BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thiên Nhân
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TIỂU THUYẾT
TRONG DỊCH HẠCH CỦA ALBERT CAMUS
VÀ BÁO ỨNG CỦA PHILIP ROTH
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thiên Nhân
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TIỂU THUYẾT
TRONG DỊCH HẠCH CỦA ALBERT CAMUS
VÀ BÁO ỨNG CỦA PHILIP ROTH
Chuyên ngành : Văn học nước ngoài
Mã số
: 60 22 02 45
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ văn học với đề tài “Nghệ thuật xây dựng
tiểu thuyết Dịch hạch của Albert Camus và Báo ứng của Philip Roth” là công
trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Đào Ngọc Chương. Nội dung luận văn chủ yếu trình
bày những kết quả rút ra được từ quá trình nghiên cứu khoa học của bản thân và
không trùng lặp với các đề tài khác. Bên cạnh đó, luận văn có tham khảo và sử
dụng các tài liệu, thông tin được đăng tải trên các ấn phẩm sách, báo, tạp chí
TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014.
Tác giả
Trần Thiên Nhân
khoa học, và website theo danh mục tài liệu tham khảo.
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin kính gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến PGS.TS
Đào Ngọc Chương, người đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm
luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến quí thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn
đã dành thời gian đọc, chỉnh sửa và đóng góp ý kiến giúp cho luận văn
của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến quí thầy cô trong khoa Văn của trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và những thầy cô đã trực tiếp giảng
dạy, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm quí báu cho tôi trong suốt quá trình
học tập tại trường.
Tôi xin cảm ơn các quí thầy cô phòng Sau đại học của của trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
hoàn thành chương trình học và thực hiện luận văn này
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã động viên,
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.
Trần Thiên Nhân
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG ĐỀ TÀI – BỆNH DỊCH
NHƯ MỘT ẨN DỤ ....................................................................... 10
1.1. Bệnh dịch - ẩn dụ cho thảm họa chiến tranh ............................................. 13
1.2. Bệnh dịch - ẩn dụ cho những khiếm khuyết về mặt tinh thần .................. 18
1.3. Bệnh dịch - ẩn dụ cho sự kì thị chủng tộc ................................................. 21
1.4. Dịch bệnh - ẩn dụ cho những rào cản tự do .............................................. 26
Chương 2. SỰ CHI PHỐI CỦA QUAN NIỆM PHI LÝ VÀ NHỮNG
NỖI ÁM ẢNH ĐỐI VỚI NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG
CỐT TRUYỆN DỊCH HẠCH VÀ BÁO ỨNG ............................ 29
2.1. Quan niệm của Camus và Roth về cái phi lí và nỗi ám ảnh ..................... 35
2.1.1. Cái phi lí .............................................................................................. 35
2.1.2. Nỗi ám ảnh .......................................................................................... 39
2.2. Sự chi phối của quan niệm phi lí đối với nghệ thuật xây dựng cốt
truyện Dịch hạch và Báo ứng ................................................................... 42
2.3. Sự chi phối của những nỗi ám ảnh đối với nghệ thuật xây dựng cốt
truyện Dịch hạch và Báo ứng ................................................................... 60
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 71
Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT – KIỂU CON
NGƯỜI DẤN THÂN VÀ CHỊU ĐỰNG ..................................... 73
3.1. Kiểu con người dấn thân – dấn thân chống lại cái phi lí .......................... 75
3.2. Kiểu con người chịu đựng - chịu đựng cái phi lí ...................................... 88
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 100
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 106
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Albert Camus (1913 – 1960) là nhà văn nổi tiếng của Pháp thế kỉ XX (nhà
văn Algieria sống trên đất Pháp). Ông đoạt giải Nobel năm 1957 với nhiều tác
phẩm trong đó có tiểu thuyết Dịch hạch. Ông là nhà văn có tầm ảnh hưởng lớn,
rất được quan tâm nghiên cứu ở Pháp và trên thế giới.
Philip Roth (1933) (nhà văn Mĩ gốc Do Thái) cũng là nhà văn đoạt nhiều
giải thưởng văn học (hai lần giải thưởng Sách Toàn Quốc, giải thưởng của giới
phê bình sách toàn quốc, ba lần giải thưởng Pen/Faulkner, đoạt giải của Hiệp hội
Sử gia Hoa Kì với tác phẩm The Plot Against America, hai giải thưởng cao quý
nhất thuộc hệ thống giải Văn học Pen: Pen/Nabokov và Pen/Bellow, giải Man
Booker quốc tế, giải Pulitzer,… là tiểu thuyết gia người Mĩ được phát hành toàn
tập tác phẩm ngay khi còn sống). Ông là nhà văn rất được quan tâm ở Mĩ. Tuy
nhiên, ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về Philip Roth còn hạn chế. Tiểu thuyết
Báo ứng được Philip Roth cho là tiểu thuyết cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác
của ông. Nghiên cứu Philip Roth ở Việt Nam là một công việc có ý nghĩa và
thú vị.
Dù là hai nhà văn thuộc hai quốc gia khác nhau, tuy nhiên, giữa Roth và
Camus lại có những điểm tương đồng khi dùng bệnh dịch làm ẩn dụ trong tác
phẩm để nói lên nhiều điều trong cuộc sống con người, đặt ra những vấn đề
khiến chúng ta phải suy nghĩ. Mặc dù một tác phẩm thuộc thế kỉ XX (Dịch
hạch), một tác phẩm thuộc thế kỉ XXI (Báo ứng), nhưng sự gặp gỡ giữa hai tác
phẩm là một điều không thể phủ nhận. Chính điều đó đã thôi thúc chúng tôi
nghiên cứu đề tài này. Từ việc nghiên cứu, tác giả luận văn hi vọng sẽ rút ra
được một cái nhìn hệ thống về nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết trong hai tác
phẩm này, thấy được những điểm gặp gỡ thú vị giữa hai nhà văn, sự độc đáo
trong bút pháp thể hiện của mỗi tác giả. Đồng thời, nghiên cứu Philip Roth và
2
Albert Camus, tác giả luận văn cũng hi vọng sẽ góp được một phần, dù là khiêm
nhường, đến việc tiếp nhận ở Việt Nam đối với tác phẩm của hai nhà văn.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết
trong “Dịch hạch” của Albert Camus và “Báo ứng” của Philip Roth để
nghiên cứu.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của đề tài là ở hai tiểu thuyết:
Dịch hạch (Albert Camus) và Báo ứng (Philip Roth).
Về tác phẩm Dịch hạch của Camus, hiện ở Việt Nam có những bản dịch
sau:
Dịch hạch, Hoàng Văn Đức dịch, Nxb Thời Mới, 1966
Dịch hạch, Võ Văn Dung dịch, Nxb Dịch Giả, 1971
Dịch hạch, Nguyễn Trọng Định dịch và giới thiệu, Nxb. Văn Học, 1989;
2002.
Trong luận văn này, chúng tôi chọn bản dịch của Nguyễn Trọng Định để
khảo sát, bên cạnh đó, chúng tôi cũng chú ý so sánh với nguyên tác La Peste ở
những chỗ cần thiết.
Về tiểu thuyết Báo ứng của Philip Roth, chúng tôi dùng bản dịch của Hà
Nguyễn, Sao Mai, Nxb Trẻ, 2013. Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi
cũng sẽ lưu ý khảo sát nguyên bản Nemesis bằng tiếng Anh.
Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài ở việc tìm hiểu nghệ
thuật xây dựng tiểu thuyết trong hai tác phẩm Dịch hạch (Albert Camus) và Báo
ứng (Philip Roth). Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng sẽ liên hệ, so
sánh với những tác phẩm khác của hai nhà văn, của các tác giả khác để có thể
đưa ra những kết luận xác đáng.
3
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Về Albert Camus và tiểu thuyết Dịch hạch
Tác phẩm của Albert Camus từ lâu đã xuất hiện khá nhiều trong văn học
Việt Nam. Tác phẩm đầu tiên được dịch ra tiếng Việt của Albert Camus là
Người đàn bà ngoại tình được Nguyễn Văn Trung giới thiệu vào cuối năm 1960.
Sau tác phẩm này, suốt giai đoạn từ 1963 – 1973, đã có khoảng 16 bản dịch các
tác phẩm của Albert Camus tại Việt Nam.
Trong các công trình nghiên cứu về Albert Camus và tiểu thuyết Dịch hạch
,đáng chú ý nhất có thể kể đến công trình Tiểu thuyết A. Camus trong bối
cảnh tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX của Trần Hinh. Ngoài ra, trong một số các
công trình khác, cuộc đời, tư tưởng, đặc điểm sáng tác nổi trội trong một vài tác
phẩm của Albert Camus cũng được các tác giả nêu lên một cách khái quát. Có
thể kể đến các công trình như: Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX - Truyền thống và
cách tân (Lộc Phương Thủy), Tiểu thuyết Pháp hiện đại - những tìm tòi đổi
mới (Phùng Văn Tửu), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại
(Đặng Anh Đào), Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XX (nhiều tác giả), Văn học
phi lí (Nguyễn Văn Dân), Văn học phương Tây (nhiều tác giả).
Ở đây, tác giả luận văn chỉ lưu ý đến những công trình có liên quan trực
tiếp đến nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Dịch hạch của Albert Camus.
Trong Tiểu thuyết A. Camus trong bối cảnh tiểu thuyết Pháp thế kỉ
XX, Trần Hinh đã nói đến phương thức kể chuyện “nước đôi” trong Dịch hạch.
Tác giả chú ý khai thác phương thức kể chuyện “nước đôi” qua bối cảnh, thể
loại và nhan đề của tác phẩm. Đây là một đóng góp quan trọng của Trần Hinh
cho việc nghiên cứu tiểu thuyết Dịch hạch ở Việt Nam, song công trình chỉ chú
ý đến phương thức kể chuyện “nước đôi” trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết
này, chưa quan tâm đến những yếu tố khác như: chủ đề, cốt truyện, nhân vật.
4
Phùng Văn Tửu trong Tiểu thuyết Pháp hiện đại - những tìm tòi đổi
mới cũng đã nhắc đến tiểu thuyết Dịch hạch nhưng nó chỉ được xem xét ở góc
độ “người kể chuyện đóng hai vai”.
Luận văn Thạc sĩ Chủ nghĩa hiện sinh trong một số tiểu thuyết và
truyện ngắn của Albert Camus của tác giả Lưu Mai Tâm (Đại học Vinh, 2009)
đã đi sâu tìm hiểu về tiểu thuyết của Albert Camus, trong đó có nói đến tác
phẩm Dịch hạch ở vấn đề phi lí và nổi loạn. Tác giả xem phi lí là “đối tượng
trung tâm trong thế giới nghệ thuật của Camus” và chú trọng đến kiểu nhân vật
nổi loạn. Về việc xem cái phi lí là “đối tượng trung tâm trong thế giới nghệ thuật
của Albert Camus”, chúng tôi nhận thấy tác giả Lưu Mai Tâm đã có những đóng
góp tích cực cho việc hiểu rõ hơn về nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết của Albert
Camus dù chưa thực sự chú trọng nhiều đến tiểu thuyết Dịch hạch (do phạm vi
nghiên cứu của đề tài).
Luận văn thạc sĩ Biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết của Albert
Camus của tác giả Đinh Thị Thanh Huyền (Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008) đã
nói đến ý nghĩa một số biểu tượng trong tiểu thuyết của Albert Camus trong đó
có nói về biểu tượng nhân vật (Rieux - Người phản kháng bằng nỗ lực của con
người bình thường, Tarrou- Vị Thánh không Chúa xả thân vì đồng loại) và dịch
hạch. Tác giả đã nêu được các ý nghĩa của biểu tượng dịch hạch như: dịch hạch
về mặt tinh thần, chiến tranh phát xít, phân biệt chủng tộc.
3.2. Về Philip Roth và tiểu thuyết Báo ứng
Philip Roth là nhà văn rất được quan tâm nghiên cứu ở Mĩ. Điều đó được
thể hiện qua rất nhiều giải thưởng được dành cho ông và các sách, bài báo viết
về ông và tác phẩm của ông, chẳng hạn như: Philip Roth’s Postmodern
American Romance của Elaine B. Safer, Mocking the age – The later novels
of Philip Roth của tác giả Elaine B. Safer, Philip Roth - New Perspective on
an American Author của tác giả Derek Parker Royal,…
5
Là một tiểu thuyết mới xuất bản của Philip Roth, Báo ứng chưa được
nghiên cứu với tư cách như một công trình chính thức mà chỉ dừng lại ở một vài
bình luận hoặc điểm sách trên các báo, tạp chí. Dưới đây, chúng tôi chỉ chọn ra
những bài điểm sách có liên quan đến vấn đề mà luận văn này nghiên cứu.
Trong bài điểm sách Nemesis (in trên Booklist - ấn phẩm của Thư viện
hiệp hội Mĩ), Brad Hooper đã nhận xét: “đây là tiểu thuyết cuối cùng, đã vượt
xa hàng loạt các tiểu thuyết trước đó về cả cảm xúc và trí tuệ” (this latest in the
series far exceeds its predeces-sors in both emotion and intellect). Tác giả này
đã khẳng định được vị trí, tầm quan trọng của tiểu thuyết Báo ứng trong sự
nghiệp văn chương của Philip Roth. Song, với tính chất chỉ là một bài điểm
sách, Brad Hooper vẫn chưa đi vào phân tích kĩ nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết
này.
Victoria Aarons trong bài viết Expelled Once Again : The Failure of the
Fantasized Self in Philip Roth’ Nemesis đã nói đến những thất bại trong sự
tưởng tượng tái tạo một cuộc sống mới của nhân vật Bucky Cantor giữa lúc dịch
bệnh hoành hành, đồng thời, tác giả cũng nói đến những ý nghĩa thực tế của
bệnh bại liệt, được xem như một ẩn dụ trong tác phẩm. Dịch bại liệt là ẩn dụ cho
nỗi ám ảnh về chiến tranh, về việc Mỹ bài Do Thái: “Roth's Newark becomes
the metaphorical point of connection of two men-acing historical events: the
devastating outbreak of polio running rampant throughout the city and the
heightening peril of the Nazi assault on Europe's Jews. The language of the one
evokes the reality of the other, the war haunting the course of the polio
epidemic, an analogy exacerbated by palpably reactive American anti-
Semitism” [65, tr.51- 63]. Như vậy, bài viết của Victoria Aarons đã nêu lên
được một vài khía cạnh quan trọng của tiểu thuyết Báo ứng, đặc biệt là đã khẳng
định bệnh bại liệt như là một ẩn dụ trong tác phẩm. Song, bài viết vẫn chưa phân
6
tích được một cách cụ thể và chi tiết về vấn đề này. Nghệ thuật xây dựng cốt
truyện và nhân vật cũng chưa được tác giả bài viết làm rõ.
Về tình hình nghiên cứu Philip Roth và tiểu thuyết Báo ứng ở Việt Nam,
chúng ta thấy rằng tác phẩm của Philip Roth được dịch sang tiếng Việt chỉ có:
Chia tay thôi, Columbus; Người phàm; Báo ứng. Trực tiếp nói về Báo ứng chỉ
có các bài báo mang tính chất giới thiệu tác phẩm như: Khi người ta già của
Hoài Nam đăng trên trang web http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn nói về vấn đề
tuổi già và cái chết trong Báo ứng. Tác giả cho rằng “dường như càng về cuối
đời thì Philip Roth lại càng ra sức xóa bỏ ảo tưởng của con người, của chính
mình, về những chân giá trị của sự tồn tại người.” [83]. Bài viết chỉ nói lên được
hướng đi của ngòi bút Philip Roth trong sáng tác tiểu thuyết Báo ứng, chưa nói
được nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết này.
Nemesis (Nữ thần Báo ứng) – Philip Roth của tác giả Đào Đạo đăng
trên http://m.voatiengviet.com/a/916767.html giới thiệu sơ lược về sự nghiệp
của Philip Roth, tóm tắt cốt truyện Báo ứng và đưa ra nhận xét về nhân vật trong
tiểu thuyết: “những nhân vật trong bộ truyện này cho thấy con người hầu như
bất lực trong việc cưỡng chống lại hoàn cảnh và lịch sử, không có mấy chọn lựa,
dù có chọn lựa chăng nữa thì đó cũng là những chọn lựa ngẫu nhiên mà thôi.”
[97]. Tác giả chỉ dừng lại ở việc nhận xét chứ chưa đi sâu vào nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong Báo ứng.
Trần Quốc Tân trong bài Khi người viết là ngôn sứ trên
trang http://tuoitre.vn/tuoi-tre-cuoi-tuan/van-hoa-nghe-thuat/566237/khi-nguoi-
viet-la-ngon-su.html đã nói lên được thái độ, tư tưởng của Philip Roth thể hiện
qua Báo ứng trong so sánh với Paul Auster và Nguyễn Việt Hà: “Ở tác phẩm thứ
31 và cũng là cuối cùng này trong sự nghiệp, Philip Roth trở thành vị ngôn sứ hà
khắc, phê phán và loan báo những hình phạt. Bản thân sứ điệp này cũng là sự tự
vấn: Liệu Chúa có cảm thông cho một cuộc đời đơn lẻ hay ngài phụng sự một sứ
7
mệnh lớn lao hơn?” [85]. Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Báo ứng chưa được
tác giả đề cập tới.
Tóm lại, hiện chưa thấy một công trình nào nghiên cứu nghệ thuật xây
dựng tiểu thuyết trong Báo ứng của Philip Roth ở Việt Nam và nước ngoài một
cách cụ thể, hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Báo
ứng của Philip Roth hứa hẹn sẽ mở ra những hướng tiếp cận thú vị đối với tác
phẩm của Philip Roth ở Việt Nam nói chung và Báo ứng nói riêng.
Đề tài Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết trong “Dịch hạch” của Albert
Camus và “Báo ứng” của Philip Roth vừa kế thừa những kết quả đã đạt được
của các công trình trước, vừa mong muốn mở ra một cách nhìn mới về nghệ
thuật xây dựng tiểu thuyết của Albert Camus và Philip Roth qua hai tác phẩm
này trong cái nhìn so sánh.
4. Nhiệm vụ khoa học
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết trong Dịch hạch của Albert
Camus và Báo ứng của Phlip Roth để thấy được những nét độc đáo, sự tương
đồng và dị biệt trong phong cách sáng tác của hai tác giả Albert Camus và Philip
Roth và phần nào tìm ra nguyên nhân và lí giải sự tương đồng, dị biệt đó.
4.2. Đóng góp của luận văn
Luận văn đưa ra một cái nhìn tổng thể, toàn diện và có chiều sâu về nghệ
thuật xây dựng tiểu thuyết trong hai tác phẩm Dịch hạch và Báo ứng trong mối
liên hệ về mặt đề tài, cốt truyện, nhân vật. Từ đó thấy được nét độc đáo trong
nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết của hai nhà văn lớn của Pháp và Mĩ với hai thời
kì sáng tác khác nhau. Đồng thời chỉ ra những nét tương đồng, dị biệt trong nghệ
8
thuật xây dựng tiểu thuyết của Albert Camus và Philip Roth qua Dịch hạch và
Báo ứng, phần nào chỉ ra nguyên nhân và lí giải chúng.
Qua việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ giúp tác phẩm của hai
tác giả nổi tiếng trong văn học Pháp và Mĩ đến gần với độc giả Việt Nam hơn,
đặc biệt là tác giả Philip Roth (vì ông ít được chú ý ở Việt Nam). Đó cũng là
một ý nghĩa thực tiễn của đề tài này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong toàn
luận văn nhằm kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận định ở
các chương, các phần.
Phương pháp so sánh – đối chiếu: đây là phương pháp hỗ trợ đắc lực cho
luận văn trong việc chỉ ra những tương đồng, dị biệt, những nét độc đáo, sáng
tạo riêng của Albert Camus và Philip Roth trong nghệ thuật xây dựng hai tiểu
thuyết Báo ứng và Dịch hạch, phần nào chỉ ra nguyên nhân và lí giải chúng. Bên
cạnh đó, chúng tôi cũng đặt hai tác phẩm này trong hệ thống sáng tác của từng
tác giả để có những kết luận chính xác hơn về nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết
của hai nhà văn, đồng thời, chúng tôi cũng sẽ đặt hai tác giả này trong mối quan
hệ với các nhà văn cùng thời hoặc trước và sau họ để thấy được nét độc đáo trên
cái nền chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học.
Phương pháp thống kê – phân loại: dùng để thống kê các câu văn, các chi
tiết nghệ thuật, những biện pháp tu từ thể hiện rõ đặc trưng thẩm mĩ trong tiểu
thuyết của Albert Camus và Philip Roth, sau đó hệ thống hóa, đặt chúng vào
những nội dung chung phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả và
phương pháp lịch sử để hiểu rõ hơn về tư tưởng, quan niệm sống, sáng tác của
9
nhà văn, hiểu rõ hơn về thời đại họ sống, từ đó có những kết luận xác đáng hơn
cho nội dung nghiên cứu.
6. Cấu trúc luận văn
6.1. Phần mở đầu
6.2. Chương 1: Nghệ thuật xây dựng đề tài - bệnh dịch như một ẩn dụ.
Chương này sẽ trình bày những ẩn dụ của bệnh dịch được nêu trong hai tác
phẩm Dịch hạch và Báo ứng. Từ đó, chúng tôi đưa ra nhận định khái quát về ẩn
dụ được hai nhà văn xây dựng ở đây là ẩn dụ cho thảm họa chiến tranh, sự kì thị
chủng tộc, những rào cản tự do…trong cuộc sống, tức là những cái có sức ám
ảnh lớn đối với con người. Chương này có tác dụng tạo tiền đề khái quát về tác
phẩm, tư tưởng của nhà văn để từ đó chúng tôi sẽ đi vào chi tiết hơn ở các
chương sau.
6.3. Chương 2: Sự chi phối của quan niệm phi lí và những nỗi ám ảnh đối
với nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Như vậy, chương 2 sẽ làm rõ nghệ thuật xây
dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng nhìn từ góc độ sự chi phối của tư tưởng
vào các chi tiết, hình ảnh, tình huống, cách kết thúc truyện. Từ đó, chúng tôi sẽ
có sự so sánh để tìm ra những điểm giống và khác nhau trong nghệ thuật xây
dựng cốt truyện ở hai tác phẩm, phần nào lí giải chúng.
6.4. Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật - kiểu con người chịu đựng
và dấn thân: chương này sẽ đi vào cụ thể thêm một mức nữa nghệ thuật xây
dựng tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng ở phương diện nhân vật. Tác giả luận
văn sẽ làm rõ sự chi phối kiểu của quan niệm phi lí vào nghệ thuật xây dựng
nhân vật – kiểu con người dấn thân, và sự chi phối của những nỗi ám ảnh vào
nghệ thuật xây dựng nhân vật – kiểu con người chịu đựng.
6.5. Phần kết luận
10
Chương 1. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG ĐỀ TÀI – BỆNH DỊCH
NHƯ MỘT ẨN DỤ
Với một tiểu thuyết, chọn được một đề tài hay để viết không phải là khó
nhưng để khai thác đề tài một cách thành công, tránh sự trùng lắp là một việc
làm đòi hỏi nhà văn phải hết sức sáng tạo mới có thể để lại dấu ấn riêng cho
mình.
Bệnh dịch là một đề tài không quá mới trong văn học, tuy nhiên, cách dùng
bệnh dịch để nói đến một quan niệm, một tư tưởng sao cho đạt đến sự thành
công, khéo léo, tinh tế và trí tuệ không phải ai cũng làm được. Có người chỉ
dừng lại ở mức độ thuật lại sự thật hoặc ẩn dụ cho một tư tưởng nhất định.
Ngược lại, bằng việc xây dựng đề tài bệnh dịch như một ẩn dụ, Camus và Roth
đã tạo nên những cách hiểu đa dạng và sâu sắc cho tác phẩm của mình. Do cùng
đề tài nên tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng đã có những điểm gặp gỡ hết sức
thú vị. Trong cả hai tác phẩm, bệnh dịch đều mang ý nghĩa ẩn dụ, được Camus
và Roth khéo léo chuyển tải các vấn đề đáng quan tâm trong cuộc sống, trong
thời đại của mình.
Trước hết, chúng ta cần biết qua các khái niệm đề tài là gì, ẩn dụ là gì để có
thể hiểu đúng nghệ thuật xây dựng đề tài hai tiểu thuyết này là như thế nào, từ
đó làm cơ sở vững vàng cho việc tìm hiểu những vấn đề chi tiết hơn của chương
này. Khái niệm đề tài được nêu rất nhiều trong các sách lí luận, ở đây, chúng tôi
lưu ý khái niệm trong Giáo trình lí luận văn học của Lê Tiến Dũng: “đề tài là
phạm vi hiện thực được đề cập đến trong tác phẩm nhằm để thể hiện thế giới
nghệ thuật của tác phẩm” [15, tr.116]. Phạm vi hiện thực ở đây có thể là một
phạm vi nhất định nào đó của đời sống, có thể có thật hoặc do nhà văn tưởng
tượng ra, đó chính là điều nhà văn quan tâm. Từ việc chọn đề tài cho tác phẩm,
nhà văn bộc lộ khuynh hướng tư tưởng, thế giới quan của mình. Những nhà văn
11
chọn cùng một đề tài thường có khuynh hướng tư tưởng và thế giới quan gần
giống nhau. Tuy nhiên, mỗi người đều có một nét riêng nhất định trong cách xử
lí đề tài.
Đôi khi đề tài được giới hạn cụ thể ở một phạm vi đời sống cụ thể nào đó,
được thể hiện qua cách gọi tên, chẳng hạn: đề tài người lính, đề tài miền núi, đề
tài nông dân,… Thật ra, tên gọi đề tài chỉ là cái giới hạn bề ngoài, muốn biết đề
tài thực sự là gì thì cần phải xem xét chúng được xây dựng để biểu đạt những
cảm xúc nào, ám chỉ những quan hệ nào, hướng vào bộc lộ tính cách nào. Cùng
viết về đề tài miền núi nhưng Nguyên Ngọc lại chú ý khai thác hình ảnh quật
cường trong kháng chiến của con người, còn Tô Hoài thì chú ý nhiều hơn về
phong tục, đời sống sinh hoạt của người miền núi, Nguyễn Tuân thì lại quan tâm
ở khía cạnh thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp,…
Tác phẩm văn học thường có cả một hệ đề tài, tức là nhiều đề tài được nói
đến, chúng tồn tại trong mối quan hệ tương tác, hỗ trợ, và soi chiếu cho nhau để
làm bật lên quan niệm chính yếu của nhà văn trong tác phẩm. Đề tài cũng mang
tính lịch sử của nó. Một đề tài có thể trở đi trở lại trong sáng tác của nhà văn
nhiều thế hệ, ví dụ như các đề tài muôn thuở: chiến tranh, tình yêu, thân phận
con người,…
Trong sáng tác văn chương, nhà văn luôn tìm cho mình phương pháp tối ưu
nhất để chuyển tải thông điệp từ tác phẩm. Và việc sử dụng biện pháp tu từ là
điều không thể thiếu. Một trong những phép tu từ được xem là phương tiện hỗ
trợ đắc lực cho nhà văn trong việc thể hiện ý tưởng đó là phép ẩn dụ. Có rất
nhiều quan niệm về ẩn dụ ở Việt Nam. Nhìn chung, cách đề xuất của các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ là cần xem xét ẩn dụ ở hai góc độ: ẩn dụ từ vựng và ẩn dụ
tu từ.
Ở đây, chúng tôi chỉ quan tâm đến hình thức ẩn dụ tu từ, vì vậy, ẩn dụ từ
vựng chỉ được điểm qua sơ lược qua một vài ý kiến tiêu biểu. Đỗ Hữu Châu và
Nguyễn Thiện Giáp có sự gặp gỡ nhau khi cùng cho rằng “ẩn dụ là cách gọi tên
12
sự vật, hiện tượng này bằng tên của sự vật, hiện tượng khác, giữa chúng có mối
tương đồng” [10, tr.54]; “Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau
giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau” [23, tr.162]. Hữu Đạt
và Nguyễn Đức Tồn đã góp phần hoàn chỉnh khái niệm ẩn dụ khi khẳng định cơ
sở của ẩn dụ chính là so sánh ngầm.
Ẩn dụ tu từ xuất phát từ cơ sở của ẩn dụ từ vựng nhằm tạo nên những biểu
tượng trong nhận thức con người. Trong nghiên cứu văn học, ẩn dụ tu từ thường
được quan tâm hơn. Đó là biện pháp tu từ ngữ nghĩa nhằm xây dựng hình tượng
thẩm mĩ (không chỉ gọi tên mà quan trọng hơn là gợi ra những liên tưởng có liên
quan chủ yếu đến đời sống tình cảm của con người).
Theo Đinh Trọng Lạc: “Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình
tượng, dựa trên sự tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiện thực hoặc
tưởng tượng ra) giữa khách thể (hiện tượng, hoạt động, tính chất) A được định
danh với khách thể (hiện tượng, hoạt động, tính chất) B có tên gọi được dùng
chuyển sang cho A” [34, tr.52]. Tác giả Hữu Đạt nói cụ thể hơn một bước nữa:
“Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra. Người tiếp nhận văn bản khi tiếp
cận với phép ẩn dụ phải dùng năng lực liên tưởng để qui chiếu giữa các yếu tố
hiện diện trên văn bản với các sự vật hiện tượng tồn tại ngoài văn bản.” [19,
tr.302].
Trong luận văn này, chúng tôi hiểu ẩn dụ là cách gọi tên sự vật hiện tượng
này bằng tên gọi của sự vật hiện tượng khác dựa trên một số nét tương đồng. Cơ
chế của ẩn dụ chính là so sánh ngầm.
Từ một phạm vi đời sống cụ thể, nhà văn đi đến khái quát lên những vấn
đề thuộc ý hướng, tư tưởng của mình, nghĩa là những thứ vượt qua cái cụ thể. Ở
đây có thể xuất hiện tính ẩn dụ của đề tài. Từ việc “dùng năng lực liên tưởng để
qui chiếu giữa các yếu tố hiện diện trên văn bản với các sự vật hiện tượng tồn
tại ngoài văn bản”, và cách hiểu đề tài như trên, chúng tôi nhận thấy đề tài bệnh
dịch trong Dịch hạch và Báo ứng có thể là ẩn dụ cho chiến tranh, nạn kì thị
13
chủng tộc, những khiếm khuyết tinh thần, những rào cản tự do bởi chúng có
những nét tương đồng với biểu hiện, tính chất, hậu quả,…của bệnh dịch. Từ việc
ẩn dụ dựa trên cơ sở so sánh ngầm này, đề tài của hai tiểu thuyết trở thành một
hình tượng nghệ thuật có sức biểu trưng cao, có ý nghĩa lớn lao trong hoạt động
nhận thức, thẩm mĩ và hành động thực tiễn của con người.
Trong Dịch hạch và Báo ứng, đề tài bệnh dịch được xây dựng dựa trên
phương thức ẩn dụ, dùng bệnh dịch để nói đến những cái khác hơn dựa trên một
số nét tương đồng về tính chất, biểu hiện và hậu quả của nó. Trong quá trình
khảo sát, chúng tôi nhận thấy bệnh dịch được hai tác giả ẩn dụ để chỉ các vấn đề
về thảm họa chiến tranh, những khiếm khuyết về mặt tinh thần của con người,
sự kì thì chủng tộc, ẩn dụ cho rào cản tự do,… Đây là những điều nằm ngoài tầm
kiểm soát của con người, đặc biệt là những nạn nhân. Dịch bệnh, chiến tranh,
nạn kì thị, những rào cản tự do, những khiếm khuyết tinh thần là thứ gây cho
con người biết bao khổ ải, nó đặt chúng ta vào vòng xoáy của cái phi lí. Tình
trạng sống của con người hiện tại là tình trạng chịu đựng một thứ dịch bệnh ẩn
dụ - ẩn dụ cho những cái phi lí, mà biểu hiện của nó chính là những điều chúng
tôi đã kể ở trên.
1.1. Bệnh dịch - ẩn dụ cho thảm họa chiến tranh
Dịch hạch của Camus và Báo ứng của Philip Roth đều là những tác phẩm
khai thác rất thành công đề tài bệnh dịch. Hai nhà văn đã dùng cái cụ thể đó là
bệnh dịch để nói đến những vấn đề khái quát, trừu tượng khác như chiến tranh,
đau khổ, khủng bố, chém giết,…tất cả những thứ đã và đang diễn ra trong đời
sống hàng ngày mà chúng ta không có dịp suy ngẫm, chiêm nghiệm. Đọc Dịch
hạch và Báo ứng, chúng ta có cảm giác như chính mình vừa trải qua một trận đại
dịch với biết bao cung bậc cảm xúc. Có một điều khá rõ ràng đó là hai tác phẩm
này dễ gợi chúng ta liên tưởng đến các vấn đề về chiến tranh. Hay nói cách
khác, dịch bệnh đã được hai nhà văn xây dựng như một ẩn dụ cho chiến tranh,
cho những thảm họa đang đe dọa cuộc sống con người.
14
Dịch hạch đến trong sự ngỡ ngàng của người dân thành phố Oran, họ
không tin đó là sự thật, và càng không tin hơn nó lại xảy đến với mình: “Trên
thế giới, dịch hạch cũng nhiều như chiến tranh. Thế nhưng đứng trước dịch
hạch và chiến tranh, người ta vẫn luôn bất ngờ (…). Khi chiến tranh nổ ra,
người ta bảo nhau: Không lâu đâu, vì thật là quá ngu dại! Và dĩ nhiên chiến
tranh là quá ngu dại, nhưng không phải vì vậy mà chiến tranh không kéo dài.”
[6, tr.55-56]. Ngay ở đầu tiểu thuyết, Camus đã cho chúng ta thấy Dịch hạch
không đơn thuần nói về dịch bệnh mà nó còn mang ý nghĩa ẩn dụ cho chiến
tranh. Xét cho cùng, không ai biết vì sao dịch bệnh xuất hiện cũng như không ai
tìm được lí do cho những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Trong mọi cuộc chiến
tranh, dù cho phe nào thắng thì nhân nhân cũng là kẻ bại trận, là kẻ chịu trên
mình những mất mát, thương tích. Qua một trận dịch bệnh, kẻ mất, người còn,
nhưng chắc chắn những người ở lại cũng phải gánh trên mình nỗi đau li biệt.
Một khi dịch bệnh xuất hiện, cánh cửa thành phố đóng lại cũng chính là lúc
con người bắt đầu cuộc sống lưu đày với cái chết luôn chực sẵn trên đầu mình
mà không biết nó sẽ đổ ập xuống lúc nào. Đó là tình cảnh của người dân thành
phố Oran (Dịch hạch) và thành phố Newark (Báo ứng), nơi dịch bệnh hoành
hành. Việc cách li – kiểm dịch là không thể tránh khỏi và điều đó cũng đồng
nghĩa với việc một đi không trở lại. Cũng như những người lính tham gia chiến
tranh ắt hẳn cũng mang tâm trạng đó. Mình xa gia đình, xa quê hương để chiến
đấu vì điều gì? Mình bỏ mạng là vì ai? Và cảm giác cái chết đang đứng bên bờ
vực, nó sẽ sẵn sàng lôi họ xuống bất cứ lúc nào, nó luôn luôn đeo đẳng họ.
Cảm giác lưu đày, cảm giác chia li đau khổ càng trở nên thấm thía hơn khi
những người thương yêu của mình mới hôm qua còn nhìn thấy mặt nhau, hôm
nay đã bị cuộc tử - sinh chia biệt đôi đường… Chỉ có cảnh dịch bệnh mới có thể
lột tả được một cách cụ thể và sâu sắc cảm giác của con người trong chiến tranh.
Dịch bệnh ban đầu chỉ xảy ra ở một vài trường hợp đơn lẻ, không gây chú ý
mấy cho cơ quan y tế và chính quyền. Ban đầu, dịch hạch xuất hiện ngay sau cái
15
chết hàng loạt của những con chuột trong thành phố, nhưng các bác sĩ và tỉnh
trưởng thành phố Oran ngần ngại không dám (không muốn) gọi căn bệnh này là
“dịch hạch” vì sợ gây náo loạn trong lòng dân, trường hợp tương tự này đã xảy
ra trong Báo ứng.
“Qua một đêm mà có tới mười một ca mắc trong khu Weequahic! Một
trẻ chết! Tôi muốn biết Ủy ban Y tế đang làm gì để bảo vệ lũ trẻ của
chúng ta” [48, tr.37]
“Thành phố đang làm gì để ngăn chặn dịch? Không hề làm gì!”
“Phải làm gì đó đi chứ - mà họ có làm đâu” [48, tr.38]
Những câu hỏi của họ không được ai hồi đáp ngoài chính họ. Con người
loay hoay giữa dịch bệnh, không tìm được con đường thoát thân, không tìm ra
sự cứu cánh.
Nếu như trong Dịch hạch, người ta tranh cãi và không thừa nhận có sự xuất
hiện của bệnh dịch hạch vào lúc ban đầu thì trong Báo ứng, dù thừa nhận tên gọi
bại liệt nhưng các cơ quan vẫn không biết làm gì, thờ ơ trong cách ứng phó
trong khi dịch bệnh đang có nguy cơ lan tràn (và nó đã thực sự lan tràn!). Điều
này gợi sự liên tưởng đến chiến tranh thế giới thứ nhất, mà gần đây là chiến
tranh thế giới thứ hai. Chiến tranh thế giới thứ hai mở đầu bằng các cuộc xâm
lược lẻ tẻ: đầu tiên là cuộc tiến quân của phe phát xít, đại diện là Nhật Bản tiến
đến Mãn Châu Trung Quốc. Lúc này, vì không có những biện pháp phản kháng
phù hợp mà Trung Quốc đã lần lượt để rơi từng phần lãnh thổ của mình vào tay
Nhật. Điều tương tự xảy ra ở Châu Âu, cụ thể là Pháp – quê hương của tác giả
tiểu thuyết Dịch hạch. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này trong sự đối chiếu với tác
phẩm Dịch hạch: khi chiến tranh thế giới thứ hai chính thức nổ ra, người Pháp
đã không được trang bị, họ sợ hãi trước sự phá hoại như những cổ máy của Đức
quốc xã. Sự sợ hãi cùng với sự thiếu đoàn kết đã làm cho nước Pháp suy yếu
nghiêm trọng. Bệnh dịch kéo dài gần một năm, chiếm đóng ở Pháp kéo dài bốn
năm. Trong những năm đó, đa số người Pháp bám theo bản năng sống của mình,
16
tìm kiếm những thú vui nhỏ, cầu nguyện liên tục, nhưng điều đó không giúp họ
chống lại kẻ thù. Lực lượng chiến đấu chống lại kẻ thù không phải là nhiều ở
Pháp, cũng giống như đội y tế của Rieux, dù không nhiều nhưng luôn dùng hành
động của mình chiến đấu quyết liệt chống Dịch hạch, mà dịch hạch thì mạnh mẽ
hơn biết bao lần. Họ vẫn kiên trì tin tưởng vào những nỗ lực đúng đắn của mình.
Có rất nhiều khía cạnh trong Dịch hạch khiến ta liên tưởng đây là câu
chuyện ẩn dụ cho chiến tranh. Thị trấn Oran bị ảnh hưởng bởi dịch hạch và cắt
đứt với thế giới bên ngoài tương đương với nước Pháp đã bị tấn công bởi Đức
quốc xã. Những người dân trong thành phố không tin rằng dịch bệnh sẽ xảy ra
với họ cũng giống như thái độ tự mãn của người Pháp vào đầu cuộc chiến. Họ
không thể tưởng tượng được rằng người Đức, kẻ thù mà họ đã đánh bại chỉ 20
năm trước đây, có thể đánh bại họ chỉ trong sáu tuần như điều đã xảy ra ở Pháp
vào tháng 6/1940.
Thái độ của các nhân vật trong Dịch hạch phản ánh thái độ khác nhau của
người dân Pháp ở những nghề nghiệp khác nhau trong chiến tranh. Một bộ phận
dân số tương đương với suy nghĩ của Panolux: nếu Panolux tin vào vị thế toàn
năng của Chúa thì một bộ phận người Pháp tin rằng sự thống trị lâu dài của Đức
ở Châu Âu là một điều tất yếu lịch sử. Cách suy nghĩ này dẫn đến thái độ cam
chịu, thủ tiêu việc đấu tranh. Một lực lượng nhỏ đại diện cho những người
chống phát xít Đức, tương đương với đội y tế của Rieux. Một số khác lại cộng
tác với Đức, trong tiểu thuyết được đại diện bởi Cottard, người chào đón bệnh
dịch hạch và lợi dụng sự thiếu thốn kinh tế để bán hàng lậu, thu lợi bất chính về
mình. Như vậy, khi viết Dịch hạch, Camus đã sống trong một quê hương bị
chiếm đóng bởi quân xâm lược Đức. Đất nước ông bị bỏ tù, nó hoàn toàn giống
như một thứ bệnh dịch hạch niêm phong biên giới lãnh thổ nước ông. Có hủy
diệt, cái chết và đau khổ. Bạo lực tàn nhẫn của việc này giống như là sự bất công
(bất công ở chỗ con người sinh ra là để sống nhưng dịch bệnh lại bắt họ phải
chết), sự tàn ác của một bệnh dịch hạch. Và ghi chép của Camus như là một sự
17
khẳng định giá trị cá nhân của con người và cuộc sống mặc dù đã phải lưu vong
trong vũ trụ, dù bị tàn phá bởi bệnh tật và bạo chúa. Đó là một niềm tin vào tiềm
năng sống với ý nghĩa trọn vẹn của nó. Niềm tin này là đặc biệt đáng chú ý vì
Camus nhận ra rằng thế giới đã không tận tâm phản ứng với cái triệu chứng của
chiến tranh, đặc biệt là Pháp, đã bị các sử gia chỉ trích vì đã để thua quá dễ dàng,
khiến đất nước rơi vào tay Đức quốc xã.
Tương tự như trong Dịch hạch, đề tài dịch bệnh trong Báo ứng cũng gợi
cho người đọc liên tưởng nhiều đến chiến tranh. Thời gian xảy ra dịch bại liệt ở
Newark là vào mùa hè năm 1944, là thời gian Hoa Kì thực hiện các cuộc chiến ở
mặt trận Thái Bình Dương. Roth cũng là nhà văn đã từng tham gia chiến tranh
trong chiến tranh thế giới thứ hai nên ông thấu hiểu cảm giác của con người
trong cuộc chiến: cuộc chiến chống bại liệt cũng không khác gì mấy cuộc chiến
của người lính trong chiến tranh. Không biết dịch bệnh khi nào mới kết thúc và
không lí giải được mầm mống căn bệnh, để đến khi phát hiện ra chính mình là
kẻ gieo rắc mầm bệnh (Bucky Cantor), con người đã hết sức hốt hoảng và hoàn
toàn rơi vào bế tắc. Chiến tranh cũng chỉ đem đến cho con người sự bế tắc mà
thôi. Mầm mống chiến tranh đến từ chính bản chất tham chiến của con người.
Sự tấn công của bọn người Ý ở sân chơi tại trường Chancellor Avennue có thể
khiến ta liên tưởng tới sự tấn công của chủ nghĩa phát xít. Bọn người Ý có thể là
những kẻ mang dịch bại liệt đến cho Cantor để từ đó, anh lây lan cho những đứa
trẻ gần mình cũng tương tự như sự lan tràn của chủ nghĩa phát xít đưa con người
phải ngập ngụa trong một loại vi rút chiến tranh phi nghĩa, phải sống tù đày và
cách li với những người xung quanh.
Tóm lại, chiến tranh hay dịch bệnh đều là những điều phi lí đã làm mất đi
ý nghĩa cuộc sống của con người. Tất cả đều đem đến cái chết đầy bi thương cho
con người. Xây dựng đề tài dịch bệnh như một ẩn dụ, Camus và Roth muốn
khẳng định cuộc sống thực tại của con người đang tràn ngập những điều phi lí,
chỉ có cái chết là xác thực.
18
Không chỉ ẩn dụ cho chiến tranh, dịch hạch còn ám chỉ cho các hình thức
bạo lực đe dọa đời sống con người. “Trên trái đất này có những tai họa và
những nạn nhân” [6, tr.330]. Dịch hạch cũng giống như các hình thức thảm họa
nói chung (thiên tai, địch họa, tai nạn) đều khiến con người phải đối diện với
một sự thật hết sức kinh hoàng đó là cái chết. Thế giới ngày nay không ngừng
biến động, cứ một phút trôi qua là có biết bao người chết vì nhiều lí do khác
nhau: thiên tai, tai nạn, tự tử…Đây là một sự xâm nhập đến ghê sợ của nhiều
loại “dịch hạch” khác nhau đối với đời sống con người. Con người bị lịch sử vây
kín, không còn đường thoát ra, “…bắt đầu từ khi tôi từ chối việc giết chóc, tôi
đã tự khép mình vào một cảnh lưu đày vĩnh viễn làm lịch sử sẽ là những người
khác” [6, tr.330].
1.2. Bệnh dịch - ẩn dụ cho những khiếm khuyết về mặt tinh thần
Dịch bệnh trong hai tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng không hẳn là một
loại bệnh truyền nhiễm đem lại cái chết cho con người về mặt thể xác mà nó còn
là một thứ dịch bệnh trong tâm hồn – một sự khiếm khuyết nào đó về mặt tinh
thần (của con người).
Trước hết, chúng ta có thể nói đến thói bi quan một “căn bệnh truyền
nhiễm” không có vắc xin ngăn ngừa, nó làm tê liệt ý chí, niềm tin nơi con người.
Những biểu hiện của bệnh bại liệt cùng thái độ của nhân vật chính – Bucky
Cantor trong Báo ứng có thể minh họa cho điều đó. Từ một người tự tin, là thần
tượng của những đứa trẻ ở sân chơi, Bucky đã trở thành một con người thực sự
thảm hại ở cuối tiểu thuyết khi đã để cho tinh thần của mình hoàn toàn trượt dốc
xuống vực thẳm của những nỗi bi quan. Anh luôn né tránh gặp người yêu Macia
của mình dù anh còn rất yêu nàng, trong lúc đang chữa bệnh, anh từ chối gặp bất
kì ai ngoại trừ bà của mình. Sau khi khỏi bệnh, anh trốn chạy tất cả mọi thứ
thuộc về mình của ngày xưa: không gặp gia đình Macia, không xem bất kỳ một
bản tin thể thao nào, dời nhà và bỏ lại những vật dụng trong ngôi nhà cũ,…sống
trong nỗi bi quan, dằn vặt với quá khứ vì cho rằng mình chính là kẻ gây ra căn
19
bệnh bại liệt cho những đứa trẻ năm ấy. Như vậy, dịch bại liệt không chỉ khiến
Bucky ngồi xe lăn mà còn khiến ý chí, niềm tin của anh bị tê liệt hoàn toàn. Đó
là sự ẩn dụ cho mọi trạng thái bi quan, tê liệt ý chí, tê liệt niềm tin nơi con
người.
Sự tê liệt ý chí cũng được thể hiện trong Dịch hạch. Khi dịch bệnh hoành
hành dữ dội, một bộ phận người dân thành phố Oran đã tìm sự an ủi trong niềm
tin nơi Thượng đế. Họ đồng tình với Panolux trong bài thuyết giáo thứ nhất rằng
sinh mạng con người là do Chúa quyết định, Chúa gieo rắc dịch bệnh để trừng
phạt con người, vì họ xứng đáng phải chịu đựng như thế. Chúng ta có thể nhận
thấy một điều rằng khi con người cầu nguyện Thượng Đế tức là lúc họ đã giao
quyền quyết định số phận của mình cho kẻ khác, họ trở nên thụ động, mất ý chí,
dựa dẫm vào một thế lực hư vô nào đó mà ngay cả bản thân cũng không biết rõ.
Việc giao đặt niềm tin cho Chúa đó là một việc làm thể hiện sự yếu đuối về tinh
thần. Và sự yếu đuối này không phải của riêng một vài người mà nó chiếm một
số khá đông, chẳng khác nào một thứ dịch hạch tinh thần.
Những khiếm khuyết về tinh thần còn là những “cái ác” trong tâm hồn,
trong suy nghĩ của con người. Theo Tarou (Dịch hạch), những kẻ mang dịch
hạch (hiểu theo nghĩa ẩn dụ) chính là những kẻ “đánh bạn” với tai họa. Và dù
không “đánh bạn” với tai họa thì “mỗi người đều mang mầm mống dịch hạch
trong mình, bởi vì không một ai, vâng, không một ai trên đời được miễn trừ cả”
[6, tr.329]. Điều khẳng định này quả không sai, bởi bất kì ai cũng mang trong
mình những khiếm khuyết nhất định về mặt tinh thần, do đó, mỗi người đều là
kẻ mang “dịch hạch”. Philip Roth cũng khẳng định ý nghĩa ẩn dụ của dịch bại
liệt khi nói về Chúa: “Chỉ có cái ác mới có thể tạo ra bệnh bại liệt. Chỉ có cái
ác mới tạo ra Horace. Chỉ có cái ác mới gây nên chiến tranh thế giới thứ hai.
Cái ác là đấng toàn năng” [48, tr.235].
Những năm gần đây, sáng tác của Roth thường nói nhiều về tuổi già, bệnh
tật, sự bất lực và cái chết. Cũng có thể xem đây là thứ “dịch bệnh tinh thần” tấn
20
công con người mà không ai có thể tránh khỏi. Không nói nhiều đến sự bất lực
của tuổi già như trong Người phàm, Báo ứng nói nhiều đến sự bất lực do dịch
bệnh. Con người bất lực trước suy nghĩ của mình, không đủ sức mạnh để tự
động viên, không chấp nhận nổi sự thật rằng mình là kẻ bại trận trong cuộc
chiến với số phận. Sự bất lực trong suy nghĩ là một thứ dịch bệnh, nó xâm nhập
lúc con người chủ quan nhất, tự tin nhất để rồi bất chợt quật ngã họ một cách
nhanh chóng. Mở rộng phạm vi vấn đề, chúng ta có thể liên hệ đến con người
của thế kỉ XX và XXI cùng với những cơn “dịch bệnh tinh thần” thế kỉ - dịch
bệnh thời hiện đại. Thế kỉ XX, con người kiêu ngạo với vị thế làm người của
mình trong vũ trụ, họ cho mình là trung tâm, có thể làm được tất cả những gì họ
muốn, có thể điều khiển mọi thứ trong xã hội. Tóm lại, con người hiện lên như
một đấng toàn năng với những thành tựu vượt trội trong mọi lĩnh vực. Nhưng,
hình ảnh con người khổng lồ của thế kỉ XX nhanh chóng sụp đổ khi thế giới trải
qua hai cuộc đại chiến với những hậu quả nặng nề không gì cứu vãn được. Con
người trở thành nạn nhân của chính mình: nạn nhân của cái ác trong tâm hồn,
nạn nhân của lòng hiếu chiến và họ sụp đổ thê thảm dưới hố sâu của sự hư vô.
Tâm lí con người bị chấn thương nặng sau chiến tranh, cùng với những thành
tựu của khoa học công nghệ, con người dần trở nên xa cách nhau, họ đành lui
vào thế giới của chính mình, bị đóng băng, lưu đày vĩnh viễn trong thế giới ấy
mà không tìm thấy con đường nào để thoát ra. Đó là tâm lí chung của cả một thế
hệ sau chiến tranh, nó đem lại những cái chết trong tâm hồn con người – cái chết
này cũng nặng nề không kém những cái chết vì dịch bệnh. Ở đây, chúng tôi
muốn dùng hình ảnh sự sụp đổ của cả một thế hệ ở châu Âu sau hai cuộc đại thế
chiến để minh họa cho sự xâm nhập của một thứ dịch bệnh tinh thần vào đầu óc
con người. Có hai loại dịch bệnh được tìm thấy ở đây: một là thói kiêu căng, tự
mãn, cho mình là toàn tri, bất khả chiến bại, và hai là sự sụp đổ về tinh thần sau
chiến tranh, sự cô đơn về tinh thần của con người trong thời đại kĩ trị. Chúng tôi
gọi nó là dịch bệnh bởi nó không chỉ xảy ra ở một trạng thái nhất định nào đó
21
trong con người mà nó xuất hiện thường trực và luôn muốn nuốt chửng lấy họ
bất cứ lúc nào. Chúng tôi còn gọi trạng thái tâm lí này là dịch bệnh ở chỗ nó
không phải chỉ xảy ra ở một vài người mà nó xảy ra cho cả một thế hệ ở rất
nhiều quốc gia ban đầu ở châu Âu mà hiện nay đang lan ra toàn thế giới. Gọi là
“dịch bệnh tinh thần” bởi mức độ lan tràn của nó, mức độ thiệt hại của nó cũng
không kém gì một loại bệnh truyền nhiễm.
1.3. Bệnh dịch - ẩn dụ cho sự kì thị chủng tộc
Sự kì thị là một vấn nạn lớn của nhân loại, gây không biết bao nhiêu đau
khổ cho con người. Nạn phân biệt có hai loại: phân biệt chủng tộc và phân biệt
tôn giáo, xảy ra chủ yếu ở châu Âu. Ở những quốc gia châu Âu, nếu như trước
kia chủ yếu là nạn phân biệt tôn giáo (Kitô giáo và Do Thái giáo) thì càng về sau
lại có thêm nạn phân biệt chủng tộc (phân biệt màu da, đặc tính chủng tộc). Lịch
sử nhân loại có lẽ sẽ không bao giờ quên được những cuộc thảm sát do nạn phân
biệt này gây ra. Đáng nhớ nhất là những cuộc thảm sát của chế độ Đức quốc xã.
Triết lí của chế độ phát xít để bảo vệ dòng máu của họ đó là:
để bảo tồn sự trong sạch về dòng máu cho ''chủng tộc thượng đẳng''
Aryan mà đảng phát xít cho là gồm dân Đức và một số sắc dân Bắc
Âu, chế độ này phát triển những lý thuyết chủng tộc có từ thế kỷ 19
nói rằng giống người ''thượng đẳng'' tóc vàng mắt xanh, cao lớn phải
tránh hòa trộn dòng máu với các chủng tộc ''hạ đẳng'' để giữ sự trong
sạch.
Các giống người khác, từ người Slavo đến Do Thái, Digan đều bị coi
là “thấp kém”. Những người Đức chính gốc nhưng bị tàn tật, bị thần
kinh v.v. cũng được ''xếp hạng'' là phế phẩm về di truyền và rơi vào
nhóm ''cần tiêu diệt''. Các linh mục Công Giáo, nhân chứng Jehova,
những người cộng sản, người đồng tính nam v.v. cũng là đối tượng
của chế độ giết người này.
22
Tuy nhiên, chế độ Hitler còn đi xa hơn bất cứ chế độ nào trong việc
cáo buộc người Do Thái, vốn gốc từ Trung Đông, là nhóm ''đe dọa sự
tồn vong của nòi giống Đức''. Các nhóm dân quân phát xít bắt đầu
đập phá cửa hàng Do Thái từ năm 1933. Trong quá trình chế độ phát
xít lớn mạnh, chính sách phân biệt chủng tộc ngày càng trở nên tàn
bạo.
Ban đầu, chủ nghĩa lý lịch được áp dụng bằng cách loại trừ khỏi công
sở bất cứ ai có cha, mẹ hay thậm chí ông hoặc bà là người Do Thái.
Sau đó, người Do Thái ở Đức và các vùng quân Đức chiếm đóng bị
buộc phải đeo hình ngôi sao David sáu cánh màu vàng. Tiếp đó, phát
xít Đức cho lập các biệt khu Do Thái (ghetto) để nhốt tất cả những
người Do Thái châu Âu rơi vào tay chúng.
Năm 1933, trại tập trung đầu tiên được lập ở Dachau để nhốt người
Do Thái và những ai mật vụ Gestapo coi là chống chế độ. Dần dần,
các trại tập trung mọc lên ở những nơi Đế Chế Đức làm chủ mà phần
nhiều ở Ba Lan. Cuối cùng, người Do Thái ở các biệt khu được đưa
đến các trại tập trung để thiêu sống trong lò hơi ngạt. Đó là cách chế
độ phát xít nói là để giải quyết dứt điểm vấn đề Do Thái. [90].
Đó là nạn phân biệt chủng tộc đối với người Do Thái, nạn phân biệt màu
da cũng xảy ra với những nỗi ám ảnh không kém, chẳng hạn như câu chuyện
của cậu bé người Mĩ gốc Phi Emmett Till Louis bị đánh đập, móc mắt, siết cổ
bằng dây thép và quăng xác trôi sông vì đã huýt sáo với một người da trắng ở
Mississippi vào đầu thế kỉ XX; câu chuyện Bục huy chương Olympic 1968 với
“Lời chào quyền lực da đen”,v.v,…
Camus và Roth đều là những nhà văn sống lưu vong, chứng kiến nhiều vụ
thảm sát vì kì thị, phân biệt tôn giáo, chủng tộc ắt hẳn sẽ hiểu rất rõ cảm giác
thống khổ của con người trong hoàn cảnh này. Albert Camus (1913 – 1960), là
nhà văn được sinh ra và lớn lên ở Algieri nhưng lại mang trong mình hai dòng
23
máu Pháp và Tây Ban Nha nên thực chất ông được gọi là “người chân đen”
(người Algieri gốc Pháp). Vào cuối thế kỉ XIX, xã hội Algieri đã có những căng
thẳng tột cùng về nạn mù chữ, đói nghèo, xung đột,.. Và “mối quan hệ giữa
Camus – một người Algieri gốc Pháp – với những người Hồi Giáo nói tiếng Ả
Rập (Muslim Algieria) đã có ảnh hưởng sâu sắc đến việc nhà văn xây dựng hình
tượng người xa lạ và cái phi lí trong tác phẩm của ông với những mâu thuẫn về
chính trị, tranh giành đất đai, văn hóa cùng với bạo lực liên miên đã tạo nên hố
sâu ngăn cách không gì san lấp nổi giữa hai cộng đồng người nơi mảnh đất
Algieri nắng cháy ven biển Địa Trung Hải. Camus luôn mong muốn chấm dứt
tình trạng xâm chiếm của thực dân Pháp ở Algieri, cũng như khát khao có thể
làm được điều gì đó xóa nhòa sự ngăn cách giữa hai chủng tộc người nơi đây”
[31, tr.20]. Như vậy, vấn đề phân biệt chủng tộc cũng được Camus rất quan tâm
đến trong các sáng tác của mình.
Philip Roth (1933 - ), là nhà văn Mĩ gốc Do Thái, mặc dù xác định Mĩ
chính là quê hương của mình nhưng trong các sáng tác tiểu thuyết, ông luôn gửi
vào đó niềm tự hào, tiếng nói bênh vực cho những người Do Thái – nguồn cội
của mình. Nhân vật trong sáng tác của Philip Roth thường là những người Do
Thái với những tâm tư khác nhau. Ông được xem là nhà văn của những người
Do Thái khi phơi bày hiện thực sống của họ, những áng văn của ông gần gũi,
trong trẻo, tự nhiên, hài hước nhẹ nhàng như những lời tâm tình ông gửi cho
những con người cùng cội nguồn Do Thái với mình nói riêng và nhân loại nói
chung.
Hoàn cảnh của hai nhà văn đã mang dấu ấn về các vấn đề chủng tộc,
nguồn gốc. Hoàn cảnh ấy đã có tác động đến việc xây dựng đề tài tiểu thuyết
Dịch hạch và Báo ứng. Sự kì thị dân tộc thường được biểu hiện ở việc cô lập
một dân tộc, một tộc người nào đó. Điều này tương đương với hình ảnh cách li –
kiểm dịch trong hai tiểu thuyết. Ở một qui mô hẹp, sự phân biệt ở đây đó là việc
cách li giữa những người nhiễm bệnh với những người không nhiễm bệnh. Ở
24
một qui mô rộng hơn là việc đóng cửa thành phố, ngăn cấm mọi hành động
thông thương, thư từ với bên ngoài.
Xoay quanh đề tài bệnh dịch, Roth đã nói lên được tình trạng phân biệt
chủng tộc đã và đang diễn ra gay gắt trong xã hội. Nó là một loại vi rút đã ngấm
sâu trong máu thịt của những người Âu châu bản địa, họ xem những người
không cùng chủng tộc với mình như những kẻ mang mấm mống truyền nhiễm,
cần phải cách xa. Trong Báo ứng, khi dịch bại liệt xuất hiện và lây lan, người ta
đổ lỗi cho những người Do Thái đã gây ra căn bệnh quái ác đó. Người ta cho
rằng khu người Do Thái ở chính là ổ bệnh. Tuy nhiên, qua các lời thoại của nhân
vật, Roth đã thể hiện niềm tự hào và lòng yêu quí đối với người Do Thái: “Bọn
trẻ Do Thái là gia sản của chúng ta”; “Sao dịch bệnh lại nhắm vào lũ trẻ Do
Thái xinh xắn cơ chứ?” [48, tr.39]. Nhắc lại nạn phân biệt chủng tộc ở châu Âu,
Roth thể hiện thái độ phản đối điều đó: “Bác phản đối việc gây cho bọn trẻ Do
Thái sợ hãi. Bác phản đối việc khiến người do Thái hoảng sợ, đã qua thời ấy
rồi. Đó là ở châu Âu, chính vì thế mà người Do Thái đã rời khỏi nơi đó.”
[48, tr.97].
Càng về sau, nạn phân biệt chủng tộc càng thể hiện sự vô lí của nó, bởi vì
dù sao ban đầu, con người vẫn có thể tìm được lí do vì sao mình bị phân biệt (do
dị giáo, do tổ tiên của người Do Thái đã giết chúa), nhưng ở thế kỉ XX, XXI,
người ta không tìm được một lí do chính đáng nào cho sự phân biệt chủng tộc
ngoài những lí do vớ vẩn do Đức quốc xã “nghiên cứu” ra (người da trắng thông
minh, da vàng dai sức, da đỏ nóng nảy, da đen ngu ngốc). Điều phi lí này khiến
người ta dễ dàng liên tưởng đến dịch bệnh với ý nghĩa ẩn dụ cho nạn kì thị
chủng tộc cùng những ám ảnh mà nó mang lại.
Những nạn nhân của dịch bệnh không hiểu vì sao mình lại nhiễm bệnh và
phải làm thế nào mới thoát khỏi nó ngoại trừ cái chết! Tương tự như vậy, những
người da đen, những người Do Thái, họ không hiểu vì sao kẻ khác cứ thích chà
đạp họ, sỉ nhục họ, truy sát họ? Có lẽ họ cũng đã không ít lần cật vấn: Làm thế
25
nào để thoát khỏi sự phân biệt này nếu không phải là việc khước từ chính bản
thân mình? Họ hoàn toàn không có tội khi sinh ra là một người da đen hay một
người Do Thái. Ai cũng có nguồn cội, chẳng phải người da trắng, mắt xanh cũng
có nguồn cội của mình đó sao? Cớ sao họ lại áp đặt sự phân biệt phi lí lên đầu kẻ
khác, bắt người khác phải đau khổ vì nguồn cội của chính mình, vì dòng máu
chảy trong người mình? Dù điều đó rất phi lí nhưng trên thực tế đã có biết bao
cuộc thảm sát đẫm máu xảy ra do nạn phân biệt chủng tộc, chưa kể đến những
điều luật hà khắc dành cho họ (bị đánh dấu, không được đi học, không được có
bất động sản, không được ra ngoài vào buổi tối,…).
Cũng như đội y tế của Rieux, cũng như Bucky Cantor, suốt mấy thế kỉ qua,
những người bị phân biệt, kì thị chủng tộc đã không chịu buông xuôi, không
chịu đầu hàng trước nghịch lí trớ trêu, họ đã không ngừng tranh đấu để giành lại
quyền con người cho mình. Đã có những phong trào đấu tranh nổi tiếng trong
lịch sử như: các phong trào đấu tranh của cựu tổng thống Nelson Mandela chống
phân biệt người da đen ở Nam Phi, các phong trào của mục sư Martin Luther
King, nhà hoạt động nhân quyền vĩ đại của nước Mỹ,…
Trong Dịch hạch, Camus nhấn mạnh với độc giả rằng dịch bệnh có thể bị
đẩy lùi nhưng nó vẫn ẩn nấp đâu đó hòng đe dọa con người bất cứ lúc nào có cơ
hội: “vi trùng dịch hạch không bao giờ chết và mất hẳn. Nó có thể nằm yên
hàng chục năm trong đồ đạc, quần áo, nó kiên nhẫn đợi chờ trong các căn
buồng, dưới hầm nhà, trong hòm xiểng, trong khăn mù xoa và các đống giấy
má,…và một ngày nào đó, để gây tai họa cho con người và dạy họ bài học, dịch
hạch có thể đánh thức đàn chuột của nó dậy và bắt chúng chạy đến lăn ra chết ở
một đô thành nào đó đang sống trong hạnh phúc và phồn vinh” [6, tr.400].
Cũng giống như nạn phân biệt chủng tộc, dù có được xoa dịu bằng những đạo
luật mới, tôn trọng nhân quyền hơn nhưng chắc chắn đâu đó trong cuộc sống
hôm nay vẫn còn không ít những sự phân biệt, dù nó không hề có lí do, bởi cái
phi lí vốn là bản chất của thế giới, nó không biến mất mà chỉ cùng song song tồn
26
tại với con người, chỉ có thể dung hòa chứ không xóa bỏ được nó.
Dịch bệnh được xem là ẩn dụ cho nạn kì thị, phân biệt chủng tộc bởi vì nó
cũng gây ra những cái chết vô tội, gây ra sự bất công và đau khổ cho con người
như là dịch bệnh. Cái chết trong sự kì thị, cũng giống như trong dịch bệnh là cái
chết cô đơn, bất ngờ, mang đầy nỗi cay đắng. Nếu như những người mang dịch
bệnh phải chết trong sự thiếu vắng người thân (vì phải cách li) thì những người
bị phân biệt chủng tộc lại chết trong sự ghẻ lạnh của đồng loại, trong sự xót xa
cho nguồn gốc của chính mình. Đó là những cái chết bất thường, đột ngột,
không theo vòng xoay sinh tử bình thường của tạo hóa. Nạn phân biệt chủng tộc
và dịch bệnh đều làm ngăn cản sự tiến bộ của loài người vì phải lo khắc phục
những hậu quả của nó. Trong hai cuộc đại thế chiến, nạn phân biệt chủng tộc
tràn lan chẳng khác nào dịch bệnh,… Đó chính là cơ sở để chúng tôi cho rằng
nạn kì thị dân tộc cũng là một loại dịch bệnh. Nạn kì thị dân tộc và dịch bệnh
còn tương đồng nhau ở tính chất phi lí của nó. Không có một lí do thỏa đáng,
dịch bệnh, nạn kì thị cứ đổ ập lên đầu, mang lại cái chết cho con người… Càng
cố thoát khỏi sự phi lí thì con người lại càng thấm thía bản chất không thể thoát
được của nó.
1.4. Dịch bệnh - ẩn dụ cho những rào cản tự do
Tự do là vấn đề rất được chú ý trong Dịch hạch và Báo ứng, nó được hiểu
là việc con người có thể đến những nơi mình thích, làm những việc mình cần,
sống cuộc đời của mình, có thể tự quyết định số phận của mình. Trong hai tiểu
thuyết, các nhân vật luôn trăn trở giữa những chọn lựa, dịch bệnh khiến cuộc
sống của họ bị đảo lộn, giới hạn, ngăn cản sự tự do.
Dịch bệnh buộc con người phải chấp nhận cuộc sống cách li, phải sống
trong phạm vi không gian theo qui định để tránh lây lan cho người khác. Nếu là
những người chưa nhiễm bệnh thì họ buộc phải sống lưu đày, tù hãm khi thành
phố bị đóng cửa. Tự do bị cướp mất. Nhu cầu liên lạc với người thân bên ngoài
thành phố tưởng như rất đơn giản nhưng lại không thể nào thực hiện được trong
27
thời kì dịch bệnh. Còn đối với người nhiễm bệnh thì tự do đối với họ chỉ là hai
từ xa xỉ mà họ không bao giờ có thể chạm tới được. Bởi một mặt họ phải nằm
biệt lập trong khu chữa bệnh, mặt khác, nếu là dịch hạch thì họ không thể cử
động được mà bị kẹt cứng giữa các hạch “mạch lăn tăn và chỉ cần một cử động
nhỏ là người bệnh sẽ chết”, và nhiều người đã không thể chịu đựng nỗi, đành
thực hiện cái hành động nhỏ ấy, và chết; còn nếu là bại liệt thì họ sẽ bị sốt li bì,
đầu nhức như búa bổ, buồn nôn ghê gớm, đau nhức cơ bắp khôn tả, cứng cổ, tay
chân liệt bại hoặc phải nằm trong máy trợ thở suốt đời, họ không thể tự chủ cuộc
đời của chính mình được nữa. Rào cản tự do ở đây chính là cuộc sống tù đày, là
việc bị nhốt mình trong cái vòng dịch bệnh quái ác. Đồng thời, hình ảnh con
người không thể cựa quậy khi bị dịch bệnh khống chế khiến chúng ta dễ dàng
liên tưởng đến bộ máy chính quyền quan liêu, hà khắc, áp đặt, bóp nghẹt quyền
tự do của con người. Như vậy, dịch bệnh còn mang ý nghĩa ẩn dụ cho rào cản tự
do, đó là sự đàn áp con người của các bộ máy chính quyền.
Trong Dịch hạch, cũng vì dịch bệnh mà Rambert không thể rời thành phố,
không thể gặp lại vợ mình dù anh biết rằng mình “sinh ra để thuộc về một người
phụ nữ hơn là thuộc về nơi này” [6]. Dịch bệnh cũng khiến bác sĩ Rieux không
còn thời gian chăm sóc bản thân, không còn thời gian quan tâm hai người phụ
nữ mà ông rất mực yêu thương, đó là mẹ và vợ mình. Ở đây, dịch bệnh đại diện
cho một thứ rào chắn ngăn cản tự do yêu đương, tự do hạnh phúc của các nhân
vật. Nó khiến con người phải sống trong sự băn khoăn vì không biết đâu mới là
tự do đích thực của mình. Sau bao suy nghĩ, đấu tranh, các nhân vật trong Dịch
hạch đã thấu hiểu: chỉ có sự tự do trong tâm hồn, sống vì người khác, chiến đấu
vì người khác, đó mới là tự do và hạnh phúc thực sự. Còn trong Báo ứng, dường
như nhân vật Bucky mãi mãi không thể tìm thấy tự do cho mình dù đã cố đập vỡ
bao rào cản vì nỗi ám ảnh của dịch bệnh gây ra với anh là quá lớn. Anh luôn
sống trong trạng thái lo âu và mâu thuẫn. Ban đầu, Newark xảy ra dịch bại liệt,
Bucky nghĩ rằng tự do của anh là thoát ra được ổ dịch, vì vậy, anh chạy trốn
28
công việc hiện tại để đến Idian Hill, nhưng anh vẫn không cảm thấy được tự do,
yên ổn ở đây (dù rằng có những học trò ngoan bên cạnh, có Macia – được tự
tình đêm đêm với nàng) bởi một lí do duy nhất là nơi đây vẫn có dịch bại liệt,
vẫn có những đứa trẻ chết. Một lần nữa, Bucky chạy khỏi nơi mà anh vẫn cho là
tự do để đi tìm sự thật. Và chính sự thật rằng anh bị bại liệt đã trở thành rào cản
mãi mãi không thể nào phá nổi che lấp sự tự do của anh. Bucky vĩnh viễn bị
giam hãm trong mặc cảm tội lỗi và dịch bệnh đã cướp đi niềm tự do sống kiêu
hãnh dưới ánh mặt trời của anh.
Tiểu kết chương 1: Đề tài dịch bệnh trong hai tiểu thuyết Dịch hạch của
Albert Camus và Báo ứng của Philip Roth được xây dựng như một ẩn dụ cho cái
phi lí và những nỗi ám ảnh của con người trong thế giới. Hành trình sống của
con người luôn song hành với cái phi lí, ở tầm nhân loại đó là chiến tranh, nạn kì
thị dân tộc, ở phạm vi cá nhân, đó là những khiếm khuyết, những cái ác, cái xấu,
luôn xâm nhập, tấn công con người mà họ không có cách nào thoát ra được, cái
phi lí còn là những rào cản tự do ngăn chặn con người tìm đến cuộc sống hạnh
phúc. Tất cả những điều này luôn đeo đẳng, bám riết lấy con người gây cho họ
những ám ảnh to lớn. Như vậy, việc chọn đề tài dịch bệnh cho tiểu thuyết,
Camus và Roth đã thể hiện được sự nhạy cảm và sâu sắc trong cách cảm nhận
về thế giới của mình. Đề tài dịch bệnh ẩn dụ cho cái phi lí, tạo nên những nỗi ám
ảnh ở con người. Và hai yếu tố đó đã có sự chi phối mạnh mẽ trong nghệ thuật
xây dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng, điều này sẽ được chúng tôi làm rõ ở
chương hai – Sự chi phối của quan niệm phi lí và những nỗi ám ảnh vào nghệ
thuật xây dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng.
29
Chương 2. SỰ CHI PHỐI CỦA QUAN NIỆM PHI LÝ VÀ
NHỮNG NỖI ÁM ẢNH ĐỐI VỚI NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG
CỐT TRUYỆN DỊCH HẠCH VÀ BÁO ỨNG
Trong nghiên cứu tiểu thuyết nói riêng, tác phẩm tự sự nói chung, cốt
truyện luôn là đối tượng được lưu ý hàng đầu, bởi lẽ, có nắm được đặc điểm cốt
truyện của một tác phẩm ta mới có thể hiểu được những vấn đề khác trong tương
quan trực tiếp hay gián tiếp với cốt truyện như: điểm nhìn nghệ thuật, người kể
chuyện, không – thời gian trong tác phẩm, cấu trúc một tác phẩm tự sự, một tiểu
thuyết, tiếp cận được mô hình tự sự mang phong cách và tài năng của nhà văn,
sự chi phối của các yếu tố văn hóa, văn minh nhân loại vào nghệ thuật xây dựng
cốt truyện.
Cốt truyện là một thuật ngữ khá phức tạp, là khái niệm cốt lõi trong nghiên
cứu văn học. Xung quanh thuật ngữ này, đã có những quan niệm đáng chú ý:
quan niệm truyền thống (Aristote, A.N.Veselovski, sau này được L.I.Timofeep,
G.N.Popspelop tiếp nối); quan niệm của chủ nghĩa hình thức Nga; quan niệm
của chủ nghĩa cấu trúc (sau này có thêm quan niệm của chủ nghĩa giải cấu trúc).
Nhìn chung, mỗi quan niệm đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, tùy từng
lập trường nghiên cứu. Khái niệm cốt truyện mang tính chất động và ngày càng
được bổ sung, hoàn thiện theo thời gian.
Bàn về cốt truyện, Aristote chủ yếu nhấn mạnh đến hành động, sự sắp xếp
các hành động sao cho đạt được hiệu quả thẩm mĩ nhất định. Ông cho rằng cốt
truyện chính là “linh hồn của bi kịch”, cốt truyện gồm các phần chính là mở -
thân – kết (trình bày – thắt nút – phát triển – cao trào – mở nút).
Cùng gần với quan niệm của Aristote là quan niệm của L.I.Timofeep, ông
cho rằng cốt truyện chính là hệ thống các biến cố, mà những biến cố đó phải
phản ánh được những xung đột xã hội, làm bộc lộ tính cách nhân vật. Nhiệm vụ
30
của người nghệ sĩ là phải chọn lựa những biến cố, những xung đột nào mang
tính chất điển hình nhất gắn với hoàn cảnh sống của nhân vật, có giá trị khái
quát cao. L.I.Timofeep nhận định cốt truyện trong tương quan với tính cách
nhân vật, đây là hai yếu tố luôn có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Cốt truyện có
hấp dẫn hay không là do sự lý giải tính cách quyết định. Đồng thời, tính cách sẽ
cho người đọc thấy được tính chất nhiều mặt, phong phú của nội dung cốt
truyện.
Cả Aristote và L.I.Timofeep đều cho rằng các thành phần cốt truyện được
sắp xếp dựa trên một dụng ý nào đó của nhà văn. Tùy vào cách nhìn nhận, tùy
vào quan niệm, cách lý giải cuộc sống như thế nào mà nhà văn có cách xây
dựng, biểu hiện cốt truyện khác nhau.
G.N.Pospelov cho rằng cốt truyện (fabula) được xây dựng chủ yếu dựa trên
hành động của nhân vật. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh, hành động ở đây không chỉ
là những hành động tạo ra biến cố mà còn là hành động của cảm xúc, của suy
nghĩ, là “sự vận động của hành động chủ yếu chỉ xảy ra bên trong”; “fabula là
tiến trình trần thuật về sự phát triển các sự kiện, trong đó có thể bao gồm những
miêu tả khác nhau, những ý nghĩ của nhân vật, hay là của tác giả, những câu
chuyện kể xen về các sự kiện nằm ngoài tiến trình chủ yếu của truyện, và thường
phá vỡ trật tự thời gian của tiến trình sự kiện chủ yếu bằng cách cài vào những
tình tiết và dự báo hay hãm chậm sự kiện” [80]. Các sự kiện trong cốt truyện
theo G.N.Pospelov liên hệ với nhau dựa trên mối liên hệ thời gian hoặc mối liên
hệ nhân quả. Ông chủ yếu nhấn mạnh đến mối liên hệ nhân quả bởi nó giúp
người đọc có thể khám phá đươc mạch logic ẩn ngầm trong tác phẩm, đem đến
cảm xúc thẩm mĩ ở người đọc.
Qua ba quan niệm tiêu biểu của cách hiểu truyền thống, ta thấy đề xuất của
các nhà nghiên cứu đã có những đóng góp bước đầu, tạo tiền đề vững chắc cho
những nghiên cứu sau này dù quan niệm của họ chỉ dừng lại ở việc đưa ra những
31
nguyên lý chung, chỉ ra chức năng, nhiệm vụ, những mối liên hệ cơ bản của các
yếu tố trong cốt truyện.
Sau quan niệm truyền thống, các nhà chủ nghĩa hình thức Nga
(B.Tomachevski, V.Shklovski) nhấn mạnh cách hiểu cốt truyện từ việc tiếp cận,
nghiên cứu các thủ pháp hơn là bản thân các biến cố trong tác phẩm.
Qua tiểu luận Hệ chủ đề, B.Tomachevski đã nêu lên quan điểm của mình
về cốt truyện trong sự đối sánh với khái niệm “chuyện kể”:
Chuyện kể là tập hợp những biến cố có quan hệ với nhau được thông
tin cho người đọc trong suốt chiều dài tác phẩm, nó có thể được tóm
tắt theo trật tự biên niên hay nhân quả của các biến cố mà không phụ
thuộc vào thứ tự được trình bày. Còn cốt truyện thì đi theo trình tự
xuất hiện của các biến cố. Nói cách khác, mối quan hệ giữa các biến
cố trong chuyện kể mang tính thời gian và đi từ nguyên nhân đến kết
quả, còn cốt truyện lại liên kết các motip theo trình tự xuất hiện trong
tác phẩm, và như thế nó hoàn toàn là một sản phẩm được chế tác, có
tính nghệ thuật. [79].
Cùng quan điểm với B.Tomachevski, V.Shklovski, “truyện kể” luôn chú ý
đến tiến trình hành động của nhân vật với những biến cố dựa trên mối quan hệ
nhân quả hoặc biên niên, còn “cốt truyện” là sự phát triển hành động của nhân
vật, chuỗi các biến cố mâu thuẫn được thiết lập dựa trên mối liên hệ về trình tự
của các sự kiện trong tác phẩm.
Quan điểm của chủ nghĩa cấu trúc, đại diện tiêu biểu là J.Lotman , đã coi
cốt truyện là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên kết cấu tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ. Trên nguyên tắc đối lập nhị phân ngữ nghĩa của tổ chức nội tại các yếu
tố của văn bản, J.Lotman đã xác lập cấu trúc cốt truyện trên cơ sở của một loạt
những cặp phạm trù có tính chất đối lập, liên kết với nhau theo từng cấp độ của
văn bản nghệ thuật: văn bản phi cốt truyện/văn bản có cốt truyện; không có
biến cố/có biến cố; nhân vật bất hành động/nhân vật hành động… Ông cũng yêu
32
cầu xem cốt truyện trong sự tương quan chặt chẽ với những yếu tố khác của kết
cấu tác phẩm nghệ thuật như khung khổ, không gian nghệ thuật, điểm nhìn…
[79].
Có thể thấy rằng, các nhà nghiên cứu luôn cố gắng tìm cho truyện một mô
hình trần thuật nhất định để có thể áp nó vào một tác phẩm cụ thể khi khảo sát.
Đó có thể là mô hình đồng tính của Lévi – Strauss hay ngữ đoạn trần thuật của
A.J.Greimas,… Các mô hình này thường phải đảm bảo các yêu cầu: sự vận động
tiến về phía trước đến kết thúc và việc thay đổi tình thế ban đầu làm nảy sinh
yếu tố nghĩa của cấu trúc [11, tr.77].
Tùy từng cách tiếp cận văn bản tự sự mà giới nghiên cứu có cách hiểu cốt
truyện khác nhau. Trong quá trình khảo sát cốt truyện, việc chọn ra những chi
tiết, tình huống, hành động để nghiên cứu được xem là rất quan trọng. Tuy
nhiên, những chi tiết, tình huống, hành động đó phải có giá trị nghệ thuật nhất
định, có đóng góp vào sự phát triển đề tài của tiểu thuyết hoặc truyện. Cách kết
thúc truyện cũng là một yếu tố quan trọng cần xem xét.
Trong luận văn này, chúng tôi khảo sát cốt truyện trong mối liên hệ và chịu
sự chi phối bởi tư tưởng của nhà tiểu thuyết. Cốt truyện trong cách hiểu của
chúng tôi đó là chuỗi các hành động, sự kiện, biến cố được sắp xếp một cách
nghệ thuật theo dụng ý của nhà văn. Dụng ý ấy có thể xuất phát từ những động
cơ khác nhau (động cơ hiện thực, động cơ thẩm mĩ,…) nhưng nó đều không
nằm ngoài tư tưởng của nhà văn. Trong cốt truyện tiểu thuyết, tư tưởng nhà văn
được xem là mạch logic nội tại liên kết các thành phần, yếu tố của cốt truyện, nó
qui định những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm.
Trên cơ sở cách hiểu cốt truyện như thế, chúng tôi sẽ tìm ra những tình
huống, chi tiết có giá trị nghệ thuật cao, có vai trò làm phát triển, biến đổi chủ đề
tiểu thuyết để khảo sát trong mối tương quan với các yếu tố chi phối đến cốt
truyện như: thời gian, không gian, ngôi kể,… Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ so sánh
những điểm gặp gỡ, những sự khác biệt trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện ở
33
hai tiểu thuyết Báo ứng và Dịch hạch để thấy được tài năng, phong cách của hai
nhà văn nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền văn học Mĩ và Pháp.
Trước khi đi cụ thể vào nghệ thuật xây dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo
ứng, chúng tôi xin giới thiệu sơ lược về cốt truyện của hai tiểu thuyết này. Dịch
hạch (La Peste) được chia thành 5 chương, kể về nạn dịch hạch (ẩn dụ) ở thành
phố Oran bên bờ Địa Trung Hải. Dịch bệnh bắt đầu từ sự kiện chuột chết hàng
loạt, sau đó, con người mắc phải một chứng bệnh mà các bác sĩ ban đầu không
dám gọi tên với các triệu chứng: sốt cao, nôn mửa, khó thở, có những hạch cứng
xuất hiện ở bẹn, nách, và người ta chết rất nhanh sau đó. Nhân vật trung tâm của
tiểu thuyết là bác sĩ Rieux, ông đã hành động bằng tất cả khả năng của mình để
cứu người. Ban đầu, ông hành động đơn độc, nhưng càng về sau càng tập hợp
được nhiều người (Tarou, Rambert, Grand, Panolux,…). Kết thúc truyện là sự ra
đi của dịch bệnh cùng những mất mát không bao giờ bù đắp được của những nạn
nhân. Câu chuyện không đóng hẳn mà cứ lan mãi những dư âm về dịch bệnh, sự
sống, cái chết, sự công bình, bất công, chiến tranh, tội ác,…
Báo ứng (Nemesis) là tiểu thuyết được cho là cuối cùng trong sự nghiệp
cầm bút của Philip Roth, gồm 3 phần: Newark, Idian Hill, Gặp lại. Bucky
Cantor là nhân vật chính của tiểu thuyết, anh mồ côi mẹ từ nhỏ, cha là kẻ trộm,
sống với ông bà ngoại, được học những đạo lý tốt đẹp để trở thành một ngưới
Do Thái cứng rắn, thông minh và khỏe mạnh từ hai người.Bucky không được
nhập ngũ do hai mắt bị cận, anh được nhận vào làm thầy giáo quản lý sân chơi
vào khoảng mùa hè năm 1944. Anh nhanh chóng trở thành thần tượng của bọn
trẻ ở sân chơi, cho đến khi…dịch bại liệt xuất hiện, anh dần thấy mình sụp đổ.
Bucky tìm cách chạy trốn dịch bệnh, nhưng không ngờ, anh lại chính là kẻ mang
mầm bệnh và lây cho người khác. Câu chuyện kết thúc với hình ảnh Bucky ngồi
xe lăn, sống đau khổ với những vết thương quá khứ, và cuối cùng, hình ảnh một
Bucky vạm vỡ, tràn đầy tự tin của ngày xưa hiện lên như một ánh hồi quang
34
khép lại câu chuyện. Tác phẩm mở đầu và kết thúc đều bằng hình ảnh Bucky
Cantor đầy sức lực và niềm tin, là thần tượng của lũ trẻ.
Cùng chịu sự chi phối bởi cái nhìn mang màu sắc phi lí cũng như những
nỗi ám ảnh về cuộc sống như tuổi già, bệnh tật, chiến tranh, tội ác, cái chết,…
Cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng có sự gặp gỡ, trùng hợp đến kì lạ ở nhiều chi
tiết. Cốt truyện hai tác phẩm đều xoay quanh đề tài dịch bệnh, đều thể hiện sự
hoài nghi và chán ghét Chúa, xen vào cốt truyện là biết bao suy tư mang đậm
tính chất hiện sinh về cuộc sống của con người được thể hiện qua đối thoại của
các nhân vật.
Dù có những điểm giống nhau như thế nhưng cốt truyện hai tiểu thuyết vẫn
có những điểm khác biệt do phong cách xây dựng tiểu thuyết của hai nhà văn có
những nét độc đáo riêng biệt. Nét riêng biệt này cũng xuất phát từ cái nhìn khác
nhau về con người và cuộc sống của hai nhà văn, sự khác nhau về hai nguồn tư
tưởng, hai nền văn hóa Âu - Mĩ. Nếu cốt truyện Dịch hạch chủ yếu được xây
dựng trên nền tư tưởng phi lí với những biểu hiện sinh động của nó, đồng thời
cũng mang đậm tính chất triết lí, luận đề, khiến cho tiểu thuyết này mang nặng
chiều sâu triết học, ít nhiều trở nên nặng nề, khó đọc đối với những ai không
thực sự hứng thú. Cũng sẽ có một sự hợp lí nhất định nếu gọi cốt truyện tiểu
thuyết Dịch hạch là cốt truyện luận đề. Tuy nhiên, ở đây chúng nhấn mạnh cách
thức nhà văn xây dựng cốt truyện ở những hành vi của nhân vật hơn, nên có thể
tạm gọi cốt truyện trong Dịch hạch là kiểu cốt truyện hành động. Cốt truyện Báo
ứng mang nặng nỗi ám ảnh của nhân vật chính mà đó cũng là những ám ảnh của
Philip Roth trong cái nhìn về cuộc sống. Càng về những tiểu thuyết cuối, nỗi ám
ảnh về tuổi già, bệnh tật, cái chết thể hiện hết sức rõ rệt trong tiểu thuyết của ông
(bốn tiểu thuyết cuối: Người phàm, Phẫn nộ, Các hạ, Báo ứng). Cốt truyện
mang tính chất vòng tròn, như một ẩn dụ cho vòng tròn của báo ứng, nhân quả,
vòng tròn của sinh – lão – bệnh – tử trong cuộc đời con người.
35
2.1. Quan niệm của Camus và Roth về cái phi lí và nỗi ám ảnh
2.1.1. Cái phi lí
Cái phi lí là quan niệm trung tâm trong sáng tác của Camus. Ông có hẳn
những quan niệm cụ thể về cái phi lí, được thể hiện rõ nhất trong tập tiểu luận
Huyền thoại Sisyphe, đồng thời, ông cũng thể hiện quan niệm ấy trong các sáng
tác văn chương của mình.
Nói đến quan niệm phi lí, chúng ta phải thừa nhận rằng đây không phải là
quan niệm hoàn toàn mới, do Camus sáng tạo ra mà trước ông, các tác giả khác
cũng đã nói nhiều đến vấn đề này. Với tư cách là một khái niệm triết học, từ thời
Hi Lạp cổ đại, Aristote đã đề cập đến cái phi lí, kể từ đó, nó được kế thừa và tiếp
nối qua nhiều thời kì. Nhưng có thể nói, phải đến Camus (cùng với Sartre) thì
cái phi lí mới trở thành một quan niệm thu hút nhiều sự chú ý trong triết học và
văn học (có cả một trào lưu văn học phi lí, kịch phi lí, nó lan rộng và ảnh hưởng
đến nền văn nghệ nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam).
Quan niệm về cái phi lí đã được Camus tiếp nối từ tư tưởng triết học của
Kierkegaard, Nietzsche, Heidegger, tiếp biến qua hình tượng các nhân vật phi lí
của Kafka, Dostoievski và sự sáng tạo của riêng ông. Camus có một quan niệm
khác biệt với những người đi trước ở chỗ: phi lí với ông đó là sự đáp trả dửng
dưng, vô tình của thế giới trước con người, và con người hoàn toàn không chịu
bó gối ngồi im, không tự giam cầm mình trong thế giới ấy mà luôn dùng hành
động của mình để tích cực chống trả, không bằng cách này thì bằng cách khác.
Hoặc họ sẽ cố tìm vui trong hành động sống (phải tưởng tượng rằng Sisyphe
cảm thấy hạnh phúc), hoặc đáp trả thế giới vô tình bằng sự vô tình, chống đối
thế giới dửng dưng bằng sự dửng dưng (Mersault),…hoặc hành động hết mình,
dấn thân hết mình, nhập cuộc hết mình, đoàn kết lại để “nổi loạn” để “phản
kháng” chống lại sự phi lí của cuộc đời (các nhân vật trong trong Dịch hạch).
Phản ứng với cái phi lí theo Camus không có nghĩa là con người phải chọn lấy
cái chết, chọn lấy sự tự vẫn cho mình, dù biết rằng chỉ có cái chết mới là điều
36
minh xác nhất trong thế giới bất khả tri nhận này. Ông quan niệm: “Sống tức là
làm cho cái phi lí sống, làm cho nó sống tức là trước hết nhìn thẳng vào nó. Phi
lí nghĩa là lấy lí trí sáng suốt để nhận ra hạn chế của bản thân mình”. Khi tự
nhận thức được tình trạng phi lí của cuộc sống có nghĩa là chúng ta đã trở nên
sáng suốt hơn trước đó.
Camus nhấn mạnh sự đơn điệu của cuộc sống, con người kể từ khi bị ném
vào vũ trụ là đã bắt đầu số phận lưu đày với những chuỗi ngày nhạt nhẽo, đơn
điệu, vô vị, tạo nên cảm giác trì độn, “buồn nôn”: “Ngủ dậy, lên xe điện, bốn giờ
ngồi bàn giấy hoặc làm việc ở công xưởng, nghỉ ăn cơm, bốn giờ lao động, nghỉ
ăn cơm, đi ngủ và thứ hai thứ ba thứ tư thứ năm thứ sáu rồi thứ bảy đều lặp lại
cùng một nhịp độ, lối sống đó tiếp diễn dễ dãi gần như đều đặn” [14, tr.239]. Sự
lệ thuộc thời gian dẫn đến việc hạn chế khả năng tồn tại theo Camus cũng là một
trong những nguyên nhân của cái phi lí. Bởi luôn trăn trở với câu hỏi “bao giờ”,
“khi nào” thoát ra cảnh sống trì độn ấy nên con người càng thấy mình ngộp thở,
đông cứng lại trong cuộc sống lưu đày, tưởng như kéo dài vô tận. Cảm giác lệ
thuộc về thời gian cũng được Camus thể hiện rõ trong Dịch hạch (khi nghĩ rằng
phải 6 tháng mới thoát được cảnh dịch bệnh, xa cách người thân thì gần như họ
đã sống trọn khoảng thời gian dài dằng dặc đó trước khi trải qua, quan niệm của
ông lão người Tây Ban Nha về thời gian…)
Camus chủ trương khước từ cái chết cũng như khước từ cả niềm hi vọng
vào Chúa, bởi dù con người có đau khổ kêu gào thì Chúa trên cao vẫn một mực
lặng im, mọi thứ vẫn không cải thiện gì… Sự lệ thuộc vào tôn giáo, lệ thuộc vào
thời gian theo Camus sẽ làm hạn chế sự tồn tại của con người. Bởi vì, kể từ khi
được đặt vào “định mệnh” của cái phi lí khi sinh ra thì đồng thời họ cũng được
đặt sẵn vào người “sự ngoan cường” để phục vụ cho một cuộc chiến đấu không
ngơi nghỉ. Chính vì vậy, thái độ đúng đắn của con người không gì khác hơn là
sự đấu tranh chống trả bằng mọi cách chứ không phải là sự ru ngủ trong niềm tin
tôn giáo hay thả trôi định mệnh vào thời gian (hình ảnh lão già hen suyễn và
37
quan niệm về thời gian: ông cho rằng 50 năm đầu thời gian sống là do con người
quyết định, 50 năm sau, thời gian không do con người quyết định nữa, con
người bị lọt thõm vào định mệnh của cái phi lí và không nên chống cự). Chính
điều này cũng làm cho cái phi lí ở Camus khác với các nhà văn trước đó.
Cái phi lí của Kafka mang tính khách quan, nhân vật của ông loay hoay
trong nó mà không tìm được nguyên do, thế giới ngoài kia bỗng chốc biến thành
mê cung, con người phải lưu đày trong kiếp sống loài bọ hay một ngày vô tình
họ bị kết tội mà lại không biết mình mang tội gì,…để cuối cùng các nhân vật
trong tiểu thuyết Kafka đều đi đến một kết cục thảm khốc, không thể lí giải
được, đó là cái chết. Ngược lại, cái phi lí của Camus lại mang màu sắc chủ quan,
nó là cái do con người nhận thấy. Dẫu sao thì Camus vẫn tìm được lời giải đáp
trong các tác phẩm của mình bằng hành động phản kháng của nhân vật:
Meursaul phản kháng cuộc đời phi lí bằng thái độ dửng dưng, lạnh lùng, các
nhân vật trong Dịch hạch phản kháng bằng cách đoàn kết lại chống dịch bệnh,
Clamence trong Sa đọa thì thể hiện qua tràng độc thoại khá dài, là sự phân thân
giữa “cái phi lí” và “sự phản kháng”. Qua cách xây dựng cốt truyện nhấn mạnh
hành động phản kháng của các nhân vật, Camus muốn cho chúng ta thấy rằng
phản kháng là điều cần thiết, là phương thức hữu hiệu nhất để vượt qua thân
phận phi lí: “Tôi phản kháng vậy thì chúng ta cùng tồn tại” (Người phản kháng).
Như vậy, với Camus, phản kháng một mặt giúp chống lại cái phi lí, mặt khác, nó
giúp gắn kết con người lại với nhau, là con đường “đi từ cô đơn đến tập hợp”.
Dịch hạch được Camus bắt đầu sáng tác từ năm 1941, đây là giai đoạn
nước Pháp đang chịu ảnh hưởng nặng bởi nạn phát xít. Tác phẩm không hoàn
thành ngay sau đó mà bị gián đoạn một thời gian do nhà văn bận làm chủ bút
cho báo Combat và cho ra đời bộ ba tác phẩm phi lí: Người xa lạ, Huyền thoại
Sisyphe, Caligula. Mãi đến 1947 ông mới hoàn thành tiểu thuyết này. Dù không
nổi tiếng bằng Người xa lạ nhưng có thể nói rằng đây là tác phẩm thể hiện độ
chín trong ngòi bút của Camus khi viết về cái phi lí, sau bao trải nghiệm về đời
38
thực (tham gia lực lượng kháng chiến Combat) và trải nghiệm sáng tác (Camus
hoàn thành bộ ba phi lí: Người xa lạ, Huyền thoại Sisyphe, Caligula rồi mới trở
lại sáng tác Dịch hạch). Có thể nói, Dịch hạch là tác phẩm hoàn thiện quan niệm
về cái phi lí của Camus đi từ phân li (Người xa lạ) đến sám hối (Sa đọa) và tập
hợp (Dịch hạch). Cốt truyện Dịch hạch sản phẩm hư cấu dựa trên tư tưởng phi lí
của Camus, thể hiện được nhiều vấn đề quan trọng của nhân sinh.
Không được biết đến nhiều với tư cách vừa là nhà văn, vừa là nhà triết
học nhưng với số tượng tác phẩm đồ sộ của mình, ít nhiều, Philip Roth cũng đã
gửi gắm cách nhìn về cuộc đời mang tính chất phi lí cũng khá rõ nét. Trước hết,
đề tài mà Roth thường hay hướng tới đó là nạn phân biệt chủng tộc (một sự phân
biệt phi lí). Tiếp đến, ông rất hay đề cập đến cái chết, một điều xác thực nhất
trong chuỗi đời sống phi lí. Ông cũng thể hiện sự bất tín đối với Chúa, với
Thượng đế, bởi đó chỉ là một tên “đao phủ”, “một kẻ giết người máu lạnh”, một
tên “chuyên giết trẻ con”,… Không phát biểu trực tiếp những quan niệm của
mình, bởi Roth đã từng nói rằng, ông muốn người khác biết đến tư tưởng của
ông qua các tiểu thuyết ông viết. Chính vì vậy mà tiểu thuyết Roth thường mang
tính chất bán tự thuật, các nhân vật trong tác phẩm thường là một hình ảnh hư
cấu mang dáng dấp của ông (Zuckerman), không gian các tác phẩm thường là
Newark hay Jersey, nơi ông gắn bó. Có người còn cho rằng tiểu thuyết Roth
không vượt quá phạm vi nước Mĩ chính là vì vậy. Tuy nhiên, xét về mặt tư
tưởng, nghệ thuật tiểu thuyết thì ngòi bút của ông chắc chắn có thể vươn xa hơn
phạm vi nước Mĩ, bởi ông luôn chú trọng đến những vấn đề mang đậm tính chất
hiện sinh, nó là suy nghĩ chưa nói ra của biết bao người không chỉ trên đất nước
ông mà còn là vấn đề của nhân loại nói chung như: tuổi già, bệnh tật, cái chết,
niềm tin, lí tưởng sống,…, những vấn đề về nghệ thuật tiểu thuyết trong thời đại
mà nó có thể “giãy chết” bởi sự xâm lấn của kĩ thuật, công nghệ hiện đại. Tiểu
thuyết phải có sự thay đổi nhất định trong nghệ thuật xây dựng, bởi nếu không,
nó sẽ hoàn toàn mất đi vị trí của mình. Đây cũng chính là nguyên nhân thôi thúc
39
chúng tôi tìm hiểu đề tài này. Chúng tôi muốn lí giải tại sao giữa thời đại công
nghệ này, tiểu thuyết của Camus (Dịch hạch) và Philip Roth (Báo ứng) vẫn còn
có thể thu hút sự chú ý của người đọc đến như vậy. Nghệ thuật xây dựng tiểu
thuyết của hai ông có gì đặc biệt chăng? Một nhà văn đạt giải Nobel (Camus) và
một nhà văn đạt rất nhiều giải thưởng văn học lớn nhỏ, người đầu tiên được viết
tiểu sử khi vẫn còn sống, người đang được dự định sẽ đề cử nhận giải Nobel văn
học (Roth),…ắt hẳn phải có một sự đặc biệt trong nghệ thuật xây dựng tiểu
thuyết, tiêu biểu là qua Dịch hạch và Báo ứng.
Cái nhìn phi lí của Roth về cuộc sống được thể hiện ở việc ông không tin
vào Chúa. Ông đã nói lên quan điểm này trong một cuộc trả lời phỏng vấn với
Rita Braver: “Khi cả thế giới không tin vào Thiên Chúa, nó sẽ là một nơi tuyệt
vời” [98]. Với Roth, tôn giáo chỉ là một sự ngụy tạo, sự dối trá: “Tôi chống tôn
giáo (...) Tôi ghét những lời nói dối tôn giáo. Đó là tất cả một lời nói dối lớn”.
Ông nói điều đó trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Đan Mạch Martin
Krasnik.
Như vậy, quan niệm của Roth về cuộc sống có một số nét khá giống với
Camus. Tuy nhiên, qua Báo ứng và một số tác phẩm gần đây của ông như:
Người phàm, Phẫn nộ, Các hạ,… Chúng ta có thể nhận thấy rằng, cùng nhìn
cuộc đời mang đầy những phi lí nhưng nếu như Camus kêu gọi hành động để
chống trả cuộc đời phi lí thì nhân vật của Roth lại thụ động hơn. Họ nhìn nhận
cái phi lí của cuộc đời và chịu đựng nó, bi quan với nó, và mang nặng những ám
ảnh vì nó. Phi lí của Roth mang màu sắc bi quan hơn. Chính điều này dẫn đến
thế giới bao trùm trong sáng tác của ông chính là thế giới của những nỗi ám ảnh,
mà sự chi phối tiêu biểu của nó được thể hiện rõ trong cốt truyện Báo ứng.
2.1.2. Nỗi ám ảnh
Tiếp theo cái nhìn phi lí bi quan về cuộc sống là những nỗi ám ảnh thường
xuyên xuất hiện trong sáng tác của Philip Roth ở những tác phẩm giai đoạn gần
đây. Đó là những ám ảnh về tuổi già, sự lão hóa, bệnh tật, sự bất lực và cái chết.
40
Roth là nhà văn rất ngại tham gia các cuộc phỏng vấn, và khi tham gia thì cũng
rất dè dặt (không bao giờ mỉm cười), chỉ có thể tìm được tư tưởng của nhà văn
này qua các sáng tác của ông. Tiểu thuyết của ông thường xoay quanh các chủ
đề bán tự truyện nói về các giai đoạn trong đời sống của mình, kết hợp với bình
luận xã hội và châm biếm chính trị. Roth luôn mang một niềm ám ảnh to lớn về
những đứa trẻ người Do Thái, cuộc sống người Do Thái. Những điều này
thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm của Roth, các nhân vật chính, nhân vật
được nhắc đến, nhân vật gây mối bận tâm suy nghĩ cho cốt truyện đều là người
Do Thái, họ luôn bị đặt vào những tình thế mang nhiều nguy cơ, rủi ro (Bucky
Cantor, Những đứa trẻ người Do Thái trong Báo ứng và nguy cơ bại liệt, nhân
vật Roth, Zuckerman,…). Roth từng nói rằng “những nỗi sợ hãi và ám ảnh của
thế hệ chúng tôi là trẻ em Do Thái Mỹ. Trong tuổi đôi mươi của tôi, tôi muốn
chứng minh với bản thân mình rằng tôi không sợ tất cả những điều đó. Nó
không phải là một sai lầm khi muốn chứng minh rằng, mặc dù, sau khi nó đã
qua, tôi hầu như không thể viết khoảng ba hoặc bốn năm.”
Nỗi ám ảnh tuổi già, bệnh tật, sự lão hóa, bất lực cũng thường xuyên xuất
hiện trên trang viết của Roth, là đề tài chính để ông khai thác. Nhân vật không
tên trong Người phàm luôn cảm thấy khổ sở vì thể trạng không khỏe mạnh của
mình, từng giai đoạn trong cuộc đời đều là những giai đoạn ông phải đối diện
với nỗi sợ hãi, nỗi ám ảnh do bệnh tật mang lại: thoát vị đĩa đệm (lúc nhỏ), lớn
hơn, ông phải trải qua những đau đớn, khổ sở, bực bội của việc phải đặt những
thiết bị làm thông mạch máu, đặt hệ thống rung tim (tim giả) để tranh nguy cơ
đột quỵ. Đến cuối đời, niềm khao khát phụ nữ vẫn không nguôi trong lòng người
đàn ông này, nhưng sự bất lực đã khiến ông trở nên dè dặt, mất tự tin vào cuộc
sống, bẽ bàng trước số phận, tự trở thành trò cười trong niềm khao khát mà bản
thân mình không thể dập tắt được. Bản năng tình dục, khao khát tình dục cũng
đồng nghĩa với khao khát sống, bản năng sống của con người. Bi kịch là ở sự
mâu thuẫn giữa một bên là khao khát tình dục nhưng bất lực, khao khát sống
41
nhưng bị chối từ. Roth cho ta thấy được một điều phi lí: con người được sinh ra
để sống nhưng lại phải chết, con người luôn khao khát sống nhưng tuổi già, bệnh
tật, sự lão hóa lại chống đối với niềm khao khát đó. Không giải thoát được,
không làm quen được, không chấp nhận đươc sự thật đó, con người mang nặng
những ám ảnh của thực tại phũ phàng mang lại. Làm thế nào mà tôi mạnh khỏe,
tràn đầy sức sống, mang trong mình biết bao năng lượng của ngày hôm qua lại
trở nên yếu đuối, tàn tạ, và sẽ chỉ có thể tàn tạ và yếu đuối hơn thôi?! Làm thế
nào mà tôi – người từng hít thở bầu không khí này, từng vui vẻ, từng đam mê,
từng thành công, từng gánh vác, từng cưu mang kẻ khác, giờ lại không được hít
thở nữa, không được là mình nữa, không làm được những điều mình đã từng
làm nữa? Sự sụp đỗ ám ảnh con người khi dần đi vào những năm tháng cuối
đời,…
Trên tất cả, đó là nỗi ám ảnh về cái chết. Không khác mấy so với Camus,
Roth cũng cho rằng cái chết là điều minh xác nhất giữa cuộc đời đầy những
ngổn ngang, phi lí này. Bằng chứng là ông thường hay bàn về cái chết, bàn về
nó một cách sâu sắc. Thực tế cuộc sống của Roth bị ám ảnh bởi cái chết của cha,
mẹ và một người bạn đồng nghiệp của ông. Roth thừa nhận rằng ông sợ cái chết:
khi người phỏng vấn – nhà báo Đan Mạch Martin Krasni hỏi rằng “Ông sợ chết
chứ?”, Roth đã trả lời: “Vâng, tôi sợ. Thật kinh khủng”, “Đó là một điều đau
lòng. Đó là điều không thể tưởng tượng. Thật khó tin. Không thể chịu nổi” [86].
Cuộc đời sáng tác của Roth quả không bằng phẳng và dễ dàng, ngược lại,
nó mang nhiều lo âu và ám ảnh. Tuy nhiên, cũng như Camus, ông khước từ việc
tìm sự cứu cánh ở tôn giáo: “Khi tôi viết, tôi một mình. Nó chứa đầy nỗi sợ hãi
và sự cô đơn và lo lắng, và tôi không bao giờ cần tôn giáo để cứu tôi”. Viết về
cái chết, Roth thể hiện sâu sắc những trăn trở đậm chất hiện sinh về vấn đề dù
buồn bã nhưng rất đáng quan tâm của con người.
Cái nhìn phi lí thường đi liền với nỗi ám ảnh. Khi chống trả lại cái phi lí
không có nghĩa là con người không bị nó ám ảnh, chỉ là vì lúc đó họ đã dùng hết
42
khả năng có thể để chống lại, cảm giác phi lí luôn luôn xảy ra trong tiến trình
sống, và nhân vật của Roth đau đớn, cay đắng, chịu đựng sự ám ảnh về cái phi lí
thì nhân vật của Camus cũng đau đớn nhưng không buông xuôi mà cố sức vùng
vẫy để vượt thoát sự phi lí. Trong tác phẩm của mình, Camus mang nặng những
ám ảnh về các vấn đề thân phận con người, về bệnh tật, sự bất công, chiến tranh,
cái chết. Những vấn đề này thường trở thành đề tài trong các sáng tác của ông.
Tư tưởng phi lí và nỗi ám ảnh chi phối rất rõ rệt trong nghệ thuật xây
dựng tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng. Cốt truyện hai tác phẩm này có điểm
chung là nói về tình trạng loay hoay tìm lối thoát của con người trong hoàn cảnh
dịch bệnh. Tư tưởng phi lí và nỗi ám ảnh chi phối cách xây dựng chi tiết, tình
huống và cách kết thúc truyện. Bên cạnh đó, khi xem xét cốt truyện trong mối
tương quan với người kể chuyện, ngôi kể, ta sẽ thấy rằng hai tư tưởng này, đặc
biệt là tư tưởng phi lí có ảnh hưởng đến cách lựa chọn cách thức kể chuyện, ngôi
kể (người kể chuyện đóng hai vai và cách kể chuyện nước đôi trong Dịch hạch;
người kể chuyện đóng hai vai cũng là cách chọn ngôi kể của Roth trong Báo
ứng). Các thành phần xen cốt truyện cũng có vai trò quan trọng, làm nền để cái
phi lí và nỗi ám ảnh thể hiện rõ nét, chi phối sâu sắc trong cốt truyện hai tác
phẩm.
2.2. Sự chi phối của quan niệm phi lí đối với nghệ thuật xây dựng cốt truyện
Dịch hạch và Báo ứng
Nghiên cứu sự chi phối của một quan niệm, một tư tưởng vào nghệ thuật
xây dựng tiểu thuyết ở phương diện cốt truyện tức là tìm hiểu xem tư tưởng,
quan niệm về thế giới và con người của nhà văn có ảnh hưởng như thế nào trong
cách tổ chức, xây dựng và sắp xếp các chi tiết, tình huống của cốt truyện, bao
gồm cả cách kết thúc truyện.
Phi lí là quan niệm trung tâm và xuyên suốt trong cả sự nghiệp sáng tác
của Camus. Tuy sự nghiệp ấy không mấy đồ sộ về số lượng tác phẩm nhưng do
chiều sâu và sự phức tạp của tư tưởng mà sáng tác của Camus luôn thu hút sự
43
quan tâm của các nhà nghiên cứu. Nói đến quan niệm phi lí trong sáng tác của
ông, người ta thường nhắc đến Dịch hạch sau Người xa lạ và Huyền thoại
Sisyphe. Tuy nhiên, nếu như tính chất phi lí trong Huyền thoại Sisyphe mang
nặng tính luận đề, tư tưởng, cái phi phí trong Người xa lạ hòa vào cách xây dựng
nhân vật chính – Mersault thì trong Dịch hạch, Camus lại chú ý ở một khía cạnh
khác của nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết đó là cốt truyện. Xây dựng cốt truyện
với trung tâm là việc con người loay hoay tìm đường thoát ra nạn dịch hạch,
thoát khỏi cảnh sống cách li chẳng khác gì lưu đày, Camus đã thể hiện rõ nét
yếu tố phi lí trong cốt truyện của mình.
Hoàn toàn thống nhất với hệ thống quan niệm đưa ra trước đó, nhà văn đã
cho người đọc thấy rằng, không gì thấm thía cảm giác phi lí bằng cách sống
trong một trận dịch truyền nhiễm mà nguy cơ chết luôn rất cận kề, phải sống
cuộc sống lưu đày không biết đến bao giờ mới thoát được.
Trước hết, quan niệm này chi phối cốt truyện Dịch hạch qua việc tạo
dựng các chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm. Đó là những chi tiết được lặp lại
nhiều lần, dẫn dắt người đọc thấy được thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm,
đồng thời, gợi những liên tưởng sâu sắc, thú vị, những cảm xúc tinh tế ở người
đọc. Chi tiết nghệ thuật là “các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm
xúc và tư tưởng…tùy theo sự thể hiện cụ thể chi tiết nghệ thuật có khả năng thể
hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu
điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm” [25, tr.51]. Thông thường, một
tác phẩm hay sẽ có rất nhiều chi tiết hấp dẫn, cuốn hút người đọc. Ở đây, chúng
tôi không khảo sát hết tất cả các chi tiết mà chỉ dừng lại ở những chi tiết được sử
dụng một cách hệ thống và có giá trị kiến tạo cốt truyện một cách độc đáo.
Chi tiết thói quen là một chi tiết quan trọng không thể không nhắc tới khi
khảo sát cốt truyện Dịch hạch. Mở đầu tác phẩm, Camus giới thiệu những sinh
hoạt được lặp lại một cách vô vị của người dân thành phố Oran: đi làm suốt tám
tiếng các ngày trong tuần, cuối tuần thi uống cà phê, chơi cờ, quan hệ nam nữ thì
44
chỉ có hai dạng – một là ngấu nghiến nhau nhanh chóng, hai là sống bên nhau
suốt đời, thành phố ngột ngạt dưới ánh mặt trời chói chang và con người sống
được một cách bình thường ở đây là do họ cố tạo lập cho mình những thói quen.
Chi tiết này gợi ấn tượng về cảm giác trì độn, “sự đơn điệu của những hành
động, sự “buồn nôn” về cái máy móc hay về một sự tồn tại “không mục đích”.
Chi tiết này tạo ấn tượng về nguyên nhân của cái phi lí. Trải suốt chiều dài tác
phẩm, Camus cũng hay nhắc đến thói quen, sự tạo lập và phá vỡ thói quen.
Không gian mà Camus chọn để thể hiện thông điệp của mình chính là
thành phố Oran. Sẽ là một điều bình thường, dễ hiểu nếu đây là nơi đã xảy ra
dịch hạch. Tuy nhiên, trên thực tế, vào những năm 1940, hoàn toàn không có
dịch bệnh nào xảy ra ở thành phố Oran. Như vậy, chọn không gian này, hẳn nhà
văn có một dụng ý khác chứ không đơn thuần là phản ánh thực tế. Chúng ta có
thể lí giải phần nào dựa vào điều kiện tự nhiên của Oran: đây là một thành phố
thuộc Algieria nằm bên bờ Địa Trung Hải, bị bao quanh bởi rừng và biển, nằm
biệt lập với thế giới bên ngoài, thành phố quay lưng ra biển và con người luôn
phải tìm kiếm nó. Không gian này gợi cảm giác lưu đày rõ rệt. Người dân thành
phố Oran luôn quay theo guồng máy của công việc và thời gian, họ không còn
sống cho mình mà sống vì một cái gì khác bên ngoài mình. Như vậy, họ bị lưu
đày ngay trong chính thói quen sinh hoạt của chính mình. Không thoát khỏi cảm
giác trì độn, vô vị này, con người cảm thấy cuộc đời là một chuỗi của những
điều phi lí. Đó là về con người, còn về không gian biệt lập của Oran gợi ấn
tượng về nơi con người bị cầm tù. Họ là những “tù nhân” trên chính “vương
quốc” mà mình đang sống. Đây có lẽ cũng là lí do khiến ban đầu Camus đặt tên
tác phẩm là Những người tù rồi sau đó mới đổi lại thành Dịch hạch. Đặt tên cho
tác phẩm là Dịch hạch sẽ có tính bao quát, có ý nghĩa biểu tượng hơn là Những
người tù, bởi Những người tù chỉ gợi được cảm giác lưu đày, đúng nhưng chưa
phản ánh đủ những khía cạnh của cái phi lí trong quan niệm của Camus. Dịch
hạch sẽ gợi ra nhiều liên tưởng, nhiều ý nghĩa, phản ánh được nhiều khía cạnh
45
của cái phi lí hơn. Dịch hạch là một sự lan tỏa vượt qua sự kiểm soát về sự trì
độn, máy móc của cuộc sống, về sự tấn công của cái xấu, cái ác đối với con
người, sự thống trị của những quan niệm tiêu cực, dịch hạch là góc khuất với
những thói xấu trong tính cách con người,…
Chi tiết thành phố quay lưng ra biển, con người phải luôn đi tìm kiếm biển
không phải là một sự ngẫu nhiên bình thường mà nó thể hiện dụng ý của nhà
văn trong xây dựng tiểu thuyết ngay cả ở chi tiết nhỏ nhất đó là chọn không gian
cho tác phẩm. Chi tiết này mang đậm chất hiện sinh: hành trình sống của con
người là hành trình đi tìm bản ngã, cũng như hành trình người dân Oran đi tìm
biển (những ngày tháng dịch bệnh hoành hành, họ không thể tìm biển…).Cuộc
đời vốn mang bản chất phi lí, khi con người tự hỏi: Ta là ai? Ta sinh ra để làm
gì? Ta sẽ đi về đâu? Là lúc họ thấy rõ nhất bản chất phí li của cuộc đời, vì họ
mãi mãi không có lời đáp chính xác cho những câu hỏi đó. Và vì vậy, họ mãi
mãi tìm kiếm bản ngã của chính mình. Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng Camus đã thể
hiện được dụng ý nghệ thuật của mình trong việc phát biểu quan niệm phi lí một
cách hết sức tinh tế. Ông được mệnh danh là “một người nghệ sĩ khi phát biểu
các quan niệm triết học” quả không sai.
Sự mơ hồ cũng là chi tiết thường xuyên được lặp lại trong Dịch hạch cho
người đọc thấy được một khía cạnh của cái phi lí. Sự mơ hồ nằm trong cảm giác,
trong ý nghĩ của nhân vật, là trạng thái loay hoay, không định hướng, rất khó
xác định được bất cứ điều gì. Đó chính là tình trạng sống của con người trong
cuộc đời này. Con người không bao giờ tìm ra được ý nghĩa tận cùng hoặc tìm
được lí do của bất cứ những gì đang xảy ra một cách rõ ràng và chính xác. Một
khi không chấp nhận sự tương đối, con người sẽ thấy mọi thứ rất mơ hồ. Với
Rieux “dịch hạch, cũng như trạng thái mơ hồ, thật là đơn điệu”. Những gì gắn
với dịch hạch đều là mơ hồ, đều đối lập với hạnh phúc của con người. Từ “mơ
hồ” được lặp lại 24 lần trong tác phẩm như một sự nhấn mạnh của Camus về
46
một khía cạnh đáng quan tâm của tình trạng vô lí mà dịch hạch đã gieo rắc
xuống cuộc sống con người.
Hình ảnh Chúa luôn trở đi trở lại trong toàn bộ tác phẩm. Đây là hình ảnh
có tính chất kết nối các sự kiện, biến cố, làm sáng rõ đề tài của tiểu thuyết. Chúa
hay tôn giáo nói chung là nơi con người hay tìm đến làm chỗ dựa tinh thần khi
gặp đau khổ, bất hạnh. Nhưng với cái nhìn hiện sinh mang màu sắc phi lí về
cuộc sống, Camus không chấp nhận những gì không thuộc về thực tế, không làm
con người hành động để khẳng định mình. Rieux không quan tâm đến Chúa, chỉ
quan tâm đến những gì về con người: “Rieux đáp là (…) nếu ông tin vào một
Thượng đế toàn năng thì ông đã không còn chạy chữa cho người ta nữa” [6,
tr.169]. Cùng quan điểm đó, Tarou muốn trở thành một vị thánh không Chúa, xả
thân vì cộng đồng. Đối với quan niệm của Panolux, các nhân vật chính trong tác
phẩm tỏ ra không bằng lòng, và sự không bằng lòng đó thể hiện rõ nét hơn qua
sự gay gắt của Rieux đối với Panolux khi chứng kiến cái chết của Jacques
Othon, con của thẩm phán Othon. Qua việc xây dựng hình ảnh Chúa với những
mâu thuẫn trong cách nhìn nhận của nhân vật, Camus đã thể hiện thái độ thách
thức Chúa và hướng con người đến hành động chiến đấu như những con người
thực sự, hãy thôi dựa dẫm vào Chúa, hãy can đảm thực hiện trọng trách làm
người của mình – một trọng trách mà lâu nay họ đã phó mặc cho Chúa… Điều
đau khổ nhất sẽ xảy đến khi con người không còn đặt niềm tin ở mình mà đặt
lầm chỗ khác, hư vô và chưa hề biết tới.
Hình ảnh Chúa xuất hiện thường xuyên, là đề tài cho những nỗi trăn trở
của nhân vật, có vai trò rất lớn trong việc tạo ra sự thống nhất trong quan điểm
nghệ thuật và xây dựng tác phẩm của Camus, tạo sự chặt chẽ, tạo mạch ngầm
buộc người đọc phải suy nghĩ và lí giải. Chính quá trình tìm tòi mạch ngầm và lí
giải tác phẩm tạo sự cuốn hút đặc biệt cho cốt truyện tiểu thuyết Dịch hạch. Mỗi
nhân vật trong tiểu thuyết đều có một quan niệm, một cách nhìn nhận về Chúa.
Qua mỗi cách nhìn nhận ấy, tính cách nhân vật dần được bộc lộ một cách đa
47
dạng và sâu sắc. Với Camus, con người không thể trông cậy vào Chúa vì trước
tất cả những đau khổ của con người, Chúa vẫn một mực lặng thinh. Năm 1932,
Camus và một người bạn đã cùng chứng kiến một tai nạn tại Algieria – một em
bé Hồi giáo đã bị xe bus đâm phải và hôn mê. Camus đã chỉ tay lên trời và nói
với người bạn: “Anh thấy không? Ông ta nín thinh.” Sự im lặng ấy là dấu hiệu
cho sự dửng dưng và một điều cảnh báo rằng con người đừng tin vào Chúa nữa
vì điều đó hoàn toàn phi lí, không có một ý nghĩa gì cả. Tháng bảy năm 1944,
trong lá thư gửi cho người bạn Đức, Camus viết: “Ánh bình minh sẽ ló rạng và
các anh cuối cùng sẽ chiến bại. Tôi biết rằng, vốn chẳng đoái hoài gì tới những
ghê tởm của các anh, ông trời cũng sẽ dửng dưng khi các anh bại trận một cách
xứng đáng. Ngay cả hôm nay, tôi cũng chẳng mong đợi gì ở trời.” Chúa trong
Dịch hạch là một đại diện tiêu biểu cho cái phi lí có sức chi phối con người hết
sức mạnh mẽ. Dù muốn hay không thì vẫn còn rất nhiều tín đồ trung thành với
Chúa, trung thành tin tưởng vào sự hiện hữu của Chúa.
Sở dĩ hình ảnh Chúa lại được quan tâm nhiều trong tác phẩm bởi vì hình
ảnh ấy gắn liền với chi tiết về cái chết. Khi đối diện với cái chết, con người mới
thấy được rằng có nên tin Chúa hay không khi mà Chúa trên cao vẫn một mực
lặng im giữa lúc con người khổ sở kêu cứu. Chi tiết cái chết có vai trò rất quan
trọng làm nên cái hay trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Dịch hạch của
Camus. Đây là chi tiết được xây dựng dựa trên sự chi phối của quan niệm phi lí
của Camus trong cách nhìn cuộc sống. Với ông, mọi thứ trong cuộc đời này đều
là phi lí, chỉ có cái chết là xác thực. Mọi suy nghĩ, hành động của nhân vật đều
trong cảm giác là mình sắp sửa chết đi, dịch hạch mang lại cái chết đang rình rập
trên đầu mình.
Cái chết của Panolux là một cái chết khá bí ẩn, ít nhiều liên quan đến
Chúa (bởi ông phát bệnh và chết ngay sau bài thuyết giáo phản bác Chúa). Đây
là một trong những cái chết mang tính phi lí cao bên cạnh những cái chết vì
bệnh dịch khác. Cái chết này dẫn đến một loạt những vấn đề liên quan đến niềm
48
tin: con người có nên tin Chúa hay không khi Người đã gieo rắc hàng loạt đau
khổ? Chúa hay Thượng Đế mà họ hằng tin liệu có thật không khi con người vẫn
siêng năng cầu nguyện mà tai họa và cái chết vẫn tìm đến họ? Chúa liệu có phải
là đấng toàn năng hay không? Cái phi lí ở đây là Panolux không chết vì nhiễm
bệnh mà chết vì một căn bệnh gì khác mà người ta không thể khám phá ra. Cái
chết của ông có thể khiến chúng ta dễ dàng liên tưởng đến sự trừng phạt của
Chúa. Vậy, Chúa có nhân từ không khi sẵn sàng ra tay trừng phạt những kẻ phản
lại mình? Như vậy, cái chết của Panolux là một khía cạnh khác trong sự thống
nhất về quan niệm phi lí của Camus trong Dịch hạch (thống nhất với các chi tiết
về Chúa). Đỉnh cao của cái phi lí trong Dịch hạch là cái chết của Tarou ở cuối
tác phẩm, khi dịch bệnh đã chấm dứt ở thành phố Oran. Nếu như anh chết trong
lúc dịch bệnh mới bắt đầu hoặc khi nó đang ở đỉnh cao thì dù đau đớn nhưng
điều đó vẫn có thể hiểu và chấp nhận được. Nhưng Tarou lại chết trong chính
những ngày cuối cùng của dịch hạch, anh ta chết ngay ở thời điểm của vinh
quang và chiến thắng. Một cái chết phi lí như thế để chứng minh “vinh quang
chỉ là điều dối trá”. Tarou đã thua trong cuộc chiến với cái chết và số phận.
Cái chết của Tarou được Camus miêu tả rất cụ thể và chi tiết. Quan điểm
về cái phi lí được nhà văn tập trung nhiều nhất ở tình huống này, đó là sự tấn
công của dịch bệnh và cái chết không đáng có ở nhân vật Tarou. Song song với
vấn đề này, sự thật cũng là một khía cạnh quan trọng được Camus quan tâm thể
hiện khi nói về thái độ đối với cái phi lí, bên cạnh thái độ phản kháng: “Sống là
khước từ nói dối. Nói dối không chỉ là nói sai sự thật mà còn là nói quá đi sự
thật”. Nhân vật Tarou đến lúc gần chết vẫn yêu cầu Rieux cho anh biết toàn bộ
sự thật, bởi đó là cách duy nhất giúp anh sống trọn vẹn đến giây phút cuối cùng:
“Anh cứ cho tôi biết đúng sự thật” [6, tr.371]. Như vậy, qua tình huống này,
Camus đã đề xuất cách phản ứng, cách sống trong cuộc đời phi lí: hãy chiến đấu
hết mình và sống trọn vẹn từng giây phút khi còn ở trên đời, muốn như vậy, hãy
sống thật, khước từ nói dối và luôn vì con người.
49
Quan niệm phi lí còn chi phối cách xây dựng các tình huống trong cốt
truyện. Tình huống truyện là thời điểm một sự việc, một sự kiện xảy ra với nhân
vật, đặt trong tình thế đó nhân vật buộc phải thể hiện thái độ, hành động và có
giải pháp cụ thể. Tình huống được xây dựng không chỉ nhằm thúc đẩy phát triển
hành động nhân vật mà còn đóng vai trò khơi nguồn, châm ngòi, lý giải nguyên
cớ, nguồn cơn của những tâm trạng, những biến đổi vi diệu trong tâm hồn nhân
vật.
Cùng với chi tiết, tình huống tạo cho mạch truyện một đường dây chặt chẽ
với sự logic trước sau của sự kiện có liên quan tới số phận, tính cách nhân vật
đặt trong bước đi của lịch sử. Những tình huống được chúng tôi chọn khảo sát ở
đây có vai trò rất lớn trong việc làm bộc lộ, lí giải tính cách nhân vật, lí giải tư
tưởng, quan điểm nghệ thuật của Camus.
Tình huống đầu tiên tạo sức hút mạnh mẽ, có tác dụng mở ra các sự kiện
cho cốt truyện Dịch hạch đó là tình huống chuột chết. Bên cạnh các chi tiết về
thành phố Oran với các điều kiện tự nhiên và thói quen sinh hoạt đặc biệt của
nó, tình huống chuột chết đã gây ấn tượng mạnh cho độc giả, khiến người đọc tò
mò không biết sự kiện gì sẽ xảy ra phía sau… Điều gây kinh ngạc ở đây là chuột
chết không hề có lí do, chết một cách kì lạ và đáng sợ:
“Từ ngày thứ tư, chuột bắt đầu kéo ra chết hàng đàn. Từ các xó xỉnh,
công trình ngầm, hầm nhà, cống rãnh, chúng loạng choạng leo thành
những đàn dài để đến lảo đảo ngoài trời, quay vòng tròn và chết bên
cạnh người. Ban đêm, trong các hành lang hay trên các đường hẻm,
nghe rõ tiếng kêu chít chít của chúng trong cơn hấp hối. Buổi sáng, ở
các cửa ô, người ta thấy chúng lăn ra ngay bên suối, một vệt máu nhỏ
trên mõm nhọn hoắt, con thì trướng lên, hôi thối, con thì cứng đờ, bộ
ria con dựng đứng. Ngay trong nội thành, người ta cũng gặp chúng
hàng đống, trên các bậc thang hay trong sân. Chúng chết lẻ tẻ trong
hành lang các công sở, trong sân chơi trường học và đôi khi cả trên
50
hiên các quán cà phê (…) Trên vỉa hè, nhiều người đi dạo buổi tối
cảm thấy dưới chân mình cái khối mềm nhũn của một xác chuột mới
chết. Người ta tưởng như dưới các ngôi nhà, mặt đất tẩy hết ra ngoài
cái lượng thể dịch của nó và cho nổi lên trên những cái mụn nhọt từ
trước đến nay âm ỉ cào xé lòng đất” [6, tr.28].
Tình huống này là sự kiện mở đầu Dịch hạch, dù không thể hiện một cách
rõ ràng quan niệm của Camus nhưng nó có tác dụng dẫn dắt cho hàng loạt sự
kiện xảy ra tiếp sau đó. Cái phi lí ở đây thể hiện ở sự mập mờ, khó hiểu của sự
việc. Tình huống mập mờ này gây không ít hoang mang cho người dân thành
phố Oran: người thì dự đoán sắp có động đất (lão già hen suyễn), người thì lại
bảo sắp tới nạn đói, người thì âm thầm theo dõi những diễn biến xảy ra tiếp theo
đó và kể lại (người kể chuyện), ghi chép lại (Tarou)…Cảm giác buồn nôn không
còn đến từ sự trì độn, máy móc của hoạt động mà nó đến từ sự ghê tởm hiện
thực. Điều gì sẽ xảy ra khi bỗng một ngày mọi tội ác, mọi tiêu cực, mọi xấu xa
đều đồng loạt nổi lên trên quả đất này? Đời sống con người sẽ trở nên thế nào?
Họ phải ứng phó ra sao? Hàng loạt câu hỏi cùng sự liên tưởng đặt ra cho người
đọc khi mở đầu tác phẩm. Có một điều trùng hợp là trong tiểu thuyết Báo ứng
của Philip Roth cũng có một tình huống chuột chết, nhưng chỉ là cái chết của
một con chuột. Nếu như cái chết của hằng hà sa số chuột ở thành phố Oran có
tác dụng đánh dấu một chuỗi các sự kiện phi lí phía sau thì tình huống con chuột
chết trong Báo ứng lại đánh dấu bước ngoặc cho sự trưởng thành trong tính cách
của nhân vật chính – Bucky Cantor vì đã can đảm giết chết con chuột – đó là
chiến thắng đáng tự hào của một đứa trẻ Do Thái, hỗ trợ cho sự phát triển bản
lĩnh của nhân vật sau này: “ Sau thắng lợi này, ông ngoại chuyển sang gọi thằng
cháu bằng biệt danh Bucky – mười tuổi – đeo kính – với hàm ý ghi nhớ sự việc
thể hiện bản tính kiên cường và gan góc, có nghị lực, có sức chịu đựng hơn
người này của cậu” [48, tr.28].
51
Tình huống đáng lưu ý trong Báo ứng có tác dụng dẫn dắt các tình huống
khác của cốt truyện đó là việc bọn người Ý đến khạc nhổ hòng truyền bệnh cho
những đứa trẻ ở sân chơi. Sau sự việc này là một loạt những bi kịch do dịch bại
liệt mang lại cho những đứa trẻ ở Newark. Tính cách cứng rắn, cương quyết và
gan dạ của một người Do Thái ở Bucky cũng được thể hiện rõ nét nhờ “chất
men xúc tác này”. Hình ảnh thầy Bucky hiện lên vững chãi với sự tự tin không
gì lay chuyển nổi đã trở thành thần tượng cho lũ trẻ: “sau vụ việc với mấy gã
người Ý, thầy ngay lập tức trở thành một anh hùng, một thần tượng, một người
anh lớn quả cảm, chở che, nhất là đối với những đứa có anh trai đang ở ngoài
chiến trường” [48, tr.23].
Tóm lại, song song với tình huống chuột chết trong Dịch hạch là tình
huống bọn người Ý xuất hiện trong Báo ứng. Cả hai tình huống đều có vai trò
mở ra cốt truyện dẫn đến một loạt biến cố xuất hiện sau đó, mà quan trọng nhất
là sự xuất hiện của dịch bệnh. Nếu như chuột chết chỉ làm người dân thành phố
Oran hoang mang, bọn người Ý xuất hiện đe dọa sự yên bình trong sân chơi, gây
băn khoăn cho các phụ huynh thì sự xuất hiện của dịch hạch, dịch bại liệt đã
thực sự đưa con người vào bi kịch. Hàng loạt cái chết xảy ra sau đó, đa số đều
chết rất đau đớn và nhanh chóng (trong vòng 36 đến 48 tiếng).
Có thể nói, tình huống dịch bệnh đã đặt dấu ấn phi lí cho toàn bộ tác
phẩm. Bệnh dịch bất ngờ ập đến mà không hề có lí do gì. Hơn nữa, cùng với sự
xuất hiện không lí do đó, nó đã đem lại không ít đau khổ cho con người, họ phải
chịu cảnh sống lưu đày, cách li, chịu đau đớn về thể xác, khổ sở về tinh thần.
Trong Dịch hạch, dịch bệnh chính thức bắt đầu với cái chết của ông lão
gác cổng Misen. Không lường trước được điều gì, lão Misen đột ngột mắc bệnh
ngay khi còn chưa hiểu lí do và ông chết vì dịch hạch khi trong đầu vẫn còn lờ
mờ nghi hoặc nguyên nhân gây bệnh cho mình là lũ chuột. Dịch hạch đến bất
ngờ tới mức người ta không nghĩ rằng nó lại có thể xảy ra với mình. Tình huống
này khẳng định điều phi lí của cuộc sống: con người không thể giải thích nổi vì
52
sao những điều xấu xa, những cái ác, dịch bệnh và chiến tranh luôn tồn tại. Vì
sao con người sinh ra để sống mà những điều đó luôn bắt họ phải chết. Dịch
hạch xuất hiện đưa con người vào bi kịch: phải chịu đau đớn vì nhiễm bệnh,
phải đối diện với cái chết, hoặc phải sống trong cảnh xa cách người thân, xa
cách cộng đồng. Như vậy, tình huống dịch bệnh đã hỗ trợ đắc lực cho nhà văn
khi đưa ra quan niệm phi lí của mình. Bởi có đặt nhân vật vào trong hoàn cảnh
dịch bệnh thì cốt truyện tác phẩm mới thể hiện được một cách thấu đáo, một
cách cụ thể những điều phi lí có thể xảy ra trong cuộc sống. Thế giới này là một
thế giới đầy rẫy những phi lí, dịch hạch, dịch bại liệt hay nói chung là dịch bệnh
chính là thế giới ấy. Con người ngay khi sinh ra đã bị ném vào bầu không khí
dịch bệnh, vào vũ trụ của những điều phi lí. Nếu không giữ gìn, họ sẽ bị nhiễm
bệnh ngay lập tức, cái chết sẽ đến liền ngay sau đó, cái chết luôn chực sẵn trên
đầu, nhân lúc con người không để ý, nó sẽ tìm đến. Chúng ta đang sống trong
thế giới của những nguy cơ: chiến tranh, khủng bố, thảm họa từ thiên nhiên…
Với tình huống dịch bệnh, cả Camus và Roth đã cho người đọc nếm trải một
cách cụ thể cảm giác thực sự khi sống trong hiểm họa hay chính xác hơn đó là
cảm giác khi đối diện với cái phi lí. Cũng qua tình huống dịch bệnh, tính cách,
lập trường nhân vật được thể hiện rõ nét: họ biết mình muốn gì nhất, cần làm gì
nhất, mọi thứ thuộc về con người được bộc lộ rõ ràng ở họ. Con người luôn sống
giữa những chọn lựa, mà mỗi chọn lựa đều có tính chất quyết định cuộc đời họ,
hơn nữa, nó còn ảnh hưởng đến những người khác. Chọn lựa ấy có thể làm
người ta tiến lên hay thụt lùi… Trường hợp của Rambert trong Dịch hạch,
Bucky Cantor trong Báo ứng là những ví dụ điển hình nhất. Khi dịch hạch xuất
hiện, thành phố Oran bị đóng cửa, Rambert bị kẹt lại khi đang làm nhiệm vụ ở
đây. Không chịu được nỗi đau li biệt, không chấp nhận sự thật rằng từ nay phải
sống cùng dịch bệnh ở thành phố này, anh đã tìm mọi cách để được rời khỏi
thành phố, ngay cả bằng cách qua lại với bọn buôn lậu. Nhưng khi mọi thứ đã
đâu vào đấy, ngay lúc có thể ra đi dễ dàng thì anh quyết định ở lại. Quyết định
53
đột ngột này của anh đã xoay hướng cuộc đời anh từ việc sống cho mình thành
sống cho cộng đồng: “Hưởng lấy hạnh phúc một mình thì không còn ý nghĩa
nữa”. Anh đã biết điều mình cần nhất là phải làm gì.
Tình huống dịch bại liệt xuất hiện trong Báo ứng cũng đặt nhân vật Bucky
Cantor trước những chọn lựa mà sau mỗi chọn lựa đều là một bước ngoặc trong
cuộc đời anh. Anh luôn phải tự vấn mình với câu hỏi: Ra đi hay ở lại Newark?
Tránh xa nơi có dịch bệnh hay ở lại chiến đấu với nó? Khác với Rambert, Bucky
đã chọn cho mình cách trốn chạy. Tính cách nhân vật, tư tưởng nhà văn cũng từ
đó mà bộc lộ.
Tình huống dịch bệnh tạo điều kiện cho các nhân vật trình bày quan điểm
của mình về cuộc sống, về niềm tin, về thái độ sống… Rieux và Tarou trong
Dịch hạch có thể xem là hai mặt của một bản thể con người. Mỗi nhân vật đều
có quan điểm rất riêng về thái độ sống nhưng đều gặp nhau ở mục đích đó là “vì
con người”. Rieux quan niệm: “Tất cả những gì tôi quan tâm chính là sức khỏe
con người”. Tarou thì muốn trở thành “vị thánh không Chúa” để giúp đỡ loài
người: Cả hai đều không tin vào Chúa mà chỉ hướng đến điều thực tế là chăm lo
cho hạnh phúc của con người. Bên cạnh Rambert, Rieux, Tarou, Grand được
xem là người anh hùng giữa đời thường trong hoàn cảnh dịch hạch, bởi quan
niệm của anh rất đơn giản: có bệnh thì chống lại và tiêu diệt bệnh mà thôi.
Những hành động của anh hoàn toàn là vì con người. Nếu như Grand được xem
là “người anh hùng giữa đời thường” trong khi anh không nghĩ đến bất cứ điều
gì thuộc về chủ nghĩa anh hùng thì Bucky (Báo ứng) lại luôn trăn trở về điều đó.
Đặc biệt, trong hoàn cảnh dịch bệnh, khi đã chọn cách trốn chạy thì suy nghĩ về
cái gọi là “hành động anh hùng” càng trở nên day dứt trong anh…
Xây dựng tình huống dịch bệnh, Camus và Roth muốn nói đến vấn đề “sự
lưu đày trong thân phận làm người”. Không ai sống chính xác đến một trăm năm
và cuộc đời vốn lắm tai ương, thân phận con người vốn hay trôi nổi, chúng ta
54
không biết cái chết sẽ đến với mình lúc nào… Điều phi lí là ở đó, cảm giác lưu
đày chính là ở đó.
Cùng với cái chết của những nạn nhân nói chung, cái chết của những đứa
trẻ là dấu ấn sâu sắc nhất của cái phi lí. Tình huống đứa trẻ chết là tình huống
quan trọng đánh dấu bước ngoặc trong sự thay đổi cách nhìn nhận của các nhân
vật về cuộc sống và về bản thân mình. Cách nhìn nhận dịch bệnh của Panolux có
sự thay đổi rõ rệt sau khi chứng kiến cái chết của Jacques, đứa con trai nhỏ bé
của thẩm phán Otong. Nếu như ở bài thuyết giáo trước, Panolux cho rằng dịch
hạch chính là sự trừng phạt của Chúa đối với loài người và kêu gọi tất cả phải
cúi đầu chấp nhận thì bài thuyết giáo thứ hai (bài thuyết giáo sau khi chứng kiến
cái chết của Jacques) lại khẳng định con người cần phải hành động để chống lại
dịch bệnh, không trông chờ vào sự cứu vớt của Thượng đế. Camus đã khắc họa
cụ thể trạng thái tình cảm của nhân vật khi chứng kiến cái chết của đứa trẻ:
“Trên khuôn mặt gầy choắt lại, đờ đẫn, xám xịt như đất sét, miệng nó
hé mở, liên tục phát ra một thứ tiếng hầu như không còn ăn khớp gì
với nhịp thở và làm cho căn phòng bỗng nhiên âm vang một chuỗi
những lời phản kháng đơn điệu, rời rạc, ít mang tính người tới mức
như thể thốt ra từ tất thảy mọi con người cùng một lúc. Rieux nghiến
chặt răng và Tarou ngoảnh mặt đi. Rambert bước lại gần giường bên
cạnh Caxten lúc đó đã gập sách lại trên đầu gối. Panolux nhìn cái
miệng trẻ thơ hoen ố vì bệnh tật, chứa đầy cái tiếng kêu của mọi lứa
tuổi ấy. Ông quỳ xuống đất và không ai ngạc nhiên khi nghe ông,
giọng nói có phần nghẹn ngào nhưng rành rọt thốt lên: “Cầu xin
Chúa cứu thoát thằng bé” [6, tr.281].
Cái chết của một đứa trẻ được Camus miêu tả một cách chi tiết và cụ thể
bởi cái chết ấy là đại diện tiêu biểu nhất cho những bất công, phi lí trong cuộc
đời. Nó chính là đại diện cho nỗi đau chung của người dân thành phố Oran hay
rộng ra là nỗi đau thân phận làm người của cả nhân loại. Tác giả tiểu thuyết
55
Dịch hạch đã cho thấy tài năng của mình trong nghệ thuật xây dựng tình huống
cốt truyện qua việc chọn lấy những tình huống có sức phản ánh cao, nói được
nhiều điều, gợi được nhiều suy nghĩ, liên tưởng cho người đọc đặc biệt là những
liên tưởng về cái phi lí. Không chỉ có sức chứa cao về mặt nghệ thuật và nội
dung tư tưởng mà nó còn có tác dụng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng,
tính cách của nhân vật, cụ thể là nhân vật Panolux trong Dịch hạch. Là một tín
đồ trung thành của Chúa, người hướng đạo cho những con chiên, Panolux đã đột
ngột thay đổi thái độ với Chúa: ... “nếu kẻ phóng đãng đáng bị sét đánh thì trái
lại, không thể hiểu được vì sao một đứa trẻ lại phải chịu đau đớn. Và thực ra,
trên trái đất, không có gì quan trọng hơn nỗi đau đớn của một đứa trẻ, sự kinh
tởm mà nỗi đau có kéo theo nó, và những lý do biện giải cho nó. Còn nữa, trong
cuộc sống thì Thượng Đế để tạo ra cho con người mọi thuận lợi, và cho đến
đấy, tôn giáo chẳng có công trạng gì hết. Trái lại, ở đây, Thượng Đế dồn chúng
tôi đến tận chân tường” [6, tr.291]. Ngay sau bài thuyết giáo này, Panolux đã
phải trả giá bằng bệnh tật và cái chết, nhưng ông vẫn kiên quyết không lùi bước,
chống trả với bệnh tật một cách kiên cường.
Với nhân vật Bucky Cantor trong tiểu thuyết Báo ứng, cái chết của những
đứa trẻ, những học sinh thân yêu quanh mình là niềm đau lớn nhất trong cuộc
đời anh. Những cái chết đó đã khiến Bucky suy nghĩ rất nhiều về giá trị của sự
sống và cái chết, nghĩ về Chúa, về những điều phi lí trong cuộc sống. Nếu cái
chết của những đứa trẻ ở Newark đã đặt Bucky vào những suy nghĩ về anh hùng,
trách nhiệm…thì cái chết của những đứa trẻ ở Idian Hill đã đưa cuộc đời anh
dấn sâu vào bi kịch khi điều nghi ngờ bản thân mình bị bại liệt ở anh lại trở
thành sự thật. Trước cái chết của Alan, cậu học trò xuất sắc ở sân chơi, Bucky
không khỏi bàng hoàng: “Một đứa trẻ mới mười hai tuổi đầu, một thằng bé
không thể có ai ngoan hơn, vậy mà nó đã đi rồi” [48, tr.45]. Sự cay đắng, phi lí
càng trở nên sâu sắc hơn qua nỗi đau mất mác của cha Alan:
“-…Lẽ đời ở đâu?
56
-Dường như không có – Bucky đáp.
-Tại sao không phải là tôi mà lại là nó chứ?
(…)
-Một cậu bé – bi kịch nhằm đánh vào một cậu bé. Thật tàn nhẫn! Ông
Michaels thốt lên, đập mạnh lòng bàn tay xuống thành ghế. Vô lý quá!
Căn bệnh khủng khiếp từ trên trời rơi xuống và một người bị chết chỉ
sau có một đêm. Một đứa trẻ, không hơn không kém!” [48, tr.47-48].
Philip Roth đã chú ý dùng những từ biểu cảm mạnh để thể hiện cảm xúc
của nhân vật trước những nghịch lí trớ trêu của cuộc sống. Trước những cái chết
ấy, Bucky liên tục cảm thấy bất ngờ, không tin được vào mắt mình, tai mình:
“Tử vong? Hai chữ ấy có thể nào lại gắn với Herbie tròn trĩnh, phúng phính và
luôn tươi cười?” [48, tr.59].
Tình huống những đứa trẻ ở Idian Hill chết đã khiến cuộc đời của Bucky
Cantor rẽ sang một hướng khác: Từ một người thầy tràn đầy tự tin, giàu nhiệt
huyết sống, anh trở thành một anh chàng chân thọt, luôn sống bi quan và không
nguôi ray rứt vì mình là kẻ gieo rắc bệnh tật, đem lại cái chết cho những đứa trẻ.
Tình huống những đứa trẻ chết một mặt nhấn mạnh những cái phi lí, mặt khác,
nó lại chi phối, tạo bước ngoặc thử thách phẩm chất của nhân vật, tạo điều kiện
tính cách nhân vật được thể hiện rõ nét. Nó cũng là bước đánh dấu ngã rẽ cho
câu chuyện đi sang một hướng khác, dẫn đến kết thúc cho tác phẩm.
Như vậy, tình huống dịch bệnh có vai trò mở ra một chuỗi những sự kiện
phi lí phía sau, tình huống những đứa trẻ chết có vai trò mở ra bước ngoặc mới
về tư tưởng, tính cách nhân vật. Ngoài ra, góp vào sự vận động của cốt truyện
còn có những tình huống khác như: tình huống cái chết của Panolux, cái chết
của Tarou trong Dịch hạch; tình huống đến Idian Hill, tình huống phát hiện
bệnh, tình huống gặp lại trong Báo ứng. Những tình huống này có vai trò tiếp
nối cho những sự kiện phía trước dần đưa cốt truyện đến kết thúc.
57
Trong Báo ứng, tình huống Bucky Cantor đến Idian Hill là tình huống
đánh dấu bước chuyển biến trong cuộc đời anh, hỗ trợ cho tình huống cái chết
của những đứa trẻ. Dù tình huống này không mang tính phi lí nhưng nó dẫn
nhân vật mở ra cánh cửa của những điều phi lí. Không có sự kiện Bucky Cantor
đến Idian Hill sẽ không làm rõ được yếu tố phi lí trong cốt truyện Báo ứng bởi
có đến nơi này – một nơi hoàn toàn không có dịch bại liệt – thì Bucky mới có
mối hoài nghi rằng mình là kẻ mang dịch bệnh, kéo theo hàng loạt sự kiện quan
trọng phía sau. Sự kiện này đã mở ra một giai đoạn mới trong cuộc đời nhân vật.
Tương tự, tình huống phát hiện dịch bệnh cũng đánh dấu bước ngoặc trong cuộc
đời Bucky Cantor, khiến anh trở thành một con người tự ti, yếu đuối và tàn tạ,
luôn bị mặc cảm tội lỗi đè nặng, không còn tìm được lối thoát nào cho cuộc đời
mình.
Ngoài những tình huống trên, gặp lại là một tình huống quan trọng trong
Báo ứng. Nếu không có tình huống gặp lại giữa Bucky Cantor và đứa học trò ở
sân chơi Chancellor năm ấy thì sẽ không có toàn bộ câu chuyện này, bởi Báo
ứng là một câu chuyện hồi tưởng của học sinh ấy sau khi nghe thầy Cantor kể về
cuộc đời mình. Tình huống này còn có tác dụng tổng kết lại các sự kiện phi lí,
đặc biệt là cuộc đời của thầy Cantor, tạo sự bất ngờ thú vị, là điểm hội tụ những
yếu tố phi lí trong tác phẩm qua dòng hồi tưởng và cảm xúc của nhân vật.
Trên đây, chúng tôi đã xem xét sự chi phối của quan niệm phi lí vào nghệ
thuật xây dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng ở các chi tiết, tình huống tiêu
biểu. Sự chi phối ấy còn thể hiện ở cách kết thúc hai tác phẩm.
Dịch hạch kết thúc trong niềm vui mừng của người dân thành phố Oran vì
dịch bệnh đã chấm dứt cùng sự suy tư của Rieux: “để chống lại khủng bố và vũ
khí không biết mệt mỏi của nó: không thể làm những bậc thánh và không cam
chịu tai ương, người ta gắng sức làm thầy thuốc” [6, tr.400]. Tác phẩm khép lại,
Tarou mất, Rieux còn ở lại, đó cũng là một minh chứng cho việc chỉ có con
người thực tế mới tồn tại. Màu sắc hiện sinh thể hiện rõ nét qua chi tiết này.
58
Song song đó, những dòng cuối cùng của tiểu thuyết Dịch hạch giống như một
lời cảnh báo ngầm: “vi trùng dịch hạch không bao giờ chết và mất hẳn. Nó có
thể nằm yên hàng chục năm trong đồ đạc, quần áo, nó kiên nhẫn chờ đợi trong
các căn buồng, dưới hầm nhà, trong hòm xiểng, trong khăn mù xoa và các đống
giấy má…và một ngày nào đó, để gây tai họa cho con người và dạy họ bài học,
dịch hạch có thể đánh thức đàn chuột của nó dậy và bắt chúng chạy đến lăn ra
chết ở một đô thành nào đó đang sống trong hạnh phúc và phồn vinh” [6,
tr.400].
Tác phẩm khép lại khi vấn đề phi lí đã được Camus phơi bày và đề xuất
được cách giải quyết: cuộc đời vốn phi lí nhưng con người không vì thế mà bỏ
cuộc, ngược lại, phải phản kháng, phải chiến đấu đến cùng. Quan niệm của
Camus tỏ ra tiến bộ hơn so với quan niệm trước đó của Kafka. Camus nhận thức
được cái phi lí và đề xuất cả cách giải quyết, trong khi đó, các nhân vật của
Kafka không nhận thức được tình trạng phi lí của bản thân, mãi loay hoay trong
những điều vô nghĩa để rồi kết liễu đời mình mà vẫn không mảy may hiểu được
chút lí do nào.
Kết thúc Báo ứng là hai hình ảnh đối lập: một Bucky tàn tạ vì dịch bệnh
và hình ảnh hồi tưởng về Bucky Cantor khỏe mạnh, tự tin, là niềm tự hào của lũ
trẻ ở sân chơi khép lại tác phẩm như một ánh hồi quang cuối cùng trong cuộc
đời nhân vật. Đây là một kết thúc mang đầy nỗi ám ảnh. Nếu như kết thúc Dịch
hạch, Camus vẫn tìm ra được một thái độ, một cách phản ứng với cuộc đời phi lí
thì trong Báo ứng, Philip Roth để lại một kết thúc buông xuôi, tuyệt vọng và đầy
bi quan. Con người hoàn toàn rơi vào bi kịch nghiệt ngã do cuộc đời phi lí mang
lại, không tìm ra được một cách giải quyết nào. Như vậy, qua Báo ứng, ta có thể
thấy rằng, cái phi lí của thế kỉ XXI mang tính chất bi quan, tiêu cực hơn cái phi
lí của thân phận con người trong thế kỉ XX (qua Dịch hạch của Camus). Phải
chăng nguyên nhân dẫn đến điều này là do những chấn thương tâm lí từ hai cuộc
đại thế chiến đã không thể khôi phục được mà còn trở nên ngày càng nhức nhối
59
hơn bởi sự cộng hưởng của những tiến bộ khoa học, kĩ thuật, công nghệ? Con
người ngày càng ý thức rõ thân phận của mình, cô đơn, tuyệt vọng giữa một thế
giới đầy máy móc, giữa một thế giới ảo.
Từ việc tìm hiểu sự chi phối của quan niệm phi lí vào nghệ thuật xây
dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng, chúng tôi nhận thấy cái phi lí chính là
mạch logic nội tại, là chất keo kết dính các sự kiện trong hai tiểu thuyết này. Tất
cả các chi tiết, tình huống đều hướng đến việc thể hiện quan niệm phi lí của
Camus và Roth. Tính chất quan niệm của hai nhà văn về cơ bản là giống nhau,
tuy nhiên vẫn có những nét riêng làm nên sự độc đáo trong phong cách của mỗi
tác giả. Nếu như Camus chọn việc xây dựng các chi tiết, tình huống dựa trên
mối liên hệ tuyến tính về thời gian (theo tính chất biên niên của thể loại kí) thì
Philip Roth lại xây dựng cốt truyện đi theo dòng hồi tưởng của người kể chuyện,
các chi tiết, tình huống đan xen nhau, không theo trật tự nhất định về thời gian.
Điều này giúp phạm vi phản ánh của tác phẩm được mở rộng tối đa.
Ngoài ra, do tính chất quan niệm, cái nhìn về cuộc sống của mỗi nhà văn,
mỗi thời đại là khác nhau nên hướng kết thúc ở hai tác phẩm cũng không giống
nhau. Cả hai nhà văn đều nhận thấy và phơi bày tính chất phi lí của cuộc đời
nhưng nếu như Camus mạnh mẽ đưa ra cách giải quyết bằng con đường chiến
đấu chống trả thì Philip Roth lại thể hiện sự bi quan, tiêu cực và bất lực trước
nó. Dù khác nhau nhưng mỗi nhà văn đều đã có những đóng góp tích cực trong
nghệ thuật xây dựng cốt truyện tiểu thuyết về mặt tư tưởng và nghệ thuật.
Không chạy theo trào lưu thủ tiêu cốt truyện, cả Camus và Roth đều tôn trọng
việc xây dựng cốt truyện ở từng chi tiết, tình huống. Nhưng điều đó không làm
cho tiểu thuyết của hai ông trở nên sến sẩm, dễ lui vào quên lãng mà ngược lại,
chính sự đầu tư nghiêm túc trong cách xây dựng cốt truyện cùng với sự sâu sắc
trong tư tưởng, Dịch hạch của Camus và Báo ứng của Philip Roth đã trở thành
những tác phẩm tiêu biểu của văn học Pháp và Mĩ ở hai thời kì khác nhau. Sự
kết hợp hài hòa giữa truyền thống và cách tân trong cùng một cốt truyện tiểu
60
thuyết đã làm nên thành công cho hai tác phẩm. Dù cốt truyện giống nhau,
nhưng xuất phát từ đặc trưng của thời đại cùng những nét riêng trong quan niệm
cũng như phong cách viết của hai nhà văn, Dịch hạch và Báo ứng đã trở thành
hai tác phẩm tiêu biểu cho quan niệm về cái phi lí của thời hiện đại, nó đặt ra
nhiều vấn đề đáng cho chúng ta học hỏi và suy ngẫm. Từ cốt truyện giống nhau,
phong cách và tài năng của nhà văn càng thêm tỏa sáng bởi nếu không thực sự
có tài năng, sẽ rất dễ có sự lặp lại nhàm chán trong nội dung và phong cách tiểu
thuyết, có sự bắt chước của từ người này đối với người kia. Dịch hạch và Báo
ứng thì lại không như vậy.
2.3. Sự chi phối của những nỗi ám ảnh đối với nghệ thuật xây dựng cốt
truyện Dịch hạch và Báo ứng
Nỗi ám ảnh có rất nhiều khía cạnh và lại rất khác nhau ở mỗi người. Tuy
vậy, có những nỗi ám ảnh mang tầm nhân loại, không ai có thể thoát khỏi những
lo âu về nó, chẳng hạn như nỗi ám ảnh về chiến tranh, khủng bố, thảm họa; ám
ảnh về tuổi già, bệnh tật, sự bất lực và cái chết. Đó là nỗi lo chung mà chắc rằng
ai cũng đã từng nghĩ tới… Bằng sự nhạy bén và sâu sắc về tư tưởng, sự tài năng
trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết, Camus và Roth đã thể hiện sự thành công
trong việc xây dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng với sự chi phối của những
nỗi ám ảnh. Chính điều này khiến hai tác giả trở thành những “nhà hiện sinh”
hơn bất kì một tác giả nào khác, mặc dù cả hai đều không nhận danh hiệu này.
Từ lâu, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh văn học Pháp là nền văn học
nghiêng về tư tưởng, văn học Mĩ lại chú trọng nhiều hơn ở kĩ thuật tiểu thuyết.
Điều này đúng nhưng có vẻ không chính xác lắm đối với Camus và Roth bởi
mỗi nhà văn đều có một sở trường riêng, một phần kế thừa truyền thống văn
chương dân tộc nhưng vẫn có những đóng góp rất riêng về nghệ thuật tiểu thuyết
và tư tưởng. Tuy nhiên, nếu như Camus có cả một hệ thống quan niệm thì ngược
lại, Roth thể hiện tất cả quan niệm của mình trong tiểu thuyết. Ông đã từng nói
rằng, để biết ông là ai thì hãy đọc tiểu thuyết của ông, bởi quan niệm ông nằm cả
ở đó.
61
Sự chi phối của những nỗi ám ảnh trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết
Dịch hạch và Báo ứng được thể hiển ở một loạt các chi tiết tình huống trong hai
tác phẩm đều nhắc đi nhắc lại xoay quanh những nỗi ám ảnh mà chúng tôi đã kể
trên.
Trước hết đó là nỗi ám ảnh về dịch bệnh, đây còn là chủ đề xuyên suốt cả
hai tiểu thuyết. Các nhân vật trong Dịch hạch và Báo ứng luôn trong trạng thái
loay hoay tìm cách để không nhiễm bệnh và thoát khỏi dịch bệnh (dù họ không
biết bằng cách nào!), và điều này càng làm họ trở nên quay cuồng trong guồng
máy của dịch hạch, dịch bại liệt… Khảo sát kĩ hai tác phẩm, chúng ta sẽ thấy rõ
điều đó. Trong Báo ứng, khi dịch bại liệt mới bắt đầu, người ta cố gắng tìm hết lí
do này đến lí do khác để giải thích nguyên nhân dịch bệnh, người thì cho là
nguồn nước dơ bẩn, người thì cho là do lũ mèo hoang, do ruồi nhặng, do người
Do thái, người da đen mang mầm bệnh, do bọn người Ý,… Trong Dịch hạch thì
người ta cho rằng do lũ chuột, do mèo hoang, chó hoang và tự nghĩ ra những
cách phòng bệnh cho mình: dùng viên ngậm bạc hà, uống nhiều rượu để giết
chết vi khuẩn, ăn chén đĩa đã trụng qua nước sôi, có kẻ phát điên vì dịch hạch đã
đốt nhà mình để mong thiêu chết con vi trùng gây bệnh,… Trong cả hai tác
phẩm, người dân thành phố Oran và Newark luôn trông chờ sự giúp đỡ của cơ
quan y tế, của chính quyền nhưng cuối cùng cũng chẳng được gì, họ chỉ can
thiệp khi tình hình đã trở nên trầm trọng.
Những hành động thái quá của các nhân vật cũng do đến từ nỗi ám ảnh
quá lớn về dịch bệnh mà ra. Kenny, một đứa học trò mà trước đây được Bucky
cho là trưởng thành nhất, biết điều chỉnh cảm xúc nhất thì nay lại hét lên trước
ông khờ Horace với tất cả nỗi sợ hãi và tức giận của mình: “Tôi sẽ không bình
tĩnh! Kenny gào to. Đồ lót ông ta vấy đầy phân! Hai tay ông ta cũng dính đầy
phân! Ông ta không rửa ráy, ông ta dơ bẩn và rồi ông ta muốn chúng ta nắm tay
ông ta, lắc tay ông ta, và đó là cách mà ông ta truyền bệnh bại liệt! Ông ta là kẻ
làm tàn phế mọi người! Ông ta là kẻ giết người! Cút khỏi đây, ông kia! Cút! Cút
62
mau!” [48, tr.107]. Những đứa trẻ lẽ ra phải được đón nhận những gì vui vẻ
nhất, an toàn nhất, nhưng cái mà những đứa trẻ ở đây có được chỉ là một cuộc
chiến khốc liệt với dịch bệnh, chúng ra sức trốn chạy nhưng dịch bệnh thì cứ vồ
lấy chúng. Dù ông khờ không phải là nguyên nhân gây dịch bệnh như chúng
nghĩ, nhưng hình ảnh chúng trốn chạy ông khờ đã khiến lòng người không khỏi
xót xa: “Ông ta đi theo chúng ta đấy! Ông khờ đang đuổi theo chúng ta! Vừa
cầm sợi dây vừa chạy về phía đám đông trên đại lộ Chancellor chiều muộn ấy,
chúng chạy hết tốc lực để khỏi phải thấy hiện thân sự tàn lụi của con người.”
[48, tr.109].
Có hai nỗi ám ảnh lớn trong Dịch hạch và Báo ứng đó là ám ảnh về dịch
bệnh, cái chết; ám ảnh về sự khủng hoảng niềm tin ở Chúa.
Không một ai từng muốn mình bị vướng vào một trong hai thứ dịch bệnh
hoặc cái chết. Nó là điều kinh hoàng nhất của con người. Trong Dịch hạch và
Báo ứng, con người buộc phải đối diện với hai nguy cơ trên một cách trực tiếp
và thường xuyên. Một khi đã trở thành nỗi ám ảnh, dịch bệnh và cái chết luôn
hiện lên trong tâm trí con người, khiến họ sợ hãi, hoang mang đến tột cùng, mọi
vấn đề trong cuộc sống của họ đều xoay quanh những điều này, xoay quanh việc
tìm cách thoát khỏi nó như thế nào, thái độ với nó ra sao… Dịch hạch, dịch bại
liệt đến thành phố Oran và Newark cướp đi sinh mạng của rất nhiều người, chỉ
việc chứng kiến sự tàn phá của dịch bệnh đối với những đối tượng khác không
phải mình cũng đã là một điều khủng khiếp. Trường hợp phản ứng của những
đứa trẻ ở sân chơi phía trên đối với “ông khờ” là một minh chứng tiêu biểu. Hay
trường hợp một phụ huynh hét lớn vào mặt Bucky Cantor khi con của bà ta mắc
bệnh cũng là một biểu hiện cho thái độ kinh hoàng, đau đớn trước hậu quả dịch
bệnh: “Vậy tại sao tôi có hai đứa con bị liệt bại? Cả hai thằng con tôi! Là tất cả
những gì tôi có! Hãy giải thích cho tôi đi! Thầy để chúng nó chạy nhảy như
những con vật ở đằng đó – và giờ thì thầy thắc mắc vì sao chúng mắc bệnh! Bởi
vì thầy! Bởi vì một kẻ ngu ngốc, khinh suất, vô trách nhiệm như thầy đấy” [48,
63
tr.75]. Đó là những lời gắt gỏng mà Bucky lần đầu tiên phải nghe từ một phụ
huynh, trước đây, những đứa trẻ và ngay cả phụ huynh đều luôn rất ngưỡng mộ
anh. Rõ ràng, dịch bệnh, cái chết khiến người ta trở nên tê liệt, đau đớn đến mức
nó vây kín đầu óc họ, khiến họ nhìn đâu cũng là mầm bệnh, đâu đâu cũng là kẻ
tội đồ gây đến cái chết cho những người thân yêu của họ. Trường hợp của bác sĩ
Rieux trong Dịch hạch cũng không khác gì mấy, là một bác sĩ, nhiệm vụ của
ông là cứu người, nhưng đôi lúc vì sự rối bời trong vòng quay của con vi rút
dịch hạch, người ta trở nên sợ bác sĩ, sợ sự xuất hiện của Rieux, vì biết rằng sự
xuất ấy sẽ kèm với lệnh cách li. Trước những nguy cơ đe dọa sự sống, con người
trở nên hoảng loạn, không kiềm chế được những cảm xúc tiêu cực của mình. Đó
là phản ứng của các nhân vật không phải trung tâm của tiểu thuyết. Với các nhân
vật trung tâm, sự ám ảnh còn mạnh mẽ và dai dẳng hơn. Dịch hạch đã đưa Rieux
cùng đội y tế của ông vào vòng tròn quanh quẩn của việc tạo áp xe, cắt hạch
xoài, kêu gọi cơ quan cách li kiểm dịch, chứng kiến biết bao cái chết mỗi ngày.
Những việc đó luôn cứ lặp đi lặp lại hàng ngày, hàng giờ đến mức ngạt thở.
Có thể nói, nỗi ám ảnh về dịch bệnh và cái chết diễn ra rất sâu sắc ở nhân
vật Bucky Cantor (Báo ứng). Trước sự ra đi đột ngột của những đứa trẻ ở sân
chơi, Bucky không thể nào tin nổi đó lại là sự thật. Suốt cả ngày, trong đầu anh
không thoát khỏi những ý nghĩ về sự ra đi vô lí ấy: “Tử vong? Hai chữ ấy có thể
nào lại gắn với Herbie tròn trĩnh, phúng phính và luôn tươi cười? (…). Alan là
một vận động viên thiên phú và Herbie là cậu bé không có năng khiếu trở thành
vận động viên, cậu thiếu hoàn toàn sự nhanh nhạy về thể chất – cả hai đều chơi
trên sân trong cái ngày mà mấy gã người Ý tới quấy nhiễu, và cả hai đều đã
chết, chết vì bệnh bại liệt ở tuổi mười hai” [48, tr.59]. Trước sự diễn bến bất ngờ
của dịch bệnh, tinh thần Bucky trở nên bấn loạn, không kiểm soát được hành
động của mình: “Bucky hối hả chạy xuống tầng hầm tới nhà vệ sinh dành cho
các cậu bé trong sân chơi, lòng tràn đầy đau đớn và không biết phải làm gì với
nỗi đau đớn ấy, anh chộp lấy cây lau sàn của người vác cửa, xách một xô nước
64
và một bình hơn ba lít rưỡi thuốc khử trùng rồi lau chùi nền nhà lát gạch, mồ
hôi toát ra như tắm. Kế đến, anh qua nhà vệ sinh của các bé gái, vẫn còn dư sức
và trong cơn cuồng điên, lại lau sạch bên đó. Rồi, với quần áo và hai tay nồng
nặc mùi thuốc khử trùng, anh bắt xe buýt về nhà.” [48, tr.59-60]. Sự hoảng loạn
đã khiến hành động của Bucky dường như trở nên vô thức, không cách nào thay
đổi tình hình, anh làm tất cả mọi thứ mà mình nghĩ có thể ngăn ngừa dịch bệnh
trong cơn tuyệt vọng. Mọi suy nghĩ, hành động của anh đều bị chi phối bởi dịch
bệnh và cái chết. Trong sự hoản loạn, anh còn làm những việc mà bản thân hoàn
toàn không chuẩn bị trước, chẳng hạn như việc đến thăm nhà bác sĩ Steinberg,
xin phép cầu hôn Macia, đột ngột xin nghỉ việc để chuyển đến Idian Hill,… Đến
Idian Hill rồi, anh lại muốn quay về, ân hận vì quyết định vội vả của bản thân,
sau đó anh lại quyết định ở lại, rồi trước sự phát bệnh của một đứa trẻ ở nơi đây,
anh lại trở nên hoảng sợ và chạy theo bác sĩ để được chẩn đoán bệnh,… Tất cả
những sự việc xảy ra dồn dập với Bucky đến nỗi, sau này, khi đã trải qua mấy
chục năm sống trong mặc cảm tội lỗi, anh ân hận vì đã có quyết định đột ngột
rời khỏi Newark để dẫn đến việc lây bệnh cho hàng lọat đứa trẻ ở Idian Hill.
Chúng ta có cảm giác Bucky thực hiện tất cả những việc đó trong trạng thái mê
sảng, không có những suy nghĩ rõ ràng, bình tĩnh. Không như Rieux, phải để trái
tim mình khép lại để hoàn thành nhiệm vụ, để cứu người, Bucky Cantor hoàn
toàn hành động theo cảm xúc, vì những ám ảnh của dịch bệnh và cái chết diễn ra
quá mạnh mẽ trong tâm trí anh.
Không chỉ bị ám ảnh bởi dịch bệnh và cái chết đang xảy ra xung quanh
mình, Bucky còn thật sự không tin nỗi khi dịch bệnh lại có thể xảy ra với chính
anh. Khi phát hiện có bệnh bại liệt ở Idian Hill, với một đứa trẻ đã từng rất thân
với mình, Bucky đã nghi ngờ chính mình là kẻ mang mầm bệnh: “…anh gỡ mắt
kính ra và leo lên cầu nhảy tầm cao, rồi trong nửa giờ, anh tập trung nhảy mọi
kiểu khó mà mình biết. Xong xuôi, anh lên bờ và lấy kính đeo, vẫn khôn sao giả
tỏa khỏi tâm trí những điều vừa xảy đến – tốc độ diễn biến của nó và nỗi ám ảnh
65
chính mình là thủ phạm. Cả nỗi ám ảnh rằng dịch bại liệt bùng phát nơi sân
chơi Chancellor cũng khởi nguồn từ chính anh. Đột nhiên, anh nghe thấy một
tiếng hét inh tai. Đó là tiếng hét của người phụ nữ ở bên dưới nhà Michaels,
khiếp hãi rằng con của bà sẽ mắc bệnh bại liệt và chết. Có điều, lúc ấy anh
không chỉ nghe thấy tiếng hét – bản thân anh đã là tiếng hét đó” [48, tr.200]. Sở
dĩ bản thân Bucky là tiếng hét đó vì nếu anh là kẻ mang mầm bại liệt thì anh
chính là nỗi kinh hãi của mọi người, và anh cũng là nỗi kinh hãi của chính anh.
Tiếng thét trước dịch bệnh giờ đã trở thành tiếng thét của chính anh. Bucky sợ
dịch bệnh, nhưng dịch bệnh cũng chính là anh. Như vậy, mỗi con người không
chỉ bị ám ảnh bởi những tác nhân tiêu cực bên ngoài do cuộc sống mang lại mà
họ còn bị ám ảnh bởi chính sự tiêu cực, chính mầm bệnh tự sinh bên trong bản
thân mình. Điều này ngày càng trở nên rõ ràng ở nhân vật Bucky Cantor bởi về
sau tiểu thuyết, anh chỉ sống trong nỗi ám ảnh mình là kẻ gây bệnh cùng những
hậu quả của nó nặng trĩu trong lòng anh. Con người không chỉ là nạn nhân của
kẻ khác mà còn là nạn nhân của chính mình. Cả cuộc đời Bucky là một sự trốn
chạy, nhưng đến cuối đời, anh buộc phải đối diện với sự thật và ngày tháng luôn
u hoài, trăn trở vì nó. Ngạn ngữ Nga có câu rất hay: “Không ngựa nào đi xa khỏi
bản thân ta”. Trèo lên ngựa, phi thật nhanh, thật xa nhưng con người sẽ không
bao giờ chạy thoát được những ý nghĩ trong đầu mình. Bucky tưởng rằng mình
sẽ chạy trốn khỏi được vùng dịch, sẽ thoát được bại liệt nhưng mầm bệnh lại
nằm trong chính con người anh. Anh tưởng bản thân anh sẽ bình yên nhưng
chính tâm hồn anh không bình yên nên dù đi đến nơi đâu, anh vẫn không sao
thoát khỏi được trạng thái này. Dù đi đến đâu anh vẫn bị nỗi ám ảnh về dịch
bệnh và cái chết bám riết, theo đuổi.
Nỗi ám ảnh này cũng diễn ra hết sức mạnh mẽ và sâu sắc ở các nhân vật
trong Dịch hạch. Những ngày đầu của dịch bệnh, bác sĩ Rieux khẳng định rằng
ông thực sự cảm thấy run sợ: “Cái trạng thái hơi chóng mặt mỗi khi Rieux nghĩ
tới dịch hạch, suốt ngày hôm đó, ông cảm thấy cứ tăng thêm. Cuối cùng, ông
66
thừa nhận là ông sợ hãi” [6, tr.82]. Một người có vẻ điềm tĩnh và “nắm tình
hình” như Rieux cũng cảm thấy run sợ chứng tỏ sức tác động của dịch bệnh đối
với con người không phải nhỏ. Với các nhân vật khác trong Dịch hạch, nỗi ám
ảnh này cũng diễn ra một cách mạnh mẽ. Đó là đối với nhân vật Rambert, anh
căm thù dịch bệnh đến tận cùng, vì nó đã mang lại sự chia cách anh với quê
hương, với người thân của anh. Những ngày đi đến đỉnh điểm của sự giằng xé
giữa đi hay ở, giữa hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc tập thể, anh có cảm giác
dịch bệnh tấn công anh, anh tưởng rằng mình đã bị nhiễm dịch hạch, nhưng sau
đó, anh không nhiễm bệnh, anh cảm thấy xấu hổ vì sự yếu đuối của mình. Sống
trong hoàn cảnh như thế, cùng với nỗi ám ảnh và đau khổ quá lớn, cảm giác của
Rambert như vậy là điều không thể tránh khỏi.
Nỗi ám ảnh ở các nhân vật trong dịch hạch có thể khác nhau nhưng có
cùng nguyên nhân là do dịch bệnh mà ra. Nỗi ám ảnh ấy có thể là do hoàn cảnh
dịch bệnh trực tiếp mang lại, nhưng cũng có thể là do một ý nghĩa ẩn dụ từ trạng
thái dịch hạch mà họ đang chịu tác động. Chẳng hạn, Grand luôn bị ám ảnh bởi
những con chữ. Anh luôn ngụp lặn trong đống hỗn độn của ngôn từ để tìm được
sự diễn đạt phù hợp. Sự đeo đẳng đó mãnh liệt đến nỗi nó chi phối sâu sắc cuộc
sống của anh, nghề nghiệp của anh, hạnh phúc của anh. Vì không có những lời
bay bổng để bày tỏ tình cảm với vợ mà Grand và vợ anh đã phải chia tay vì cô
cho rằng mình đã không còn cảm nhận được sự yêu thương từ anh. Vì mải miết
tìm từ để diễn đạt cho phù hợp một lá đơn khiếu nại mà anh đã để lỡ cơ hội được
nâng lương: “Theo lời anh, thì đặc biệt anh thấy mình không được phép dùng
cái từ quyền mà anh không tin chắc, cũng như cái từ lời hứa, từ này bao hàm là
anh đòi nợ và vì vậy có tính chất táo bạo, ít thích hợp với công việc hèn mọn
anh được giao. Mặt khác, anh không chịu dùng những từ hảo tâm, khẩn nguyện,
tri âm mà anh cho là không phù hợp với nhân cách của mình. Cứ như thế, vì
không tìm được cái từ chính xác, anh chàng đồng bang chúng tôi tiếp tục làm
cái chức trách vô danh tiểu tốt của mình cho đến lúc tuổi đã khá lớn” [6, tr.67].
67
Trong tình hình dịch hạch đang diễn ra hết sức khốc liệt, Grand vẫn không quan
tâm mấy đến điều đó ngoài việc tìm ra cho mình những con chữ, những cách
diễn đạt phù hợp. Rõ ràng, việc không tìm ra được cách diễn đạt mới là “dịch
hạch” thật sự đối với Grand.
Nỗi ám ảnh với Rieux là tình trạng sức khỏe của con người. Vì bản chất
nghề nghiệp, Rieux phải đối diện với các vấn đề về sức khỏe của con người, tuy
vậy, ông không sao chịu được hình ảnh con người đau đớn, chết chóc vì bệnh
tật: “Rồi lại phải nhìn người ta chết. Ông có biết là có những người không chịu
chấp nhận cái chết không? Ông đã bao giờ nghe một thiếu phụ la hét: Không
bao giờ! vào lúc chết chưa? Tôi thì đã nghe. Và lúc ấy, tôi nhận ra rằng mình
không thể làm quen với cái đó được. Lúc ấy, tôi còn trẻ và hình như tôi kinh tởm
đối với bản thân cái trật tự trên đời này. Về sau, tôi trở nên khiêm tốn hơn.
Nhưng tôi vẫn không sao quen được việc nhìn người ta chết” [6, tr.170-171].
Cùng với nỗi ám ảnh về dịch bệnh, cái chết là nỗi ám ảnh của con người
trong tình trạng khủng hoảng niềm tin với Chúa. Trong hoàn cảnh dịch bại liệt,
dịch hạch hoành hành, mạng sống con người như nghìn cân treo sợi tóc, lẽ ra
Chúa mà con người hằng tin tưởng phải có một sự cứu giúp, phò trợ để họ vượt
qua những đau khổ này. Tuy nhiên, ngược lại với niềm tin bấy lâu của họ, Chúa
vẫn hoàn toàn lặng im để con người lao đao trong khốn khó. Chính hoàn cảnh
đặc biệt này đã tạo điều kiện để con người nhìn lại nhận thức của mình. Dịch
hạch của Camus thể hiện sự nghi ngờ với Chúa. Nếu như Chúa trong Dịch hạch
chỉ dừng lại ở sự vô tình thì Chúa trong Báo ứng được cảm nhận như một tên
giết người, Chúa độc ác hơn nhiều so với Dịch hạch. Chúa không chỉ không cứu
giúp con người mà còn gieo rắc tội ác, đem lại đau khổ cho họ. Vì là biểu hiện
của sự phi lí nên Chúa có sức ám ảnh lớn đối với con người. Hình ảnh Chúa
luôn trở đi trở lại trong tâm trí con người, đặc biệt là những lúc họ đau khổ cùng
cực.
68
Sự khủng hoảng niềm tin đối với Chúa được thể hiện rõ nét qua sự thay
đổi trong nhận thức của nhân vật Panolux ở hai bài thuyết giáo. Nếu ở bài thứ
nhất, ông hùng hồn khẳng định dịch hạch là sự trừng phạt của Chúa đối với con
người thì trong bài thứ hai, ông kêu gọi tất cả cùng đoàn kết lại để chống dịch
hạch – điều đó cũng đồng nghĩa với việc chống Chúa. Chỉ trong hoàn cảnh dịch
hạch, chỉ khi chứng kiến cái chết của đứa trẻ vô tội, con người mới nhận thức
được rằng niềm tin đối với Chúa là một niềm tin khờ dại và vô lí. Và đây cũng là
sự vỡ lẽ của con người thế kỉ XX. Những thế kỉ trước, niềm tin của con người
với Chúa mang tính chất tuyệt đối. Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ của khoa học
kĩ thuật, của công nghệ thông tin cùng sự sụp đổ của tâm lí con người sau hai
cuộc đại thế chiến, con người của thế kỉ XX trở về sau trở nên hoang mang, hoài
nghi mọi thứ, đặc biệt là hoài nghi những điều mà trước đây họ đã từng hết mực
tin tưởng, tôn thờ. Nếu như Dịch hạch chỉ bộc lộ sự thất vọng đối với Chúa thì
trong Báo ứng sự thất vọng đó được nâng lên thành sự căm ghét. Ngoài ra, nếu
Dịch hạch nhấn mạnh từng khoảnh khắc hiện sinh của con người thì bên cạnh
điều đó, Báo ứng còn đánh dấu sự sụp đỗ của chính con người trong thời đại kĩ
trị. Sự sụp đỗ của nhân vật Bucky Cantor cùng sự ra đi lần lượt của những người
xung quanh anh là một minh chứng tiêu biểu. Con người đã không còn quyền
năng tối thượng như trước đây, họ trở nên yếu đuối, bất lực trước những điều hư
vô, những cái thuộc phạm trù tinh thần, nó nằm ngoài sự kiểm soát của lí trí,
không cụ thể, rõ ràng và dễ điều khiển như lí trí. Như vậy, nếu xét theo tiến trình
mức độ tiến triển của sự khủng hoảng, ta thấy rằng, theo thời gian, những vấn đề
niềm tin ở con người càng trở nên nặng nề, ám ảnh và không có cách nào khắc
phục hay cứu chữa được. Chọn đề tài dịch bệnh cùng với cách xây dựng cốt
truyện chịu sự chi phối của những nỗi ám ảnh ẩn dụ từ dịch bệnh, Camus và
Roth đã phản ánh được tình trạng hiện thời của con người thế kỉ XX, XXI một
cách khéo léo, mang tính nghệ thuật cao.
69
Nhân vật Rieux ngay từ đầu đã bị ám ảnh bởi ý nghĩ: nếu Chúa có liên
quan đến dịch hạch thì vai trò của Người là cứu giúp những con chiên chứ
không phải là giáng tai họa vào họ. Lòng nhân từ đến từ việc mang lại sự sống
cho con người chứ không phải việc đem lại cái chết cho họ: “nếu ông tin vào
một Thượng đế toàn năng thì ông đã không còn chạy chữa cho người ta nữa, và
dành công việc đó cho Chúa. Nhưng không một ai, không, ngay cả Panolux là
người tin rằng mình tin đi nữa, trên đời này, không một ai tin vào một Thượng
đế kiểu đó, vì lẽ không một ai phó mặc mình hoàn toàn và chí ít, về mặt này,
Rieux tin là mình ở trên con đường chân lý trong lúc đấu tranh chống lại thế
giới như nó đang tồn tại hiện nay.” [6, tr.169]. Đó là suy nghĩ của Rieux, còn
đối với người dân thành phố nói chung, trong hoàn cảnh dịch bệnh lên đến đỉnh
điểm, niềm tin vào Chúa đối với họ cũng không còn nữa: “Lúc đầu, khi họ cho
dịch hạch cũng là một thứ bệnh như những bệnh tật khác, thì tôn giáo nằm ở
đúng vị trí của nó. Nhưng khi thấy tình hình nghiêm trọng, thì họ nhớ tới khoái
lạc” [6, tr.162]. Niềm tin vào Chúa đã bị thay thế bởi những cái khác, thực tế
hơn, có giá trị tức thời hơn.
Đối với Bucky trong Báo ứng, sự sụp đổ niềm tin còn trầm trọng hơn, ám
ảnh hơn rất nhiều. Những lúc đau khổ đến mức không tìm được một sự lí giải
nào về tình trạng phi lí mà mình đang nếm trải, anh lại gọi tên Chúa để chì chiết:
Chúa – kẻ phát tán vi trùng bại liệt, Chúa – kẻ tội đồ vĩ đại, Chúa – kẻ giết người
máu lạnh, kẻ chuyên đi giết trẻ con, kẻ sẽ đâm con dao vào sau lưng để hại con
người,… Anh thường tự hỏi “Chúa có lương tâm không?” Và câu trả lời của
anh không bao giờ nằm ngoài ý nghĩ Chúa là “một kẻ bệnh hoạn và một thiên tài
độc ác xấu xa” [48, tr.236]. Hình ảnh Chúa dường như là một cách nói của hai
nhà văn nhằm hướng đến tình trạng khủng hoảng nói chung của con người thời
hiện đại.
Cách kết thúc hai tác phẩm thể hiện sức ám ảnh sâu sắc. Cùng nói về dịch
bệnh và sự loay hoay của con người để vượt qua dịch bệnh cùng những nỗi ám
70
ảnh về nó nhưng cách kết thúc ở hai tác phẩm lại khác nhau. Dịch hạch kết thúc
bằng một sự nhẹ nhõm của số đông cư dân thành phố Oran vì dịch bệnh đã chấm
dứt, xen vào đó là một thoáng suy tư của Rieux về khả năng trở lại của vi rút
dịch hạch. Điều này chứng tỏ dịch hạch không hoàn toàn buông tha con người
mà nó có thể tấn công họ một lúc nào đó không đoán trước được. Vi rút dịch
hạch dù đã ra đi, không còn hoành hành ở thành phố nữa nhưng nó vẫn còn hiện
hữu trong đầu óc con người… Một kết thúc có sức ám ảnh, gợi nhiều suy nghĩ
cho người đọc. Song song đó, Báo ứng kết thúc là những hình ảnh trong hoài
niệm về thầy Cantor mạnh mẽ, tự tin của ngày xưa trong lúc hướng dẫn những
đứa trẻ ném lao, là thần tượng của lũ trẻ ở sân chơi: “Chiều ấy thầy thực hiện
nhiều lần các màn phóng lao, lần nào cũng gọn gàng và đầy uy lực, mỗi cú
phóng đều kèm theo một tiếng hét và tiếng gừ trong họng; và lần nào, điều khiến
chúng tôi phấn khích là, lần ném sau đều tiếp đất xa hơn lần ném trước vài mét.
Chạy đà cùng cây lao giơ trên cao, cánh tay cầm lao đưa sâu ra đằng sau, rồi
vung mạnh ra phía trước và buông cho ngọn lao bay đi tạo nên một đòn tấn
công sấm sét – trong mắt chúng tôi thầy dường như bất khả chiến bại” [48,
tr.249]. Đây là hình ảnh hoàn toàn đối lập với Bucky Cantor của hiện tại. Kết
thúc này như một niềm nuối tiếc về thời vinh quang của con người, nhấn mạnh
sự tàn phá của “dịch bệnh” đối với con người.
Như vậy, qua việc phân tích ở trên, chúng tôi nhận thấy rằng cốt truyện
Dịch hạch và Báo ứng mang nặng nỗi ám ảnh về dịch bệnh, cái chết, về sự bất
lực của con người trong sự kiểm soát những điều đó cùng sự khủng hoảng niềm
tin với Chúa, thêm nữa, đó là sự khủng hoảng niềm tin vào lí trí, sức mạnh của
con người. Sự chi phối trong cách nhìn mang đầy nỗi ám ảnh của hai nhà văn về
cuộc sống đã tạo nên một tiểu thuyết với cốt truyện mang sức hấp dẫn cao, thu
hút sự tìm hiểu và suy ngẫm của người đọc.
71
Tiểu kết chương 2
Cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng được xây dựng dựa trên hai quan niệm
chủ chốt của Camus và Roth đó là “cái phi lí” và “những nỗi ám ảnh”. Qua việc
khảo sát, tìm hiểu cốt truyện hai tác phẩm, chúng tôi đã thấy được sự chi phối
của hai yếu tố này đối với nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Đây cũng chính là
cách thức xây dựng cốt truyện của hai nhà văn. Sức cuốn hút của nó đến từ
những nhận định, những quan niệm sâu sắc về thế giới, về cuộc sống đươc hai
tác giả thể hiện một cách tinh tế, khéo léo qua các chi tiết, hình ảnh, tình huống,
cách kết thúc truyện. Cách chọn ngôi kể ở hai tác phẩm cũng liên quan rất nhiều
đến việc thể hiện cốt truyện. Kiểu kể chuyện hồi tưởng với ngôi số 3, tác phẩm
đạt được tính khách quan cao, có những nhận định chính xác, thuyết phục, đến
từ nhiều phía, tránh được sự chủ quan, áp đặt cho câu chuyện. Toàn bộ câu
chuyện đều ở thì quá khứ, phù hợp cho việc xen vào đó những quan điểm, suy tư
của con người sau một thời gian nhìn lại. Việc tiết lộ người kể chuyện chính là
nhân vật trong truyện ở cuối tác phẩm đã đem lại sự bất ngờ thú vị cho người
đọc, tạo sự hấp dẫn, mới lạ cho mạch truyện.
Điểm khác nhau cơ bản nhất ở hai cốt truyện này đó là một bên thì tuân
thủ thời gian tuyến tính theo diễn tiến của sự kiện (Dịch hạch), một bên lại chú
trọng những khoảnh khắc cảm xúc, những hồi tưởng, những dòng ý thức của
nhân vật nên không đi theo thời gian tuyến tính mà có sự đan xen nhiều sự kiện
khác nhau vào mạch chuyện (Báo ứng). Mỗi một cách xây dựng đều có một lợi
thế riêng của nó trong cách thể hiện. Có thể thấy một điều rằng, cốt truyện Dịch
hạch thiên về cái phi lí, trong khi đó, cốt truyện Báo ứng thiên về thể hiện những
nỗi ám ảnh hơn. Từ điều này, cùng việc nắm những điểm chính trong quan niệm
của hai nhà văn, chúng tôi thấy rằng, có thể gọi cốt truyện Dịch hạch là kiểu cốt
truyện hành động bởi nó nghiêng về phía phi lí, mà phi lí của Camus đó là thứ
phi lí dấn thân, phi lí hành động. Toàn bộ tiểu thuyết là chuỗi rất nhiều các hành
động của nhân vật mà chúng tôi sẽ có dịp phân tích ở chương sau. Chúng tôi tạm
gọi kiểu cốt truyện trong Báo ứng là kiểu cốt truyện vòng tròn, nhân vật trung
72
tâm của tác phẩm trốn chạy dịch bệnh nhưng không chạy thoát mà dịch bệnh lại
xảy ra ở chính anh, anh sống trong vòng tròn của những nỗi ám ảnh. Tựa đề tác
phẩm là Báo ứng, cũng thể hiện một kiểu vòng tròn nhân quả…
73
Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT –
KIỂU CON NGƯỜI DẤN THÂN VÀ CHỊU ĐỰNG
Bản chất của văn học là đời sống mà trung tâm của nó chính là con người.
Con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn học bằng các phương tiện
nghệ thuật được gọi là nhân vật. Nhân vật có thể là những con người có thật
nhưng cũng có thể là những đối tượng khác (thần linh, ma, quỷ, con vật, cây cối,
đồ vật,…) nhưng lại được gán cho thuộc tính người. Điều này giúp cho phạm vi
phản ánh của tác phẩm được mở rộng hơn.
Đây là vấn đề rất được nhà văn quan tâm, chú trọng trong cách xây dựng,
tổ chức, đặc biệt là trong tiểu thuyết bởi "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết
thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác" [29, tr.127]. Khi nhắc đến một tác
phẩm văn học, một tiểu thuyết, người ta thường nghĩ ngay đến nhân vật trong
tác phẩm ấy, có nhiều trường hợp nhà văn dùng cả tên nhân vật trung tâm để đặt
tên cho tác phẩm. Điều này đã phần nào khẳng định tầm quan trọng của nhân vật
trong tác phẩm tự sự nói chung và trong tiểu thuyết nói riêng. Nhân vật trong tác
phẩm không chỉ thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm mà còn thể hiện quan
điểm nghệ thuật về con người của một nhà văn ở những thời điểm lịch sử nhất
định. Đó là nơi tập trung các giá trị trong tác phẩm văn học. Thành bại của một
đời văn, của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng nhân vật.
Nhân vật văn học vừa mang chức năng xã hội, vừa phải làm tròn chức năng văn
học của nó. Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống
con người, thể hiện những hiểu biết, ao ước và kỳ vọng về con người. Chính vì
thế, thành công trong xây dựng nhân vật chính là sự thành công của tác phẩm
văn học.
Có nhiều cách phân loại nhân vật, tuy nhiên, những cách phân loại này chỉ
mang tính chất tương đối: theo phẩm chất nhân vật (nhân vật chính diện, nhân
74
vật phản diện), ở góc độ kết cấu (nhân vật chính, nhân vật phụ), thể loại (nhân
vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch),… Nhân vật có thể đươc phân loại
theo loại hình, tính cách, tâm lí,… Nhà văn có thể xây dựng hình tượng nhân vật
của mình theo nhiều cách, chẳng hạn như: miêu tả nhân vật qua ngoại hình, qua
biểu hiện nội tâm, qua ngôn ngữ nhân vật, qua hành động, qua việc đánh giá của
các nhân vật khác trong tác phẩm, thông qua việc mô tả đồ dùng, nhà cửa, môi
trường xã hội, thiên nhiên...mà nhân vật sinh sống. Trên đây là những nét khái
quát nhất về nhân vật trong tác phẩm văn học nói chung, nhân vật trong tiểu
thuyết nói riêng.
Dịch hạch và Báo ứng là hai tiểu thuyết chủ yếu được xây dựng dựa trên
mô hình quan niệm về thế giới của nhà văn đó là cái phi lí và những nỗi ám ảnh.
Do đó, khi xem xét các nhân vật trong hai tác phẩm, chúng tôi chủ yếu quan tâm
đến cách tổ chức xây dựng nhân vật trong mối liên hệ với quan niệm về cuộc
sống của hai nhà văn chứ không đơn thuần chỉ xem xét những biểu hiện về mặt
nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm với những mối quan hệ nội tại của
nó mà thôi.
Có thể nói rằng, kiểu con người dấn thân trong tiểu thuyết Dịch hạch và
Báo ứng chính là kết quả của quan niệm phi lí về thế giới của Camus và Roth.
Kiểu nhân vật này được cả hai nhà văn thể hiện qua cách suy nghĩ, ngôn ngữ,
hành động của nhân vật và qua lời nhận xét của các nhân vật khác. Trong khi đó,
kiểu con người chịu đựng có thể được xem là kết quả của cách nhìn cuộc sống
mang đầy những nỗi ám ảnh của Camus, mà chủ yếu hơn là của Roth. Kiểu nhân
vật này cũng được hai nhà văn khắc họa qua những nét trên, đặc biệt chú ý vào
hành trình của nhân vật. Đó là một hành trình quẩn quanh, bế tắc và không lối
thoát – hành trình sống của tất cả con người. Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong Dịch hạch và Báo ứng dưới cái nhìn so sánh, chúng ta sẽ thấy được
những nét độc đáo và sáng tạo, thấy được sự gặp gỡ và tài năng nghệ thuật của
hai nhà văn khi xây dựng nhân vật cho tiểu thuyết của mình.
75
3.1. Kiểu con người dấn thân – dấn thân chống lại cái phi lí
Trong văn học thế giới, kiểu nhân vật dấn thân là một hình tượng đặc biệt
được nhiều nhà văn quan tâm xây dựng. Ta có thể gặp kiểu nhân vật này trong
các sáng tác của Hemingway, Sartre, … Kiểu con người dấn thân trong tiểu
thuyết đã gợi cho con người nhiều suy nghĩ, liên tưởng về cuộc sống. Bên cạnh
hành động, suy nghĩ của các nhân vật cũng có những chuyển biến gây bất ngờ
thú vị cho người đọc. Những vấn đề xung quanh hình tượng nghệ thuật này là
câu hỏi mà người viết luôn muốn tìm kiếm lời giải đáp. Việc xây dựng kiểu
nhân vật dấn thân được nhà văn khắc họa ở ngoại hình, ngôn ngữ, hành động.
Đặc biệt, kiểu con người dấn thân luôn hướng đến hành động, luôn dùng hành
động để chống trả hoặc giải quyết vấn đề, không bao giờ chấp nhận buông xuôi
bỏ cuộc. Chính điều này đã tạo nên sức hút, sức cổ động mạnh mẽ ở các nhân
vật dấn thân trong tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết hiện sinh đối với độc giả.
Kiểu nhân vật dấn thân là kết quả của mô hình quan niệm phi lí về cuộc
sống của Camus và Roth. Chúng tôi sẽ xem xét kiểu nhân vật này trong mối
tương quan với mô hình quan niệm về thế giới của hai nhà văn chứ không đơn
thuần chỉ xem xét nhân vật ở mặt nghệ thuật. Chính quan niệm phi lí và những
nỗi ám ảnh về cuộc sống đã chi phối đến cách tổ chức, xây dựng nhân vật trong
Dịch hạch và Báo ứng.
Dịch hạch nằm trong bộ ba phản kháng của Camus bao gồm: Dịch hạch,
Tình trạng giới nghiêm, Người phản kháng sau bộ ba phi lí: Kẻ xa lạ, Huyền
thoại Sisyphe và kịch Ngộ nhận. Đây là tiểu thuyết thể hiện rất rõ quan niệm phi
lí dấn thân của Camus, đặc biệt là qua các nhân vật: Rieux, Tarou, Grand,
Rambert, Panolux,… Dấn thân ở đây có nghĩa là nhân vật không bao giờ chọn
thái độ buông xuôi, phó mặc khi gặp bất kì một hoàn cảnh khó khăn nào. Các
nhân vật trong Dịch hạch luôn không ngừng vươn lên, không ngừng chiến đấu
chống lại cuộc đời phi lí bằng mọi cách.
76
Đây là kiểu nhân vật tiêu biểu cho văn học hiện sinh. Kiểu con người dấn
thân không bao giờ chấp nhận buông xuôi trước thực tại, dù thực tại ấy có khốc
liệt đến thế nào đi chăng nữa. Họ luôn hành động để chống trả quyết liệt và vượt
lên trên hoàn cảnh, khẳng định giá trị con người bằng sự dấn thân không ngừng
vươn lên, bởi: “Đã làm con người thì không bao giờ được bó tay chịu thua. Con
người có thể bị tiêu diệt nhưng không thể bị khuất phục.” (Hemingway, Ông già
và biển cả). Cũng như ông lão Santiago, nhân vật của Camus dù biết rằng sự
chiến đấu của mình có thể không mang lại chiến thắng nhưng họ vẫn hành động
đến cùng.
Không gì có thể tước đi mất ý chí của con người một cách dễ dàng như
một dịch bệnh truyền nhiễm. Đứng trước thảm họa phi lí này, người ta thường
nhanh chóng chấp nhận số phận hoặc tìm cách trốn chạy thoát thân. Nhân vật
trong Dịch hạch của Camus thì không như vậy. Ban đầu, có thể là do hoàn cảnh
buộc họ phải đối đầu với dịch bệnh: thành phố Oran đóng cửa, dù có muốn bỏ
trốn thì họ cũng khó lòng mà đi được. Tuy nhiên, hoàn cảnh dịch bệnh dần dần
cho thấy rõ phẩm chất tốt đẹp của con người, giống như một thứ “lửa thử vàng”,
để cuối cùng, Camus phải kết luận rằng: “con người có nhiều điều đáng khâm
phục hơn là đáng khinh ghét”. Như vậy, hoàn cảnh dịch bệnh cùng các sự kiện
trong cốt truyện đã tạo điều kiện làm cho cho tính cách, lí tưởng sống của các
nhân vật được thể hiện một cách rõ nét.
Có thể xem Rieux, Tarou, Grand là những nhân vật dấn thân 100%, bởi từ
khi dịch bệnh xuất hiện cho đến kết thúc, họ không lúc nào ngơi nghỉ, luôn dùng
hết sức mình để giúp đỡ cộng đồng. Rambert cũng là một nhân vật khá tích cực
trong hành động chống dịch cứu người, dù lúc đầu, điều quan tâm duy nhất của
anh chỉ là làm sao thoát khỏi thành phố, thoát khỏi dịch hạch. Mỗi nhân vật đều
có một hoàn cảnh khác nhau nhưng lại gặp nhau ở điểm chung đó là cùng tham
gia đội y tế, cùng hành động vì con người.
77
Là một bác sĩ, triết lí sống của Rieux rất thực tế nhưng lại đáng để bao
người học hỏi: “Dịch hạch cũng như mọi bệnh tật trên đời này thôi. Nhưng cái
gì đúng với mọi tai họa thì cũng đúng với dịch hạch (…) Nhưng dịch hạch gieo
rắc khổ ải và đau thương nên nếu không điên thì cũng mù, không mù thì cũng
hèn nhát mới cam chịu bó tay trước dịch hạch” [6, tr.167]. Tuy chọn con đường
khác nhau nhưng về căn bản, cả Rieux và Tarou đều có cùng một nền chung đó
là sự phản kháng không dựa vào Chúa. Đây cũng chính là thái độ của Meursault
trong Người xa lạ khi anh kịch liệt phản đối Chúa, từ chối cầu nguyện cho mẹ,
từ chối cầu nguyện trước khi chết, thậm chí chửi cả mục sư. Và chính nó là
“cách để tác giả thể hiện tính chất vô thần của mình trong tư tưởng”. Đối với
Camus, con người không thể trông cậy vào Chúa bởi Chúa sẽ vẫn cứ một mực
lặng im khi con người rơi vào tuyệt vọng hay đau khổ. Thái độ của Rieux đối
với Chúa là minh chứng cho hành động phản kháng quyết liệt trước cái phi lí và
một sự dấn thân tích cực vì cộng đồng: “Nhưng vì trật tự trên cõi đời này là do
cái chết qui định cho nên có lẽ tốt hơn cho Chúa là không nên tin ở Chúa mà
cần đem hết sức mình đấu tranh chống lại cái chết, và không ngước mắt lên trời
nơi Chúa một mực lặng im”. [6, tr.171]. Dịch hạch đặt nhân vật trong thế phải
chọn lựa trước đau khổ, hoặc là y khoa hoặc chọn Chúa. Các nhân vật trong tác
phẩm, đặc biệt là Rieux đã chọn y khoa và tập hợp mọi người vào thực hiện lựa
chọn này. Nếu như việc lựa chọn Chúa, lựa chọn sự cầu nguyện thể hiện sự yếu
đuối, bất lực của con người thì việc chọn niềm tin vào sự can thiệp của y tế là
một lựa chọn can đảm, tuy vất vả nhưng khôn ngoan. Khôn ngoan bởi vì dù thế
nào thì con người cũng đã không phó mặc vận mệnh của mình cho kẻ khác. Khi
Tarou hỏi Rieux có tin vào Chúa không thì anh đã trả lời: “Không, nhưng điều
đó có nghĩa lí gì chứ? Tôi đang trong bóng đêm và tôi đang cố gắng nhìn nó cho
rõ. Đã từ lâu tôi không còn coi nó là độc đáo nữa (…). Nhưng giờ đây, có các
bệnh nhân và cần phải chữa trị cho họ. Tôi cố gắng bảo vệ họ hết sức mình, vậy
thôi.” Trong lá thư gửi cho Jean Grenier ngày 21 tháng Giêng năm 1948, Camus
78
đã viết: “Điều Rieux (tôi) muốn nói, đó là chữa trị tất cả những gì có thể chữa
trị được, trong khi chờ để biết hay để thấy. Đó chỉ là vấn đề đợi chờ và Rieux đã
nói rằng “tôi không biết”. Tôi đã trở lại sau khi đã đi thật xa để cuối cùng phải
thốt lên lời tự thú là mình không biết gì cả. Ta bắt đầu bằng việc luận bàn về
cuộc diệt chủng và cuối cùng ta trở về với cái luân lí của những con người bình
thường”. (Sổ tay ghi chép của Camus)
Như vậy, thay vì dựa vào Chúa, nhân vật Rieux đã quyết định lựa chọn
hành động. Trong Dịch hạch, Rieux là một trong hai nhân vật đầu tiên đã nhận
ra sự xuất hiện và hiểm họa mà dịch hạch có thể mang lại (cùng với Castel). Ông
phản đối thái độ phản ứng của chính quyền thành phố trong cuộc họp khi họ có
có ý muốn né tránh sự thật. Họ chỉ bàn tới bàn lui duy nhất một chuyện đó là có
nên gọi dịch bệnh này bằng cái tên thật của nó là “dịch hạch”. Điều này làm
Rieux cảm thấy rất bực mình, bởi theo ông, gọi nó tên gì không quan trọng, mà
quan trọng là con người nên bàn xem cách ứng phó thế nào, hành động thế nào
trước tình trạng dịch bệnh. Ông đã mạnh mẽ khẳng định: “Điều quan trọng duy
nhất là chúng ta ngăn chặn không cho nó tiêu diệt một nửa thành phố”
[6, tr.72].
Khác với Tarou luôn muốn phấn đấu trở thành một vị thánh không Chúa,
Rieux chỉ quan tâm đến những gì liên quan trực tiếp đến đời sống thường ngày
của con người. Ông đã từng cho rằng lí tưởng mang lại hạnh phúc cho con người
là quá xa vời với ông. Điều duy nhất ông quan tâm đó là sức khỏe con người, là
làm thế nào để tất cả được khỏe mạnh. Nghề bác sĩ buộc ông luôn phải có mối
liên hệ thân ái với tất cả mọi người, trong suốt thời gian hành nghề, Rieux phần
nào đã trở thành hình ảnh một vị thánh nơi trần thế: luôn lao tới những nơi con
người đang đau đớn vì bệnh tật, với một mũi tiêm, vài ba viên thuốc, một vài lời
trấn an thế là người bệnh lại đâu vào đấy; trong thời kì dịch bệnh, ông vẫn đến
với người bệnh để giúp họ vượt qua đau đớn thể xác bằng tất cả khả năng của
mình, ông luôn dành những điều tốt nhất cho bệnh nhân của mình. Vì thế cho
79
nên, dù ông cảm thấy rằng trái tim ông đang dần rắn lại, lòng ông đang chai sạn,
dù thái độ có lạnh lùng nhưng Rieux đã thực sự xả thân để mưu cầu hạnh phúc
cho bao người. Ông đã đoạt lại sự sống cho bao người, đem lại hạnh phúc cho
bao nhiêu gia đình, ông yêu mẹ, yêu vợ, sẵn sàng chữa bệnh cho người nghèo
mà không lấy tiền,…nên cho dù ông chỉ tự nhủ sẽ hoàn thành tốt công việc vì
ông là một bác sĩ, nhưng chắc chắn với mọi người, ông chính là cứu tinh cho
những người bệnh và gia đình họ. Rieux hoàn toàn có khả năng trở thành vị
thánh không Chúa, nhưng ông đã không chọn con đường đó mà chỉ muốn làm
một con người bình thường vì ông tin vào hiện hữu, tin vào mỗi phút giây con
người tồn tại trên đời hơn là tin vào những gì thuộc về hư vô. Do đó, tất cả
những gì ông quan tâm là sức khỏe, bởi sức khỏe là hiện sinh, là đời sống, ông
không quan tâm đến vấn đề cứu rỗi bởi đó là vấn đề của lí tưởng, của hi vọng,
của Thượng đế. Ông không quan tâm đến cái gì nằm bên ngoài sự sống của con
người. Cái chết là tất yếu, cho nên ông chỉ bám vào những phút giây thực tại khi
con người vẫn còn đang hít thở bầu không khí này…
Quan niệm của Rieux rất thực tế: “Muốn trở thành một vị thánh thì anh
phải sống. Anh phải chiến đấu”. [6, tr.367]. Đó cũng là quan niệm hiện sinh
mang tính chất dấn thân sâu sắc của Camus. Mọi thứ chỉ có ý nghĩa khi con
người hành động và khi con người đang sống. Tất cả những gì nằm ngoài điều
này đều hư vô và phi lí. Kiểu con người dấn thân trong Dịch hạch còn mang tư
tưởng nhân văn đậm nét. Hành động của họ ở đây là hành động xả thân vì cộng
đồng chứ không phải là hành động tội ác. Quan niệm này được thể hiện qua lời
phát biểu của Tarou – cũng là một nhân vật dấn thân tích cực trong tác phẩm
này: “Dĩ nhiên, đã là con người thì phải chiến đấu vì những nạn nhân. Nhưng
nếu con người thôi không còn yêu thương gì nữa hết thì anh ta chiến đấu để làm
gì?” [6, tr.334]. Tarou ngay từ đầu đã xác định cho mình trở thành một vị Thánh
không Chúa giữa đời thường. Anh luôn đặt niềm tin vào con người, cho rằng họ
tốt nhiều hơn là xấu, cái chết là điều tởm lợm nhất mà anh đã từng chứng kiến
80
khi nó xảy ra với họ. Tarou cho rằng nhiệm vụ của mình là phải khơi dậy điều
tốt đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người. Chính vì điều đó mà anh đã đi khắp nơi và
tham gia các cuộc chiến vì con người. Anh đón nhận dịch bệnh ở thành phố
Oran với một thái độ hết sức điềm tĩnh, dù có thể đứng ngoài cuộc chiến chống
dịch hạch nhưng anh không làm như vậy mà tích cực cùng Rieux thành lập đội y
tế cứu người. Cùng là nhân vật phi lí nhưng Tarou khác Mersault. Cái phi lí của
Mersault mang tính thụ động trong sự máy móc, đơn điệu của cuộc đời; cái phi
lí của Tarou lại là sự phản kháng quyết liệt trước cái trật tự tởm lợm của xã hội –
trật tự được qui định bởi cái chết. Cái phi lí của Mersault bắt nguồn từ sự mâu
thuẫn giữa con người với xã hội, cái phi lí của Tarou bắt nguồn từ sự mâu thuẫn
của một con người muốn trở thành thánh nhưng khước từ sự tồn tại của Chúa.
Chính vì thế, trong khi Mersault đại diện cho sự phân li thì Tarou lại đại diện
cho sự tập hợp; trong khi Mersault phản kháng bằng thái độ dửng dưng thì
Tarou phản kháng bằng thái độ dấn thân hành động. Và việc dấn thân hành động
hết mình vì cộng đồng cũng là con đường để Tarou trở thành vị thánh không
Chúa. Thái độ tích cực của Tarou đối với cuộc đời đươc thể hiện sâu sắc nhất
khi anh nhiễm bệnh. Dù cận kề với cái chết nhưng anh vẫn không buông xuôi:
“Tôi không muốn chết. Tôi muốn chiến đấu” [6, tr.366].
Thái độ dấn thân của Tarou cũng giống Rieux ở chỗ phản kháng Chúa,
không chấp nhận đặt niềm tin ở Chúa. Họ tin vào chính mình, tin vào con người
hơn là Thượng đế. Chính niềm tin này đã thôi thúc họ chiến đấu không ngừng vì
con người. Cái chết của Tarou ở cuối tác phẩm, khi mà dịch bệnh đã chấm dứt là
một điều khẳng định của Camus: chỉ có con người đời thường mới tồn tại,
những gì là hư vô, là Thánh thì không thuộc cuộc sống con người. Do đó, nhân
vật của Camus là kiểu người dấn thân cho những gì thực tế nhất, đem lại sức
khỏe và niềm vui cho con người. Bên cạnh Rieux, thì các nhân vật khác như
Grand, Rambert, Panolux cũng chứng minh cho điều Camus đề cập tới là đúng
đắn và thiết thực.
81
Khi bàn về chủ nghĩa anh hùng, người kể chuyện đã chọn Grand là người
anh hùng giữa đời thường: “Đúng, nếu quả loài người thiết tha đặt cho mình
những tấm gương và những hình mẫu mà họ gọi là những anh hùng, và nếu nhất
thiết trong câu chuyện này phải có một người anh hùng, thì người kể chuyện đề
nghị chọn người anh hùng tầm thường, mờ nhạt trên đây. Người kể chuyện thấy
anh có chút lòng nhân hậu và một lí tưởng thoạt nhìn có vẻ kì cục. Như thế thì sẽ
trả lại cho chân lí những gì thuộc về chân lí, trả lại cho phép cộng hai với hai
cái tổng số bốn của nó và trả lại cho chủ nghĩa anh hùng cái vị trí thứ yếu vốn
là của nó: nó phải ở ngay sau, chứ không bao giờ đứng trước những đòi hỏi hào
hiệp của hạnh phúc” [6, tr.184]. Nếu như hành động cứu người của Rieux một
phần là do nghề nghiệp của anh qui định, hành động xả thân của Tarou xuất phát
từ nhiệm vụ khơi gợi điều tốt đẹp tiềm ẩn trong con người, để trở thành vị thánh
không Chúa thì hành động của Grand lại hoàn toàn vì con người một cách thuần
túy. Anh tham gia đội y tế với ý nghĩ hết sức đơn giản, có dịch hạch thì cần phải
tham gia đội y tế để tiêu diệt dịch hạch, chỉ có vậy. Do đó, chọn anh làm người
hùng cho tiểu thuyết này quả là một lựa chọn đúng đắn vì ở anh, người ta có thể
tìm thấy hình ảnh nguyên sơ, chân thực nhất của cái gọi là anh hùng. Grand lao
động vất vả vừa để cứu người vừa dấn thân vào những con chữ. Cho nên, chỉ
một thời gian ngắn tham gia đội y tế mà anh đã trở nên gầy gò, xanh xao. Đây
cũng là tình hình chung của đội y tế của Rieux. Ai cũng đang trong tình trạng
kiệt sức, tưởng như có thể bị dịch bệnh đánh gục bất cứ lúc nào. Nhưng những
con người ấy vẫn kiên cường vươn lên và chống trả đến cùng, trong số đó có
Panolux.
Ban đầu, Panolux là một trong số ít những kẻ đồng tình với dịch hạch,
ông cho rằng đây là sự trừng phạt của Chúa và con người xứng đáng bị như vậy.
Tuy nhiên, sau cái chết của Jacques – đứa con trai nhỏ của thẩm phán Othon,
Panolux đã hoàn toàn thay đổi thái độ, ông bắt đầu dấn thân hết mình vào cuộc
chiến một mất một còn với dịch hạch. Có lẽ cùng với Tarou, Panolux là người
82
trả giá đắt nhất trong cuộc chiến này. Với bài thuyết giáo thứ hai mang nội dung
chống Chúa. Panolux đã chịu sự ghẻ lạnh của các tín đồ, mà quan trọng hơn đó
là sự “trừng phạt” của Chúa. Ông phát bệnh, một ca bệnh đặc biệt, không có dấu
hiệu gì của dịch hạch và chết sau đó. Như một sự chống trả, một sự phản kháng
quyết liệt với Chúa, trong suốt nhũng giờ phút bị bệnh tật hoành hành, ông
không hề kêu la mà kiên cường chịu đựng. Ông không cầu cứu Rieux, không
cầu cứu bác sĩ mà chỉ muốn mọi người làm đúng qui định với một người nhiễm
bệnh cho ông. Như vậy, cái chết cũng như thái độ của Panolux đã gián tiếp
khẳng định một điều rằng, một mục sư không thể hỏi ý kiến một thầy thuốc. Chỉ
có cuộc đời hiện sinh cùng sức khỏe của con người là thực sự tồn tại. Niềm tin ở
Chúa là một niềm tin hư vô. Cho đến những giây phút cuối cùng, Panolux vẫn
chiến đấu âm thầm với căn bệnh quái lạ của mình như một sự thách thức với
Thượng đế. Panolux tham gia đội y tế là vì con người, bài thuyết giáo thứ hai
của ông là bài thuyết giáo cho những con người đang hiện hữu trên cõi đời này,
dù có thể ít nhiều đoán biết được hậu quả từ những việc làm của mình nhưng
ông quyết không thụt lùi hay từ bỏ. Sự can đảm của Panolux rất đáng được
chúng ta học hỏi, sự can đảm và nhiệt tình ấy đã tạo nên một kiểu con người dấn
thân, dám hi sinh hết mình vì cộng đồng. Cùng với những nhân vật khác trong
đội y tế, ông đã làm nên kiểu con người dấn thân trong Dịch hạch với những nét
tính cách hết sức độc đáo và tiểu biểu.
Rambert cũng là nhân vật tiêu biểu cho sự dấn thân hành động vì cộng
đồng. Anh đã từng nói với Rieux rằng: Hưởng hạnh phúc lấy một mình thì thật
đáng xấu hổ. chính vì lí do đó mà anh đã quyết định ở lại tham gia đội y tế cùng
Rieux ngay lúc mình có thể trốn thoát khỏi thành phố, hưởng cuộc sống hạnh
phúc êm đềm không dịch bệnh cùng với vợ ở Paris. Hành động của anh là hành
động của một con người quên mình cho đại cuộc, là biểu hiện cho nét đẹp cần có
ở mỗi con người. Điều đáng quí ở Rambert là anh đã từ bỏ hạnh phúc ngay khi
nó đang sát cạnh bên mình để lao vào vòng khổ ải cùng mọi người. Ngoài các
83
thành viên trong đội y tế của Rieux thì tinh thần xả thân vì cộng đồng của các
nhân vật này đã đem lại tầm ảnh hưởng nhất định đối với các nhân vật khác
trong tác phẩm. Tiêu biểu cho trường hợp này là nhân vật thẩm phán Othon. Sau
cái chết của con trai, sau khi thoát khỏi trại cách li kiểm dịch, ông đã quay trở lại
chốn ấy ngay sau đó bởi ông cho đó là hành động có ích và góp phần giảm bớt
đau khổ vì mất mát.
Tóm lại, hành trình của các nhân vật trong Dịch hạch là hành trình dấn
thân hành động vì cộng đồng, đó là con đường đi từ cô đơn đến tập hợp. Các
nhân vật Rieux, Tarou, Grand, Rambert, Panolux,… đều có điểm chung là hi
sinh vô điều kiện vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Họ luôn tìm cách để
giúp đỡ tất cả người dân thành phố Oran thoát khỏi dịch bệnh. Điều này tạo nên
nét tích cực và sức hút cho kiểu nhân vật dấn thân trong tiểu thuyết Dịch hạch
của Camus. Dấn thân ở đây không đơn thuần là đưa con người thoát khỏi dịch
bệnh mà nó còn là sự tích cực giúp đỡ con người thoát khỏi mọi hiểm họa đang
rình rập, xâm lấn, đe dọa đời sống chúng ta. Kiểu nhân vật dấn thân trong Dịch
hạch đã làm nên những thành công cho Camus trong nghệ thuật xây dựng nhân
vật tiểu thuyết. Thủ pháp chủ yếu được ông sử dụng ở đây để khắc họa kiểu
nhân vật này đó là miêu tả qua lời nhận xét của các nhân vật khác và miêu tả
hành động nhân vật. Việc nhấn mạnh các hành động tích cực của nhân vật trong
lời kể, lời tả đã giúp tác giả dựng nên được hình tượng những nhân vật sống mãi
với thời gian.
Nếu như kiểu nhân vật dấn thân trong Dịch hạch mang tính hiện sinh tích
cực, đó là sự dấn thân tuyệt đối, không từ nan bất cứ điều gì kể cả cái chết thì
nhân vật dấn thân trong Báo ứng lại mang tính chất nửa vời, không hoàn toàn. Ở
đây, dù nửa vời, không hoàn toàn nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận gọi nhân vật
trong Báo ứng là kiểu nhân vật dấn thân bởi sự tích cực trong hành động, thái độ
của nhân vật trong hoàn cảnh dịch bệnh, sự kiên quyết trong hành động xả thân
84
vì con người. Nhưng tất cả điều này chỉ nằm ở giai đoạn đầu của tác phẩm, khi
nhân vật chưa biết mình nhiễm bệnh.
Trước hết, hành động dấn thân ở Bucky Cantor được thể hiện ở niềm xấu
hổ khôn nguôi khi anh không đủ tiêu chuẩn tham gia vào quân đội để đánh giặc,
để cống hiến như những người bạn khác của anh. Chiều cao khiêm tốn cùng thị
lực kém là nỗi mất mát lớn đối với Bucky. Tuy vậy, không vì thế mà anh thiếu
tự tin, sống khép kín, trái lại, anh sống rất tự tin, là một thầy giáo dạy thể dục
đáng ngưỡng mộ của bọn trẻ ở sân chơi Chancellor mùa hè năm 1944. Đối với
những đứa trẻ, anh như là một bình phong vững chắc trước sự xâm nhập của
những thứ nguy hiểm. Khi bọn người Ý xuất hiện, chính thầy Cantor đã can đảm
đối đầu và xua đuổi bọn chúng, đem lại sự bình yên cho sân chơi. Bucky sẵn
sàng ra tay ngăn chặn bọn người Ý dù chúng cố tình đến gieo rắc dịch bệnh.
Bucky lúc này tỏ ra hiên ngang đến mức như thể không gì có thể đánh gục anh
ta, anh dường như không sợ tất cả, kể cả vi rút bại liệt: “Phong thái tự tin, thái
độ kiên quyết, sức khỏe của một vận động viên cử tạ và việc thầy hàng ngày
tham gia chơi bóng nhiệt tình cùng chúng tối – tất cả những điều này khiến
trong số các nhân viên chính thức nơi sân chơi, thầy là người được yêu thích
ngay từ khi tới nhận nhiệm vụ quản lí; và sau vụ việc với mấy gã người Ý, thầy
ngay lập tức trở thành một anh hùng, một thần tượng, một người anh lớn quả
cảm, chở che, nhất là đối với những đứa có anh trai đang ở ngoài chiến trường”
[48, tr.23]. Kiểu con người dấn thân ở Bucky Cantor được Philip Roth khắc họa
ngay ở ngoại hình: “Đó chính là khuôn mặt cứng cỏi, cam chịu, sắc sảo của một
thanh niên cường tráng, khỏe mạnh mà người ta hoàn toàn có thể trông cậy”
[48, tr.19]. Kiểu con người dấn thân theo tác giả có lẽ là người phải có sức khỏe,
có lòng nhiệt tình và đáng để kẻ khác trông cậy, nương nhờ, có thể làm được
những việc mà người khác không làm được, có thể xốc vác để giúp đỡ người
khác. Bucky Cantor dưới ngòi bút của Philip Roth là một người như vậy. Và có
85
thể anh sẽ mãi mãi như vậy – một con người nhiệt tình xả thân vì người khác
nếu như anh không biết mình nhiễm bại liệt.
Sự nhiệt tình dấn thân của Bucky Cantor không chỉ thể hiện ở sự việc đối
đầu với bọn người Ý mà còn ở nhiều sự kiện khác. Những hành động của anh
chủ yếu tập trung dành cho những đứa trẻ, anh hành động vì niềm vui và sự an
toàn của chúng: anh chơi thay thế vị trí của những đứa trẻ vắng mặt để những
đứa ở sân chơi có thời gian nghỉ ngơi, anh hết lòng đau xót trước cái chết của
bọn trẻ, anh muốn dạy bọn chúng trở thành một người Do Thái khỏe mạnh và
can đảm,…nhưng anh đã không làm được vì căn bệnh bại liệt đã giết chết niềm
tin sống nơi anh. Áp lực dịch bệnh cùng với nỗi lo sợ đã khiến Bucky Cantor rời
bỏ việc làm con người mà mình mong muốn: can đảm, tự tin, nhiệt tình,… Dịch
bệnh đã trở thành nỗi ám ảnh to lớn đối với Cantor. Chính điều này đã biến anh
trở thành một con người dấn thân nửa vời, bỏ cuộc giữa chừng. Sự dấn thân của
Bucky có phần khác hơn so với các nhân vật trong tiểu thuyết Dịch hạch. Dấn
thân còn có nghĩa là nhiệt tình suy nghĩ cho người khác, vì thương xót người
khác mà tự trách bản thân mình: “Cảm giác tội lỗi ở người như thầy Cantor có
thể mang vẻ ngớ ngẩn nhưng, trong thực tế là không thể tránh khỏi. Một người
như vậy giống như đã bị kết án. Không gì làm anh ta có thể thỏa mãn ý tưởng đó
của bản thân. Anh ta không bao giờ biết bổn phận của mình dừng ở đâu cả. Anh
không bao giờ tin ở những giới hạn của anh bởi vì, lòng tốt bẩm sinh lạnh lùng
sẽ không bao giờ cho phép anh ta gạt bỏ bản thân khỏi nỗi khổ đau của những
người khác, anh ta sẽ không bao giờ chấp nhận một cách vô tư rằng mình có bất
kì một hạn chế nào” [48, tr.244]. Vì lòng tốt và nhiệt tình bẩm sinh trong con
người mình, dù dịch bại liệt khiến thân xác điêu tàn nhưng tấm lòng ấy vẫn còn
âm ỉ trong anh, nó thôi thúc anh nghĩ về người khác, nghĩ cho người khác. Và
chính vì điều đó mà anh đã quay lưng với Macia – người mà anh rất mực yêu
thương để mong nàng có thể tìm nơi xứng đáng hơn là tình yêu với anh.
86
Hành động trốn chạy đến Idian Hill của Bucky Cantor, quyết định bỏ việc
ở Newark, cầu hôn Macia,…tất cả dường như chỉ diễn ra trong vô thức, đó
không phải là con người thực sự của anh. Bởi nếu thực sự là một kẻ hèn nhát,
muốn trốn chạy thì anh đã không giằng xé giữa việc đi hay ở nhiều đến vậy, nếu
không phải là một con người nhiệt tình luôn nghĩ đến hạnh phúc, sự vui sướng
của người khác thì anh đã không thường xuyên gọi điện về cho bà ngoại để hỏi
về tình hình những đứa trẻ ở Newark, nếu anh yếu đuối, nếu anh không có ý
định dấn thân cho cộng đồng thì anh đã vui sướng hoàn toàn trong tình yêu với
Macia, trong bầu không khí trong lành ở Idian Hill. Có thể thấy rằng, nơi đây dù
có mang đến niềm vui cho anh, nhưng đó là một thứ niềm vui không trọn vẹn,
bởi bản chất con người anh là một người thầy nhiệt tình, can đảm, luôn muốn
hành động vì người khác. Ở Idian Hill, dù được vui chơi cùng lũ trẻ nhưng lòng
anh luôn nôn nóng không yên khi nghe tin chiến sự, nghe tin về cái chết của
những đứa trẻ ở sân chơi Chancellor. Bucky lúc này chẳng khác nào hình ảnh
một con ngựa vốn sinh ra để chạy, để phi, nay lại bị bó gối chồn chân, không thể
là con người mà mình mong muốn được. Như vậy, trong sâu xa nhất, bản chất
nhất, Bucky Cantor vẫn là một con người nhiệt tình, năng nổ, là kiểu con người
dấn thân vì cộng đồng.
Sự dấn thân của Bucky còn thể hiện ở thái độ chống trả của anh trước
cuộc đời phi lí. Sự chống trả ấy chính là thái độ bất tín, thậm chí oán giận Chúa
đến sâu sắc của anh. Anh thường trách: “Chúa có lương tâm không?”, “Chúa là
kẻ giết người máu lạnh”, “là tên sát sinh chuyên đi giết trẻ con”… Cùng giống
Rieux, Tarou, Panolux,…trong Dịch hạch ở thái độ “chống Chúa” nhưng mức
độ gay gắt thì có thể nói ở Bucky Cantor (Báo ứng) cao hơn gấp nhiều lần. Bằng
giọng điệu mỉa mai, châm biếm, hình ảnh Chúa hiện lên một cách rất đáng sợ:
“Hãy cùng hy vọng Chúa trời nhân từ của họ sẽ ban phát tất thảy điều ấy trước
khi đâm lưỡi dao của mình vào lưng họ” [48, tr.226]. “Quan niệm của thầy về
Chúa là một đấng toàn năng hiện hữu hợp nhất không phải từ ba cá thể trong
87
một theo thuyết Chúa ba ngôi của Thiên chúa giáo, mà từ hai – một kẻ bệnh
hoạn và một thiên tài xấu xa độc ác” [48, tr.236].
Nhân vật Bucky trong Báo ứng có thể xem là một sự hiện thực hóa quan
niệm của Philip Roth về cuộc sống: sống là không ngừng phản kháng, không
ngừng dấn thân để khẳng định giá trị và sự tồn tại của mình, để cứu vớt và giúp
đỡ kẻ khác. Điều nay cũng được Roth nói đến trong tiểu thuyết Sabbath Theatre:
“Điều duy nhất tôi biết làm là phản kháng” (lời nhân vật Mickey Sabbath trong
tác phẩm Sabbath Theatre, 1995).
Nếu như Bucky hoàn toàn bị dịch bệnh đánh gục thì vẫn còn một vài nhân
vật khác chiến đấu đến cùng với dịch bại liệt, đó là Arnold Mesnikoff, một đứa
trẻ ở sân chơi Chancellor năm ấy. Bại liệt đã khiến cậu thua kém bạn bè, mặc
cảm, nhưng không vì vậy mà cậu buông xuôi. Cậu đã biến khuyết điểm của
mình thành điểm mạnh trong nghề nghiệp đó là thiết kế nội thất cho những
người cũng bị di chứng bại liệt như mình. Công việc ổn định, có vợ để yêu
thương, có những niềm vui, những hoạt động yêu thích của mình. Thái độ dấn
thân tích cực ở nhân vật này đã đem đến thành công cho cuộc sống của cậu ta và
một điều quan trọng hơn toát lên từ nhân vật này đó là dịch bệnh có thể gây ra
những thương tật trên cơ thể nhưng không đủ sức mạnh làm tổn thương những
ai thực sự sống lạc quan.
Tóm lại, nhân vật trong Dịch hạch và Báo ứng là kiểu con người dấn thân
có điểm chung đó là sự nhiệt tình, tích cực hành động chống lại cuộc đời phi lí,
xả thân vì cộng đồng một cách tự nguyện. Mỗi nhà văn đều có một điểm mạnh
riêng trong việc lựa chọn thủ pháp xây dựng nhân vật của mình. Camus chú
trọng vào việc khắc họa hành động, ngôn ngữ của nhân vật, đặc biệt là sự nhận
xét của nhân vật này đối với nhân vật khác. Trong khi đó, Philip Roth lại có thế
mạnh trong việc miêu tả ngoại hình nhân vật cùng những dòng độc thoại nội tâm
thể hiện rõ tính cách nhân vật. Dù có những điểm chung như đã nêu ở trên, tuy
nhiên, có một điểm khác nhau trong kiểu con người dấn thân ở hai nhân vật đó
88
là: các nhân vật dấn thân trong Dịch hạch của Camus hành động dấn thân tuyệt
đối, hành động xả thân vì cộng đồng đến cùng, trong khi hành động dấn thân của
nhân vật trung tâm trong Báo ứng lại mang tính chất nửa vời, không hoàn toàn.
3.2. Kiểu con người chịu đựng - chịu đựng cái phi lí
Kiểu con người chịu đựng xuất hiện khá phổ biến trong văn học, đặc biệt
là trong các tác phẩm tự sự. Đó là những nhân vật luôn phải chịu những nỗi khổ
khác nhau: oan ức, mất người thân, tình yêu không trọn vẹn, chịu đựng những
nỗi đau về thể xác và tinh thần do một thảm họa, một điều không may nào đó
đem lại, do bệnh tật hay tai nạn,… Tóm lại, kiểu nhân vật này thường không có
sức mạnh để vượt qua một nỗi đau khổ nào đó, thường rơi vào tình trạng bế tắc,
tuyệt vọng, đành phải cam chịu tình cảnh khốn khổ. Trong Dịch hạch và Báo
ứng, các nhân vật chủ yếu phải chịu đựng những mất mát, đau khổ do hậu quả
tàn khốc mà dịch bệnh mang lại. Nói một cách khái quát, đó là sự chịu đựng
những điều phi lí.
Trước hết đó là sự chịu đựng những nỗi đau thể xác ở các nhân vật.
Camus đã miêu tả rất cụ thể, chi tiết những biểu hiện phát bệnh của dịch hạch:
“người bệnh nửa người nhoài ra khỏi giường, một tay đặt lên bụng, một tay ôm
lấy cổ, nôn thốc nôn tháo vào trong một cái thùng đựng rác một thứ nước mật lờ
nhờ. Cố mãi đến hụt hơi, cuối cùng, ông lão gác cổng nằm xuống. Nhiệt độ lên
tới ba chín rưỡi, hạch ở cổ và tay chân sưng tấy, hai bên mạn sườn có hai chấm
đen ngày một loang rộng ra. Bây giờ ông lão kêu đau trong nội tạng.” [6, tr.34].
Tất cả những người nhiễm dịch hạch đều phải trải qua, phải chịu đựng những
đau đớn này cho đến chết.
Trong Báo ứng, biểu hiện phát bệnh có hơi khác chút ít so với dịch hạch,
nhưng nhìn chung, tất cả những người nhiễm bệnh đều phải chịu đau đớn: nôn
ọe, sốt cao, tay chân không nhấc lên nổi, nếu dịch bại liêt xảy ra ở đường thở thì
người bệnh phải sống trong máy trợ thở suốt đời. Đó là những đau đớn về thể
xác mà nhiều nhân vật trong hai tác phẩm phải chịu đựng. Tuy nhiên, sự chịu
89
đựng những nỗi đau, những mất mát về tinh thần cũng không kém phần khủng
khiếp.
Các nhân vật trong Dịch hạch phải chấp nhận sống trong cảnh cách li,
thương nhớ người thân, hoảng sợ, ám ảnh vì dịch bệnh. Rambert có lẽ là nhân
vật thấm thía nhất cảm giác sống cách li khi vô tình bị kẹt lại thành phố Oran
trong lúc làm nhiệm vụ. Anh ngày đêm tha thiết mong được trở về Paris cùng
vợ, luôn sống trong tâm trạng nhớ nhung, đau khổ. Anh đã cố tìm mọi cách lo
liệu để ra khỏi thành phố, nhưng ban đầu, mọi thứ đối với anh chỉ là tuyệt vọng:
“Anh đến gặp mọi cơ quan, làm mọi cuộc vận động, trước mắt, mọi lối thoát về
phía ấy đều bị bịt kín”. Rambert đã ngồi rất nhiều giờ ở tiệm cà phê, quán ăn, ở
nhà ga,…để cố lấp đầy những tháng ngày trống trải, để vượt qua nỗi nhớ nhung
và sợ hãi, cũng giống như người dân thành phố Oran, ai nấy cũng đều tự thấy
rằng “phải làm một cái gì để tự giải thoát mình”, nhưng sự cầm tù của dịch hạch
đã siết chặt lấy họ, không cho họ được phép làm điều đó. Tất cả đối với họ lúc
này chỉ còn là sự nhẫn nhục chịu đựng mong cho tai họa qua đi. Cuối cùng, khi
đã tìm được cách để trốn thoát khỏi vùng dịch bệnh nhưng Rambert lại chọn
cách ở lại cùng gánh vác nỗi đau dịch bệnh với mọi người thì sự chịu đựng của
anh đã trở thành sự cứu cánh đối với cộng đồng, cũng giống như các nhân vật
khác trong đội y tế (Rieux, Tarou, Grand, Panolux). Bên cạnh những điểm
chung đó, mỗi nhân vật lại có một cuộc sống riêng khác nhau nên cùng với nỗi
đau dịch bệnh, họ còn phải chịu đựng những nỗi đau riêng.
Dịch bệnh đã khiến Rieux dường như không còn thời gian để nghỉ ngơi,
một ngày ông phải làm việc suốt 20 tiếng đồng hồ, chỉ một công việc duy nhất:
gây áp xe kết tụ, rạch hạch xoài, nghe tiếng kêu la đau đớn của người bệnh,
tiếng van xin hãy cứu lấy người bệnh từ người thân của họ, nhìn thấy những
gương mặt hốc hác, xanh xao vì dịch hạch, nhìn thấy những xác chết xám ngắt
vì dịch hạch,… Có thể nói rằng, 20 tiếng đồng hồ mỗi ngày ấy là khoảng thời
gian kinh hoàng nhất mà Rieux phải trải qua. Còn kinh hoàng hơn khi ông và tất
90
cả mọi người đều không biết đến bao giờ điều đó mới chấm dứt. Không ai muốn
nhìn thấy những cảnh tượng khủng khiếp này, cũng như không ai muốn chứng
kiến cái chết của đồng loại mình. Nhưng Rieux phải chứng kiến, phải tiếp xúc
trực tiếp với những điều đó. Phải có một nghị lực phi thường, một trái tim đủ
can đảm và mạnh mẽ thì Rieux mới có thể trải qua nỗi ngần ấy thời gian sống
giữa những tiếng kêu la tang tóc. Không thể dùng từ thích nghi đối với Rieux
khi ông chịu đựng được cảnh dịch bệnh bởi không ai có thể chịu đựng nỗi cảnh
này. Ông chịu được vì phải để trái tim mình khép lại: “Sau những tuần lễ kiệt
sức, sau những buổi hoàng hôn nhìn thành phố đổ ra và quẩn quanh ngoài
đường, Rieux hiểu ông không cần phải chống lại lòng xót thương nữa. Lòng xót
thương làm người ta mệt mỏi khi nó trở nên vô ích. Và trong những ngày nặng
nề này, ông chỉ có cảm giác nhẹ nhõm khi nhận thấy con tim mình dần dần khép
kín lại. Ông biết nhiệm vụ của mình nhờ đó sẽ thuận lợi hơn” [6, tr.123]. Trong
hoàn cảnh dịch bệnh, mỗi người đều tự tìm cho mình một cách riêng để “sống
được” với nó. Nếu Rieux chọn cách để tim mình khép lại thì Tarou chọn thái độ
trầm tĩnh khi đón nhận dịch bệnh, tìm lấy những niềm vui nhỏ bé hàng ngày
trong công việc và không ngừng ghi chép. Cách của Grand – thực chất đó không
phải là cách, đó là thái độ sống của anh – là say mê với công việc sáng tác và
tìm kiếm các từ ngữ diễn đạt phù hợp. Chính công việc sáng tác của anh cũng
đem đến được những niềm vui nho nhỏ cho đội y tế trong suốt những ngày
tháng mệt nhoài.
Vì dịch bệnh mà Rieux không có thời gian chăm sóc cho mẹ và vợ -
những người ông hết mực yêu thương. Có nhiều lúc ông cảm thấy rất xót xa vì
điều đó. Đến gần cuối tác phẩm, khi nghe tin cái chết của vợ, ông cảm thấy như
tim mình vụn vỡ trước sự mất mát này, nhưng ông vẫn im lặng chịu đựng để làm
nhiệm vụ của một bác sĩ cứu giúp cộng đồng. Rieux đã nén nỗi đau riêng để lo
cho hạnh phúc chung của mọi người: “Ông biết nỗi đau của mình không phải là
một nỗi đau đột ngột. Đã từ mấy tháng và từ hai ngày nay, vẫn một nỗi đau ấy
91
cứ đeo đuổi” [6, tr.378]. Mẹ của Rieux cũng là một kiểu con người chịu đựng,
bà luôn là điểm tựa, là nơi an ủi cho con trai mình. Bà có cái nhìn rất điềm tĩnh
về dịch hạch khi cho rằng vẫn có những chuyện như thế xảy ra trong lịch sử. Và,
bà là một người nhẫn nhịn khi luôn chờ đợi con về, dù ngày tháng thì dài mà
Rieux thì không bao giờ có thời gian ở bên mẹ. Đối với bà – một người mẹ - họ
vẫn mãi chờ đợi đứa con của mình dù bao lâu đi nữa, vì biết rằng thế nào nó
cũng sẽ trở về.
Trong sự dấn thân của mình, mỗi nhân vật đều có chung một lý tưởng đó
là cứu sống con người trong hiểm họa do dịch bệnh mang lại. Tuy nhiên, đằng
sau sự dấn thân hết mình ấy là cả một sự chịu đựng to lớn, sự dồn nén đến tận
cùng những nỗi đau riêng. Grand mải miết với sổ sách, thống kê người chết,
nhưng đến lúc những kỉ niệm với người vợ Gianno của mình ùa về, anh tưởng
như không còn sức, tưởng như dịch bệnh ập đến và có thể sẽ mang anh đi. Anh
lang thang đến cửa hiệu bày hàng Noel, nhớ lại lúc Gianno ngả mình về phía
anh và chấp nhận lời cầu hôn. Grand đã phải chịu đựng những đau khổ về dịch
bệnh, chịu đựng cảm giác lưu đày quá lâu. Nó cướp đi của anh mọi sự liên hệ
với người vợ yêu quý của anh. Dịch hạch như một ẩn dụ cho rào cản ngôn ngữ ở
Grand: anh muốn viết một lá thư cho vợ, để giải thích về mọi chuyện, nhưng anh
mãi bị “cứng cổ”, không tìm được từ diễn đạt phù hợp, anh mãi bị lưu đày giữa
những con chữ và âm thầm sống với cảm giác đó. Nhưng cuối cùng anh phải
thốt lên: “Kéo dài như thế đã quá lâu rồi. Tôi muốn cứ phó mặc, bắt buộc phải
như thế. A! Thưa bác sĩ, tôi có vẻ bình tĩnh như thế này. Nhưng muốn được bình
thường không thôi, tôi luôn luôn phải cố gắng hết mình. Và giờ đây, lại càng
hơn thế nữa” [6, tr.341]. Rieux, Rambert, cũng là hai nhân vật đã phải chịu
đựng những nỗi đau vì hoàn cảnh riêng, cố tìm quên nó trong hành động xả thân
vì cộng đồng.
Đặc biệt hơn cả có thể nói đến trường hợp của cha Panolux. Ông là một
tín đồ trung thành của Chúa, là người truyền đi những đạo lí “tốt đẹp” từ Chúa.
92
Ấy vậy mà, ngay sau khi chứng kiến cái chết của một đứa trẻ, ông đã đột ngột
thay đổi thái độ của mình với Chúa. Bài thuyết giáo thứ hai của ông (Một mục
sư có thể hỏi ý kiến một thầy thuốc?) đã đánh dấu cho sự thay đổi đó. Sự chịu
đựng của Panolux ở đây là những đau đớn vì bệnh tật sau bài thuyết giáo “chống
Chúa”. Bệnh tật giáng xuống Panolux đột ngột và hoàn toàn không có triệu
chứng gì của dịch hạch. Bác sĩ không thể chẩn đoán được gì từ ca của ông, mãi
cho đến khi ông chết, người ta chỉ ghi là “ca đặc biệt”, không giải thích gì thêm.
Sự chống chọi với bệnh tật một cách kiên cường của Panolux là sự chịu đựng cái
phi lí ở lúc đỉnh điểm nhất của nó. Có Chúa hay không? Và phải chăng con
người đang chịu đựng Chúa? Bởi khi con người gặp nạn thì người trên cao vẫn
một mực lặng im, nhưng khi họ lên tiếng chống lại người thì dường như hình
phạt đối với họ lại có thật! Như vậy, chỉ có một điều xác thực nhất đó là con
người đang sống trong cuộc đời phi lí, đang chịu đựng nó, ngoài ra, không có
một sự cứu viện nào ngoài chính sự nỗ lực chiến đấu ở mỗi người. Những sự
kiện xảy ra với Panolux đã làm nên một hình mẫu con người nhẫn nhịn chịu
đựng ở ông.
Như vậy, ở Dịch hạch Camus không chỉ xây dựng kiểu nhân vật dấn thân
mà ông còn rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật – kiểu con
người chịu đựng. Có sự gặp gỡ trong kiểu người này ở tiểu thuyết Báo ứng của
Philip Roth, đặc biệt là qua nhân vật Bucky Cantor.
Cuộc đời Bucky bị vây quanh bởi những nỗi bất hạnh. Ngay từ lúc sinh ra
anh đã phải chịu cảnh mồ côi vì mẹ chết trong lúc sinh nở, cha là một tên trộm,
ông ta bỏ anh cho ông bà ngoại nuôi dưỡng, không được nhập ngũ vì mắt kém
và không đủ chiều cao. Cuộc đời của anh tưởng như êm đềm nếu như không có
trận dịch bại liệt mùa hè 1944. Bucky ngày càng hoang mang khi những người
thân, người thương xung quanh anh cứ lần lượt ra đi một cách kì lạ: mẹ anh,
những đứa học trò thân cận, bạn thân của anh, ông ngoại, bà ngoại,… Tóm lại,
cái chết bao trùm toàn bộ tác phẩm Báo ứng và cũng bao trùm toàn bộ cuộc đời
93
Bucky Cantor. Anh phải lần lượt chịu đựng tất cả những điều phi lí nhưng lại có
thật này. Và, có thể nói, điều phi lí nhất mà anh phải chịu đựng đó là căn bệnh
bại liệt lại xảy ra với anh, chính anh là kẻ vô tình gieo rắc mầm bệnh cho những
đứa trẻ xung quanh.
Sở dĩ chúng tôi gọi Bucky Cantor là kiểu con người chịu đựng bởi anh
không có đủ sức mạnh để vượt qua những nghịch cảnh trong cuộc sống. Khi biết
dịch bại liệt đang xảy đến với những đứa trẻ, anh đã chạy trốn khỏi vùng dịch,
mặc dù anh không hoàn toàn muốn thế, mặc dù quyết định đó có vẻ chỉ do một
phút bối rối, chỉ là vô thức. Nhưng dù thế nào thì anh cũng đã quyết định và
cũng đã thực hiện. Quay lưng với thực tại, bỏ chạy khỏi nơi nguy hiểm có thể đó
là hành động khôn ngoan với một số người, nhưng với Bucky, với một chàng
trai tha thiết muốn làm người hùng thì thật là một hành động nông nỗi. Và vì sự
trốn chạy ấy mà Bucky đã phải chịu đựng toàn bộ hậu quả: sống trong sự giằng
xé nội tâm, trong mặc cảm mình là kẻ có lỗi khi bỏ rơi những đứa trẻ ngay trong
lúc chúng đang cần sự an ủi của anh, hơn tất cả, anh đã biết mình là kẻ gây ra
căn bệnh bại liệt cho tất cả những đứa trẻ, điều này là nỗi đau khổ lớn nhất mà
anh phải chịu đựng, mãi mãi không thể nào vượt qua được mặc cảm đó.
Kiểu con người chịu đựng chính là sản phẩm của thời đại. Thế kỉ XX,
XXI là thế kỉ của sự khủng hoảng niềm tin, của sự đổ vỡ mọi thành tựu mà con
người gầy dựng ở những thời kì trước do hai cuộc đại thế chiến gây ra. Con
người của thế kỉ XX trở đi luôn u hoài trong hành trình tìm kiếm bản ngã, gánh
trên vai sự nặng nề của những nỗi bất hạnh mà không thể nào vượt thoát được.
Những con người của thời đại này, như Rieux, như Bucky…đều cảm thấy rằng,
làm người một mặt là phải chịu đựng, một mặt là phải không ngừng vươn lên,
không ngừng dấn thân. Hai mặt này nghe qua có vẻ mâu thuẫn nhưng thực chất
nó lại thống nhất trong từng nhân vật của Dịch hạch và Báo ứng. Sinh ra làm
người là chúng ta đã phải bắt đầu phải chịu đựng sống chung với những điều phi
lí (chiến tranh, dịch bệnh, cái chết, bất công, tội ác…) nhưng không vì thế mà
94
con người trở nên thụ động, buông xuôi, mà ngược lại, họ phải luôn dấn thân
vào cuộc chiến với cái phi lí. Trong cuộc chiến ấy, dù con người luôn luôn là kẻ
bại trận nhưng họ không bao giờ bỏ cuộc: “Nhưng thắng lợi của ông bao giờ
cũng chỉ tạm thời, có thế thôi” [6, tr.171]; “Bao giờ cũng thế, tôi biết. Nhưng
không phải vì vậy mà thôi không đấu tranh” [6, tr.171]. Chịu đựng là như thế,
và dấn thân cũng là vì thế.
Trở lại nhân vật Bucky Cantor, những điều mà anh phải chịu đựng cũng
chính là những điều phi lí thường xuất hiện trong cuộc sống này. Những trải
nghiệm của anh chính là những trải nghiệm làm người quan trọng mà bất kì ai
cũng phải trải qua trong suốt kiếp sống của mình. Có lẽ cái chết của mẹ đã
không gây nhiều đau đớn cho Bucky bởi anh không tận mắt chứng kiến sự ra đi
của mẹ. Tuy nhiên, đó cũng là một mất mát lớn trong đời của anh, bởi nó thường
trở đi trở lại trong ý nghĩ của anh những lúc bất hạnh cứ liên tục đổ ập lên đầu
anh.
Điều lớn nhất mà Bucky phải chịu đựng có lẽ là sự “ngược đãi” của Chúa.
Dường như tất cả những bất hạnh của anh đều do một tay Chúa mang lại: “Chúa
đã giết mẹ tôi khi sinh nở. Chúa đã cho tôi một người cha ăn cắp. Khi tôi mới
ngoài hai mươi, Chúa cho tôi bệnh bại liệt để đến lượt mình, tôi lại truyền cho ít
nhất mấy trẻ, có lẽ còn nhiều hơn” [48, tr.234].
Như vậy, ở nhân vật Bucky, có hai cái chịu đựng lớn: thứ nhất là chịu
đựng nỗi đau khách quan, thứ hai là nỗi đau chủ quan. Tức một bên đó là những
nỗi đau do hoàn cảnh gây ra với anh, một bên là nỗi khổ do chính anh nghĩ ra,
một bên anh phải chịu đựng nỗi đau mất mát người thân, nỗi đau của dịch bệnh,
một bên là chịu đựng sự mâu thuẫn, giằng xé giữa một người mang sứ mệnh cứu
giúp cộng đồng và một bên là sự bất lực, không thể làm được vì dịch bệnh, vì
Chúa (không giúp những đứa trẻ ở sân chơi mà còn gây bệnh cho chúng, không
đủ tiêu chuẩn gia nhập quân đội để phụng sự tổ quốc, không đạt được mục tiêu
trở thành người Do Thái kiên cường như lời dạy của ông ngoại), anh phải chịu
95
đựng và từng ngày gậm nhấm sự sụp đổ của chính mình. Nỗi đau tinh thần mà
dịch bệnh mang lại cho anh dai dẳng gấp nhiều lần nỗi đau thể xác do dịch bại
liệt hoành hành . Anh mãi mãi bị trói buộc trong dòng suy nghĩ ấy và chịu đựng
làm một “kẻ thất trận vĩnh viễn” trong cuộc chiến với Chúa, với số phận, với
dịch bệnh.
Trước hết, chúng ta thấy rằng, Bucky phải chịu đựng cuộc sống của một
đứa trẻ mồ côi, trong kí ức hoàn toàn không có bóng dáng của cha mẹ, phải né
tránh cái nhìn thương hại của mọi người: “anh hiểu rõ sự hiện diện bấp bênh
của mình trên thế giới này từ khi người lớn dành cho anh kiểu nhìn mà anh ghét
cay ghét đắng, cái nhìn thương hại mà anh rất tỏ tường” [48, tr.111]. Cùng với
kí ức buồn ấy, Bucky còn là một người “xui xẻo” khi đã phải thừa hưởng những
khuyết điểm về ngoại hình từ cha đó là đôi mắt với thị lực kém và không đủ
chiều cao như những thanh niên khác cùng trang lứa. Có thể nói, số phận dường
như đã không ưu ái anh, và, Chúa nhân từ của mọi người hình như cũng không
công bằng với anh ngay từ đầu. Tuy nhiên, ngoại hình ấy sẽ không là điều làm
anh buồn nhiều nếu như anh vẫn được gia nhập quân ngũ. Bằng sự giáo dục của
ông ngoại, với dòng máu Do Thái kiên cường, dũng cảm đang chảy trong người,
anh đã tự cho rằng mình sinh ra không phải để ném lao, để làm một vận động
viên mà là để trở thành một lính thủy đánh bộ, một người anh hùng cho Tổ quốc,
cho nhân loại. Tuy nhiên, điều đó đã không thành sự thật, anh phải rất đau khổ
khi những người bạn của anh được chọn, còn anh thì không: “Thời gian trôi đi
và dường như tất cả mọi người đểu ra trận chỉ trừ anh. Được nằm ngoài trận
chiến, được thoát khỏi nơi máu chảy đầu rơi – tất cả những điều mà ai khác sẽ
xem như một cơ may, thì anh lại thấy như tai ương. Ông đã dạy dỗ anh trở
thành một chiến binh không biết sợ, đào luyện anh biết nghĩ một cách đầy trách
nhiệm, sẵn lòng và phù hợp để bảo vệ lẽ phải, rồi thay vì đương đầu với cơn vận
hạn của thế kỷ, một cuộc xung dột mang tầm vóc toàn cầu giữa thiện và ác, anh
lại không thể góp phần mình dù là nhỏ nhất” [48, tr.154].
96
Gánh nặng trong tâm trí của Bucky ngày càng tăng lên vì sự xuất hiện của
dịch bại liệt. Là người phụ trách sân chơi nghĩa là Bucky phải phụ trách về mặt
sức khỏe cho lũ trẻ. Không đến mức như bác sĩ nhưng đó là nhiệm vụ khá nặng
nề, đòi hỏi trách nhiệm và sự tận tụy vì: “Vui chơi, đối với người lớn là giải trí
và tái tạo sự sống, vui chơi, đối với trẻ em là phát triển, là giành lấy sự sống”.
[48, tr.58]. Dịch bệnh xuất hiện và đem lại cái chết đột ngột cho những đứa trẻ,
những con người mà vừa mới hôm qua vẫn còn nói cười với anh, hôm nay đã
mãi mãi không còn gặp anh được nữa. Nỗi bàng hoàng, nỗi mất mát này là quá
lớn. Không những thế, anh còn phải chịu sự chỉ trích từ phía phụ huynh mặc dù
hoàn toàn không có điều gì chứng minh được rằng anh đã làm cho những đứa trẻ
nhiễm bệnh. Một mặt, Bucky phải loay hoay tìm mọi cách ngăn chặn dịch bệnh
tấn công những đứa trẻ, mặt khác, anh lại phải trải qua hết nỗi kinh hoàng này
đến nỗi hoang mang khác khi những đứa trẻ xung quanh anh cứ lần lượt ra đi
một cách kì lạ. Bucky Cantor hoàn toàn không thể làm gì để kéo giữ những đứa
trẻ ở sân chơi thoát khỏi bàn tay tử thần. Loay hoay, hoang mang, bất lực trước
nghịch cảnh, mệt mỏi, sợ hãi,… đó là cảm giác thường xuyên mà Bucky phải
chịu.
Những đứa trẻ chết là một bi kịch, và nó càng trở nên bi đát hơn trong mắt
một người thầy đầy trách nhiệm như Bucky Cantor. Không ai có thể bình tĩnh,
hoặc vô tình trước cái chết của những đứa trẻ vô tội, với Bucky lại càng không.
Chính Steinberg cũng đã khẳng định: “trách nhiệm của cháu nặng nề quá” bác
sĩ Steinberg nói chăm nom tất cả các cậu bé, đặc biệt vào thời điểm như thế này.
Bác đã hành nghề y hơn hai mươi lăm năm, vậy mà mỗi khi bị mất đi một bệnh
nhân, dù đó là bởi tuổi già, bác vẫn bị sốc. Dịch bệnh lần này hẳn là một gánh
nặng lớn đè lên vai cháu” [48, tr.92].
Đó chưa phải là tất cả những điều mà Bucky phải chịu đựng. Sự giằng xé
nội tâm là điều thường xuyên liên tục xảy ra ở anh. Sự giằng xé này ngày càng
trở nên nặng nề và dai dẳng theo thời gian. Ban đầu, Bucky vừa muốn ở lại
97
Newark vừa muốn đến Idian Hill để rời xa vùng dịch. Sau đó, anh quyết định bỏ
việc, bỏ lũ trẻ đang trong cơn hoảng loạn để đến với khu nghỉ dưỡng Idian Hill
yên bình.. Anh đã tự trách bản thân rất nhiều về điều này, bởi đó là hành động đi
ngược lại lí tưởng sống của anh - lí tưởng trở thành người giúp đỡ kẻ khác bằng
sức mạnh và sự can đảm của mình… Sự day dứt của anh gắn liền với hình ảnh
của Chúa: “Anh bị day dứt bởi ý nghĩ vì sao những ngả đường đời phân li đến
thế và vì sao mỗi người chúng ta bất lực đến thế khi phải đối mặt với hoàn cảnh.
Vai trò của Chúa ở đâu trong chuyện này? Tại sao Người ném một người xuống
châu Âu nơi lũ phát – xít chiếm đóng với súng trường trong tay và ấn người
khác vào nhà ăn của Idian Hill với một đĩa mì ống sốt phô mai trước mặt? Tại
sao người lại đặt một đứa trẻ Weequahic vào Newark đầy bại liệt trong mùa hè
còn một đứa khác thì ở nơi trú ẩn nguy nga Pocono?” [48, tr.138]. Philip Roth
thường dùng những tràng độc thoại nội tâm của nhân vật để nói lên những ấm
ức mà nhân vật buộc phải gánh chịu. Chỉ có tiếng nói của chính Bucky, của
người đích thân trải nghiệm những đau khổ, bất công mới là tiếng nói xác thực
và có chiều sâu cảm xúc nhất. Đây là thủ pháp chủ yếu được nhà văn sử dụng
trong tiểu thuyết này để khắc họa kiểu con người chịu đựng ở Bucky Cantor.
Càng về cuối tiểu thuyết, nhân vật Bucky Cantor càng hà khắc hơn với
chính mình, càng khổ sở nhiều hơn vì mặc cảm tội lỗi. Mặc cảm rời bỏ sân chơi
Chancellor đã bị lấn át bởi nỗi đau, sự sợ hãi bệnh bại liệt đang xảy ra với bản
thân anh. Và sau này, vì bệnh bại liệt mà Bucky không bao giờ có sự yên ổn nội
tâm trong suốt quãng đời còn lại. Anh luôn bị ám ảnh bởi cảm giác mình là kẻ
lây bệnh bại liệt cho những đứa trẻ ở sân chơi: “Tôi muốn giúp bọn trẻ và khiến
chúng mạnh khỏe (…) vậy mà thay vào đó tôi lại khiến chúng thương tật vĩnh
viễn. Đấy là ý nghĩ đã biến mấy thập niên của thầy thành sự âm thầm chịu đựng,
chàng Bucky của ngày xưa không hề đáng phải chịu đựng nỗi dày vò như vậy”
[48, tr.242]. Tiểu thuyết Báo ứng chứng minh cho quan niệm của Roth – một
quan niệm đã được phát biểu trong Pastoral American, 1997: “Sống không phải
98
là bắt người ta làm mọi thứ cho đúng đắn. Sống là để họ mắc sai lầm, sai lầm,
sai lầm và sau khi xem xét cẩn thận, lại để họ tiếp tục mắc sai lầm. Đó là cách
chúng ta nhận thấy mình đang sống: chúng ta mắc sai lầm”. Cũng giống như
quan niệm của Goethe: “Phàm con người còn dấn bước là còn gặp bước sai lầm”
(Bi kịch Faust). Chịu đựng sai lầm, đau khổ vì nó rồi lại dấn bước vượt qua sai
lầm này để bắt đầu một sai lầm khác, đó là cách con người đang sống. Camus và
Roth đã nêu lên hai mặt trong cuộc sống của con người: chịu đựng và dấn thân.
Không chỉ khắc họa con người chịu đựng của Bucky qua độc thoại nội
tâm, Philip Roth còn thể hiện đặc tính này ở nhân vật qua ngoại hình: “Trên cơ
thể chắc nịch của thầy là chiếc đầu lớn với những đường nét gồ ghề, vát cạnh:
gò má rộng, trán cao, quai hàm vát, một cái mũ thẳng và cao khiến thầy trông
khác nào một chân dung dập nổi trên các đồng xu. Thầy Cantor có cặp môi đầy
đặn, sắc cạnh hệt như cơ bắp, một nước da ngâm ngâm quanh năm. Từ thuở
thiếu thời, thầy đã để đầu đinh – kiểu tóc của lính (…) Tất cả đường nét góc
cạnh trên gương mặt thầy đã tạo cho cặp mắt màu khói xám sau gọng kính – đôi
mắt dài và hẹp như người Á châu – một cái nhìn sâu thẳm, dù hốc mắt thầy
không thật sâu. Giọng nói phát ra từ khuôn mặt cá tính ấy, thật kinh ngạc, lại
hơi chói tai, những điều này không hề làm giảm đi vẻ ấn tượng trong diện mạo
của thầy. Đó chính là khuôn mặt cứng cỏi, cam chịu, sắc sảo của một thanh
niên cường tráng, khỏe mạnh mà người ta hoàn toàn có thể trông cậy” [48,
tr.19].
Tóm lại, cũng như các nhân vật trong Dịch hạch, Bucky Cantor trong Báo
ứng thuộc kiểu con người chịu đựng. Đó là sự chịu đựng những cái phi lí trong
cuộc sống mà bất kì ai dù cách này hay cách khác đều không thể nào tránh khỏi.
Qua việc xây dựng hình tượng các nhân vật – kiểu con người chịu đựng, Camus
và Roth đã giúp chúng ta hình dung được thân phận con người trong cuộc đời
này. Tất cả chúng ta đều là một Sisyphe miệt mài lăn đá, dù biết rằng đây là một
công việc vất vả nhưng bắt buộc vẫn phải gánh trên vai tảng đá nặng nề mang
99
tên phi lí này. Hành động lăn đá là phi lí, công việc lăn đá hoàn toàn không có
niềm vui vì như trong huyền thoại, đến cuối ngày, tảng đa lại bị lăn trở xuống
núi, và sáng hôm sau, nhân vật phải bắt đầu công việc như cũ. Kiếp sống của
con người, của các nhân vật trong hai tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng cũng
không khác gì nhiều so với công việc lăn đá của Sisyphe trong huyền thoại.
Cuối cuộc hành trình, họ vẫn là những kẻ “phủi tay về không”, bỏ lại tất cả cho
cuộc đời hư vô,… nhưng đã làm người thì phải chịu đựng điều đó. Từ các nhân
vật trong hai tiểu thuyết, ta có cái nhìn khái quát về những con người trong cuộc
đời này, mỗi chúng ta cũng chỉ là một kiểu mẫu con người chịu đựng định mệnh
khắc nghiệt của những cái phi lí trong cuộc đời. Từ chịu đựng đến dấn thân là cả
một quá trình phấn đấu và tiến bộ trong nhận thức của con người được nhà văn
thể hiện một cách sinh động trong tiểu thuyết.
Nếu như Camus khắc họa kiểu con người chịu đựng trong tác phẩm của
mình qua lời thoại của các nhân vật, lời nhận xét của nhân vật này đối với nhân
vật khác, những cuộc đối thoại triết học thì Philip Roth lại chú ý vào những suy
nghĩ, những lời độc thoại nội tâm của nhân vật, bên cạnh đó, ngoại hình nhân
vật cũng được nhà văn miêu tả chi tiết, làm nổi bật lên kiểu con người này ở
nhân vật. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu một ý nghĩa khái quát mà hai nhà văn
muốn thể hiện khi xây dựng kiểu nhân vật này, đó không đơn thuần chỉ là sự
miêu tả thông thường về cuộc đời, số phận của các nhân vật, mà đó là hình ảnh
con người nói chung trong cuộc đời phi lí.
Có sự khác biệt trong kiểu nhân vật này ở hai tác phẩm. Nếu các nhân vật
trong Dịch hạch như Rieux, Tarou, Rambert,…chỉ chịu đựng những cái phi lí
bên ngoài mình, do nó áp vào mình thì nhân vật trong Báo ứng lại có thêm sự
chịu đựng những day dứt, dằn vặt trong nội tâm do chính suy nghĩ của nhân vật,
nhân vật còn gậm nhấm sự đổ vỡ của chính mình. Nhân vật Tarou và Bucky
giống nhau ở việc đều muốn trở thành một vị thánh không Chúa để cứu giúp
cộng đồng. Tuy nhiên, nếu Tarou bình tĩnh chịu đựng cái chết với thái độ thanh
100
thản thì nhân vật Bucky Cantor không thể tìm được sự thanh thản ấy, ngược lại,
dù không phải gánh chịu cái chết nhưng anh còn đau khổ gấp bội vì anh không
thể giúp ai, anh còn hại họ nhiễm bệnh. Có thể nói, cảm giác phi lí dường như
ngày càng trở nên nặng nề hơn theo thời gian. Bucky Cantor phải sống để nhận
lấy trách nhiệm làm người, vừa chịu đựng, vừa can đảm đối diện với nó. Nhân
vật Rieux tìm được sự an ủi trong đám đông hò reo và ngày càng hòa vào đám
đông, nhân vật Bucky thì cô đơn, loay hoay trong hành trình của mình… Đó là
sự khác biệt lớn có thể do thời đại khác nhau, con người ngày càng thấm thía
hoàn cảnh phi lí của mình, đơn thương độc mã trên cuộc chiến với số phận.
Tiểu kết chương 3
Như vậy, nhân vật trong Dịch hạch và Báo ứng là kiểu con người vừa dấn
thân vừa chịu đựng. Cuộc đời có muôn vàn những bất hạnh, nghịch lí, ngang
trái, thận phận làm người có lắm éo le, đau khổ lẫn trớ trêu, nó buộc tất cả chúng
ta phải chịu đựng nó. Sự chịu đựng của các nhân vật trong hai tác phẩm trước
thảm họa dịch bệnh chính là sự chịu đựng của con người trong cuộc đời phi lí.
Chấp nhận làm người, tức là chấp nhận sống chung với cái phi lí. Tuy nhiên, qua
hình tượng các nhân vật dấn thân, cả Camus và Roth muốn chúng ta hình dung
rõ một điều rằng, giữa muôn ngã phân li ngang trái của cuộc đời, giữa những
bất hạnh, khổ đau mà cuộc đời phi lí mang lại, con người không được phép
buông xuôi hay phó mặc, mà ngược lại, tất cả chúng ta phải không ngừng chiến
đấu để khẳng định giá trị, khẳng định vị trí của mình trong vũ trụ. Dù biết rằng
thắng lợi là tạm thời, nhưng qua mỗi thắng lợi, chúng ta lại tiến lên thêm một
bậc. Hai tác phẩm là lời khẳng định thân phận đầy bi đát nhưng cũng rất ngoan
cường của con người, khẳng định niềm tự hào khi được làm một con người. Kết
thúc Dịch hạch là sự chiến thắng ngẫu nhiên của của con người sau thời gian
chống dịch hạch, kết thúc Báo ứng là những suy tư, day dứt về thân phận làm
người ở nhân vật Bucky Cantor, và đoạn kết thúc với vẻ đẹp và sức mạnh của
thầy Cantor lúc chưa nhiễm bệnh chính là niềm tự hào về hình ảnh con người:
101
“Chiều ấy, thầy thực hiện nhiều lần các màn phóng lao, lần nào cũng gọn gàng
và đầy uy lực, mỗi cua phóng đều kèm theo một tiếng hét và một tiếng gừ trong
họng; và lần nào, điều khiến chúng tôi phấn khích là, lần ném sau đều tiếp đất
xa hơn lần ném trước vài mét. Chạy đà cùng cây lao giơ trên cao, cánh tay cầm
lao đưa sâu ra đằng sau, rồi vung mạnh ra phía trước và buông cho ngọn lao
bay đi tạo nên một đòn tấn công sấm sét – trong mắt chúng tôi thầy dường như
bất khả chiến bại” [48, tr.249].
Qua nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Dịch hạch và Báo ứng, ta thấy sự
gặp gỡ trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết của ở hai nhà văn này. Ở nghệ
thuật xây dựng nhân vật, sự gặp gỡ ấy có thể giải thích được là do sự gần gũi
trong tư tưởng, thời đại. Sự khác nhau có thể đến từ phong cách riêng của mỗi
nhà văn, hoàn cảnh riêng của mỗi tác giả. Chính sự khác nhau này đã làm nên sự
phong phú, da dạng cho đề tài dịch bệnh trong cách xây dựng tiểu thuyết, trong
sự chuyển tải thông điệp của nhà văn.
102
KẾT LUẬN
Trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết, cuộc gặp gỡ đã xảy ra giữa Dịch
hạch của Albert Camus và Báo ứng của Philip Roth. Qua nghiên cứu đề tài
Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết trong “Dịch hạch” của Albert Camus và
“Báo ứng” của Philip Roth, chúng tôi rút ra được những kết luận như sau:
1. Ẩn dụ dịch bệnh treo lơ lửng, gợi ra con đường đi đến những vấn đề
đầy bi đát đối với con người như chiến tranh, nạn phân biệt chủng tộc, những
rào cản tự do, những khiếm khuyết tinh thần. Ngọn nguồn sáng tạo của những
vấn đề đó xuất phát từ mô hình quan niệm về con người và thế giới của hai nhà
văn: cái phi lí và những nỗi ám ảnh. Từ đây, phong cách tiểu thuyết của Albert
Camus và Philip Roth có dịp tự soi vào nhau và tỏa sáng, tạo nên những “dòng
riêng” giữa “nguồn chung”.Việc chọn cùng một đề tài đã cho thấy Albert Camus
và Philip Roth có cùng một khuynh hướng tư tưởng, một kiểu quan niệm trong
sáng tạo nghệ thuật. Từ việc đặt hai tác phẩm có cùng một khuynh hướng tư
tưởng, cùng đề tài bên cạnh nhau để so sánh, điều mong muốn của chúng tôi
không gì hơn ngoài việc tìm ra sự gặp gỡ trong văn học của hai quốc gia thuộc
châu Mĩ và châu Âu trong cùng một bối cảnh rối ren sau hai cuộc chiến tranh thế
giới. Song chính từ xuất phát điểm chung ấy, hai tác phẩm lại tự thể hiện, khẳng
định được giá trị độc đáo tự thân, mang nét đặc trưng cho phong cách của hai
nhà văn ở hai đất nước khác nhau, hai nền văn hóa khác nhau. Cái này góp phần
soi sáng cái kia.
2. Điểm đến chung nhất của cốt truyện tiểu thuyết đó là từ những vấn đề
cụ thể, phản ánh được những điều khái quát, mang tầm nhân loại. Không đi vào
trò chơi cầu kì của kĩ thuật tiểu thuyết, không thủ tiêu cốt truyện như những nhà
tiểu thuyết Mới nhưng Dịch hạch của Albert Camus và Báo ứng của Philip Roth
vẫn chinh phục được người đọc, gợi liên tưởng đến những vấn đề đáng suy
ngẫm của con người trong kiếp nhân sinh trôi nổi. Thành công đó đến từ cốt
cách của ngòi bút bậc thầy, từ sự thấm nhuần của tư tưởng, triết lí trong từng chi
103
tiết, tình huống, trong cách kết thúc truyện. Điểm cuốn hút trong cốt truyện của
Albert Camus và Philip Roth còn đến từ sức mạnh của sự giản dị trong lối viết,
sự sâu sắc trong tư tưởng. Giữa một thế giới đầy những màu sắc và cung bậc rối
rắm, giữa những ngổn ngang của sự cách tân thể loại, sự hoảng loạn trong tâm
thức con người sau chiến tranh, cốt truyện tiểu thuyết của hai tác giả tiêu biểu
Âu, Mĩ vẫn đứng vững và có sức lay động lòng người bởi nó nói đến được
những vấn đề sâu kín nhất của con người bằng những gì giản dị và chân thành
nhất. Cái hay trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng là ở
đó.
3. Hai kiểu nhân vật – con người chịu đựng và con người dấn thân là kết
quả của hai mô hình quan niệm về con người, về thế giới của Albert Camus và
Philip Roth. Cái phi lí và những nỗi ám ảnh hiện diện trong Dịch hạch và Báo
ứng, không thể tách rời hai quan niệm này trong sáng tác của mỗi nhà văn mà
chỉ có thể nhận thấy rằng, mỗi tác giả nghiêng về quan niệm này nhiều hơn quan
niệm kia mà thôi (Camus nghiêng về cái phi lí, Roth thì nghiêng về những nỗi
ám ảnh). Mỗi kiểu nhân vật trong hai tác phẩm chính là sự đề xuất cách phản
ứng/ứng xử mang tính thời đại của hai nhà văn. Kiểu con người dấn thân là kết
quả của quan niệm về cái phi lí, kiểu con người chịu đựng là kết quả của cái
nhìn mang đầy những nỗi ám ảnh về cuộc sống. Albert Camus và Philip Roth
đưa ra thực trạng: con người luôn phải chịu đựng, luôn bị ám ảnh bởi những
điều phi lí. Tuy nhiên, cách phản ứng/ ứng xử ở mỗi nhà văn đối với cái phi lí lại
khác nhau: Albert Camus chọn cách dấn thân hết mình, chiến đấu đến cùng, dù
biết rằng những chiến thắng của con người bao giờ cũng là tạm thời trong khi
Philip Roth lại chọn thái độ cay đắng tuyệt vọng trước những điều con người
không kiểm soát nổi, nếu có dấn thân thì cũng chỉ là một sự dấn thân nửa vời,
không đến nơi đến chốn. Từ đó cho thấy, thế giới càng hiện đại, con người càng
không tìm được chỗ đứng cho mình. Từ cốt truyện Dịch hạch đến cốt truyện
Báo ứng là cả một tiến trình lịch sử nhận thức của con người từ thế kỉ XX đến
104
thế kỉ XXI. Thời của Albert Camus, người ta ít nhất vẫn tìm được cho mình một
cách ứng phó tích cực trước thời cuộc, đến thời Philip Roth (thế kỉ XXI), dù dấn
thân hành động đến bao nhiêu chăng nữa thì thế giới vẫn đáp trả lại cho con
người bằng sự dửng dưng, vô tình, không có cái gọi là “thắng lợi tạm thời” như
trong Dịch hạch; tất cả mọi thứ chỉ là tuyệt vọng.
Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng có điểm chung là
cùng xuất phát từ tư tưởng (dưới dạng một thứ mô hình). Cách lựa chọn đề tài,
xây dựng cốt truyện, nhân vật đều chịu sự chi phối của quan niệm về cái phi lí
và những nỗi ám ảnh; Albert Camus là thế và cả ở Philip Roth cũng thế. Những
điểm chung trong nghệ thuật xây dựng hai tiểu thuyết có nguyên nhân từ việc
gặp nhau về mặt tư tưởng, hoàn cảnh ở hai tác giả. Philip Roth và Albert Camus
đều là những nhà văn chịu sự đỗ vỡ trong hôn nhân, sống lưu vong, đều đã từng
tham gia chiến tranh,…Bên cạnh đó, thời đại mà Albert Camus và Philip Roth
sống cũng có những điểm giống nhau nhất định: đều nằm trong thời kì hậu chiến
tranh thế giới, đều thừa hưởng thành tựu và chịu hậu quả của sự tiến bộ khoa
học kĩ thuật công nghệ.
Tuy nhiên, mỗi nhà văn đều thể hiện được những nét độc đáo riêng trong
nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết của mình, bằng tinh thần tiểu thuyết của thời đại
và tài năng của cá nhân nhà văn. Philip Roth có một giọng văn hài hước, hóm
hỉnh, mang màu sắc châm biếm và chứa chan cảm xúc; trong khi đó, giọng văn
của Camus dường như đến từ tiếng nói của lí trí, sắc sảo, trí tuệ, mang tính triết
lý cao: Albert Camus – nhà tiểu thuyết của triết lý, còn Philip Roth là của cảm
xúc - nhận thức.
Như vậy, luận văn đã chỉ ra được những nét tương đồng và dị biệt trong
nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Dịch hạch của Albert Camus và Báo ứng của
Philip Roth, đồng thời lí giải nguyên nhân dẫn đến những điểm tương đồng, dị
biệt đó. Chúng tôi hi vọng luận văn có thể mở ra được một hướng tiếp cận tác
105
phẩm của hai nhà văn ở Việt Nam, đặc biệt là tác phẩm của Philip Roth bởi tiểu
thuyết của ông vẫn chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam.
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia,
Hà Nội.
2. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn
và dịch, Nxb Hội nhà văn.
3. Brunel, Partrick (2006), Văn học Pháp thế kỷ XX, Nguyễn Văn Quảng dịch,
Nxb Thế giới.
4. Lê Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại lí thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại
học Sư phạm.
5. Lê Huy Bắc (2003) (tuyển chọn và giới thiệu), Truyện ngắn hậu hiện đại,
Nxb Hội nhà văn.
6. Camus, Albert. (2002), Dịch hạch, Nguyễn Trọng Định dịch, Nxb Văn học.
7. Camus, Albert. (1965), Kẻ xa lạ, Dương Kiền – Bùi Ngọc Dung dịch, Nxb
Văn học.
8. Camus, Albert (1995), Sa đọa, Trần Thiện Đạo dịch, Nxb Hội Nhà Văn.
9. Camus, Albert (2006), Ngộ nhận, Bùi Giáng dịch, Nxb Văn nghệ.
10. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Đào Ngọc Chương (2003), Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của Ernest
Hemingway, Nxb Văn hóa thông tin.
12. Đào Ngọc Chương (2010), Truyện ngắn dưới ánh sáng so sánh, Nxb Văn
hóa thông tin.
13. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Dân (2002), Văn học phi lí, Nxb Văn hóa thông tin, Trung tâm
Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
15. Lê Tiến Dũng (2002), Giáo trình Lí luận văn học – Phần tác phẩm văn học,
Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
107
16. Nguyễn Tiến Dũng (2006), Chủ nghĩa hiện sinh – Lịch sử, sự hiện diện ở
Việt Nam, Nxb Trung Học, Tp. Hồ Chí Minh.
17. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,
Nxb Giáo Dục.
18. Trần Thiện Đạo (2001), Chủ nghĩa hiện sinh và Thuyết cấu trúc, Nxb Văn
học.
19. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
20. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học hiện sinh, NxbVăn học.
21. Lưu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, Tập 3, Nxb Chính
trị quốc gia.
22. Hà Minh Đức chủ biên (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
23. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Gulaiep, N.A. (1982), Lý luận văn học, Lê Ngọc Tân dịch, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
25. Lê Bá Hán (chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học – vấn đề
và suy nghĩ, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
27. Đỗ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, Nxb Văn học,
Hà Nội.
28. Trần Hinh (2005), Tiểu thuyết A.Camus trong bối cảnh tiểu thuyết Pháp thế
kỉ XX, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
29. Tô Hoài (1977), Sổ tay viết văn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
30. Đinh Thị Thanh Huyền (2008), Biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết của
Albert Camus, Đại học Sư phạm Hà Nội.
108
31. Nguyễn Thị Thu Hương (2013), Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết
“Kẻ xa lạ” của Albert Camus và “Thất lạc cõi người” của Dazai
Osamu, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
32. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn
học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Kundera, Milan. (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Đà
Nẵng.
34. Đinh Trọng Lạc (1994), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
35. Lốtman, I.U. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
36. Phương Lựu (1995), Tìm hiểu lí lụân văn học phương Tây hiện đại, Nxb
Văn học.
37. Phương Lựu (1999), Mười trường phái văn học đương đại phương Tây,
Nxb Giáo Dục.
38. Phương Lựu (2001), Lý luận phê bình văn học Phương Tây thế kỷ 20, Nxb
Văn học.
39. Lyotard, Jean Francois. (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch),
Nxb Tri thức.
40. Nadeau, Maurice. (2002), Tiểu thuyết Pháp từ thế chiến thứ hai, Nxb
Văn học.
41. Hoàng Nhân (1995), Nhận định văn học phương Tây hiện đại, Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
42. Nhiều tác giả (2001), Về một dòng văn chương, Nxb Văn nghệ Thành phố
Hồ Chí Minh.
43. Nhiều tác giả (2009), Văn học phương Tây, Nxb Giáo Dục.
44. Nhiều tác giả (1983), Số phận của tiểu thuyết, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà
văn Việt Nam.
109
45. Nhiều tác giả (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới những vấn đề lí thuyết,
Nxb Hội nhà văn, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông – Tây.
46. Pospelov, G.N chủ biên (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Tập 1 &2,
Trần Đình Sử, Lại nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch, Nxb
Giáo Dục.
47. Ngô Như Quỳnh (2009), Nghệ thuật tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió” của
Margaret Mitchell, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
48. Roth, Philip. (2013), Báo ứng, Hà Nguyễn, Sao Mai dịch, Nxb Trẻ.
49. Roth, Philip. (2011), Người Phàm, Thùy Vũ dịch, Nxb Văn học.
50. Roth, Philip, Chia tay thôi, Columbus, Phạm Viêm Phương dịch.
51. Sartre, J.P. (1999), Văn học là gì, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội nhà văn.
52. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng văn học phương tây hiện đại, Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội
53. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học một số vấn đề lí luận và lịch sử,
Phần 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
54. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học một số vấn đề lí luận và lịch sử,
Phần 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
55. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn.
56. Tập thể tác giả (2001), Văn học so sánh – Lý luận và ứng dụng, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
57. Tập thể tác giả (2003), Văn học so sánh – nghiên cứu và dịch thuật, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
58. Lưu Mai Tâm (2009), Chủ nghĩa hiện sinh trong một số tiểu thuyết và
truyện ngắn của Albert Camus, Đại học Vinh.
59. Lộc Phương Thủy (chủ biên), (2005), Quan niệm văn chương Pháp thế kỷ
XX, Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Hoàng Trinh (1999), Văn học phương Tây và con người, Nxb Hội nhà văn.
61. Liễu Trương (2007), Tiếp cận Văn học Pháp, Nxb Văn học.
110
62. Phùng Văn Tửu (2001), Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỉ XXI, Nxb Thành
Phố Hồ Chí Minh.
63. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại những tìm tòi đổi mới,
Nxb Khoa học Xã hội.
64. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nxb
Tri thức.
65. Aarons, Victoria, Expelled Once Again: The Failure of
Tiếng Anh
the
Fantasized Self in Philip Roth’ Nemesis, Philip Roth Studies,
66. O’Brien, C.C. (1970), Camus, James’s place, London.
Purdue University Press, pp.51-63.
67. O’Brien (2000), Albert Camus the Myth of Sisyphus, Penguin Books
68. Roth, Philip (2010), Nemesis, Houghton Mifflin Harcourt.
69. Royal, Derek Parker (2005), Philip Roth - New Perspective on an
Group, New York .
70. Safer, Elaine B. (2006), Mocking the age – The later novels of Philip
American Author, Praeger.
71. Safer, Elaine B. (2010), Philip Roth’s Postmodern American
Roth, State Univ of New York Pr.
Romance, Peter Lang International Academic Publishers.
Tiếng Pháp
72. Camus, Albert (2008), La Peste, Folioplus Classiques.
73. Fitch, B.T. (1972), L’étranger d’Albert Camus - un texte, ses lecteurs et leur
lectures, Larousse.
74. Gaillard, P. (1972), La Peste de Camus, Hatier.
75. Lagarde, Michard (1988), XXe siecle: Les grands auteurs Francais, Bosdas,
Paris.
76. Lupée, R.D. (1984), Albert Camus, Editions Universitaires, Paris.
111
Các trang web
77. http://www.truyenngan.com.vn/tieu-thuyet/tieu-thuyet-phuong-tay/341-
chia-tay-thoi-columbus.html
78. http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id
=4752%3Ami-quan-h-gia-ngi-k-chuyn-va-ct-truyn-trong-tiu-thuyt-nam-
b-u-th-k-xx&catid=63%3Avn-hc-vit-nam&Itemid=106&lang=vi
79. http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=1428
80. http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=504#more-504
81. http://vannghequandoi.com.vn/802/news-detail/480905/chan-dung/philip-
roth-%E2%80%93-nguoi-nghe-si-tuyet-vong.html
82. http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/nha-van-philip-roth-nghe-van-
cung-can-giai-nghe-n20121112085411263.htm
83. http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id
=4382%3Akhi-ngi-ta-gia&catid=64%3Avn-hc-nc-ngoai-va-vn-hc-so-
sanh&Itemid=108&lang=vi
84. http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id
=16013
85. http://tuoitre.vn/tuoi-tre-cuoi-tuan/van-hoa-nghe-thuat/566237/khi-nguoi-
viet-la-ngon-su.html
86. http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id
=16020
87. http://antgct.cand.com.vn/vi-vn/sotay/2013/9/56915.cand
88. http://sachxua.net/forum/index.php?topic=14191.0
89. http://newvietart.com/index4.764.html
90. http://mobi.vietbao.vn/The-gioi/The-gioi-tuong-niem-60-nam-nan-Diet-
chung-Do-thai/20370352/159/
112
91. http://en.wikipedia.org/wiki/Philip_Roth
92. http://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=130307925
93. http://www.telegraph.co.uk/culture/books/bookreviews/8034348/Nemesis-
by-Philip-Roth-review.html
94. http://contemporarylit.about.com/od/memoir/fr/Roth-Unbound.htm
95. http://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=130566223
96. http://de.wikipedia.org/wiki/Nemesis_%28Philip_Roth%29
97. http://m.voatiengviet.com/a/916767.html
98. http://www.cbsnews.com/news/philip-roth-on-fame-sex-and-god/