm
nghiệm và tư duy mà không cao đạo, mà vẫn gần gụi với đời thường”. Ông đã
68 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đề xuất ra cuộc tìm kiếm dấu vết của “chiếc vỏ đạn khẩu K 59, bằng chứng của
một tội ác đang manh nha, cần và có thể chặn đứng” [17, tr.256]. Quả thật, ông
Thoan chính là người của công việc, ông chống lại cái ác bằng trí tuệ, biết chọn
thời điểm để đột phá giành thắng lợi mà ít tốn công sức. Ông đã thực hiện tốt
chức năng của ngành công an là đề phòng không cho tội ác có cơ hoành hành.
Còn nhân vật Thào A Sẩu - trưởng công an xã Quán Dín Ngài đã được giới
thiệu qua vài nét phác họa nhưng đã phản ánh được phẩm chất của nhân vật.
“Sẩu tuổi mới ba mươi, đi bộ đội về, chưa vợ con, vóc dạc như cây pơ mu tơ,
mặt vuông, tai tròn,mắt sáng, tính tình quả quyết, tiếng nói vang rền như vọng
vào vách đá” [17, tr.260]. Đó là một người tốt, đấu tranh chống cái xấu, cái ác
để đem lại cuộc sống bình yên cho người dân trong bản. Và đây là nhân vật
Điền trong “Bí mật nghiệp vụ”: “mắt một mí, cặp mày đen rậm im phắc. Gương
mặt vuông vắn nắng gió bào rũa ngăm ngăm nguyên vẹn vẻ sâu trầm. Hai cánh
mũi phập phồng nổi góc nổi cạnh” [17, tr.232]. Vẻ ngoài đó đã nói lên tính
cách thâm trầm của người chiến sĩ công an.
Như vậy khi miêu tả ngoại hình, Ma Văn Kháng thường chú ý tới những
chi tiết tả chân dung nhân vật, qua đó thấy được phần nào tính cách: cứng rắn,
thẳng thắn, không dễ khuất phục. Đó còn là nhân vật Giàng Tả trong “Giàng
Tả, kẻ lang thang”: “Cũng là da thịt mà da thịt Giàng Tả như sắt như đồng. Vai
Giàng Tả rộng gấp rưỡi vai người, ngực phồng như hai quả gò, bả vai nổi u
xương. Cái cổ, cái đầu còn lạ hơn, thẳng đơ một đường, không biết gục xuống
chịu lụy ai, lúc nào cũng như quyết giữ thẳng, bành ra, to bằng mặt, trông
thẳng như một khối đúc liền, với vài ba nét mắt, miệng, mũi, ngắn nhỏ, đơn sơ”
[17, tr.22]. Chỉ vài ba nét tả chân dung, tác giả tạo ấn tượng ban đầu về tính
cách và cuộc đời của nhân vật, qua đó tái hiện Giàng Tả như một biểu tượng
cho sức khỏe của con người.
Ở hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già, người đọc còn
ấn tượng với những trang văn tác giả miêu tả vẻ đẹp phồn thực mỡ màng của
những người phụ nữ từ thành thị đến nông thôn miền núi. Trong “Xa xôi Thôn
69 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Ngựa Già”, vẻ đẹp của cô Loan được miêu tả: “Người phụ nữ tuổi ngót năm
mươi có khuôn mặt tròn trịa, mái tóc đen nhánh rẽ ngôi giữa còn trẻ hơn tuổi,
đoan trang và đẹp một vẻ đẹp cổ điển. Cô có cặp mắt phượng và làn môi đỏ.
Với cái khăn voan màu hồng quấn hờ nơi cổ và những búp tóc to uốn điện, thật
duyên dáng và trẻ trung” [18, tr.204]. Đó là vẻ đẹp vừa hiện đại vừa truyền
thống của một người phụ nữ thành thị. Cô giáo Loan thuần hậu, khéo léo và rất
có duyên đã trở thành đối tượng có sức thu hút nhiều vị chức sắc cao niên.
Người đọc nhận ra vẻ đẹp của cô Xuân trong “Cánh bướm tím”: “Tươi
đẹp và nhuần nhị ở tuổi bốn mươi, rồi cứ trẻ trung mãi với vóc dáng đàn bà
vừa nảy nở trọn vẹn, vừa gợi cảm hồn nhiên, bà Xuân là một tính cách phụ nữ
đặc sắc. Mạnh bạo và khéo léo, sõi việc đời, nhưng thấu tình đạt lý” [18, tr.113]. Vẻ
đẹp ngoại hình đã phần nào nói lên tính cách của người phụ nữ này.
Ngoài ra, những người phụ nữ trong sáng tác của Ma văn Kháng còn có
điểm chung là đẹp nhưng khác nhau về cảnh ngộ, số phận, trái ngược với
những gì mà tạo hóa đã ban cho họ ở vẻ bề ngoài. Sự thể hiện của Ma Văn
Kháng đối với những kiểu nhân vật này là sự thể hiện cho quan niệm nghệ
thuật về con người đa diện, nhiều chiều, nhỏ bé hữu hạn của nhà văn.Vẻ đẹp
của Seo Ly trong “Seo Ly, kẻ khuấy động tình trường” đã được nhà văn miêu
tả thông qua thủ pháp thậm xưng, cường điệu, ước lệ đã tôn lên vẻ đẹp phi
thường - một tuyệt phẩm của tạo hóa. Seo Ly: “là một thiếu phụ viên mãn trọn
vẹn. Vóc dáng nàng đã thuần thục nảy nở hết độ…được định hình như những
tuyệt phẩm của tạo hóa. Nổi bật trên cơ thể nàng là eo hông mượt mà và bầu
ngực tràn trề sinh lực phồn thực…và cùng hòa phối với chúng, mắt nàng biếc
xanh màu núi lung liêng, môi nàng hé mở đầy vẻ mời mọc gợi tình” [18, tr.9].
Vẻ đẹp ấy xứng đáng được hưởng một cuộc sống đủ đầy. Thế nhưng cuộc đời,
số phận nàng lại bị săn đuổi, chiếm đoạt vùi dập ê chề nhục nhã.
Trong “Bí mật nghiệp vụ”, vợ của Sùng và Phàn được tác giả giới thiệu
chỉ qua vài nét nhưng cũng đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp của họ.Vợ Phàn
dưới cái nhìn của Sùng và Điền: “một khuôn mặt trắng phau, có cái răng mọc
70 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
lẫy…Mặt trái xoan,mắt sáng, môi đỏ mọng, thon thả một thân hình cân đối”,vợ
Sùng cũng vậy “chiếc răng khểnh vừa duyên dáng vừa nanh nọc” [17, tr.243].
Đẹp nhưng số phận trớ trêu, làm vợ của những kẻ buôn bán thuốc phiện. Còn
Duyên trong “Hương hoa Đà Lạt” bên cạnh vẻ đẹp về ngoại hình là vẻ đẹp của
con người lao động hăng say, cần mẫn trong lao động hàng ngày. “Gương mặt
tròn xinh, hai má đỏ rạn, đôi môi mọng chín, cái cằm chẽ đôi cùng vóc người
nở nang, khuôn ngực đầy, eo hông rộng biểu hiện đầy đủ vẻ sung mãn và phồn
thực của người đàn bà đang ở thời đoạn hồi xuân mãnh liệt” [17, tr.280].
Duyên đẹp, lại là chủ nhân của năm hécta đất vườn trồng rau lẽ ra được hưởng
hạnh phúc nhưng chồng đã chết bệnh, nay lại vướng vào lưới tình của tên tội
phạm nguy hiểm đang bị truy nã toàn quốc.
Mỗi nhân vật trong hai tập truyện trên của Ma Văn Kháng đều hiện lên
với một dáng vẻ riêng, ngoại hình riêng, qua đó người đọc nhận ra được tính
cách của nhân vật. Tuy nhiên cũng có những nhân vật mà ngoại hình không
phải là thước đo, là chuẩn mực để phán xử, đánh giá về nhân cách. Nhà văn
luôn nhìn nhân vật dưới cái nhìn đa chiều của cuộc sống, bởi vậy thế giới nhân
vật hiện lên chân thực, sống động và có sức ám ảnh đối với người đọc. Đó cũng
là biệt tài của Ma Văn Kháng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Bên cạnh
việc miêu tả ngoại hình, tác giả cũng rất quan tâm trong việc miêu tả hành
động, nội tâm nhân vật để qua đó bộc lộ tính cách.
3.2. Miêu tả nhân vật qua hành động
Ma Văn Kháng luôn đặt nhân vật của mình trong mối quan hệ với môi
trường hoàn cảnh sống, trong mối quan hệ tác động giữa các nhân vật, từ đó
làm nổi bật hành động của các nhân vật. Môi trường được xem là cái nôi để qua
đó nhân vật suy nghĩ, hành động và bộc lộ tính cách. Mỗi nhân vật khi làm bất
cứ điều gì, hành động như thế nào đều đã một phần thể hiện tính cách của
mình. Một trong những thủ pháp cơ bản được nhà văn sử dụng để xây dựng
nhân vật đó là miêu tả hành động. Hành động được xem như là kết quả cuối
cùng của quá trình nhận thức, tâm lý, tình cảm.
71 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trước hết, trong “Đỉa bám chân ai” thông qua hành động mà người đọc
nhận ra Thào A Sẩu - trưởng công an xã Quán Dín Ngài là người tính tình quả
quyết, lời nói đi đôi với việc làm, quyết tâm trừ cái xấu, cái ác cho bản làng
mình. Khi nhận được tin cấp báo đi phục kích bắt bọn buôn lậu thuốc phiện có
vũ khí ở thôn Tả Chải. “Anh chụp mũ lên đầu, khoác súng vào vai, nhảy lên
lưng ngựa”[17, tr.263]. Bọn buôn lậu đã chống trả quyết liệt “thình lình xả cả
cả một băng đạn vào khuôn ngực vạm vỡ của anh”. Trước khi ngã xuống “anh
vẫn còn dồn được sức lao đến ôm ghì tên trùm để đồng đội phía sau tiến lên
bắt giữ” [17, tr.264]. Chính sự hy sinh của anh Sẩu đã khiến cho lão Xuyển -
một người nghiện thuốc phiện lâu năm đã có thêm quyết tâm từ bỏ “nàng tiên
nâu”. Lão ngồi thừ bên bên bếp lửa một ngày, sáng hôm sau trở dậy, kiếm gỗ
rồi cặm cụi suốt đêm một mình đóng chiếc cũi, tự biến mình thành tù nhân.
Hành động này của lão Xuyển khiến bà vợ băn khoăn, không hiểu ông lão đang
làm gì. Và rồi“Lão Xuyển đã chui vào cũi, bấm khóa gang và rút chìa, ném tọt
xuống ao. Lão Xuyển chui vào cũi tự nhốt mình” [17, tr.267]. Lão tự nhốt mình,
tự đày ải mình để chế ngự những cơn thèm thuốc đến vật vã, đau đớn. Hành
động đó chứng tỏ lão Xuyển rất nghị lực và dũng cảm. Đó là sự thức tỉnh của
con người để quay về với cộng đồng, tự gột rửa thanh lọc bản thân, đúng như
lời anh Sẩu đã nói “Đỉa bám chân ai thì phải tự gỡ lấy”.
Nhân vật Lý A Lừ trong “Hoa gạo đỏ” lại được khắc họa qua hành động
kề vai, cõng phiến đá nặng trên lưng, băng rừng vượt suối để đưa báu vật của
vua về với bản làng của mình. “Ông Lừ đã dựng phiến đá dậy, đặt nó vào hai
sợi dây da. Ngồi xuống, áp lưng vào phiến đá, ngoằng hai đầu dây vào vai, tay
nắm hai đầu dây còn lại, nhịn hơi, mặt căng nhức, ông Lừ từ từ đứng lên trên
hai đầu gối run lẩy bẩy chỉ chực trẹo trọ gẫy khục. Nhưng mà không, ông Lừ
đã đứng dậy được. Ông đã bước đi. Loạng choạng mấy bước đầu, nhưng ngay
ngắn dần. Ông quàng sợi dây da lên trán. Đầu ông giờ là cái cọc giữ lấy phiến
đá nặng ” [17, tr.60]. Hành động của ông thật đẹp bởi thông qua đó ta nhận ra
được tính cách, phẩm chất tốt đẹp của người miền núi. Đồng thời hành động đó
72 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đã trở thành biểu tượng của sức mạnh, lòng dũng cảm, sự giản dị chất phác và
tình yêu thương giữa con người với con người. Ngoài ra, trong “Mùa săn ở Na
Le”, hành động giết hổ rồi vác về làng của Quân cho thấy đó là con người dũng
cảm, quyết tâm trừ hại cho dân bản.
Còn trong “Vệ sĩ của quan châu”, tác giả đã miêu tả hành động của Khun
đúng như bản chất con người hắn: bạo liệt và tàn nhẫn. “Mười lăm tuổi nó đã
xung vào đội quân chuyên đi đâm thuê chém mướn của quan châu”. Đáng sợ
hơn khi bà mẹ đi tìm thì thấy Khun đang ở bãi thả ngựa “ở đó có một xác người
ăn mày chết đói. Nó dựng xác người nọ lên và nhảy quanh, cầm gậy đập cho
đến lúc đầu của con người xấu số nọ chỉ còn bằng nắm tay” [17, tr.11]. Khi đã
là vệ sĩ của quan châu, Khun đã “bắn chết thằng bé ăn trộm ngựa bằng tài
thiện xạ và bản năng đánh hơi thú rừng…Hắn thích giết người và không sợ bị
người giết”. Ngay cả khi gần gũi với người đàn bà tên Coỏng thì tình dục, cơn
khoái lạc cực điểm cũng vẫn không che khuất được bản năng đao phủ của
Khun: “hắn cắn cấu, đánh đấm, có lúc gào gầm như hổ báo động cỡn ngay
trong lúc làm tình…” [17, tr.16].
Thông qua sự khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy, hai tập truyện San Cha
Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già của Ma Văn Kháng đã thể hiện được quan niệm
nghệ thuật về con người của nhà văn. Những chi tiết, hành động được chắt lọc,
chọn lựa cẩn thận để phục vụ cho việc xây dựng nhân vật. Tính cách, bản chất
bên trong của nhân vật chủ yếu được bộc lộ qua hành động.
3.3. Miêu tả tâm lý nhân vật
Trong sáng tác của nhà văn, thể hiện tâm lý là “phương thức quan trọng
nhất để chiếm lĩnh đời sống con người bằng văn học nghệ thuật” [32, tr216].
Bởi vậy văn học sau 1975, đặc biệt là sau đổi mới đã đi sâu khai thác thế giới
nội tâm của nhân vật. Đó là những tâm trạng, suy nghĩ, cảm xúc, phản ứng
tâm lý của nhân vật trước tình huống mà nhân vật chứng kiến hoặc đã thể
hiện trên đường đời. Tâm lý nhân vật được nhà văn soi chiếu từ những xao
động nội tâm, những ẩn ức khó giãi bày của nhân vật trước những tình
73 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
huống đáng buồn của hiện tại như quan hệ giữa con người với con người,
quan hệ tình yêu, gia đình…
Xây dựng nhân vật văn học phải sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật
khác nhau, có khi là làm rõ nhân vật qua hoàn cảnh sống, qua việc gián tiếp
miêu tả môi trường, có khi lại làm rõ nhân vật qua mâu thuẫn xung đột…song
có một biện pháp cần thiết nhất là phải đi sâu miêu tả tâm lý nhân vật. Bằng
kinh nghiệm và tài năng của mình, Ma Văn Kháng đã khắc họa được những
nhân vật có đời sống nội tâm phong phú. Dù trẻ hay già, dù nam hay nữ, nông
dân hay trí thức…đều có một quá trình diễn biến tâm lý phức tạp, tinh tế.
Trong “Bí mật nghiệp vụ”, nhân vật Điền suy nghĩ, trăn trở khi thấy nạn
ma túy đang hoành hành khắp nơi. Những gì anh tiếp nhận được trong trường
Đại học An ninh bốn năm ròng chỉ là giọt nước so với một đại dương mênh
mông những điều chưa biết. Để chống lại bọn buôn bán ma túy, Điền phải khôn
khéo lọt được vào đường dây của chúng, thực hiện một cuộc đấu cân não.
Người mà anh tiếp xúc đầu tiên là Phàn - một nhánh nhỏ trong đường dây.
Phàn đã từng thu gom, đã vận chuyển hàng trăm cân thuốc phiện và chục bánh
heroin về các ngả đường dưới xuôi. Điền nhận ra rằng, về bản chất Phàn không
phải là người xấu: “Ôi, ước sao cả cuộc đời Phàn được sống hồn nhiên trong
sạch như thế. Ừ, Phàn có thể được như Điền mong muốn lắm chứ! Phàn chẳng
đã rất cảm động vì việc anh mua thuốc chữa trị căn bệnh bại liệt cho thằng Tả
đó sao? Phàn quý trọng anh thật tình” [17, tr.236]. Rồi đây Phàn sẽ bị bắt, sẽ bị
trừng phạt: “Điền nghĩ đến kết cục ấy, thấy nao nao”. Qua diễn biến tâm lí của
nhân vật, người đọc nhận ra ở Điền - một chiến sĩ công an có tinh thần trách
nhiệm, quyết tâm trừ cái xấu, cái ác, đồng thời cũng là người giàu lòng trắc ẩn.
Trong truyện vừa “Cố Vinh, người xứ lạ”, ta bắt gặp sự giằng xé trong
tâm trạng của cha cố: “Lạy Chúa! Sao con nghe rạo rực trong người quá thế!
Xưa kia, đã có đôi lúc trong giấc mơ có quỷ ám, con đã từng biết tiết chế, kìm
hãm, nay con thật không hiểu trong con đang quẫy động những cám dỗ đê tiện
nhuốc nhơ, hay đang nảy nở những ao ước thần tiên? Lạy Chúa!” [18, tr.92].
74 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Cha cố còn rất trẻ, cuộc sống phàm tục ngài chưa trải qua nhưng ngài luôn bị
ràng buộc bởi nền giáo dục khép kín và khắc kỷ. Khi dục năng trỗi dậy, cố
Vinh không thể kiểm soát được nó để rồi cuối cùng rơi vào bi kịch. Đó cũng là
sự thật về số phận hẩm hiu, bi đát của các hệ thống tín ngưỡng xa lạ; các hệ
thống tín ngưỡng quá mê mải với lý thuyết mà quên đi lẽ tự nhiên của con
người. Cố Vinh chết vì thành thật với chính mình.
Những dòng tâm tư của Lân trong “Người khổ nhất trần gian” cho thấy
Lân là người có tầm suy nghĩ sâu rộng, hiểu lẽ đời. Qua đó giúp cho người đọc
nhận ra rằng: trong cuộc sống nếu cứ đố kị, ghen ghét nhau để rồi rước khổ vào
thân. Mọi thứ chỉ mang tính tương đối: “Vợ Lân sao lại cứ hướng sự tìm tòi vào
cái xấu, cái tồi? Y tức tối, y uất căm vì đời y khổ quá, thiệt thòi quá ư? Hay là y
đã bị thói đạo đức giả lừa dối quá nhiều nên y quyết không tin vào ai nữa và y
có quyền phanh phui, tố cáo?…Nhìn nhận cái gì cũng phải có tầm khái quát,
tổng quan, bao dung rộng lượng. Mà chắc gì kẻ mà ta tưởng là đang sung
sướng lại sung sướng thật? Chắc gì mình ăn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm, lại
là khổ sở thật?” [18, tr.151].
Người đọc còn bắt gặp nhân vật Thoan - một cô gái hiền lành, giàu tình
yêu thương, thiên về đời sống nội tâm trong “Cánh bướm tím”. Mẹ mất sớm,
nay điểm tựa tinh thần là cha cũng không còn, những dòng suy nghĩ miên man
của Thoan không nguôi thương nhớ cha mẹ: “Nhớ mẹ, Thoan nhớ mùi vị thang
thuốc bắc…nhớ những ngón tay mẹ gầy gùa xanh xao”,“Ký ức bắt rễ sâu vào
đời sống. Hình ảnh cha như bức chân dung mỗi lúc một gần cận lại như xa
cách với hình dung của Thoan” [18, tr.106,132]. Bên cạnh đó là nỗi buồn đau
của Thoan khi thấy các anh trai và chị dâu của mình có lối sống thực dụng chỉ
coi trọng đồng tiền. Nỗi buồn đau của kí ức, niềm thương nhớ cha đã khiến
Thoan ốm một trận kéo dài hơn ba tháng.
Có thể thấy rằng, tính cách nhân vật hiện lên thông qua đời sống nội tâm
phong phú. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Ma Văn Kháng dù rất đa dạng
nhưng đã tạo ấn tượng vừa quen vừa lạ như xuất hiện đâu đó xung quanh ta.
75 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nhà văn đã hóa thân vào nhân vật để nói lên những suy tư, trăn trở, những khao
khát thầm kín của họ. Bởi vậy mà những trang viết của Ma Văn Kháng luôn
được đông đảo bạn đọc trân trọng, đón đợi.
Để khắc họa một cách sâu sắc, cụ thể diễn biến tâm lý nhân vật, Ma Văn
Kháng còn sử dụng yếu tố tâm linh để miêu tả. Theo nhà văn Bùi Hiển: Trong
truyện ngắn của mình Ma Văn Kháng thường đề cập đến “thế giới tâm linh của
con người với bao nỗi lo âu, phấp phỏng”. Nếu đời sống tâm linh trong sáng tác
của Nguyễn Minh Châu là vẻ đẹp lung linh tỏa ra từ thẳm sâu tâm hồn, có sức
mạnh thanh lọc tâm hồn con người thì trong truyện ngắn và truyện vừa của Ma
Văn Kháng thế giới tâm linh hướng con người đến giá trị Chân - Thiện - Mỹ.
Yếu tố tâm linh được Ma Văn Kháng khai thác để khám phá sự phát triển tính
cách, sự biến đổi số phận nhân vật, đôi khi còn là sự lý giải cho kết cục của
nhân vật.
Có thể nói, yếu tố tâm linh của người Việt thể hiện trong văn hóa nói
chung là một thế giới tinh thần phong phú, được thể hiện rõ nhất trong văn học
dân gian và văn học viết. Rất nhiều vấn đề thuộc cõi tâm linh đến nay vẫn còn
bí ẩn, khoa học chưa tìm được những giải đáp thỏa đáng. Song trong sáng tác
văn học, sự khám phá thể hiện nó lại dễ được chấp nhận. Chính vì vậy nó đã
góp phần quan trọng trong việc xây dựng quan niệm toàn diện về con người.
Các nhà văn có thiên hướng hiểu tâm linh theo nghĩa rộng.
Tâm linh là tổng thể những “ý nghĩ, tình cảm làm thành đời sống nội
tâm, thế giới bên trong của con người” [30, tr.865]. Ma Văn Kháng nói tới khái
niệm tâm linh ở ngoài phạm vi của cụm từ “mê tín dị đoan”. Tâm linh “là khả
năng, năng lực, nhân tính thiêng liêng của con người phù hợp với cái thiện, cái
đẹp nhưng dường như lại nằm ngoài khu vực của lý trí. Thế giới tâm linh là cõi
huyền hoặc, hư vô, đầy bí ẩn” [25]. Ma Văn Kháng thường tạo ra môi trường
khác lạ, đẩy nhân vật vào cõi hư vô, hoang sơ, Nhân vật sống trong những
trạng thái khác nhau: đang sống thực nhưng cũng như sống trong cõi mộng ảo.
Sự ám ảnh đè nặng tâm lý chi phối mạnh mẽ hành động, suy nghĩ của nhân vật.
76 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trở lại vấn đề nghệ thuật xây dựng nhân vật qua yếu tố tâm linh của Ma
Văn Kháng, ở góc độ luận văn, chúng tôi cố gắng tiếp cận với các dạng biểu
hiện của nó trong truyện ngắn và truyện vừa. Từ đó hệ thống những biểu hiện
của yếu tố tâm linh trong thế giới nhân vật của nhà văn. Trên thực tế, các
sáng tác của Ma Văn Kháng trước 1975 đã có một số truyện ngắn đề cập
đến đời sống tâm linh của con người như: “Con đường chạy về phía xa”,
“ Bông đào đỏ thắm”…
Nhân vật trong truyện ngắn và truyện vừa của Ma Văn Kháng thường bị
ám ảnh bởi định mệnh, nghiệp căn, thường bị chi phối bởi những nguyên nhân
sâu xa nằm trong bản năng, tiềm thức. Trong “Thắp một tuần hương”, nhân vật
Thược luôn bị ám ảnh, lo sợ cho số phận của ông Tương Bằng - người ở cùng
phòng trong khu tập thể. “Lục phủ ngũ tạng ông thảy đều đã suy. Thiên quý đã
hết nên râu tóc bạc cả...ấn đường đã có dấu vết hôn ám” [18, tr.38]. Thược
thấy ái ngại cho ông Bằng vì ông không ý thức rõ hiện tại: “Lý thuyết nhân sinh
đang phổ biến quan niệm rằng: đời người nên chia làm ba giai đoạn. Từ lên một
đến tuổi hăm nhăm là thời kỳ tích lũy dục vọng. Từ hăm nhăm đến ngũ tuần là giai
đoạn sục sôi thực thi dục vọng. Còn sau khi đã qua cái tuổi tri thiên mệnh thì dứt
khoát là phải bước vào thời đoạn tĩnh tâm dần dần” [18, tr.43].
Tin vào số phận, nhân vật Lân trong “Người khổ nhất trần gian” có thái
độ lạc quan, ung dung tự tại, bất chấp những khó khăn thiếu thốn trong cuộc
sống: “Cuộc sống có cái phần không lộ ra của nó. Nhưng như thế không có
nghĩa là đằng sau các sự việc đều là xấu xa, tồi tệ” Lân hài lòng với cuộc sống
tự do của mình, chẳng phải phụ thuộc vào ai. Lân sống kham khổ, tằn tiện đã
quen: “ngày hai bữa cơm rau, năm hai bộ quần áo với vài mét vuông để ở và
làm việc; văn nghiệp của Lân phụng sự cái đẹp”[18, tr.151].Quan niệm đó làm
cho con người vui sống, luôn có cái nhìn biện chứng với mọi sự việc, hiện
tượng. Đó là những điều rất cần thiết trong cuộc đời mỗi con người.
Khi viết về thế giới tinh thần phong phú, bí ẩn của nhân vật, Ma Văn
Kháng hay nói tới giấc mơ. Qua giấc mơ, người đọc nhận ra những nỗi niềm
77 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thầm kín không thể giãi bày, những nỗi sợ hãi dày vò…Giấc mơ trong trạng
thái mê hoặc chính là sự ám ảnh đè nặng tâm lý con người, có ý nghĩa quan
trọng trong biểu đạt tính cách, số phận của họ. Sề Sào Lỉn trong “Móng vuốt
thời gian” liên tiếp một tháng trời: “Đêm nào cũng mơ thấy một đám tang lớn.
Lớn lắm. Vì rợp trời cờ phướn, cành phan. Lại có võng mục, lọng che, linh xa,
kiệu rước. Có cả phường bát âm. Tất cả đều phải đi qua một đống than hồng dài
hơn chín thước. Bên cạnh có mười hai cái đầu trâu. Có một cầu vải dẫn linh hồn
người chết lên trời. Xưa rày chưa thấy có đám ma nào to thế” [17, tr.106]. Trong
giấc mơ, Sề Sào Lỉn nghe thấy các bà lão lần tràng hạt đồng thanh đáp: “Chúng
tôi đưa ông thổ ty Sề Sảo Lỉn về nơi yên nghỉ cuối cùng”. Giấc mơ đó luôn ám
ảnh Sề Sào Lỉn, Lỉn luôn hoang mang lo sợ và chỉ biết ngửa mặt lên kêu trời.
“Giấc mơ của Sề Sào Lỉn là những điềm báo chẳng lành, những dự báo xác
thực về những sự kiện đau buồn sẽ diễn ra trong tương lai gần và xa của nhân
vật” [27]. Dù đã vào tuổi bảy mươi, Lỉn vẫn tìm mọi cách, kể cả hành động
ngông cuồng nhất là chế ngự thời gian, chống lại định mệnh. Điềm báo trong
giấc mơ đã ứng nghiệm, Lỉn chết ngay cả khi lão tìm phương thuốc trường sinh
bất lão.
Thông qua cuộc nói chuyện với bà Xuân, nhân vật Thoan trong “Cánh
bướm tím”, đã nói đến giấc mơ về cha mình: “Cháu cứ đặt mình là mơ thấy
cha cháu. Hôm ba mươi nhăm ngày đưa cha cháu lên chùa, lúc triệu cành
phan, cháu hỏi cha cháu có thiếu gì không. Cụ nói: Không. Hỏi có thiếu tiền
tiêu không? Cụ lắc đầu” [18, tr.103]. Qua giấc mơ mà Thoan có cảm giác được
đối diện với cha, cha đang ở nơi cõi thế xa xôi mà gần gũi xiết bao. Vậy là
người sống và người chết vẫn giao hòa với nhau dường như không còn khoảng
cách âm dương tách biệt. Cũng trong truyện ngắn này, yếu tố tâm linh còn được
thể hiện qua hình ảnh: “con bướm cánh tím điểm trắng, to bằng hai bàn tay từ
đâu bay vào nhà. …Con bướm khai mở một miền đất mới trong cõi tâm linh bí
ẩn của con người”. Qua đó, Ma Văn Kháng muốn đặt ra một tư tưởng, một
quan niệm mới: “ Người chết không còn là người sống. Nhưng cũng không phải
78 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
là người đã chết hẳn, vô tăm tích. Người chết còn tạo lập với người sống mối
liên hệ vô hình và linh thiêng”. [18, tr.138].
Giấc mơ về quá khứ luôn ám ảnh, đè nặng tâm lý của ông Chí trong “Xa
xôi Thôn Ngựa Già”: “ông thiếp đi trong mê man dồn dập những cảnh đời quá
khứ tầng tầng lớp lớp hiện về”. Cũng qua giấc mơ này, người đọc thấy ông
trước đây là con người của công việc “thỏa sức dọc ngang, bận rộn và say mê
ngày đêm với chiến công, với đủ loại công việc, nào dạy dân cày trâu, làm
ruộng nước khai hoang, nào đào mương dẫn nước làm thủy lợi…”[18, tr.204].
Từ sau ngày ông thực hiện cuộc phẫu thuật tim, ông Chí thường có những giấc
mơ kì lạ. Bản thân ông cũng không ngờ mình có giấc mơ đó. Giấc mơ của ông
là sự lắp ghép lộn xộn, đầu Ngô mình Sở nhưng lại dễ hiểu. Ông mơ có những
cuộc ân ái với người vợ đã khuất hơn chục năm nhưng lại nhớ đến cô Loan -
người hàng xóm.Vào cái tuổi xấp xỉ bảy mươi, ông Chí vẫn nhận ra rằng: “đàn
ông một mình không là gì cả. Đàn ông là đích thực khi được bổ sung bằng
người phụ nữ mà anh ta yêu dấu” [18, tr.242]. Giấc mơ chắp nối những điều đã
xảy ra và chưa từng xảy ra, đã trở thành một khắc khoải với ông Chí. Những
tưởng khi đã ra khỏi guồng quay của chức trách, của công việc thì ông sẽ yên
phận. Những tưởng với bao nỗi khát khao âm thầm trong giấc mơ về cô Loan
thì ông Chí sẽ từ bỏ những dự định, những chuyến đi vô bổ. Nhưng rốt cuộc
ông lại cảm thấy hạnh phúc, phấn chấn vô biên về vai trò quan trọng do mình
tưởng tượng ra rằng: ông là một nhân vật cần thiết, không thể vắng mặt trong
cuộc sống này. Như vậy, giấc mơ đã góp phần thể hiện tính cách của một nhân
vật bi kịch.
Qua truyện ngắn “Người có khuôn mặt giống vợ anh”, yếu tố tâm linh
còn được thể hiện khi vợ của trinh sát Tùng mơ thấy người con gái bị giết ở
nông trường Ngòi Bo cách đây hai năm về kêu oan, nói rằng kẻ giết người vẫn
chưa bị bắt. Sau giấc mơ đó khoảng một tháng hung thủ thực sự của vụ án đã ra
đầu thú. Mượn lời của nhân vật Tùng, tác giả cho rằng: “Con người phải chăng
là một phép lạ của thế giới, hiểu được nó, thật không dễ dàng” [17, tr.276].
79 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Con người không chỉ bị chi phối bởi bản năng, lề thói mà còn bị chi
phối bởi cả thế giới thần bí, siêu nhiên nào đó trong cõi tâm linh của con người.
Có thể khẳng định rằng, đi sâu vào khai thác thế giới tâm linh của nhân vật là
một đóng góp lớn và cũng là nét riêng của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng
nhân vật.
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu
3.4.1. Ngôn ngữ
Để khắc họa chân dung nhân vật, bên cạnh yếu tố ngoại hình, hành động
và tâm lý, Ma Văn Kháng còn đặc biệt chú ý đến ngôn ngữ của nhân vật. Mỗi
kiểu nhân vật thường gắn với một thứ ngôn ngữ riêng. Giáo sư Phong Lê cho
rằng “ Dẫu là quen hoặc lạ, chữ nghĩa đã qua tay Ma Văn Kháng là cứ ánh chói
lên cái nội lực bên trong của nó”, “…khu biệt với nhiều người, một chất liệu
hiện thực kiểu Ma Văn Kháng, một cách khai thác kiểu Ma Văn Kháng, một
giọng điệu riêng và ngôn ngữ riêng của Ma Văn Kháng” [19]. Theo Ma Văn
Kháng thì trong truyện ngắn - một thể loại mang tính hàm súc, có độ nén và sự
bùng nổ cao thì “câu chữ…nó lên men, nó tỏa hương, nó rủ rê, dẫn dắt, nó
quyến rũ ta, nó là cái hồn của câu chuyện”, “Cái gì đã sống trong ngôn ngữ thì
sẽ sống cùng ngôn ngữ”[47].
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của
văn học. Ngôn ngữ tạo ra những những hình tượng văn học có khả năng tác
động trực tiếp đến tư duy của con người, trực tiếp khơi dậy ở con người những
suy nghĩ về cuộc sống. Vừa là phương tiện truyền đạt những tư tưởng của nhà
văn, ngôn ngữ đồng thời còn là chất liệu xây dựng nên tác phẩm.
Ngôn ngữ nhân vật là lời nói của nhân vật trong tác phẩm. Ngôn ngữ
nhân vật là phương tiện phản ánh cuộc sống, bộc lộc tính cách nhân vật. Nói
đến ngôn ngữ nhân vật thường nói đến ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc
thoại. Tuy nhiên, khảo sát hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa
Già của Ma Văn Kháng, chúng tôi nhận thấy nhà văn chú ý sử dụng ngôn ngữ
đối thoại để miêu tả về nhân vật. Đối thoại là những mảnh giao tiếp của nhân
80 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
vật với nhân vật được nhà văn tổ chức, sắp xếp gắn liền với ý đồ nghệ thuật.
Ngôn ngữ đối thoại trong sáng tác của Ma Văn Kháng thường không nặng nề,
gay gắt như các nhà văn khác. Người đọc có cảm giác các nhân vật đang nói
chuyện với nhau một cách ôn hòa, nhã nhặn. Trong đối thoại, các yếu tố phi
ngôn ngữ cũng rất ít được miêu tả, khắc họa.
Ở mảng truyện ngắn và truyện vừa viết về người dân miền núi, Ma Văn
Kháng chủ yếu sử dụng ngôn ngữ của con người vùng cao. Đó là lớp ngôn ngữ
giản dị, mộc mạc, gần với cách cảm, cách nghĩ của đồng bào dân tộc thiểu số.
Qua đó thể hiện được bản chất hiền lành, chất phác của những người dân nơi
đây. Khi miêu tả nhân vật Seo Ly “Seo Ly, kẻ khuấy động tình trường” nhà văn
đã mượn ngôn ngữ, cách ví von của người dân tộc để nói về sắc đẹp và số phận
của nàng. Seo Ly: “Chín mười tuổi Seo Ly là cái gậy đuổi lợn vứt bờ rào.Mười
hai, mười ba tuổi, nàng là cái bóng thất thểu, vẹo vọ vì cái lù cở nặng địu sau
lưng”. Mười lăm tuổi: “Seo Ly là cái máng lợn bị tha đi, đá lại”;“nàng đẹp và
kiêu hùng như một con gà sống thiến”, “Nàng là trăng trên trời. Là chim quyên
trong các loài lông vũ. Là măng tre trong các loại rau ăn” [18, tr.10]. Qua cách
miêu tả, so sánh đó, nhân vật Seo Ly hiện lên như một trang tuyệt sắc xứ Mèo.
Đẹp kiêu sa song cũng thật gần gũi, dù chỉ đọc một lần nhưng ta đâu dễ quên.
Những năm tháng sống ở miền núi đã giúp nhà văn hiểu sâu sắc tâm hồn,
bản chất, cái bụng thật thà của người dân tộc thiểu số. Hơn nữa, nhà văn đã rất
thành công khi đưa ngôn ngữ, tiếng nói của người dân miền núi vào trong tác
phẩm của mình. “Người đọc hiểu hơn, thậm chí bớt đi bản tính kỳ thị với người
dân tộc - vốn tăm tối, u mê, hoang dã, ấu trĩ, yếu kém trong nhận thức và hiểu
biết, để từ đó tạo ra mối quan hệ tốt đẹp trong cuộc sống” [7]. Điều này cũng
góp phần lý giải sức sống lâu bền trong sáng tác của Ma Văn Kháng. Ông đã
miêu tả Pao trong “San Cha Chải” qua những nét vẽ bề ngoài và lời nói, từ đó
thể hiện được bản chất thật thà, chất phác của nhân vật này: “Pao soi mặt mình
trong mặt giếng, mặt Pao vẫn sáng trưng vậy. Rõ hơn là hai con mắt một mí,
81 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cái cằm vuông và gò mũi thẳng, toát ra một thần thái vừa chất phác hồn hậu,
vừa văn vẻ, không hôn ám” [17, tr.66].
Với kẻ u mê đần độn như Mã Đại Câu trong “Mã Đại Câu, người quét
chợ Mường Cang”, tác giả đã miêu tả: “Da đen sạm,quắt như cái roi trâu, cóc
cáy đóng vẩy như xưa rày chưa hề biết tắm táp rửa ráy là gì. Đặc sắc nhất là
cái đầu to quá khổ, do nặng quá cứ phải ngoẹo như là ngả trên vai. Các bộ
phận trên mặt lão thì thế này: Mắt trắng dã, mồm hõm, răng vẹo vọ, má
trái bị một vết sẹo xẻ đôi, cái tai phải cụt, đôi môi trơn lì như hai vết sẹo và
thâm đen” [17, tr.137]. Ngoại hình của Mã Đại Câu khiến người đọc thương
hại cho số kiếp không ra người của y, nhưng sự phản bội mù quáng của hắn còn
khiến người đọc vô cùng tức giận.
Còn đây là chân dung của Giàng Tả (“Giàng Tả, kẻ lang thang”): “Cũng là
da thịt mà da thịt Giàng Tả như sắt như đồng. Vai Giàng Tả rộng gấp rưỡi vai
người. Ngực phồng như hai quả gò, bả vai nổi u xương… Tất cả sức mạnh như
vậy là không biết phô ra, chúng chìm trong da thịt, xương cốt, trong dáng
đứng, bước đi ngay ngắn, tự nhiên” [17, tr.22]. Nhà văn đã vẽ chân dung của
nhân vật bằng ngôn ngữ của người dân miền núi, qua đó thể hiện được bản chất
thẳng thắn, thật thà, bộc trực và đơn giản của Giàng Tả.
Ngôn ngữ nhân vật cũng được tác giả chú ý. Trong truyện ngắn “Giàng Tả,
kẻ lang thang”, nhân vật Giàng Tả vì thương người nên ghé lưng vác hộ hòm
đạn khi leo dốc, việc làm này khiến tên lính trông coi việc cho quan châu bực
mình quát:“Việc của trâu trâu mang, việc của ngựa ngựa thồ, ai khiến mày,
hả? Mày có muốn ăn kẹo đồng của ông Gơ không?”. Giàng Tả thản nhiên trả
lời: “Dọa tao hở? Đ.mẹ, tao không phải nhờ chúng mày mới sống được nhé”.
Giàng Tả cũng không thích chờ cơm Tây, không thích phụ thuộc “ngày ngày
chờ cái tàu nó ị xuống mới có cái ăn, cái mặc” [17, tr.31]. Như vậy, ngôn ngữ
nhân vật mang tính khẩu ngữ được bảo tồn ở dạng tự nhiên, bản chất. Điều này
giúp cho nhân vật hiện lên một cách sinh động, cụ thể.
82 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
“Viết về thời kì rối ren ở khu vực biên giới phía Bắc, khi bọn người xấu
phao tin bậy bạ, kêu gọi Hoa kiều chống lại người Việt, Ma Văn Kháng đã nêu
lên cảm giác ghê sợ khi cái Léng “Thím Hoóng” thốt lên những lời vô tình vô
nghĩa” [19]. Cái Léng say máu “hồng vệ binh” coi mẹ đẻ như kẻ thù: “Các
người thật thối tha, thật đáng cho vào quan tài chôn sâu dưới ba tấc đất”, “kẻ
địch mới bị một đòn, còn ngắc ngoải. Phải mãnh đả, mãnh truy, phải đánh
triệt để, đánh đến cùng, đánh cho đối phương quỵ gục, cho long trời đất
lở” [17 ,tr.180].
Trong “Vệ sĩ của quan châu”, chỉ qua vài lời thoại của Khun cũng đủ cho
người đọc nhận ra bản chất bạo liệt và tàn nhẫn của hắn: “Cái xác ấy mà! Sợ cái
đếch gì!”. Đó là câu trả lời của Khun khi mẹ hắn thấy hắn cầm gậy đập cho đến lúc
đầu của một xác người ăn mày chỉ còn bằng nắm tay. Và khi hắn cưỡng bức người
đàn bà nấu bếp thì hắn dọa: “ Tao sợ gì cái chết mà đem ra dọa tao, hả con đĩ già!
Mày kêu tao sẽ móc lưỡi ra khỏi họng ngay bây giờ” [17, tr.14].
Những trang viết về thành thị trong hai tập truyện trên lại đậm ngôn ngữ
và văn phong miền xuôi. Qua đó người đọc có thể tiếp xúc với một thế giới thu
nhỏ với nhiều kiểu người khác nhau như sinh viên, nhà văn, công chức nhà
nước…Ngôn ngữ của người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật đều giản dị, đời
thường, phù hợp với tính cách nhân vật. Trong “Cánh bướm tím”, ngôn ngữ
của Bỉnh bỗ bã, thô lỗ, đó là con người luôn tính toán chi li lợi hại. Tất cả mọi
suy nghĩ, ngôn ngữ, hành động của nhân vật này cũng chỉ vì tiền “Sổ tiết kiệm
của ông cụ để lại có được dăm chục triệu không? Thế tiền lương hưu hàng
tháng của cụ tọt cả vào cái lỗ nẻ nào”. Thậm chí chị ta còn dựng chuyện bà
Xuân - một người gần gũi với gia đình nhà chồng, có quan hệ không chính
đáng với cha và giờ đầu độc cha để bòn rút của cải: “Cha chết vì con mụ đàn bà
yêu tinh thần nữ…con mụ tác ta ấy nó tà lưa. Nó là đứa đào mỏ, chuyên bòn
rút của cải. Nó là dân thủy lợi nạo vét nổi tiếng, nó là đứa dâm loàn nhất hạng.
83 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nó là con ngựa cái. Ối xót xa quá cha ơi là cha ơi! May mà cha chết chứ không
thì cái nhà này, đất đai này dần dần sang tay nó hết” [18, tr.127].
Đây là ngôn ngữ của vợ Lân trong “Người khổ nhất trần gian” khi thấy
Nội - một người hàng xóm sắp đi công tác bên Pa-ri thì chị ta hằn học: “Đánh
rắm xịt, sắp đi mới cho hàng xóm biết! Sợ người ta tranh mất phần, hả? Hay là
sợ người ta tố cáo? Mà sao ăn mòn cả bát đĩa thiên hạ còn chưa chán nhỉ?
Hóa ra lòng dạ anh quái nào cũng là cái vại thủng, mấy cũng chẳng vừa. Hóa
ra nước chảy chỗ trũng thật, số gì mà đỏ như vang thế không biết…Rõ là dãi
dài hơn người chưa. Cháy nhà ra mặt chuột chưa? Đúng là của ruộng đắp
bờ”. [18, tr.147]. Tranh luận một hồi cùng chồng rồi chị ta cũng đay đả: “Rõ là
luận điệu của anh hèn, ngờ nghệch lắm… Còn ông? Cả đời ông có chịu bám
víu vào ai không? Ông hốc xịt cũng là đáng kiếp thôi, hiểu chưa!!!”. Qua ngôn
ngữ mà người đọc nhận ra thói ghen tị, tính hẹp hòi của người phụ nữ này.
Còn đây là đoạn đối thoại giữa ông Khái và cô giáo Loan trong “Xa xôi
Thôn Ngựa Già”:
“ - Tôi thật không hiểu cái nhà ông Chí là con người thế nào. Lông bông
cả đời rồi mà có làm được cái việc gì ra hồn.
- Sao em nghe nói mỗi lần bác ấy đi đâu đó về đều đem trình chi ủy thư
khen và nhận xét rất tốt của các cơ sở.
- Ối giời! Chẳng qua là mấy lời đãi bôi ấy mà!
- Thực ra cũng hiếm người được như bác ấy!
- Có mà hâm hấp, dở người. Đấy, hôm vừa rồi lại đến trình với chi ủy
chúng tôi kế hoạch đi lên cái Thôn Ngựa Già, Ngựa Trẻ gì ở tít tịt cái huyện khỉ
ho cò gáy gì đó, dự án trồng cái cây khỉ gió đồng lăn gì đấy. Rõ hão huyền!
- Em nghĩ thiện ý bác ấy là…
- Viển vông, chả bõ làm trò hề. Chuông khánh còn chẳng ăn ai. Huống
hồ mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre! Đấy cô xem, trung ương người ta có bao
nhiêu là trường đại học rồi viện nọ viện kia, hàng trăm nghìn tiến sĩ kỹ sư nông
nghiệp, trình độ khoa học kỹ thuật đầy mình, có đâu lại còn cần cái thứ ông ấy
84 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đi dậy bảo làm bếp dầu không bấc với tấm lợp chất lượng cao. Rõ là ngửa váy
hứng dừa. Dừa đâu không thấy gió đưa vào l…
- Nhưng mà theo em thì bác ấy vẫn là người đáng kính trọng hơn là đáng
chê cười.
- Kính trọng?
- Vâng! Có người nói: Đừng nên phán xét một ngày xem ta thu hoạch được
gì, mà nên phán xét xem ta một ngày bằng những gì ta gieo mầm” [18, tr.243]
Nhờ cách nói của nhân vật mà ta thấy ông Khái là người sống thực tế đến
mức lạnh lùng, còn cô giáo Loan lại là người trầm tĩnh, biết suy xét thấu đáo và
nhìn nhận mọi việc theo hướng tích cực. Ở đoạn văn trên, ngôn ngữ hiện lên
trên trang giấy gần gũi, giản dị, đậm chất khẩu ngữ, như lời ăn tiếng nói trong
cuộc sống hàng ngày, qua đó người đọc nhận ra vốn liếng văn học dân gian của
nhà văn thật phong phú.
Và đây là ngôn ngữ của ông Tương Bằng, một người đã về hưu nhưng
luôn tạo hư giác cho mình, coi mình là người quan trọng, không thể thiếu trong
cuộc đời này. “Tiên sư các anh! Anh nào định từ bỏ lý tưởng thì hãy trông
gương thằng này! Thằng này chết vì con đĩ Lộc đấy! Con đĩ Lộc là con đĩ thập
thành ở tỉnh, nó có cả tá nhân tình nhân ngãi. Vừa rồi thằng chồng nó lăn cổ
ra chết vì sốc ma túy. Lần này thì ông con giời chết mẹ nó rồi! Chết vì cùng
với con đĩ cầm đầu một đường dây buôn bán xuyên quốc gia.Tiên sư anh!”
[18, tr.47]. Đáng thương thay, giờ chỉ còn mình ông tả xung hữu đột, chống
chọi với mọi sự suy đồi, giữ trọn đạo lý, kỷ cương lề luật cuộc đời.
Có thể nói, ngôn ngữ trong hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn
Ngựa Già của Ma Văn Kháng rất phong phú và đa dạng. Tùy hoàn cảnh, tính
cách của nhân vật mà tác giả có sự lựa chọn từ ngữ rất tinh tế và phù hợp. Bởi
vậy sáng tác của Ma Văn Kháng luôn thu hút được đông đảo bạn đọc và ông đã
khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
3.4.2. Giọng điệu
3.4.2.1. Khái niệm
85 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Bên cạnh lớp ngôn ngữ phong phú, đa dạng thì giọng điệu trong hai tập
truyện trên cũng không đơn điệu. Trong tác phẩm tự sự, giọng điệu có vai trò
rất lớn đối trong việc khẳng định phong cách nhà văn. Giọng điệu mang đậm cá
tính sáng tạo của tác giả. Giọng điệu chủ yếu tạo thành âm hưởng chung bao
trùm lên toàn bộ tác phẩm, nó chi phối cách thức xây dựng nhân vật. Mỗi nhà
văn đều có giọng điệu riêng của mình. Nói đến nhà văn Nam Cao ta không thể
không nhắc đến giọng lạnh lùng khách quan nhưng cũng đầy xót xa, thương
cảm; còn với Vũ Trọng Phụng, người đọc không quên được giọng điệu châm
biếm, đả kích sâu cay có pha chút phóng đại. Giọng điệu được tạo nên từ cái
nhìn hiện thực, cảm hứng sáng tác, tư tưởng tình cảm của tác giả đối với sự vật
và con người. Giọng điệu được cụ thể hóa qua từ ngữ, lời văn, ngữ điệu và các
thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Giọng
điệu là thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với
hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên,
dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng
sã, ngợi ca hay châm biếm. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình
cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong
cách nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc, thiếu một giọng điệu
nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và
sắp xếp trong hệ thống nhân vật”[5, tr.134-135].
3.4.2.2. Giọng điệu ngợi ca
Trong hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già của Ma
Văn Kháng, trước hết chúng tôi nhận thấy giọng điệu ngợi ca cái đẹp. Nhà văn
dành sự yêu mến và cảm phục cho những con người hiền lành, chất phác, hết
lòng vì việc chung như Pao, Mo Chúng, thầy giáo Tính “San Cha Chải”, Lý A
Lừ “Hoa gạo đỏ”…Quân “Mùa săn ở Na Le”, Thào A Sẩu “Đỉa bám chân ai”,
Điền “Bí mật nghiệp vụ”…
Ở truyện ngắn “San Cha Chải”, bên cạnh Mo Chúng biết làm giàu từ cây
tam thất rừng là thầy giáo Tính đã mười năm ở lại San Cha Chải “gọi con trẻ
86 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tới lớp, dắt trâu kéo cây gỗ dẻ về dựng trường sở” [17, tr.63]. Nhờ có những
người như Mo Chúng và thầy giáo Tính mà bản làng miền núi ngày càng ấm
no, giàu có hơn về vật chất lẫn tinh thần. Đó còn là ông Tài “Ông lão gác vườn
và chó Phúm” tận tâm lo cho công việc. Ông cho rằng: “…Còn con người thì
còn có việc chung đấy. Việc chung thì mỗi người ghé vai. Còn việc riêng của
mình, thì mình tự lo liệu”. Ông đã từ bỏ cuộc sống ấm cúng bên vợ, lên nông
trường tá túc trong một cái lều nhỏ đơn sơ để canh vườn thuốc quý. Dù có chút
băn khoăn nhưng cuối cùng trách nhiệm với công việc đã chiến thắng. Lên
nông trường, ông Tài có con chó Phúm làm bạn “Theo ông đi tuần, Phúm học
được ở ông tính cẩn thận, lòng hăng say và trách nhiệm hết mình”. Năm năm
trời mải mê với công việc, được ban bảo vệ tuyên dương vì “đã đảm bảo an
ninh tuyệt đối cho khu vườn thuốc quý, nghĩa là không để mất mát, sơ suất
nhỏ”. Dù bị mọi người đối xử bội bạc nhưng với ông “dẫu thế nào, ta cũng
không thể lấy bội bạc để đáp lại bội bạc được” [17, tr.220,227]. Ông Tài cũng
giống như những cây tam thất quý mà ông đang chăm sóc. Bên cạnh đó, tác giả
còn ngợi ca tinh thần trách nhiệm cao vì việc làng việc nước của ông Lý A Lừ
trong “Hoa gạo đỏ”. Đó còn là những con người tuy bề ngoài còn thô sơ, đơn giản
nhưng ẩn chứa bên trong cả tấm lòng vàng như lão Sìn trong “Những chiếc chum
bạc”. Lão Sìn đã thanh toán nợ nần với đời giúp cha con thổ ty Sề Cổ Siu. Thông
qua việc ca ngợi vẻ đẹp của những người dân hiền lành, đầy tinh thần trách nhiệm
với cộng đồng, tác giả đã thể hiện niềm tin bất diệt vào con người.
Ta còn nhận ra giọng điệu ngợi ca khi tác giả viết về những chiến sĩ an
ninh dũng cảm, thông minh, đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để đem lại sự
yên bình cho nhân dân. Đó là Điền “Bí mật nghiệp vụ”, Thào A Sẩu “Đỉa bám
chân ai”, ông Thoan “Cỏ hoang”…Ngoài ra tác giả còn ngợi ca vẻ đẹp của
những người phụ nữ như Seo Ly “Seo Ly, kẻ khuấy động tình trường”, Cô
Xuân “Cánh bướm tím”, cô Loan “Xa xôi Thôn Ngựa Già”…
3.4.2.3. Giọng điệu xót xa, thương cảm
87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trong hai tập truyện trên, nhà văn không chỉ ca ngợi con người và cuộc
sống mà còn chú ý khám phá, phát hiện những số phận đáng thương trong xã
hội. Bởi vậy truyện của ông còn là những suy ngẫm đầy xót xa, ngậm ngùi về
thế sự nhân sinh. Nhà văn công khai bày tỏ thái độ của mình cho nên trong
sáng tác của ông giọng điệu xót xa thương cảm được sử dụng với tỉ lệ không
nhỏ. Điều này xuất phát từ quan niệm về hiện thực và con người của nhà văn
sau thời kì đổi mới.
Người đọc không thể quên được Mã Đại Câu trong “Mã Đại Câu, người
quét chợ Mường Cang” một con người vừa đáng giận vừa đáng thương xót.
“Có thể nói lão là một người khổ cả vật chất lẫn tinh thần. Sống giữa cộng
đồng mà chẳng có ai thân thích, lão cứ vật vờ lủi thủi như cái bóng ma” [6].
Khi đã trải qua những sóng gió thì lão chìm trong tuyệt vọng: “Lão bước chậm
chạp, uể oải…vẫn cái mặt gớm guốc, bẩn thỉu ngày nào, nay gia thêm sự mệt
mỏi quá độ”. Thật đớn đau trước nỗi thống khổ của lão, người kể chuyện đã
bình luận: “Khốn nạn! Mã Đại Câu ơi! Đường sáng không đi sao lại đâm
quàng vào ngõ tối” [17, tr.146]. Nhà văn đã viết về sự kết thúc cuộc đời của
Mã Đại Câu: “Lão ngã rụi xuống, trước tăm tối mà vẫn chẳng hiểu chuyện gì
đã xảy ra”. Quả thật: “Ngu đần mà sống với người hiền từ, lương thiện thì quá
lắm cũng chỉ làm cho người ta bực mình thôi, chứ ai giết lão làm gì”. Những
trang văn có sức lay động trái tim độc giả, ta đau và thương cho những con
người chịu cảnh sống đọa đày trong cuộc đời này. Đến với “Ông lão gác vườn
và chó Phúm”, ta thấy xót xa cho ông Tài - một người tốt mà chịu nhiều bất
hạnh. Trước tình đời, tình người đen bạc ông Tài“mệt nhọc và giày vò đau đớn.
Cay đắng và căm phẫn chất đầy”. Giọng điệu cảm thương xót xa của tác giả
dành cho nhân vật: “Than ôi! Đời chẳng một chút công bằng với những ai tận
tụy với nó cả…Chao ôi! Hóa ra số phận ông lại quá nhiều cay đắng thiệt thòi”
[17, tr.225].
Đọc “Vệ sĩ của quan châu”, người đọc luôn bị ám ảnh bởi vợ chồng
người lính già đã cưu mang đứa con hoang từ khi nó còn đỏ hỏn. Thật oái oăm,
88 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
càng lớn đứa trẻ ấy càng có nhiều nét dị biệt. Để rồi sau khi chứng kiến cảnh
đứa con đang hả hê đánh đập cái xác người ăn mày thì người mẹ tội nghiệp kia
cảm thấy bất lực. Con cái là của để dành, vì vậy dù không có công sinh nhưng
vợ chồng người lính già có công dưỡng dục, những mong sớm hôm vui vầy, lẽ
ra họ phải nhận được sự báo đáp từ đứa con. Nhưng rồi họ “lặng lẽ rời bỏ vùng
đất dữ, ngậm ngùi trước Thần, Phật, ăn năn và tủi hổ vì đã nuôi nấng một hòn
máu rơi thành một hung thần tai ác” [17, tr.12]. Họ ra đi như một sự đầu hàng,
cam chịu và trốn chạy sự thật phũ phàng, nghiệt ngã. Xót xa thay cho họ,
những người tốt mà lại gặp cảnh éo le, trái ngang. Giọt nước mắt của nhân vật
hay chính là nỗi lòng thương cảm của nhà văn, của người đọc dành cho họ?
Phải chăng đó là sự cộng hưởng của những trái tim biết thổn thức đớn đau.
Trong các sáng tác về miền núi, thông qua số phận đau khổ của các nhân
vật, Ma Văn Kháng luôn trăn trở làm thế nào để những con người ấy tìm thấy
hạnh phúc trọn vẹn. Hơn một lần tim ta đớn đau khi cái Léng trong “Thím
Hoóng” đã nhốt mẹ đẻ của mình vào cái thống gạo cho chết. Nó truyên bố trái
tim nó “không có chỗ dành cho mẹ cha”. Người mẹ đau đớn biết chừng nào khi
phải rên lên: “Ai xui mày ác thế, Léng ơi!”. Để rồi cuối cùng cái chết là sự giải
thoát khỏi những nỗi đau tinh thần cho thím Hoóng. Thông qua cái nhìn của
nhân vật tôi, nhà văn đã thể hiện sự thương cảm, xót xa cho người phụ nữ bất
hạnh này.
Bên cạnh đó, nhà văn còn thể hiện sự xót xa cho số phận người phụ nữ
dân tộc bất hạnh như Seo Ly trong “Seo Ly, kẻ khuấy động tình trường”. Seo
Ly là hiện thân của cái đẹp, vậy mà cái đẹp ấy không được trân trọng. Cái đẹp
bị bêu rếu, bị săm soi bởi cả cộng đồng không mấy thiện cảm, không quý trọng
mà chỉ muốn chiếm đoạt, sở hữu. Giọng điệu xót xa thương cảm cũng là minh
chứng cho sự gắn bó sâu nặng của tác giả đối với cuộc sống và con người ở
miền núi.
89 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Ngoài ra, ta còn bắt gặp giọng điệu lo âu, ngậm ngùi trước những thói
ích kỷ, hẹp hòi, vụ lợi của con người chốn thị thành. Điều đó được thể hiện khi
tác giả xây dựng những nhân vật như: Bỉnh, Lễ, Nghĩa trong “Cánh bướm tím”,
Vợ Lân trong “Người khổ nhất trần gian”, ông Khái trong “Xa xôi Thôn Ngựa
Già”…Từ đó tạo nên giọng tranh luận mang tính triết lý sâu sắc.
3.4.2.4. Giọng điệu triết lý, tranh biện
Trong hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già, nhà văn
suy ngẫm về thế thái nhân tình và thể hiện quan điểm của mình bằng giọng điệu
triết lý, tranh biện có tính khái quát cao. Giọng điệu triết lý, tranh biện là một
trong những nét đổi mới từ sau 1975 của các nhà văn hiện đại khi phải đối mặt
với nhiều vấn đề có ý nghĩa nhân sinh thế sự. Nói về giọng điệu triết lý trong
truyện ngắn gần đây của Ma Văn Kháng, Lã Nguyên nhận xét: “Mang chiều
sâu của triết luận nhân bản về đời sống, nội dung xã hội của tác phẩm, truyện
ngắn Ma Văn Kháng bao giờ cũng vượt ra ngoài đề tài, chất liệu” [29].
Cuộc sống, bản thân nó đã là sự biến đổi, nhiều khi con người sống đến
quá nửa phần đời mới hiểu ra rằng “Ở đời có vật gì mà không chịu sự chi phối
của cái lẽ dời đổi”. Trong truyện ngắn “Những chiếc chum bạc”, nhà họ Sể xưa
kia oai danh lừng lẫy một thời vậy mà giờ đây tan tác như lá mùa thu khiến ông
lão Sìn cảm thấy bàng hoàng. Ông đã rút ra kết luận: “Đời là rắm rối, phức tạp
vô cùng” [17, tr.123]. Sống trong sự nghèo khổ, cơ cực của một thời làm gia nô
cho Sề Cổ Siu, nay ông lão Sìn đã nói với Sán - con cháu nhà họ Sể “Thuận
theo lẽ tự nhiên mà sống. Cá sống với nhau trong nước, người sống với nhau
trong đạo lý…Ai là kẻ thù của ai suốt đời được” bởi vì “không ai chọn cha mẹ
để đầu thai nhưng mọi người lại được chọn lẽ đời để sống” [17, tr.126]. Triết lý
giản dị mà sâu sắc được rút ra từ một người dân bình thường sống ở nơi xa xôi
hẻo lánh.
Cuộc sống luôn tồn tại cả hai mặt tốt, xấu; thiện, ác, bởi vậy nhiều khi
cái ác “nó hại người bằng một sức mạnh hủy diệt vô hình”. Cần có những
90 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
người “lấy tinh thần mạnh mẽ của cuộc đời để truy đuổi cái mông muội bán
khai”, bởi “cuộc sống là một cuộc đấu trí, đấu lực, đấu tinh thần giữa cái thiện
và cái ác”. [17, tr.163]. Những triết lý ấy được tác giả thể hiện rõ trong “Mùa
săn ở Na Le”, khi nhân vật Quân quyết trừ tinh hổ dữ để đem lại sự bình yên
cho bản làng.
Giọng điệu suy ngẫm triết lý còn được thể hiện qua chính những suy
nghĩ và lời nói của nhân vật. Thổ ty Sề Sào Lỉn “Móng vuốt thời gian”, vào
tuổi bảy mươi Lỉn bỗng nhận ra một sự thật hiển nhiên: “Con người ai cũng
như ai, từ bậc đế vương đến tên đánh giậm, gã mã phu, chỉ được sống có mỗi
lần, và chỉ một lần mà thôi. Con người đi trên con đường của mình, đi thẳng,
đã qua là thôi, không quay trở lại”. Thật trớ trêu khi con người - “cái sinh vật
tinh khôn nhất, là vưu vật của tạo hóa” lại nhỏ bé, hữu hạn trước cuộc đời:
“Oái oăm quá, con người chẳng có cách nào thoát khỏi được móng vuốt thời
gian. Cái chết là bất khả kháng…Cái chết nằm ngay ở bản thân mình” [tr.106].
Vì vậy mà Lỉn đã tìm mọi cách để chống lại quy luật nghiệt ngã đó, nhưng rồi
cuối cùng Lỉn cũng chết. Đúng như lời của nhân vật “tôi” trong “Thím Hoóng”:
“Con người dẫu khôn ngoan đến đâu vẫn có thể mắc sai lầm”[17, tr.182].
Cuộc sống này còn biết bao khó khăn đòi hỏi mỗi người cần phải vượt
qua bằng nghị lực của mình, thậm chí bằng cả niềm hy vọng. Đó là trường hợp
của ông Lý A Lừ trong “Hoa gạo đỏ”: “Hình như vẫn ẩn náu một điều gì mà ta
chưa khám phá ra? Sau cái tưởng là kiệt cùng tuyệt vọng, phải chăng vẫn còn
đó một khoảng không dự trữ niềm hi vọng”[tr.59].
Có thể thấy rằng, thông qua giọng điệu suy ngẫm triết lý Ma Văn Kháng
đã bộc lộ được quan điểm của mình về đời sống, về những vấn đề nhân sinh,
thế sự. Nó là sản phẩm của một trái tim đầy nhiệt huyết, giàu lòng yêu thương
con người. “Qua mỗi truyện ngắn của Ma Văn Kháng, người đọc bị cuốn hút
bởi gương mặt triết lý khôn ngoan, sắc sảo, thâm trầm mà sâu sắc. Người đọc
như vừa được đối thoại, vừa được sáng tạo cùng nhà văn trên chính mảnh đất
vừa gieo cấy sản phẩm nghệ thuật của tác giả” [10]
91 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Ngoài ra, trong sáng tác của ông, người đọc còn nhận thấy giọng điệu
khách quan. Đây là cách thức tái hiện đời sống theo nguyên tắc hiện thực. Bề
ngoài tưởng như nhà văn chỉ kể lại câu chuyện một cách đơn thuần nhưng ẩn
bên trong là sự cảm thông, thương xót. Trong “Cố Vinh, người xứ lạ”, cố Vinh
đã không vượt qua được những cám dỗ bản năng để rồi phải chết trong tay đệ
tử thân cận của mình. Sự nghiệp mà cố Vinh theo đuổi bấy lâu để mở mang
nước Chúa phải chấm dứt. Hoặc nhà văn đã kể lại một cách khách quan cuộc
truy đuổi con ma để đòi lại linh hồn cho cháu đích tôn của ông Mã A Thòn.
Đằng sau câu chuyện, ta nhận thấy sự trân trọng của nhà văn dành cho những
người cố gắng truy đuổi cái ác ra khỏi cuộc sống bản làng vùng cao. Giọng
điệu khách quan còn được tác giả sử dụng khi miêu tả các nhân vật khác như
Pao “San Cha Chải”, Phềnh trong “Ngựa bất kham”, bí thư Tráng trong “Seo
Ly, kẻ khuấy động tình trường”…
Bên cạnh đó, hiện diện trong sáng tác của Ma Văn Kháng còn có giọng
điệu trào lộng trang nghiêm để châm biếm những kẻ sống giả dối như ông giám
đốc nông trường trong “Ông lão gác vườn và chó Phúm”, hoặc thể hiện mặt
bản năng của nhân vật Khun trong “Vệ sĩ của quan châu”, sự ngu muội đần độn
của Mã Đại Câu trong “Mã Đại Câu, người quét chợ Mường Cang”…
Có thể nói, qua hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi Thôn Ngựa Già,
người đọc bắt gặp sự trăn trở, suy tư của nhà văn về cuộc đời và con người
thông qua sự phức hợp về giọng điệu: vừa xót xa ngậm ngùi, vừa có giọng trào
lộng hài hước, vừa có giọng triết lí, tranh biện…Từ đó, khẳng định tình yêu
thương đối với con người của nhà văn. Giọng điệu, ngôn ngữ trong truyện ngắn
Ma Văn Kháng là một sáng tạo độc đáo của nhà văn đóng góp cho văn xuôi
đương đại Việt Nam.
92 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Tiểu kết chƣơng 3
Khảo sát thế giới nhân vật trong hai tập truyện San Cha Chải và Xa xôi
Thôn Ngựa Già của Ma Văn Kháng, theo chúng tôi, nghệ thuật xây dựng nhân
vật của nhà văn được tập trung chủ yếu vào các yếu tố: ngoại hình, hành động,
tâm lí, ngôn ngữ và giọng điệu.
Với nghệ thuật dùng tướng hình để đoán biết tính người, Ma Văn Kháng
đã đem lại sự mới mẻ trong cách nhìn về chân dung nhân vật. Những nhân vật
như từ trang sách bước ra ngoài đời mang đậm hơi thở cuộc sống. Yếu tố tướng
hình giúp nhà văn khắc họa rõ nét tính cách, bản chất của nhân vật. Bên cạnh
yếu tố tướng hình thì yếu tố tâm linh cũng được tác giả sử dụng như một thủ
pháp nghệ thuật cần thiết để góp phần dự báo trước những bước ngoặt của số
phận hoặc những góc khuất trong đời sống tinh thần của con người, tạo được
khoảng lặng cần thiết cho tác phẩm. Điều đáng trân trọng là khi khám phá thế
giới tâm linh của con người, Ma Văn Kháng không rơi vào chủ nghĩa duy tâm
thần bí, mê tín dị đoan mà có những lí giải riêng của mình, tạo nên sức cuốn
hút cho tác phẩm. Ông cũng là nhà văn rất quan tâm đến việc miêu tả hành
động của nhân vật để khắc họa tính cách. Bên cạnh đó, Ma Văn Kháng còn chú
ý đến yếu tố ngôn ngữ. Điều này kích thích sự khám phá nghệ thuật ở từng đối
tượng độc giả. Vốn sống cộng với sự lao động miệt mài đã giúp tác giả có dịp
đưa những trải nghệm của mình lên trang viết. Bởi vậy, yếu tố ngôn ngữ đã
giúp nhà văn tạc nên những chân dung nhân vật hoàn chỉnh, sinh động. Cũng
thông qua ngôn ngữ mà tính cách, phẩm chất của từng nhân vật được bộc lộ rõ
nét. Mỗi kiểu người lại gắn với những ngôn ngữ nhất định và thường không
thay đổi. Cuối cùng là sự phức hợp đa giọng điệu trong sáng tác của Ma Văn
Kháng. Ông đã sử dụng lối văn đa giọng điệu: ngợi ca, xót xa thương cảm, triết
lý tranh biện… để thể hiện một cách chân thực cuộc sống và con người trong
thời đại mới. Điều đó chứng tỏ sự chuyển biến trong tư duy nghệ thuật của nhà
văn, mối quan tâm thường trực của Ma Văn Kháng là số phận con người.
93 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu, tìm hiểu sáng tác của Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới,
chúng tôi nhận thấy: con đường sáng tạo của nhà văn là cả một quá trình lao
động nghiêm túc, âm thầm, bền bỉ, không ngừng tự đổi mới ngòi bút của mình.
Trong quá trình lao động ấy, ông đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình
trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam qua số lượng các tác phẩm đồ sộ gồm cả
tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa. Ma Văn Kháng được đánh giá là “một cây
bút văn xuôi lực lưỡng, sung sức, một đời văn sáng tạo” của nền văn học đương
đại. Nhiều tác phẩm của ông đã vượt qua thử thách của thời gian, sự sàng lọc
của công chúng, góp phần làm nên thành tựu rực rỡ của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Đối với một nhà văn, việc xây dựng thành công nhân vật có một ý
nghĩa rất lớn. Bởi vì, qua thế giới nhân vật, người đọc có thể đưa ra những nhận
định, đánh giá khách quan về tài năng và cá tính sáng tạo của nhà văn. Nhận ra
vai trò quan trọng của nhân vật, chúng tôi đã chọn cách khảo sát thế giới nhân
vật trong hai tập truyện ngắn và truyện vừa của Ma Văn Kháng, từ đó hiểu
thêm về phong cách nghệ thuật cũng như những quan niệm về hiện thực và con
người của nhà văn.
2. Thế giới nhân vật của Ma Văn Kháng thật đông đảo, sinh động trong
bức tranh đời sống thế sự đa tạp. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn và truyện
vừa của Ma Văn Kháng bao gồm nhân vật bản năng, nhân vật bi kịch, nhân vật
tha hóa, nhân vật có phẩm chất tốt đẹp. Cùng chức năng khái quát hiện thực,
khái quát tính cách, mỗi kiểu loại nhân vật với đặc trưng cơ bản của nó còn là
phương tiện chuyển tải những quan điểm nhân văn của tác giả về số phận con
người. Con người đã được khám phá trong cái nhìn đa diện nhiều chiều, nhiều
phía để thấy được bản chất, chiều sâu tâm lý, tính cách với tất cả những mặt tốt
- xấu, trắng - đen, thiện - ác. Những nhân vật đời tư - thế sự trong truyện ngắn
và truyện vừa của Ma Văn Kháng đã thực sự làm gia tăng dung lượng phản ánh
và khả năng thuyết phục của tác phẩm văn chương. Nhà văn đặt ra vấn đề cần
có cái nhìn đúng đắn và nhân văn hơn đối với con người. Xuất phát từ khát
94 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
vọng là hoàn thiện con người, truy tìm căn nguyên của cái xấu, cái ác và
nhiều biểu hiện tha hóa trong tính cách con người, Ma Văn Kháng đã chú ý
khai thác những diễn biến biến tâm lý sâu kín của nhân vật. Từ đó, người
đọc có thể xem xét, đánh giá lại bản thân và có những bài học rút ra trong
quá trình hoàn thiện mình.
3. Để tạo nên thế giới nhân vật đa dạng trong thời kỳ đổi mới, Ma Văn
Kháng đã có những tìm tòi, thể hiện độc đáo. Nhân vật trong sáng tác của ông
hiện lên từ nhiều cảnh ngộ khác nhau nhưng đa số họ đều có nét chung nhất về
phẩm chất làm người và luôn hướng tới ánh sáng của sự lương thiện. Dù hoàn
cảnh có nghiệt ngã nhưng nhìn chung các nhân vật không làm mất đi bản chất
tốt đẹp của mình, vẫn vui sống và có niềm tin vững bền vào những giá trị tinh
thần. Để có thể xây dựng chân dung và tính cách nhân vật một cách sống động,
chân thực nhất, Ma Văn Kháng đã sử dụng bút pháp miêu tả ngoại hình, hành
động, tâm lí và ngôn ngữ, giọng điệu. Ứng với bản chất của từng kiểu loại nhân
vật là cách miêu tả ngoại hình và hành động riêng biệt. Ông quan tâm tới việc
khai thác sâu thế giới tâm linh của nhân vật. Viết về vấn đề này, Ma Văn
Kháng không rơi vào chủ nghĩa duy tâm thần bí mà ông có những kiến giải
riêng của mình. Ông mở rộng khái niệm tâm linh ra ngoài khu vực của sự “mê
tín dị đoan”. Bên cạnh đó, để xây dựng được những nhân vật mang đậm hơi thở
của cuộc sống, Ma Văn Kháng còn kết hợp hài hòa giữa yếu tố ngôn ngữ và
giọng điệu trần thuật. Ma Văn Kháng là một trong số ít nhà văn có “một dấu ấn
riêng khu biệt với nhiều người” bởi “một giọng điệu riêng và một ngôn ngữ
riêng của Ma Văn Kháng” (Phong Lê). Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại được
tái hiện sinh động và đậm chất khẩu ngữ. Giọng điệu trong sáng tác của Ma
Văn Kháng có sự phức hợp: vừa thương cảm, xót xa khi viết về những số phận
bất hạnh, vừa ngợi ca khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của con người.
Ngoài ra, đó còn là giọng triết lí tranh biện khi đưa ra những nhận xét có thể là
của nhân vật hoặc của chính nhà văn.
95 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Bên cạnh những thành công kể trên, trong sáng tác của Ma Văn Kháng
còn hạn chế nhỏ là hiện tượng trùng lặp kiểu nhân vật, dễ dẫn đến cảm giác
người đọc biết trước được số phận, tính cách của nhân vật. Nhiều khi chất khẩu
ngữ của ngôn ngữ sinh hoạt có phần suồng sã cũng được sử dụng khiến người
đọc khó tiếp nhận một cách dễ dàng.
Tóm lại, Ma Văn Kháng là nhà văn có đóng góp không nhỏ vào việc đổi
mới nền văn học đương đại Việt Nam. Thông qua quan niệm nghệ thuật về hiện
thực, con người và nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, nhà văn đã thể hiện
một mối quan tâm tha thiết đau đáu tới số phận con người và vì con người.
96 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Mai Anh (1997), Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn của Ma Văn
Kháng từ sau những năm 1980, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP
Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
3. Yên Ba (1993), “Ma Văn Kháng sống rồi mới viết”, Báo Văn hóa, ngày 13/9.
4. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975-1995, những đổi mới căn
bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
6. Trần Thái Hà (2007), Thế giới nghệ thuật trong tập truyện ngắn Móng vuốt
thời gian của Ma Văn Kháng, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
7. Nguyễn Minh Hạnh (2014), Thế giới nhân vật trong các tập truyện ngắn
gần đây của Ma Văn Kháng, Luận văn thạc sĩ, ĐHQG Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Huệ (1999), “Đổi mới tư duy nghệ thuật trong sáng tác của Ma
Văn Kháng những năm 1980”, Tạp chí Văn học, số 2.
9. Dương Thị Thanh Hương (2002), Cảm hứng nghệ thuật gắn với nhân vật
trong tiểu thuyết về đề tài dân tộc, miền núi của Ma văn Kháng, Luận văn
thạc sĩ, Trường ĐHSP, Hà Nội.
10. Đào Thị Minh Hường (2010), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn
Kháng từ 1986 tới nay, Luận văn thạc sĩ, Đại học KHXH&NV, Đại học
Quốc Gia, Hà Nội.
11. Ma Văn Kháng (1971) “Cuộc sống miền núi và những trang viết của tôi”,
BáoVăn nghệ, (9).
12. Ma Văn Kháng(1997), Cỏ dại, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
13. Ma Văn Kháng (2002), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
14. Ma Văn Kháng (2003), Truyện ngắn Ma Văn Kháng, tập 2, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
97 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
15. Ma Văn Kháng (2009), Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, Hồi
kí, Nxb Hội Nhà văn.
16. Ma Văn Kháng (2013), Phút giây huyền diệu, Tiểu luận và bút kí về nghề
văn, Nxb Hội Nhà văn.
17. Ma Văn Kháng (2013), San Cha Chải, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
18. Ma Văn Kháng (2013), Xa xôi Thôn Ngựa Già, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
19. Phạm Thị Lan (2001), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng
thời kì đổi mới, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Thái Nguyên.
20. Phong Lê, Lời giới thiệu “50 truyện ngắn chọn lọc Ma Văn Kháng”
21. Phong Lê (1999), “Ma Văn Kháng với Côi cút giữa cảnh đời” - Nhà văn
Việt Nam thế kỷ XX. Tập II - Nxb Hội Nhà văn Hà Nội.
22. Phong Lê (2005), “Trữ lượng Ma Văn Kháng”, Văn nghệ (20)
23. Nguyễn Văn Long (2002), “Văn học Việt Nam trong thời đại mới”, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
24. Phương Lựu, Trần Đình Sử (2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc
Hòa, Thành Thế Thái Bình (2006), Lí luận văn học, Nxb Giáodục, Hà Nội.
26. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Đào Thủy Nguyên (2009), Đặc điểm truyện ngắn của Ma Văn Kháng về đề
tài dân tộc và miền núi,Đề tài NCKH cấp bộ, ĐHSPTN.
28. Đào Thủy Nguyên (2015), “Vấn đề đạo đức, lối sống của người cán bộ vùng
cao trong truyện ngắn Ma Văn Kháng viết về miền núi”, Tạp chí Lý luận,
phê bình văn học, nghệ thuật, số 2, tháng 4.
29. Lã Nguyên, (1999), Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn, Tạp
chí Văn học.
30. Nhiều tác giả (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
31. Pospelov (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 1 (Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
98 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
32. Trần Đình Sử (1991),Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong nghiên cứu văn
học Xô Viết, TCVN số 1.
33. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Trần Đình Sử (1998), Thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
35. Trần Đình Sử (2012), Lí luận văn học, Tập 2, Nxb ĐHSP Hà Nội.
36. Nguyễn Nguyên Thanh (1997), “Ngày đẹp trời - Tính dự báo về tình thế xã
hội”, Báo Văn nghệ (21), ngày 23/5.
37. Bùi Việt Thắng (1994), “Văn xuôi gần đây và quan niệm con người”, Tạp
chí Văn học, số 6.
38. Nguyễn Hồng Thắm (2013), Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ
đổi mới, Luận văn thạc sĩ, Đại học KHXH&NV, ĐHQG, Hà Nội.
39. Đỗ Phương Thảo (2001), “Vài suy nghĩ về một phương diện nghệ thuật
truyện ngắn Ma Văn Kháng”, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, (5).
40. Đỗ Phương Thảo (2008), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn
Kháng, Chuyên luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
41. Đào Tiến Thi (1999), Phong cách truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975,
luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
42. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), “Một cây bút văn xuôi sung sức, một đời văn
cần mẫn”, http://google.com.vn/
43. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
44. Bích Thu, Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học.
45. Hoàng Tiến (1980), “Đọc Đồng bạc trắng hoa xòe”, Văn học,(1).
46. Nguyễn Văn Toại (1983), “Đọc các sáng tác miền núi của Ma Văn Kháng,
nghĩ về trách nhiệm của nhà văn trước một đề tài lớn”, Tạp chí Văn học, (5)
47. Lê Kim Vinh (1988), “Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng”, Tạp chí Văn
học, (5,6).
48. Http://www.nguoidaibieu.com.vn
99 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn