BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thiên Nhân

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TIỂU THUYẾT

TRONG DỊCH HẠCH CỦA ALBERT CAMUS

VÀ BÁO ỨNG CỦA PHILIP ROTH

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thiên Nhân

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TIỂU THUYẾT

TRONG DỊCH HẠCH CỦA ALBERT CAMUS

VÀ BÁO ỨNG CỦA PHILIP ROTH

Chuyên ngành : Văn học nước ngoài

Mã số

: 60 22 02 45

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ văn học với đề tài “Nghệ thuật xây dựng

tiểu thuyết Dịch hạch của Albert Camus và Báo ứng của Philip Roth” là công

trình nghiên cứu khoa học của riêng cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng

dẫn khoa học của PGS.TS. Đào Ngọc Chương. Nội dung luận văn chủ yếu trình

bày những kết quả rút ra được từ quá trình nghiên cứu khoa học của bản thân và

không trùng lặp với các đề tài khác. Bên cạnh đó, luận văn có tham khảo và sử

dụng các tài liệu, thông tin được đăng tải trên các ấn phẩm sách, báo, tạp chí

TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014.

Tác giả

Trần Thiên Nhân

khoa học, và website theo danh mục tài liệu tham khảo.

LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, tôi xin kính gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến PGS.TS

Đào Ngọc Chương, người đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm

luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến quí thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn

đã dành thời gian đọc, chỉnh sửa và đóng góp ý kiến giúp cho luận văn

của tôi được hoàn chỉnh hơn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến quí thầy cô trong khoa Văn của trường Đại

học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và những thầy cô đã trực tiếp giảng

dạy, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm quí báu cho tôi trong suốt quá trình

học tập tại trường.

Tôi xin cảm ơn các quí thầy cô phòng Sau đại học của của trường Đại

học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi

hoàn thành chương trình học và thực hiện luận văn này

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã động viên,

tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.

Trần Thiên Nhân

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

Chương 1. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG ĐỀ TÀI – BỆNH DỊCH

NHƯ MỘT ẨN DỤ ....................................................................... 10

1.1. Bệnh dịch - ẩn dụ cho thảm họa chiến tranh ............................................. 13

1.2. Bệnh dịch - ẩn dụ cho những khiếm khuyết về mặt tinh thần .................. 18

1.3. Bệnh dịch - ẩn dụ cho sự kì thị chủng tộc ................................................. 21

1.4. Dịch bệnh - ẩn dụ cho những rào cản tự do .............................................. 26

Chương 2. SỰ CHI PHỐI CỦA QUAN NIỆM PHI LÝ VÀ NHỮNG

NỖI ÁM ẢNH ĐỐI VỚI NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG

CỐT TRUYỆN DỊCH HẠCH VÀ BÁO ỨNG ............................ 29

2.1. Quan niệm của Camus và Roth về cái phi lí và nỗi ám ảnh ..................... 35

2.1.1. Cái phi lí .............................................................................................. 35

2.1.2. Nỗi ám ảnh .......................................................................................... 39

2.2. Sự chi phối của quan niệm phi lí đối với nghệ thuật xây dựng cốt

truyện Dịch hạch và Báo ứng ................................................................... 42

2.3. Sự chi phối của những nỗi ám ảnh đối với nghệ thuật xây dựng cốt

truyện Dịch hạch và Báo ứng ................................................................... 60

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 71

Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT – KIỂU CON

NGƯỜI DẤN THÂN VÀ CHỊU ĐỰNG ..................................... 73

3.1. Kiểu con người dấn thân – dấn thân chống lại cái phi lí .......................... 75

3.2. Kiểu con người chịu đựng - chịu đựng cái phi lí ...................................... 88

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 100

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 102

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 106

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Albert Camus (1913 – 1960) là nhà văn nổi tiếng của Pháp thế kỉ XX (nhà

văn Algieria sống trên đất Pháp). Ông đoạt giải Nobel năm 1957 với nhiều tác

phẩm trong đó có tiểu thuyết Dịch hạch. Ông là nhà văn có tầm ảnh hưởng lớn,

rất được quan tâm nghiên cứu ở Pháp và trên thế giới.

Philip Roth (1933) (nhà văn Mĩ gốc Do Thái) cũng là nhà văn đoạt nhiều

giải thưởng văn học (hai lần giải thưởng Sách Toàn Quốc, giải thưởng của giới

phê bình sách toàn quốc, ba lần giải thưởng Pen/Faulkner, đoạt giải của Hiệp hội

Sử gia Hoa Kì với tác phẩm The Plot Against America, hai giải thưởng cao quý

nhất thuộc hệ thống giải Văn học Pen: Pen/Nabokov và Pen/Bellow, giải Man

Booker quốc tế, giải Pulitzer,… là tiểu thuyết gia người Mĩ được phát hành toàn

tập tác phẩm ngay khi còn sống). Ông là nhà văn rất được quan tâm ở Mĩ. Tuy

nhiên, ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về Philip Roth còn hạn chế. Tiểu thuyết

Báo ứng được Philip Roth cho là tiểu thuyết cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác

của ông. Nghiên cứu Philip Roth ở Việt Nam là một công việc có ý nghĩa và

thú vị.

Dù là hai nhà văn thuộc hai quốc gia khác nhau, tuy nhiên, giữa Roth và

Camus lại có những điểm tương đồng khi dùng bệnh dịch làm ẩn dụ trong tác

phẩm để nói lên nhiều điều trong cuộc sống con người, đặt ra những vấn đề

khiến chúng ta phải suy nghĩ. Mặc dù một tác phẩm thuộc thế kỉ XX (Dịch

hạch), một tác phẩm thuộc thế kỉ XXI (Báo ứng), nhưng sự gặp gỡ giữa hai tác

phẩm là một điều không thể phủ nhận. Chính điều đó đã thôi thúc chúng tôi

nghiên cứu đề tài này. Từ việc nghiên cứu, tác giả luận văn hi vọng sẽ rút ra

được một cái nhìn hệ thống về nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết trong hai tác

phẩm này, thấy được những điểm gặp gỡ thú vị giữa hai nhà văn, sự độc đáo

trong bút pháp thể hiện của mỗi tác giả. Đồng thời, nghiên cứu Philip Roth và

2

Albert Camus, tác giả luận văn cũng hi vọng sẽ góp được một phần, dù là khiêm

nhường, đến việc tiếp nhận ở Việt Nam đối với tác phẩm của hai nhà văn.

Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết

trong “Dịch hạch” của Albert Camus và “Báo ứng” của Philip Roth để

nghiên cứu.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của đề tài là ở hai tiểu thuyết:

Dịch hạch (Albert Camus) và Báo ứng (Philip Roth).

Về tác phẩm Dịch hạch của Camus, hiện ở Việt Nam có những bản dịch

sau:

Dịch hạch, Hoàng Văn Đức dịch, Nxb Thời Mới, 1966

Dịch hạch, Võ Văn Dung dịch, Nxb Dịch Giả, 1971

Dịch hạch, Nguyễn Trọng Định dịch và giới thiệu, Nxb. Văn Học, 1989;

2002.

Trong luận văn này, chúng tôi chọn bản dịch của Nguyễn Trọng Định để

khảo sát, bên cạnh đó, chúng tôi cũng chú ý so sánh với nguyên tác La Peste ở

những chỗ cần thiết.

Về tiểu thuyết Báo ứng của Philip Roth, chúng tôi dùng bản dịch của Hà

Nguyễn, Sao Mai, Nxb Trẻ, 2013. Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi

cũng sẽ lưu ý khảo sát nguyên bản Nemesis bằng tiếng Anh.

Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài ở việc tìm hiểu nghệ

thuật xây dựng tiểu thuyết trong hai tác phẩm Dịch hạch (Albert Camus) và Báo

ứng (Philip Roth). Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng sẽ liên hệ, so

sánh với những tác phẩm khác của hai nhà văn, của các tác giả khác để có thể

đưa ra những kết luận xác đáng.

3

3. Lịch sử vấn đề

3.1. Về Albert Camus và tiểu thuyết Dịch hạch

Tác phẩm của Albert Camus từ lâu đã xuất hiện khá nhiều trong văn học

Việt Nam. Tác phẩm đầu tiên được dịch ra tiếng Việt của Albert Camus là

Người đàn bà ngoại tình được Nguyễn Văn Trung giới thiệu vào cuối năm 1960.

Sau tác phẩm này, suốt giai đoạn từ 1963 – 1973, đã có khoảng 16 bản dịch các

tác phẩm của Albert Camus tại Việt Nam.

Trong các công trình nghiên cứu về Albert Camus và tiểu thuyết Dịch hạch

,đáng chú ý nhất có thể kể đến công trình Tiểu thuyết A. Camus trong bối

cảnh tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX của Trần Hinh. Ngoài ra, trong một số các

công trình khác, cuộc đời, tư tưởng, đặc điểm sáng tác nổi trội trong một vài tác

phẩm của Albert Camus cũng được các tác giả nêu lên một cách khái quát. Có

thể kể đến các công trình như: Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XX - Truyền thống và

cách tân (Lộc Phương Thủy), Tiểu thuyết Pháp hiện đại - những tìm tòi đổi

mới (Phùng Văn Tửu), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại

(Đặng Anh Đào), Lịch sử văn học Pháp thế kỉ XX (nhiều tác giả), Văn học

phi lí (Nguyễn Văn Dân), Văn học phương Tây (nhiều tác giả).

Ở đây, tác giả luận văn chỉ lưu ý đến những công trình có liên quan trực

tiếp đến nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Dịch hạch của Albert Camus.

Trong Tiểu thuyết A. Camus trong bối cảnh tiểu thuyết Pháp thế kỉ

XX, Trần Hinh đã nói đến phương thức kể chuyện “nước đôi” trong Dịch hạch.

Tác giả chú ý khai thác phương thức kể chuyện “nước đôi” qua bối cảnh, thể

loại và nhan đề của tác phẩm. Đây là một đóng góp quan trọng của Trần Hinh

cho việc nghiên cứu tiểu thuyết Dịch hạch ở Việt Nam, song công trình chỉ chú

ý đến phương thức kể chuyện “nước đôi” trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết

này, chưa quan tâm đến những yếu tố khác như: chủ đề, cốt truyện, nhân vật.

4

Phùng Văn Tửu trong Tiểu thuyết Pháp hiện đại - những tìm tòi đổi

mới cũng đã nhắc đến tiểu thuyết Dịch hạch nhưng nó chỉ được xem xét ở góc

độ “người kể chuyện đóng hai vai”.

Luận văn Thạc sĩ Chủ nghĩa hiện sinh trong một số tiểu thuyết và

truyện ngắn của Albert Camus của tác giả Lưu Mai Tâm (Đại học Vinh, 2009)

đã đi sâu tìm hiểu về tiểu thuyết của Albert Camus, trong đó có nói đến tác

phẩm Dịch hạch ở vấn đề phi lí và nổi loạn. Tác giả xem phi lí là “đối tượng

trung tâm trong thế giới nghệ thuật của Camus” và chú trọng đến kiểu nhân vật

nổi loạn. Về việc xem cái phi lí là “đối tượng trung tâm trong thế giới nghệ thuật

của Albert Camus”, chúng tôi nhận thấy tác giả Lưu Mai Tâm đã có những đóng

góp tích cực cho việc hiểu rõ hơn về nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết của Albert

Camus dù chưa thực sự chú trọng nhiều đến tiểu thuyết Dịch hạch (do phạm vi

nghiên cứu của đề tài).

Luận văn thạc sĩ Biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết của Albert

Camus của tác giả Đinh Thị Thanh Huyền (Đại học Sư phạm Hà Nội, 2008) đã

nói đến ý nghĩa một số biểu tượng trong tiểu thuyết của Albert Camus trong đó

có nói về biểu tượng nhân vật (Rieux - Người phản kháng bằng nỗ lực của con

người bình thường, Tarrou- Vị Thánh không Chúa xả thân vì đồng loại) và dịch

hạch. Tác giả đã nêu được các ý nghĩa của biểu tượng dịch hạch như: dịch hạch

về mặt tinh thần, chiến tranh phát xít, phân biệt chủng tộc.

3.2. Về Philip Roth và tiểu thuyết Báo ứng

Philip Roth là nhà văn rất được quan tâm nghiên cứu ở Mĩ. Điều đó được

thể hiện qua rất nhiều giải thưởng được dành cho ông và các sách, bài báo viết

về ông và tác phẩm của ông, chẳng hạn như: Philip Roth’s Postmodern

American Romance của Elaine B. Safer, Mocking the age – The later novels

of Philip Roth của tác giả Elaine B. Safer, Philip Roth - New Perspective on

an American Author của tác giả Derek Parker Royal,…

5

Là một tiểu thuyết mới xuất bản của Philip Roth, Báo ứng chưa được

nghiên cứu với tư cách như một công trình chính thức mà chỉ dừng lại ở một vài

bình luận hoặc điểm sách trên các báo, tạp chí. Dưới đây, chúng tôi chỉ chọn ra

những bài điểm sách có liên quan đến vấn đề mà luận văn này nghiên cứu.

Trong bài điểm sách Nemesis (in trên Booklist - ấn phẩm của Thư viện

hiệp hội Mĩ), Brad Hooper đã nhận xét: “đây là tiểu thuyết cuối cùng, đã vượt

xa hàng loạt các tiểu thuyết trước đó về cả cảm xúc và trí tuệ” (this latest in the

series far exceeds its predeces-sors in both emotion and intellect). Tác giả này

đã khẳng định được vị trí, tầm quan trọng của tiểu thuyết Báo ứng trong sự

nghiệp văn chương của Philip Roth. Song, với tính chất chỉ là một bài điểm

sách, Brad Hooper vẫn chưa đi vào phân tích kĩ nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết

này.

Victoria Aarons trong bài viết Expelled Once Again : The Failure of the

Fantasized Self in Philip Roth’ Nemesis đã nói đến những thất bại trong sự

tưởng tượng tái tạo một cuộc sống mới của nhân vật Bucky Cantor giữa lúc dịch

bệnh hoành hành, đồng thời, tác giả cũng nói đến những ý nghĩa thực tế của

bệnh bại liệt, được xem như một ẩn dụ trong tác phẩm. Dịch bại liệt là ẩn dụ cho

nỗi ám ảnh về chiến tranh, về việc Mỹ bài Do Thái: “Roth's Newark becomes

the metaphorical point of connection of two men-acing historical events: the

devastating outbreak of polio running rampant throughout the city and the

heightening peril of the Nazi assault on Europe's Jews. The language of the one

evokes the reality of the other, the war haunting the course of the polio

epidemic, an analogy exacerbated by palpably reactive American anti-

Semitism” [65, tr.51- 63]. Như vậy, bài viết của Victoria Aarons đã nêu lên

được một vài khía cạnh quan trọng của tiểu thuyết Báo ứng, đặc biệt là đã khẳng

định bệnh bại liệt như là một ẩn dụ trong tác phẩm. Song, bài viết vẫn chưa phân

6

tích được một cách cụ thể và chi tiết về vấn đề này. Nghệ thuật xây dựng cốt

truyện và nhân vật cũng chưa được tác giả bài viết làm rõ.

Về tình hình nghiên cứu Philip Roth và tiểu thuyết Báo ứng ở Việt Nam,

chúng ta thấy rằng tác phẩm của Philip Roth được dịch sang tiếng Việt chỉ có:

Chia tay thôi, Columbus; Người phàm; Báo ứng. Trực tiếp nói về Báo ứng chỉ

có các bài báo mang tính chất giới thiệu tác phẩm như: Khi người ta già của

Hoài Nam đăng trên trang web http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn nói về vấn đề

tuổi già và cái chết trong Báo ứng. Tác giả cho rằng “dường như càng về cuối

đời thì Philip Roth lại càng ra sức xóa bỏ ảo tưởng của con người, của chính

mình, về những chân giá trị của sự tồn tại người.” [83]. Bài viết chỉ nói lên được

hướng đi của ngòi bút Philip Roth trong sáng tác tiểu thuyết Báo ứng, chưa nói

được nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết này.

Nemesis (Nữ thần Báo ứng) – Philip Roth của tác giả Đào Đạo đăng

trên http://m.voatiengviet.com/a/916767.html giới thiệu sơ lược về sự nghiệp

của Philip Roth, tóm tắt cốt truyện Báo ứng và đưa ra nhận xét về nhân vật trong

tiểu thuyết: “những nhân vật trong bộ truyện này cho thấy con người hầu như

bất lực trong việc cưỡng chống lại hoàn cảnh và lịch sử, không có mấy chọn lựa,

dù có chọn lựa chăng nữa thì đó cũng là những chọn lựa ngẫu nhiên mà thôi.”

[97]. Tác giả chỉ dừng lại ở việc nhận xét chứ chưa đi sâu vào nghệ thuật xây

dựng nhân vật trong Báo ứng.

Trần Quốc Tân trong bài Khi người viết là ngôn sứ trên

trang http://tuoitre.vn/tuoi-tre-cuoi-tuan/van-hoa-nghe-thuat/566237/khi-nguoi-

viet-la-ngon-su.html đã nói lên được thái độ, tư tưởng của Philip Roth thể hiện

qua Báo ứng trong so sánh với Paul Auster và Nguyễn Việt Hà: “Ở tác phẩm thứ

31 và cũng là cuối cùng này trong sự nghiệp, Philip Roth trở thành vị ngôn sứ hà

khắc, phê phán và loan báo những hình phạt. Bản thân sứ điệp này cũng là sự tự

vấn: Liệu Chúa có cảm thông cho một cuộc đời đơn lẻ hay ngài phụng sự một sứ

7

mệnh lớn lao hơn?” [85]. Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Báo ứng chưa được

tác giả đề cập tới.

Tóm lại, hiện chưa thấy một công trình nào nghiên cứu nghệ thuật xây

dựng tiểu thuyết trong Báo ứng của Philip Roth ở Việt Nam và nước ngoài một

cách cụ thể, hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Báo

ứng của Philip Roth hứa hẹn sẽ mở ra những hướng tiếp cận thú vị đối với tác

phẩm của Philip Roth ở Việt Nam nói chung và Báo ứng nói riêng.

Đề tài Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết trong “Dịch hạch” của Albert

Camus và “Báo ứng” của Philip Roth vừa kế thừa những kết quả đã đạt được

của các công trình trước, vừa mong muốn mở ra một cách nhìn mới về nghệ

thuật xây dựng tiểu thuyết của Albert Camus và Philip Roth qua hai tác phẩm

này trong cái nhìn so sánh.

4. Nhiệm vụ khoa học

4.1. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết trong Dịch hạch của Albert

Camus và Báo ứng của Phlip Roth để thấy được những nét độc đáo, sự tương

đồng và dị biệt trong phong cách sáng tác của hai tác giả Albert Camus và Philip

Roth và phần nào tìm ra nguyên nhân và lí giải sự tương đồng, dị biệt đó.

4.2. Đóng góp của luận văn

Luận văn đưa ra một cái nhìn tổng thể, toàn diện và có chiều sâu về nghệ

thuật xây dựng tiểu thuyết trong hai tác phẩm Dịch hạch và Báo ứng trong mối

liên hệ về mặt đề tài, cốt truyện, nhân vật. Từ đó thấy được nét độc đáo trong

nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết của hai nhà văn lớn của Pháp và Mĩ với hai thời

kì sáng tác khác nhau. Đồng thời chỉ ra những nét tương đồng, dị biệt trong nghệ

8

thuật xây dựng tiểu thuyết của Albert Camus và Philip Roth qua Dịch hạch và

Báo ứng, phần nào chỉ ra nguyên nhân và lí giải chúng.

Qua việc nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ giúp tác phẩm của hai

tác giả nổi tiếng trong văn học Pháp và Mĩ đến gần với độc giả Việt Nam hơn,

đặc biệt là tác giả Philip Roth (vì ông ít được chú ý ở Việt Nam). Đó cũng là

một ý nghĩa thực tiễn của đề tài này.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ yếu sử dụng những phương pháp

nghiên cứu sau:

Phương pháp phân tích – tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong toàn

luận văn nhằm kết hợp phân tích dẫn chứng với việc đưa ra những nhận định ở

các chương, các phần.

Phương pháp so sánh – đối chiếu: đây là phương pháp hỗ trợ đắc lực cho

luận văn trong việc chỉ ra những tương đồng, dị biệt, những nét độc đáo, sáng

tạo riêng của Albert Camus và Philip Roth trong nghệ thuật xây dựng hai tiểu

thuyết Báo ứng và Dịch hạch, phần nào chỉ ra nguyên nhân và lí giải chúng. Bên

cạnh đó, chúng tôi cũng đặt hai tác phẩm này trong hệ thống sáng tác của từng

tác giả để có những kết luận chính xác hơn về nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết

của hai nhà văn, đồng thời, chúng tôi cũng sẽ đặt hai tác giả này trong mối quan

hệ với các nhà văn cùng thời hoặc trước và sau họ để thấy được nét độc đáo trên

cái nền chung của thời đại cũng như trong tiến trình lịch sử văn học.

Phương pháp thống kê – phân loại: dùng để thống kê các câu văn, các chi

tiết nghệ thuật, những biện pháp tu từ thể hiện rõ đặc trưng thẩm mĩ trong tiểu

thuyết của Albert Camus và Philip Roth, sau đó hệ thống hóa, đặt chúng vào

những nội dung chung phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả và

phương pháp lịch sử để hiểu rõ hơn về tư tưởng, quan niệm sống, sáng tác của

9

nhà văn, hiểu rõ hơn về thời đại họ sống, từ đó có những kết luận xác đáng hơn

cho nội dung nghiên cứu.

6. Cấu trúc luận văn

6.1. Phần mở đầu

6.2. Chương 1: Nghệ thuật xây dựng đề tài - bệnh dịch như một ẩn dụ.

Chương này sẽ trình bày những ẩn dụ của bệnh dịch được nêu trong hai tác

phẩm Dịch hạch và Báo ứng. Từ đó, chúng tôi đưa ra nhận định khái quát về ẩn

dụ được hai nhà văn xây dựng ở đây là ẩn dụ cho thảm họa chiến tranh, sự kì thị

chủng tộc, những rào cản tự do…trong cuộc sống, tức là những cái có sức ám

ảnh lớn đối với con người. Chương này có tác dụng tạo tiền đề khái quát về tác

phẩm, tư tưởng của nhà văn để từ đó chúng tôi sẽ đi vào chi tiết hơn ở các

chương sau.

6.3. Chương 2: Sự chi phối của quan niệm phi lí và những nỗi ám ảnh đối

với nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Như vậy, chương 2 sẽ làm rõ nghệ thuật xây

dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng nhìn từ góc độ sự chi phối của tư tưởng

vào các chi tiết, hình ảnh, tình huống, cách kết thúc truyện. Từ đó, chúng tôi sẽ

có sự so sánh để tìm ra những điểm giống và khác nhau trong nghệ thuật xây

dựng cốt truyện ở hai tác phẩm, phần nào lí giải chúng.

6.4. Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật - kiểu con người chịu đựng

và dấn thân: chương này sẽ đi vào cụ thể thêm một mức nữa nghệ thuật xây

dựng tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng ở phương diện nhân vật. Tác giả luận

văn sẽ làm rõ sự chi phối kiểu của quan niệm phi lí vào nghệ thuật xây dựng

nhân vật – kiểu con người dấn thân, và sự chi phối của những nỗi ám ảnh vào

nghệ thuật xây dựng nhân vật – kiểu con người chịu đựng.

6.5. Phần kết luận

10

Chương 1. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG ĐỀ TÀI – BỆNH DỊCH

NHƯ MỘT ẨN DỤ

Với một tiểu thuyết, chọn được một đề tài hay để viết không phải là khó

nhưng để khai thác đề tài một cách thành công, tránh sự trùng lắp là một việc

làm đòi hỏi nhà văn phải hết sức sáng tạo mới có thể để lại dấu ấn riêng cho

mình.

Bệnh dịch là một đề tài không quá mới trong văn học, tuy nhiên, cách dùng

bệnh dịch để nói đến một quan niệm, một tư tưởng sao cho đạt đến sự thành

công, khéo léo, tinh tế và trí tuệ không phải ai cũng làm được. Có người chỉ

dừng lại ở mức độ thuật lại sự thật hoặc ẩn dụ cho một tư tưởng nhất định.

Ngược lại, bằng việc xây dựng đề tài bệnh dịch như một ẩn dụ, Camus và Roth

đã tạo nên những cách hiểu đa dạng và sâu sắc cho tác phẩm của mình. Do cùng

đề tài nên tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng đã có những điểm gặp gỡ hết sức

thú vị. Trong cả hai tác phẩm, bệnh dịch đều mang ý nghĩa ẩn dụ, được Camus

và Roth khéo léo chuyển tải các vấn đề đáng quan tâm trong cuộc sống, trong

thời đại của mình.

Trước hết, chúng ta cần biết qua các khái niệm đề tài là gì, ẩn dụ là gì để có

thể hiểu đúng nghệ thuật xây dựng đề tài hai tiểu thuyết này là như thế nào, từ

đó làm cơ sở vững vàng cho việc tìm hiểu những vấn đề chi tiết hơn của chương

này. Khái niệm đề tài được nêu rất nhiều trong các sách lí luận, ở đây, chúng tôi

lưu ý khái niệm trong Giáo trình lí luận văn học của Lê Tiến Dũng: “đề tài là

phạm vi hiện thực được đề cập đến trong tác phẩm nhằm để thể hiện thế giới

nghệ thuật của tác phẩm” [15, tr.116]. Phạm vi hiện thực ở đây có thể là một

phạm vi nhất định nào đó của đời sống, có thể có thật hoặc do nhà văn tưởng

tượng ra, đó chính là điều nhà văn quan tâm. Từ việc chọn đề tài cho tác phẩm,

nhà văn bộc lộ khuynh hướng tư tưởng, thế giới quan của mình. Những nhà văn

11

chọn cùng một đề tài thường có khuynh hướng tư tưởng và thế giới quan gần

giống nhau. Tuy nhiên, mỗi người đều có một nét riêng nhất định trong cách xử

lí đề tài.

Đôi khi đề tài được giới hạn cụ thể ở một phạm vi đời sống cụ thể nào đó,

được thể hiện qua cách gọi tên, chẳng hạn: đề tài người lính, đề tài miền núi, đề

tài nông dân,… Thật ra, tên gọi đề tài chỉ là cái giới hạn bề ngoài, muốn biết đề

tài thực sự là gì thì cần phải xem xét chúng được xây dựng để biểu đạt những

cảm xúc nào, ám chỉ những quan hệ nào, hướng vào bộc lộ tính cách nào. Cùng

viết về đề tài miền núi nhưng Nguyên Ngọc lại chú ý khai thác hình ảnh quật

cường trong kháng chiến của con người, còn Tô Hoài thì chú ý nhiều hơn về

phong tục, đời sống sinh hoạt của người miền núi, Nguyễn Tuân thì lại quan tâm

ở khía cạnh thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp,…

Tác phẩm văn học thường có cả một hệ đề tài, tức là nhiều đề tài được nói

đến, chúng tồn tại trong mối quan hệ tương tác, hỗ trợ, và soi chiếu cho nhau để

làm bật lên quan niệm chính yếu của nhà văn trong tác phẩm. Đề tài cũng mang

tính lịch sử của nó. Một đề tài có thể trở đi trở lại trong sáng tác của nhà văn

nhiều thế hệ, ví dụ như các đề tài muôn thuở: chiến tranh, tình yêu, thân phận

con người,…

Trong sáng tác văn chương, nhà văn luôn tìm cho mình phương pháp tối ưu

nhất để chuyển tải thông điệp từ tác phẩm. Và việc sử dụng biện pháp tu từ là

điều không thể thiếu. Một trong những phép tu từ được xem là phương tiện hỗ

trợ đắc lực cho nhà văn trong việc thể hiện ý tưởng đó là phép ẩn dụ. Có rất

nhiều quan niệm về ẩn dụ ở Việt Nam. Nhìn chung, cách đề xuất của các nhà

nghiên cứu ngôn ngữ là cần xem xét ẩn dụ ở hai góc độ: ẩn dụ từ vựng và ẩn dụ

tu từ.

Ở đây, chúng tôi chỉ quan tâm đến hình thức ẩn dụ tu từ, vì vậy, ẩn dụ từ

vựng chỉ được điểm qua sơ lược qua một vài ý kiến tiêu biểu. Đỗ Hữu Châu và

Nguyễn Thiện Giáp có sự gặp gỡ nhau khi cùng cho rằng “ẩn dụ là cách gọi tên

12

sự vật, hiện tượng này bằng tên của sự vật, hiện tượng khác, giữa chúng có mối

tương đồng” [10, tr.54]; “Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự giống nhau

giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau” [23, tr.162]. Hữu Đạt

và Nguyễn Đức Tồn đã góp phần hoàn chỉnh khái niệm ẩn dụ khi khẳng định cơ

sở của ẩn dụ chính là so sánh ngầm.

Ẩn dụ tu từ xuất phát từ cơ sở của ẩn dụ từ vựng nhằm tạo nên những biểu

tượng trong nhận thức con người. Trong nghiên cứu văn học, ẩn dụ tu từ thường

được quan tâm hơn. Đó là biện pháp tu từ ngữ nghĩa nhằm xây dựng hình tượng

thẩm mĩ (không chỉ gọi tên mà quan trọng hơn là gợi ra những liên tưởng có liên

quan chủ yếu đến đời sống tình cảm của con người).

Theo Đinh Trọng Lạc: “Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình

tượng, dựa trên sự tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiện thực hoặc

tưởng tượng ra) giữa khách thể (hiện tượng, hoạt động, tính chất) A được định

danh với khách thể (hiện tượng, hoạt động, tính chất) B có tên gọi được dùng

chuyển sang cho A” [34, tr.52]. Tác giả Hữu Đạt nói cụ thể hơn một bước nữa:

“Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra. Người tiếp nhận văn bản khi tiếp

cận với phép ẩn dụ phải dùng năng lực liên tưởng để qui chiếu giữa các yếu tố

hiện diện trên văn bản với các sự vật hiện tượng tồn tại ngoài văn bản.” [19,

tr.302].

Trong luận văn này, chúng tôi hiểu ẩn dụ là cách gọi tên sự vật hiện tượng

này bằng tên gọi của sự vật hiện tượng khác dựa trên một số nét tương đồng. Cơ

chế của ẩn dụ chính là so sánh ngầm.

Từ một phạm vi đời sống cụ thể, nhà văn đi đến khái quát lên những vấn

đề thuộc ý hướng, tư tưởng của mình, nghĩa là những thứ vượt qua cái cụ thể. Ở

đây có thể xuất hiện tính ẩn dụ của đề tài. Từ việc “dùng năng lực liên tưởng để

qui chiếu giữa các yếu tố hiện diện trên văn bản với các sự vật hiện tượng tồn

tại ngoài văn bản”, và cách hiểu đề tài như trên, chúng tôi nhận thấy đề tài bệnh

dịch trong Dịch hạch và Báo ứng có thể là ẩn dụ cho chiến tranh, nạn kì thị

13

chủng tộc, những khiếm khuyết tinh thần, những rào cản tự do bởi chúng có

những nét tương đồng với biểu hiện, tính chất, hậu quả,…của bệnh dịch. Từ việc

ẩn dụ dựa trên cơ sở so sánh ngầm này, đề tài của hai tiểu thuyết trở thành một

hình tượng nghệ thuật có sức biểu trưng cao, có ý nghĩa lớn lao trong hoạt động

nhận thức, thẩm mĩ và hành động thực tiễn của con người.

Trong Dịch hạch và Báo ứng, đề tài bệnh dịch được xây dựng dựa trên

phương thức ẩn dụ, dùng bệnh dịch để nói đến những cái khác hơn dựa trên một

số nét tương đồng về tính chất, biểu hiện và hậu quả của nó. Trong quá trình

khảo sát, chúng tôi nhận thấy bệnh dịch được hai tác giả ẩn dụ để chỉ các vấn đề

về thảm họa chiến tranh, những khiếm khuyết về mặt tinh thần của con người,

sự kì thì chủng tộc, ẩn dụ cho rào cản tự do,… Đây là những điều nằm ngoài tầm

kiểm soát của con người, đặc biệt là những nạn nhân. Dịch bệnh, chiến tranh,

nạn kì thị, những rào cản tự do, những khiếm khuyết tinh thần là thứ gây cho

con người biết bao khổ ải, nó đặt chúng ta vào vòng xoáy của cái phi lí. Tình

trạng sống của con người hiện tại là tình trạng chịu đựng một thứ dịch bệnh ẩn

dụ - ẩn dụ cho những cái phi lí, mà biểu hiện của nó chính là những điều chúng

tôi đã kể ở trên.

1.1. Bệnh dịch - ẩn dụ cho thảm họa chiến tranh

Dịch hạch của Camus và Báo ứng của Philip Roth đều là những tác phẩm

khai thác rất thành công đề tài bệnh dịch. Hai nhà văn đã dùng cái cụ thể đó là

bệnh dịch để nói đến những vấn đề khái quát, trừu tượng khác như chiến tranh,

đau khổ, khủng bố, chém giết,…tất cả những thứ đã và đang diễn ra trong đời

sống hàng ngày mà chúng ta không có dịp suy ngẫm, chiêm nghiệm. Đọc Dịch

hạch và Báo ứng, chúng ta có cảm giác như chính mình vừa trải qua một trận đại

dịch với biết bao cung bậc cảm xúc. Có một điều khá rõ ràng đó là hai tác phẩm

này dễ gợi chúng ta liên tưởng đến các vấn đề về chiến tranh. Hay nói cách

khác, dịch bệnh đã được hai nhà văn xây dựng như một ẩn dụ cho chiến tranh,

cho những thảm họa đang đe dọa cuộc sống con người.

14

Dịch hạch đến trong sự ngỡ ngàng của người dân thành phố Oran, họ

không tin đó là sự thật, và càng không tin hơn nó lại xảy đến với mình: “Trên

thế giới, dịch hạch cũng nhiều như chiến tranh. Thế nhưng đứng trước dịch

hạch và chiến tranh, người ta vẫn luôn bất ngờ (…). Khi chiến tranh nổ ra,

người ta bảo nhau: Không lâu đâu, vì thật là quá ngu dại! Và dĩ nhiên chiến

tranh là quá ngu dại, nhưng không phải vì vậy mà chiến tranh không kéo dài.”

[6, tr.55-56]. Ngay ở đầu tiểu thuyết, Camus đã cho chúng ta thấy Dịch hạch

không đơn thuần nói về dịch bệnh mà nó còn mang ý nghĩa ẩn dụ cho chiến

tranh. Xét cho cùng, không ai biết vì sao dịch bệnh xuất hiện cũng như không ai

tìm được lí do cho những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Trong mọi cuộc chiến

tranh, dù cho phe nào thắng thì nhân nhân cũng là kẻ bại trận, là kẻ chịu trên

mình những mất mát, thương tích. Qua một trận dịch bệnh, kẻ mất, người còn,

nhưng chắc chắn những người ở lại cũng phải gánh trên mình nỗi đau li biệt.

Một khi dịch bệnh xuất hiện, cánh cửa thành phố đóng lại cũng chính là lúc

con người bắt đầu cuộc sống lưu đày với cái chết luôn chực sẵn trên đầu mình

mà không biết nó sẽ đổ ập xuống lúc nào. Đó là tình cảnh của người dân thành

phố Oran (Dịch hạch) và thành phố Newark (Báo ứng), nơi dịch bệnh hoành

hành. Việc cách li – kiểm dịch là không thể tránh khỏi và điều đó cũng đồng

nghĩa với việc một đi không trở lại. Cũng như những người lính tham gia chiến

tranh ắt hẳn cũng mang tâm trạng đó. Mình xa gia đình, xa quê hương để chiến

đấu vì điều gì? Mình bỏ mạng là vì ai? Và cảm giác cái chết đang đứng bên bờ

vực, nó sẽ sẵn sàng lôi họ xuống bất cứ lúc nào, nó luôn luôn đeo đẳng họ.

Cảm giác lưu đày, cảm giác chia li đau khổ càng trở nên thấm thía hơn khi

những người thương yêu của mình mới hôm qua còn nhìn thấy mặt nhau, hôm

nay đã bị cuộc tử - sinh chia biệt đôi đường… Chỉ có cảnh dịch bệnh mới có thể

lột tả được một cách cụ thể và sâu sắc cảm giác của con người trong chiến tranh.

Dịch bệnh ban đầu chỉ xảy ra ở một vài trường hợp đơn lẻ, không gây chú ý

mấy cho cơ quan y tế và chính quyền. Ban đầu, dịch hạch xuất hiện ngay sau cái

15

chết hàng loạt của những con chuột trong thành phố, nhưng các bác sĩ và tỉnh

trưởng thành phố Oran ngần ngại không dám (không muốn) gọi căn bệnh này là

“dịch hạch” vì sợ gây náo loạn trong lòng dân, trường hợp tương tự này đã xảy

ra trong Báo ứng.

“Qua một đêm mà có tới mười một ca mắc trong khu Weequahic! Một

trẻ chết! Tôi muốn biết Ủy ban Y tế đang làm gì để bảo vệ lũ trẻ của

chúng ta” [48, tr.37]

“Thành phố đang làm gì để ngăn chặn dịch? Không hề làm gì!”

“Phải làm gì đó đi chứ - mà họ có làm đâu” [48, tr.38]

Những câu hỏi của họ không được ai hồi đáp ngoài chính họ. Con người

loay hoay giữa dịch bệnh, không tìm được con đường thoát thân, không tìm ra

sự cứu cánh.

Nếu như trong Dịch hạch, người ta tranh cãi và không thừa nhận có sự xuất

hiện của bệnh dịch hạch vào lúc ban đầu thì trong Báo ứng, dù thừa nhận tên gọi

bại liệt nhưng các cơ quan vẫn không biết làm gì, thờ ơ trong cách ứng phó

trong khi dịch bệnh đang có nguy cơ lan tràn (và nó đã thực sự lan tràn!). Điều

này gợi sự liên tưởng đến chiến tranh thế giới thứ nhất, mà gần đây là chiến

tranh thế giới thứ hai. Chiến tranh thế giới thứ hai mở đầu bằng các cuộc xâm

lược lẻ tẻ: đầu tiên là cuộc tiến quân của phe phát xít, đại diện là Nhật Bản tiến

đến Mãn Châu Trung Quốc. Lúc này, vì không có những biện pháp phản kháng

phù hợp mà Trung Quốc đã lần lượt để rơi từng phần lãnh thổ của mình vào tay

Nhật. Điều tương tự xảy ra ở Châu Âu, cụ thể là Pháp – quê hương của tác giả

tiểu thuyết Dịch hạch. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này trong sự đối chiếu với tác

phẩm Dịch hạch: khi chiến tranh thế giới thứ hai chính thức nổ ra, người Pháp

đã không được trang bị, họ sợ hãi trước sự phá hoại như những cổ máy của Đức

quốc xã. Sự sợ hãi cùng với sự thiếu đoàn kết đã làm cho nước Pháp suy yếu

nghiêm trọng. Bệnh dịch kéo dài gần một năm, chiếm đóng ở Pháp kéo dài bốn

năm. Trong những năm đó, đa số người Pháp bám theo bản năng sống của mình,

16

tìm kiếm những thú vui nhỏ, cầu nguyện liên tục, nhưng điều đó không giúp họ

chống lại kẻ thù. Lực lượng chiến đấu chống lại kẻ thù không phải là nhiều ở

Pháp, cũng giống như đội y tế của Rieux, dù không nhiều nhưng luôn dùng hành

động của mình chiến đấu quyết liệt chống Dịch hạch, mà dịch hạch thì mạnh mẽ

hơn biết bao lần. Họ vẫn kiên trì tin tưởng vào những nỗ lực đúng đắn của mình.

Có rất nhiều khía cạnh trong Dịch hạch khiến ta liên tưởng đây là câu

chuyện ẩn dụ cho chiến tranh. Thị trấn Oran bị ảnh hưởng bởi dịch hạch và cắt

đứt với thế giới bên ngoài tương đương với nước Pháp đã bị tấn công bởi Đức

quốc xã. Những người dân trong thành phố không tin rằng dịch bệnh sẽ xảy ra

với họ cũng giống như thái độ tự mãn của người Pháp vào đầu cuộc chiến. Họ

không thể tưởng tượng được rằng người Đức, kẻ thù mà họ đã đánh bại chỉ 20

năm trước đây, có thể đánh bại họ chỉ trong sáu tuần như điều đã xảy ra ở Pháp

vào tháng 6/1940.

Thái độ của các nhân vật trong Dịch hạch phản ánh thái độ khác nhau của

người dân Pháp ở những nghề nghiệp khác nhau trong chiến tranh. Một bộ phận

dân số tương đương với suy nghĩ của Panolux: nếu Panolux tin vào vị thế toàn

năng của Chúa thì một bộ phận người Pháp tin rằng sự thống trị lâu dài của Đức

ở Châu Âu là một điều tất yếu lịch sử. Cách suy nghĩ này dẫn đến thái độ cam

chịu, thủ tiêu việc đấu tranh. Một lực lượng nhỏ đại diện cho những người

chống phát xít Đức, tương đương với đội y tế của Rieux. Một số khác lại cộng

tác với Đức, trong tiểu thuyết được đại diện bởi Cottard, người chào đón bệnh

dịch hạch và lợi dụng sự thiếu thốn kinh tế để bán hàng lậu, thu lợi bất chính về

mình. Như vậy, khi viết Dịch hạch, Camus đã sống trong một quê hương bị

chiếm đóng bởi quân xâm lược Đức. Đất nước ông bị bỏ tù, nó hoàn toàn giống

như một thứ bệnh dịch hạch niêm phong biên giới lãnh thổ nước ông. Có hủy

diệt, cái chết và đau khổ. Bạo lực tàn nhẫn của việc này giống như là sự bất công

(bất công ở chỗ con người sinh ra là để sống nhưng dịch bệnh lại bắt họ phải

chết), sự tàn ác của một bệnh dịch hạch. Và ghi chép của Camus như là một sự

17

khẳng định giá trị cá nhân của con người và cuộc sống mặc dù đã phải lưu vong

trong vũ trụ, dù bị tàn phá bởi bệnh tật và bạo chúa. Đó là một niềm tin vào tiềm

năng sống với ý nghĩa trọn vẹn của nó. Niềm tin này là đặc biệt đáng chú ý vì

Camus nhận ra rằng thế giới đã không tận tâm phản ứng với cái triệu chứng của

chiến tranh, đặc biệt là Pháp, đã bị các sử gia chỉ trích vì đã để thua quá dễ dàng,

khiến đất nước rơi vào tay Đức quốc xã.

Tương tự như trong Dịch hạch, đề tài dịch bệnh trong Báo ứng cũng gợi

cho người đọc liên tưởng nhiều đến chiến tranh. Thời gian xảy ra dịch bại liệt ở

Newark là vào mùa hè năm 1944, là thời gian Hoa Kì thực hiện các cuộc chiến ở

mặt trận Thái Bình Dương. Roth cũng là nhà văn đã từng tham gia chiến tranh

trong chiến tranh thế giới thứ hai nên ông thấu hiểu cảm giác của con người

trong cuộc chiến: cuộc chiến chống bại liệt cũng không khác gì mấy cuộc chiến

của người lính trong chiến tranh. Không biết dịch bệnh khi nào mới kết thúc và

không lí giải được mầm mống căn bệnh, để đến khi phát hiện ra chính mình là

kẻ gieo rắc mầm bệnh (Bucky Cantor), con người đã hết sức hốt hoảng và hoàn

toàn rơi vào bế tắc. Chiến tranh cũng chỉ đem đến cho con người sự bế tắc mà

thôi. Mầm mống chiến tranh đến từ chính bản chất tham chiến của con người.

Sự tấn công của bọn người Ý ở sân chơi tại trường Chancellor Avennue có thể

khiến ta liên tưởng tới sự tấn công của chủ nghĩa phát xít. Bọn người Ý có thể là

những kẻ mang dịch bại liệt đến cho Cantor để từ đó, anh lây lan cho những đứa

trẻ gần mình cũng tương tự như sự lan tràn của chủ nghĩa phát xít đưa con người

phải ngập ngụa trong một loại vi rút chiến tranh phi nghĩa, phải sống tù đày và

cách li với những người xung quanh.

Tóm lại, chiến tranh hay dịch bệnh đều là những điều phi lí đã làm mất đi

ý nghĩa cuộc sống của con người. Tất cả đều đem đến cái chết đầy bi thương cho

con người. Xây dựng đề tài dịch bệnh như một ẩn dụ, Camus và Roth muốn

khẳng định cuộc sống thực tại của con người đang tràn ngập những điều phi lí,

chỉ có cái chết là xác thực.

18

Không chỉ ẩn dụ cho chiến tranh, dịch hạch còn ám chỉ cho các hình thức

bạo lực đe dọa đời sống con người. “Trên trái đất này có những tai họa và

những nạn nhân” [6, tr.330]. Dịch hạch cũng giống như các hình thức thảm họa

nói chung (thiên tai, địch họa, tai nạn) đều khiến con người phải đối diện với

một sự thật hết sức kinh hoàng đó là cái chết. Thế giới ngày nay không ngừng

biến động, cứ một phút trôi qua là có biết bao người chết vì nhiều lí do khác

nhau: thiên tai, tai nạn, tự tử…Đây là một sự xâm nhập đến ghê sợ của nhiều

loại “dịch hạch” khác nhau đối với đời sống con người. Con người bị lịch sử vây

kín, không còn đường thoát ra, “…bắt đầu từ khi tôi từ chối việc giết chóc, tôi

đã tự khép mình vào một cảnh lưu đày vĩnh viễn làm lịch sử sẽ là những người

khác” [6, tr.330].

1.2. Bệnh dịch - ẩn dụ cho những khiếm khuyết về mặt tinh thần

Dịch bệnh trong hai tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng không hẳn là một

loại bệnh truyền nhiễm đem lại cái chết cho con người về mặt thể xác mà nó còn

là một thứ dịch bệnh trong tâm hồn – một sự khiếm khuyết nào đó về mặt tinh

thần (của con người).

Trước hết, chúng ta có thể nói đến thói bi quan một “căn bệnh truyền

nhiễm” không có vắc xin ngăn ngừa, nó làm tê liệt ý chí, niềm tin nơi con người.

Những biểu hiện của bệnh bại liệt cùng thái độ của nhân vật chính – Bucky

Cantor trong Báo ứng có thể minh họa cho điều đó. Từ một người tự tin, là thần

tượng của những đứa trẻ ở sân chơi, Bucky đã trở thành một con người thực sự

thảm hại ở cuối tiểu thuyết khi đã để cho tinh thần của mình hoàn toàn trượt dốc

xuống vực thẳm của những nỗi bi quan. Anh luôn né tránh gặp người yêu Macia

của mình dù anh còn rất yêu nàng, trong lúc đang chữa bệnh, anh từ chối gặp bất

kì ai ngoại trừ bà của mình. Sau khi khỏi bệnh, anh trốn chạy tất cả mọi thứ

thuộc về mình của ngày xưa: không gặp gia đình Macia, không xem bất kỳ một

bản tin thể thao nào, dời nhà và bỏ lại những vật dụng trong ngôi nhà cũ,…sống

trong nỗi bi quan, dằn vặt với quá khứ vì cho rằng mình chính là kẻ gây ra căn

19

bệnh bại liệt cho những đứa trẻ năm ấy. Như vậy, dịch bại liệt không chỉ khiến

Bucky ngồi xe lăn mà còn khiến ý chí, niềm tin của anh bị tê liệt hoàn toàn. Đó

là sự ẩn dụ cho mọi trạng thái bi quan, tê liệt ý chí, tê liệt niềm tin nơi con

người.

Sự tê liệt ý chí cũng được thể hiện trong Dịch hạch. Khi dịch bệnh hoành

hành dữ dội, một bộ phận người dân thành phố Oran đã tìm sự an ủi trong niềm

tin nơi Thượng đế. Họ đồng tình với Panolux trong bài thuyết giáo thứ nhất rằng

sinh mạng con người là do Chúa quyết định, Chúa gieo rắc dịch bệnh để trừng

phạt con người, vì họ xứng đáng phải chịu đựng như thế. Chúng ta có thể nhận

thấy một điều rằng khi con người cầu nguyện Thượng Đế tức là lúc họ đã giao

quyền quyết định số phận của mình cho kẻ khác, họ trở nên thụ động, mất ý chí,

dựa dẫm vào một thế lực hư vô nào đó mà ngay cả bản thân cũng không biết rõ.

Việc giao đặt niềm tin cho Chúa đó là một việc làm thể hiện sự yếu đuối về tinh

thần. Và sự yếu đuối này không phải của riêng một vài người mà nó chiếm một

số khá đông, chẳng khác nào một thứ dịch hạch tinh thần.

Những khiếm khuyết về tinh thần còn là những “cái ác” trong tâm hồn,

trong suy nghĩ của con người. Theo Tarou (Dịch hạch), những kẻ mang dịch

hạch (hiểu theo nghĩa ẩn dụ) chính là những kẻ “đánh bạn” với tai họa. Và dù

không “đánh bạn” với tai họa thì “mỗi người đều mang mầm mống dịch hạch

trong mình, bởi vì không một ai, vâng, không một ai trên đời được miễn trừ cả”

[6, tr.329]. Điều khẳng định này quả không sai, bởi bất kì ai cũng mang trong

mình những khiếm khuyết nhất định về mặt tinh thần, do đó, mỗi người đều là

kẻ mang “dịch hạch”. Philip Roth cũng khẳng định ý nghĩa ẩn dụ của dịch bại

liệt khi nói về Chúa: “Chỉ có cái ác mới có thể tạo ra bệnh bại liệt. Chỉ có cái

ác mới tạo ra Horace. Chỉ có cái ác mới gây nên chiến tranh thế giới thứ hai.

Cái ác là đấng toàn năng” [48, tr.235].

Những năm gần đây, sáng tác của Roth thường nói nhiều về tuổi già, bệnh

tật, sự bất lực và cái chết. Cũng có thể xem đây là thứ “dịch bệnh tinh thần” tấn

20

công con người mà không ai có thể tránh khỏi. Không nói nhiều đến sự bất lực

của tuổi già như trong Người phàm, Báo ứng nói nhiều đến sự bất lực do dịch

bệnh. Con người bất lực trước suy nghĩ của mình, không đủ sức mạnh để tự

động viên, không chấp nhận nổi sự thật rằng mình là kẻ bại trận trong cuộc

chiến với số phận. Sự bất lực trong suy nghĩ là một thứ dịch bệnh, nó xâm nhập

lúc con người chủ quan nhất, tự tin nhất để rồi bất chợt quật ngã họ một cách

nhanh chóng. Mở rộng phạm vi vấn đề, chúng ta có thể liên hệ đến con người

của thế kỉ XX và XXI cùng với những cơn “dịch bệnh tinh thần” thế kỉ - dịch

bệnh thời hiện đại. Thế kỉ XX, con người kiêu ngạo với vị thế làm người của

mình trong vũ trụ, họ cho mình là trung tâm, có thể làm được tất cả những gì họ

muốn, có thể điều khiển mọi thứ trong xã hội. Tóm lại, con người hiện lên như

một đấng toàn năng với những thành tựu vượt trội trong mọi lĩnh vực. Nhưng,

hình ảnh con người khổng lồ của thế kỉ XX nhanh chóng sụp đổ khi thế giới trải

qua hai cuộc đại chiến với những hậu quả nặng nề không gì cứu vãn được. Con

người trở thành nạn nhân của chính mình: nạn nhân của cái ác trong tâm hồn,

nạn nhân của lòng hiếu chiến và họ sụp đổ thê thảm dưới hố sâu của sự hư vô.

Tâm lí con người bị chấn thương nặng sau chiến tranh, cùng với những thành

tựu của khoa học công nghệ, con người dần trở nên xa cách nhau, họ đành lui

vào thế giới của chính mình, bị đóng băng, lưu đày vĩnh viễn trong thế giới ấy

mà không tìm thấy con đường nào để thoát ra. Đó là tâm lí chung của cả một thế

hệ sau chiến tranh, nó đem lại những cái chết trong tâm hồn con người – cái chết

này cũng nặng nề không kém những cái chết vì dịch bệnh. Ở đây, chúng tôi

muốn dùng hình ảnh sự sụp đổ của cả một thế hệ ở châu Âu sau hai cuộc đại thế

chiến để minh họa cho sự xâm nhập của một thứ dịch bệnh tinh thần vào đầu óc

con người. Có hai loại dịch bệnh được tìm thấy ở đây: một là thói kiêu căng, tự

mãn, cho mình là toàn tri, bất khả chiến bại, và hai là sự sụp đổ về tinh thần sau

chiến tranh, sự cô đơn về tinh thần của con người trong thời đại kĩ trị. Chúng tôi

gọi nó là dịch bệnh bởi nó không chỉ xảy ra ở một trạng thái nhất định nào đó

21

trong con người mà nó xuất hiện thường trực và luôn muốn nuốt chửng lấy họ

bất cứ lúc nào. Chúng tôi còn gọi trạng thái tâm lí này là dịch bệnh ở chỗ nó

không phải chỉ xảy ra ở một vài người mà nó xảy ra cho cả một thế hệ ở rất

nhiều quốc gia ban đầu ở châu Âu mà hiện nay đang lan ra toàn thế giới. Gọi là

“dịch bệnh tinh thần” bởi mức độ lan tràn của nó, mức độ thiệt hại của nó cũng

không kém gì một loại bệnh truyền nhiễm.

1.3. Bệnh dịch - ẩn dụ cho sự kì thị chủng tộc

Sự kì thị là một vấn nạn lớn của nhân loại, gây không biết bao nhiêu đau

khổ cho con người. Nạn phân biệt có hai loại: phân biệt chủng tộc và phân biệt

tôn giáo, xảy ra chủ yếu ở châu Âu. Ở những quốc gia châu Âu, nếu như trước

kia chủ yếu là nạn phân biệt tôn giáo (Kitô giáo và Do Thái giáo) thì càng về sau

lại có thêm nạn phân biệt chủng tộc (phân biệt màu da, đặc tính chủng tộc). Lịch

sử nhân loại có lẽ sẽ không bao giờ quên được những cuộc thảm sát do nạn phân

biệt này gây ra. Đáng nhớ nhất là những cuộc thảm sát của chế độ Đức quốc xã.

Triết lí của chế độ phát xít để bảo vệ dòng máu của họ đó là:

để bảo tồn sự trong sạch về dòng máu cho ''chủng tộc thượng đẳng''

Aryan mà đảng phát xít cho là gồm dân Đức và một số sắc dân Bắc

Âu, chế độ này phát triển những lý thuyết chủng tộc có từ thế kỷ 19

nói rằng giống người ''thượng đẳng'' tóc vàng mắt xanh, cao lớn phải

tránh hòa trộn dòng máu với các chủng tộc ''hạ đẳng'' để giữ sự trong

sạch.

Các giống người khác, từ người Slavo đến Do Thái, Digan đều bị coi

là “thấp kém”. Những người Đức chính gốc nhưng bị tàn tật, bị thần

kinh v.v. cũng được ''xếp hạng'' là phế phẩm về di truyền và rơi vào

nhóm ''cần tiêu diệt''. Các linh mục Công Giáo, nhân chứng Jehova,

những người cộng sản, người đồng tính nam v.v. cũng là đối tượng

của chế độ giết người này.

22

Tuy nhiên, chế độ Hitler còn đi xa hơn bất cứ chế độ nào trong việc

cáo buộc người Do Thái, vốn gốc từ Trung Đông, là nhóm ''đe dọa sự

tồn vong của nòi giống Đức''. Các nhóm dân quân phát xít bắt đầu

đập phá cửa hàng Do Thái từ năm 1933. Trong quá trình chế độ phát

xít lớn mạnh, chính sách phân biệt chủng tộc ngày càng trở nên tàn

bạo.

Ban đầu, chủ nghĩa lý lịch được áp dụng bằng cách loại trừ khỏi công

sở bất cứ ai có cha, mẹ hay thậm chí ông hoặc bà là người Do Thái.

Sau đó, người Do Thái ở Đức và các vùng quân Đức chiếm đóng bị

buộc phải đeo hình ngôi sao David sáu cánh màu vàng. Tiếp đó, phát

xít Đức cho lập các biệt khu Do Thái (ghetto) để nhốt tất cả những

người Do Thái châu Âu rơi vào tay chúng.

Năm 1933, trại tập trung đầu tiên được lập ở Dachau để nhốt người

Do Thái và những ai mật vụ Gestapo coi là chống chế độ. Dần dần,

các trại tập trung mọc lên ở những nơi Đế Chế Đức làm chủ mà phần

nhiều ở Ba Lan. Cuối cùng, người Do Thái ở các biệt khu được đưa

đến các trại tập trung để thiêu sống trong lò hơi ngạt. Đó là cách chế

độ phát xít nói là để giải quyết dứt điểm vấn đề Do Thái. [90].

Đó là nạn phân biệt chủng tộc đối với người Do Thái, nạn phân biệt màu

da cũng xảy ra với những nỗi ám ảnh không kém, chẳng hạn như câu chuyện

của cậu bé người Mĩ gốc Phi Emmett Till Louis bị đánh đập, móc mắt, siết cổ

bằng dây thép và quăng xác trôi sông vì đã huýt sáo với một người da trắng ở

Mississippi vào đầu thế kỉ XX; câu chuyện Bục huy chương Olympic 1968 với

“Lời chào quyền lực da đen”,v.v,…

Camus và Roth đều là những nhà văn sống lưu vong, chứng kiến nhiều vụ

thảm sát vì kì thị, phân biệt tôn giáo, chủng tộc ắt hẳn sẽ hiểu rất rõ cảm giác

thống khổ của con người trong hoàn cảnh này. Albert Camus (1913 – 1960), là

nhà văn được sinh ra và lớn lên ở Algieri nhưng lại mang trong mình hai dòng

23

máu Pháp và Tây Ban Nha nên thực chất ông được gọi là “người chân đen”

(người Algieri gốc Pháp). Vào cuối thế kỉ XIX, xã hội Algieri đã có những căng

thẳng tột cùng về nạn mù chữ, đói nghèo, xung đột,.. Và “mối quan hệ giữa

Camus – một người Algieri gốc Pháp – với những người Hồi Giáo nói tiếng Ả

Rập (Muslim Algieria) đã có ảnh hưởng sâu sắc đến việc nhà văn xây dựng hình

tượng người xa lạ và cái phi lí trong tác phẩm của ông với những mâu thuẫn về

chính trị, tranh giành đất đai, văn hóa cùng với bạo lực liên miên đã tạo nên hố

sâu ngăn cách không gì san lấp nổi giữa hai cộng đồng người nơi mảnh đất

Algieri nắng cháy ven biển Địa Trung Hải. Camus luôn mong muốn chấm dứt

tình trạng xâm chiếm của thực dân Pháp ở Algieri, cũng như khát khao có thể

làm được điều gì đó xóa nhòa sự ngăn cách giữa hai chủng tộc người nơi đây”

[31, tr.20]. Như vậy, vấn đề phân biệt chủng tộc cũng được Camus rất quan tâm

đến trong các sáng tác của mình.

Philip Roth (1933 - ), là nhà văn Mĩ gốc Do Thái, mặc dù xác định Mĩ

chính là quê hương của mình nhưng trong các sáng tác tiểu thuyết, ông luôn gửi

vào đó niềm tự hào, tiếng nói bênh vực cho những người Do Thái – nguồn cội

của mình. Nhân vật trong sáng tác của Philip Roth thường là những người Do

Thái với những tâm tư khác nhau. Ông được xem là nhà văn của những người

Do Thái khi phơi bày hiện thực sống của họ, những áng văn của ông gần gũi,

trong trẻo, tự nhiên, hài hước nhẹ nhàng như những lời tâm tình ông gửi cho

những con người cùng cội nguồn Do Thái với mình nói riêng và nhân loại nói

chung.

Hoàn cảnh của hai nhà văn đã mang dấu ấn về các vấn đề chủng tộc,

nguồn gốc. Hoàn cảnh ấy đã có tác động đến việc xây dựng đề tài tiểu thuyết

Dịch hạch và Báo ứng. Sự kì thị dân tộc thường được biểu hiện ở việc cô lập

một dân tộc, một tộc người nào đó. Điều này tương đương với hình ảnh cách li –

kiểm dịch trong hai tiểu thuyết. Ở một qui mô hẹp, sự phân biệt ở đây đó là việc

cách li giữa những người nhiễm bệnh với những người không nhiễm bệnh. Ở

24

một qui mô rộng hơn là việc đóng cửa thành phố, ngăn cấm mọi hành động

thông thương, thư từ với bên ngoài.

Xoay quanh đề tài bệnh dịch, Roth đã nói lên được tình trạng phân biệt

chủng tộc đã và đang diễn ra gay gắt trong xã hội. Nó là một loại vi rút đã ngấm

sâu trong máu thịt của những người Âu châu bản địa, họ xem những người

không cùng chủng tộc với mình như những kẻ mang mấm mống truyền nhiễm,

cần phải cách xa. Trong Báo ứng, khi dịch bại liệt xuất hiện và lây lan, người ta

đổ lỗi cho những người Do Thái đã gây ra căn bệnh quái ác đó. Người ta cho

rằng khu người Do Thái ở chính là ổ bệnh. Tuy nhiên, qua các lời thoại của nhân

vật, Roth đã thể hiện niềm tự hào và lòng yêu quí đối với người Do Thái: “Bọn

trẻ Do Thái là gia sản của chúng ta”; “Sao dịch bệnh lại nhắm vào lũ trẻ Do

Thái xinh xắn cơ chứ?” [48, tr.39]. Nhắc lại nạn phân biệt chủng tộc ở châu Âu,

Roth thể hiện thái độ phản đối điều đó: “Bác phản đối việc gây cho bọn trẻ Do

Thái sợ hãi. Bác phản đối việc khiến người do Thái hoảng sợ, đã qua thời ấy

rồi. Đó là ở châu Âu, chính vì thế mà người Do Thái đã rời khỏi nơi đó.”

[48, tr.97].

Càng về sau, nạn phân biệt chủng tộc càng thể hiện sự vô lí của nó, bởi vì

dù sao ban đầu, con người vẫn có thể tìm được lí do vì sao mình bị phân biệt (do

dị giáo, do tổ tiên của người Do Thái đã giết chúa), nhưng ở thế kỉ XX, XXI,

người ta không tìm được một lí do chính đáng nào cho sự phân biệt chủng tộc

ngoài những lí do vớ vẩn do Đức quốc xã “nghiên cứu” ra (người da trắng thông

minh, da vàng dai sức, da đỏ nóng nảy, da đen ngu ngốc). Điều phi lí này khiến

người ta dễ dàng liên tưởng đến dịch bệnh với ý nghĩa ẩn dụ cho nạn kì thị

chủng tộc cùng những ám ảnh mà nó mang lại.

Những nạn nhân của dịch bệnh không hiểu vì sao mình lại nhiễm bệnh và

phải làm thế nào mới thoát khỏi nó ngoại trừ cái chết! Tương tự như vậy, những

người da đen, những người Do Thái, họ không hiểu vì sao kẻ khác cứ thích chà

đạp họ, sỉ nhục họ, truy sát họ? Có lẽ họ cũng đã không ít lần cật vấn: Làm thế

25

nào để thoát khỏi sự phân biệt này nếu không phải là việc khước từ chính bản

thân mình? Họ hoàn toàn không có tội khi sinh ra là một người da đen hay một

người Do Thái. Ai cũng có nguồn cội, chẳng phải người da trắng, mắt xanh cũng

có nguồn cội của mình đó sao? Cớ sao họ lại áp đặt sự phân biệt phi lí lên đầu kẻ

khác, bắt người khác phải đau khổ vì nguồn cội của chính mình, vì dòng máu

chảy trong người mình? Dù điều đó rất phi lí nhưng trên thực tế đã có biết bao

cuộc thảm sát đẫm máu xảy ra do nạn phân biệt chủng tộc, chưa kể đến những

điều luật hà khắc dành cho họ (bị đánh dấu, không được đi học, không được có

bất động sản, không được ra ngoài vào buổi tối,…).

Cũng như đội y tế của Rieux, cũng như Bucky Cantor, suốt mấy thế kỉ qua,

những người bị phân biệt, kì thị chủng tộc đã không chịu buông xuôi, không

chịu đầu hàng trước nghịch lí trớ trêu, họ đã không ngừng tranh đấu để giành lại

quyền con người cho mình. Đã có những phong trào đấu tranh nổi tiếng trong

lịch sử như: các phong trào đấu tranh của cựu tổng thống Nelson Mandela chống

phân biệt người da đen ở Nam Phi, các phong trào của mục sư Martin Luther

King, nhà hoạt động nhân quyền vĩ đại của nước Mỹ,…

Trong Dịch hạch, Camus nhấn mạnh với độc giả rằng dịch bệnh có thể bị

đẩy lùi nhưng nó vẫn ẩn nấp đâu đó hòng đe dọa con người bất cứ lúc nào có cơ

hội: “vi trùng dịch hạch không bao giờ chết và mất hẳn. Nó có thể nằm yên

hàng chục năm trong đồ đạc, quần áo, nó kiên nhẫn đợi chờ trong các căn

buồng, dưới hầm nhà, trong hòm xiểng, trong khăn mù xoa và các đống giấy

má,…và một ngày nào đó, để gây tai họa cho con người và dạy họ bài học, dịch

hạch có thể đánh thức đàn chuột của nó dậy và bắt chúng chạy đến lăn ra chết ở

một đô thành nào đó đang sống trong hạnh phúc và phồn vinh” [6, tr.400].

Cũng giống như nạn phân biệt chủng tộc, dù có được xoa dịu bằng những đạo

luật mới, tôn trọng nhân quyền hơn nhưng chắc chắn đâu đó trong cuộc sống

hôm nay vẫn còn không ít những sự phân biệt, dù nó không hề có lí do, bởi cái

phi lí vốn là bản chất của thế giới, nó không biến mất mà chỉ cùng song song tồn

26

tại với con người, chỉ có thể dung hòa chứ không xóa bỏ được nó.

Dịch bệnh được xem là ẩn dụ cho nạn kì thị, phân biệt chủng tộc bởi vì nó

cũng gây ra những cái chết vô tội, gây ra sự bất công và đau khổ cho con người

như là dịch bệnh. Cái chết trong sự kì thị, cũng giống như trong dịch bệnh là cái

chết cô đơn, bất ngờ, mang đầy nỗi cay đắng. Nếu như những người mang dịch

bệnh phải chết trong sự thiếu vắng người thân (vì phải cách li) thì những người

bị phân biệt chủng tộc lại chết trong sự ghẻ lạnh của đồng loại, trong sự xót xa

cho nguồn gốc của chính mình. Đó là những cái chết bất thường, đột ngột,

không theo vòng xoay sinh tử bình thường của tạo hóa. Nạn phân biệt chủng tộc

và dịch bệnh đều làm ngăn cản sự tiến bộ của loài người vì phải lo khắc phục

những hậu quả của nó. Trong hai cuộc đại thế chiến, nạn phân biệt chủng tộc

tràn lan chẳng khác nào dịch bệnh,… Đó chính là cơ sở để chúng tôi cho rằng

nạn kì thị dân tộc cũng là một loại dịch bệnh. Nạn kì thị dân tộc và dịch bệnh

còn tương đồng nhau ở tính chất phi lí của nó. Không có một lí do thỏa đáng,

dịch bệnh, nạn kì thị cứ đổ ập lên đầu, mang lại cái chết cho con người… Càng

cố thoát khỏi sự phi lí thì con người lại càng thấm thía bản chất không thể thoát

được của nó.

1.4. Dịch bệnh - ẩn dụ cho những rào cản tự do

Tự do là vấn đề rất được chú ý trong Dịch hạch và Báo ứng, nó được hiểu

là việc con người có thể đến những nơi mình thích, làm những việc mình cần,

sống cuộc đời của mình, có thể tự quyết định số phận của mình. Trong hai tiểu

thuyết, các nhân vật luôn trăn trở giữa những chọn lựa, dịch bệnh khiến cuộc

sống của họ bị đảo lộn, giới hạn, ngăn cản sự tự do.

Dịch bệnh buộc con người phải chấp nhận cuộc sống cách li, phải sống

trong phạm vi không gian theo qui định để tránh lây lan cho người khác. Nếu là

những người chưa nhiễm bệnh thì họ buộc phải sống lưu đày, tù hãm khi thành

phố bị đóng cửa. Tự do bị cướp mất. Nhu cầu liên lạc với người thân bên ngoài

thành phố tưởng như rất đơn giản nhưng lại không thể nào thực hiện được trong

27

thời kì dịch bệnh. Còn đối với người nhiễm bệnh thì tự do đối với họ chỉ là hai

từ xa xỉ mà họ không bao giờ có thể chạm tới được. Bởi một mặt họ phải nằm

biệt lập trong khu chữa bệnh, mặt khác, nếu là dịch hạch thì họ không thể cử

động được mà bị kẹt cứng giữa các hạch “mạch lăn tăn và chỉ cần một cử động

nhỏ là người bệnh sẽ chết”, và nhiều người đã không thể chịu đựng nỗi, đành

thực hiện cái hành động nhỏ ấy, và chết; còn nếu là bại liệt thì họ sẽ bị sốt li bì,

đầu nhức như búa bổ, buồn nôn ghê gớm, đau nhức cơ bắp khôn tả, cứng cổ, tay

chân liệt bại hoặc phải nằm trong máy trợ thở suốt đời, họ không thể tự chủ cuộc

đời của chính mình được nữa. Rào cản tự do ở đây chính là cuộc sống tù đày, là

việc bị nhốt mình trong cái vòng dịch bệnh quái ác. Đồng thời, hình ảnh con

người không thể cựa quậy khi bị dịch bệnh khống chế khiến chúng ta dễ dàng

liên tưởng đến bộ máy chính quyền quan liêu, hà khắc, áp đặt, bóp nghẹt quyền

tự do của con người. Như vậy, dịch bệnh còn mang ý nghĩa ẩn dụ cho rào cản tự

do, đó là sự đàn áp con người của các bộ máy chính quyền.

Trong Dịch hạch, cũng vì dịch bệnh mà Rambert không thể rời thành phố,

không thể gặp lại vợ mình dù anh biết rằng mình “sinh ra để thuộc về một người

phụ nữ hơn là thuộc về nơi này” [6]. Dịch bệnh cũng khiến bác sĩ Rieux không

còn thời gian chăm sóc bản thân, không còn thời gian quan tâm hai người phụ

nữ mà ông rất mực yêu thương, đó là mẹ và vợ mình. Ở đây, dịch bệnh đại diện

cho một thứ rào chắn ngăn cản tự do yêu đương, tự do hạnh phúc của các nhân

vật. Nó khiến con người phải sống trong sự băn khoăn vì không biết đâu mới là

tự do đích thực của mình. Sau bao suy nghĩ, đấu tranh, các nhân vật trong Dịch

hạch đã thấu hiểu: chỉ có sự tự do trong tâm hồn, sống vì người khác, chiến đấu

vì người khác, đó mới là tự do và hạnh phúc thực sự. Còn trong Báo ứng, dường

như nhân vật Bucky mãi mãi không thể tìm thấy tự do cho mình dù đã cố đập vỡ

bao rào cản vì nỗi ám ảnh của dịch bệnh gây ra với anh là quá lớn. Anh luôn

sống trong trạng thái lo âu và mâu thuẫn. Ban đầu, Newark xảy ra dịch bại liệt,

Bucky nghĩ rằng tự do của anh là thoát ra được ổ dịch, vì vậy, anh chạy trốn

28

công việc hiện tại để đến Idian Hill, nhưng anh vẫn không cảm thấy được tự do,

yên ổn ở đây (dù rằng có những học trò ngoan bên cạnh, có Macia – được tự

tình đêm đêm với nàng) bởi một lí do duy nhất là nơi đây vẫn có dịch bại liệt,

vẫn có những đứa trẻ chết. Một lần nữa, Bucky chạy khỏi nơi mà anh vẫn cho là

tự do để đi tìm sự thật. Và chính sự thật rằng anh bị bại liệt đã trở thành rào cản

mãi mãi không thể nào phá nổi che lấp sự tự do của anh. Bucky vĩnh viễn bị

giam hãm trong mặc cảm tội lỗi và dịch bệnh đã cướp đi niềm tự do sống kiêu

hãnh dưới ánh mặt trời của anh.

Tiểu kết chương 1: Đề tài dịch bệnh trong hai tiểu thuyết Dịch hạch của

Albert Camus và Báo ứng của Philip Roth được xây dựng như một ẩn dụ cho cái

phi lí và những nỗi ám ảnh của con người trong thế giới. Hành trình sống của

con người luôn song hành với cái phi lí, ở tầm nhân loại đó là chiến tranh, nạn kì

thị dân tộc, ở phạm vi cá nhân, đó là những khiếm khuyết, những cái ác, cái xấu,

luôn xâm nhập, tấn công con người mà họ không có cách nào thoát ra được, cái

phi lí còn là những rào cản tự do ngăn chặn con người tìm đến cuộc sống hạnh

phúc. Tất cả những điều này luôn đeo đẳng, bám riết lấy con người gây cho họ

những ám ảnh to lớn. Như vậy, việc chọn đề tài dịch bệnh cho tiểu thuyết,

Camus và Roth đã thể hiện được sự nhạy cảm và sâu sắc trong cách cảm nhận

về thế giới của mình. Đề tài dịch bệnh ẩn dụ cho cái phi lí, tạo nên những nỗi ám

ảnh ở con người. Và hai yếu tố đó đã có sự chi phối mạnh mẽ trong nghệ thuật

xây dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng, điều này sẽ được chúng tôi làm rõ ở

chương hai – Sự chi phối của quan niệm phi lí và những nỗi ám ảnh vào nghệ

thuật xây dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng.

29

Chương 2. SỰ CHI PHỐI CỦA QUAN NIỆM PHI LÝ VÀ

NHỮNG NỖI ÁM ẢNH ĐỐI VỚI NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG

CỐT TRUYỆN DỊCH HẠCH VÀ BÁO ỨNG

Trong nghiên cứu tiểu thuyết nói riêng, tác phẩm tự sự nói chung, cốt

truyện luôn là đối tượng được lưu ý hàng đầu, bởi lẽ, có nắm được đặc điểm cốt

truyện của một tác phẩm ta mới có thể hiểu được những vấn đề khác trong tương

quan trực tiếp hay gián tiếp với cốt truyện như: điểm nhìn nghệ thuật, người kể

chuyện, không – thời gian trong tác phẩm, cấu trúc một tác phẩm tự sự, một tiểu

thuyết, tiếp cận được mô hình tự sự mang phong cách và tài năng của nhà văn,

sự chi phối của các yếu tố văn hóa, văn minh nhân loại vào nghệ thuật xây dựng

cốt truyện.

Cốt truyện là một thuật ngữ khá phức tạp, là khái niệm cốt lõi trong nghiên

cứu văn học. Xung quanh thuật ngữ này, đã có những quan niệm đáng chú ý:

quan niệm truyền thống (Aristote, A.N.Veselovski, sau này được L.I.Timofeep,

G.N.Popspelop tiếp nối); quan niệm của chủ nghĩa hình thức Nga; quan niệm

của chủ nghĩa cấu trúc (sau này có thêm quan niệm của chủ nghĩa giải cấu trúc).

Nhìn chung, mỗi quan niệm đều có những ưu điểm và hạn chế riêng, tùy từng

lập trường nghiên cứu. Khái niệm cốt truyện mang tính chất động và ngày càng

được bổ sung, hoàn thiện theo thời gian.

Bàn về cốt truyện, Aristote chủ yếu nhấn mạnh đến hành động, sự sắp xếp

các hành động sao cho đạt được hiệu quả thẩm mĩ nhất định. Ông cho rằng cốt

truyện chính là “linh hồn của bi kịch”, cốt truyện gồm các phần chính là mở -

thân – kết (trình bày – thắt nút – phát triển – cao trào – mở nút).

Cùng gần với quan niệm của Aristote là quan niệm của L.I.Timofeep, ông

cho rằng cốt truyện chính là hệ thống các biến cố, mà những biến cố đó phải

phản ánh được những xung đột xã hội, làm bộc lộ tính cách nhân vật. Nhiệm vụ

30

của người nghệ sĩ là phải chọn lựa những biến cố, những xung đột nào mang

tính chất điển hình nhất gắn với hoàn cảnh sống của nhân vật, có giá trị khái

quát cao. L.I.Timofeep nhận định cốt truyện trong tương quan với tính cách

nhân vật, đây là hai yếu tố luôn có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Cốt truyện có

hấp dẫn hay không là do sự lý giải tính cách quyết định. Đồng thời, tính cách sẽ

cho người đọc thấy được tính chất nhiều mặt, phong phú của nội dung cốt

truyện.

Cả Aristote và L.I.Timofeep đều cho rằng các thành phần cốt truyện được

sắp xếp dựa trên một dụng ý nào đó của nhà văn. Tùy vào cách nhìn nhận, tùy

vào quan niệm, cách lý giải cuộc sống như thế nào mà nhà văn có cách xây

dựng, biểu hiện cốt truyện khác nhau.

G.N.Pospelov cho rằng cốt truyện (fabula) được xây dựng chủ yếu dựa trên

hành động của nhân vật. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh, hành động ở đây không chỉ

là những hành động tạo ra biến cố mà còn là hành động của cảm xúc, của suy

nghĩ, là “sự vận động của hành động chủ yếu chỉ xảy ra bên trong”; “fabula là

tiến trình trần thuật về sự phát triển các sự kiện, trong đó có thể bao gồm những

miêu tả khác nhau, những ý nghĩ của nhân vật, hay là của tác giả, những câu

chuyện kể xen về các sự kiện nằm ngoài tiến trình chủ yếu của truyện, và thường

phá vỡ trật tự thời gian của tiến trình sự kiện chủ yếu bằng cách cài vào những

tình tiết và dự báo hay hãm chậm sự kiện” [80]. Các sự kiện trong cốt truyện

theo G.N.Pospelov liên hệ với nhau dựa trên mối liên hệ thời gian hoặc mối liên

hệ nhân quả. Ông chủ yếu nhấn mạnh đến mối liên hệ nhân quả bởi nó giúp

người đọc có thể khám phá đươc mạch logic ẩn ngầm trong tác phẩm, đem đến

cảm xúc thẩm mĩ ở người đọc.

Qua ba quan niệm tiêu biểu của cách hiểu truyền thống, ta thấy đề xuất của

các nhà nghiên cứu đã có những đóng góp bước đầu, tạo tiền đề vững chắc cho

những nghiên cứu sau này dù quan niệm của họ chỉ dừng lại ở việc đưa ra những

31

nguyên lý chung, chỉ ra chức năng, nhiệm vụ, những mối liên hệ cơ bản của các

yếu tố trong cốt truyện.

Sau quan niệm truyền thống, các nhà chủ nghĩa hình thức Nga

(B.Tomachevski, V.Shklovski) nhấn mạnh cách hiểu cốt truyện từ việc tiếp cận,

nghiên cứu các thủ pháp hơn là bản thân các biến cố trong tác phẩm.

Qua tiểu luận Hệ chủ đề, B.Tomachevski đã nêu lên quan điểm của mình

về cốt truyện trong sự đối sánh với khái niệm “chuyện kể”:

Chuyện kể là tập hợp những biến cố có quan hệ với nhau được thông

tin cho người đọc trong suốt chiều dài tác phẩm, nó có thể được tóm

tắt theo trật tự biên niên hay nhân quả của các biến cố mà không phụ

thuộc vào thứ tự được trình bày. Còn cốt truyện thì đi theo trình tự

xuất hiện của các biến cố. Nói cách khác, mối quan hệ giữa các biến

cố trong chuyện kể mang tính thời gian và đi từ nguyên nhân đến kết

quả, còn cốt truyện lại liên kết các motip theo trình tự xuất hiện trong

tác phẩm, và như thế nó hoàn toàn là một sản phẩm được chế tác, có

tính nghệ thuật. [79].

Cùng quan điểm với B.Tomachevski, V.Shklovski, “truyện kể” luôn chú ý

đến tiến trình hành động của nhân vật với những biến cố dựa trên mối quan hệ

nhân quả hoặc biên niên, còn “cốt truyện” là sự phát triển hành động của nhân

vật, chuỗi các biến cố mâu thuẫn được thiết lập dựa trên mối liên hệ về trình tự

của các sự kiện trong tác phẩm.

Quan điểm của chủ nghĩa cấu trúc, đại diện tiêu biểu là J.Lotman , đã coi

cốt truyện là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên kết cấu tác phẩm nghệ thuật

ngôn từ. Trên nguyên tắc đối lập nhị phân ngữ nghĩa của tổ chức nội tại các yếu

tố của văn bản, J.Lotman đã xác lập cấu trúc cốt truyện trên cơ sở của một loạt

những cặp phạm trù có tính chất đối lập, liên kết với nhau theo từng cấp độ của

văn bản nghệ thuật: văn bản phi cốt truyện/văn bản có cốt truyện; không có

biến cố/có biến cố; nhân vật bất hành động/nhân vật hành động… Ông cũng yêu

32

cầu xem cốt truyện trong sự tương quan chặt chẽ với những yếu tố khác của kết

cấu tác phẩm nghệ thuật như khung khổ, không gian nghệ thuật, điểm nhìn…

[79].

Có thể thấy rằng, các nhà nghiên cứu luôn cố gắng tìm cho truyện một mô

hình trần thuật nhất định để có thể áp nó vào một tác phẩm cụ thể khi khảo sát.

Đó có thể là mô hình đồng tính của Lévi – Strauss hay ngữ đoạn trần thuật của

A.J.Greimas,… Các mô hình này thường phải đảm bảo các yêu cầu: sự vận động

tiến về phía trước đến kết thúc và việc thay đổi tình thế ban đầu làm nảy sinh

yếu tố nghĩa của cấu trúc [11, tr.77].

Tùy từng cách tiếp cận văn bản tự sự mà giới nghiên cứu có cách hiểu cốt

truyện khác nhau. Trong quá trình khảo sát cốt truyện, việc chọn ra những chi

tiết, tình huống, hành động để nghiên cứu được xem là rất quan trọng. Tuy

nhiên, những chi tiết, tình huống, hành động đó phải có giá trị nghệ thuật nhất

định, có đóng góp vào sự phát triển đề tài của tiểu thuyết hoặc truyện. Cách kết

thúc truyện cũng là một yếu tố quan trọng cần xem xét.

Trong luận văn này, chúng tôi khảo sát cốt truyện trong mối liên hệ và chịu

sự chi phối bởi tư tưởng của nhà tiểu thuyết. Cốt truyện trong cách hiểu của

chúng tôi đó là chuỗi các hành động, sự kiện, biến cố được sắp xếp một cách

nghệ thuật theo dụng ý của nhà văn. Dụng ý ấy có thể xuất phát từ những động

cơ khác nhau (động cơ hiện thực, động cơ thẩm mĩ,…) nhưng nó đều không

nằm ngoài tư tưởng của nhà văn. Trong cốt truyện tiểu thuyết, tư tưởng nhà văn

được xem là mạch logic nội tại liên kết các thành phần, yếu tố của cốt truyện, nó

qui định những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm.

Trên cơ sở cách hiểu cốt truyện như thế, chúng tôi sẽ tìm ra những tình

huống, chi tiết có giá trị nghệ thuật cao, có vai trò làm phát triển, biến đổi chủ đề

tiểu thuyết để khảo sát trong mối tương quan với các yếu tố chi phối đến cốt

truyện như: thời gian, không gian, ngôi kể,… Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ so sánh

những điểm gặp gỡ, những sự khác biệt trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện ở

33

hai tiểu thuyết Báo ứng và Dịch hạch để thấy được tài năng, phong cách của hai

nhà văn nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền văn học Mĩ và Pháp.

Trước khi đi cụ thể vào nghệ thuật xây dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo

ứng, chúng tôi xin giới thiệu sơ lược về cốt truyện của hai tiểu thuyết này. Dịch

hạch (La Peste) được chia thành 5 chương, kể về nạn dịch hạch (ẩn dụ) ở thành

phố Oran bên bờ Địa Trung Hải. Dịch bệnh bắt đầu từ sự kiện chuột chết hàng

loạt, sau đó, con người mắc phải một chứng bệnh mà các bác sĩ ban đầu không

dám gọi tên với các triệu chứng: sốt cao, nôn mửa, khó thở, có những hạch cứng

xuất hiện ở bẹn, nách, và người ta chết rất nhanh sau đó. Nhân vật trung tâm của

tiểu thuyết là bác sĩ Rieux, ông đã hành động bằng tất cả khả năng của mình để

cứu người. Ban đầu, ông hành động đơn độc, nhưng càng về sau càng tập hợp

được nhiều người (Tarou, Rambert, Grand, Panolux,…). Kết thúc truyện là sự ra

đi của dịch bệnh cùng những mất mát không bao giờ bù đắp được của những nạn

nhân. Câu chuyện không đóng hẳn mà cứ lan mãi những dư âm về dịch bệnh, sự

sống, cái chết, sự công bình, bất công, chiến tranh, tội ác,…

Báo ứng (Nemesis) là tiểu thuyết được cho là cuối cùng trong sự nghiệp

cầm bút của Philip Roth, gồm 3 phần: Newark, Idian Hill, Gặp lại. Bucky

Cantor là nhân vật chính của tiểu thuyết, anh mồ côi mẹ từ nhỏ, cha là kẻ trộm,

sống với ông bà ngoại, được học những đạo lý tốt đẹp để trở thành một ngưới

Do Thái cứng rắn, thông minh và khỏe mạnh từ hai người.Bucky không được

nhập ngũ do hai mắt bị cận, anh được nhận vào làm thầy giáo quản lý sân chơi

vào khoảng mùa hè năm 1944. Anh nhanh chóng trở thành thần tượng của bọn

trẻ ở sân chơi, cho đến khi…dịch bại liệt xuất hiện, anh dần thấy mình sụp đổ.

Bucky tìm cách chạy trốn dịch bệnh, nhưng không ngờ, anh lại chính là kẻ mang

mầm bệnh và lây cho người khác. Câu chuyện kết thúc với hình ảnh Bucky ngồi

xe lăn, sống đau khổ với những vết thương quá khứ, và cuối cùng, hình ảnh một

Bucky vạm vỡ, tràn đầy tự tin của ngày xưa hiện lên như một ánh hồi quang

34

khép lại câu chuyện. Tác phẩm mở đầu và kết thúc đều bằng hình ảnh Bucky

Cantor đầy sức lực và niềm tin, là thần tượng của lũ trẻ.

Cùng chịu sự chi phối bởi cái nhìn mang màu sắc phi lí cũng như những

nỗi ám ảnh về cuộc sống như tuổi già, bệnh tật, chiến tranh, tội ác, cái chết,…

Cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng có sự gặp gỡ, trùng hợp đến kì lạ ở nhiều chi

tiết. Cốt truyện hai tác phẩm đều xoay quanh đề tài dịch bệnh, đều thể hiện sự

hoài nghi và chán ghét Chúa, xen vào cốt truyện là biết bao suy tư mang đậm

tính chất hiện sinh về cuộc sống của con người được thể hiện qua đối thoại của

các nhân vật.

Dù có những điểm giống nhau như thế nhưng cốt truyện hai tiểu thuyết vẫn

có những điểm khác biệt do phong cách xây dựng tiểu thuyết của hai nhà văn có

những nét độc đáo riêng biệt. Nét riêng biệt này cũng xuất phát từ cái nhìn khác

nhau về con người và cuộc sống của hai nhà văn, sự khác nhau về hai nguồn tư

tưởng, hai nền văn hóa Âu - Mĩ. Nếu cốt truyện Dịch hạch chủ yếu được xây

dựng trên nền tư tưởng phi lí với những biểu hiện sinh động của nó, đồng thời

cũng mang đậm tính chất triết lí, luận đề, khiến cho tiểu thuyết này mang nặng

chiều sâu triết học, ít nhiều trở nên nặng nề, khó đọc đối với những ai không

thực sự hứng thú. Cũng sẽ có một sự hợp lí nhất định nếu gọi cốt truyện tiểu

thuyết Dịch hạch là cốt truyện luận đề. Tuy nhiên, ở đây chúng nhấn mạnh cách

thức nhà văn xây dựng cốt truyện ở những hành vi của nhân vật hơn, nên có thể

tạm gọi cốt truyện trong Dịch hạch là kiểu cốt truyện hành động. Cốt truyện Báo

ứng mang nặng nỗi ám ảnh của nhân vật chính mà đó cũng là những ám ảnh của

Philip Roth trong cái nhìn về cuộc sống. Càng về những tiểu thuyết cuối, nỗi ám

ảnh về tuổi già, bệnh tật, cái chết thể hiện hết sức rõ rệt trong tiểu thuyết của ông

(bốn tiểu thuyết cuối: Người phàm, Phẫn nộ, Các hạ, Báo ứng). Cốt truyện

mang tính chất vòng tròn, như một ẩn dụ cho vòng tròn của báo ứng, nhân quả,

vòng tròn của sinh – lão – bệnh – tử trong cuộc đời con người.

35

2.1. Quan niệm của Camus và Roth về cái phi lí và nỗi ám ảnh

2.1.1. Cái phi lí

Cái phi lí là quan niệm trung tâm trong sáng tác của Camus. Ông có hẳn

những quan niệm cụ thể về cái phi lí, được thể hiện rõ nhất trong tập tiểu luận

Huyền thoại Sisyphe, đồng thời, ông cũng thể hiện quan niệm ấy trong các sáng

tác văn chương của mình.

Nói đến quan niệm phi lí, chúng ta phải thừa nhận rằng đây không phải là

quan niệm hoàn toàn mới, do Camus sáng tạo ra mà trước ông, các tác giả khác

cũng đã nói nhiều đến vấn đề này. Với tư cách là một khái niệm triết học, từ thời

Hi Lạp cổ đại, Aristote đã đề cập đến cái phi lí, kể từ đó, nó được kế thừa và tiếp

nối qua nhiều thời kì. Nhưng có thể nói, phải đến Camus (cùng với Sartre) thì

cái phi lí mới trở thành một quan niệm thu hút nhiều sự chú ý trong triết học và

văn học (có cả một trào lưu văn học phi lí, kịch phi lí, nó lan rộng và ảnh hưởng

đến nền văn nghệ nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam).

Quan niệm về cái phi lí đã được Camus tiếp nối từ tư tưởng triết học của

Kierkegaard, Nietzsche, Heidegger, tiếp biến qua hình tượng các nhân vật phi lí

của Kafka, Dostoievski và sự sáng tạo của riêng ông. Camus có một quan niệm

khác biệt với những người đi trước ở chỗ: phi lí với ông đó là sự đáp trả dửng

dưng, vô tình của thế giới trước con người, và con người hoàn toàn không chịu

bó gối ngồi im, không tự giam cầm mình trong thế giới ấy mà luôn dùng hành

động của mình để tích cực chống trả, không bằng cách này thì bằng cách khác.

Hoặc họ sẽ cố tìm vui trong hành động sống (phải tưởng tượng rằng Sisyphe

cảm thấy hạnh phúc), hoặc đáp trả thế giới vô tình bằng sự vô tình, chống đối

thế giới dửng dưng bằng sự dửng dưng (Mersault),…hoặc hành động hết mình,

dấn thân hết mình, nhập cuộc hết mình, đoàn kết lại để “nổi loạn” để “phản

kháng” chống lại sự phi lí của cuộc đời (các nhân vật trong trong Dịch hạch).

Phản ứng với cái phi lí theo Camus không có nghĩa là con người phải chọn lấy

cái chết, chọn lấy sự tự vẫn cho mình, dù biết rằng chỉ có cái chết mới là điều

36

minh xác nhất trong thế giới bất khả tri nhận này. Ông quan niệm: “Sống tức là

làm cho cái phi lí sống, làm cho nó sống tức là trước hết nhìn thẳng vào nó. Phi

lí nghĩa là lấy lí trí sáng suốt để nhận ra hạn chế của bản thân mình”. Khi tự

nhận thức được tình trạng phi lí của cuộc sống có nghĩa là chúng ta đã trở nên

sáng suốt hơn trước đó.

Camus nhấn mạnh sự đơn điệu của cuộc sống, con người kể từ khi bị ném

vào vũ trụ là đã bắt đầu số phận lưu đày với những chuỗi ngày nhạt nhẽo, đơn

điệu, vô vị, tạo nên cảm giác trì độn, “buồn nôn”: “Ngủ dậy, lên xe điện, bốn giờ

ngồi bàn giấy hoặc làm việc ở công xưởng, nghỉ ăn cơm, bốn giờ lao động, nghỉ

ăn cơm, đi ngủ và thứ hai thứ ba thứ tư thứ năm thứ sáu rồi thứ bảy đều lặp lại

cùng một nhịp độ, lối sống đó tiếp diễn dễ dãi gần như đều đặn” [14, tr.239]. Sự

lệ thuộc thời gian dẫn đến việc hạn chế khả năng tồn tại theo Camus cũng là một

trong những nguyên nhân của cái phi lí. Bởi luôn trăn trở với câu hỏi “bao giờ”,

“khi nào” thoát ra cảnh sống trì độn ấy nên con người càng thấy mình ngộp thở,

đông cứng lại trong cuộc sống lưu đày, tưởng như kéo dài vô tận. Cảm giác lệ

thuộc về thời gian cũng được Camus thể hiện rõ trong Dịch hạch (khi nghĩ rằng

phải 6 tháng mới thoát được cảnh dịch bệnh, xa cách người thân thì gần như họ

đã sống trọn khoảng thời gian dài dằng dặc đó trước khi trải qua, quan niệm của

ông lão người Tây Ban Nha về thời gian…)

Camus chủ trương khước từ cái chết cũng như khước từ cả niềm hi vọng

vào Chúa, bởi dù con người có đau khổ kêu gào thì Chúa trên cao vẫn một mực

lặng im, mọi thứ vẫn không cải thiện gì… Sự lệ thuộc vào tôn giáo, lệ thuộc vào

thời gian theo Camus sẽ làm hạn chế sự tồn tại của con người. Bởi vì, kể từ khi

được đặt vào “định mệnh” của cái phi lí khi sinh ra thì đồng thời họ cũng được

đặt sẵn vào người “sự ngoan cường” để phục vụ cho một cuộc chiến đấu không

ngơi nghỉ. Chính vì vậy, thái độ đúng đắn của con người không gì khác hơn là

sự đấu tranh chống trả bằng mọi cách chứ không phải là sự ru ngủ trong niềm tin

tôn giáo hay thả trôi định mệnh vào thời gian (hình ảnh lão già hen suyễn và

37

quan niệm về thời gian: ông cho rằng 50 năm đầu thời gian sống là do con người

quyết định, 50 năm sau, thời gian không do con người quyết định nữa, con

người bị lọt thõm vào định mệnh của cái phi lí và không nên chống cự). Chính

điều này cũng làm cho cái phi lí ở Camus khác với các nhà văn trước đó.

Cái phi lí của Kafka mang tính khách quan, nhân vật của ông loay hoay

trong nó mà không tìm được nguyên do, thế giới ngoài kia bỗng chốc biến thành

mê cung, con người phải lưu đày trong kiếp sống loài bọ hay một ngày vô tình

họ bị kết tội mà lại không biết mình mang tội gì,…để cuối cùng các nhân vật

trong tiểu thuyết Kafka đều đi đến một kết cục thảm khốc, không thể lí giải

được, đó là cái chết. Ngược lại, cái phi lí của Camus lại mang màu sắc chủ quan,

nó là cái do con người nhận thấy. Dẫu sao thì Camus vẫn tìm được lời giải đáp

trong các tác phẩm của mình bằng hành động phản kháng của nhân vật:

Meursaul phản kháng cuộc đời phi lí bằng thái độ dửng dưng, lạnh lùng, các

nhân vật trong Dịch hạch phản kháng bằng cách đoàn kết lại chống dịch bệnh,

Clamence trong Sa đọa thì thể hiện qua tràng độc thoại khá dài, là sự phân thân

giữa “cái phi lí” và “sự phản kháng”. Qua cách xây dựng cốt truyện nhấn mạnh

hành động phản kháng của các nhân vật, Camus muốn cho chúng ta thấy rằng

phản kháng là điều cần thiết, là phương thức hữu hiệu nhất để vượt qua thân

phận phi lí: “Tôi phản kháng vậy thì chúng ta cùng tồn tại” (Người phản kháng).

Như vậy, với Camus, phản kháng một mặt giúp chống lại cái phi lí, mặt khác, nó

giúp gắn kết con người lại với nhau, là con đường “đi từ cô đơn đến tập hợp”.

Dịch hạch được Camus bắt đầu sáng tác từ năm 1941, đây là giai đoạn

nước Pháp đang chịu ảnh hưởng nặng bởi nạn phát xít. Tác phẩm không hoàn

thành ngay sau đó mà bị gián đoạn một thời gian do nhà văn bận làm chủ bút

cho báo Combat và cho ra đời bộ ba tác phẩm phi lí: Người xa lạ, Huyền thoại

Sisyphe, Caligula. Mãi đến 1947 ông mới hoàn thành tiểu thuyết này. Dù không

nổi tiếng bằng Người xa lạ nhưng có thể nói rằng đây là tác phẩm thể hiện độ

chín trong ngòi bút của Camus khi viết về cái phi lí, sau bao trải nghiệm về đời

38

thực (tham gia lực lượng kháng chiến Combat) và trải nghiệm sáng tác (Camus

hoàn thành bộ ba phi lí: Người xa lạ, Huyền thoại Sisyphe, Caligula rồi mới trở

lại sáng tác Dịch hạch). Có thể nói, Dịch hạch là tác phẩm hoàn thiện quan niệm

về cái phi lí của Camus đi từ phân li (Người xa lạ) đến sám hối (Sa đọa) và tập

hợp (Dịch hạch). Cốt truyện Dịch hạch sản phẩm hư cấu dựa trên tư tưởng phi lí

của Camus, thể hiện được nhiều vấn đề quan trọng của nhân sinh.

Không được biết đến nhiều với tư cách vừa là nhà văn, vừa là nhà triết

học nhưng với số tượng tác phẩm đồ sộ của mình, ít nhiều, Philip Roth cũng đã

gửi gắm cách nhìn về cuộc đời mang tính chất phi lí cũng khá rõ nét. Trước hết,

đề tài mà Roth thường hay hướng tới đó là nạn phân biệt chủng tộc (một sự phân

biệt phi lí). Tiếp đến, ông rất hay đề cập đến cái chết, một điều xác thực nhất

trong chuỗi đời sống phi lí. Ông cũng thể hiện sự bất tín đối với Chúa, với

Thượng đế, bởi đó chỉ là một tên “đao phủ”, “một kẻ giết người máu lạnh”, một

tên “chuyên giết trẻ con”,… Không phát biểu trực tiếp những quan niệm của

mình, bởi Roth đã từng nói rằng, ông muốn người khác biết đến tư tưởng của

ông qua các tiểu thuyết ông viết. Chính vì vậy mà tiểu thuyết Roth thường mang

tính chất bán tự thuật, các nhân vật trong tác phẩm thường là một hình ảnh hư

cấu mang dáng dấp của ông (Zuckerman), không gian các tác phẩm thường là

Newark hay Jersey, nơi ông gắn bó. Có người còn cho rằng tiểu thuyết Roth

không vượt quá phạm vi nước Mĩ chính là vì vậy. Tuy nhiên, xét về mặt tư

tưởng, nghệ thuật tiểu thuyết thì ngòi bút của ông chắc chắn có thể vươn xa hơn

phạm vi nước Mĩ, bởi ông luôn chú trọng đến những vấn đề mang đậm tính chất

hiện sinh, nó là suy nghĩ chưa nói ra của biết bao người không chỉ trên đất nước

ông mà còn là vấn đề của nhân loại nói chung như: tuổi già, bệnh tật, cái chết,

niềm tin, lí tưởng sống,…, những vấn đề về nghệ thuật tiểu thuyết trong thời đại

mà nó có thể “giãy chết” bởi sự xâm lấn của kĩ thuật, công nghệ hiện đại. Tiểu

thuyết phải có sự thay đổi nhất định trong nghệ thuật xây dựng, bởi nếu không,

nó sẽ hoàn toàn mất đi vị trí của mình. Đây cũng chính là nguyên nhân thôi thúc

39

chúng tôi tìm hiểu đề tài này. Chúng tôi muốn lí giải tại sao giữa thời đại công

nghệ này, tiểu thuyết của Camus (Dịch hạch) và Philip Roth (Báo ứng) vẫn còn

có thể thu hút sự chú ý của người đọc đến như vậy. Nghệ thuật xây dựng tiểu

thuyết của hai ông có gì đặc biệt chăng? Một nhà văn đạt giải Nobel (Camus) và

một nhà văn đạt rất nhiều giải thưởng văn học lớn nhỏ, người đầu tiên được viết

tiểu sử khi vẫn còn sống, người đang được dự định sẽ đề cử nhận giải Nobel văn

học (Roth),…ắt hẳn phải có một sự đặc biệt trong nghệ thuật xây dựng tiểu

thuyết, tiêu biểu là qua Dịch hạch và Báo ứng.

Cái nhìn phi lí của Roth về cuộc sống được thể hiện ở việc ông không tin

vào Chúa. Ông đã nói lên quan điểm này trong một cuộc trả lời phỏng vấn với

Rita Braver: “Khi cả thế giới không tin vào Thiên Chúa, nó sẽ là một nơi tuyệt

vời” [98]. Với Roth, tôn giáo chỉ là một sự ngụy tạo, sự dối trá: “Tôi chống tôn

giáo (...) Tôi ghét những lời nói dối tôn giáo. Đó là tất cả một lời nói dối lớn”.

Ông nói điều đó trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Đan Mạch Martin

Krasnik.

Như vậy, quan niệm của Roth về cuộc sống có một số nét khá giống với

Camus. Tuy nhiên, qua Báo ứng và một số tác phẩm gần đây của ông như:

Người phàm, Phẫn nộ, Các hạ,… Chúng ta có thể nhận thấy rằng, cùng nhìn

cuộc đời mang đầy những phi lí nhưng nếu như Camus kêu gọi hành động để

chống trả cuộc đời phi lí thì nhân vật của Roth lại thụ động hơn. Họ nhìn nhận

cái phi lí của cuộc đời và chịu đựng nó, bi quan với nó, và mang nặng những ám

ảnh vì nó. Phi lí của Roth mang màu sắc bi quan hơn. Chính điều này dẫn đến

thế giới bao trùm trong sáng tác của ông chính là thế giới của những nỗi ám ảnh,

mà sự chi phối tiêu biểu của nó được thể hiện rõ trong cốt truyện Báo ứng.

2.1.2. Nỗi ám ảnh

Tiếp theo cái nhìn phi lí bi quan về cuộc sống là những nỗi ám ảnh thường

xuyên xuất hiện trong sáng tác của Philip Roth ở những tác phẩm giai đoạn gần

đây. Đó là những ám ảnh về tuổi già, sự lão hóa, bệnh tật, sự bất lực và cái chết.

40

Roth là nhà văn rất ngại tham gia các cuộc phỏng vấn, và khi tham gia thì cũng

rất dè dặt (không bao giờ mỉm cười), chỉ có thể tìm được tư tưởng của nhà văn

này qua các sáng tác của ông. Tiểu thuyết của ông thường xoay quanh các chủ

đề bán tự truyện nói về các giai đoạn trong đời sống của mình, kết hợp với bình

luận xã hội và châm biếm chính trị. Roth luôn mang một niềm ám ảnh to lớn về

những đứa trẻ người Do Thái, cuộc sống người Do Thái. Những điều này

thường xuyên xuất hiện trong tác phẩm của Roth, các nhân vật chính, nhân vật

được nhắc đến, nhân vật gây mối bận tâm suy nghĩ cho cốt truyện đều là người

Do Thái, họ luôn bị đặt vào những tình thế mang nhiều nguy cơ, rủi ro (Bucky

Cantor, Những đứa trẻ người Do Thái trong Báo ứng và nguy cơ bại liệt, nhân

vật Roth, Zuckerman,…). Roth từng nói rằng “những nỗi sợ hãi và ám ảnh của

thế hệ chúng tôi là trẻ em Do Thái Mỹ. Trong tuổi đôi mươi của tôi, tôi muốn

chứng minh với bản thân mình rằng tôi không sợ tất cả những điều đó. Nó

không phải là một sai lầm khi muốn chứng minh rằng, mặc dù, sau khi nó đã

qua, tôi hầu như không thể viết khoảng ba hoặc bốn năm.”

Nỗi ám ảnh tuổi già, bệnh tật, sự lão hóa, bất lực cũng thường xuyên xuất

hiện trên trang viết của Roth, là đề tài chính để ông khai thác. Nhân vật không

tên trong Người phàm luôn cảm thấy khổ sở vì thể trạng không khỏe mạnh của

mình, từng giai đoạn trong cuộc đời đều là những giai đoạn ông phải đối diện

với nỗi sợ hãi, nỗi ám ảnh do bệnh tật mang lại: thoát vị đĩa đệm (lúc nhỏ), lớn

hơn, ông phải trải qua những đau đớn, khổ sở, bực bội của việc phải đặt những

thiết bị làm thông mạch máu, đặt hệ thống rung tim (tim giả) để tranh nguy cơ

đột quỵ. Đến cuối đời, niềm khao khát phụ nữ vẫn không nguôi trong lòng người

đàn ông này, nhưng sự bất lực đã khiến ông trở nên dè dặt, mất tự tin vào cuộc

sống, bẽ bàng trước số phận, tự trở thành trò cười trong niềm khao khát mà bản

thân mình không thể dập tắt được. Bản năng tình dục, khao khát tình dục cũng

đồng nghĩa với khao khát sống, bản năng sống của con người. Bi kịch là ở sự

mâu thuẫn giữa một bên là khao khát tình dục nhưng bất lực, khao khát sống

41

nhưng bị chối từ. Roth cho ta thấy được một điều phi lí: con người được sinh ra

để sống nhưng lại phải chết, con người luôn khao khát sống nhưng tuổi già, bệnh

tật, sự lão hóa lại chống đối với niềm khao khát đó. Không giải thoát được,

không làm quen được, không chấp nhận đươc sự thật đó, con người mang nặng

những ám ảnh của thực tại phũ phàng mang lại. Làm thế nào mà tôi mạnh khỏe,

tràn đầy sức sống, mang trong mình biết bao năng lượng của ngày hôm qua lại

trở nên yếu đuối, tàn tạ, và sẽ chỉ có thể tàn tạ và yếu đuối hơn thôi?! Làm thế

nào mà tôi – người từng hít thở bầu không khí này, từng vui vẻ, từng đam mê,

từng thành công, từng gánh vác, từng cưu mang kẻ khác, giờ lại không được hít

thở nữa, không được là mình nữa, không làm được những điều mình đã từng

làm nữa? Sự sụp đỗ ám ảnh con người khi dần đi vào những năm tháng cuối

đời,…

Trên tất cả, đó là nỗi ám ảnh về cái chết. Không khác mấy so với Camus,

Roth cũng cho rằng cái chết là điều minh xác nhất giữa cuộc đời đầy những

ngổn ngang, phi lí này. Bằng chứng là ông thường hay bàn về cái chết, bàn về

nó một cách sâu sắc. Thực tế cuộc sống của Roth bị ám ảnh bởi cái chết của cha,

mẹ và một người bạn đồng nghiệp của ông. Roth thừa nhận rằng ông sợ cái chết:

khi người phỏng vấn – nhà báo Đan Mạch Martin Krasni hỏi rằng “Ông sợ chết

chứ?”, Roth đã trả lời: “Vâng, tôi sợ. Thật kinh khủng”, “Đó là một điều đau

lòng. Đó là điều không thể tưởng tượng. Thật khó tin. Không thể chịu nổi” [86].

Cuộc đời sáng tác của Roth quả không bằng phẳng và dễ dàng, ngược lại,

nó mang nhiều lo âu và ám ảnh. Tuy nhiên, cũng như Camus, ông khước từ việc

tìm sự cứu cánh ở tôn giáo: “Khi tôi viết, tôi một mình. Nó chứa đầy nỗi sợ hãi

và sự cô đơn và lo lắng, và tôi không bao giờ cần tôn giáo để cứu tôi”. Viết về

cái chết, Roth thể hiện sâu sắc những trăn trở đậm chất hiện sinh về vấn đề dù

buồn bã nhưng rất đáng quan tâm của con người.

Cái nhìn phi lí thường đi liền với nỗi ám ảnh. Khi chống trả lại cái phi lí

không có nghĩa là con người không bị nó ám ảnh, chỉ là vì lúc đó họ đã dùng hết

42

khả năng có thể để chống lại, cảm giác phi lí luôn luôn xảy ra trong tiến trình

sống, và nhân vật của Roth đau đớn, cay đắng, chịu đựng sự ám ảnh về cái phi lí

thì nhân vật của Camus cũng đau đớn nhưng không buông xuôi mà cố sức vùng

vẫy để vượt thoát sự phi lí. Trong tác phẩm của mình, Camus mang nặng những

ám ảnh về các vấn đề thân phận con người, về bệnh tật, sự bất công, chiến tranh,

cái chết. Những vấn đề này thường trở thành đề tài trong các sáng tác của ông.

Tư tưởng phi lí và nỗi ám ảnh chi phối rất rõ rệt trong nghệ thuật xây

dựng tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng. Cốt truyện hai tác phẩm này có điểm

chung là nói về tình trạng loay hoay tìm lối thoát của con người trong hoàn cảnh

dịch bệnh. Tư tưởng phi lí và nỗi ám ảnh chi phối cách xây dựng chi tiết, tình

huống và cách kết thúc truyện. Bên cạnh đó, khi xem xét cốt truyện trong mối

tương quan với người kể chuyện, ngôi kể, ta sẽ thấy rằng hai tư tưởng này, đặc

biệt là tư tưởng phi lí có ảnh hưởng đến cách lựa chọn cách thức kể chuyện, ngôi

kể (người kể chuyện đóng hai vai và cách kể chuyện nước đôi trong Dịch hạch;

người kể chuyện đóng hai vai cũng là cách chọn ngôi kể của Roth trong Báo

ứng). Các thành phần xen cốt truyện cũng có vai trò quan trọng, làm nền để cái

phi lí và nỗi ám ảnh thể hiện rõ nét, chi phối sâu sắc trong cốt truyện hai tác

phẩm.

2.2. Sự chi phối của quan niệm phi lí đối với nghệ thuật xây dựng cốt truyện

Dịch hạch và Báo ứng

Nghiên cứu sự chi phối của một quan niệm, một tư tưởng vào nghệ thuật

xây dựng tiểu thuyết ở phương diện cốt truyện tức là tìm hiểu xem tư tưởng,

quan niệm về thế giới và con người của nhà văn có ảnh hưởng như thế nào trong

cách tổ chức, xây dựng và sắp xếp các chi tiết, tình huống của cốt truyện, bao

gồm cả cách kết thúc truyện.

Phi lí là quan niệm trung tâm và xuyên suốt trong cả sự nghiệp sáng tác

của Camus. Tuy sự nghiệp ấy không mấy đồ sộ về số lượng tác phẩm nhưng do

chiều sâu và sự phức tạp của tư tưởng mà sáng tác của Camus luôn thu hút sự

43

quan tâm của các nhà nghiên cứu. Nói đến quan niệm phi lí trong sáng tác của

ông, người ta thường nhắc đến Dịch hạch sau Người xa lạ và Huyền thoại

Sisyphe. Tuy nhiên, nếu như tính chất phi lí trong Huyền thoại Sisyphe mang

nặng tính luận đề, tư tưởng, cái phi phí trong Người xa lạ hòa vào cách xây dựng

nhân vật chính – Mersault thì trong Dịch hạch, Camus lại chú ý ở một khía cạnh

khác của nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết đó là cốt truyện. Xây dựng cốt truyện

với trung tâm là việc con người loay hoay tìm đường thoát ra nạn dịch hạch,

thoát khỏi cảnh sống cách li chẳng khác gì lưu đày, Camus đã thể hiện rõ nét

yếu tố phi lí trong cốt truyện của mình.

Hoàn toàn thống nhất với hệ thống quan niệm đưa ra trước đó, nhà văn đã

cho người đọc thấy rằng, không gì thấm thía cảm giác phi lí bằng cách sống

trong một trận dịch truyền nhiễm mà nguy cơ chết luôn rất cận kề, phải sống

cuộc sống lưu đày không biết đến bao giờ mới thoát được.

Trước hết, quan niệm này chi phối cốt truyện Dịch hạch qua việc tạo

dựng các chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm. Đó là những chi tiết được lặp lại

nhiều lần, dẫn dắt người đọc thấy được thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm,

đồng thời, gợi những liên tưởng sâu sắc, thú vị, những cảm xúc tinh tế ở người

đọc. Chi tiết nghệ thuật là “các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm

xúc và tư tưởng…tùy theo sự thể hiện cụ thể chi tiết nghệ thuật có khả năng thể

hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu

điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm” [25, tr.51]. Thông thường, một

tác phẩm hay sẽ có rất nhiều chi tiết hấp dẫn, cuốn hút người đọc. Ở đây, chúng

tôi không khảo sát hết tất cả các chi tiết mà chỉ dừng lại ở những chi tiết được sử

dụng một cách hệ thống và có giá trị kiến tạo cốt truyện một cách độc đáo.

Chi tiết thói quen là một chi tiết quan trọng không thể không nhắc tới khi

khảo sát cốt truyện Dịch hạch. Mở đầu tác phẩm, Camus giới thiệu những sinh

hoạt được lặp lại một cách vô vị của người dân thành phố Oran: đi làm suốt tám

tiếng các ngày trong tuần, cuối tuần thi uống cà phê, chơi cờ, quan hệ nam nữ thì

44

chỉ có hai dạng – một là ngấu nghiến nhau nhanh chóng, hai là sống bên nhau

suốt đời, thành phố ngột ngạt dưới ánh mặt trời chói chang và con người sống

được một cách bình thường ở đây là do họ cố tạo lập cho mình những thói quen.

Chi tiết này gợi ấn tượng về cảm giác trì độn, “sự đơn điệu của những hành

động, sự “buồn nôn” về cái máy móc hay về một sự tồn tại “không mục đích”.

Chi tiết này tạo ấn tượng về nguyên nhân của cái phi lí. Trải suốt chiều dài tác

phẩm, Camus cũng hay nhắc đến thói quen, sự tạo lập và phá vỡ thói quen.

Không gian mà Camus chọn để thể hiện thông điệp của mình chính là

thành phố Oran. Sẽ là một điều bình thường, dễ hiểu nếu đây là nơi đã xảy ra

dịch hạch. Tuy nhiên, trên thực tế, vào những năm 1940, hoàn toàn không có

dịch bệnh nào xảy ra ở thành phố Oran. Như vậy, chọn không gian này, hẳn nhà

văn có một dụng ý khác chứ không đơn thuần là phản ánh thực tế. Chúng ta có

thể lí giải phần nào dựa vào điều kiện tự nhiên của Oran: đây là một thành phố

thuộc Algieria nằm bên bờ Địa Trung Hải, bị bao quanh bởi rừng và biển, nằm

biệt lập với thế giới bên ngoài, thành phố quay lưng ra biển và con người luôn

phải tìm kiếm nó. Không gian này gợi cảm giác lưu đày rõ rệt. Người dân thành

phố Oran luôn quay theo guồng máy của công việc và thời gian, họ không còn

sống cho mình mà sống vì một cái gì khác bên ngoài mình. Như vậy, họ bị lưu

đày ngay trong chính thói quen sinh hoạt của chính mình. Không thoát khỏi cảm

giác trì độn, vô vị này, con người cảm thấy cuộc đời là một chuỗi của những

điều phi lí. Đó là về con người, còn về không gian biệt lập của Oran gợi ấn

tượng về nơi con người bị cầm tù. Họ là những “tù nhân” trên chính “vương

quốc” mà mình đang sống. Đây có lẽ cũng là lí do khiến ban đầu Camus đặt tên

tác phẩm là Những người tù rồi sau đó mới đổi lại thành Dịch hạch. Đặt tên cho

tác phẩm là Dịch hạch sẽ có tính bao quát, có ý nghĩa biểu tượng hơn là Những

người tù, bởi Những người tù chỉ gợi được cảm giác lưu đày, đúng nhưng chưa

phản ánh đủ những khía cạnh của cái phi lí trong quan niệm của Camus. Dịch

hạch sẽ gợi ra nhiều liên tưởng, nhiều ý nghĩa, phản ánh được nhiều khía cạnh

45

của cái phi lí hơn. Dịch hạch là một sự lan tỏa vượt qua sự kiểm soát về sự trì

độn, máy móc của cuộc sống, về sự tấn công của cái xấu, cái ác đối với con

người, sự thống trị của những quan niệm tiêu cực, dịch hạch là góc khuất với

những thói xấu trong tính cách con người,…

Chi tiết thành phố quay lưng ra biển, con người phải luôn đi tìm kiếm biển

không phải là một sự ngẫu nhiên bình thường mà nó thể hiện dụng ý của nhà

văn trong xây dựng tiểu thuyết ngay cả ở chi tiết nhỏ nhất đó là chọn không gian

cho tác phẩm. Chi tiết này mang đậm chất hiện sinh: hành trình sống của con

người là hành trình đi tìm bản ngã, cũng như hành trình người dân Oran đi tìm

biển (những ngày tháng dịch bệnh hoành hành, họ không thể tìm biển…).Cuộc

đời vốn mang bản chất phi lí, khi con người tự hỏi: Ta là ai? Ta sinh ra để làm

gì? Ta sẽ đi về đâu? Là lúc họ thấy rõ nhất bản chất phí li của cuộc đời, vì họ

mãi mãi không có lời đáp chính xác cho những câu hỏi đó. Và vì vậy, họ mãi

mãi tìm kiếm bản ngã của chính mình. Chỉ một chi tiết nhỏ nhưng Camus đã thể

hiện được dụng ý nghệ thuật của mình trong việc phát biểu quan niệm phi lí một

cách hết sức tinh tế. Ông được mệnh danh là “một người nghệ sĩ khi phát biểu

các quan niệm triết học” quả không sai.

Sự mơ hồ cũng là chi tiết thường xuyên được lặp lại trong Dịch hạch cho

người đọc thấy được một khía cạnh của cái phi lí. Sự mơ hồ nằm trong cảm giác,

trong ý nghĩ của nhân vật, là trạng thái loay hoay, không định hướng, rất khó

xác định được bất cứ điều gì. Đó chính là tình trạng sống của con người trong

cuộc đời này. Con người không bao giờ tìm ra được ý nghĩa tận cùng hoặc tìm

được lí do của bất cứ những gì đang xảy ra một cách rõ ràng và chính xác. Một

khi không chấp nhận sự tương đối, con người sẽ thấy mọi thứ rất mơ hồ. Với

Rieux “dịch hạch, cũng như trạng thái mơ hồ, thật là đơn điệu”. Những gì gắn

với dịch hạch đều là mơ hồ, đều đối lập với hạnh phúc của con người. Từ “mơ

hồ” được lặp lại 24 lần trong tác phẩm như một sự nhấn mạnh của Camus về

46

một khía cạnh đáng quan tâm của tình trạng vô lí mà dịch hạch đã gieo rắc

xuống cuộc sống con người.

Hình ảnh Chúa luôn trở đi trở lại trong toàn bộ tác phẩm. Đây là hình ảnh

có tính chất kết nối các sự kiện, biến cố, làm sáng rõ đề tài của tiểu thuyết. Chúa

hay tôn giáo nói chung là nơi con người hay tìm đến làm chỗ dựa tinh thần khi

gặp đau khổ, bất hạnh. Nhưng với cái nhìn hiện sinh mang màu sắc phi lí về

cuộc sống, Camus không chấp nhận những gì không thuộc về thực tế, không làm

con người hành động để khẳng định mình. Rieux không quan tâm đến Chúa, chỉ

quan tâm đến những gì về con người: “Rieux đáp là (…) nếu ông tin vào một

Thượng đế toàn năng thì ông đã không còn chạy chữa cho người ta nữa” [6,

tr.169]. Cùng quan điểm đó, Tarou muốn trở thành một vị thánh không Chúa, xả

thân vì cộng đồng. Đối với quan niệm của Panolux, các nhân vật chính trong tác

phẩm tỏ ra không bằng lòng, và sự không bằng lòng đó thể hiện rõ nét hơn qua

sự gay gắt của Rieux đối với Panolux khi chứng kiến cái chết của Jacques

Othon, con của thẩm phán Othon. Qua việc xây dựng hình ảnh Chúa với những

mâu thuẫn trong cách nhìn nhận của nhân vật, Camus đã thể hiện thái độ thách

thức Chúa và hướng con người đến hành động chiến đấu như những con người

thực sự, hãy thôi dựa dẫm vào Chúa, hãy can đảm thực hiện trọng trách làm

người của mình – một trọng trách mà lâu nay họ đã phó mặc cho Chúa… Điều

đau khổ nhất sẽ xảy đến khi con người không còn đặt niềm tin ở mình mà đặt

lầm chỗ khác, hư vô và chưa hề biết tới.

Hình ảnh Chúa xuất hiện thường xuyên, là đề tài cho những nỗi trăn trở

của nhân vật, có vai trò rất lớn trong việc tạo ra sự thống nhất trong quan điểm

nghệ thuật và xây dựng tác phẩm của Camus, tạo sự chặt chẽ, tạo mạch ngầm

buộc người đọc phải suy nghĩ và lí giải. Chính quá trình tìm tòi mạch ngầm và lí

giải tác phẩm tạo sự cuốn hút đặc biệt cho cốt truyện tiểu thuyết Dịch hạch. Mỗi

nhân vật trong tiểu thuyết đều có một quan niệm, một cách nhìn nhận về Chúa.

Qua mỗi cách nhìn nhận ấy, tính cách nhân vật dần được bộc lộ một cách đa

47

dạng và sâu sắc. Với Camus, con người không thể trông cậy vào Chúa vì trước

tất cả những đau khổ của con người, Chúa vẫn một mực lặng thinh. Năm 1932,

Camus và một người bạn đã cùng chứng kiến một tai nạn tại Algieria – một em

bé Hồi giáo đã bị xe bus đâm phải và hôn mê. Camus đã chỉ tay lên trời và nói

với người bạn: “Anh thấy không? Ông ta nín thinh.” Sự im lặng ấy là dấu hiệu

cho sự dửng dưng và một điều cảnh báo rằng con người đừng tin vào Chúa nữa

vì điều đó hoàn toàn phi lí, không có một ý nghĩa gì cả. Tháng bảy năm 1944,

trong lá thư gửi cho người bạn Đức, Camus viết: “Ánh bình minh sẽ ló rạng và

các anh cuối cùng sẽ chiến bại. Tôi biết rằng, vốn chẳng đoái hoài gì tới những

ghê tởm của các anh, ông trời cũng sẽ dửng dưng khi các anh bại trận một cách

xứng đáng. Ngay cả hôm nay, tôi cũng chẳng mong đợi gì ở trời.” Chúa trong

Dịch hạch là một đại diện tiêu biểu cho cái phi lí có sức chi phối con người hết

sức mạnh mẽ. Dù muốn hay không thì vẫn còn rất nhiều tín đồ trung thành với

Chúa, trung thành tin tưởng vào sự hiện hữu của Chúa.

Sở dĩ hình ảnh Chúa lại được quan tâm nhiều trong tác phẩm bởi vì hình

ảnh ấy gắn liền với chi tiết về cái chết. Khi đối diện với cái chết, con người mới

thấy được rằng có nên tin Chúa hay không khi mà Chúa trên cao vẫn một mực

lặng im giữa lúc con người khổ sở kêu cứu. Chi tiết cái chết có vai trò rất quan

trọng làm nên cái hay trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Dịch hạch của

Camus. Đây là chi tiết được xây dựng dựa trên sự chi phối của quan niệm phi lí

của Camus trong cách nhìn cuộc sống. Với ông, mọi thứ trong cuộc đời này đều

là phi lí, chỉ có cái chết là xác thực. Mọi suy nghĩ, hành động của nhân vật đều

trong cảm giác là mình sắp sửa chết đi, dịch hạch mang lại cái chết đang rình rập

trên đầu mình.

Cái chết của Panolux là một cái chết khá bí ẩn, ít nhiều liên quan đến

Chúa (bởi ông phát bệnh và chết ngay sau bài thuyết giáo phản bác Chúa). Đây

là một trong những cái chết mang tính phi lí cao bên cạnh những cái chết vì

bệnh dịch khác. Cái chết này dẫn đến một loạt những vấn đề liên quan đến niềm

48

tin: con người có nên tin Chúa hay không khi Người đã gieo rắc hàng loạt đau

khổ? Chúa hay Thượng Đế mà họ hằng tin liệu có thật không khi con người vẫn

siêng năng cầu nguyện mà tai họa và cái chết vẫn tìm đến họ? Chúa liệu có phải

là đấng toàn năng hay không? Cái phi lí ở đây là Panolux không chết vì nhiễm

bệnh mà chết vì một căn bệnh gì khác mà người ta không thể khám phá ra. Cái

chết của ông có thể khiến chúng ta dễ dàng liên tưởng đến sự trừng phạt của

Chúa. Vậy, Chúa có nhân từ không khi sẵn sàng ra tay trừng phạt những kẻ phản

lại mình? Như vậy, cái chết của Panolux là một khía cạnh khác trong sự thống

nhất về quan niệm phi lí của Camus trong Dịch hạch (thống nhất với các chi tiết

về Chúa). Đỉnh cao của cái phi lí trong Dịch hạch là cái chết của Tarou ở cuối

tác phẩm, khi dịch bệnh đã chấm dứt ở thành phố Oran. Nếu như anh chết trong

lúc dịch bệnh mới bắt đầu hoặc khi nó đang ở đỉnh cao thì dù đau đớn nhưng

điều đó vẫn có thể hiểu và chấp nhận được. Nhưng Tarou lại chết trong chính

những ngày cuối cùng của dịch hạch, anh ta chết ngay ở thời điểm của vinh

quang và chiến thắng. Một cái chết phi lí như thế để chứng minh “vinh quang

chỉ là điều dối trá”. Tarou đã thua trong cuộc chiến với cái chết và số phận.

Cái chết của Tarou được Camus miêu tả rất cụ thể và chi tiết. Quan điểm

về cái phi lí được nhà văn tập trung nhiều nhất ở tình huống này, đó là sự tấn

công của dịch bệnh và cái chết không đáng có ở nhân vật Tarou. Song song với

vấn đề này, sự thật cũng là một khía cạnh quan trọng được Camus quan tâm thể

hiện khi nói về thái độ đối với cái phi lí, bên cạnh thái độ phản kháng: “Sống là

khước từ nói dối. Nói dối không chỉ là nói sai sự thật mà còn là nói quá đi sự

thật”. Nhân vật Tarou đến lúc gần chết vẫn yêu cầu Rieux cho anh biết toàn bộ

sự thật, bởi đó là cách duy nhất giúp anh sống trọn vẹn đến giây phút cuối cùng:

“Anh cứ cho tôi biết đúng sự thật” [6, tr.371]. Như vậy, qua tình huống này,

Camus đã đề xuất cách phản ứng, cách sống trong cuộc đời phi lí: hãy chiến đấu

hết mình và sống trọn vẹn từng giây phút khi còn ở trên đời, muốn như vậy, hãy

sống thật, khước từ nói dối và luôn vì con người.

49

Quan niệm phi lí còn chi phối cách xây dựng các tình huống trong cốt

truyện. Tình huống truyện là thời điểm một sự việc, một sự kiện xảy ra với nhân

vật, đặt trong tình thế đó nhân vật buộc phải thể hiện thái độ, hành động và có

giải pháp cụ thể. Tình huống được xây dựng không chỉ nhằm thúc đẩy phát triển

hành động nhân vật mà còn đóng vai trò khơi nguồn, châm ngòi, lý giải nguyên

cớ, nguồn cơn của những tâm trạng, những biến đổi vi diệu trong tâm hồn nhân

vật.

Cùng với chi tiết, tình huống tạo cho mạch truyện một đường dây chặt chẽ

với sự logic trước sau của sự kiện có liên quan tới số phận, tính cách nhân vật

đặt trong bước đi của lịch sử. Những tình huống được chúng tôi chọn khảo sát ở

đây có vai trò rất lớn trong việc làm bộc lộ, lí giải tính cách nhân vật, lí giải tư

tưởng, quan điểm nghệ thuật của Camus.

Tình huống đầu tiên tạo sức hút mạnh mẽ, có tác dụng mở ra các sự kiện

cho cốt truyện Dịch hạch đó là tình huống chuột chết. Bên cạnh các chi tiết về

thành phố Oran với các điều kiện tự nhiên và thói quen sinh hoạt đặc biệt của

nó, tình huống chuột chết đã gây ấn tượng mạnh cho độc giả, khiến người đọc tò

mò không biết sự kiện gì sẽ xảy ra phía sau… Điều gây kinh ngạc ở đây là chuột

chết không hề có lí do, chết một cách kì lạ và đáng sợ:

“Từ ngày thứ tư, chuột bắt đầu kéo ra chết hàng đàn. Từ các xó xỉnh,

công trình ngầm, hầm nhà, cống rãnh, chúng loạng choạng leo thành

những đàn dài để đến lảo đảo ngoài trời, quay vòng tròn và chết bên

cạnh người. Ban đêm, trong các hành lang hay trên các đường hẻm,

nghe rõ tiếng kêu chít chít của chúng trong cơn hấp hối. Buổi sáng, ở

các cửa ô, người ta thấy chúng lăn ra ngay bên suối, một vệt máu nhỏ

trên mõm nhọn hoắt, con thì trướng lên, hôi thối, con thì cứng đờ, bộ

ria con dựng đứng. Ngay trong nội thành, người ta cũng gặp chúng

hàng đống, trên các bậc thang hay trong sân. Chúng chết lẻ tẻ trong

hành lang các công sở, trong sân chơi trường học và đôi khi cả trên

50

hiên các quán cà phê (…) Trên vỉa hè, nhiều người đi dạo buổi tối

cảm thấy dưới chân mình cái khối mềm nhũn của một xác chuột mới

chết. Người ta tưởng như dưới các ngôi nhà, mặt đất tẩy hết ra ngoài

cái lượng thể dịch của nó và cho nổi lên trên những cái mụn nhọt từ

trước đến nay âm ỉ cào xé lòng đất” [6, tr.28].

Tình huống này là sự kiện mở đầu Dịch hạch, dù không thể hiện một cách

rõ ràng quan niệm của Camus nhưng nó có tác dụng dẫn dắt cho hàng loạt sự

kiện xảy ra tiếp sau đó. Cái phi lí ở đây thể hiện ở sự mập mờ, khó hiểu của sự

việc. Tình huống mập mờ này gây không ít hoang mang cho người dân thành

phố Oran: người thì dự đoán sắp có động đất (lão già hen suyễn), người thì lại

bảo sắp tới nạn đói, người thì âm thầm theo dõi những diễn biến xảy ra tiếp theo

đó và kể lại (người kể chuyện), ghi chép lại (Tarou)…Cảm giác buồn nôn không

còn đến từ sự trì độn, máy móc của hoạt động mà nó đến từ sự ghê tởm hiện

thực. Điều gì sẽ xảy ra khi bỗng một ngày mọi tội ác, mọi tiêu cực, mọi xấu xa

đều đồng loạt nổi lên trên quả đất này? Đời sống con người sẽ trở nên thế nào?

Họ phải ứng phó ra sao? Hàng loạt câu hỏi cùng sự liên tưởng đặt ra cho người

đọc khi mở đầu tác phẩm. Có một điều trùng hợp là trong tiểu thuyết Báo ứng

của Philip Roth cũng có một tình huống chuột chết, nhưng chỉ là cái chết của

một con chuột. Nếu như cái chết của hằng hà sa số chuột ở thành phố Oran có

tác dụng đánh dấu một chuỗi các sự kiện phi lí phía sau thì tình huống con chuột

chết trong Báo ứng lại đánh dấu bước ngoặc cho sự trưởng thành trong tính cách

của nhân vật chính – Bucky Cantor vì đã can đảm giết chết con chuột – đó là

chiến thắng đáng tự hào của một đứa trẻ Do Thái, hỗ trợ cho sự phát triển bản

lĩnh của nhân vật sau này: “ Sau thắng lợi này, ông ngoại chuyển sang gọi thằng

cháu bằng biệt danh Bucky – mười tuổi – đeo kính – với hàm ý ghi nhớ sự việc

thể hiện bản tính kiên cường và gan góc, có nghị lực, có sức chịu đựng hơn

người này của cậu” [48, tr.28].

51

Tình huống đáng lưu ý trong Báo ứng có tác dụng dẫn dắt các tình huống

khác của cốt truyện đó là việc bọn người Ý đến khạc nhổ hòng truyền bệnh cho

những đứa trẻ ở sân chơi. Sau sự việc này là một loạt những bi kịch do dịch bại

liệt mang lại cho những đứa trẻ ở Newark. Tính cách cứng rắn, cương quyết và

gan dạ của một người Do Thái ở Bucky cũng được thể hiện rõ nét nhờ “chất

men xúc tác này”. Hình ảnh thầy Bucky hiện lên vững chãi với sự tự tin không

gì lay chuyển nổi đã trở thành thần tượng cho lũ trẻ: “sau vụ việc với mấy gã

người Ý, thầy ngay lập tức trở thành một anh hùng, một thần tượng, một người

anh lớn quả cảm, chở che, nhất là đối với những đứa có anh trai đang ở ngoài

chiến trường” [48, tr.23].

Tóm lại, song song với tình huống chuột chết trong Dịch hạch là tình

huống bọn người Ý xuất hiện trong Báo ứng. Cả hai tình huống đều có vai trò

mở ra cốt truyện dẫn đến một loạt biến cố xuất hiện sau đó, mà quan trọng nhất

là sự xuất hiện của dịch bệnh. Nếu như chuột chết chỉ làm người dân thành phố

Oran hoang mang, bọn người Ý xuất hiện đe dọa sự yên bình trong sân chơi, gây

băn khoăn cho các phụ huynh thì sự xuất hiện của dịch hạch, dịch bại liệt đã

thực sự đưa con người vào bi kịch. Hàng loạt cái chết xảy ra sau đó, đa số đều

chết rất đau đớn và nhanh chóng (trong vòng 36 đến 48 tiếng).

Có thể nói, tình huống dịch bệnh đã đặt dấu ấn phi lí cho toàn bộ tác

phẩm. Bệnh dịch bất ngờ ập đến mà không hề có lí do gì. Hơn nữa, cùng với sự

xuất hiện không lí do đó, nó đã đem lại không ít đau khổ cho con người, họ phải

chịu cảnh sống lưu đày, cách li, chịu đau đớn về thể xác, khổ sở về tinh thần.

Trong Dịch hạch, dịch bệnh chính thức bắt đầu với cái chết của ông lão

gác cổng Misen. Không lường trước được điều gì, lão Misen đột ngột mắc bệnh

ngay khi còn chưa hiểu lí do và ông chết vì dịch hạch khi trong đầu vẫn còn lờ

mờ nghi hoặc nguyên nhân gây bệnh cho mình là lũ chuột. Dịch hạch đến bất

ngờ tới mức người ta không nghĩ rằng nó lại có thể xảy ra với mình. Tình huống

này khẳng định điều phi lí của cuộc sống: con người không thể giải thích nổi vì

52

sao những điều xấu xa, những cái ác, dịch bệnh và chiến tranh luôn tồn tại. Vì

sao con người sinh ra để sống mà những điều đó luôn bắt họ phải chết. Dịch

hạch xuất hiện đưa con người vào bi kịch: phải chịu đau đớn vì nhiễm bệnh,

phải đối diện với cái chết, hoặc phải sống trong cảnh xa cách người thân, xa

cách cộng đồng. Như vậy, tình huống dịch bệnh đã hỗ trợ đắc lực cho nhà văn

khi đưa ra quan niệm phi lí của mình. Bởi có đặt nhân vật vào trong hoàn cảnh

dịch bệnh thì cốt truyện tác phẩm mới thể hiện được một cách thấu đáo, một

cách cụ thể những điều phi lí có thể xảy ra trong cuộc sống. Thế giới này là một

thế giới đầy rẫy những phi lí, dịch hạch, dịch bại liệt hay nói chung là dịch bệnh

chính là thế giới ấy. Con người ngay khi sinh ra đã bị ném vào bầu không khí

dịch bệnh, vào vũ trụ của những điều phi lí. Nếu không giữ gìn, họ sẽ bị nhiễm

bệnh ngay lập tức, cái chết sẽ đến liền ngay sau đó, cái chết luôn chực sẵn trên

đầu, nhân lúc con người không để ý, nó sẽ tìm đến. Chúng ta đang sống trong

thế giới của những nguy cơ: chiến tranh, khủng bố, thảm họa từ thiên nhiên…

Với tình huống dịch bệnh, cả Camus và Roth đã cho người đọc nếm trải một

cách cụ thể cảm giác thực sự khi sống trong hiểm họa hay chính xác hơn đó là

cảm giác khi đối diện với cái phi lí. Cũng qua tình huống dịch bệnh, tính cách,

lập trường nhân vật được thể hiện rõ nét: họ biết mình muốn gì nhất, cần làm gì

nhất, mọi thứ thuộc về con người được bộc lộ rõ ràng ở họ. Con người luôn sống

giữa những chọn lựa, mà mỗi chọn lựa đều có tính chất quyết định cuộc đời họ,

hơn nữa, nó còn ảnh hưởng đến những người khác. Chọn lựa ấy có thể làm

người ta tiến lên hay thụt lùi… Trường hợp của Rambert trong Dịch hạch,

Bucky Cantor trong Báo ứng là những ví dụ điển hình nhất. Khi dịch hạch xuất

hiện, thành phố Oran bị đóng cửa, Rambert bị kẹt lại khi đang làm nhiệm vụ ở

đây. Không chịu được nỗi đau li biệt, không chấp nhận sự thật rằng từ nay phải

sống cùng dịch bệnh ở thành phố này, anh đã tìm mọi cách để được rời khỏi

thành phố, ngay cả bằng cách qua lại với bọn buôn lậu. Nhưng khi mọi thứ đã

đâu vào đấy, ngay lúc có thể ra đi dễ dàng thì anh quyết định ở lại. Quyết định

53

đột ngột này của anh đã xoay hướng cuộc đời anh từ việc sống cho mình thành

sống cho cộng đồng: “Hưởng lấy hạnh phúc một mình thì không còn ý nghĩa

nữa”. Anh đã biết điều mình cần nhất là phải làm gì.

Tình huống dịch bại liệt xuất hiện trong Báo ứng cũng đặt nhân vật Bucky

Cantor trước những chọn lựa mà sau mỗi chọn lựa đều là một bước ngoặc trong

cuộc đời anh. Anh luôn phải tự vấn mình với câu hỏi: Ra đi hay ở lại Newark?

Tránh xa nơi có dịch bệnh hay ở lại chiến đấu với nó? Khác với Rambert, Bucky

đã chọn cho mình cách trốn chạy. Tính cách nhân vật, tư tưởng nhà văn cũng từ

đó mà bộc lộ.

Tình huống dịch bệnh tạo điều kiện cho các nhân vật trình bày quan điểm

của mình về cuộc sống, về niềm tin, về thái độ sống… Rieux và Tarou trong

Dịch hạch có thể xem là hai mặt của một bản thể con người. Mỗi nhân vật đều

có quan điểm rất riêng về thái độ sống nhưng đều gặp nhau ở mục đích đó là “vì

con người”. Rieux quan niệm: “Tất cả những gì tôi quan tâm chính là sức khỏe

con người”. Tarou thì muốn trở thành “vị thánh không Chúa” để giúp đỡ loài

người: Cả hai đều không tin vào Chúa mà chỉ hướng đến điều thực tế là chăm lo

cho hạnh phúc của con người. Bên cạnh Rambert, Rieux, Tarou, Grand được

xem là người anh hùng giữa đời thường trong hoàn cảnh dịch hạch, bởi quan

niệm của anh rất đơn giản: có bệnh thì chống lại và tiêu diệt bệnh mà thôi.

Những hành động của anh hoàn toàn là vì con người. Nếu như Grand được xem

là “người anh hùng giữa đời thường” trong khi anh không nghĩ đến bất cứ điều

gì thuộc về chủ nghĩa anh hùng thì Bucky (Báo ứng) lại luôn trăn trở về điều đó.

Đặc biệt, trong hoàn cảnh dịch bệnh, khi đã chọn cách trốn chạy thì suy nghĩ về

cái gọi là “hành động anh hùng” càng trở nên day dứt trong anh…

Xây dựng tình huống dịch bệnh, Camus và Roth muốn nói đến vấn đề “sự

lưu đày trong thân phận làm người”. Không ai sống chính xác đến một trăm năm

và cuộc đời vốn lắm tai ương, thân phận con người vốn hay trôi nổi, chúng ta

54

không biết cái chết sẽ đến với mình lúc nào… Điều phi lí là ở đó, cảm giác lưu

đày chính là ở đó.

Cùng với cái chết của những nạn nhân nói chung, cái chết của những đứa

trẻ là dấu ấn sâu sắc nhất của cái phi lí. Tình huống đứa trẻ chết là tình huống

quan trọng đánh dấu bước ngoặc trong sự thay đổi cách nhìn nhận của các nhân

vật về cuộc sống và về bản thân mình. Cách nhìn nhận dịch bệnh của Panolux có

sự thay đổi rõ rệt sau khi chứng kiến cái chết của Jacques, đứa con trai nhỏ bé

của thẩm phán Otong. Nếu như ở bài thuyết giáo trước, Panolux cho rằng dịch

hạch chính là sự trừng phạt của Chúa đối với loài người và kêu gọi tất cả phải

cúi đầu chấp nhận thì bài thuyết giáo thứ hai (bài thuyết giáo sau khi chứng kiến

cái chết của Jacques) lại khẳng định con người cần phải hành động để chống lại

dịch bệnh, không trông chờ vào sự cứu vớt của Thượng đế. Camus đã khắc họa

cụ thể trạng thái tình cảm của nhân vật khi chứng kiến cái chết của đứa trẻ:

“Trên khuôn mặt gầy choắt lại, đờ đẫn, xám xịt như đất sét, miệng nó

hé mở, liên tục phát ra một thứ tiếng hầu như không còn ăn khớp gì

với nhịp thở và làm cho căn phòng bỗng nhiên âm vang một chuỗi

những lời phản kháng đơn điệu, rời rạc, ít mang tính người tới mức

như thể thốt ra từ tất thảy mọi con người cùng một lúc. Rieux nghiến

chặt răng và Tarou ngoảnh mặt đi. Rambert bước lại gần giường bên

cạnh Caxten lúc đó đã gập sách lại trên đầu gối. Panolux nhìn cái

miệng trẻ thơ hoen ố vì bệnh tật, chứa đầy cái tiếng kêu của mọi lứa

tuổi ấy. Ông quỳ xuống đất và không ai ngạc nhiên khi nghe ông,

giọng nói có phần nghẹn ngào nhưng rành rọt thốt lên: “Cầu xin

Chúa cứu thoát thằng bé” [6, tr.281].

Cái chết của một đứa trẻ được Camus miêu tả một cách chi tiết và cụ thể

bởi cái chết ấy là đại diện tiêu biểu nhất cho những bất công, phi lí trong cuộc

đời. Nó chính là đại diện cho nỗi đau chung của người dân thành phố Oran hay

rộng ra là nỗi đau thân phận làm người của cả nhân loại. Tác giả tiểu thuyết

55

Dịch hạch đã cho thấy tài năng của mình trong nghệ thuật xây dựng tình huống

cốt truyện qua việc chọn lấy những tình huống có sức phản ánh cao, nói được

nhiều điều, gợi được nhiều suy nghĩ, liên tưởng cho người đọc đặc biệt là những

liên tưởng về cái phi lí. Không chỉ có sức chứa cao về mặt nghệ thuật và nội

dung tư tưởng mà nó còn có tác dụng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng,

tính cách của nhân vật, cụ thể là nhân vật Panolux trong Dịch hạch. Là một tín

đồ trung thành của Chúa, người hướng đạo cho những con chiên, Panolux đã đột

ngột thay đổi thái độ với Chúa: ... “nếu kẻ phóng đãng đáng bị sét đánh thì trái

lại, không thể hiểu được vì sao một đứa trẻ lại phải chịu đau đớn. Và thực ra,

trên trái đất, không có gì quan trọng hơn nỗi đau đớn của một đứa trẻ, sự kinh

tởm mà nỗi đau có kéo theo nó, và những lý do biện giải cho nó. Còn nữa, trong

cuộc sống thì Thượng Đế để tạo ra cho con người mọi thuận lợi, và cho đến

đấy, tôn giáo chẳng có công trạng gì hết. Trái lại, ở đây, Thượng Đế dồn chúng

tôi đến tận chân tường” [6, tr.291]. Ngay sau bài thuyết giáo này, Panolux đã

phải trả giá bằng bệnh tật và cái chết, nhưng ông vẫn kiên quyết không lùi bước,

chống trả với bệnh tật một cách kiên cường.

Với nhân vật Bucky Cantor trong tiểu thuyết Báo ứng, cái chết của những

đứa trẻ, những học sinh thân yêu quanh mình là niềm đau lớn nhất trong cuộc

đời anh. Những cái chết đó đã khiến Bucky suy nghĩ rất nhiều về giá trị của sự

sống và cái chết, nghĩ về Chúa, về những điều phi lí trong cuộc sống. Nếu cái

chết của những đứa trẻ ở Newark đã đặt Bucky vào những suy nghĩ về anh hùng,

trách nhiệm…thì cái chết của những đứa trẻ ở Idian Hill đã đưa cuộc đời anh

dấn sâu vào bi kịch khi điều nghi ngờ bản thân mình bị bại liệt ở anh lại trở

thành sự thật. Trước cái chết của Alan, cậu học trò xuất sắc ở sân chơi, Bucky

không khỏi bàng hoàng: “Một đứa trẻ mới mười hai tuổi đầu, một thằng bé

không thể có ai ngoan hơn, vậy mà nó đã đi rồi” [48, tr.45]. Sự cay đắng, phi lí

càng trở nên sâu sắc hơn qua nỗi đau mất mác của cha Alan:

“-…Lẽ đời ở đâu?

56

-Dường như không có – Bucky đáp.

-Tại sao không phải là tôi mà lại là nó chứ?

(…)

-Một cậu bé – bi kịch nhằm đánh vào một cậu bé. Thật tàn nhẫn! Ông

Michaels thốt lên, đập mạnh lòng bàn tay xuống thành ghế. Vô lý quá!

Căn bệnh khủng khiếp từ trên trời rơi xuống và một người bị chết chỉ

sau có một đêm. Một đứa trẻ, không hơn không kém!” [48, tr.47-48].

Philip Roth đã chú ý dùng những từ biểu cảm mạnh để thể hiện cảm xúc

của nhân vật trước những nghịch lí trớ trêu của cuộc sống. Trước những cái chết

ấy, Bucky liên tục cảm thấy bất ngờ, không tin được vào mắt mình, tai mình:

“Tử vong? Hai chữ ấy có thể nào lại gắn với Herbie tròn trĩnh, phúng phính và

luôn tươi cười?” [48, tr.59].

Tình huống những đứa trẻ ở Idian Hill chết đã khiến cuộc đời của Bucky

Cantor rẽ sang một hướng khác: Từ một người thầy tràn đầy tự tin, giàu nhiệt

huyết sống, anh trở thành một anh chàng chân thọt, luôn sống bi quan và không

nguôi ray rứt vì mình là kẻ gieo rắc bệnh tật, đem lại cái chết cho những đứa trẻ.

Tình huống những đứa trẻ chết một mặt nhấn mạnh những cái phi lí, mặt khác,

nó lại chi phối, tạo bước ngoặc thử thách phẩm chất của nhân vật, tạo điều kiện

tính cách nhân vật được thể hiện rõ nét. Nó cũng là bước đánh dấu ngã rẽ cho

câu chuyện đi sang một hướng khác, dẫn đến kết thúc cho tác phẩm.

Như vậy, tình huống dịch bệnh có vai trò mở ra một chuỗi những sự kiện

phi lí phía sau, tình huống những đứa trẻ chết có vai trò mở ra bước ngoặc mới

về tư tưởng, tính cách nhân vật. Ngoài ra, góp vào sự vận động của cốt truyện

còn có những tình huống khác như: tình huống cái chết của Panolux, cái chết

của Tarou trong Dịch hạch; tình huống đến Idian Hill, tình huống phát hiện

bệnh, tình huống gặp lại trong Báo ứng. Những tình huống này có vai trò tiếp

nối cho những sự kiện phía trước dần đưa cốt truyện đến kết thúc.

57

Trong Báo ứng, tình huống Bucky Cantor đến Idian Hill là tình huống

đánh dấu bước chuyển biến trong cuộc đời anh, hỗ trợ cho tình huống cái chết

của những đứa trẻ. Dù tình huống này không mang tính phi lí nhưng nó dẫn

nhân vật mở ra cánh cửa của những điều phi lí. Không có sự kiện Bucky Cantor

đến Idian Hill sẽ không làm rõ được yếu tố phi lí trong cốt truyện Báo ứng bởi

có đến nơi này – một nơi hoàn toàn không có dịch bại liệt – thì Bucky mới có

mối hoài nghi rằng mình là kẻ mang dịch bệnh, kéo theo hàng loạt sự kiện quan

trọng phía sau. Sự kiện này đã mở ra một giai đoạn mới trong cuộc đời nhân vật.

Tương tự, tình huống phát hiện dịch bệnh cũng đánh dấu bước ngoặc trong cuộc

đời Bucky Cantor, khiến anh trở thành một con người tự ti, yếu đuối và tàn tạ,

luôn bị mặc cảm tội lỗi đè nặng, không còn tìm được lối thoát nào cho cuộc đời

mình.

Ngoài những tình huống trên, gặp lại là một tình huống quan trọng trong

Báo ứng. Nếu không có tình huống gặp lại giữa Bucky Cantor và đứa học trò ở

sân chơi Chancellor năm ấy thì sẽ không có toàn bộ câu chuyện này, bởi Báo

ứng là một câu chuyện hồi tưởng của học sinh ấy sau khi nghe thầy Cantor kể về

cuộc đời mình. Tình huống này còn có tác dụng tổng kết lại các sự kiện phi lí,

đặc biệt là cuộc đời của thầy Cantor, tạo sự bất ngờ thú vị, là điểm hội tụ những

yếu tố phi lí trong tác phẩm qua dòng hồi tưởng và cảm xúc của nhân vật.

Trên đây, chúng tôi đã xem xét sự chi phối của quan niệm phi lí vào nghệ

thuật xây dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng ở các chi tiết, tình huống tiêu

biểu. Sự chi phối ấy còn thể hiện ở cách kết thúc hai tác phẩm.

Dịch hạch kết thúc trong niềm vui mừng của người dân thành phố Oran vì

dịch bệnh đã chấm dứt cùng sự suy tư của Rieux: “để chống lại khủng bố và vũ

khí không biết mệt mỏi của nó: không thể làm những bậc thánh và không cam

chịu tai ương, người ta gắng sức làm thầy thuốc” [6, tr.400]. Tác phẩm khép lại,

Tarou mất, Rieux còn ở lại, đó cũng là một minh chứng cho việc chỉ có con

người thực tế mới tồn tại. Màu sắc hiện sinh thể hiện rõ nét qua chi tiết này.

58

Song song đó, những dòng cuối cùng của tiểu thuyết Dịch hạch giống như một

lời cảnh báo ngầm: “vi trùng dịch hạch không bao giờ chết và mất hẳn. Nó có

thể nằm yên hàng chục năm trong đồ đạc, quần áo, nó kiên nhẫn chờ đợi trong

các căn buồng, dưới hầm nhà, trong hòm xiểng, trong khăn mù xoa và các đống

giấy má…và một ngày nào đó, để gây tai họa cho con người và dạy họ bài học,

dịch hạch có thể đánh thức đàn chuột của nó dậy và bắt chúng chạy đến lăn ra

chết ở một đô thành nào đó đang sống trong hạnh phúc và phồn vinh” [6,

tr.400].

Tác phẩm khép lại khi vấn đề phi lí đã được Camus phơi bày và đề xuất

được cách giải quyết: cuộc đời vốn phi lí nhưng con người không vì thế mà bỏ

cuộc, ngược lại, phải phản kháng, phải chiến đấu đến cùng. Quan niệm của

Camus tỏ ra tiến bộ hơn so với quan niệm trước đó của Kafka. Camus nhận thức

được cái phi lí và đề xuất cả cách giải quyết, trong khi đó, các nhân vật của

Kafka không nhận thức được tình trạng phi lí của bản thân, mãi loay hoay trong

những điều vô nghĩa để rồi kết liễu đời mình mà vẫn không mảy may hiểu được

chút lí do nào.

Kết thúc Báo ứng là hai hình ảnh đối lập: một Bucky tàn tạ vì dịch bệnh

và hình ảnh hồi tưởng về Bucky Cantor khỏe mạnh, tự tin, là niềm tự hào của lũ

trẻ ở sân chơi khép lại tác phẩm như một ánh hồi quang cuối cùng trong cuộc

đời nhân vật. Đây là một kết thúc mang đầy nỗi ám ảnh. Nếu như kết thúc Dịch

hạch, Camus vẫn tìm ra được một thái độ, một cách phản ứng với cuộc đời phi lí

thì trong Báo ứng, Philip Roth để lại một kết thúc buông xuôi, tuyệt vọng và đầy

bi quan. Con người hoàn toàn rơi vào bi kịch nghiệt ngã do cuộc đời phi lí mang

lại, không tìm ra được một cách giải quyết nào. Như vậy, qua Báo ứng, ta có thể

thấy rằng, cái phi lí của thế kỉ XXI mang tính chất bi quan, tiêu cực hơn cái phi

lí của thân phận con người trong thế kỉ XX (qua Dịch hạch của Camus). Phải

chăng nguyên nhân dẫn đến điều này là do những chấn thương tâm lí từ hai cuộc

đại thế chiến đã không thể khôi phục được mà còn trở nên ngày càng nhức nhối

59

hơn bởi sự cộng hưởng của những tiến bộ khoa học, kĩ thuật, công nghệ? Con

người ngày càng ý thức rõ thân phận của mình, cô đơn, tuyệt vọng giữa một thế

giới đầy máy móc, giữa một thế giới ảo.

Từ việc tìm hiểu sự chi phối của quan niệm phi lí vào nghệ thuật xây

dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng, chúng tôi nhận thấy cái phi lí chính là

mạch logic nội tại, là chất keo kết dính các sự kiện trong hai tiểu thuyết này. Tất

cả các chi tiết, tình huống đều hướng đến việc thể hiện quan niệm phi lí của

Camus và Roth. Tính chất quan niệm của hai nhà văn về cơ bản là giống nhau,

tuy nhiên vẫn có những nét riêng làm nên sự độc đáo trong phong cách của mỗi

tác giả. Nếu như Camus chọn việc xây dựng các chi tiết, tình huống dựa trên

mối liên hệ tuyến tính về thời gian (theo tính chất biên niên của thể loại kí) thì

Philip Roth lại xây dựng cốt truyện đi theo dòng hồi tưởng của người kể chuyện,

các chi tiết, tình huống đan xen nhau, không theo trật tự nhất định về thời gian.

Điều này giúp phạm vi phản ánh của tác phẩm được mở rộng tối đa.

Ngoài ra, do tính chất quan niệm, cái nhìn về cuộc sống của mỗi nhà văn,

mỗi thời đại là khác nhau nên hướng kết thúc ở hai tác phẩm cũng không giống

nhau. Cả hai nhà văn đều nhận thấy và phơi bày tính chất phi lí của cuộc đời

nhưng nếu như Camus mạnh mẽ đưa ra cách giải quyết bằng con đường chiến

đấu chống trả thì Philip Roth lại thể hiện sự bi quan, tiêu cực và bất lực trước

nó. Dù khác nhau nhưng mỗi nhà văn đều đã có những đóng góp tích cực trong

nghệ thuật xây dựng cốt truyện tiểu thuyết về mặt tư tưởng và nghệ thuật.

Không chạy theo trào lưu thủ tiêu cốt truyện, cả Camus và Roth đều tôn trọng

việc xây dựng cốt truyện ở từng chi tiết, tình huống. Nhưng điều đó không làm

cho tiểu thuyết của hai ông trở nên sến sẩm, dễ lui vào quên lãng mà ngược lại,

chính sự đầu tư nghiêm túc trong cách xây dựng cốt truyện cùng với sự sâu sắc

trong tư tưởng, Dịch hạch của Camus và Báo ứng của Philip Roth đã trở thành

những tác phẩm tiêu biểu của văn học Pháp và Mĩ ở hai thời kì khác nhau. Sự

kết hợp hài hòa giữa truyền thống và cách tân trong cùng một cốt truyện tiểu

60

thuyết đã làm nên thành công cho hai tác phẩm. Dù cốt truyện giống nhau,

nhưng xuất phát từ đặc trưng của thời đại cùng những nét riêng trong quan niệm

cũng như phong cách viết của hai nhà văn, Dịch hạch và Báo ứng đã trở thành

hai tác phẩm tiêu biểu cho quan niệm về cái phi lí của thời hiện đại, nó đặt ra

nhiều vấn đề đáng cho chúng ta học hỏi và suy ngẫm. Từ cốt truyện giống nhau,

phong cách và tài năng của nhà văn càng thêm tỏa sáng bởi nếu không thực sự

có tài năng, sẽ rất dễ có sự lặp lại nhàm chán trong nội dung và phong cách tiểu

thuyết, có sự bắt chước của từ người này đối với người kia. Dịch hạch và Báo

ứng thì lại không như vậy.

2.3. Sự chi phối của những nỗi ám ảnh đối với nghệ thuật xây dựng cốt

truyện Dịch hạch và Báo ứng

Nỗi ám ảnh có rất nhiều khía cạnh và lại rất khác nhau ở mỗi người. Tuy

vậy, có những nỗi ám ảnh mang tầm nhân loại, không ai có thể thoát khỏi những

lo âu về nó, chẳng hạn như nỗi ám ảnh về chiến tranh, khủng bố, thảm họa; ám

ảnh về tuổi già, bệnh tật, sự bất lực và cái chết. Đó là nỗi lo chung mà chắc rằng

ai cũng đã từng nghĩ tới… Bằng sự nhạy bén và sâu sắc về tư tưởng, sự tài năng

trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết, Camus và Roth đã thể hiện sự thành công

trong việc xây dựng cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng với sự chi phối của những

nỗi ám ảnh. Chính điều này khiến hai tác giả trở thành những “nhà hiện sinh”

hơn bất kì một tác giả nào khác, mặc dù cả hai đều không nhận danh hiệu này.

Từ lâu, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh văn học Pháp là nền văn học

nghiêng về tư tưởng, văn học Mĩ lại chú trọng nhiều hơn ở kĩ thuật tiểu thuyết.

Điều này đúng nhưng có vẻ không chính xác lắm đối với Camus và Roth bởi

mỗi nhà văn đều có một sở trường riêng, một phần kế thừa truyền thống văn

chương dân tộc nhưng vẫn có những đóng góp rất riêng về nghệ thuật tiểu thuyết

và tư tưởng. Tuy nhiên, nếu như Camus có cả một hệ thống quan niệm thì ngược

lại, Roth thể hiện tất cả quan niệm của mình trong tiểu thuyết. Ông đã từng nói

rằng, để biết ông là ai thì hãy đọc tiểu thuyết của ông, bởi quan niệm ông nằm cả

ở đó.

61

Sự chi phối của những nỗi ám ảnh trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết

Dịch hạch và Báo ứng được thể hiển ở một loạt các chi tiết tình huống trong hai

tác phẩm đều nhắc đi nhắc lại xoay quanh những nỗi ám ảnh mà chúng tôi đã kể

trên.

Trước hết đó là nỗi ám ảnh về dịch bệnh, đây còn là chủ đề xuyên suốt cả

hai tiểu thuyết. Các nhân vật trong Dịch hạch và Báo ứng luôn trong trạng thái

loay hoay tìm cách để không nhiễm bệnh và thoát khỏi dịch bệnh (dù họ không

biết bằng cách nào!), và điều này càng làm họ trở nên quay cuồng trong guồng

máy của dịch hạch, dịch bại liệt… Khảo sát kĩ hai tác phẩm, chúng ta sẽ thấy rõ

điều đó. Trong Báo ứng, khi dịch bại liệt mới bắt đầu, người ta cố gắng tìm hết lí

do này đến lí do khác để giải thích nguyên nhân dịch bệnh, người thì cho là

nguồn nước dơ bẩn, người thì cho là do lũ mèo hoang, do ruồi nhặng, do người

Do thái, người da đen mang mầm bệnh, do bọn người Ý,… Trong Dịch hạch thì

người ta cho rằng do lũ chuột, do mèo hoang, chó hoang và tự nghĩ ra những

cách phòng bệnh cho mình: dùng viên ngậm bạc hà, uống nhiều rượu để giết

chết vi khuẩn, ăn chén đĩa đã trụng qua nước sôi, có kẻ phát điên vì dịch hạch đã

đốt nhà mình để mong thiêu chết con vi trùng gây bệnh,… Trong cả hai tác

phẩm, người dân thành phố Oran và Newark luôn trông chờ sự giúp đỡ của cơ

quan y tế, của chính quyền nhưng cuối cùng cũng chẳng được gì, họ chỉ can

thiệp khi tình hình đã trở nên trầm trọng.

Những hành động thái quá của các nhân vật cũng do đến từ nỗi ám ảnh

quá lớn về dịch bệnh mà ra. Kenny, một đứa học trò mà trước đây được Bucky

cho là trưởng thành nhất, biết điều chỉnh cảm xúc nhất thì nay lại hét lên trước

ông khờ Horace với tất cả nỗi sợ hãi và tức giận của mình: “Tôi sẽ không bình

tĩnh! Kenny gào to. Đồ lót ông ta vấy đầy phân! Hai tay ông ta cũng dính đầy

phân! Ông ta không rửa ráy, ông ta dơ bẩn và rồi ông ta muốn chúng ta nắm tay

ông ta, lắc tay ông ta, và đó là cách mà ông ta truyền bệnh bại liệt! Ông ta là kẻ

làm tàn phế mọi người! Ông ta là kẻ giết người! Cút khỏi đây, ông kia! Cút! Cút

62

mau!” [48, tr.107]. Những đứa trẻ lẽ ra phải được đón nhận những gì vui vẻ

nhất, an toàn nhất, nhưng cái mà những đứa trẻ ở đây có được chỉ là một cuộc

chiến khốc liệt với dịch bệnh, chúng ra sức trốn chạy nhưng dịch bệnh thì cứ vồ

lấy chúng. Dù ông khờ không phải là nguyên nhân gây dịch bệnh như chúng

nghĩ, nhưng hình ảnh chúng trốn chạy ông khờ đã khiến lòng người không khỏi

xót xa: “Ông ta đi theo chúng ta đấy! Ông khờ đang đuổi theo chúng ta! Vừa

cầm sợi dây vừa chạy về phía đám đông trên đại lộ Chancellor chiều muộn ấy,

chúng chạy hết tốc lực để khỏi phải thấy hiện thân sự tàn lụi của con người.”

[48, tr.109].

Có hai nỗi ám ảnh lớn trong Dịch hạch và Báo ứng đó là ám ảnh về dịch

bệnh, cái chết; ám ảnh về sự khủng hoảng niềm tin ở Chúa.

Không một ai từng muốn mình bị vướng vào một trong hai thứ dịch bệnh

hoặc cái chết. Nó là điều kinh hoàng nhất của con người. Trong Dịch hạch và

Báo ứng, con người buộc phải đối diện với hai nguy cơ trên một cách trực tiếp

và thường xuyên. Một khi đã trở thành nỗi ám ảnh, dịch bệnh và cái chết luôn

hiện lên trong tâm trí con người, khiến họ sợ hãi, hoang mang đến tột cùng, mọi

vấn đề trong cuộc sống của họ đều xoay quanh những điều này, xoay quanh việc

tìm cách thoát khỏi nó như thế nào, thái độ với nó ra sao… Dịch hạch, dịch bại

liệt đến thành phố Oran và Newark cướp đi sinh mạng của rất nhiều người, chỉ

việc chứng kiến sự tàn phá của dịch bệnh đối với những đối tượng khác không

phải mình cũng đã là một điều khủng khiếp. Trường hợp phản ứng của những

đứa trẻ ở sân chơi phía trên đối với “ông khờ” là một minh chứng tiêu biểu. Hay

trường hợp một phụ huynh hét lớn vào mặt Bucky Cantor khi con của bà ta mắc

bệnh cũng là một biểu hiện cho thái độ kinh hoàng, đau đớn trước hậu quả dịch

bệnh: “Vậy tại sao tôi có hai đứa con bị liệt bại? Cả hai thằng con tôi! Là tất cả

những gì tôi có! Hãy giải thích cho tôi đi! Thầy để chúng nó chạy nhảy như

những con vật ở đằng đó – và giờ thì thầy thắc mắc vì sao chúng mắc bệnh! Bởi

vì thầy! Bởi vì một kẻ ngu ngốc, khinh suất, vô trách nhiệm như thầy đấy” [48,

63

tr.75]. Đó là những lời gắt gỏng mà Bucky lần đầu tiên phải nghe từ một phụ

huynh, trước đây, những đứa trẻ và ngay cả phụ huynh đều luôn rất ngưỡng mộ

anh. Rõ ràng, dịch bệnh, cái chết khiến người ta trở nên tê liệt, đau đớn đến mức

nó vây kín đầu óc họ, khiến họ nhìn đâu cũng là mầm bệnh, đâu đâu cũng là kẻ

tội đồ gây đến cái chết cho những người thân yêu của họ. Trường hợp của bác sĩ

Rieux trong Dịch hạch cũng không khác gì mấy, là một bác sĩ, nhiệm vụ của

ông là cứu người, nhưng đôi lúc vì sự rối bời trong vòng quay của con vi rút

dịch hạch, người ta trở nên sợ bác sĩ, sợ sự xuất hiện của Rieux, vì biết rằng sự

xuất ấy sẽ kèm với lệnh cách li. Trước những nguy cơ đe dọa sự sống, con người

trở nên hoảng loạn, không kiềm chế được những cảm xúc tiêu cực của mình. Đó

là phản ứng của các nhân vật không phải trung tâm của tiểu thuyết. Với các nhân

vật trung tâm, sự ám ảnh còn mạnh mẽ và dai dẳng hơn. Dịch hạch đã đưa Rieux

cùng đội y tế của ông vào vòng tròn quanh quẩn của việc tạo áp xe, cắt hạch

xoài, kêu gọi cơ quan cách li kiểm dịch, chứng kiến biết bao cái chết mỗi ngày.

Những việc đó luôn cứ lặp đi lặp lại hàng ngày, hàng giờ đến mức ngạt thở.

Có thể nói, nỗi ám ảnh về dịch bệnh và cái chết diễn ra rất sâu sắc ở nhân

vật Bucky Cantor (Báo ứng). Trước sự ra đi đột ngột của những đứa trẻ ở sân

chơi, Bucky không thể nào tin nổi đó lại là sự thật. Suốt cả ngày, trong đầu anh

không thoát khỏi những ý nghĩ về sự ra đi vô lí ấy: “Tử vong? Hai chữ ấy có thể

nào lại gắn với Herbie tròn trĩnh, phúng phính và luôn tươi cười? (…). Alan là

một vận động viên thiên phú và Herbie là cậu bé không có năng khiếu trở thành

vận động viên, cậu thiếu hoàn toàn sự nhanh nhạy về thể chất – cả hai đều chơi

trên sân trong cái ngày mà mấy gã người Ý tới quấy nhiễu, và cả hai đều đã

chết, chết vì bệnh bại liệt ở tuổi mười hai” [48, tr.59]. Trước sự diễn bến bất ngờ

của dịch bệnh, tinh thần Bucky trở nên bấn loạn, không kiểm soát được hành

động của mình: “Bucky hối hả chạy xuống tầng hầm tới nhà vệ sinh dành cho

các cậu bé trong sân chơi, lòng tràn đầy đau đớn và không biết phải làm gì với

nỗi đau đớn ấy, anh chộp lấy cây lau sàn của người vác cửa, xách một xô nước

64

và một bình hơn ba lít rưỡi thuốc khử trùng rồi lau chùi nền nhà lát gạch, mồ

hôi toát ra như tắm. Kế đến, anh qua nhà vệ sinh của các bé gái, vẫn còn dư sức

và trong cơn cuồng điên, lại lau sạch bên đó. Rồi, với quần áo và hai tay nồng

nặc mùi thuốc khử trùng, anh bắt xe buýt về nhà.” [48, tr.59-60]. Sự hoảng loạn

đã khiến hành động của Bucky dường như trở nên vô thức, không cách nào thay

đổi tình hình, anh làm tất cả mọi thứ mà mình nghĩ có thể ngăn ngừa dịch bệnh

trong cơn tuyệt vọng. Mọi suy nghĩ, hành động của anh đều bị chi phối bởi dịch

bệnh và cái chết. Trong sự hoản loạn, anh còn làm những việc mà bản thân hoàn

toàn không chuẩn bị trước, chẳng hạn như việc đến thăm nhà bác sĩ Steinberg,

xin phép cầu hôn Macia, đột ngột xin nghỉ việc để chuyển đến Idian Hill,… Đến

Idian Hill rồi, anh lại muốn quay về, ân hận vì quyết định vội vả của bản thân,

sau đó anh lại quyết định ở lại, rồi trước sự phát bệnh của một đứa trẻ ở nơi đây,

anh lại trở nên hoảng sợ và chạy theo bác sĩ để được chẩn đoán bệnh,… Tất cả

những sự việc xảy ra dồn dập với Bucky đến nỗi, sau này, khi đã trải qua mấy

chục năm sống trong mặc cảm tội lỗi, anh ân hận vì đã có quyết định đột ngột

rời khỏi Newark để dẫn đến việc lây bệnh cho hàng lọat đứa trẻ ở Idian Hill.

Chúng ta có cảm giác Bucky thực hiện tất cả những việc đó trong trạng thái mê

sảng, không có những suy nghĩ rõ ràng, bình tĩnh. Không như Rieux, phải để trái

tim mình khép lại để hoàn thành nhiệm vụ, để cứu người, Bucky Cantor hoàn

toàn hành động theo cảm xúc, vì những ám ảnh của dịch bệnh và cái chết diễn ra

quá mạnh mẽ trong tâm trí anh.

Không chỉ bị ám ảnh bởi dịch bệnh và cái chết đang xảy ra xung quanh

mình, Bucky còn thật sự không tin nỗi khi dịch bệnh lại có thể xảy ra với chính

anh. Khi phát hiện có bệnh bại liệt ở Idian Hill, với một đứa trẻ đã từng rất thân

với mình, Bucky đã nghi ngờ chính mình là kẻ mang mầm bệnh: “…anh gỡ mắt

kính ra và leo lên cầu nhảy tầm cao, rồi trong nửa giờ, anh tập trung nhảy mọi

kiểu khó mà mình biết. Xong xuôi, anh lên bờ và lấy kính đeo, vẫn khôn sao giả

tỏa khỏi tâm trí những điều vừa xảy đến – tốc độ diễn biến của nó và nỗi ám ảnh

65

chính mình là thủ phạm. Cả nỗi ám ảnh rằng dịch bại liệt bùng phát nơi sân

chơi Chancellor cũng khởi nguồn từ chính anh. Đột nhiên, anh nghe thấy một

tiếng hét inh tai. Đó là tiếng hét của người phụ nữ ở bên dưới nhà Michaels,

khiếp hãi rằng con của bà sẽ mắc bệnh bại liệt và chết. Có điều, lúc ấy anh

không chỉ nghe thấy tiếng hét – bản thân anh đã là tiếng hét đó” [48, tr.200]. Sở

dĩ bản thân Bucky là tiếng hét đó vì nếu anh là kẻ mang mầm bại liệt thì anh

chính là nỗi kinh hãi của mọi người, và anh cũng là nỗi kinh hãi của chính anh.

Tiếng thét trước dịch bệnh giờ đã trở thành tiếng thét của chính anh. Bucky sợ

dịch bệnh, nhưng dịch bệnh cũng chính là anh. Như vậy, mỗi con người không

chỉ bị ám ảnh bởi những tác nhân tiêu cực bên ngoài do cuộc sống mang lại mà

họ còn bị ám ảnh bởi chính sự tiêu cực, chính mầm bệnh tự sinh bên trong bản

thân mình. Điều này ngày càng trở nên rõ ràng ở nhân vật Bucky Cantor bởi về

sau tiểu thuyết, anh chỉ sống trong nỗi ám ảnh mình là kẻ gây bệnh cùng những

hậu quả của nó nặng trĩu trong lòng anh. Con người không chỉ là nạn nhân của

kẻ khác mà còn là nạn nhân của chính mình. Cả cuộc đời Bucky là một sự trốn

chạy, nhưng đến cuối đời, anh buộc phải đối diện với sự thật và ngày tháng luôn

u hoài, trăn trở vì nó. Ngạn ngữ Nga có câu rất hay: “Không ngựa nào đi xa khỏi

bản thân ta”. Trèo lên ngựa, phi thật nhanh, thật xa nhưng con người sẽ không

bao giờ chạy thoát được những ý nghĩ trong đầu mình. Bucky tưởng rằng mình

sẽ chạy trốn khỏi được vùng dịch, sẽ thoát được bại liệt nhưng mầm bệnh lại

nằm trong chính con người anh. Anh tưởng bản thân anh sẽ bình yên nhưng

chính tâm hồn anh không bình yên nên dù đi đến nơi đâu, anh vẫn không sao

thoát khỏi được trạng thái này. Dù đi đến đâu anh vẫn bị nỗi ám ảnh về dịch

bệnh và cái chết bám riết, theo đuổi.

Nỗi ám ảnh này cũng diễn ra hết sức mạnh mẽ và sâu sắc ở các nhân vật

trong Dịch hạch. Những ngày đầu của dịch bệnh, bác sĩ Rieux khẳng định rằng

ông thực sự cảm thấy run sợ: “Cái trạng thái hơi chóng mặt mỗi khi Rieux nghĩ

tới dịch hạch, suốt ngày hôm đó, ông cảm thấy cứ tăng thêm. Cuối cùng, ông

66

thừa nhận là ông sợ hãi” [6, tr.82]. Một người có vẻ điềm tĩnh và “nắm tình

hình” như Rieux cũng cảm thấy run sợ chứng tỏ sức tác động của dịch bệnh đối

với con người không phải nhỏ. Với các nhân vật khác trong Dịch hạch, nỗi ám

ảnh này cũng diễn ra một cách mạnh mẽ. Đó là đối với nhân vật Rambert, anh

căm thù dịch bệnh đến tận cùng, vì nó đã mang lại sự chia cách anh với quê

hương, với người thân của anh. Những ngày đi đến đỉnh điểm của sự giằng xé

giữa đi hay ở, giữa hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc tập thể, anh có cảm giác

dịch bệnh tấn công anh, anh tưởng rằng mình đã bị nhiễm dịch hạch, nhưng sau

đó, anh không nhiễm bệnh, anh cảm thấy xấu hổ vì sự yếu đuối của mình. Sống

trong hoàn cảnh như thế, cùng với nỗi ám ảnh và đau khổ quá lớn, cảm giác của

Rambert như vậy là điều không thể tránh khỏi.

Nỗi ám ảnh ở các nhân vật trong dịch hạch có thể khác nhau nhưng có

cùng nguyên nhân là do dịch bệnh mà ra. Nỗi ám ảnh ấy có thể là do hoàn cảnh

dịch bệnh trực tiếp mang lại, nhưng cũng có thể là do một ý nghĩa ẩn dụ từ trạng

thái dịch hạch mà họ đang chịu tác động. Chẳng hạn, Grand luôn bị ám ảnh bởi

những con chữ. Anh luôn ngụp lặn trong đống hỗn độn của ngôn từ để tìm được

sự diễn đạt phù hợp. Sự đeo đẳng đó mãnh liệt đến nỗi nó chi phối sâu sắc cuộc

sống của anh, nghề nghiệp của anh, hạnh phúc của anh. Vì không có những lời

bay bổng để bày tỏ tình cảm với vợ mà Grand và vợ anh đã phải chia tay vì cô

cho rằng mình đã không còn cảm nhận được sự yêu thương từ anh. Vì mải miết

tìm từ để diễn đạt cho phù hợp một lá đơn khiếu nại mà anh đã để lỡ cơ hội được

nâng lương: “Theo lời anh, thì đặc biệt anh thấy mình không được phép dùng

cái từ quyền mà anh không tin chắc, cũng như cái từ lời hứa, từ này bao hàm là

anh đòi nợ và vì vậy có tính chất táo bạo, ít thích hợp với công việc hèn mọn

anh được giao. Mặt khác, anh không chịu dùng những từ hảo tâm, khẩn nguyện,

tri âm mà anh cho là không phù hợp với nhân cách của mình. Cứ như thế, vì

không tìm được cái từ chính xác, anh chàng đồng bang chúng tôi tiếp tục làm

cái chức trách vô danh tiểu tốt của mình cho đến lúc tuổi đã khá lớn” [6, tr.67].

67

Trong tình hình dịch hạch đang diễn ra hết sức khốc liệt, Grand vẫn không quan

tâm mấy đến điều đó ngoài việc tìm ra cho mình những con chữ, những cách

diễn đạt phù hợp. Rõ ràng, việc không tìm ra được cách diễn đạt mới là “dịch

hạch” thật sự đối với Grand.

Nỗi ám ảnh với Rieux là tình trạng sức khỏe của con người. Vì bản chất

nghề nghiệp, Rieux phải đối diện với các vấn đề về sức khỏe của con người, tuy

vậy, ông không sao chịu được hình ảnh con người đau đớn, chết chóc vì bệnh

tật: “Rồi lại phải nhìn người ta chết. Ông có biết là có những người không chịu

chấp nhận cái chết không? Ông đã bao giờ nghe một thiếu phụ la hét: Không

bao giờ! vào lúc chết chưa? Tôi thì đã nghe. Và lúc ấy, tôi nhận ra rằng mình

không thể làm quen với cái đó được. Lúc ấy, tôi còn trẻ và hình như tôi kinh tởm

đối với bản thân cái trật tự trên đời này. Về sau, tôi trở nên khiêm tốn hơn.

Nhưng tôi vẫn không sao quen được việc nhìn người ta chết” [6, tr.170-171].

Cùng với nỗi ám ảnh về dịch bệnh, cái chết là nỗi ám ảnh của con người

trong tình trạng khủng hoảng niềm tin với Chúa. Trong hoàn cảnh dịch bại liệt,

dịch hạch hoành hành, mạng sống con người như nghìn cân treo sợi tóc, lẽ ra

Chúa mà con người hằng tin tưởng phải có một sự cứu giúp, phò trợ để họ vượt

qua những đau khổ này. Tuy nhiên, ngược lại với niềm tin bấy lâu của họ, Chúa

vẫn hoàn toàn lặng im để con người lao đao trong khốn khó. Chính hoàn cảnh

đặc biệt này đã tạo điều kiện để con người nhìn lại nhận thức của mình. Dịch

hạch của Camus thể hiện sự nghi ngờ với Chúa. Nếu như Chúa trong Dịch hạch

chỉ dừng lại ở sự vô tình thì Chúa trong Báo ứng được cảm nhận như một tên

giết người, Chúa độc ác hơn nhiều so với Dịch hạch. Chúa không chỉ không cứu

giúp con người mà còn gieo rắc tội ác, đem lại đau khổ cho họ. Vì là biểu hiện

của sự phi lí nên Chúa có sức ám ảnh lớn đối với con người. Hình ảnh Chúa

luôn trở đi trở lại trong tâm trí con người, đặc biệt là những lúc họ đau khổ cùng

cực.

68

Sự khủng hoảng niềm tin đối với Chúa được thể hiện rõ nét qua sự thay

đổi trong nhận thức của nhân vật Panolux ở hai bài thuyết giáo. Nếu ở bài thứ

nhất, ông hùng hồn khẳng định dịch hạch là sự trừng phạt của Chúa đối với con

người thì trong bài thứ hai, ông kêu gọi tất cả cùng đoàn kết lại để chống dịch

hạch – điều đó cũng đồng nghĩa với việc chống Chúa. Chỉ trong hoàn cảnh dịch

hạch, chỉ khi chứng kiến cái chết của đứa trẻ vô tội, con người mới nhận thức

được rằng niềm tin đối với Chúa là một niềm tin khờ dại và vô lí. Và đây cũng là

sự vỡ lẽ của con người thế kỉ XX. Những thế kỉ trước, niềm tin của con người

với Chúa mang tính chất tuyệt đối. Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ của khoa học

kĩ thuật, của công nghệ thông tin cùng sự sụp đổ của tâm lí con người sau hai

cuộc đại thế chiến, con người của thế kỉ XX trở về sau trở nên hoang mang, hoài

nghi mọi thứ, đặc biệt là hoài nghi những điều mà trước đây họ đã từng hết mực

tin tưởng, tôn thờ. Nếu như Dịch hạch chỉ bộc lộ sự thất vọng đối với Chúa thì

trong Báo ứng sự thất vọng đó được nâng lên thành sự căm ghét. Ngoài ra, nếu

Dịch hạch nhấn mạnh từng khoảnh khắc hiện sinh của con người thì bên cạnh

điều đó, Báo ứng còn đánh dấu sự sụp đỗ của chính con người trong thời đại kĩ

trị. Sự sụp đỗ của nhân vật Bucky Cantor cùng sự ra đi lần lượt của những người

xung quanh anh là một minh chứng tiêu biểu. Con người đã không còn quyền

năng tối thượng như trước đây, họ trở nên yếu đuối, bất lực trước những điều hư

vô, những cái thuộc phạm trù tinh thần, nó nằm ngoài sự kiểm soát của lí trí,

không cụ thể, rõ ràng và dễ điều khiển như lí trí. Như vậy, nếu xét theo tiến trình

mức độ tiến triển của sự khủng hoảng, ta thấy rằng, theo thời gian, những vấn đề

niềm tin ở con người càng trở nên nặng nề, ám ảnh và không có cách nào khắc

phục hay cứu chữa được. Chọn đề tài dịch bệnh cùng với cách xây dựng cốt

truyện chịu sự chi phối của những nỗi ám ảnh ẩn dụ từ dịch bệnh, Camus và

Roth đã phản ánh được tình trạng hiện thời của con người thế kỉ XX, XXI một

cách khéo léo, mang tính nghệ thuật cao.

69

Nhân vật Rieux ngay từ đầu đã bị ám ảnh bởi ý nghĩ: nếu Chúa có liên

quan đến dịch hạch thì vai trò của Người là cứu giúp những con chiên chứ

không phải là giáng tai họa vào họ. Lòng nhân từ đến từ việc mang lại sự sống

cho con người chứ không phải việc đem lại cái chết cho họ: “nếu ông tin vào

một Thượng đế toàn năng thì ông đã không còn chạy chữa cho người ta nữa, và

dành công việc đó cho Chúa. Nhưng không một ai, không, ngay cả Panolux là

người tin rằng mình tin đi nữa, trên đời này, không một ai tin vào một Thượng

đế kiểu đó, vì lẽ không một ai phó mặc mình hoàn toàn và chí ít, về mặt này,

Rieux tin là mình ở trên con đường chân lý trong lúc đấu tranh chống lại thế

giới như nó đang tồn tại hiện nay.” [6, tr.169]. Đó là suy nghĩ của Rieux, còn

đối với người dân thành phố nói chung, trong hoàn cảnh dịch bệnh lên đến đỉnh

điểm, niềm tin vào Chúa đối với họ cũng không còn nữa: “Lúc đầu, khi họ cho

dịch hạch cũng là một thứ bệnh như những bệnh tật khác, thì tôn giáo nằm ở

đúng vị trí của nó. Nhưng khi thấy tình hình nghiêm trọng, thì họ nhớ tới khoái

lạc” [6, tr.162]. Niềm tin vào Chúa đã bị thay thế bởi những cái khác, thực tế

hơn, có giá trị tức thời hơn.

Đối với Bucky trong Báo ứng, sự sụp đổ niềm tin còn trầm trọng hơn, ám

ảnh hơn rất nhiều. Những lúc đau khổ đến mức không tìm được một sự lí giải

nào về tình trạng phi lí mà mình đang nếm trải, anh lại gọi tên Chúa để chì chiết:

Chúa – kẻ phát tán vi trùng bại liệt, Chúa – kẻ tội đồ vĩ đại, Chúa – kẻ giết người

máu lạnh, kẻ chuyên đi giết trẻ con, kẻ sẽ đâm con dao vào sau lưng để hại con

người,… Anh thường tự hỏi “Chúa có lương tâm không?” Và câu trả lời của

anh không bao giờ nằm ngoài ý nghĩ Chúa là “một kẻ bệnh hoạn và một thiên tài

độc ác xấu xa” [48, tr.236]. Hình ảnh Chúa dường như là một cách nói của hai

nhà văn nhằm hướng đến tình trạng khủng hoảng nói chung của con người thời

hiện đại.

Cách kết thúc hai tác phẩm thể hiện sức ám ảnh sâu sắc. Cùng nói về dịch

bệnh và sự loay hoay của con người để vượt qua dịch bệnh cùng những nỗi ám

70

ảnh về nó nhưng cách kết thúc ở hai tác phẩm lại khác nhau. Dịch hạch kết thúc

bằng một sự nhẹ nhõm của số đông cư dân thành phố Oran vì dịch bệnh đã chấm

dứt, xen vào đó là một thoáng suy tư của Rieux về khả năng trở lại của vi rút

dịch hạch. Điều này chứng tỏ dịch hạch không hoàn toàn buông tha con người

mà nó có thể tấn công họ một lúc nào đó không đoán trước được. Vi rút dịch

hạch dù đã ra đi, không còn hoành hành ở thành phố nữa nhưng nó vẫn còn hiện

hữu trong đầu óc con người… Một kết thúc có sức ám ảnh, gợi nhiều suy nghĩ

cho người đọc. Song song đó, Báo ứng kết thúc là những hình ảnh trong hoài

niệm về thầy Cantor mạnh mẽ, tự tin của ngày xưa trong lúc hướng dẫn những

đứa trẻ ném lao, là thần tượng của lũ trẻ ở sân chơi: “Chiều ấy thầy thực hiện

nhiều lần các màn phóng lao, lần nào cũng gọn gàng và đầy uy lực, mỗi cú

phóng đều kèm theo một tiếng hét và tiếng gừ trong họng; và lần nào, điều khiến

chúng tôi phấn khích là, lần ném sau đều tiếp đất xa hơn lần ném trước vài mét.

Chạy đà cùng cây lao giơ trên cao, cánh tay cầm lao đưa sâu ra đằng sau, rồi

vung mạnh ra phía trước và buông cho ngọn lao bay đi tạo nên một đòn tấn

công sấm sét – trong mắt chúng tôi thầy dường như bất khả chiến bại” [48,

tr.249]. Đây là hình ảnh hoàn toàn đối lập với Bucky Cantor của hiện tại. Kết

thúc này như một niềm nuối tiếc về thời vinh quang của con người, nhấn mạnh

sự tàn phá của “dịch bệnh” đối với con người.

Như vậy, qua việc phân tích ở trên, chúng tôi nhận thấy rằng cốt truyện

Dịch hạch và Báo ứng mang nặng nỗi ám ảnh về dịch bệnh, cái chết, về sự bất

lực của con người trong sự kiểm soát những điều đó cùng sự khủng hoảng niềm

tin với Chúa, thêm nữa, đó là sự khủng hoảng niềm tin vào lí trí, sức mạnh của

con người. Sự chi phối trong cách nhìn mang đầy nỗi ám ảnh của hai nhà văn về

cuộc sống đã tạo nên một tiểu thuyết với cốt truyện mang sức hấp dẫn cao, thu

hút sự tìm hiểu và suy ngẫm của người đọc.

71

Tiểu kết chương 2

Cốt truyện Dịch hạch và Báo ứng được xây dựng dựa trên hai quan niệm

chủ chốt của Camus và Roth đó là “cái phi lí” và “những nỗi ám ảnh”. Qua việc

khảo sát, tìm hiểu cốt truyện hai tác phẩm, chúng tôi đã thấy được sự chi phối

của hai yếu tố này đối với nghệ thuật xây dựng cốt truyện. Đây cũng chính là

cách thức xây dựng cốt truyện của hai nhà văn. Sức cuốn hút của nó đến từ

những nhận định, những quan niệm sâu sắc về thế giới, về cuộc sống đươc hai

tác giả thể hiện một cách tinh tế, khéo léo qua các chi tiết, hình ảnh, tình huống,

cách kết thúc truyện. Cách chọn ngôi kể ở hai tác phẩm cũng liên quan rất nhiều

đến việc thể hiện cốt truyện. Kiểu kể chuyện hồi tưởng với ngôi số 3, tác phẩm

đạt được tính khách quan cao, có những nhận định chính xác, thuyết phục, đến

từ nhiều phía, tránh được sự chủ quan, áp đặt cho câu chuyện. Toàn bộ câu

chuyện đều ở thì quá khứ, phù hợp cho việc xen vào đó những quan điểm, suy tư

của con người sau một thời gian nhìn lại. Việc tiết lộ người kể chuyện chính là

nhân vật trong truyện ở cuối tác phẩm đã đem lại sự bất ngờ thú vị cho người

đọc, tạo sự hấp dẫn, mới lạ cho mạch truyện.

Điểm khác nhau cơ bản nhất ở hai cốt truyện này đó là một bên thì tuân

thủ thời gian tuyến tính theo diễn tiến của sự kiện (Dịch hạch), một bên lại chú

trọng những khoảnh khắc cảm xúc, những hồi tưởng, những dòng ý thức của

nhân vật nên không đi theo thời gian tuyến tính mà có sự đan xen nhiều sự kiện

khác nhau vào mạch chuyện (Báo ứng). Mỗi một cách xây dựng đều có một lợi

thế riêng của nó trong cách thể hiện. Có thể thấy một điều rằng, cốt truyện Dịch

hạch thiên về cái phi lí, trong khi đó, cốt truyện Báo ứng thiên về thể hiện những

nỗi ám ảnh hơn. Từ điều này, cùng việc nắm những điểm chính trong quan niệm

của hai nhà văn, chúng tôi thấy rằng, có thể gọi cốt truyện Dịch hạch là kiểu cốt

truyện hành động bởi nó nghiêng về phía phi lí, mà phi lí của Camus đó là thứ

phi lí dấn thân, phi lí hành động. Toàn bộ tiểu thuyết là chuỗi rất nhiều các hành

động của nhân vật mà chúng tôi sẽ có dịp phân tích ở chương sau. Chúng tôi tạm

gọi kiểu cốt truyện trong Báo ứng là kiểu cốt truyện vòng tròn, nhân vật trung

72

tâm của tác phẩm trốn chạy dịch bệnh nhưng không chạy thoát mà dịch bệnh lại

xảy ra ở chính anh, anh sống trong vòng tròn của những nỗi ám ảnh. Tựa đề tác

phẩm là Báo ứng, cũng thể hiện một kiểu vòng tròn nhân quả…

73

Chương 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT –

KIỂU CON NGƯỜI DẤN THÂN VÀ CHỊU ĐỰNG

Bản chất của văn học là đời sống mà trung tâm của nó chính là con người.

Con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm văn học bằng các phương tiện

nghệ thuật được gọi là nhân vật. Nhân vật có thể là những con người có thật

nhưng cũng có thể là những đối tượng khác (thần linh, ma, quỷ, con vật, cây cối,

đồ vật,…) nhưng lại được gán cho thuộc tính người. Điều này giúp cho phạm vi

phản ánh của tác phẩm được mở rộng hơn.

Đây là vấn đề rất được nhà văn quan tâm, chú trọng trong cách xây dựng,

tổ chức, đặc biệt là trong tiểu thuyết bởi "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết

thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác" [29, tr.127]. Khi nhắc đến một tác

phẩm văn học, một tiểu thuyết, người ta thường nghĩ ngay đến nhân vật trong

tác phẩm ấy, có nhiều trường hợp nhà văn dùng cả tên nhân vật trung tâm để đặt

tên cho tác phẩm. Điều này đã phần nào khẳng định tầm quan trọng của nhân vật

trong tác phẩm tự sự nói chung và trong tiểu thuyết nói riêng. Nhân vật trong tác

phẩm không chỉ thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm mà còn thể hiện quan

điểm nghệ thuật về con người của một nhà văn ở những thời điểm lịch sử nhất

định. Đó là nơi tập trung các giá trị trong tác phẩm văn học. Thành bại của một

đời văn, của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng nhân vật.

Nhân vật văn học vừa mang chức năng xã hội, vừa phải làm tròn chức năng văn

học của nó. Chức năng của nhân vật là khái quát những quy luật của cuộc sống

con người, thể hiện những hiểu biết, ao ước và kỳ vọng về con người. Chính vì

thế, thành công trong xây dựng nhân vật chính là sự thành công của tác phẩm

văn học.

Có nhiều cách phân loại nhân vật, tuy nhiên, những cách phân loại này chỉ

mang tính chất tương đối: theo phẩm chất nhân vật (nhân vật chính diện, nhân

74

vật phản diện), ở góc độ kết cấu (nhân vật chính, nhân vật phụ), thể loại (nhân

vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch),… Nhân vật có thể đươc phân loại

theo loại hình, tính cách, tâm lí,… Nhà văn có thể xây dựng hình tượng nhân vật

của mình theo nhiều cách, chẳng hạn như: miêu tả nhân vật qua ngoại hình, qua

biểu hiện nội tâm, qua ngôn ngữ nhân vật, qua hành động, qua việc đánh giá của

các nhân vật khác trong tác phẩm, thông qua việc mô tả đồ dùng, nhà cửa, môi

trường xã hội, thiên nhiên...mà nhân vật sinh sống. Trên đây là những nét khái

quát nhất về nhân vật trong tác phẩm văn học nói chung, nhân vật trong tiểu

thuyết nói riêng.

Dịch hạch và Báo ứng là hai tiểu thuyết chủ yếu được xây dựng dựa trên

mô hình quan niệm về thế giới của nhà văn đó là cái phi lí và những nỗi ám ảnh.

Do đó, khi xem xét các nhân vật trong hai tác phẩm, chúng tôi chủ yếu quan tâm

đến cách tổ chức xây dựng nhân vật trong mối liên hệ với quan niệm về cuộc

sống của hai nhà văn chứ không đơn thuần chỉ xem xét những biểu hiện về mặt

nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tác phẩm với những mối quan hệ nội tại của

nó mà thôi.

Có thể nói rằng, kiểu con người dấn thân trong tiểu thuyết Dịch hạch và

Báo ứng chính là kết quả của quan niệm phi lí về thế giới của Camus và Roth.

Kiểu nhân vật này được cả hai nhà văn thể hiện qua cách suy nghĩ, ngôn ngữ,

hành động của nhân vật và qua lời nhận xét của các nhân vật khác. Trong khi đó,

kiểu con người chịu đựng có thể được xem là kết quả của cách nhìn cuộc sống

mang đầy những nỗi ám ảnh của Camus, mà chủ yếu hơn là của Roth. Kiểu nhân

vật này cũng được hai nhà văn khắc họa qua những nét trên, đặc biệt chú ý vào

hành trình của nhân vật. Đó là một hành trình quẩn quanh, bế tắc và không lối

thoát – hành trình sống của tất cả con người. Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân

vật trong Dịch hạch và Báo ứng dưới cái nhìn so sánh, chúng ta sẽ thấy được

những nét độc đáo và sáng tạo, thấy được sự gặp gỡ và tài năng nghệ thuật của

hai nhà văn khi xây dựng nhân vật cho tiểu thuyết của mình.

75

3.1. Kiểu con người dấn thân – dấn thân chống lại cái phi lí

Trong văn học thế giới, kiểu nhân vật dấn thân là một hình tượng đặc biệt

được nhiều nhà văn quan tâm xây dựng. Ta có thể gặp kiểu nhân vật này trong

các sáng tác của Hemingway, Sartre, … Kiểu con người dấn thân trong tiểu

thuyết đã gợi cho con người nhiều suy nghĩ, liên tưởng về cuộc sống. Bên cạnh

hành động, suy nghĩ của các nhân vật cũng có những chuyển biến gây bất ngờ

thú vị cho người đọc. Những vấn đề xung quanh hình tượng nghệ thuật này là

câu hỏi mà người viết luôn muốn tìm kiếm lời giải đáp. Việc xây dựng kiểu

nhân vật dấn thân được nhà văn khắc họa ở ngoại hình, ngôn ngữ, hành động.

Đặc biệt, kiểu con người dấn thân luôn hướng đến hành động, luôn dùng hành

động để chống trả hoặc giải quyết vấn đề, không bao giờ chấp nhận buông xuôi

bỏ cuộc. Chính điều này đã tạo nên sức hút, sức cổ động mạnh mẽ ở các nhân

vật dấn thân trong tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết hiện sinh đối với độc giả.

Kiểu nhân vật dấn thân là kết quả của mô hình quan niệm phi lí về cuộc

sống của Camus và Roth. Chúng tôi sẽ xem xét kiểu nhân vật này trong mối

tương quan với mô hình quan niệm về thế giới của hai nhà văn chứ không đơn

thuần chỉ xem xét nhân vật ở mặt nghệ thuật. Chính quan niệm phi lí và những

nỗi ám ảnh về cuộc sống đã chi phối đến cách tổ chức, xây dựng nhân vật trong

Dịch hạch và Báo ứng.

Dịch hạch nằm trong bộ ba phản kháng của Camus bao gồm: Dịch hạch,

Tình trạng giới nghiêm, Người phản kháng sau bộ ba phi lí: Kẻ xa lạ, Huyền

thoại Sisyphe và kịch Ngộ nhận. Đây là tiểu thuyết thể hiện rất rõ quan niệm phi

lí dấn thân của Camus, đặc biệt là qua các nhân vật: Rieux, Tarou, Grand,

Rambert, Panolux,… Dấn thân ở đây có nghĩa là nhân vật không bao giờ chọn

thái độ buông xuôi, phó mặc khi gặp bất kì một hoàn cảnh khó khăn nào. Các

nhân vật trong Dịch hạch luôn không ngừng vươn lên, không ngừng chiến đấu

chống lại cuộc đời phi lí bằng mọi cách.

76

Đây là kiểu nhân vật tiêu biểu cho văn học hiện sinh. Kiểu con người dấn

thân không bao giờ chấp nhận buông xuôi trước thực tại, dù thực tại ấy có khốc

liệt đến thế nào đi chăng nữa. Họ luôn hành động để chống trả quyết liệt và vượt

lên trên hoàn cảnh, khẳng định giá trị con người bằng sự dấn thân không ngừng

vươn lên, bởi: “Đã làm con người thì không bao giờ được bó tay chịu thua. Con

người có thể bị tiêu diệt nhưng không thể bị khuất phục.” (Hemingway, Ông già

và biển cả). Cũng như ông lão Santiago, nhân vật của Camus dù biết rằng sự

chiến đấu của mình có thể không mang lại chiến thắng nhưng họ vẫn hành động

đến cùng.

Không gì có thể tước đi mất ý chí của con người một cách dễ dàng như

một dịch bệnh truyền nhiễm. Đứng trước thảm họa phi lí này, người ta thường

nhanh chóng chấp nhận số phận hoặc tìm cách trốn chạy thoát thân. Nhân vật

trong Dịch hạch của Camus thì không như vậy. Ban đầu, có thể là do hoàn cảnh

buộc họ phải đối đầu với dịch bệnh: thành phố Oran đóng cửa, dù có muốn bỏ

trốn thì họ cũng khó lòng mà đi được. Tuy nhiên, hoàn cảnh dịch bệnh dần dần

cho thấy rõ phẩm chất tốt đẹp của con người, giống như một thứ “lửa thử vàng”,

để cuối cùng, Camus phải kết luận rằng: “con người có nhiều điều đáng khâm

phục hơn là đáng khinh ghét”. Như vậy, hoàn cảnh dịch bệnh cùng các sự kiện

trong cốt truyện đã tạo điều kiện làm cho cho tính cách, lí tưởng sống của các

nhân vật được thể hiện một cách rõ nét.

Có thể xem Rieux, Tarou, Grand là những nhân vật dấn thân 100%, bởi từ

khi dịch bệnh xuất hiện cho đến kết thúc, họ không lúc nào ngơi nghỉ, luôn dùng

hết sức mình để giúp đỡ cộng đồng. Rambert cũng là một nhân vật khá tích cực

trong hành động chống dịch cứu người, dù lúc đầu, điều quan tâm duy nhất của

anh chỉ là làm sao thoát khỏi thành phố, thoát khỏi dịch hạch. Mỗi nhân vật đều

có một hoàn cảnh khác nhau nhưng lại gặp nhau ở điểm chung đó là cùng tham

gia đội y tế, cùng hành động vì con người.

77

Là một bác sĩ, triết lí sống của Rieux rất thực tế nhưng lại đáng để bao

người học hỏi: “Dịch hạch cũng như mọi bệnh tật trên đời này thôi. Nhưng cái

gì đúng với mọi tai họa thì cũng đúng với dịch hạch (…) Nhưng dịch hạch gieo

rắc khổ ải và đau thương nên nếu không điên thì cũng mù, không mù thì cũng

hèn nhát mới cam chịu bó tay trước dịch hạch” [6, tr.167]. Tuy chọn con đường

khác nhau nhưng về căn bản, cả Rieux và Tarou đều có cùng một nền chung đó

là sự phản kháng không dựa vào Chúa. Đây cũng chính là thái độ của Meursault

trong Người xa lạ khi anh kịch liệt phản đối Chúa, từ chối cầu nguyện cho mẹ,

từ chối cầu nguyện trước khi chết, thậm chí chửi cả mục sư. Và chính nó là

“cách để tác giả thể hiện tính chất vô thần của mình trong tư tưởng”. Đối với

Camus, con người không thể trông cậy vào Chúa bởi Chúa sẽ vẫn cứ một mực

lặng im khi con người rơi vào tuyệt vọng hay đau khổ. Thái độ của Rieux đối

với Chúa là minh chứng cho hành động phản kháng quyết liệt trước cái phi lí và

một sự dấn thân tích cực vì cộng đồng: “Nhưng vì trật tự trên cõi đời này là do

cái chết qui định cho nên có lẽ tốt hơn cho Chúa là không nên tin ở Chúa mà

cần đem hết sức mình đấu tranh chống lại cái chết, và không ngước mắt lên trời

nơi Chúa một mực lặng im”. [6, tr.171]. Dịch hạch đặt nhân vật trong thế phải

chọn lựa trước đau khổ, hoặc là y khoa hoặc chọn Chúa. Các nhân vật trong tác

phẩm, đặc biệt là Rieux đã chọn y khoa và tập hợp mọi người vào thực hiện lựa

chọn này. Nếu như việc lựa chọn Chúa, lựa chọn sự cầu nguyện thể hiện sự yếu

đuối, bất lực của con người thì việc chọn niềm tin vào sự can thiệp của y tế là

một lựa chọn can đảm, tuy vất vả nhưng khôn ngoan. Khôn ngoan bởi vì dù thế

nào thì con người cũng đã không phó mặc vận mệnh của mình cho kẻ khác. Khi

Tarou hỏi Rieux có tin vào Chúa không thì anh đã trả lời: “Không, nhưng điều

đó có nghĩa lí gì chứ? Tôi đang trong bóng đêm và tôi đang cố gắng nhìn nó cho

rõ. Đã từ lâu tôi không còn coi nó là độc đáo nữa (…). Nhưng giờ đây, có các

bệnh nhân và cần phải chữa trị cho họ. Tôi cố gắng bảo vệ họ hết sức mình, vậy

thôi.” Trong lá thư gửi cho Jean Grenier ngày 21 tháng Giêng năm 1948, Camus

78

đã viết: “Điều Rieux (tôi) muốn nói, đó là chữa trị tất cả những gì có thể chữa

trị được, trong khi chờ để biết hay để thấy. Đó chỉ là vấn đề đợi chờ và Rieux đã

nói rằng “tôi không biết”. Tôi đã trở lại sau khi đã đi thật xa để cuối cùng phải

thốt lên lời tự thú là mình không biết gì cả. Ta bắt đầu bằng việc luận bàn về

cuộc diệt chủng và cuối cùng ta trở về với cái luân lí của những con người bình

thường”. (Sổ tay ghi chép của Camus)

Như vậy, thay vì dựa vào Chúa, nhân vật Rieux đã quyết định lựa chọn

hành động. Trong Dịch hạch, Rieux là một trong hai nhân vật đầu tiên đã nhận

ra sự xuất hiện và hiểm họa mà dịch hạch có thể mang lại (cùng với Castel). Ông

phản đối thái độ phản ứng của chính quyền thành phố trong cuộc họp khi họ có

có ý muốn né tránh sự thật. Họ chỉ bàn tới bàn lui duy nhất một chuyện đó là có

nên gọi dịch bệnh này bằng cái tên thật của nó là “dịch hạch”. Điều này làm

Rieux cảm thấy rất bực mình, bởi theo ông, gọi nó tên gì không quan trọng, mà

quan trọng là con người nên bàn xem cách ứng phó thế nào, hành động thế nào

trước tình trạng dịch bệnh. Ông đã mạnh mẽ khẳng định: “Điều quan trọng duy

nhất là chúng ta ngăn chặn không cho nó tiêu diệt một nửa thành phố”

[6, tr.72].

Khác với Tarou luôn muốn phấn đấu trở thành một vị thánh không Chúa,

Rieux chỉ quan tâm đến những gì liên quan trực tiếp đến đời sống thường ngày

của con người. Ông đã từng cho rằng lí tưởng mang lại hạnh phúc cho con người

là quá xa vời với ông. Điều duy nhất ông quan tâm đó là sức khỏe con người, là

làm thế nào để tất cả được khỏe mạnh. Nghề bác sĩ buộc ông luôn phải có mối

liên hệ thân ái với tất cả mọi người, trong suốt thời gian hành nghề, Rieux phần

nào đã trở thành hình ảnh một vị thánh nơi trần thế: luôn lao tới những nơi con

người đang đau đớn vì bệnh tật, với một mũi tiêm, vài ba viên thuốc, một vài lời

trấn an thế là người bệnh lại đâu vào đấy; trong thời kì dịch bệnh, ông vẫn đến

với người bệnh để giúp họ vượt qua đau đớn thể xác bằng tất cả khả năng của

mình, ông luôn dành những điều tốt nhất cho bệnh nhân của mình. Vì thế cho

79

nên, dù ông cảm thấy rằng trái tim ông đang dần rắn lại, lòng ông đang chai sạn,

dù thái độ có lạnh lùng nhưng Rieux đã thực sự xả thân để mưu cầu hạnh phúc

cho bao người. Ông đã đoạt lại sự sống cho bao người, đem lại hạnh phúc cho

bao nhiêu gia đình, ông yêu mẹ, yêu vợ, sẵn sàng chữa bệnh cho người nghèo

mà không lấy tiền,…nên cho dù ông chỉ tự nhủ sẽ hoàn thành tốt công việc vì

ông là một bác sĩ, nhưng chắc chắn với mọi người, ông chính là cứu tinh cho

những người bệnh và gia đình họ. Rieux hoàn toàn có khả năng trở thành vị

thánh không Chúa, nhưng ông đã không chọn con đường đó mà chỉ muốn làm

một con người bình thường vì ông tin vào hiện hữu, tin vào mỗi phút giây con

người tồn tại trên đời hơn là tin vào những gì thuộc về hư vô. Do đó, tất cả

những gì ông quan tâm là sức khỏe, bởi sức khỏe là hiện sinh, là đời sống, ông

không quan tâm đến vấn đề cứu rỗi bởi đó là vấn đề của lí tưởng, của hi vọng,

của Thượng đế. Ông không quan tâm đến cái gì nằm bên ngoài sự sống của con

người. Cái chết là tất yếu, cho nên ông chỉ bám vào những phút giây thực tại khi

con người vẫn còn đang hít thở bầu không khí này…

Quan niệm của Rieux rất thực tế: “Muốn trở thành một vị thánh thì anh

phải sống. Anh phải chiến đấu”. [6, tr.367]. Đó cũng là quan niệm hiện sinh

mang tính chất dấn thân sâu sắc của Camus. Mọi thứ chỉ có ý nghĩa khi con

người hành động và khi con người đang sống. Tất cả những gì nằm ngoài điều

này đều hư vô và phi lí. Kiểu con người dấn thân trong Dịch hạch còn mang tư

tưởng nhân văn đậm nét. Hành động của họ ở đây là hành động xả thân vì cộng

đồng chứ không phải là hành động tội ác. Quan niệm này được thể hiện qua lời

phát biểu của Tarou – cũng là một nhân vật dấn thân tích cực trong tác phẩm

này: “Dĩ nhiên, đã là con người thì phải chiến đấu vì những nạn nhân. Nhưng

nếu con người thôi không còn yêu thương gì nữa hết thì anh ta chiến đấu để làm

gì?” [6, tr.334]. Tarou ngay từ đầu đã xác định cho mình trở thành một vị Thánh

không Chúa giữa đời thường. Anh luôn đặt niềm tin vào con người, cho rằng họ

tốt nhiều hơn là xấu, cái chết là điều tởm lợm nhất mà anh đã từng chứng kiến

80

khi nó xảy ra với họ. Tarou cho rằng nhiệm vụ của mình là phải khơi dậy điều

tốt đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người. Chính vì điều đó mà anh đã đi khắp nơi và

tham gia các cuộc chiến vì con người. Anh đón nhận dịch bệnh ở thành phố

Oran với một thái độ hết sức điềm tĩnh, dù có thể đứng ngoài cuộc chiến chống

dịch hạch nhưng anh không làm như vậy mà tích cực cùng Rieux thành lập đội y

tế cứu người. Cùng là nhân vật phi lí nhưng Tarou khác Mersault. Cái phi lí của

Mersault mang tính thụ động trong sự máy móc, đơn điệu của cuộc đời; cái phi

lí của Tarou lại là sự phản kháng quyết liệt trước cái trật tự tởm lợm của xã hội –

trật tự được qui định bởi cái chết. Cái phi lí của Mersault bắt nguồn từ sự mâu

thuẫn giữa con người với xã hội, cái phi lí của Tarou bắt nguồn từ sự mâu thuẫn

của một con người muốn trở thành thánh nhưng khước từ sự tồn tại của Chúa.

Chính vì thế, trong khi Mersault đại diện cho sự phân li thì Tarou lại đại diện

cho sự tập hợp; trong khi Mersault phản kháng bằng thái độ dửng dưng thì

Tarou phản kháng bằng thái độ dấn thân hành động. Và việc dấn thân hành động

hết mình vì cộng đồng cũng là con đường để Tarou trở thành vị thánh không

Chúa. Thái độ tích cực của Tarou đối với cuộc đời đươc thể hiện sâu sắc nhất

khi anh nhiễm bệnh. Dù cận kề với cái chết nhưng anh vẫn không buông xuôi:

“Tôi không muốn chết. Tôi muốn chiến đấu” [6, tr.366].

Thái độ dấn thân của Tarou cũng giống Rieux ở chỗ phản kháng Chúa,

không chấp nhận đặt niềm tin ở Chúa. Họ tin vào chính mình, tin vào con người

hơn là Thượng đế. Chính niềm tin này đã thôi thúc họ chiến đấu không ngừng vì

con người. Cái chết của Tarou ở cuối tác phẩm, khi mà dịch bệnh đã chấm dứt là

một điều khẳng định của Camus: chỉ có con người đời thường mới tồn tại,

những gì là hư vô, là Thánh thì không thuộc cuộc sống con người. Do đó, nhân

vật của Camus là kiểu người dấn thân cho những gì thực tế nhất, đem lại sức

khỏe và niềm vui cho con người. Bên cạnh Rieux, thì các nhân vật khác như

Grand, Rambert, Panolux cũng chứng minh cho điều Camus đề cập tới là đúng

đắn và thiết thực.

81

Khi bàn về chủ nghĩa anh hùng, người kể chuyện đã chọn Grand là người

anh hùng giữa đời thường: “Đúng, nếu quả loài người thiết tha đặt cho mình

những tấm gương và những hình mẫu mà họ gọi là những anh hùng, và nếu nhất

thiết trong câu chuyện này phải có một người anh hùng, thì người kể chuyện đề

nghị chọn người anh hùng tầm thường, mờ nhạt trên đây. Người kể chuyện thấy

anh có chút lòng nhân hậu và một lí tưởng thoạt nhìn có vẻ kì cục. Như thế thì sẽ

trả lại cho chân lí những gì thuộc về chân lí, trả lại cho phép cộng hai với hai

cái tổng số bốn của nó và trả lại cho chủ nghĩa anh hùng cái vị trí thứ yếu vốn

là của nó: nó phải ở ngay sau, chứ không bao giờ đứng trước những đòi hỏi hào

hiệp của hạnh phúc” [6, tr.184]. Nếu như hành động cứu người của Rieux một

phần là do nghề nghiệp của anh qui định, hành động xả thân của Tarou xuất phát

từ nhiệm vụ khơi gợi điều tốt đẹp tiềm ẩn trong con người, để trở thành vị thánh

không Chúa thì hành động của Grand lại hoàn toàn vì con người một cách thuần

túy. Anh tham gia đội y tế với ý nghĩ hết sức đơn giản, có dịch hạch thì cần phải

tham gia đội y tế để tiêu diệt dịch hạch, chỉ có vậy. Do đó, chọn anh làm người

hùng cho tiểu thuyết này quả là một lựa chọn đúng đắn vì ở anh, người ta có thể

tìm thấy hình ảnh nguyên sơ, chân thực nhất của cái gọi là anh hùng. Grand lao

động vất vả vừa để cứu người vừa dấn thân vào những con chữ. Cho nên, chỉ

một thời gian ngắn tham gia đội y tế mà anh đã trở nên gầy gò, xanh xao. Đây

cũng là tình hình chung của đội y tế của Rieux. Ai cũng đang trong tình trạng

kiệt sức, tưởng như có thể bị dịch bệnh đánh gục bất cứ lúc nào. Nhưng những

con người ấy vẫn kiên cường vươn lên và chống trả đến cùng, trong số đó có

Panolux.

Ban đầu, Panolux là một trong số ít những kẻ đồng tình với dịch hạch,

ông cho rằng đây là sự trừng phạt của Chúa và con người xứng đáng bị như vậy.

Tuy nhiên, sau cái chết của Jacques – đứa con trai nhỏ của thẩm phán Othon,

Panolux đã hoàn toàn thay đổi thái độ, ông bắt đầu dấn thân hết mình vào cuộc

chiến một mất một còn với dịch hạch. Có lẽ cùng với Tarou, Panolux là người

82

trả giá đắt nhất trong cuộc chiến này. Với bài thuyết giáo thứ hai mang nội dung

chống Chúa. Panolux đã chịu sự ghẻ lạnh của các tín đồ, mà quan trọng hơn đó

là sự “trừng phạt” của Chúa. Ông phát bệnh, một ca bệnh đặc biệt, không có dấu

hiệu gì của dịch hạch và chết sau đó. Như một sự chống trả, một sự phản kháng

quyết liệt với Chúa, trong suốt nhũng giờ phút bị bệnh tật hoành hành, ông

không hề kêu la mà kiên cường chịu đựng. Ông không cầu cứu Rieux, không

cầu cứu bác sĩ mà chỉ muốn mọi người làm đúng qui định với một người nhiễm

bệnh cho ông. Như vậy, cái chết cũng như thái độ của Panolux đã gián tiếp

khẳng định một điều rằng, một mục sư không thể hỏi ý kiến một thầy thuốc. Chỉ

có cuộc đời hiện sinh cùng sức khỏe của con người là thực sự tồn tại. Niềm tin ở

Chúa là một niềm tin hư vô. Cho đến những giây phút cuối cùng, Panolux vẫn

chiến đấu âm thầm với căn bệnh quái lạ của mình như một sự thách thức với

Thượng đế. Panolux tham gia đội y tế là vì con người, bài thuyết giáo thứ hai

của ông là bài thuyết giáo cho những con người đang hiện hữu trên cõi đời này,

dù có thể ít nhiều đoán biết được hậu quả từ những việc làm của mình nhưng

ông quyết không thụt lùi hay từ bỏ. Sự can đảm của Panolux rất đáng được

chúng ta học hỏi, sự can đảm và nhiệt tình ấy đã tạo nên một kiểu con người dấn

thân, dám hi sinh hết mình vì cộng đồng. Cùng với những nhân vật khác trong

đội y tế, ông đã làm nên kiểu con người dấn thân trong Dịch hạch với những nét

tính cách hết sức độc đáo và tiểu biểu.

Rambert cũng là nhân vật tiêu biểu cho sự dấn thân hành động vì cộng

đồng. Anh đã từng nói với Rieux rằng: Hưởng hạnh phúc lấy một mình thì thật

đáng xấu hổ. chính vì lí do đó mà anh đã quyết định ở lại tham gia đội y tế cùng

Rieux ngay lúc mình có thể trốn thoát khỏi thành phố, hưởng cuộc sống hạnh

phúc êm đềm không dịch bệnh cùng với vợ ở Paris. Hành động của anh là hành

động của một con người quên mình cho đại cuộc, là biểu hiện cho nét đẹp cần có

ở mỗi con người. Điều đáng quí ở Rambert là anh đã từ bỏ hạnh phúc ngay khi

nó đang sát cạnh bên mình để lao vào vòng khổ ải cùng mọi người. Ngoài các

83

thành viên trong đội y tế của Rieux thì tinh thần xả thân vì cộng đồng của các

nhân vật này đã đem lại tầm ảnh hưởng nhất định đối với các nhân vật khác

trong tác phẩm. Tiêu biểu cho trường hợp này là nhân vật thẩm phán Othon. Sau

cái chết của con trai, sau khi thoát khỏi trại cách li kiểm dịch, ông đã quay trở lại

chốn ấy ngay sau đó bởi ông cho đó là hành động có ích và góp phần giảm bớt

đau khổ vì mất mát.

Tóm lại, hành trình của các nhân vật trong Dịch hạch là hành trình dấn

thân hành động vì cộng đồng, đó là con đường đi từ cô đơn đến tập hợp. Các

nhân vật Rieux, Tarou, Grand, Rambert, Panolux,… đều có điểm chung là hi

sinh vô điều kiện vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Họ luôn tìm cách để

giúp đỡ tất cả người dân thành phố Oran thoát khỏi dịch bệnh. Điều này tạo nên

nét tích cực và sức hút cho kiểu nhân vật dấn thân trong tiểu thuyết Dịch hạch

của Camus. Dấn thân ở đây không đơn thuần là đưa con người thoát khỏi dịch

bệnh mà nó còn là sự tích cực giúp đỡ con người thoát khỏi mọi hiểm họa đang

rình rập, xâm lấn, đe dọa đời sống chúng ta. Kiểu nhân vật dấn thân trong Dịch

hạch đã làm nên những thành công cho Camus trong nghệ thuật xây dựng nhân

vật tiểu thuyết. Thủ pháp chủ yếu được ông sử dụng ở đây để khắc họa kiểu

nhân vật này đó là miêu tả qua lời nhận xét của các nhân vật khác và miêu tả

hành động nhân vật. Việc nhấn mạnh các hành động tích cực của nhân vật trong

lời kể, lời tả đã giúp tác giả dựng nên được hình tượng những nhân vật sống mãi

với thời gian.

Nếu như kiểu nhân vật dấn thân trong Dịch hạch mang tính hiện sinh tích

cực, đó là sự dấn thân tuyệt đối, không từ nan bất cứ điều gì kể cả cái chết thì

nhân vật dấn thân trong Báo ứng lại mang tính chất nửa vời, không hoàn toàn. Ở

đây, dù nửa vời, không hoàn toàn nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận gọi nhân vật

trong Báo ứng là kiểu nhân vật dấn thân bởi sự tích cực trong hành động, thái độ

của nhân vật trong hoàn cảnh dịch bệnh, sự kiên quyết trong hành động xả thân

84

vì con người. Nhưng tất cả điều này chỉ nằm ở giai đoạn đầu của tác phẩm, khi

nhân vật chưa biết mình nhiễm bệnh.

Trước hết, hành động dấn thân ở Bucky Cantor được thể hiện ở niềm xấu

hổ khôn nguôi khi anh không đủ tiêu chuẩn tham gia vào quân đội để đánh giặc,

để cống hiến như những người bạn khác của anh. Chiều cao khiêm tốn cùng thị

lực kém là nỗi mất mát lớn đối với Bucky. Tuy vậy, không vì thế mà anh thiếu

tự tin, sống khép kín, trái lại, anh sống rất tự tin, là một thầy giáo dạy thể dục

đáng ngưỡng mộ của bọn trẻ ở sân chơi Chancellor mùa hè năm 1944. Đối với

những đứa trẻ, anh như là một bình phong vững chắc trước sự xâm nhập của

những thứ nguy hiểm. Khi bọn người Ý xuất hiện, chính thầy Cantor đã can đảm

đối đầu và xua đuổi bọn chúng, đem lại sự bình yên cho sân chơi. Bucky sẵn

sàng ra tay ngăn chặn bọn người Ý dù chúng cố tình đến gieo rắc dịch bệnh.

Bucky lúc này tỏ ra hiên ngang đến mức như thể không gì có thể đánh gục anh

ta, anh dường như không sợ tất cả, kể cả vi rút bại liệt: “Phong thái tự tin, thái

độ kiên quyết, sức khỏe của một vận động viên cử tạ và việc thầy hàng ngày

tham gia chơi bóng nhiệt tình cùng chúng tối – tất cả những điều này khiến

trong số các nhân viên chính thức nơi sân chơi, thầy là người được yêu thích

ngay từ khi tới nhận nhiệm vụ quản lí; và sau vụ việc với mấy gã người Ý, thầy

ngay lập tức trở thành một anh hùng, một thần tượng, một người anh lớn quả

cảm, chở che, nhất là đối với những đứa có anh trai đang ở ngoài chiến trường”

[48, tr.23]. Kiểu con người dấn thân ở Bucky Cantor được Philip Roth khắc họa

ngay ở ngoại hình: “Đó chính là khuôn mặt cứng cỏi, cam chịu, sắc sảo của một

thanh niên cường tráng, khỏe mạnh mà người ta hoàn toàn có thể trông cậy”

[48, tr.19]. Kiểu con người dấn thân theo tác giả có lẽ là người phải có sức khỏe,

có lòng nhiệt tình và đáng để kẻ khác trông cậy, nương nhờ, có thể làm được

những việc mà người khác không làm được, có thể xốc vác để giúp đỡ người

khác. Bucky Cantor dưới ngòi bút của Philip Roth là một người như vậy. Và có

85

thể anh sẽ mãi mãi như vậy – một con người nhiệt tình xả thân vì người khác

nếu như anh không biết mình nhiễm bại liệt.

Sự nhiệt tình dấn thân của Bucky Cantor không chỉ thể hiện ở sự việc đối

đầu với bọn người Ý mà còn ở nhiều sự kiện khác. Những hành động của anh

chủ yếu tập trung dành cho những đứa trẻ, anh hành động vì niềm vui và sự an

toàn của chúng: anh chơi thay thế vị trí của những đứa trẻ vắng mặt để những

đứa ở sân chơi có thời gian nghỉ ngơi, anh hết lòng đau xót trước cái chết của

bọn trẻ, anh muốn dạy bọn chúng trở thành một người Do Thái khỏe mạnh và

can đảm,…nhưng anh đã không làm được vì căn bệnh bại liệt đã giết chết niềm

tin sống nơi anh. Áp lực dịch bệnh cùng với nỗi lo sợ đã khiến Bucky Cantor rời

bỏ việc làm con người mà mình mong muốn: can đảm, tự tin, nhiệt tình,… Dịch

bệnh đã trở thành nỗi ám ảnh to lớn đối với Cantor. Chính điều này đã biến anh

trở thành một con người dấn thân nửa vời, bỏ cuộc giữa chừng. Sự dấn thân của

Bucky có phần khác hơn so với các nhân vật trong tiểu thuyết Dịch hạch. Dấn

thân còn có nghĩa là nhiệt tình suy nghĩ cho người khác, vì thương xót người

khác mà tự trách bản thân mình: “Cảm giác tội lỗi ở người như thầy Cantor có

thể mang vẻ ngớ ngẩn nhưng, trong thực tế là không thể tránh khỏi. Một người

như vậy giống như đã bị kết án. Không gì làm anh ta có thể thỏa mãn ý tưởng đó

của bản thân. Anh ta không bao giờ biết bổn phận của mình dừng ở đâu cả. Anh

không bao giờ tin ở những giới hạn của anh bởi vì, lòng tốt bẩm sinh lạnh lùng

sẽ không bao giờ cho phép anh ta gạt bỏ bản thân khỏi nỗi khổ đau của những

người khác, anh ta sẽ không bao giờ chấp nhận một cách vô tư rằng mình có bất

kì một hạn chế nào” [48, tr.244]. Vì lòng tốt và nhiệt tình bẩm sinh trong con

người mình, dù dịch bại liệt khiến thân xác điêu tàn nhưng tấm lòng ấy vẫn còn

âm ỉ trong anh, nó thôi thúc anh nghĩ về người khác, nghĩ cho người khác. Và

chính vì điều đó mà anh đã quay lưng với Macia – người mà anh rất mực yêu

thương để mong nàng có thể tìm nơi xứng đáng hơn là tình yêu với anh.

86

Hành động trốn chạy đến Idian Hill của Bucky Cantor, quyết định bỏ việc

ở Newark, cầu hôn Macia,…tất cả dường như chỉ diễn ra trong vô thức, đó

không phải là con người thực sự của anh. Bởi nếu thực sự là một kẻ hèn nhát,

muốn trốn chạy thì anh đã không giằng xé giữa việc đi hay ở nhiều đến vậy, nếu

không phải là một con người nhiệt tình luôn nghĩ đến hạnh phúc, sự vui sướng

của người khác thì anh đã không thường xuyên gọi điện về cho bà ngoại để hỏi

về tình hình những đứa trẻ ở Newark, nếu anh yếu đuối, nếu anh không có ý

định dấn thân cho cộng đồng thì anh đã vui sướng hoàn toàn trong tình yêu với

Macia, trong bầu không khí trong lành ở Idian Hill. Có thể thấy rằng, nơi đây dù

có mang đến niềm vui cho anh, nhưng đó là một thứ niềm vui không trọn vẹn,

bởi bản chất con người anh là một người thầy nhiệt tình, can đảm, luôn muốn

hành động vì người khác. Ở Idian Hill, dù được vui chơi cùng lũ trẻ nhưng lòng

anh luôn nôn nóng không yên khi nghe tin chiến sự, nghe tin về cái chết của

những đứa trẻ ở sân chơi Chancellor. Bucky lúc này chẳng khác nào hình ảnh

một con ngựa vốn sinh ra để chạy, để phi, nay lại bị bó gối chồn chân, không thể

là con người mà mình mong muốn được. Như vậy, trong sâu xa nhất, bản chất

nhất, Bucky Cantor vẫn là một con người nhiệt tình, năng nổ, là kiểu con người

dấn thân vì cộng đồng.

Sự dấn thân của Bucky còn thể hiện ở thái độ chống trả của anh trước

cuộc đời phi lí. Sự chống trả ấy chính là thái độ bất tín, thậm chí oán giận Chúa

đến sâu sắc của anh. Anh thường trách: “Chúa có lương tâm không?”, “Chúa là

kẻ giết người máu lạnh”, “là tên sát sinh chuyên đi giết trẻ con”… Cùng giống

Rieux, Tarou, Panolux,…trong Dịch hạch ở thái độ “chống Chúa” nhưng mức

độ gay gắt thì có thể nói ở Bucky Cantor (Báo ứng) cao hơn gấp nhiều lần. Bằng

giọng điệu mỉa mai, châm biếm, hình ảnh Chúa hiện lên một cách rất đáng sợ:

“Hãy cùng hy vọng Chúa trời nhân từ của họ sẽ ban phát tất thảy điều ấy trước

khi đâm lưỡi dao của mình vào lưng họ” [48, tr.226]. “Quan niệm của thầy về

Chúa là một đấng toàn năng hiện hữu hợp nhất không phải từ ba cá thể trong

87

một theo thuyết Chúa ba ngôi của Thiên chúa giáo, mà từ hai – một kẻ bệnh

hoạn và một thiên tài xấu xa độc ác” [48, tr.236].

Nhân vật Bucky trong Báo ứng có thể xem là một sự hiện thực hóa quan

niệm của Philip Roth về cuộc sống: sống là không ngừng phản kháng, không

ngừng dấn thân để khẳng định giá trị và sự tồn tại của mình, để cứu vớt và giúp

đỡ kẻ khác. Điều nay cũng được Roth nói đến trong tiểu thuyết Sabbath Theatre:

“Điều duy nhất tôi biết làm là phản kháng” (lời nhân vật Mickey Sabbath trong

tác phẩm Sabbath Theatre, 1995).

Nếu như Bucky hoàn toàn bị dịch bệnh đánh gục thì vẫn còn một vài nhân

vật khác chiến đấu đến cùng với dịch bại liệt, đó là Arnold Mesnikoff, một đứa

trẻ ở sân chơi Chancellor năm ấy. Bại liệt đã khiến cậu thua kém bạn bè, mặc

cảm, nhưng không vì vậy mà cậu buông xuôi. Cậu đã biến khuyết điểm của

mình thành điểm mạnh trong nghề nghiệp đó là thiết kế nội thất cho những

người cũng bị di chứng bại liệt như mình. Công việc ổn định, có vợ để yêu

thương, có những niềm vui, những hoạt động yêu thích của mình. Thái độ dấn

thân tích cực ở nhân vật này đã đem đến thành công cho cuộc sống của cậu ta và

một điều quan trọng hơn toát lên từ nhân vật này đó là dịch bệnh có thể gây ra

những thương tật trên cơ thể nhưng không đủ sức mạnh làm tổn thương những

ai thực sự sống lạc quan.

Tóm lại, nhân vật trong Dịch hạch và Báo ứng là kiểu con người dấn thân

có điểm chung đó là sự nhiệt tình, tích cực hành động chống lại cuộc đời phi lí,

xả thân vì cộng đồng một cách tự nguyện. Mỗi nhà văn đều có một điểm mạnh

riêng trong việc lựa chọn thủ pháp xây dựng nhân vật của mình. Camus chú

trọng vào việc khắc họa hành động, ngôn ngữ của nhân vật, đặc biệt là sự nhận

xét của nhân vật này đối với nhân vật khác. Trong khi đó, Philip Roth lại có thế

mạnh trong việc miêu tả ngoại hình nhân vật cùng những dòng độc thoại nội tâm

thể hiện rõ tính cách nhân vật. Dù có những điểm chung như đã nêu ở trên, tuy

nhiên, có một điểm khác nhau trong kiểu con người dấn thân ở hai nhân vật đó

88

là: các nhân vật dấn thân trong Dịch hạch của Camus hành động dấn thân tuyệt

đối, hành động xả thân vì cộng đồng đến cùng, trong khi hành động dấn thân của

nhân vật trung tâm trong Báo ứng lại mang tính chất nửa vời, không hoàn toàn.

3.2. Kiểu con người chịu đựng - chịu đựng cái phi lí

Kiểu con người chịu đựng xuất hiện khá phổ biến trong văn học, đặc biệt

là trong các tác phẩm tự sự. Đó là những nhân vật luôn phải chịu những nỗi khổ

khác nhau: oan ức, mất người thân, tình yêu không trọn vẹn, chịu đựng những

nỗi đau về thể xác và tinh thần do một thảm họa, một điều không may nào đó

đem lại, do bệnh tật hay tai nạn,… Tóm lại, kiểu nhân vật này thường không có

sức mạnh để vượt qua một nỗi đau khổ nào đó, thường rơi vào tình trạng bế tắc,

tuyệt vọng, đành phải cam chịu tình cảnh khốn khổ. Trong Dịch hạch và Báo

ứng, các nhân vật chủ yếu phải chịu đựng những mất mát, đau khổ do hậu quả

tàn khốc mà dịch bệnh mang lại. Nói một cách khái quát, đó là sự chịu đựng

những điều phi lí.

Trước hết đó là sự chịu đựng những nỗi đau thể xác ở các nhân vật.

Camus đã miêu tả rất cụ thể, chi tiết những biểu hiện phát bệnh của dịch hạch:

“người bệnh nửa người nhoài ra khỏi giường, một tay đặt lên bụng, một tay ôm

lấy cổ, nôn thốc nôn tháo vào trong một cái thùng đựng rác một thứ nước mật lờ

nhờ. Cố mãi đến hụt hơi, cuối cùng, ông lão gác cổng nằm xuống. Nhiệt độ lên

tới ba chín rưỡi, hạch ở cổ và tay chân sưng tấy, hai bên mạn sườn có hai chấm

đen ngày một loang rộng ra. Bây giờ ông lão kêu đau trong nội tạng.” [6, tr.34].

Tất cả những người nhiễm dịch hạch đều phải trải qua, phải chịu đựng những

đau đớn này cho đến chết.

Trong Báo ứng, biểu hiện phát bệnh có hơi khác chút ít so với dịch hạch,

nhưng nhìn chung, tất cả những người nhiễm bệnh đều phải chịu đau đớn: nôn

ọe, sốt cao, tay chân không nhấc lên nổi, nếu dịch bại liêt xảy ra ở đường thở thì

người bệnh phải sống trong máy trợ thở suốt đời. Đó là những đau đớn về thể

xác mà nhiều nhân vật trong hai tác phẩm phải chịu đựng. Tuy nhiên, sự chịu

89

đựng những nỗi đau, những mất mát về tinh thần cũng không kém phần khủng

khiếp.

Các nhân vật trong Dịch hạch phải chấp nhận sống trong cảnh cách li,

thương nhớ người thân, hoảng sợ, ám ảnh vì dịch bệnh. Rambert có lẽ là nhân

vật thấm thía nhất cảm giác sống cách li khi vô tình bị kẹt lại thành phố Oran

trong lúc làm nhiệm vụ. Anh ngày đêm tha thiết mong được trở về Paris cùng

vợ, luôn sống trong tâm trạng nhớ nhung, đau khổ. Anh đã cố tìm mọi cách lo

liệu để ra khỏi thành phố, nhưng ban đầu, mọi thứ đối với anh chỉ là tuyệt vọng:

“Anh đến gặp mọi cơ quan, làm mọi cuộc vận động, trước mắt, mọi lối thoát về

phía ấy đều bị bịt kín”. Rambert đã ngồi rất nhiều giờ ở tiệm cà phê, quán ăn, ở

nhà ga,…để cố lấp đầy những tháng ngày trống trải, để vượt qua nỗi nhớ nhung

và sợ hãi, cũng giống như người dân thành phố Oran, ai nấy cũng đều tự thấy

rằng “phải làm một cái gì để tự giải thoát mình”, nhưng sự cầm tù của dịch hạch

đã siết chặt lấy họ, không cho họ được phép làm điều đó. Tất cả đối với họ lúc

này chỉ còn là sự nhẫn nhục chịu đựng mong cho tai họa qua đi. Cuối cùng, khi

đã tìm được cách để trốn thoát khỏi vùng dịch bệnh nhưng Rambert lại chọn

cách ở lại cùng gánh vác nỗi đau dịch bệnh với mọi người thì sự chịu đựng của

anh đã trở thành sự cứu cánh đối với cộng đồng, cũng giống như các nhân vật

khác trong đội y tế (Rieux, Tarou, Grand, Panolux). Bên cạnh những điểm

chung đó, mỗi nhân vật lại có một cuộc sống riêng khác nhau nên cùng với nỗi

đau dịch bệnh, họ còn phải chịu đựng những nỗi đau riêng.

Dịch bệnh đã khiến Rieux dường như không còn thời gian để nghỉ ngơi,

một ngày ông phải làm việc suốt 20 tiếng đồng hồ, chỉ một công việc duy nhất:

gây áp xe kết tụ, rạch hạch xoài, nghe tiếng kêu la đau đớn của người bệnh,

tiếng van xin hãy cứu lấy người bệnh từ người thân của họ, nhìn thấy những

gương mặt hốc hác, xanh xao vì dịch hạch, nhìn thấy những xác chết xám ngắt

vì dịch hạch,… Có thể nói rằng, 20 tiếng đồng hồ mỗi ngày ấy là khoảng thời

gian kinh hoàng nhất mà Rieux phải trải qua. Còn kinh hoàng hơn khi ông và tất

90

cả mọi người đều không biết đến bao giờ điều đó mới chấm dứt. Không ai muốn

nhìn thấy những cảnh tượng khủng khiếp này, cũng như không ai muốn chứng

kiến cái chết của đồng loại mình. Nhưng Rieux phải chứng kiến, phải tiếp xúc

trực tiếp với những điều đó. Phải có một nghị lực phi thường, một trái tim đủ

can đảm và mạnh mẽ thì Rieux mới có thể trải qua nỗi ngần ấy thời gian sống

giữa những tiếng kêu la tang tóc. Không thể dùng từ thích nghi đối với Rieux

khi ông chịu đựng được cảnh dịch bệnh bởi không ai có thể chịu đựng nỗi cảnh

này. Ông chịu được vì phải để trái tim mình khép lại: “Sau những tuần lễ kiệt

sức, sau những buổi hoàng hôn nhìn thành phố đổ ra và quẩn quanh ngoài

đường, Rieux hiểu ông không cần phải chống lại lòng xót thương nữa. Lòng xót

thương làm người ta mệt mỏi khi nó trở nên vô ích. Và trong những ngày nặng

nề này, ông chỉ có cảm giác nhẹ nhõm khi nhận thấy con tim mình dần dần khép

kín lại. Ông biết nhiệm vụ của mình nhờ đó sẽ thuận lợi hơn” [6, tr.123]. Trong

hoàn cảnh dịch bệnh, mỗi người đều tự tìm cho mình một cách riêng để “sống

được” với nó. Nếu Rieux chọn cách để tim mình khép lại thì Tarou chọn thái độ

trầm tĩnh khi đón nhận dịch bệnh, tìm lấy những niềm vui nhỏ bé hàng ngày

trong công việc và không ngừng ghi chép. Cách của Grand – thực chất đó không

phải là cách, đó là thái độ sống của anh – là say mê với công việc sáng tác và

tìm kiếm các từ ngữ diễn đạt phù hợp. Chính công việc sáng tác của anh cũng

đem đến được những niềm vui nho nhỏ cho đội y tế trong suốt những ngày

tháng mệt nhoài.

Vì dịch bệnh mà Rieux không có thời gian chăm sóc cho mẹ và vợ -

những người ông hết mực yêu thương. Có nhiều lúc ông cảm thấy rất xót xa vì

điều đó. Đến gần cuối tác phẩm, khi nghe tin cái chết của vợ, ông cảm thấy như

tim mình vụn vỡ trước sự mất mát này, nhưng ông vẫn im lặng chịu đựng để làm

nhiệm vụ của một bác sĩ cứu giúp cộng đồng. Rieux đã nén nỗi đau riêng để lo

cho hạnh phúc chung của mọi người: “Ông biết nỗi đau của mình không phải là

một nỗi đau đột ngột. Đã từ mấy tháng và từ hai ngày nay, vẫn một nỗi đau ấy

91

cứ đeo đuổi” [6, tr.378]. Mẹ của Rieux cũng là một kiểu con người chịu đựng,

bà luôn là điểm tựa, là nơi an ủi cho con trai mình. Bà có cái nhìn rất điềm tĩnh

về dịch hạch khi cho rằng vẫn có những chuyện như thế xảy ra trong lịch sử. Và,

bà là một người nhẫn nhịn khi luôn chờ đợi con về, dù ngày tháng thì dài mà

Rieux thì không bao giờ có thời gian ở bên mẹ. Đối với bà – một người mẹ - họ

vẫn mãi chờ đợi đứa con của mình dù bao lâu đi nữa, vì biết rằng thế nào nó

cũng sẽ trở về.

Trong sự dấn thân của mình, mỗi nhân vật đều có chung một lý tưởng đó

là cứu sống con người trong hiểm họa do dịch bệnh mang lại. Tuy nhiên, đằng

sau sự dấn thân hết mình ấy là cả một sự chịu đựng to lớn, sự dồn nén đến tận

cùng những nỗi đau riêng. Grand mải miết với sổ sách, thống kê người chết,

nhưng đến lúc những kỉ niệm với người vợ Gianno của mình ùa về, anh tưởng

như không còn sức, tưởng như dịch bệnh ập đến và có thể sẽ mang anh đi. Anh

lang thang đến cửa hiệu bày hàng Noel, nhớ lại lúc Gianno ngả mình về phía

anh và chấp nhận lời cầu hôn. Grand đã phải chịu đựng những đau khổ về dịch

bệnh, chịu đựng cảm giác lưu đày quá lâu. Nó cướp đi của anh mọi sự liên hệ

với người vợ yêu quý của anh. Dịch hạch như một ẩn dụ cho rào cản ngôn ngữ ở

Grand: anh muốn viết một lá thư cho vợ, để giải thích về mọi chuyện, nhưng anh

mãi bị “cứng cổ”, không tìm được từ diễn đạt phù hợp, anh mãi bị lưu đày giữa

những con chữ và âm thầm sống với cảm giác đó. Nhưng cuối cùng anh phải

thốt lên: “Kéo dài như thế đã quá lâu rồi. Tôi muốn cứ phó mặc, bắt buộc phải

như thế. A! Thưa bác sĩ, tôi có vẻ bình tĩnh như thế này. Nhưng muốn được bình

thường không thôi, tôi luôn luôn phải cố gắng hết mình. Và giờ đây, lại càng

hơn thế nữa” [6, tr.341]. Rieux, Rambert, cũng là hai nhân vật đã phải chịu

đựng những nỗi đau vì hoàn cảnh riêng, cố tìm quên nó trong hành động xả thân

vì cộng đồng.

Đặc biệt hơn cả có thể nói đến trường hợp của cha Panolux. Ông là một

tín đồ trung thành của Chúa, là người truyền đi những đạo lí “tốt đẹp” từ Chúa.

92

Ấy vậy mà, ngay sau khi chứng kiến cái chết của một đứa trẻ, ông đã đột ngột

thay đổi thái độ của mình với Chúa. Bài thuyết giáo thứ hai của ông (Một mục

sư có thể hỏi ý kiến một thầy thuốc?) đã đánh dấu cho sự thay đổi đó. Sự chịu

đựng của Panolux ở đây là những đau đớn vì bệnh tật sau bài thuyết giáo “chống

Chúa”. Bệnh tật giáng xuống Panolux đột ngột và hoàn toàn không có triệu

chứng gì của dịch hạch. Bác sĩ không thể chẩn đoán được gì từ ca của ông, mãi

cho đến khi ông chết, người ta chỉ ghi là “ca đặc biệt”, không giải thích gì thêm.

Sự chống chọi với bệnh tật một cách kiên cường của Panolux là sự chịu đựng cái

phi lí ở lúc đỉnh điểm nhất của nó. Có Chúa hay không? Và phải chăng con

người đang chịu đựng Chúa? Bởi khi con người gặp nạn thì người trên cao vẫn

một mực lặng im, nhưng khi họ lên tiếng chống lại người thì dường như hình

phạt đối với họ lại có thật! Như vậy, chỉ có một điều xác thực nhất đó là con

người đang sống trong cuộc đời phi lí, đang chịu đựng nó, ngoài ra, không có

một sự cứu viện nào ngoài chính sự nỗ lực chiến đấu ở mỗi người. Những sự

kiện xảy ra với Panolux đã làm nên một hình mẫu con người nhẫn nhịn chịu

đựng ở ông.

Như vậy, ở Dịch hạch Camus không chỉ xây dựng kiểu nhân vật dấn thân

mà ông còn rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật – kiểu con

người chịu đựng. Có sự gặp gỡ trong kiểu người này ở tiểu thuyết Báo ứng của

Philip Roth, đặc biệt là qua nhân vật Bucky Cantor.

Cuộc đời Bucky bị vây quanh bởi những nỗi bất hạnh. Ngay từ lúc sinh ra

anh đã phải chịu cảnh mồ côi vì mẹ chết trong lúc sinh nở, cha là một tên trộm,

ông ta bỏ anh cho ông bà ngoại nuôi dưỡng, không được nhập ngũ vì mắt kém

và không đủ chiều cao. Cuộc đời của anh tưởng như êm đềm nếu như không có

trận dịch bại liệt mùa hè 1944. Bucky ngày càng hoang mang khi những người

thân, người thương xung quanh anh cứ lần lượt ra đi một cách kì lạ: mẹ anh,

những đứa học trò thân cận, bạn thân của anh, ông ngoại, bà ngoại,… Tóm lại,

cái chết bao trùm toàn bộ tác phẩm Báo ứng và cũng bao trùm toàn bộ cuộc đời

93

Bucky Cantor. Anh phải lần lượt chịu đựng tất cả những điều phi lí nhưng lại có

thật này. Và, có thể nói, điều phi lí nhất mà anh phải chịu đựng đó là căn bệnh

bại liệt lại xảy ra với anh, chính anh là kẻ vô tình gieo rắc mầm bệnh cho những

đứa trẻ xung quanh.

Sở dĩ chúng tôi gọi Bucky Cantor là kiểu con người chịu đựng bởi anh

không có đủ sức mạnh để vượt qua những nghịch cảnh trong cuộc sống. Khi biết

dịch bại liệt đang xảy đến với những đứa trẻ, anh đã chạy trốn khỏi vùng dịch,

mặc dù anh không hoàn toàn muốn thế, mặc dù quyết định đó có vẻ chỉ do một

phút bối rối, chỉ là vô thức. Nhưng dù thế nào thì anh cũng đã quyết định và

cũng đã thực hiện. Quay lưng với thực tại, bỏ chạy khỏi nơi nguy hiểm có thể đó

là hành động khôn ngoan với một số người, nhưng với Bucky, với một chàng

trai tha thiết muốn làm người hùng thì thật là một hành động nông nỗi. Và vì sự

trốn chạy ấy mà Bucky đã phải chịu đựng toàn bộ hậu quả: sống trong sự giằng

xé nội tâm, trong mặc cảm mình là kẻ có lỗi khi bỏ rơi những đứa trẻ ngay trong

lúc chúng đang cần sự an ủi của anh, hơn tất cả, anh đã biết mình là kẻ gây ra

căn bệnh bại liệt cho tất cả những đứa trẻ, điều này là nỗi đau khổ lớn nhất mà

anh phải chịu đựng, mãi mãi không thể nào vượt qua được mặc cảm đó.

Kiểu con người chịu đựng chính là sản phẩm của thời đại. Thế kỉ XX,

XXI là thế kỉ của sự khủng hoảng niềm tin, của sự đổ vỡ mọi thành tựu mà con

người gầy dựng ở những thời kì trước do hai cuộc đại thế chiến gây ra. Con

người của thế kỉ XX trở đi luôn u hoài trong hành trình tìm kiếm bản ngã, gánh

trên vai sự nặng nề của những nỗi bất hạnh mà không thể nào vượt thoát được.

Những con người của thời đại này, như Rieux, như Bucky…đều cảm thấy rằng,

làm người một mặt là phải chịu đựng, một mặt là phải không ngừng vươn lên,

không ngừng dấn thân. Hai mặt này nghe qua có vẻ mâu thuẫn nhưng thực chất

nó lại thống nhất trong từng nhân vật của Dịch hạch và Báo ứng. Sinh ra làm

người là chúng ta đã phải bắt đầu phải chịu đựng sống chung với những điều phi

lí (chiến tranh, dịch bệnh, cái chết, bất công, tội ác…) nhưng không vì thế mà

94

con người trở nên thụ động, buông xuôi, mà ngược lại, họ phải luôn dấn thân

vào cuộc chiến với cái phi lí. Trong cuộc chiến ấy, dù con người luôn luôn là kẻ

bại trận nhưng họ không bao giờ bỏ cuộc: “Nhưng thắng lợi của ông bao giờ

cũng chỉ tạm thời, có thế thôi” [6, tr.171]; “Bao giờ cũng thế, tôi biết. Nhưng

không phải vì vậy mà thôi không đấu tranh” [6, tr.171]. Chịu đựng là như thế,

và dấn thân cũng là vì thế.

Trở lại nhân vật Bucky Cantor, những điều mà anh phải chịu đựng cũng

chính là những điều phi lí thường xuất hiện trong cuộc sống này. Những trải

nghiệm của anh chính là những trải nghiệm làm người quan trọng mà bất kì ai

cũng phải trải qua trong suốt kiếp sống của mình. Có lẽ cái chết của mẹ đã

không gây nhiều đau đớn cho Bucky bởi anh không tận mắt chứng kiến sự ra đi

của mẹ. Tuy nhiên, đó cũng là một mất mát lớn trong đời của anh, bởi nó thường

trở đi trở lại trong ý nghĩ của anh những lúc bất hạnh cứ liên tục đổ ập lên đầu

anh.

Điều lớn nhất mà Bucky phải chịu đựng có lẽ là sự “ngược đãi” của Chúa.

Dường như tất cả những bất hạnh của anh đều do một tay Chúa mang lại: “Chúa

đã giết mẹ tôi khi sinh nở. Chúa đã cho tôi một người cha ăn cắp. Khi tôi mới

ngoài hai mươi, Chúa cho tôi bệnh bại liệt để đến lượt mình, tôi lại truyền cho ít

nhất mấy trẻ, có lẽ còn nhiều hơn” [48, tr.234].

Như vậy, ở nhân vật Bucky, có hai cái chịu đựng lớn: thứ nhất là chịu

đựng nỗi đau khách quan, thứ hai là nỗi đau chủ quan. Tức một bên đó là những

nỗi đau do hoàn cảnh gây ra với anh, một bên là nỗi khổ do chính anh nghĩ ra,

một bên anh phải chịu đựng nỗi đau mất mát người thân, nỗi đau của dịch bệnh,

một bên là chịu đựng sự mâu thuẫn, giằng xé giữa một người mang sứ mệnh cứu

giúp cộng đồng và một bên là sự bất lực, không thể làm được vì dịch bệnh, vì

Chúa (không giúp những đứa trẻ ở sân chơi mà còn gây bệnh cho chúng, không

đủ tiêu chuẩn gia nhập quân đội để phụng sự tổ quốc, không đạt được mục tiêu

trở thành người Do Thái kiên cường như lời dạy của ông ngoại), anh phải chịu

95

đựng và từng ngày gậm nhấm sự sụp đổ của chính mình. Nỗi đau tinh thần mà

dịch bệnh mang lại cho anh dai dẳng gấp nhiều lần nỗi đau thể xác do dịch bại

liệt hoành hành . Anh mãi mãi bị trói buộc trong dòng suy nghĩ ấy và chịu đựng

làm một “kẻ thất trận vĩnh viễn” trong cuộc chiến với Chúa, với số phận, với

dịch bệnh.

Trước hết, chúng ta thấy rằng, Bucky phải chịu đựng cuộc sống của một

đứa trẻ mồ côi, trong kí ức hoàn toàn không có bóng dáng của cha mẹ, phải né

tránh cái nhìn thương hại của mọi người: “anh hiểu rõ sự hiện diện bấp bênh

của mình trên thế giới này từ khi người lớn dành cho anh kiểu nhìn mà anh ghét

cay ghét đắng, cái nhìn thương hại mà anh rất tỏ tường” [48, tr.111]. Cùng với

kí ức buồn ấy, Bucky còn là một người “xui xẻo” khi đã phải thừa hưởng những

khuyết điểm về ngoại hình từ cha đó là đôi mắt với thị lực kém và không đủ

chiều cao như những thanh niên khác cùng trang lứa. Có thể nói, số phận dường

như đã không ưu ái anh, và, Chúa nhân từ của mọi người hình như cũng không

công bằng với anh ngay từ đầu. Tuy nhiên, ngoại hình ấy sẽ không là điều làm

anh buồn nhiều nếu như anh vẫn được gia nhập quân ngũ. Bằng sự giáo dục của

ông ngoại, với dòng máu Do Thái kiên cường, dũng cảm đang chảy trong người,

anh đã tự cho rằng mình sinh ra không phải để ném lao, để làm một vận động

viên mà là để trở thành một lính thủy đánh bộ, một người anh hùng cho Tổ quốc,

cho nhân loại. Tuy nhiên, điều đó đã không thành sự thật, anh phải rất đau khổ

khi những người bạn của anh được chọn, còn anh thì không: “Thời gian trôi đi

và dường như tất cả mọi người đểu ra trận chỉ trừ anh. Được nằm ngoài trận

chiến, được thoát khỏi nơi máu chảy đầu rơi – tất cả những điều mà ai khác sẽ

xem như một cơ may, thì anh lại thấy như tai ương. Ông đã dạy dỗ anh trở

thành một chiến binh không biết sợ, đào luyện anh biết nghĩ một cách đầy trách

nhiệm, sẵn lòng và phù hợp để bảo vệ lẽ phải, rồi thay vì đương đầu với cơn vận

hạn của thế kỷ, một cuộc xung dột mang tầm vóc toàn cầu giữa thiện và ác, anh

lại không thể góp phần mình dù là nhỏ nhất” [48, tr.154].

96

Gánh nặng trong tâm trí của Bucky ngày càng tăng lên vì sự xuất hiện của

dịch bại liệt. Là người phụ trách sân chơi nghĩa là Bucky phải phụ trách về mặt

sức khỏe cho lũ trẻ. Không đến mức như bác sĩ nhưng đó là nhiệm vụ khá nặng

nề, đòi hỏi trách nhiệm và sự tận tụy vì: “Vui chơi, đối với người lớn là giải trí

và tái tạo sự sống, vui chơi, đối với trẻ em là phát triển, là giành lấy sự sống”.

[48, tr.58]. Dịch bệnh xuất hiện và đem lại cái chết đột ngột cho những đứa trẻ,

những con người mà vừa mới hôm qua vẫn còn nói cười với anh, hôm nay đã

mãi mãi không còn gặp anh được nữa. Nỗi bàng hoàng, nỗi mất mát này là quá

lớn. Không những thế, anh còn phải chịu sự chỉ trích từ phía phụ huynh mặc dù

hoàn toàn không có điều gì chứng minh được rằng anh đã làm cho những đứa trẻ

nhiễm bệnh. Một mặt, Bucky phải loay hoay tìm mọi cách ngăn chặn dịch bệnh

tấn công những đứa trẻ, mặt khác, anh lại phải trải qua hết nỗi kinh hoàng này

đến nỗi hoang mang khác khi những đứa trẻ xung quanh anh cứ lần lượt ra đi

một cách kì lạ. Bucky Cantor hoàn toàn không thể làm gì để kéo giữ những đứa

trẻ ở sân chơi thoát khỏi bàn tay tử thần. Loay hoay, hoang mang, bất lực trước

nghịch cảnh, mệt mỏi, sợ hãi,… đó là cảm giác thường xuyên mà Bucky phải

chịu.

Những đứa trẻ chết là một bi kịch, và nó càng trở nên bi đát hơn trong mắt

một người thầy đầy trách nhiệm như Bucky Cantor. Không ai có thể bình tĩnh,

hoặc vô tình trước cái chết của những đứa trẻ vô tội, với Bucky lại càng không.

Chính Steinberg cũng đã khẳng định: “trách nhiệm của cháu nặng nề quá” bác

sĩ Steinberg nói chăm nom tất cả các cậu bé, đặc biệt vào thời điểm như thế này.

Bác đã hành nghề y hơn hai mươi lăm năm, vậy mà mỗi khi bị mất đi một bệnh

nhân, dù đó là bởi tuổi già, bác vẫn bị sốc. Dịch bệnh lần này hẳn là một gánh

nặng lớn đè lên vai cháu” [48, tr.92].

Đó chưa phải là tất cả những điều mà Bucky phải chịu đựng. Sự giằng xé

nội tâm là điều thường xuyên liên tục xảy ra ở anh. Sự giằng xé này ngày càng

trở nên nặng nề và dai dẳng theo thời gian. Ban đầu, Bucky vừa muốn ở lại

97

Newark vừa muốn đến Idian Hill để rời xa vùng dịch. Sau đó, anh quyết định bỏ

việc, bỏ lũ trẻ đang trong cơn hoảng loạn để đến với khu nghỉ dưỡng Idian Hill

yên bình.. Anh đã tự trách bản thân rất nhiều về điều này, bởi đó là hành động đi

ngược lại lí tưởng sống của anh - lí tưởng trở thành người giúp đỡ kẻ khác bằng

sức mạnh và sự can đảm của mình… Sự day dứt của anh gắn liền với hình ảnh

của Chúa: “Anh bị day dứt bởi ý nghĩ vì sao những ngả đường đời phân li đến

thế và vì sao mỗi người chúng ta bất lực đến thế khi phải đối mặt với hoàn cảnh.

Vai trò của Chúa ở đâu trong chuyện này? Tại sao Người ném một người xuống

châu Âu nơi lũ phát – xít chiếm đóng với súng trường trong tay và ấn người

khác vào nhà ăn của Idian Hill với một đĩa mì ống sốt phô mai trước mặt? Tại

sao người lại đặt một đứa trẻ Weequahic vào Newark đầy bại liệt trong mùa hè

còn một đứa khác thì ở nơi trú ẩn nguy nga Pocono?” [48, tr.138]. Philip Roth

thường dùng những tràng độc thoại nội tâm của nhân vật để nói lên những ấm

ức mà nhân vật buộc phải gánh chịu. Chỉ có tiếng nói của chính Bucky, của

người đích thân trải nghiệm những đau khổ, bất công mới là tiếng nói xác thực

và có chiều sâu cảm xúc nhất. Đây là thủ pháp chủ yếu được nhà văn sử dụng

trong tiểu thuyết này để khắc họa kiểu con người chịu đựng ở Bucky Cantor.

Càng về cuối tiểu thuyết, nhân vật Bucky Cantor càng hà khắc hơn với

chính mình, càng khổ sở nhiều hơn vì mặc cảm tội lỗi. Mặc cảm rời bỏ sân chơi

Chancellor đã bị lấn át bởi nỗi đau, sự sợ hãi bệnh bại liệt đang xảy ra với bản

thân anh. Và sau này, vì bệnh bại liệt mà Bucky không bao giờ có sự yên ổn nội

tâm trong suốt quãng đời còn lại. Anh luôn bị ám ảnh bởi cảm giác mình là kẻ

lây bệnh bại liệt cho những đứa trẻ ở sân chơi: “Tôi muốn giúp bọn trẻ và khiến

chúng mạnh khỏe (…) vậy mà thay vào đó tôi lại khiến chúng thương tật vĩnh

viễn. Đấy là ý nghĩ đã biến mấy thập niên của thầy thành sự âm thầm chịu đựng,

chàng Bucky của ngày xưa không hề đáng phải chịu đựng nỗi dày vò như vậy”

[48, tr.242]. Tiểu thuyết Báo ứng chứng minh cho quan niệm của Roth – một

quan niệm đã được phát biểu trong Pastoral American, 1997: “Sống không phải

98

là bắt người ta làm mọi thứ cho đúng đắn. Sống là để họ mắc sai lầm, sai lầm,

sai lầm và sau khi xem xét cẩn thận, lại để họ tiếp tục mắc sai lầm. Đó là cách

chúng ta nhận thấy mình đang sống: chúng ta mắc sai lầm”. Cũng giống như

quan niệm của Goethe: “Phàm con người còn dấn bước là còn gặp bước sai lầm”

(Bi kịch Faust). Chịu đựng sai lầm, đau khổ vì nó rồi lại dấn bước vượt qua sai

lầm này để bắt đầu một sai lầm khác, đó là cách con người đang sống. Camus và

Roth đã nêu lên hai mặt trong cuộc sống của con người: chịu đựng và dấn thân.

Không chỉ khắc họa con người chịu đựng của Bucky qua độc thoại nội

tâm, Philip Roth còn thể hiện đặc tính này ở nhân vật qua ngoại hình: “Trên cơ

thể chắc nịch của thầy là chiếc đầu lớn với những đường nét gồ ghề, vát cạnh:

gò má rộng, trán cao, quai hàm vát, một cái mũ thẳng và cao khiến thầy trông

khác nào một chân dung dập nổi trên các đồng xu. Thầy Cantor có cặp môi đầy

đặn, sắc cạnh hệt như cơ bắp, một nước da ngâm ngâm quanh năm. Từ thuở

thiếu thời, thầy đã để đầu đinh – kiểu tóc của lính (…) Tất cả đường nét góc

cạnh trên gương mặt thầy đã tạo cho cặp mắt màu khói xám sau gọng kính – đôi

mắt dài và hẹp như người Á châu – một cái nhìn sâu thẳm, dù hốc mắt thầy

không thật sâu. Giọng nói phát ra từ khuôn mặt cá tính ấy, thật kinh ngạc, lại

hơi chói tai, những điều này không hề làm giảm đi vẻ ấn tượng trong diện mạo

của thầy. Đó chính là khuôn mặt cứng cỏi, cam chịu, sắc sảo của một thanh

niên cường tráng, khỏe mạnh mà người ta hoàn toàn có thể trông cậy” [48,

tr.19].

Tóm lại, cũng như các nhân vật trong Dịch hạch, Bucky Cantor trong Báo

ứng thuộc kiểu con người chịu đựng. Đó là sự chịu đựng những cái phi lí trong

cuộc sống mà bất kì ai dù cách này hay cách khác đều không thể nào tránh khỏi.

Qua việc xây dựng hình tượng các nhân vật – kiểu con người chịu đựng, Camus

và Roth đã giúp chúng ta hình dung được thân phận con người trong cuộc đời

này. Tất cả chúng ta đều là một Sisyphe miệt mài lăn đá, dù biết rằng đây là một

công việc vất vả nhưng bắt buộc vẫn phải gánh trên vai tảng đá nặng nề mang

99

tên phi lí này. Hành động lăn đá là phi lí, công việc lăn đá hoàn toàn không có

niềm vui vì như trong huyền thoại, đến cuối ngày, tảng đa lại bị lăn trở xuống

núi, và sáng hôm sau, nhân vật phải bắt đầu công việc như cũ. Kiếp sống của

con người, của các nhân vật trong hai tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng cũng

không khác gì nhiều so với công việc lăn đá của Sisyphe trong huyền thoại.

Cuối cuộc hành trình, họ vẫn là những kẻ “phủi tay về không”, bỏ lại tất cả cho

cuộc đời hư vô,… nhưng đã làm người thì phải chịu đựng điều đó. Từ các nhân

vật trong hai tiểu thuyết, ta có cái nhìn khái quát về những con người trong cuộc

đời này, mỗi chúng ta cũng chỉ là một kiểu mẫu con người chịu đựng định mệnh

khắc nghiệt của những cái phi lí trong cuộc đời. Từ chịu đựng đến dấn thân là cả

một quá trình phấn đấu và tiến bộ trong nhận thức của con người được nhà văn

thể hiện một cách sinh động trong tiểu thuyết.

Nếu như Camus khắc họa kiểu con người chịu đựng trong tác phẩm của

mình qua lời thoại của các nhân vật, lời nhận xét của nhân vật này đối với nhân

vật khác, những cuộc đối thoại triết học thì Philip Roth lại chú ý vào những suy

nghĩ, những lời độc thoại nội tâm của nhân vật, bên cạnh đó, ngoại hình nhân

vật cũng được nhà văn miêu tả chi tiết, làm nổi bật lên kiểu con người này ở

nhân vật. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu một ý nghĩa khái quát mà hai nhà văn

muốn thể hiện khi xây dựng kiểu nhân vật này, đó không đơn thuần chỉ là sự

miêu tả thông thường về cuộc đời, số phận của các nhân vật, mà đó là hình ảnh

con người nói chung trong cuộc đời phi lí.

Có sự khác biệt trong kiểu nhân vật này ở hai tác phẩm. Nếu các nhân vật

trong Dịch hạch như Rieux, Tarou, Rambert,…chỉ chịu đựng những cái phi lí

bên ngoài mình, do nó áp vào mình thì nhân vật trong Báo ứng lại có thêm sự

chịu đựng những day dứt, dằn vặt trong nội tâm do chính suy nghĩ của nhân vật,

nhân vật còn gậm nhấm sự đổ vỡ của chính mình. Nhân vật Tarou và Bucky

giống nhau ở việc đều muốn trở thành một vị thánh không Chúa để cứu giúp

cộng đồng. Tuy nhiên, nếu Tarou bình tĩnh chịu đựng cái chết với thái độ thanh

100

thản thì nhân vật Bucky Cantor không thể tìm được sự thanh thản ấy, ngược lại,

dù không phải gánh chịu cái chết nhưng anh còn đau khổ gấp bội vì anh không

thể giúp ai, anh còn hại họ nhiễm bệnh. Có thể nói, cảm giác phi lí dường như

ngày càng trở nên nặng nề hơn theo thời gian. Bucky Cantor phải sống để nhận

lấy trách nhiệm làm người, vừa chịu đựng, vừa can đảm đối diện với nó. Nhân

vật Rieux tìm được sự an ủi trong đám đông hò reo và ngày càng hòa vào đám

đông, nhân vật Bucky thì cô đơn, loay hoay trong hành trình của mình… Đó là

sự khác biệt lớn có thể do thời đại khác nhau, con người ngày càng thấm thía

hoàn cảnh phi lí của mình, đơn thương độc mã trên cuộc chiến với số phận.

Tiểu kết chương 3

Như vậy, nhân vật trong Dịch hạch và Báo ứng là kiểu con người vừa dấn

thân vừa chịu đựng. Cuộc đời có muôn vàn những bất hạnh, nghịch lí, ngang

trái, thận phận làm người có lắm éo le, đau khổ lẫn trớ trêu, nó buộc tất cả chúng

ta phải chịu đựng nó. Sự chịu đựng của các nhân vật trong hai tác phẩm trước

thảm họa dịch bệnh chính là sự chịu đựng của con người trong cuộc đời phi lí.

Chấp nhận làm người, tức là chấp nhận sống chung với cái phi lí. Tuy nhiên, qua

hình tượng các nhân vật dấn thân, cả Camus và Roth muốn chúng ta hình dung

rõ một điều rằng, giữa muôn ngã phân li ngang trái của cuộc đời, giữa những

bất hạnh, khổ đau mà cuộc đời phi lí mang lại, con người không được phép

buông xuôi hay phó mặc, mà ngược lại, tất cả chúng ta phải không ngừng chiến

đấu để khẳng định giá trị, khẳng định vị trí của mình trong vũ trụ. Dù biết rằng

thắng lợi là tạm thời, nhưng qua mỗi thắng lợi, chúng ta lại tiến lên thêm một

bậc. Hai tác phẩm là lời khẳng định thân phận đầy bi đát nhưng cũng rất ngoan

cường của con người, khẳng định niềm tự hào khi được làm một con người. Kết

thúc Dịch hạch là sự chiến thắng ngẫu nhiên của của con người sau thời gian

chống dịch hạch, kết thúc Báo ứng là những suy tư, day dứt về thân phận làm

người ở nhân vật Bucky Cantor, và đoạn kết thúc với vẻ đẹp và sức mạnh của

thầy Cantor lúc chưa nhiễm bệnh chính là niềm tự hào về hình ảnh con người:

101

“Chiều ấy, thầy thực hiện nhiều lần các màn phóng lao, lần nào cũng gọn gàng

và đầy uy lực, mỗi cua phóng đều kèm theo một tiếng hét và một tiếng gừ trong

họng; và lần nào, điều khiến chúng tôi phấn khích là, lần ném sau đều tiếp đất

xa hơn lần ném trước vài mét. Chạy đà cùng cây lao giơ trên cao, cánh tay cầm

lao đưa sâu ra đằng sau, rồi vung mạnh ra phía trước và buông cho ngọn lao

bay đi tạo nên một đòn tấn công sấm sét – trong mắt chúng tôi thầy dường như

bất khả chiến bại” [48, tr.249].

Qua nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Dịch hạch và Báo ứng, ta thấy sự

gặp gỡ trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết của ở hai nhà văn này. Ở nghệ

thuật xây dựng nhân vật, sự gặp gỡ ấy có thể giải thích được là do sự gần gũi

trong tư tưởng, thời đại. Sự khác nhau có thể đến từ phong cách riêng của mỗi

nhà văn, hoàn cảnh riêng của mỗi tác giả. Chính sự khác nhau này đã làm nên sự

phong phú, da dạng cho đề tài dịch bệnh trong cách xây dựng tiểu thuyết, trong

sự chuyển tải thông điệp của nhà văn.

102

KẾT LUẬN

Trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết, cuộc gặp gỡ đã xảy ra giữa Dịch

hạch của Albert Camus và Báo ứng của Philip Roth. Qua nghiên cứu đề tài

Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết trong “Dịch hạch” của Albert Camus và

“Báo ứng” của Philip Roth, chúng tôi rút ra được những kết luận như sau:

1. Ẩn dụ dịch bệnh treo lơ lửng, gợi ra con đường đi đến những vấn đề

đầy bi đát đối với con người như chiến tranh, nạn phân biệt chủng tộc, những

rào cản tự do, những khiếm khuyết tinh thần. Ngọn nguồn sáng tạo của những

vấn đề đó xuất phát từ mô hình quan niệm về con người và thế giới của hai nhà

văn: cái phi lí và những nỗi ám ảnh. Từ đây, phong cách tiểu thuyết của Albert

Camus và Philip Roth có dịp tự soi vào nhau và tỏa sáng, tạo nên những “dòng

riêng” giữa “nguồn chung”.Việc chọn cùng một đề tài đã cho thấy Albert Camus

và Philip Roth có cùng một khuynh hướng tư tưởng, một kiểu quan niệm trong

sáng tạo nghệ thuật. Từ việc đặt hai tác phẩm có cùng một khuynh hướng tư

tưởng, cùng đề tài bên cạnh nhau để so sánh, điều mong muốn của chúng tôi

không gì hơn ngoài việc tìm ra sự gặp gỡ trong văn học của hai quốc gia thuộc

châu Mĩ và châu Âu trong cùng một bối cảnh rối ren sau hai cuộc chiến tranh thế

giới. Song chính từ xuất phát điểm chung ấy, hai tác phẩm lại tự thể hiện, khẳng

định được giá trị độc đáo tự thân, mang nét đặc trưng cho phong cách của hai

nhà văn ở hai đất nước khác nhau, hai nền văn hóa khác nhau. Cái này góp phần

soi sáng cái kia.

2. Điểm đến chung nhất của cốt truyện tiểu thuyết đó là từ những vấn đề

cụ thể, phản ánh được những điều khái quát, mang tầm nhân loại. Không đi vào

trò chơi cầu kì của kĩ thuật tiểu thuyết, không thủ tiêu cốt truyện như những nhà

tiểu thuyết Mới nhưng Dịch hạch của Albert Camus và Báo ứng của Philip Roth

vẫn chinh phục được người đọc, gợi liên tưởng đến những vấn đề đáng suy

ngẫm của con người trong kiếp nhân sinh trôi nổi. Thành công đó đến từ cốt

cách của ngòi bút bậc thầy, từ sự thấm nhuần của tư tưởng, triết lí trong từng chi

103

tiết, tình huống, trong cách kết thúc truyện. Điểm cuốn hút trong cốt truyện của

Albert Camus và Philip Roth còn đến từ sức mạnh của sự giản dị trong lối viết,

sự sâu sắc trong tư tưởng. Giữa một thế giới đầy những màu sắc và cung bậc rối

rắm, giữa những ngổn ngang của sự cách tân thể loại, sự hoảng loạn trong tâm

thức con người sau chiến tranh, cốt truyện tiểu thuyết của hai tác giả tiêu biểu

Âu, Mĩ vẫn đứng vững và có sức lay động lòng người bởi nó nói đến được

những vấn đề sâu kín nhất của con người bằng những gì giản dị và chân thành

nhất. Cái hay trong nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng là ở

đó.

3. Hai kiểu nhân vật – con người chịu đựng và con người dấn thân là kết

quả của hai mô hình quan niệm về con người, về thế giới của Albert Camus và

Philip Roth. Cái phi lí và những nỗi ám ảnh hiện diện trong Dịch hạch và Báo

ứng, không thể tách rời hai quan niệm này trong sáng tác của mỗi nhà văn mà

chỉ có thể nhận thấy rằng, mỗi tác giả nghiêng về quan niệm này nhiều hơn quan

niệm kia mà thôi (Camus nghiêng về cái phi lí, Roth thì nghiêng về những nỗi

ám ảnh). Mỗi kiểu nhân vật trong hai tác phẩm chính là sự đề xuất cách phản

ứng/ứng xử mang tính thời đại của hai nhà văn. Kiểu con người dấn thân là kết

quả của quan niệm về cái phi lí, kiểu con người chịu đựng là kết quả của cái

nhìn mang đầy những nỗi ám ảnh về cuộc sống. Albert Camus và Philip Roth

đưa ra thực trạng: con người luôn phải chịu đựng, luôn bị ám ảnh bởi những

điều phi lí. Tuy nhiên, cách phản ứng/ ứng xử ở mỗi nhà văn đối với cái phi lí lại

khác nhau: Albert Camus chọn cách dấn thân hết mình, chiến đấu đến cùng, dù

biết rằng những chiến thắng của con người bao giờ cũng là tạm thời trong khi

Philip Roth lại chọn thái độ cay đắng tuyệt vọng trước những điều con người

không kiểm soát nổi, nếu có dấn thân thì cũng chỉ là một sự dấn thân nửa vời,

không đến nơi đến chốn. Từ đó cho thấy, thế giới càng hiện đại, con người càng

không tìm được chỗ đứng cho mình. Từ cốt truyện Dịch hạch đến cốt truyện

Báo ứng là cả một tiến trình lịch sử nhận thức của con người từ thế kỉ XX đến

104

thế kỉ XXI. Thời của Albert Camus, người ta ít nhất vẫn tìm được cho mình một

cách ứng phó tích cực trước thời cuộc, đến thời Philip Roth (thế kỉ XXI), dù dấn

thân hành động đến bao nhiêu chăng nữa thì thế giới vẫn đáp trả lại cho con

người bằng sự dửng dưng, vô tình, không có cái gọi là “thắng lợi tạm thời” như

trong Dịch hạch; tất cả mọi thứ chỉ là tuyệt vọng.

Nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Dịch hạch và Báo ứng có điểm chung là

cùng xuất phát từ tư tưởng (dưới dạng một thứ mô hình). Cách lựa chọn đề tài,

xây dựng cốt truyện, nhân vật đều chịu sự chi phối của quan niệm về cái phi lí

và những nỗi ám ảnh; Albert Camus là thế và cả ở Philip Roth cũng thế. Những

điểm chung trong nghệ thuật xây dựng hai tiểu thuyết có nguyên nhân từ việc

gặp nhau về mặt tư tưởng, hoàn cảnh ở hai tác giả. Philip Roth và Albert Camus

đều là những nhà văn chịu sự đỗ vỡ trong hôn nhân, sống lưu vong, đều đã từng

tham gia chiến tranh,…Bên cạnh đó, thời đại mà Albert Camus và Philip Roth

sống cũng có những điểm giống nhau nhất định: đều nằm trong thời kì hậu chiến

tranh thế giới, đều thừa hưởng thành tựu và chịu hậu quả của sự tiến bộ khoa

học kĩ thuật công nghệ.

Tuy nhiên, mỗi nhà văn đều thể hiện được những nét độc đáo riêng trong

nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết của mình, bằng tinh thần tiểu thuyết của thời đại

và tài năng của cá nhân nhà văn. Philip Roth có một giọng văn hài hước, hóm

hỉnh, mang màu sắc châm biếm và chứa chan cảm xúc; trong khi đó, giọng văn

của Camus dường như đến từ tiếng nói của lí trí, sắc sảo, trí tuệ, mang tính triết

lý cao: Albert Camus – nhà tiểu thuyết của triết lý, còn Philip Roth là của cảm

xúc - nhận thức.

Như vậy, luận văn đã chỉ ra được những nét tương đồng và dị biệt trong

nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết Dịch hạch của Albert Camus và Báo ứng của

Philip Roth, đồng thời lí giải nguyên nhân dẫn đến những điểm tương đồng, dị

biệt đó. Chúng tôi hi vọng luận văn có thể mở ra được một hướng tiếp cận tác

105

phẩm của hai nhà văn ở Việt Nam, đặc biệt là tác phẩm của Philip Roth bởi tiểu

thuyết của ông vẫn chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam.

106

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia,

Hà Nội.

2. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn

và dịch, Nxb Hội nhà văn.

3. Brunel, Partrick (2006), Văn học Pháp thế kỷ XX, Nguyễn Văn Quảng dịch,

Nxb Thế giới.

4. Lê Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại lí thuyết và tiếp nhận, Nxb Đại

học Sư phạm.

5. Lê Huy Bắc (2003) (tuyển chọn và giới thiệu), Truyện ngắn hậu hiện đại,

Nxb Hội nhà văn.

6. Camus, Albert. (2002), Dịch hạch, Nguyễn Trọng Định dịch, Nxb Văn học.

7. Camus, Albert. (1965), Kẻ xa lạ, Dương Kiền – Bùi Ngọc Dung dịch, Nxb

Văn học.

8. Camus, Albert (1995), Sa đọa, Trần Thiện Đạo dịch, Nxb Hội Nhà Văn.

9. Camus, Albert (2006), Ngộ nhận, Bùi Giáng dịch, Nxb Văn nghệ.

10. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11. Đào Ngọc Chương (2003), Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của Ernest

Hemingway, Nxb Văn hóa thông tin.

12. Đào Ngọc Chương (2010), Truyện ngắn dưới ánh sáng so sánh, Nxb Văn

hóa thông tin.

13. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Dân (2002), Văn học phi lí, Nxb Văn hóa thông tin, Trung tâm

Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.

15. Lê Tiến Dũng (2002), Giáo trình Lí luận văn học – Phần tác phẩm văn học,

Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

107

16. Nguyễn Tiến Dũng (2006), Chủ nghĩa hiện sinh – Lịch sử, sự hiện diện ở

Việt Nam, Nxb Trung Học, Tp. Hồ Chí Minh.

17. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,

Nxb Giáo Dục.

18. Trần Thiện Đạo (2001), Chủ nghĩa hiện sinh và Thuyết cấu trúc, Nxb Văn

học.

19. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

20. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học hiện sinh, NxbVăn học.

21. Lưu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, Tập 3, Nxb Chính

trị quốc gia.

22. Hà Minh Đức chủ biên (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

23. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

24. Gulaiep, N.A. (1982), Lý luận văn học, Lê Ngọc Tân dịch, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

25. Lê Bá Hán (chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

26. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học – vấn đề

và suy nghĩ, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

27. Đỗ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, Nxb Văn học,

Hà Nội.

28. Trần Hinh (2005), Tiểu thuyết A.Camus trong bối cảnh tiểu thuyết Pháp thế

kỉ XX, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

29. Tô Hoài (1977), Sổ tay viết văn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

30. Đinh Thị Thanh Huyền (2008), Biểu tượng nghệ thuật trong tiểu thuyết của

Albert Camus, Đại học Sư phạm Hà Nội.

108

31. Nguyễn Thị Thu Hương (2013), Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết

“Kẻ xa lạ” của Albert Camus và “Thất lạc cõi người” của Dazai

Osamu, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

32. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn

học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

33. Kundera, Milan. (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Đà

Nẵng.

34. Đinh Trọng Lạc (1994), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

35. Lốtman, I.U. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

36. Phương Lựu (1995), Tìm hiểu lí lụân văn học phương Tây hiện đại, Nxb

Văn học.

37. Phương Lựu (1999), Mười trường phái văn học đương đại phương Tây,

Nxb Giáo Dục.

38. Phương Lựu (2001), Lý luận phê bình văn học Phương Tây thế kỷ 20, Nxb

Văn học.

39. Lyotard, Jean Francois. (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch),

Nxb Tri thức.

40. Nadeau, Maurice. (2002), Tiểu thuyết Pháp từ thế chiến thứ hai, Nxb

Văn học.

41. Hoàng Nhân (1995), Nhận định văn học phương Tây hiện đại, Trường Đại

học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

42. Nhiều tác giả (2001), Về một dòng văn chương, Nxb Văn nghệ Thành phố

Hồ Chí Minh.

43. Nhiều tác giả (2009), Văn học phương Tây, Nxb Giáo Dục.

44. Nhiều tác giả (1983), Số phận của tiểu thuyết, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà

văn Việt Nam.

109

45. Nhiều tác giả (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới những vấn đề lí thuyết,

Nxb Hội nhà văn, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông – Tây.

46. Pospelov, G.N chủ biên (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Tập 1 &2,

Trần Đình Sử, Lại nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch, Nxb

Giáo Dục.

47. Ngô Như Quỳnh (2009), Nghệ thuật tiểu thuyết “Cuốn theo chiều gió” của

Margaret Mitchell, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

48. Roth, Philip. (2013), Báo ứng, Hà Nguyễn, Sao Mai dịch, Nxb Trẻ.

49. Roth, Philip. (2011), Người Phàm, Thùy Vũ dịch, Nxb Văn học.

50. Roth, Philip, Chia tay thôi, Columbus, Phạm Viêm Phương dịch.

51. Sartre, J.P. (1999), Văn học là gì, Nguyên Ngọc dịch, Nxb Hội nhà văn.

52. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng văn học phương tây hiện đại, Nxb Đại

học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội

53. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học một số vấn đề lí luận và lịch sử,

Phần 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

54. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học một số vấn đề lí luận và lịch sử,

Phần 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

55. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn.

56. Tập thể tác giả (2001), Văn học so sánh – Lý luận và ứng dụng, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

57. Tập thể tác giả (2003), Văn học so sánh – nghiên cứu và dịch thuật, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội.

58. Lưu Mai Tâm (2009), Chủ nghĩa hiện sinh trong một số tiểu thuyết và

truyện ngắn của Albert Camus, Đại học Vinh.

59. Lộc Phương Thủy (chủ biên), (2005), Quan niệm văn chương Pháp thế kỷ

XX, Nxb Văn học, Hà Nội.

60. Hoàng Trinh (1999), Văn học phương Tây và con người, Nxb Hội nhà văn.

61. Liễu Trương (2007), Tiếp cận Văn học Pháp, Nxb Văn học.

110

62. Phùng Văn Tửu (2001), Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỉ XXI, Nxb Thành

Phố Hồ Chí Minh.

63. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại những tìm tòi đổi mới,

Nxb Khoa học Xã hội.

64. Phùng Văn Tửu (2010), Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, Nxb

Tri thức.

65. Aarons, Victoria, Expelled Once Again: The Failure of

Tiếng Anh

the

Fantasized Self in Philip Roth’ Nemesis, Philip Roth Studies,

66. O’Brien, C.C. (1970), Camus, James’s place, London.

Purdue University Press, pp.51-63.

67. O’Brien (2000), Albert Camus the Myth of Sisyphus, Penguin Books

68. Roth, Philip (2010), Nemesis, Houghton Mifflin Harcourt.

69. Royal, Derek Parker (2005), Philip Roth - New Perspective on an

Group, New York .

70. Safer, Elaine B. (2006), Mocking the age – The later novels of Philip

American Author, Praeger.

71. Safer, Elaine B. (2010), Philip Roth’s Postmodern American

Roth, State Univ of New York Pr.

Romance, Peter Lang International Academic Publishers.

Tiếng Pháp

72. Camus, Albert (2008), La Peste, Folioplus Classiques.

73. Fitch, B.T. (1972), L’étranger d’Albert Camus - un texte, ses lecteurs et leur

lectures, Larousse.

74. Gaillard, P. (1972), La Peste de Camus, Hatier.

75. Lagarde, Michard (1988), XXe siecle: Les grands auteurs Francais, Bosdas,

Paris.

76. Lupée, R.D. (1984), Albert Camus, Editions Universitaires, Paris.

111

Các trang web

77. http://www.truyenngan.com.vn/tieu-thuyet/tieu-thuyet-phuong-tay/341-

chia-tay-thoi-columbus.html

78. http://khoavanhoc-

ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id

=4752%3Ami-quan-h-gia-ngi-k-chuyn-va-ct-truyn-trong-tiu-thuyt-nam-

b-u-th-k-xx&catid=63%3Avn-hc-vit-nam&Itemid=106&lang=vi

79. http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=1428

80. http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=504#more-504

81. http://vannghequandoi.com.vn/802/news-detail/480905/chan-dung/philip-

roth-%E2%80%93-nguoi-nghe-si-tuyet-vong.html

82. http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/nha-van-philip-roth-nghe-van-

cung-can-giai-nghe-n20121112085411263.htm

83. http://khoavanhoc-

ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id

=4382%3Akhi-ngi-ta-gia&catid=64%3Avn-hc-nc-ngoai-va-vn-hc-so-

sanh&Itemid=108&lang=vi

84. http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id

=16013

85. http://tuoitre.vn/tuoi-tre-cuoi-tuan/van-hoa-nghe-thuat/566237/khi-nguoi-

viet-la-ngon-su.html

86. http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id

=16020

87. http://antgct.cand.com.vn/vi-vn/sotay/2013/9/56915.cand

88. http://sachxua.net/forum/index.php?topic=14191.0

89. http://newvietart.com/index4.764.html

90. http://mobi.vietbao.vn/The-gioi/The-gioi-tuong-niem-60-nam-nan-Diet-

chung-Do-thai/20370352/159/

112

91. http://en.wikipedia.org/wiki/Philip_Roth

92. http://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=130307925

93. http://www.telegraph.co.uk/culture/books/bookreviews/8034348/Nemesis-

by-Philip-Roth-review.html

94. http://contemporarylit.about.com/od/memoir/fr/Roth-Unbound.htm

95. http://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=130566223

96. http://de.wikipedia.org/wiki/Nemesis_%28Philip_Roth%29

97. http://m.voatiengviet.com/a/916767.html

98. http://www.cbsnews.com/news/philip-roth-on-fame-sex-and-god/