intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hóa

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:103

44
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn là công trình khảo sát về thơ Nguyễn Khoa Điềm từ góc nhìn văn hoá. Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn khái quát, đầy đủ hơn về thơ Nguyễn Khoa Điềm, từ đó thấy được những tìm tòi, đổi mới, vận động và phát triển của thơ Nguyễn Khoa Điềm mang đậm bản sắc văn hóa của một vùng quê.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hóa

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ SAO THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội - 2010
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ SAO THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Mã số: 60.22.34 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Văn Lân Hà Nội - 2010
  3. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- MỤC LỤC Phần Mở đầu…………………………………………………………………..........3 1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………….………........3 2. Lịch sử vấn đề………………………………………………... …….…..……......4 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.…………………………………………………..6 4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………….…….…...6 5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn………………………….……….........7 6. Cấu trúc luận văn………………………………………………………….............7 Chương 1: Thơ Nguyễn Khoa Điềm trong mạch nguồn văn hoá Huế….............8 1.1. Vài nét về văn hoá Huế…………………………………………...…….............8 1.2. Mối quan hệ văn hoá – văn học… …………………………………….............12 1.3. Hành trình thơ Nguyễn Khoa Điềm trong mạch nguồn văn hoá Huế …...........17 Chương 2: Cảm thức văn hoá trong thơ Nguyễn Khoa Điềm…….……............23 2.1. Sự gắn bó, tự hào về quê hương…………………………………………….…23 2.1.1. Thiên nhiên miền sông Hương núi Ngự……………………….………….…24 2.1.2. Cuộc sống, con người xứ Huế……………………………...…………….….34 2.2. Những tâm sự, triết lý, trải nghiệm qua cái nhìn văn hóa…………......……....43 2.2.1. Những tâm sự, triết lý mang đậm sắc thái văn hóa truyền thống dân tộc……………………………………………………………………........43 2.2.2. Những tâm sự, triết lý trải nghiệm mang đậm sắc màu văn hóa Huế…………………………………..…………………………………....52 Chương 3: Các biểu trưng văn hoá và hình thức thể hiện…………………......63 3.1. Các biểu trưng văn hóa…. ………………………………………………….....63 3.1.1. Dòng sông Hương…………………………………………………………...64 3.1.2. Khu vườn……………………………………………………………........….68 --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 1 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  4. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 3.1.3. Con đường và ngọn lửa……..…….……..……………………...……...........74 3.2. Hình thức thể hiện…………….. …………………………………...…….…...78 3.2.1. Ngôn ngữ thơ: mang đậm chất văn hoá Huế……..……..……………….…..78 3.2.2. Thể thơ……..………………………….………………………...…...............85 3.2.3. Giọng điệu…………………………………….………………………….….88 Kết luận………………………………………………………………………........95 Tài liệu tham khảo………………………………………………..………….…....97 --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 2 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  5. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ xuất hiện trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Sau hơn bốn mươi năm vừa đảm nhiệm những chức vụ quan trọng vừa cầm bút, Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp cho nền thơ ca nước nhà một số thành tựu đáng kể. Những tác phẩm: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng và Ngôi nhà có ngọn lửa ấm của ông đã nhận được Giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật. Gần đây, tập thơ Cõi lặng (xuất bản năm 2007) của Nguyễn Khoa Điềm đánh dấu hành trình trở về Huế - thành phố của tuổi thơ ông, “để làm một người trong mọi người” cũng được đánh giá cao. Tự bạch trước những vấn đề của thời cuộc, nhân sinh để có cái nhìn rộng hơn, sâu sắc hơn, khái quát cao hơn hình như là ý tưởng đeo đuổi suốt đời thơ của Nguyễn Khoa Điềm trong quá khứ cũng như hiện tại. 1.2. Hành trình thơ của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với mảnh đất Huế thơ. Huế đã trở thành chiếc nôi sinh thành, mái nhà trú ngụ, lớn lên của nhiều thế hệ thi nhân Việt Nam. Sương khói Huế, sông Huế, núi Huế, văn hóa Huế, cho đến điệu Nam Ai, Nam Bình đều trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân. Huế là không gian cổ điển Phương Đông thuần khiết, là chốn của những mái cong đền cổ thấp thoáng dưới bóng vườn xanh. Không gian cổ tích ấy là môi trường lý tưởng của những chiêm nghiệm, những cảm thức làm nền tảng triết lý cho thơ, trong đó có thơ Nguyễn Khoa Điềm. 1.3. Sáng tạo văn học là một hoạt động văn hoá. Vì vậy, khi nghiên cứu văn học từ góc độ quan hệ văn hoá - văn học sẽ thấy được vai trò sáng tạo văn hoá của văn học qua những hình tượng nghệ thuật, qua xây dựng những mô hình nhân cách văn hoá đẹp cho xã hội, cho dân tộc. Đồng thời, nghiên cứu văn học nhìn từ góc độ quan hệ văn hoá - văn học sẽ góp phần khẳng định vai trò vừa lưu giữ, chuyển tải vừa thẩm định và lựa chọn văn hoá của văn học. --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 3 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  6. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá với hi vọng sẽ đóng góp thêm một vài ý kiến để tiến tới có một cái nhìn tổng thể, toàn diện về tác phẩm thơ Nguyễn Khoa Điềm. 2. Lịch sử vấn đề Về Nguyễn Khoa Điềm, các bài viết, công trình nghiên cứu về ông không nhiều nhưng đều có những đánh giá khá nhất quán về phong cách thơ ông. Tôn Phương Lan trong bài viết khá công phu Nguyễn Khoa Điềm nhà thơ trẻ có nhiều triển vọng (1976) đã đề cập ngay đến phong cách riêng ấy, đó là “những liên tưởng độc đáo, kết quả của một sự am hiểu cuộc sống và một cảm quan văn chương nhạy bén… Điều đó đã tạo nên những tứ thơ mênh mông, đậm đà mà bay bổng, thật thà mà xao xuyến”[26, tr.326]. Đồng thời, nhà nghiên cứu cũng khẳng định thành công của Nguyễn Khoa Điềm ở thể loại trường ca: “Trường ca Mặt đường khát vọng là một thể nghiệm mới trong vấn đề tìm tòi phương pháp thể hiện và một thành công mới của anh”. Về cấu trúc trường ca này, Tôn Phương Lan nhận xét rất xác đáng: “không coi việc kể chuyện là chính. Lấy suy nghĩ, cảm xúc làm chỗ dựa cho kết cấu để rồi từ đó triển khai cả bề rộng lẫn bề sâu”[26, tr.331]. Nguyễn Xuân Nam trong Thơ tìm hiểu và thưởng thức (1985) cũng nhấn mạnh đến sức mạnh của trường liên tưởng và chiều sâu văn hóa quá khứ: “Thơ Nguyễn Khoa Điềm không đặc sắc về tạo hình, về màu sắc nhưng anh có sức liên tưởng mạnh. Anh thường dẫn người đọc đi từ quá khứ đến tương lai, từ khổ đau đến hạnh phúc, từ sách vở đến đời sống”. Trong bài Gương mặt quê hương, gương mặt nhà thơ (1998), Võ Văn Trực chú tâm đi tìm và phân tích chất văn hóa Huế trong thơ Nguyễn Khoa Điềm và khẳng định, chính điều đó đã làm nên phong cách thơ ông, “tâm hồn Huế vẫn dịu dàng ở phía sau mỗi dòng thơ”. Trong Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường của Nguyễn Trọng Hoàn, Ngô Thị Bích Hường, các tác giả khẳng định phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm chính là “Chất suy tư, chính luận và sự dồn nén cảm xúc cũng như sự am hiểu hiện thực --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 4 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  7. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cùng những cái nhìn giàu tính phát hiện sâu sắc, bất ngờ”[23, tr.115]. Tuy vậy, Nguyễn Trọng Hoàn trong bài viết Cảm nhận thơ Nguyễn Khoa Điềm đánh giá hơi có phần phiến diện về giai đoạn sáng tác đầu của Nguyễn Khoa Điềm, chỉ nhận ra đó là chất thơ “mộc mạc hàm chứa một vẻ đẹp giản dị, trong trẻo. Tiếng thơ như tiếng lòng người chiến sĩ bình tĩnh, tự tin”[23, tr.148]. Trong Tác giả nói về tác phẩm, Nguyễn Quang Thiều đánh giá “Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất hiện thực và văn hóa dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống hay thể tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của trí tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ” [47, tr.225]. Vũ Tuấn Anh trong Mặt đường khát vọng đến Ngôi nhà có ngọn lửa ấm chỉ ra tiến trình vận động thơ Nguyễn Khoa Điềm từ thời chiến sang thời bình và kết luận: “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm vừa tiếp nối vừa chuyển đổi cảm xúc nên giọng thơ điềm đạm và sâu lắng, tách các lớp vỏ của sự vật để đi vào cái cốt lõi bên trong, khơi gợi từ đấy những triết lý đạo đức và nhân sinh”. Hoàng Thu Thủy trong Ngôi nhà tâm hồn của Nguyễn Khoa Điềm luôn có ngọn lửa ấm cũng đi sâu phân tích tập thơ mới này của ông và đánh giá: “Sự vận động từ gân guốc, mạnh khỏe một cách điềm tĩnh đến độ sâu sắc đến mức tĩnh tại, chạm vào phần sâu kín nhất của tâm hồn con người làm bật lên những hiệu ứng thẩm mỹ phong phú”. Tại luận văn thạc sỹ Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm, Lưu Thị Lập sau khi nêu lên những đóng góp của thơ Nguyễn Khoa Điềm trong phong trào thơ chống Mỹ đã đưa ra và phân tích những cảm hứng chính trong thơ Nguyễn Khoa Điềm (về đất nước, con người trong và sau chiến tranh), tập trung phân tích những hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ và màu sắc văn hóa dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Gần đây, sau khi từ giã quan trường, Nguyễn Khoa Điềm đã trở lại với thơ và công bố nhiều bài thơ cùng tập Cõi lặng cho một giai đoạn sáng tác mới. Đã có khá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 5 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  8. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- nhiều bài viết giới thiệu, đánh giá về thơ Nguyễn Khoa Điềm giai đoạn này, nhưng nhìn chung đa số đều còn ở dạng riêng lẻ, mang tính chất cảm nhận, bình luận một số bài thơ tiêu biểu và tập trung vào chuyện trở về “vườn chuối” của ông, do đó, chưa có những kết luận đáng chú ý. Tựu trung, các công trình, bài viết trực tiếp hoặc gián tiếp đều thừa nhận tài năng của Nguyễn Khoa Điềm nhưng chưa thực sự có nhiều công trình khoa học khảo sát một cách có hệ thống và quy mô cả về chiều rộng và chiều sâu thơ Nguyễn Khoa Điềm. Dù sao, đó cũng thực sự là những bước đi đầu tiên cho việc khám phá trọn vẹn, đầy đủ toàn bộ thế giới nghệ thuật thơ ca Nguyễn Khoa Điềm. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm văn hoá, các thành tố văn hoá và mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, luận văn đi sâu vào nghiên cứu thơ Nguyễn Khoa Điềm từ góc nhìn văn hoá. Từ vấn đề trung tâm, chúng tôi mở rộng các mặt biểu hiện cơ bản của thơ Nguyễn Khoa Điềm trong tính thống nhất giữa nội dung và hình thức. Do khuôn khổ của luận văn có hạn, chúng tôi chỉ tập trung tiến hành khảo sát thơ Nguyễn Khoa Điềm qua các tập thơ chính: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng (trường ca), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Cõi lặng. Lựa chọn những tập thơ này vì chúng tôi cho rằng đây là các tập thơ hội tụ những bài thơ tiêu biểu, đặc sắc nhất cho phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm đồng thời nó bao quát được cả một hành trình dài thơ ca của ông từ những năm 70 cho đến tận hôm nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn cố gắng phác hoạ lại diện mạo thơ Nguyễn Khoa Điềm nhưng đặc biệt nhấn mạnh vào sự ảnh hưởng của văn hoá vùng đến sáng tác thơ của ông. Cách thức tiến hành của chúng tôi không theo cách đi vào phân tích từng tác phẩm cụ thể để nhận diện đặc điểm thơ Nguyễn Khoa Điềm. Luận văn tiếp cận vấn đề bằng việc sử dụng kết hợp các phương pháp: - Phương pháp phân tích, tổng hợp; - Phương pháp so sánh, thống kê; --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 6 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  9. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- - Phương pháp liên ngành: dưới góc độ văn hoá, văn học soi chiếu tương tác. 5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn Luận văn là công trình khảo sát về thơ Nguyễn Khoa Điềm từ góc nhìn văn hoá. Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn khái quát, đầy đủ hơn về thơ Nguyễn Khoa Điềm, từ đó thấy được những tìm tòi, đổi mới, vận động và phát triển của thơ Nguyễn Khoa Điềm mang đậm bản sắc văn hóa của một vùng quê. Chúng tôi không đặt nhiều tham vọng đưa ra những kiến giải mới khác với nhận định của các nhà nghiên cứu trước đó mà chỉ vận dụng những thành tựu đã có để đưa ra những đánh giá có tính chất cụ thể bước đầu theo một hướng mới. Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá là một cách tiếp cận mới mẻ giúp ta hiểu thêm về những giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần khẳng định một hướng nghiên cứu văn học mới nhiều triển vọng đó là từ góc độ văn hoá - văn học, sự giao lưu, giao thoa và ảnh hưởng qua lại để nhìn cho thấu đáo từ nhiều chiều kích, phương diện 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Thơ Nguyễn Khoa Điềm trong mạch nguồn văn hoá Huế Chương 2: Cảm thức văn hoá trong thơ Nguyễn Khoa Điềm Chương 3: Hình thức thể hiện và các biểu trưng văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 7 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  10. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Chương 1: THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM TRONG MẠCH NGUỒN VĂN HOÁ HUẾ 1.1. Vài nét về văn hoá Huế Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế có một quá trình lịch sử hình thành và phát triển khoảng gần 7 thế kỷ (tính từ năm 1306). Trong khoảng thời gian khá dài, Huế đã tích hợp được những giá trị vật chất và tinh thần quý báu để tạo nên một truyền thống văn hóa Huế. Truyền thống ấy vừa mang tính đặc thù - bản địa của một vùng đất vừa không tách rời những đặc điểm chung của truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam. Suốt tiến trình hình thành văn hóa Huế có sự tác động của văn hóa Đông Sơn do các lớp cư dân từ phía Bắc mang vào trước thế kỷ II và sau thế kỷ XIII hỗn dung với thành phần văn hóa Sa Huỳnh tạo nên nền văn hóa Việt – Chăm cùng sự ảnh hưởng của các luồng văn hóa khác các nước trong khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây... Là một vùng văn hóa mang đậm sắc thái truyền thống của Việt Nam, Huế ẩn chứa trong lòng mình những giá trị văn hóa độc đáo, thể hiện sinh động một thời phát triển của vùng đất kinh kỳ, nơi hội tụ tinh hoa văn hóa của cả nước. Văn hóa Huế được tạo nên bởi sự đặc sắc về tinh thần, đa dạng về loại hình, phong phú và độc đáo về nội dung, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: văn học, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, phong tục tập quán, lễ hội, lề lối ứng xử, ăn - mặc - ở, phong cách giao tiếp, phong cách sống... Ngôn ngữ là một sản phẩm và là một thành phần của văn hoá. Trong văn hóa Huế, có một tiếng Huế rất dịu dàng, "dễ thương", cùng nằm trong miền phương ngữ Trung Bộ song không giống tiếng Quảng Bình - Quảng Trị, mà là một thứ tiếng Việt độc đáo, đối sánh với "tiếng Hà Nội", "tiếng Sài Gòn". Giữa hai vùng Nghệ Tĩnh và Quảng Nam - nơi có tiếng nói mạnh dạn, nhiều nam tính, nhiều âm đỉnh và âm vực đối chọi nhau, tiếng Huế như tách ra bởi sự nhỏ nhẹ, bồng bềnh, ríu rít đầy nữ tính. --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 8 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  11. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Cũng trong phương diện ngôn ngữ, mỗi địa phương do truyền thống của nó tạo nên một ngôn ngữ đối thoại có màu sắc riêng. GS Hoàng Thị Châu có sự so sánh: “Khẩu ngữ Hà Nội lịch sự và tế nhị, văn hoa nhưng không khỏi kiểu cách. Khẩu ngữ Huế ở ngôn ngữ hoàng phái mang sắc thái đài các, nhưng thiếu tính chân thực, còn ở khẩu ngữ nhân dân thì đậm đà, duyên dáng nhưng không khỏi mộc mạc. Khẩu ngữ Nam Bộ thì bốp chát, nhưng chí tình, khỏe mạnh và mang một đặc điểm rất mới mà các khẩu ngữ khác không có, đó là ý thức về giá trị cá nhân”[9, tr.76]. Ca Huế là một hệ thống bài bản phong phú gồm khoảng 60 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc theo hai điệu thức lớn là điệu Bắc, điệu Nam và một hệ thống "hơi" diễn tả nhiều sắc thái tình cảm đặc trưng. Điệu Bắc gồm những bài ca mang âm điệu tươi tắn, trang trọng. Điệu Nam là những bài âm điệu buồn, nỉ non, ai oán. Bài bản ca Huế có cấu trúc chặt chẽ, nghiêm ngặt, trải qua quá trình phát triển lâu dài đã trở thành nhạc cổ điển hoàn chỉnh, mang nhiều yếu tố "chuyên nghiệp" bác học về cấu trúc, ca từ và phong cách biểu diễn. Đi liền với ca Huế là dàn nhạc Huế với bộ ngũ tuyệt Tranh, Tỳ, Nhị, Nguyệt, Tam, xen với Bầu, Sáo và bộ gõ trống Huế, sanh loan, sanh tiền. Kỹ thuật đàn và hát ca Huế đặc biệt tinh tế nhưng ca Huế lại mang đậm sắc thái địa phương, phát sinh từ tiếng nói, giọng nói của người Huế nên gần gũi với hò Huế, lý Huế; là chiếc cầu nối giữa nhạc cung đình và âm nhạc dân gian. Lễ nhạc cung đình Huế: Bắt nguồn từ 8 loại lễ nhạc cung đình thời Lê là giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, cửu nhật nguyệt giao trùng nhạc, đại triều nhạc, thường triều nhạc, đại yến cửu tấu nhạc, cung trung nhạc, đến triều Nguyễn lễ nhạc cung đình Việt Nam đã phát triển thành hai loại hình Đại nhạc và Nhã nhạc (tiểu nhạc) với một hệ thống các bài bản lớn. Cùng với nhã nhạc, vũ khúc cung đình nổi bật với trên 15 vở múa lớn, từ múa tế lễ, múa chúc tụng, múa tiếp sứ, múa yến tiệc, múa trình diễn tích tuồng. Nhiều vở múa có tính hoành tráng, quy mô diễn viên đông, phô diễn được vẻ đẹp rộn ràng, lấp lánh và kỹ thuật, kỹ xảo của múa hát cung --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 9 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  12. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- đình Việt Nam, thể hiện được sự phát triển nâng cao múa hát cổ truyền của người Việt. Mỹ thuật, mỹ nghệ Huế: Với những kiểu thức trang trí bắt nguồn từ những mẫu mực của Trung Hoa, các nghệ nhân Việt Nam đã tạo nên một bản sắc nghệ thuật trang trí với những nét độc đáo mang cá tính Huế. Nghệ thuật trang trí mỹ thuật Huế còn tiếp thu những tinh hoa của nghệ thuật Chăm, đặc biệt là tiếp thu nghệ thuật trang trí Tây phương. Trang trí cung đình Huế còn tiếp nhận và nâng cao nghệ thuật dân gian Việt Nam. Nhiều loại hình thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam như chạm khắc gỗ, cẩn xà cừ, cẩn tam khí ngũ khí, sơn son thếp vàng, chạm khắc xương và ngọc ngà, khảm sành sứ, làm vàng bạc, dệt, thêu, đan... đã được các tượng cục triều Nguyễn nâng lên thành những nghệ thụât tinh xảo, sang trọng. Về hội họa, nhiều họa sĩ Huế nổi tiếng về tranh thủy mặc sơn thủy, trúc lan, tranh gương, các ấn phẩm nhất thi nhất họa đặc sắc. Về điêu khắc, cố đô Huế đã đánh dấu một thời kỳ phát triển mới, thể hiện bằng các tác phẩm điêu khắc trên đá, trên đồng, trên gỗ. Trong điêu khắc gỗ, phần khắc chạm gỗ trang trí với những bức chạm nổi, chạm lộng trên các chi tiết công trình kiến trúc đạt đến sự tinh xảo và có tính thẩm mỹ cao. Về mỹ thuật ứng dụng, ngoài việc nâng cao các loại hình thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam, Huế còn một thời sản xuất đồ mỹ nghệ pháp lam cao cấp. Trong văn hóa Huế có hai loại lễ hội: lễ hội cung đình và lễ hội dân gian. Lễ hội cung đình phản ánh sinh hoạt lễ nghi của triều Nguyễn, phần lớn chú trọng về "lễ" hơn "hội". Lễ hội dân gian gồm nhiều loại rất phong phú, tiêu biểu như: lễ hội Huệ Nam ở điện Hòn Chén hay còn gọi là lễ rước sắc nữ thần Thiên y A na theo tín ngưỡng của người Chăm pa, lễ hội tưởng niệm các vị khai sinh các ngành nghề truyền thống, lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh thành lập làng. Trong những dịp tế lễ, nhiều sinh hoạt văn hóa bổ ích như đua thuyền, kéo co, đấu vật... được tổ chức và thu hút đông đảo người xem. --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 10 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  13. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Kiến trúc ở Huế phong phú và đa dạng: có kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian, kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu, kiến trúc truyền thống và kiến trúc hiện đại... Những công trình kiến trúc công phu, đồ sộ nhất chính là Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế. Đó là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế. Kiến trúc đô thị Huế có truyền thống trên nền kiến trúc "tạo cảnh": Với phong cách riêng và cái nhìn phong thủy, quần thể kiến trúc kinh thành, đền đài, lăng tẩm, nhà cửa nơi đây đã hoà quyện cùng ngoại cảnh thiên nhiên thơ mộng của sông suối, núi rừng, bãi đồi xứ Huế, thể hiện sự hoà hợp âm dương, tạo nên một không gian kiến trúc "tạo cảnh" mang nhiều triết lý sâu xa, huyền bí. Cũng nằm trong không gian kiến trúc "tạo cảnh", nhà vườn Huế được coi là một nét văn hoá vật thể truyền thống đặc trưng. Nhà vườn Huế thể hiện triết lý sâu xa của con người xứ Huế: hướng nội, suy tư, hoà quyện vào thiên nhiên, gửi gắm lòng mình vào cỏ cây, hoa lá. Loại kiến trúc này lấy ngôi nhà làm trung tâm, trong đó người ta đặc biệt chú ý đến cả kết cấu kiến trúc (chạm khắc, tạo dáng tỷ mỉ, tinh vi, khéo léo đến mức ngôi nhà trở thành tác phẩm của nghệ thuật điêu khắc gỗ), không gian kiến trúc (địa thế, phương vị, tiền án và vườn cây tạo cảnh xung quanh nhà), không gian xã hội (nhà nhất thiết phải gian lẻ, gian giữa là bàn thờ, hương án, hoành phi, câu đối; gian trên, chái trên dành cho đàn ông; gian dưới, chái dưới dành cho phụ nữ...). Đặc trưng tiếp theo của văn hoá vật thể là sự có mặt với mật độ dày đặc các chùa chiền, nhà thờ và các cơ sở thờ họ khác, như điện thờ, thánh thất, đền miếu... Trước hết Huế là một trung tâm Phật giáo lớn của cả nước với sự có mặt của nhiều chùa chiền cổ cách ngày nay chừng vài ba thế kỷ. Hiện nay, ở Huế có khoảng trên 100 chùa chiền lớn nhỏ, phần nhiều trong số đó nằm ở phía tây thành phố - nơi có những đồi thông ngút ngàn màu xanh. Ngoài ra, ở Huế còn có 13 nhà thờ Thiên --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 11 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  14. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- chúa giáo, 1 thánh thất Cao đài và hàng ngàn nhà thờ, đền miếu... Đó là những giá trị văn hoá vật thể mang dấu ấn kiến trúc tôn giáo của con người xứ Huế. Nói đến văn hóa Huế, cũng không thể không nhắc đến ẩm thực. Huế còn lưu giữ trên 1000 món ăn nấu theo lối Huế, trong đó có cả những món ăn ngự thiện của các vua triều Nguyễn. Bản thực đơn ngự thiện có trên vài chục món thuộc loại cao lương mỹ vị, được chuẩn bị và tổ chức rất công phu, tỷ mỷ, cầu kỳ. Bên cạnh đó, các món ăn dân dã rất phổ biến trong quần chúng với bản thực đơn phong phú hàng trăm món được chế biến khéo léo, hương vị quyến rũ, màu sắc hấp dẫn, coi trọng phần chất hơn lượng; nghệ thuật bày biện các món ăn đẹp mắt, nghệ thuật thưởng thức tinh tế. 1.2. Mối quan hệ văn hoá - văn học1 Hiểu theo nghĩa rộng, văn hóa là tổng thể những thành tựu, những giá trị vật chất và tinh thần do các cộng đồng dân tộc sáng tạo ra trong quá trình cải tạo tự nhiên và phát triển xã hội, nhằm đảm bảo nhu cầu cuộc sống con người. Dân tộc học chia văn hóa thành ba loại: văn hóa vật chất (bao gồm công cụ sản xuất, phương tiện đi lại, làng mạc, nhà cửa, quần áo, giày dép, đồ trang sức, các thức ăn, thức uống…); văn hóa xã hội (bao gồm các thiết chế xã hội, gia đình, dòng họ, làng bản và mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng); văn hóa tinh thần (bao gồm các tri thức khoa học, phong tục tập quán, tôn giáo, xã hội, văn học, nghệ thuật dân gian…). Phan Ngọc đã thống kê được gần 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm định nghĩa: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn thông qua các mối quan hệ với tự nhiên và xã hội” [45, 27]. Theo Unesco: “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội, văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những 1 Tham khảo theo bài viết của Đỗ Lai Thúy Quan hệ văn hóa và văn học từ cái nhìn hệ thống, có chỉnh sửa, bổ sung --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 12 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  15. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sự vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân” [45, tr.24]. Chính từ đặc trưng văn hóa, các thuộc tính của văn hóa, văn học, có thể xem xét mối quan hệ giữa chúng ảnh hưởng và tác động qua lại với nhau như thế nào. Văn học là một bộ phận của văn hóa, nằm trong văn hóa, vì thế chịu sự chi phối của văn hóa. Những nhân tố như: ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở, đi lại, sự phát triển của khoa học kỹ thuật… đều là điều kiện quan trọng trong môi trường nảy sinh, hình thành những tác phẩm văn học. Thực ra, bất kỳ một công trình nghiên cứu văn học nào cũng đều ít nhiều, xa gần viện dẫn tri thức văn hóa hoặc đề cập đến những vấn đề văn hóa trong việc bình luận, giải thích tác phẩm. Ở Việt Nam, nghiên cứu, phê bình văn học từ văn hóa, cũng xuất hiện đã lâu, thậm chí từ thời trung đại khi Phạm Quý Thích bình luận Kiều là Nhất phiếu tài tình thiên cổ lụy, Tân thanh đáo để vị thùy thương. Rồi sau đó Truyện Kiều được Trần Trọng Kim nghiên cứu từ quan điểm Phật giáo, Thơ Mới được Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam phần Một thời đại thi ca khảo sát từ luồng gió mới của văn hóa phương Tây. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu trên chỉ vận dụng một số kiến thức văn hóa mà họ cho là cần thiết để đọc văn học chứ chưa có ý thức xây dựng một hệ thống vấn đề mang tính chất lý thuyết cho việc đọc tác phẩm văn học bằng văn hóa. Gần đây, nhờ Unesco phát động những thập kỷ phát triển văn hóa, người ta bắt đầu nhận thức được văn hóa là động lực của phát triển, thì nghiên cứu, phê bình văn học từ văn hóa càng được chú ý nhiều hơn. Đặc biệt, khi bộ môn văn hóa học và nhân học văn hóa xuất hiện ở Việt Nam thì văn hóa bắt đầu được coi như một nhân --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 13 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  16. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- tố chi phối văn học. Năm 1995, Trần Đình Hượu trong Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại nghiên cứu văn học Việt Nam từ Nho giáo và đã chỉ ra được đặc điểm của giai đoạn văn học kể từ đầu Lê đến cuối Nguyễn. Ông cũng nêu ra những hình mẫu nhà Nho (hành đạo, ẩn dật, tài tử) - tác giả của thứ văn học Nho giáo này, như là một giả thuyết làm việc. Điều này, về sau, được Trần Ngọc Vương trong Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam cụ thể hóa bằng một cái nhìn loại hình học. Đỗ Lai Thúy trong Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực đã lí giải những biểu tượng lấp lửng hai mặt trong thơ bà bằng tín ngưỡng phồn thực, còn Trần Nho Thìn trong Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hoá thì cho rằng nghiên cứu văn học trung đại từ những phạm trù cơ bản của văn hóa trung đại để tránh hiện đại hóa văn học dân tộc. Nhưng, có lẽ, Phan Ngọc là người có ý thức trong hướng nghiên cứu này hơn cả. Là một nhà văn hóa học, ông đã sớm lấy yếu tố văn hóa xã hội để Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, rồi lại thử giải thích văn học bằng ngôn ngữ. Và khi một số công trình của M.Bakhtin, (Những vấn đề thi pháp Đôxtoiephi (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, 2003); Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch và giới thiệu, Nxb Hội Nhà văn, 2003)) được dịch và giới thiệu ở Việt Nam thì hướng đi này càng thuyết phục, được các nhà nghiên cứu quan tâm và sử dụng, đồng thời đối tượng nghiên cứu cũng phong phú thêm lên. Những thành tựu của văn hóa học ngày nay cho phép chúng ta có thể nhìn nhận văn hóa như một tổng thể, một hệ thống bao gồm những yếu tố như ngôn ngữ, phong tục tập quán, luật pháp, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn, văn học… Trong hệ thống văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam, yếu tố chủ đạo thường là văn học. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà nó thường xuyên thay đổi qua những thời đại văn hóa, tức một hệ thống văn hóa. Là một yếu tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những gì ngoài hệ thống để phát triển. Tiếp thu những cái ngoài hệ thống đến một mức độ nào đó, yếu tố văn học sẽ không còn phù hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống, làm cho hệ thống phải thay --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 14 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  17. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- đổi cùng với nó. Ví như, văn học trung đại, nhất là bộ phận văn học của các nhà nho tài tử, dưới sự ảnh hưởng của văn hóa đô thị và ý thức cá nhân tỉnh thức, đã làm rạn nứt hệ thống văn hóa trung đại, góp phần đưa nó chuyển đổi lên từ văn hóa trung đại sang văn hóa hiện đại. Lịch sử văn hóa chính là lịch sử của những thay đổi các hệ thống văn hóa, tức các thời đại văn hóa. Văn học với tư cách là một bộ phận của tổng thể văn hóa, một yếu tố của hệ thống văn hóa thì không thể và không có quyền qua mặt hệ thống để tiếp xúc thẳng hoặc tác động trực tiếp đến hệ thống xã hội, mà phải gián tiếp qua hệ thống văn hóa như là những hệ thống đồng đẳng với nhau. Điều này đúng như M.Bakhtin nhận định: “Cần phải nghiên cứu văn học và tác phẩm văn học như những hệ thống chỉnh thể ở hai cấp liên đới. Hệ thống chỉnh thể của tác phẩm gia nhập hệ thống chỉnh thể của văn học; hệ thống chỉnh thể của văn học, đến lượt nó, lại gia nhập hệ thống chỉnh thể của văn hóa; và chỉ có hệ thống văn hóa mới quan hệ trực tiếp với những lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Không thể tách rời văn học ra khỏi hệ thống văn hóa và “vượt mặt” văn hóa liên hệ trực tiếp với các nhân tố chính trị - kinh tế - xã hội. Những nhân tố ấy tác động trực tiếp đến văn hóa trong chỉnh thể của nó và chỉ thông qua nó mà ảnh hưởng đến văn học”. Từ đó, có thể thấy, nếu văn học có chức năng phản ánh hiện thực thì cũng không thể phản ánh trực tiếp được, mà chỉ có thể phản ánh thông qua “lăng kính” văn hóa, thông qua “bộ lọc” của các giá trị văn hóa. Nhờ thế mà văn học tránh được sự phản ánh “gương”, phản ánh một cách trần trụi. Và, có lẽ, cũng nhờ thế mà văn học có một lối phản ánh đặc trưng, một phản ánh, như người ta thường nói, có nghệ thuật, có “nghiền ngẫm” (chữ dùng của Lê Ngọc Trà). Như vậy, một khi văn học chỉ là một yếu tố của hệ thống văn hóa và chỉ “quan hệ” được với hệ thống xã hội thông qua văn hóa, thì khung nghiên cứu văn học cũng phải là khung văn hóa. Trong một thời gian dài, nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam thường chỉ được vận hành trên một cái khung duy nhất là năm hình thái kinh tế - xã hội. Chính sự đóng khung này mà nhiều hiện tượng văn học chưa được --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 15 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  18. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- lý giải một cách thấu đáo. Ví như: theo hệ quy chiếu này thì văn học ở hình thái cao hơn phải hay hơn, hoặc ít nhất cũng phát triển hơn, nhưng văn học Việt Nam sau 1945 có lẽ không hay hoặc phát triển bằng văn học 1932 - 1945; hoặc trong cùng một hình thái thì văn học ở giai đoạn xã hội thịnh trị phải phát triển hơn lúc xã hội suy tàn (nhưng văn học Việt Nam thời Hồng Đức dường như không sánh được với thời Nguyễn Du?)… Nhưng chúng ta có thể thử tiếp cận từ góc độ văn hóa để lý giải các hiện tượng trên. Thực tế là, cùng ở vào một thời đại quân chủ nông nghiệp Nho giáo, nhưng thời Hồng Đức là văn hóa thuần nông nghiệp, còn thời Nguyễn Du thì đã chớm văn hóa đô thị, dẫu rằng đô thị phương Đông trung đại. Văn học đô thị phát triển nhờ nhu cầu hưởng thụ thẩm mỹ của thị dân, nhờ ý thức cá nhân thức tỉnh và, cuối cùng, nhờ sự xuất hiện của một lớp tác giả mới: nhà nho tài tử. Còn giai đoạn 1932 - 1945 thì đã là văn hóa đô thị hiện đại. Sản phẩm văn hóa không còn là quà tặng nữa mà đã là hàng hóa. Ý thức cá nhân phát triển. Chủ thể của văn hóa này là những trí thức Tây học. Văn học 1932 - 1945 là tiếng nói mới, tưng bừng của văn hóa đô thị hiện đại. Sau 1945, do nhu cầu của hai cuộc kháng chiến nên phải đề cao dân tộc, đề cao truyền thống, đề cao nông thôn, nông dân (là quân chủ lực)... Văn hóa đô thị, vì thế, chùng xuống hơn; văn hóa nông thôn phục hưng và phát triển. Như vậy, đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hóa học là vận dụng những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác phẩm. Một cách tổng quát, phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hóa ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa trong đó tác phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mỹ, quan niệm về con người cũng như sự chi phối của các phương diện khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã hội sống động hiện thực… từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về các mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, môtip, hình tượng, cảm xúc, ngôn ngữ… Phương pháp này tuy có tính chất tổng hợp, trung gian giữa những phương pháp đọc văn bản khác nhau nhưng vẫn có đặc trưng riêng. Nó thiên về nhiệm vụ giải mã các hiện tượng nghệ thuật, tìm ra nền --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 16 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  19. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- tảng văn hóa lịch sử của chúng, đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong không gian và thời gian. Điểm khác biệt của các tiếp cận văn hóa học so với thi pháp học là ở chỗ, tiếp cận văn hóa học không chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của tác phẩm như một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà đặt ra nhiệm vụ đối chiếu, so sánh, truy nguyên các quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm được sản sinh để tìm nguồn gốc các dạng thức quan niệm về con người - thời gian - không gian trong tác phẩm. Tiếp cận văn hóa học thực chất là tiếp cận liên ngành. 1.3. Hành trình thơ Nguyễn Khoa Điềm trong mạch nguồn văn hoá Huế Như đã nói ở trên, mảnh đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế có bề dày truyền thống văn hóa. Và văn học là một bình diện hiển minh của văn hóa đã để lại những trang đời, trang thơ lấp lánh lời giải đáp về những vấn đề nhân sinh, thế sự của chính con người và vùng đất này. Trong dòng chảy văn hóa ấy, văn học - đặc biệt là thi ca - có vai trò quan trọng trong việc phản chiếu thời đại và con người một cách cụ thể thông qua lăng kính chủ quan của tác giả, tạo ra một thế giới hiện thực - tinh thần cụ thể, độc đáo, có thể nối liền quá khứ với hiện tại và hiện tại với tương lai. Thơ Huế chính là sự gặp gỡ, thăng hoa bao tiềm năng sáng tạo độc đáo do sự gặp gỡ các hằng số văn hoá - thi ca. Thời phong kiến, Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế đã hội tụ được nhiều nhân tài, trí thức của cả nước, tạo ra sự tích hợp văn hóa độc đáo mà văn thơ của họ đã trở thành sức mạnh tinh thần vô giá cho đến ngày nay, ví như trường hợp của Trương Hán Siêu với Hoá Châu tác, Lê Thánh Tông với Tư dung hải môn lữ thứ, Đào Duy Từ với Tư dung vãn, rồi sau này là Nguyễn Biểu, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Phạm Đình Hổ, Phạm Nguyên Du, Ngô Thời Nhậm, Phạm Phú Thứ, Phạm Quý Thích, Nguyễn Hàm Ninh, Lê Ngọc Hân, Trần Bích San, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê, Phạm Văn Nghị, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Đặng Huy Trứ, Trần Cao Vân, Miên Trinh, Miên Thẩm, Đào Tấn, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thông, Ông Ích Khiêm, Tản Đà, Mai Am, Huệ Phố, Huỳnh Thúc Kháng... --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 17 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
  20. Thơ Nguyễn Khoa Điềm dưới góc nhìn văn hoá --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Và nối tiếp từ năm 1930 với Phong trào Thơ mới cho đến ngày nay, nếu làm phép thống kê như trên thì phải lên đến con số vài ba trăm nhà thơ. Trong đó, phải kể đến các thi sĩ tài danh (thời 1930-1945): Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Tố Hữu, Nguyễn Xuân Sanh, Văn Cao, Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Nguyễn Bính, Nguyễn Đình Thư, Nam Trân, Phạm Hầu, Thái Can, Tế Hanh, Đinh Hùng, Đông Hồ, Mộng Tuyết, Phan Văn Dật, Hoàng Diệp... Kế đến là các nhà thơ thời kháng chiến (1945-1975) như Hải Bằng, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải, Lương An, Trần Vàng Sao, Hoàng Phủ Ngọc Tường... Thời kỳ hoà bình lập lại từ 1975 đến nay, Huế là nơi trung chuyển, dừng chân trên đường lữ thứ Bắc - Nam của biết bao tao nhân mặc khách. Các thi sĩ cả nước đã đến Huế, neo hồn mình cùng thiên nhiên, cảnh vật và đã có hàng nghìn bài thơ hay viết về Huế. Đó là tài sản vô giá cho kho tàng thơ Huế. Rồi đây, chúng sẽ biến thành những giá trị mới, bổ sung những phẩm chất văn hoá - thi ca cho Huế. Như bất kỳ các trung tâm văn hoá lớn của cả nước như Thăng Long - Hà Nội, Sài Gòn..., Huế hiển minh một khả năng, một quy luật thi ca có tính độc đáo riêng. Đó là khả năng nội sinh, tạo sinh thi ca trong lòng văn hoá Huế và khả năng “ngoại nhập”, hội tụ các thành tố văn hoá - thi ca của các miền khác mang đến Huế thông qua các chủ thể văn hoá, chủ thể sáng tạo. Ta có thể cảm nhận trong từng dòng thơ, bài thơ chất Huế sâu đậm mà các nhà thơ không thể cưỡng lại được trước sinh lực và vẻ đẹp hữu tình của vùng đất Phú Xuân - Huế. Thơ Huế vì vậy, đã trở thành tình cảm, tài sản của cả nước. Cái hồn Huế, tâm thức Huế, thiên nhiên Huế góp phần làm đa dạng hoá, đặc sắc hoá thi ca cả nước. Một dòng chảy thi ca Huế trong mạch nguồn thơ Việt luôn dào dạt đến ngày nay, không có sự đứt nối, gián đoạn. Nó luôn hiện hữu với sự tiếp nối, kế thừa, bổ sung những nội hàm mới, phương thức thể hiện mới. Là một người con của xứ Huế, Nguyễn Khoa Điềm cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của bề dày và bề sâu lịch sử, văn hóa, tình cảm của một vùng đất cố đô để trở thành một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ xuất hiện trong --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 18 Nguyễn Thị Sao – Cao học Văn 2007
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1