ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
HOÀNG ĐỖ KHÁNH LINH
NGUY£N T¾C B¶O VÖ Bµ MÑ Vµ TRÎ EM
TRONG LUËT H¤N NH¢N Vµ GIA §×NH VIÖT NAM N¡M 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
HOÀNG ĐỖ KHÁNH LINH
NGUY£N T¾C B¶O VÖ Bµ MÑ Vµ TRÎ EM
TRONG LUËT H¤N NH¢N Vµ GIA §×NH VIÖT NAM N¡M 2014
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hoàng Đỗ Khánh Linh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC BẢO
VỆ BÀ MẸ VÀ TRẺ EM TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 ............................ 8
1.1. Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 ............................................................................. 8
1.2. Khái niệm và cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo vệ bà mẹ
và trẻ em .......................................................................................... 10
1.2.1. Khái niệm bà mẹ và trẻ em ................................................................ 10
1.2.2. Khái niệm nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em ................................. 12
1.2.3. Tính cần thiết tất yếu của việc ghi nhận nguyên tắc ......................... 13
1.2.4. Sự phát triển của việc ghi nhận nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ
em qua các thời kì pháp luật ............................................................. 19
1.3. Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em đƣợc ghi nhận trong những
văn bản Pháp luật Quốc tế ............................................................. 22
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO VỆ BÀ MẸ VÀ
TRẺ EM ĐƢỢC QUY ĐỊNH TRONG LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 .............................................................. 28
2.1. Nội dung Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ theo quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 .................................................... 28
2.1.1. Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai,
sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi .............................. 28
2.1.2. Quyền sinh con và nuôi con ................................................................... 30
2.1.3. Bảo vệ người mẹ trong mối quan hệ gia đình ........................................ 32
2.1.4. Các quy định khác liên quan đến ly hôn ................................................ 33
2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em ............................... 36
2.2.1. Bảo vệ quyền trẻ em dưới góc độ quyền con người ......................... 36
2.2.2. Bảo vệ các quyền lợi liên quan đến tài sản của con .......................... 42
2.2.3. Bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong một số trường hợp đặc biệt ........ 46
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA BÀ MẸ VÀ TRẺ
EM TRONG QUAN HỆ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH ............................ 55
3.1. Nhận xét chung về thực tiễn thực hiện những quy định về bảo
vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em trong pháp luật hôn nhân gia
đình hiện hành .................................................................................. 55
3.1.1. Ưu điểm ............................................................................................. 55
3.1.2. Hạn chế còn tồn tại ............................................................................ 59
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em trong quan hệ hôn
nhân gia đình .................................................................................... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
Hôn nhân và gia đình có vai trò quan trọng trong sự phát triển ổn định
của xã hội. Không chỉ vợ chồng, các con mà cả Nhà nước, xã hội đều quan
tâm đến việc xây dựng và củng cố quan hệ hôn nhân. Sự bền vững của hôn
nhân là sự bền vững của từng gia đình, tạo nền tảng vững chắc cho sự bền
vững của toàn xã hội. Gia đình có đầm ấm, hạnh phúc thì các thành viên mới
phấn khởi lao động, hăng say sản xuất, xóa đói giảm nghèo. Nói đến bảo vệ
sự bền vững của hôn nhân, chúng ta không thể không nhắc đến việc bảo vệ
quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em – đối tượng đặc biệt của quan hệ
hôn nhân gia đình.
Với đặc trưng riêng về giới tính, người mẹ - người phụ nữ là một
nhóm người dễ bị tổn thương, cần được quan tâm và bảo vệ một cách đặc
biệt. Trong gia đình, người mẹ với tư cách là người vợ, người con dâu, tần
tảo, hi sinh chịu thương chịu khó. Ngoài xã hội, họ là thành phần lao động
chính trong các ngành công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, góp phần xây
dựng kinh tế.
Mục đích của hôn nhân là để duy trì nòi giống, vì vậy bên cạnh người
mẹ không thể không nhắc đến trẻ em. Con trẻ là hạnh phúc của gia đình, là
tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Người xưa có câu: “Trẻ em như một tờ giấy trắng”. Nếu trẻ em không
được sự quan tâm của xã hội, sự bảo vệ của pháp luật thì những mầm non của
hôm nay không thể trở thành những công dân có ích cho xã hội mai sau.
Bảo vệ quyền trẻ em thường gắn với việc bảo vệ quyền người mẹ và
các quan hệ gia đình. Hiến pháp đã gắn nhu cầu chăm sóc trẻ em bên cạnh
nhu cầu chăm sóc người mẹ. Vì vậy, chăm sóc, giáo dục và bảo vệ bà mẹ và
trẻ em là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Và việc thể chế hóa
1
mối quan tâm này một cách cụ thể toàn diện, phù hợp với sự phát triển kinh tế
- xã hội là đòi hỏi mang tính cấp thiết và luôn được các ban ngành trong cả
nước chú trọng.
Ở nước ta, vị trí vai trò của người mẹ trong các lĩnh vực đời sống, xã
hội và gia đình ngày càng được đề cao. Trong những năm qua, Nhà nước đã
ban hành nhiều chính sách, văn bản pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp liên
quan đến bảo vệ các quyền của bà mẹ và trẻ em. Từ các bản Hiến pháp, các
Bộ luật; Luật đến các văn bản dưới luật đã tạo thành một hệ thống pháp luật
bảo vệ bà mẹ và trẻ em phù hợp với các công ước quốc tế và truyền thống văn
hoá của dân tộc. Đặc biệt phải kể đến Luật hôn nhân và gia đình, nơi phụ nữ
và trẻ em là thành viên của gia đình lại có cách điều chỉnh đặc thù được thể
hiện ở địa vị pháp lý - các quyền và nghĩa vụ - bổn phận của trẻ em cùng với
các quyền và nghĩa vụ - bổn phận pháp luật - đạo đức của các thành viên khác
trong đại gia đình... Bởi vì, sự bình yên của mỗi gia đình là tiền đề quan trọng
cho sự hình thành và phát triển nhân cách, là nền tảng để mỗi cá nhân vươn
tới hoàn thiện, góp sức mình vào việc xây dựng xã hội phồn vinh tiến bộ. Đặc
biệt là sự hòa thuận yên ấm của cha mẹ ảnh hưởng quan trọng đến sự phát
triển của những đứa trẻ - mầm non tương lai của đất nước và cũng là những
cá thể tham gia vào các mối quan hệ xã hội sau này.
Trong buổi họp tổng kết công tác thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chỉ rõ:
Dự án Luật phải thể hiện được 2 quan điểm rất quan trọng, đó là tôn
trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, bình đẳng giới, bảo
vệ bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi và những người yếu thế khác trong
quan hệ hôn nhân và gia đình; thể hiện được các giá trị truyền thống
tiến bộ, văn minh của gia đình Việt Nam vừa phù hợp với pháp luật
và các giá trị chung về hôn nhân và gia đình của các nước trên thế
giới, góp phần thúc đẩy hội nhập quốc tế.
2
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ra đời mang một giá trị nhân văn
cao đẹp trong việc thể hiện qua nguyên tắc “bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng
của bà mẹ và trẻ em”, hướng tới việc xây dựng một xã hội bình đẳng, dân
chủ, tiến bộ - thực hiện mục tiêu cao đẹp được Đảng và Nhà nước cũng như
toàn dân hướng tới.
Thế nhưng trong khi nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI thì khắp mọi
nơi trên trái đất phụ nữ vẫn phải chịu những bất công, bị ngược đãi, bị đánh
đập vẫn tồn tại và phổ biến. Khi vợ chồng ly hôn, ngoài việc tình nghĩa mặn
nồng vợ chồng bao năm vun đắp không còn thì ngay cả vấn đề tài sản, sự
thiệt thòi vẫn nghiêng về người phụ nữ. Có rất nhiều lý do dẫn đến sự thiệt
thòi đó như quá tin tưởng chồng, hạn chế về hiểu biết pháp luật, trình độ văn
hóa thấp… Bên cạnh đó, theo các báo cáo hàng năm "Tình trạng trẻ em trên
thế giới", trẻ em thường phải mang những gánh nặng và chịu sự đối xử
không bình đẳng.
Việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em là
hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy, đề tài
“Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014” được lựa chọn để tìm hiểu và nghiên cứu nhằm góp phần bảo vệ quyền
lợi, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn thi
hành việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ và trẻ em trong
quan hệ hôn nhân và gia đình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thực tế, nghiên cứu pháp luật về bảo vệ bà mẹ và trẻ em là một
mảng đề tài lớn được khá nhiều nhà khoa học, thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm.
Trong khoa học luật nói chung và Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng, bảo
vệ phụ nữ và trẻ em được nghiên cứu như một cơ sở pháp lý quan trọng tạo
khung sườn cho việc ban hành các quy phạm pháp luật nhằm thực hiện tốt
3
chính sách được nhà nước đề ra. Đã có một số công trình nghiên cứu, giáo
trình chuyên sâu, bài báo cũng như luận văn, luận án đề cập đến vấn đề này
trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan như:
Nhóm giáo trình, sách chuyên sâu: Nguyễn Ngọc Điện, Bình luật
khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, tập I, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh, 2002; Nguyễn Ngọc Điện, Nghiên cứu về tài sản trong Luật Dân
sự Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; Tưởng Duy Lượng,
Bình luận một số án dân sự và hôn nhân gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001; Đinh Thị Mai Phương, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. Trường Đại học Luật
Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội, 2009. Ngoài ra còn một số giáo trình và bình luận khoa học Luật
Hôn nhân và gia đình.
Nhóm luận văn, luận án: Nguyễn Thị Phương Thảo (2007), Nguyên
tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2000, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật – ĐH Quốc
gia Hà Nội; Lê Thị Nhung (2010), Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong
hệ thống pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường ĐH Luật Hà Nội; Lường Ánh Nhàn (2016), “Bảo vệ quyền của người
phụ nữ trong quan hệ hôn nhân gia đình”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,Trường
ĐH Luật Hà Nội…
Tuy nhiên, những nghiên cứu này còn khá khiêm tốn, các công trình
này dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hôn nhân
và gia đình về quan hệ tài sản nói chung giữa vợ, chồng, chưa đề cập hoặc ít
đề cập đến thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về vấn đề trên và
chưa thể hiện được rõ ràng nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được quy định
như thế nào trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
4
Nhận thức được điều đó và mong muốn làm phong phú thêm nội dung
nghiên cứu về quyền lợi hợp pháp của phụ nữ và trẻ em, khai thác rõ ràng, cụ
thể những quy định pháp luật rồi từ đó đưa ra những giải pháp, đề xuất thực tế
để khắc phục hoàn thiện, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Nguyên tắc bảo vệ bà
mẹ và trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014" làm công trình
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận
văn phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, đề cập khái quát về các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam, việc ghi nhận, tính thiết yếu của nguyên tắc bảo
vệ bà mẹ và trẻ em thể hiện trong quy định của Luật.
Thứ hai, nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được thể chế hóa qua các
chế định hôn nhân gia đình trong các văn bản pháp luật từ trước đến nay và
được phát triển ở Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành như thế nào.
Thứ ba, thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật thể hiện nguyên tắc
bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm thực hiện được
tối ưu nhất nguyên tắc này vào thực tế cuộc sống.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em là một trong những nội dung quan
trọng, là mục tiêu hướng tới của nhiều ngành luật khác nhau. Trong khuôn khổ
luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu luận văn thạc sĩ được giới hạn trong các
văn bản pháp luật: Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014…và một số văn bản có liên quan như: Nghị định số
126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, Thông tư liên
tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm
5
2016 của do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành để hướng dẫn thi hành quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình ... Nội dung luận văn giới hạn trong vấn đề nội dung nguyên tắc
bảo vệ bà mẹ và trẻ em được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện
hành và khảo sát thực tiễn việc áp dụng nguyên tắc này trong thực tế.
Thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được đề ra ở trên, tác giả
mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến việc bảo vệ
quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014. Đây không chỉ đơn thuần là sự tổng hợp các quy định của pháp
luật về quyền phụ nữ và trẻ em mà còn nhằm để xem xét diễn biến của quá
trình giải phóng phụ nữ và chăm sóc, bảo vệ trẻ em qua từng giai đoạn lịch sử
nước ta, qua đó thấy được sự phát triển của xã hội về vấn đề này. Đồng thời,
đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc thực
tiễn khi áp dụng các quy định pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành vào
việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em.
5. Đối tƣợng nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về việc bảo vệ quyền
lợi của người phụ nữ và trẻ em trong quan hệ hôn nhân và gia đình; quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về việc bảo vệ quyền lợi của người
phụ nữ; nêu và phân tích các hạn chế của pháp luật; nghiên cứu thực tiễn các
vấn đề liên quan đến nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Từ đó, tác giả nêu
lên những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao
hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
6
Về phương pháp luận: Luận văn sử dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam làm
phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp… Từ đó tìm ra mối liên hệ
giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa, xem xét
nội dung quy định của pháp luật về nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng
của bà mẹ và trẻ em trong mối quan hệ gia đình.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ việc thể hiện
nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được cụ thể hóa trong Luật Hôn nhân và
gia đình hiện hành. Từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ
sở quan trọng để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật. Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các
cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật về
hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.
8. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về sự thể hiện nguyên tắc bảo
vệ bà mẹ và trẻ em theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Chương 2: Nội dung của nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được quy
định trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ
em trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC BẢO VỆ BÀ MẸ VÀ
TRẺ EM TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014
1.1. Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014
Hôn nhân và gia đình là các hiện tượng xã hội phát sinh cùng với sự
phát triển của xã hội loài người, đó là sự gắn kết giữa mối quan hệ vợ chồng,
cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Và mỗi cá
nhân con người trong xã hội không ai không có quan hệ gia đình và đây là
mối quan hệ mang tính phổ biến. Hôn nhân và gia đình là những quan hệ tất
yếu trong đời sống xã hội của loài người ở bất cứ thời kỳ nào. Tuy nhiên, xã
hội là bất biến và hôn nhân gia đình cũng vậy, luôn có sự thay đổi, luôn phát
sinh mâu thuẫn, vì vậy cần thiết phải có Luật Hôn nhân và gia đình ra đời để
điều chỉnh các mối quan hệ này.
Có thể hiểu Luật Hôn nhân và gia đình với các ý nghĩa khác nhau: là
một môn học, là một văn bản pháp luật cụ thể hay là một ngành luật riêng.
Với ý nghĩa là một môn học: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
được hiểu là hệ thống những khái niệm, quan điểm, nhận thức, đánh giá mang
tính lý luận về pháp luật hôn nhân và gia đình và thực tiễn áp dụng, thi hành
pháp luật hôn nhân và gia đình.
Với ý nghĩa là một văn bản pháp luật cụ thể, Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam là đạo luật trong đó chứa đựng các quy phạm pháp luật hôn nhân và
gia đình.
Với ý nghĩa là một ngành luật trong hệ thống pháp luật: Khác với các
quốc gia theo hệ thống pháp luật chung (Common Law), các nước theo hệ
thống pháp luật lục địa trong đó có Việt Nam phân chia hệ thống pháp luật
8
quốc gia thành những ngành luật khác nhau dựa vào nhóm quan hệ xã hội mà
nó điều chỉnh và phương thức mà nó tác động lên quan hệ xã hội đó. Sự phân
chia như vậy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm điều chỉnh pháp luật tốt hơn.
Như vậy, có thể hiểu toàn diện là: Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tất cả các quy
phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều
chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản phát sinh trong đời sống hôn
nhân gia đình.
Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình:
Có 5 nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình ở nước ta
được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014 là:
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo,
giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa
người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp
luật bảo vệ.
3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia
đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
không phân biệt đối xử giữa các con.
4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ
em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn
nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao
quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình [22, Điều 2].
9
1.2. Khái niệm và cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em
1.2.1. Khái niệm bà mẹ và trẻ em
1.2.1.1. Khái niệm bà mẹ
Trong hệ thống khoa học pháp lý không có văn bản nào đưa ra khái
niệm cụ thể về “bà mẹ”. Tuy nhiên, để hiểu sâu về thuật ngữ “bà mẹ”, ta
có thể tìm hiểu từ khái niệm người phụ nữ để từ đó đưa ra khái niệm về bà
mẹ như sau:
- Dưới góc độ xã hội học: phụ nữ là một bộ phận của cơ cấu xã hội.
Dựa vào tiêu chí, đặc điểm nhân khẩu, kết cấu xã hội được phân chia thành
nam và nữ, người già người trẻ, người lớn trẻ em, …
- Dưới góc độ giới tính học: phụ nữ là khái niệm chung để chỉ một
người, một nhóm người hay toàn bộ những người trong xã hội mà một cách tự
nhiên, mang đặc điểm giới tính được xã hội về khả năng mang thai và sinh nở
khi cơ thể họ được hoàn thiện và chức năng giới tính hoạt động bình thường.
- Dưới góc độ pháp lý: Phụ nữ hay nữ giới được xác định là những chủ
thể tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định mà không phải là nam giới.
Từ khái niệm người phụ nữ, có thể đưa ra kết luận về khái niệm “bà
mẹ”. Bà mẹ được hiểu là người phụ nữ mang thai, sinh con và nuôi con khôn
lớn, thực hiện chức năng cao cả của người phụ nữ mà không ai có thể thay
thế được. Như vậy, khái niệm bà mẹ nằm trong khái niệm về phụ nữ, phụ nữ
được hiểu rộng hơn còn bà mẹ là những người phụ nữ đã mang thai và sinh
con, nuôi con – một tập hợp nhóm người phụ nữ có đặc điểm riêng biệt.
Hiện nay, với những tiến bộ trong y học, chức năng làm mẹ sinh học
được chia ra thành nhiều nhóm: làm mẹ do di truyền sinh học (người phụ nữ
cung cấp trứng), người mẹ mang thai (người phụ nữ có thai, người phụ nữ
mang thai hộ), người mẹ xã hội (người mẹ nuôi dưỡng đứa trẻ).
10
1.2.1.2. Khái niệm về trẻ em
Trẻ em là một thuật ngữ được nhắc đến thường xuyên và được đề cập
trong Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ năm 1924, Tuyên ngôn Liên hợp quốc về quyền
trẻ em năm 1959, tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1968…
Hiểu theo các thông thường thì trẻ em bao gồm bé trai, bé gái còn nhỏ
tuổi, thường là lớp thiếu niên, nhi đồng hay còn được gọi là thế hệ măng non
của xã hội, là nguồn hạnh phúc trong gia đình.
Theo định nghĩa sinh học, trẻ em là người trong giai đoạn phát triển, từ
khi còn trong trứng nước đến tuổi trưởng thành. Tâm lý học cho rằng trẻ em
là giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý – nghiên cứu con người.
Nhìn từ góc độ xã hội học, trẻ em là giai đoạn xã hội hóa mạnh nhất và là
giai đoạn đóng vai trò quyết định của việc hình thành nhân cách mỗi con người.
Dưới góc độ luật học, việc xác định trẻ em căn cứ vào việc phân định
độ tuổi. Tuổi là một trong những căn cứ để đánh giá giai đoạn phát triển thể
chất, nhận thức cũng như tâm – sinh lý của con người.
Theo công ước về quyền trẻ em: “trẻ em là những người dưới 18 tuổi,
trừ những trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em có quy định tuổi thành
niên thấp hơn”. (Điều 1)
Tại một số quốc gia khác nhau, phụ thuộc vào cách đánh giá về sự phát
triển cũng như dựa vào các điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội để xác định và
quy định về nhóm người là trẻ em. Tại một số quốc gia Bắc Âu như Thụy Điển,
Đan Mạch,… chú ý nhiều đến vấn đề an sinh xã hội thì có quy định lớn hơn về
mức tuổi của trẻ em, cụ thể quy định trẻ em là người dưới hai mươi tuổi.
Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 1 Luật trẻ em thì trẻ em được định
nghĩa là người dưới 16 tuổi.
Như vậy, có thể hiểu trẻ em là một nhóm người ở một độ tuổi nhất định
trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người, có những đặc điểm về sức
11
khỏe, tâm sinh lý khác với các nhóm khác trong xã hội và được hưởng những
quy chế pháp lý đặc thù.
1.2.2. Khái niệm nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em
Theo từ điển Tiếng Việt, nguyên tắc được hiểu là: “Điều cơ bản đã
được định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, nguyên tắc của một ngành luật được
xây dựng trên cơ sở những tư tưởng chỉ đạo nhất định. Những tư tưởng này
đòi hỏi phải được tuân thủ, chấp hành một cách tuyệt đối trong quá trình lập
pháp cũng như áp dụng pháp luật.
Với ý nghĩa là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, Luật Hôn nhân và gia đình cũng có những nguyên tắc cơ bản riêng. Đó
là những “nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quán triệt toàn bộ hệ thống các quy
phạm pháp Luật Hôn nhân và gia đình” [25, tr.33]. Nội dung của các nguyên
tắc thể hiện quan điểm pháp luật của Đảng và Nhà nước đối với nhiệm vụ,
quyền hạn và chức năng của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, của các cá
nhân và thành viên trong gia đình trong việc thực hiện chế độ hôn nhân và gia
đình. Các quy phạm pháp Luật Hôn nhân và gia đình phải thể hiện đúng nội
dung các nguyên tắc cơ bản.
Hệ thống các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình từ khi được
ban hành lần đầu tiên cho đến nay đã không ngừng được bổ sung và hoàn
thiện cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Ngay từ Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1959, bà mẹ và trẻ em đã là đối tượng được nhà
nước dành sự quan tâm và bảo vệ đặc biệt. Tuy nhiên phải đến Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1986 thì nguyên tắc này mới được ghi nhận thành một
nguyên tắc riêng. Và nguyên tắc này được cụ thể hóa tại Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 như sau: “4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm
bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về
12
hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của
người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình” [22, Điều 2, Khoản 4]
Làm mẹ là một thiên chức thiêng liêng của người phụ nữ. Với những
đặc điểm và chức năng riêng, người mẹ luôn nỗ lực và cố gắng dung hòa với
nhiều vai trò khác nhau. Tuy nhiên, người mẹ lại là những người chân yếu tay
mềm, dễ bị tổn thương và bị ảnh hưởng nhiều bởi tục lệ phong kiến, phong
tục tập quán,… Vì lẽ đó, pháp luật ghi nhận quyền làm mẹ, bảo vệ người mẹ
bằng việc cụ thể hóa các nội dung trong các văn bản pháp luật, bảo vệ quyền
sinh con, quyền nhận con nuôi, quyền được ưu tiên nuôi con dưới 36 tháng
tuổi… của người mẹ.
Đối với trẻ em, để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của trẻ, pháp
luật cần trao cho trẻ em những quyền nhất định và mọi người không những
phải tôn trọng những quyền đó mà còn phải thực hiện những hành vi phù hợp
pháp luật để trẻ em thực hiện quyền lợi của mình.
Bảo vệ bà mẹ luôn gắn liền với bảo vệ con của họ. Bảo vệ bà mẹ là bảo
vệ quyền làm được làm mẹ, quyền nuôi con, … của họ và bảo vệ con của họ.
Bảo vệ trẻ em cũng vậy, mục đích của bảo vệ chính là để chăm sóc, nuôi
dưỡng đặc biệt, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em. Nguyên
tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trở thành nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ nội dung
của Luật Hôn nhân và gia đình, trở thành tư tưởng chủ đạo của các điều luật,
thể hiện sự nhất quán trong quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
1.2.3. Tính cần thiết tất yếu của việc ghi nhận nguyên tắc
Người mẹ không chỉ có vai trò làm mẹ mà đối với gia đình, họ còn là
người vợ, người con trong gia đình, đối với xã hội, họ là người xây dựng
kinh tế. Người Việt Nam xưa đã có câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ
ấm”, nhằm đề cao vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng một gia
đình bền vững.
13
Ở nước ta, Nghị quyết số 11-NQ/TW của bộ Chính trị về Công tác phụ
nữ thời kỳ đầy mạnh CNH-HĐH đất nước đã khẳng định: “Phụ nữ vừa là
người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của
con người”. Thực tế cũng đã chứng minh, trong xã hội truyền thống cũng như
xã hội hiện đại, với thiên chức mang thai, sinh con và làm mẹ, phụ nữ luôn
đảm đương vai trò cao cả: duy trì và phát triển nòi giống, tái sản xuất sức lao
động; nuôi dạy, hình thành nhân cách thế hệ trẻ, góp phần xây dựng nguồn
nhân lực có chất lượng cho đất nước. Không chỉ vậy, phụ nữ còn là người giữ
vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các mối quan hệ và tổ chức cuộc sống gia
đình; Là người vun đắp hạnh phúc, người duy trì và phát triển những giá trị
văn hóa gia đình, giữ gìn bản sắc dân tộc.
Người mẹ còn là tấm gương phản chiếu cho con, người mẹ đức độ vị
tha thường có con sẽ ngoan ngoãn, lễ phép. Người mẹ có vai trò to lớn trong
việc nuôi dạy con trở thành những người tốt. Đề tài nghiên cứu “Vai trò của
phụ nữ trong gia đình” của Trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình - Học
viện Phụ nữ Việt Nam cho thấy, có 32,4 người vợ đảm nhiệm việc kèm cặp
đôn đốc con học trong khi tỷ lệ này ở chồng chỉ có 10,7 và hai vợ chồng
đảm nhiệm ngang nhau là 18,8 . Không chỉ kèm cặp con về kiến thức, người
mẹ còn là người bạn lớn của con; chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, giúp con giải
quyết những khúc mắc từ đáy lòng, vượt qua những khó khăn trong cuộc
sống. Bác Hồ đã dạy rằng: “Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng
thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì cũng không hoàn toàn mang
lại kết quả tốt”. Bao giờ gia đình cũng là nơi giáo huấn đầu tiên của đứa trẻ.
Trong thời kỳ mang thai, mọi tình cảm, hành vi cũng như thể lực của người
mẹ đều trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý của đứa con sau
này. Những năm tháng của thời ấu thơ, những việc chăm sóc, dạy dỗ của cha
mẹ, ông bà đều có tác động mạnh đến việc hình thành nhân cách của đứa trẻ.
14
Điểm mạnh nhất của giáo dục gia đình là quan hệ tình cảm ruột thịt giữa cha
mẹ và con cái. Từ ánh mắt, nụ cười của người mẹ, đến cách răn dạy của người
cha, đã tạo nhiều cảm xúc tích cực, yêu thương, có sực mạnh cảm hóa con cái.
Trong một xã hội đang có nhiều biến động về kinh tế, xã hội, văn hóa như
hiện nay thì liệu chức năng cơ bản của gia đình là giáo dục, chăm sóc, bảo vệ
con cái càng phải được quan tâm, đề cao và chú trọng. Mỗi gia đình phải là
một tổ ấm lành mạnh, đủ sức để bảo vệ con cái được sống an toàn trong thế
giới đầy sự bất ổn này.
Đối với trẻ em, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là vấn đề có tính
chiến lược lâu dài, góp phần quan trọng trong việc chuẩn bị và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho tương lai
của đất nước. Làm tốt công tác này là trách nhiệm của các cấp Ủy Đảng,
chính quyền, đoàn thể, gia đình, nhà trường và xã hội. Để tăng cường công
tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong thời gian tới, Chỉ thị số 20-
CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính Trị đã quán triệt một số nhiệm vụ
trọng tâm như sau:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, kiến thức, kỹ
năng chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em, nâng cao trách nhiệm của gia đình,
nhà trường, cộng đồng dân cư và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Rà soát, sửa đổi bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính
sách về chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em, xây dựng và tổ chức thực hiện
có hiệu quả các chương trình, đề án chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, của từng địa
phương, từng ngành…
- Bố trí tăng nguồn ngân sách cho sự nghiệp chăm sóc, giáo dục và bảo
vệ trẻ em, trong đó ưu tiên kinh phí đầu tư cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số,
15
vùng đặc biệt khó khăn,trẻ em các gia đình chính sách, gia đình nghèo và trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt.
- Mở rộng răng cường hợp tác quốc tế nhằm trao đổi kinh nghiệm; huy
động nguồn lực bên ngoài cho công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em.
- Tăng cường quản lý nhà nước, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán
bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em các cấp, thường xuyên thanh tra,
kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật và công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ
em, phát hiện ngăn chặn lên án các hành vi bạo lực, vi phạm quyền trẻ em.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, người
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin vào Việt Nam đã mở ra kỷ nguyên mới về
quyền con người, quyền công dân cho nhân dân Việt Nam. Người đặc biệt
quan tâm đến việc chăm sóc và giáo dục trẻ em. Người từng nói:
Muốn có chế độ XHCN thì phải có con người XHCN
Muốn có con người XHCN thì phải có tư tưởng XHCN
Rồi từ đó di đến phải trồng người, phải giáo dục rèn luyện ngay từ
khi còn nhỏ.
Vấn đề trẻ em nói chung và quyền trẻ em nói riêng được cương lĩnh
hóa trong Chương trình Việt Minh và sau đó Cách mạng tháng tám dành
chính quyền về tay nhân dân lao động đã được thể chế hóa về mặt nhà nước
trong hệ thống pháp luật. Hiến pháp 1946 – hiến pháp đầu tiên khẳng định trẻ
con được săn sóc về mặt giáo dưỡng. Hiến pháp 1959 và 1980 đều quy định
nhà nước bảo hộ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em, dành một điều riêng quy định
quyền của trẻ em trong Chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến
pháp năm 1992 ngoài việc quy định quyền của trẻ em, đã quy định trách
nhiệm của nhà nước và gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định, đề cao và mở rộng hơn các
quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 1992 ngoài việc quy định
16
quyền trẻ em còn quy định trách nhiệm của Nhà nước, gia đình trong việc bảo
vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Hiến pháp 2013 một lần nữa khẳng định, đề
cao và mở rộng các quyền con người, quyền công dân. Trong đó, trẻ em là đối
tượng được nhà nước chủ trương quan tâm đặc biệt: Nhà nước bảo hộ hôn
nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. (Điều 36)
Như vậy, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của nhà nước về
quyền trẻ em là cơ sở để xây dựng và bảo đảm thực hiện các quyền cơ bản
của trẻ em trên thực tế. Đồng thời, được cụ thể hóa bằng các chương trình,
chính sách, chế độ ưu đãi hỗ trợ để trẻ em được hưởng các quyền của mình
một cách toàn vẹn nhất.
Tuy nhiên, dưới chế độ phong kiến, bà mẹ và trẻ em là lớp người bị áp
bức, bóc lột, chịu nhiều thiệt thòi bất công. Quyền lợi của họ hầu như chưa
được quan tâm xem xét. Người mẹ chỉ là cái bóng của chồng, không có quyền
tự quyết định và làm gì cũng phải xin phép. Với quan niệm “nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô” (sinh một con trai coi như có con, mười con gái coi như
không có con), cùng với lễ giáo phong kiến: thuyết “tam tòng”, “tứ đức” đã
biến phụ nữ thành nô lệ trong gia đình phong kiến. Quyền lợi của trẻ em (đặc
biệt là bé gái) cũng không được đảm bảo mà phụ thuộc vào người cha. Người
cha có thể quyết định bán, cho thuê, gán nợ và quyết định cả chuyện cưới xin
của con mình. Ở xã hội mới, quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em đã được
bảo đảm hơn nhưng do một phần ảnh hưởng của chế độ phong kiến và đặc
điểm riêng về giới tính, lứa tuổi nên trong quan hệ hôn nhân và gia đình,
người mẹ và trẻ em vẫn thường gặp phải không ít khó khăn và phần nào chịu
yếu thế hơn so với nam giới, trong việc bảo đảm những nhu cầu sống, nhu cầu
phát triển cho bản thân và trong việc đảm bảo quyền lợi của mình. Do đó,
việc ghi nhận nguyên tắc sẽ là cơ sở vững chắc cho việc xóa bỏ tận gốc rễ
những tàn dư còn lại của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, đồng thời
17
chống lại ảnh hưởng tiêu cực của hôn nhân và gia đình tư sản để củng cố chế
độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, việc ghi nhận bằng pháp luật là điều cần thiết bởi vì “đảm
bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để quyền
con người dược thực hiện” [28, tr.50]. Thông qua và bằng các quy định pháp
luật cụ thể, Nhà nước và xã hội còn xác định được những ưu tiên nhằm động
viên và phát huy vai trò của người phụ nữ trong mọi mặt đời sống, để trẻ em
có thể có một môi trường phát triển lành mạnh nhất, trở thành tương lai, trụ
cột đất nước. Đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ
em trong quan hệ Hôn nhân và gia đình chính là Nhà nước – cơ quan cao nhất
đại diện cho quốc gia, dân tộc. Còn Nhà nước đã sử dụng pháp luật như một
công cụ và là cách thức chủ yếu để các quốc gia ghi nhận vấn đề bảo vệ
quyền của phụ nữ, của trẻ em. Bảo vệ quyền của họ bằng pháp luật không chỉ
là việc ghi nhận các quyền mà còn bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện
bằng tính cưỡng chế tuyệt đối. Để sử dụng được hiệu quả công cụ này chính
là thể hiện sự quản lý của một quốc gia. “Tôn trọng, thực thi và bảo vệ quyền
con người về hôn nhân và gia đình đã thực sự là tiêu chí để đánh giá tiến bộ
xã hội không chỉ mang tính quốc gia mà còn mang tính toàn cầu” [7, tr.15].
Ngoài ra, việc ghi nhận nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong pháp
luật hôn nhân và gia đình là một xu hướng tất yếu, phù hợp với tình hình thế
giới. Vấn đề quyền con người của phụ nữ và trẻ em được đề cập khá sớm
trong các văn bản pháp luật quốc tế. Đã có rất nhiều văn bản pháp luật ghi
nhận quyền con người của phụ nữ và quyền trẻ em. Mục đích của việc ghi
nhận này là để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, đảm bảo những quyền
này được thực hiện trên thực tế. Công ước CEDAW – công ước về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 đã được Việt Nam phê
chuẩn năm 1982 và Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 cũng đã
18
được Việt Nam gia nhập năm 1990. Theo quy định của Công ước thì các quốc
gia thành viên phải có những biện pháp để “nội luật hóa” đảm bảo những quy
định trong công ước được thực hiện trên thực tế. Trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình là ngành luật gần gũi, bảo vệ một cách
cụ thể quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. Vì vậy, việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em
được ghi nhận thành một nguyên tắc quan trọng trong luật là điều tất yếu.
1.2.4. Sự phát triển của việc ghi nhận nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ
em qua các thời kì pháp luật
Lịch sử Việt Nam gắn liền với chế độ phong kiến tập quyền kéo dài
hàng nghìn năm, luật pháp chịu ảnh hưởng nhiều của tư tưởng triết học Nho
giáo, Phật giáo với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “tam tòng tứ đức”. Bên
cạnh đó, pháp luật về hôn nhân và gia đình có liên quan nhiều đến phong tục
tập quán và đạo đức, rất nhiều điều luật được bắt rễ từ phong tục tập quán của
Việt Nam, đi sâu vào tiềm thức, thành thói quen ứng xử trong nhân dân.
Dưới thời kì phong kiến
Ngay thời gian đầu Nhà nước phong kiến đã lên tiếng bảo vệ quyền trẻ
em từ rất sớm. Thời nhà Trần đã lập hàng loạt kho thóc ở Trung ương và địa
phương nhằm chẩn cấp cho dân nghèo, Nhà nước cũng bảo trợ cho người tàn
tật, trẻ mồ côi. Thời Lê Sơ (thế kỉ XV) cứu trợ của Nhà nước cho các đối
tượng đặc biệt khó khăn trong đó việc bảo vệ quyền trẻ em đã được Quốc
triều hình luật quy định. Thời nhà Nguyễn, Pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em
cũng được đề cập trong Bộ luật Gia Long (thế kỉ XIX). Bộ luật Gia Long và
Bộ luật Hồng đức được đánh giá là những thành tự lập pháp của nhà nước
phong kiến Việt Nam thời bấy giờ. Nhưng nổi bật hơn vẫn là Luật Hồng Đức
của nhà Lê. Với năm mối quan hệ cơ bản theo quan niệm của Khổng Tử:
quần thân (Vua – Tôi), phụ tử (Vợ - chồng) huynh đệ (Anh- Em) bằng hữu
(Bạn – bè) thì đã có ba mối quan hệ gắn bó trực tiếp gia đình. Do ảnh hưởng
19
của tư tưởng Nho giáo và đề cao quyền gia trưởng trong gia đình cùng với sự
kết hợp giữa phong tục tập quán nên gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan
trọng trong xã hội phong kiến, quyền lợi của gia đình luôn được đặt trên
quyền lợi của cá nhân. Những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em,
quyền lợi của các con trong gia đình chỉ ở mức độ nhất định, sự công nhận
quyền sở hữu tài sản riêng của các con và cho phép các con ra ở riêng: con cái
khi đủ 15 tuổi được cấp ruộng đất công để tự nuôi sống bản thân (điều 347)
con cái được quyền sở hữu tài sản do được thừa kế với quyền thừa kế như
nhau (điều 388) không phân biệt con trai với con gái; không cho phép cha mẹ
bán tài sản của con thông qua những quy định bảo vệ quyền thừa kế tuyệt
đối của con cái và trừng phạt mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu của các
con (điều 377 Điều 379); cha mẹ phải chịu trách nhiệm về những hành vi
của con vì hơn ai hết cha mẹ là người có nghĩa vụ và trách nhiệm dạy bảo,
giáo dục con do đó mà khi con làm sai thì cha mẹ là người có lỗi đầu tiên.
Do đó, cha mẹ phải chịu trách nhiệm hình sự và dân sự trong bồi thường
thiệt hại (điều 457). Bộ luật này còn quy định việc trừng trị tội gian dâm với
trẻ em gái, tội buôn bán phụ nữ, trẻ em; việc giảm hoặc hoãn thi hành án đối
với phụ nữ có thai hay đang nuôi con nhỏ; quyền thừa kế của con nuôi.
Tuy nhiên, bộ luật này vẫn bộc lộc nhiều hạn chế: chưa quy định về hậu
quả pháp lý của ly hôn; chưa quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối
với con về tài sản mà chỉ mới quy định các quan hệ nhân thân giữa cha mẹ đối
với con; đặc biệt là chưa quan tâm bảo vệ quyền lợi của con ngoài giá thú;
chưa có quy định về xác định cha mẹ - con nên đứa trẻ sinh ra ngoài giá thú
đều không được bảo vệ quyền lợi pháp lý.
Thời kỳ Pháp thuộc, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong
kiến, đặt dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Sau khi hoàn thành việc xâm
lược nước ta, để thực hiện chính sách chia để trị, thực dân pháp đã ban hành ở
20
ba miền Bắc, Trung, Nam ba bộ luật khác nhau: ở Bắc Kỳ là Bộ dân luật năm
1931, ở Trung kỳ là Bộ dân luật năm 1936, ở Nam kỳ là Tập dân luật giản
yếu, 1883. “Các quan hệ hôn nhân và gia đình thời kỳ này vừa thể hiện xu
hướng Âu hóa theo kiểu Pháp, vừa cố duy trì những phong tục tập quán của
người Việt Nam” [2, tr.13]. Quan hệ gia đình nói chung và quan hệ vợ chồng
nói riêng được tổ chức theo chế độ gia trưởng, phụ quyền – người chồng là
người đứng đầu gia đình trong quan hệ nội bộ, thay mặt cho gia đình trong
quan hệ với người thứ ba. Trong cả ba văn bản pháp luật này đều không quy
định nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Có thể nói, việc thực dân Pháp ban
hành ra các bộ dân luật để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình ở thời kỳ
này chỉ là công cụ pháp lý mà thực dân phong kiến nhằm củng cố và bảo vệ
lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay: Pháp luật giai đoạn từ năm
1945 đến nay, quyền lợi của phụ nữ và trẻ em đã được Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa quan tâm bảo vệ.
Năm 1946, hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời đã đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta.
Hiến pháp ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt – là cơ sở pháp lý vô
cùng quan trọng để xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới dân chủ, tiến
bộ. Hiến pháp quy định về quyền được giáo dục và giáo dưỡng của trẻ em.
Nhà nước đảm bảo cho trẻ em được giáo dục, học tập được chăm sóc về mặt
giáo dưỡng (Điều 14). Không những thế, nhà nước còn có chính sách hỗ trợ
đối với học trò nghèo (điều 15) Chỉ với số lượng 2 điều ít ỏi, Hiến pháp đã đặt
nền móng đầu tiên khẳng định các quyền cơ bản thiêng liêng của trẻ em,
quyền được học tập và chăm sóc. Quy định này sẽ là cơ sở tiền đề cho các
quy định của các văn bản pháp luật khác, nhằm cụ thể hóa, đảm bảo cho
quyền lợi của trẻ em được bảo vệ.
Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 đã ghi nhận việc xóa bỏ quyền trừng
21
giới. Sắc lệnh số 159/SL ghi nhận quyền yêu cầu ly hôn của người phụ nữ.
Các quy định này đã mở ra một thời kì mới làm thay đổi địa vị của người phụ
nữ và trẻ em trong gia đình. Với sự ra đời của Luật Hôn nhân và gia đình năm
1986 bảo vệ bà mẹ và trẻ em được ghi nhận là một nguyên tắc tại Điều 3 của
Chương I. Kế thừa và phát huy những ưu điểm của Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể nguyên
tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em tại khoản 6 Điều 2: “Nhà nước xã hội và gia đình
có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức
năng cao quý của người mẹ”.
Có thể thấy rằng, trước khi Cách mạng tháng 8 thành công, nguyên tắc
bảo vệ bà mẹ và trẻ em chưa được ghi nhận. Từ sau khi Cách mạng tháng 8
với sự ra đời của Nhà nước Dân chủ cộng hòa thì quyền lợi của người phụ
nữ và của trẻ em đã được quan tâm bảo vệ. Đây trở thành nguyên tắc cơ bản
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và được kế thừa, hoàn thiện trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, để đảm bảo các quy định
của pháp luật thể hiện nội dung nguyên tắc đi vào đời sống chứ không phải
chỉ là một quy định trên luật đòi hỏi cần có sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Nay, Hiến pháp mới năm 2013, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 ra đời đã hoàn thiện nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ
em, thể hiện sâu sắc các quy định về trách nhiệm pháp lý, biện pháp trách
nhiệm pháp lý tăng dần tính nghiêm khắc hơn đối với các hành vi vi phạm
quyền lợi của họ.
1.3. Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em đƣợc ghi nhận trong những
văn bản Pháp luật Quốc tế
Quyền con người nói chung và quyền phụ nữ, quyền trẻ em nói riêng
ngày nay trở thành vấn đề quan tâm của cộng đồng quốc tế. Phụ nữ và trẻ
em ở tất cả các nước trên thế giới vẫn còn sống trong những điều kiện khó
22
khăn và họ cần được quan tâm đặc biệt. Cộng đồng quốc tế mà trung tâm là
Liên hợp quốc đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các văn bản pháp lý
quốc tế nhằm xác lập các quyền cơ bản của phụ nữ và trẻ em như: Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền, Công ước về loại trừ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989… bảo vệ
phụ nữ và trẻ em được ghi nhận như một nguyên tắc quan trọng trong hầu
hết các văn bản này.
Điều 1 Hiến chương Liên Hợp quốc khẳng định: “Tôn trọng nhân
quyền và những quyền tự do cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc,
nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948
đã nhấn mạnh như sau: “Bà mẹ và trẻ em được đảm bảo chăm sóc và giúp đỡ
đặc biệt” (Khoản 2 Điều 25). “Đây là sự thừa nhận của xã hội đối với chức năng
làm mẹ của người phụ nữ, với chức năng này người mẹ được coi là chủ thể đặc
biệt của xã hội, họ có quyền ưu tiên chăm sóc, giúp đỡ và bảo vệ” [1, tr.13].
Tuy nhiên, các văn kiện trên vẫn chưa đủ sức bảo vệ quyền của người
phụ nữ. Do đó, ngày 10/12/1979 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ - gọi tắt là công ước CEDAW đã được Hội đồng Liên hợp
quốc thông qua và để ngỏ cho các nước ký, phê chuẩn, gia nhập theo Nghị
quyết số 34/180 ngày 18/12/1979 của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Công ước
đã đề cập một cách toàn diện, đầy đủ và cụ thể các quyền cơ bản của phụ nữ.
Công ước đã điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và đặc
biệt là quy định sự bình đẳng của phụ nữ. Theo công ước, các quốc gia thành
viên cần phải loại bỏ sự phân việt đối với phụ nữ. “Phân biệt đối xử” được
hiểu là “bao hàm bất kì sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở
giới tính có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa việc
phụ nữ được công nhận, hưởng thụ hay thực hiện các quyền con người và
những tự do cơ bản trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân
23
sự hay bất kể lĩnh vực nào khác và trên cơ sở bình đẳng của nam và nữ, bất kể
tình trạng hôn nhân của họ như thế nào” (Điều 1).
Công ước ghi nhận việc bảo vệ phụ nữ và trẻ em thông qua quy định về
quyền làm mẹ của người phụ nữ. Trong phần mở đầu, Công ước tuyên bố vai
trò của phụ nữ trong việc sinh đẻ không thể là cơ sở của sự phân biệt đối xử.
Mối ràng buộc giữa phân biệt đối xử với vai trò sinh sản của người phụ nữ là
vấn đề thường xuyên được đề cập trong Công ước này. Trong Điều 5, Công
ước thừa nhận sự hiểu biết đúng đắn nghĩa vụ làm mẹ như một chức năng xã
hội và đòi hỏi cả hai giới phải chia sẻ trách nhiệm một các đầy đủ trong việc
nuôi dạy con. Bởi vậy, các điều khoản về bảo vệ bà mẹ và chăm sóc trẻ em
được nêu ra như những quyền cốt yếu và được quy định nhất quán trong mọi
lĩnh vực của Công ước, kể cả lĩnh vực việc làm, hôn nhân gia đình, chăm sóc
sức khỏe hay giáo dục. Trách nhiệm của xã hội là thúc đẩy các loại hình dịch
vụ, đặc biệt là các dịch vụ chăm sóc trẻ em để tạo điều kiện cho phụ nữ và
nam giới có thể kết hợp thực hiện nghĩa vụ gia đình và công việc cơ quan.
Ngay cả việc “các nước tham gia Công ước thông qua những biện pháp đặc
biệt, kể cả các biện pháp nêu trong Công ước này nhằm bảo vệ người mẹ sẽ
không bị coi là phân biệt đối xử” (Khoản 2 Điều 4).
Ngày 19/03/1982, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức phê
chuẩn CEDAW và trở thành thành viên thứ 35 của Công ước này. Hiện nay,
Việt Nam đã tiến hành “nội luật hóa” các quy định của Công ước trong nhiều
điều luật quan trọng như Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật
Hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Bình
đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình… nhằm bảo đảm tốt việc bảo
vệ người phụ nữ. Hiện nay, Chính phủ còn nỗ lực trong việc tuyên truyền, vận
động người dân nhằm thay đổi nhận thức về bình đẳng giới và quyền phụ nữ.
Trước khi Liên hợp quốc được thành lập, các quốc gia đã thông qua
24
Tuyên ngôn Giơnevơ 1924 về quyền trẻ em khẳng định trẻ em cần được chăm
sóc đặc biệt. Tuyên ngôn về các quyền trẻ em do Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua năm 1959 khẳng định: “Loài người có trách nhiệm trao cho trẻ em
điều tốt nhất”. Như vậy, từ khi được thành lập đến nay với vai trò là trung tâm
cả cộng đồng quốc tế, Liên hợp quốc luôn bảo trợ cho việc kí kết điều ước
quốc tế nói chung, điều ước quốc tế về nhân quyền nói riêng cũng như thông
qua các văn bản là cơ sở cho quá trình quốc tế hóa vấn đề quyền con người và
quyền trẻ em.
Có thể nói, trước năm 1989, có rất nhiều văn bản pháp lý quốc tế về
quyền con người nói chung nhưng vẫn chưa có điều ước quốc tế nói riêng
về quyền trẻ em.Tình trạng trẻ em bị xâm phạm, bị ngược đãi, bị bóc lột về
lao đọng, bị mua bán xảy ra ở khắp các khu vực trên thế giới. Vì vậy, cần
phải có điều ước quốc tế đa phương ghi nhận và điều chỉnh lĩnh vực này.
Với sự nỗ lực của các quốc gia, Công ước về quyền trẻ em đã được thông
qua và ký ngày 20/11/1989 (Công ước về quyền trẻ em năm 1989), có hiệu
lực từ ngày 2/9/1990.
Công ước đã đưa ra nguyên tắc bảo vệ trẻ em đó là: “Đảm bảo cho trẻ
em được bảo vệ khỏi mọi hình thức phân biệt đối xử” (Điều 2) và trong mọi
hoạt động đối với trẻ em, những lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan
tâm hàng đầu” (Khoản 1 Điều 3). Nguyên tắc bảo vệ trẻ em còn được quy
định tại Điều 21 của Công ước như sau: “Các quốc gia thành viên công nhận
hoặc cho phép chế độ nhận làm con nuôi phải đảm bảo rằng những lợi ích tốt
nhất cho đứa trẻ phải là quan tâm cao nhất…”.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 là văn bản pháp lý thẩm thấu
giữa cơ sở ý luận và cơ sở thực tiễn. Là văn bản mang tính phổ thông rộng rãi
được nhiều quốc gia tham gia. Nó mang tính lý tưởng phổ quát, tính khả thi
cao; quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng là sản phẩm của
25
lịch sử đấu tranh lâu dài và gian khổ chứ không phải là cái gì trừu tượng tách
khỏi lịch sử cụ thể của từng quốc gia, dân tộc và thế giới. Nhân loại đã bước
từ việc chăm sóc trẻ em như một bản năng tự nhiên của giống loài sang một
bước công nhận quyền trẻ em và phấn đấu thực hiện các quyền ấy [27, tr.119]
Kể từ khi Việt Nam phê chuẩn Công ước quyền trẻ em năm 1989, công
tác trẻ em đã thu được nhiều kết quả trên các phương diện khác nhau. Trẻ em
được Nhà nước gia đình và xã hội chăm lo và bảo vệ bằng pháp luật và các
biện pháp có hiệu quả; các quyền của trẻ em được thực hiện trong thực tiễn.
Những thành tự ấy xuất phát từ cơ sở pháp lí quốc tế, từ trách nhiệm của Nhà
nước và sự chăm lo của toàn xã hội cho thế hệ tương lai. Bên cạnh đó, do tác
động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường, cùng với những phong tục
tập quán lạc hậu và sự gia tăng của tệ nạn xã hội đang là những thách thức lớn
đối với việc bảo vệ quyền trẻ em. Tuy nhiên, với truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. với tất cả những hành động, chúng ta hi vọng trẻ em Việt Nam để được
sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa cả về thể chất,
trí tuệ, tinh thần và đạo đức [11].
Ngoài ra một văn bản rất quan trọng góp phần thiết thực bảo vệ quyền
trẻ em nữa là Công ước La hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi giữa các nước (viết tắt là công ước Lahay). Xuất phát từ
nhu cầu ngày càng tăng của việc cho nhận con nuôi giữa các nước, đòi hỏi
phải có sự hợp tác chặt chẽ và có hiệu quả hơn giữa chính phủ các nước có
liên quan trong việc bảo vệ lợi ích của trẻ em được nhận làm con nuôi mà
Công ước được ra đời. Nó định ra những đảm bảo dể việc nuôi con nuôi giữa
các nước được thực hiện, thiết lập hệ thống hợp tác (thông qua cơ chế liên hệ
giữa các nhà chức trách trung ước của nước gốc và nước nhận) nhằm tôn
trọng những đảm bảo trên và ngăn chặn việc bắt cóc, mua bán trẻ em; đồng
26
thời đảm bảo việc nuôi con nuôi giữa các nước phù hợp với công ước được
công nhận có giá trị pháp lý tại các nước ký kết.
Tóm lại, với sự phát triển của xã hội, vai trò của người phụ nữ đối với
gia đình và xã hội ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên, trên thế giới người
phụ nữ và trẻ em vẫn còn tồn tại sự phân biệt đối xử và chịu nhiều sự bất
công, do đó, pháp luật quốc tế về bảo vệ phụ nữ và trẻ em cần không ngừng
hoàn thiện nhằm mục đích bảo vệ phụ nữ và trẻ em.
27
Chương 2
NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO VỆ BÀ MẸ VÀ TRẺ EM ĐƢỢC
QUY ĐỊNH TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
2.1. Nội dung Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ theo quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014
Có rất nhiều phương thức để bảo vệ người mẹ, song phương thức quan
trọng và không thể thiếu chính là bảo vệ bằng pháp luật. Pháp luật ghi nhận
nguyên tắc bảo vệ người mẹ bằng cách thể hiện nguyên tắc này xuyên suốt
các điều luật và trở thành tư tưởng chủ đạo không thể thay đổi. Cụ thể,
nguyên tắc này được thể hiện qua các quy định pháp luật như sau:
2.1.1. Hạn chế quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có
thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi
Để bắt đầu một mối quan hệ về hôn nhân, người nam và người nữ thực
hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi đăng ký kết
hôn, các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định sẽ phát sinh. Vì vậy, để
chấm dứt mối quan hệ về hôn nhân, nam và nữ cũng phải thực hiện một sự
kiện được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ghi nhận, đó là “ly hôn”.
Theo quy định tại Khoản 14 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình: “Ly
hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực
Pháp luật của Tòa án”.
Có thể thấy, mục đích cơ bản của hôn nhân là xây dựng một cuộc sống
gia đình ấm no, hạnh phúc. Ly hôn là mặc dù là mặt trái của một cuộc hôn
nhân nhưng cũng là mặt không thể thiếu khi quan hệ tình cảm vợ chồng đã trở
nên mâu thuẫn, đời sống hôn nhân không thể kéo dài. Vì vậy, khi cuộc sống
gia đình không còn hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được thì
việc chấm dứt một mối quan hệ hôn nhân là điều cần thiết. Vậy, quyền được
yêu cầu ly hôn được quy định cho chủ thể nào?
28
Theo quy định tại Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình: “Vợ, chồng hoặc
cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn”. Như vậy, theo quy
định trên, các bên đều có quyền yêu cầu ly hôn trong đó có người vợ. Quy
định trên là phù hợp, bảo vệ quyền và lợi ích cho người phụ nữ bởi hiện nay,
mặc dù xã hội đã phát triển, đời sống được nâng cao nhưng tình trạng bạo
hành gia đình về cả thể chất và tinh thần vẫn xuất hiện trong cuộc sống đặc
biệt là đối với người phụ nữ. Do đó, việc ghi nhận quyền yêu cầu ly hôn của
người phụ nữ là cần thiết, để họ có thể chủ động bảo vệ bản thân, chấm dứt
một cuộc hôn nhân không hạnh phúc.
Pháp luật còn hạn chế quyền ly hôn của người chồng trong trường hợp
nhất định. Cụ thể tại Khoản 3 Điều 51 có quy đinh: “3. Chồng không có quyền
yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi
con dưới 12 tháng tuổi”. Quy định trên là hoàn toàn phù hợp và cần thiết bởi
việc ly hôn là điều không phải ai cũng mong muốn. Đặc biệt là người mẹ
mang thai, sinh con, nuôi con rất cần đến sự quan tâm, chăm sóc về cả vật
chất và tinh thân của người chồng. Do đó, để không ảnh hưởng đến sức khỏe
cũng như để đảm bảo người mẹ được bảo vệ tốt nhất, việc Luật Hôn nhân và
gia đình quy định hạn chế quyền ly hôn của người chồng khi người vợ mang
thai, sinh con hay nuôi con là điều cần thiết.
Tuy nhiên, quy định hạn chế quyền ly hôn của người chồng khi người
vợ mang thai, sinh con hay nuôi con dưới 12 tháng không đồng nghĩa với việc
người vợ cũng không được quyền ly hôn. Có thể thấy, mặc dù đang mang
thai, sinh con hay nuôi con nhưng nếu cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục,
việc tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân chỉ khiến cho người vợ cảm thấy
mệt mỏi, ảnh hưởng đến thể chất hay tinh thần thì người vợ cũng hoàn toàn có
thể thực hiện quyền ly hôn mà không bị hạn chế. Đây là quy định hợp lý, bảo
vệ được người phụ nữ trong việc quyết định có ly hôn hay không.
29
Bên cạnh đó, mặc dù ly hôn là quyền của người phụ nữ, nhưng trong
rất nhiều trường hợp, vì những lý do khác nhau mà người phụ nữ không thể
thực hiện quyền ly hôn để bảo vệ bản thân của mình. Có thể lấy ví dụ về
trường hợp: người phụ nữ do bị bệnh tâm thân hoặc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của bản thân, đồng thời họ là nạn nhân của
bạo hành gia đình do người chồng gây ra. Trong những trường hợp như này,
mặc dù pháp luật có quy định về quyền được ly hôn của người phụ nữ nhưng
để thực hiện được quyền trên là rất khó khăn. Chính vì vậy, để bảo vệ người
phụ nữ, bên cạnh quy định về quyền yêu cầu ly hôn của chính người phụ nữ,
Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định về quyền yêu cầu ly
hôn của cha, mẹ, người thân thích như sau:
Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly
hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là
nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Quy định này góp phần bảo vệ người mẹ tốt hơn trong những trường
hợp họ không thể tự mình thực hiện quyền ly hôn theo quy định.
Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình còn quy định về các hành vi bị
nghiêm cấm bao gồm cản trở ly hôn (Điểm e Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân
và gia đình).
2.1.2. Quyền sinh con và nuôi con
Sinh con là một chức năng sinh học tự nhiên của người mẹ mà không ai
có thể thay thế được. Có thể thấy hiện nay những cặp vợ chồng hiếm muộn
không thể sinh con, những người phụ nữ vì lý do sức khỏe mà không thể tự
mình mang thai, sinh con ngày càng nhiều. Có rất nhiều cặp vợ chồng vì hiếm
muộn, không thể sinh con mà gặp phải gánh nặng lớn về tâm lý, vợ chồng
30
mâu thuẫn, hôn nhân đổ vỡ. Để có thể giúp những cặp vợ chồng vô sinh,
những người phụ nữ đơn thân không thể tự mình mang thai, sinh con, Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định một người phụ nữ có thể xác lập
quan hệ cha mẹ và con đối với con thông qua việc nuôi con nuôi. Tuy vậy,
điều đó dường như vẫn là thiếu sót, việc được tự mình mang thai, nuôi con
vẫn là một điều lớn lao, hạnh phúc đối với người phụ nữ. Vì vậy, Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 đã luật hóa quy định về việc sinh con theo phương
pháp khoa học đã được quy định tại Nghị định 12/2013/NĐ-CP ngày 12/02/2013
về Sinh con theo phương pháp khoa học. Cụ thể tại Khoản 21 Điều 3 có quy
định: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong trong ống nghiệm”. Đồng thời, Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 có bổ sung quy định về việc mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo.
Như vậy, có thể thấy rằng, để bảo vệ quyền làm mẹ của người phụ nữ,
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã quy định đầy đủ về việc nhận nuôi con,
cho phép sinh con theo phương pháp khoa học cũng như cho phép mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo. Đây là những quy định mang tính nhân văn cao khi
đã tạo cơ hội cho nhiều người được làm cha mẹ, giải tỏa được gánh nặng tâm
lý gia đình, hạn chế được sự đổ vỡ của hôn nhân.
Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng có quy định
cấm đối với hành vi: “Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật sinh sản vì mục đích
thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi,
sinh sản vô tình” – Điểm g Khoản 2 Điều 5. Có thể thấy hiện nay, nhiều người
phụ nữ vì nhẹ dạ cả tin, vì hoàn cảnh cuộc sống gia đình gặp khó khăn mà phải
thực hiện việc mang thai hộ để đổi lấy tiền hoặc các điều kiện vật chất. Do đó,
quy định cấm đối với hành vi sinh con bằng kỹ thuật sinh sản vì mục đích
thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại là điều cần thiết để bảo vệ
31
người phụ nữ trước những hành vi lợi dụng ý nghĩa nhân văn của việc mang
thai hộ, sinh con bằng kỹ thuật sinh sản để trục lợi của các tổ chức, cá nhân.
2.1.3. Bảo vệ người mẹ trong mối quan hệ gia đình
Luật Hôn nhân và gia đình cũng có quy định riêng để đảm bảo nguyên tắc
hôn nhân một vợ một chồng. Từ khi ban hành đạo luật đầu tiên năm 1959 đến
nay, Luật Hôn nhân và gia đình luôn thống nhất nguyên tắc cấm “Người đang có
vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người
đang có chồng, có vợ”. Quy định này chính thức xóa bỏ chế độ đa thê mà pháp
luật thời kì phong kiến cũng như thời kì Pháp thuộc duy trì, ghi nhận nguyên tắc
hôn nhân một vợ một chồng, bảo vệ quyền bình đẳng của người phụ nữ.
Quy định cấm còn đi kèm theo các chế tài xử phạt hành chính (phạt
tiền) cũng như chế tài hình sự. Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội vi
phạm chế độ một vợ một chồng tại Điều 182 như sau:
Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như
vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà
kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ
là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt cành cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc
phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm: Làm cho quan hệ hôn nhân của một
hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; đã bị xử phạt vi phạm hành chính vì
hành vi này mà còn vi phạm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 6
tháng đến 3 năm: làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai
bên tự sát; Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc
phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ
một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
32
Có thể nói, ghi nhận bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một chồng góp
phần bảo vệ quyền của phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới trong mối quan hệ
hôn nhân và gia đình.
2.1.4. Các quy định khác liên quan đến ly hôn
2.1.4.1. Quyền nuôi con sau khi ly hôn của người mẹ:
Tòa án luôn dựa vào nguyên tắc thỏa thuận của hai vợ chồng để quyết
định ai sẽ là người được nuôi con. Theo đó, sau khi ly hôn, hai bên có thể thỏa
thuận về người trực tiếp nuôi con, về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi
ly hôn đối với con. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cha mẹ cũng xảy ra
chuyện tranh giành nuôi con. Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi con trong
các trường hợp sau đây:
- Con chưa thành niên
- Con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Ngoài ra, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ căn cứ vào các điều
kiện tốt nhất cho con để chỉ định người được quyền nuôi con.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 thì con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường
hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của
con. Đây vừa là quy định nhằm đảm bảo quyền lợi của đứa trẻ được nuôi
dưỡng, trông nom trong điều kiện tốt nhất, nhưng đây cũng là quy định nhằm
bảo vệ quyền nuôi con của người mẹ.
2.1.4.2. Quy định về quyền lưu cư của vợ chồng sau khi ly hôn là một
quy định tiến bộ so với Luật Hôn nhân và gia đình. Trong thực tế hiện nay, rất
nhiều cặp vợ chồng sau khi ly hôn, người vợ thường phải mất một khoảng
thời gian sau khi ly hôn mới có thể ổn định được cuộc sống. Rất nhiều trường
33
hợp ngay sau khi ly hôn, người vợ đã phải ra khỏi nhà, việc ly hôn vốn đã là
điều không ai mong muốn lại càng khiến người mẹ trở nên khó khăn hơn. Vì
vậy, để bảo vệ người mẹ trong những trường hợp này, Luật Hôn nhân và gia
đình có quy định tại Điều 63 như sau:
Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung
thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ
hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời
hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác.
Như vây, có thể thấy rằng, quy định của Luật Hôn nhân và gia đình một
mặt vẫn đảm bảo quyền sở hữu đối với tài sản của một cá nhân là không thể
xâm phạm, mặt khác vẫn tạo điều kiện cũng như bảo vệ được người phụ nữ
trong việc có thời gian tìm nơi ở mới để ổn định cuộc sống.
2.1.4.3. Đối với tài sản khi ly hôn
Có thể thấy, vấn đề tài sản luôn là vấn đề quan trọng và được Pháp luật
quy định cụ thể từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một cuộc hôn nhân. Trong thời
kỳ hôn nhân, các quy định về tài sản vợ chồng được Luật Hôn nhân và gia
đình đưa ra nhằm mục đích duy trì các điều kiện về vật chất để gia đình có thể
duy trì, tồn tại, phát triển thì khi vợ chồng ly hôn, vấn đề chia tài sản cũng
phải được đặt ra để đảm bảo cho mỗi bên sau khi ly hôn đều có thể tiếp tục ổn
định, bắt đầu cuộc sống mới.
- Nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi
Theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định
nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn đó là:“Tài sản chung
của vợ chồng được chia đôi”.
Như đã nêu ra và phân tích trước đó, mọi nguồn thu nhập của vợ hoặc
chồng được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của
34
vợ chồng nên về nguyên tắc, khi ly hôn, tài sản chung của vợ chồng sẽ được
chia đôi. Quy định trên là hoàn toàn phù hợp bởi nếu chỉ dựa vào công việc,
so sánh nguồn thu nhập vợ chồng để thực hiện việc chia tài sản khi ly hôn thì
đó sẽ là điều bất lợi, ảnh hưởng lớn đến người mẹ - những người phụ nữ ở
nhà chăm sóc con cái, không tạo ra thu nhập vào tài sản chung.
- Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình:
Tại Điều 61 của Luật Hôn nhân và gia đình có quy định:
1. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn,
nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình
không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong
khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của
vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung
cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần
trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu
không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản
của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định
được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được
trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59
của Luật này.
Có thể thấy, mặc dù hiện nay xã hội đã phát triển nhưng việc con cái
sau khi đã kết hôn về ở với bố mẹ do vẫn chưa có điều kiện về nhà ở riêng
hoặc để có điều kiện chăm sóc bố mẹ là điều vẫn thường xảy ra. Chính vì lẽ
đó, chế độ tài sản của vợ chồng trong mối quan hệ với gia đình có thể sẽ phát
sinh nhiều vấn đề hơn mà nếu pháp luật không quy định cụ thể thì việc ly hôn
có thể sẽ ảnh hưởng lớn đến mỗi bên sau khi ly hôn. Theo đó, ta thường thấy,
khi sống chung với bố mẹ, vợ chồng ngoài quyền, nghĩa vụ đối với nhau còn
35
phải có trách nhiệm đối với cả bố mẹ. Do đó, việc đóng góp của cải, vật chất,
tài sản cho gia đình là điều thường xảy ra và thường được đặt lên cao hơn so
với chế độ tài sản của vợ chồng. Do đó, đứng dưới góc nhìn để bảo vệ bà mẹ,
việc Luật Hôn nhân và gia đình quy định chia tài sản trong trường hợp sống
chung với gia đình là hoàn toàn phù hợp. Bởi có thể nhận thấy, người phụ nữ
sống chung với gia đình, họ cũng có những công sức, đóng góp nhất định để
duy trì sự tồn tại, phát triển của gia đình, chăm lo cho gia đình. Vì vậy, khi ly
hôn, người phụ nữ cũng phải được chia một phần tài sản dựa vào công sức
đóng góp của họ.
2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em
2.2.1. Bảo vệ quyền trẻ em dưới góc độ quyền con người
2.2.1.1. Quyền được đặt tên, khai sinh, xác định tôn giáo, dân tộc, quốc
tịch, chỗ ở của con
Phù hợp với lời nói đầu của Công ước về quyền trẻ em năm 1989: Trẻ
em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi sinh ra và có quyền có họ tên, có
quốc tịch và trong chừng mực có thể, quyền biết cha mẹ mình và được cha mẹ
chăm sóc sau khi ra đời. Và hơn nữa với vị trí trung tâm của gia đình, lợi ích
của con cái là điều quan trọng nhất. Gia đình là môi trường có tính quyết định
nhất đến sự phát triển toàn diện của đứa trẻ. Và cha mẹ của chúng là nhân tố
giúp đứa trẻ thực hiện được điều đó.
Việc khai sinh cho con có ý nghĩa vô cùng to lớn bởi vì thông qua nó,
sự tồn tại của mỗi người với tư cách là một công dân sẽ được Nhà nước công
nhận về mặt pháp lý. Từ đó các quyền khác mới được đảm bảo thực hiện. Có
thể xem quyền được khai sinh là một trong những quyền cơ bản của trẻ em.
Việc khai sinh cho con vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha mẹ. Theo quy
định tại Điều 27 Nghị định 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ thì trong thời hạn
60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ phải đi khai sinh cho con. Nếu không
thể đi được thì nhờ ông, bà hoặc người thân đi làm.Trong trường hợp cha mẹ
36
có hôn nhân hợp pháp thì khai sinh cho con, họ tên chồng trong giấy chứng
nhận kết hôn sẽ được ghi vào phần họ và tên của cha mẹ trong Giấy khai sinh
của con. Nếu người mẹ không có hôn nhân hợp pháp, khi làm thủ tục khai
sinh cho con, phần họ tên cha sẽ được bỏ chống và bổ sung khi cha đứa trẻ tự
nguyện nhận con.
2.2.1.2. Nghĩa vụ của cha mẹ phải yêu thương, trông nom, chăm sóc và
bảo vệ con
Nghĩa vụ này được Luật quy định cụ thể như sau:
Điều 69. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ
1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập,
giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở
thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để
tự nuôi mình.
3. Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
4. Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo
tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động
của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép
buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Như vậy, “thương yêu, trông nom, chăm sóc và bảo vệ con” vừa là
quyền, vừa là nghĩa vụ của cha mẹ. Không ai được từ chối trách nhiệm trông
nom, chăm sóc con do mình sinh ra. Nếu vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ này,
cha mẹ có thể bị Tòa án ra quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con
37
chưa thành niên. Đây là nghĩa vụ tối thiểu mà pháp luật đặt ra cho cha mẹ vì
lợi ích lành mạnh của đứa trẻ.
Cha mẹ phải đảm bảo các nhu cầu thiết yếu cho sự phát triển của con
như: nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, khám chữa bệnh …phù hợp với khả năng
và điều kiện cho phép của cha mẹ. Cần lưu ý rằng, con được trông nom phải
là con chưa thành niên. Đối với con đã thành niên mất năng lực hành vi dân
sự, trách nhiệm thuộc về người giám hộ và việc trông nom được thực hiện
trong khuân khổ nghĩa vụ và quyền giám hộ của cha mẹ. Sự chăm nom của
cha mẹ không chỉ được hiểu là sự cung cấp vật chất mà là tập hợp những biện
pháp mà cha mẹ có quyền và nghĩa vụ thực hiện nhằm đặt con dưới sự kiểm
soát của mình để việc nuôi dạy con có hiệu quả.
Quy định tại Khoản 4 như vậy là rất hợp lý, phù hợp với nguyên tắc
“Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, con
trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú”.
Như vậy, pháp luật nghiêm cấm việc phân biệt đối xử giữa các con, điều này
thể hiện góc nhìn mới trong quan điểm của các nhà làm luật hiện đại đối với
hiện tượng phổ biến trong xã hội phong kiến Việt Nam tồn tại thời gian dài.
Vì vậy, để tránh tình trạng nhiều trẻ em nhất là các trẻ em gái, con ngoài giá
thú ... chịu sự phân biệt đối xử trong gia đình dẫn đến tổn thương mà điều này
đã được cụ thể hóa thành luật.
Cha mẹ không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con, không được lợi
dụng sức lao động của con chưa thành niên, không được xúi giục, ép con làm
nhưng điều trái đạo đức xã hội. Có nghĩa là cha mẹ không được có hành vi tồi
tệ, hạn chế về điều kiện ăn ở và các nhu cầu sinh hoạt tối thiểu hàng ngày
khác trong khi có thể tạo được điều kiện tốt hơn. Không được mắng chửi,
lăng mạ con cái, bắt con cái lao động quá sức hoặc làm việc trái đạo đức. Bởi
lẽ tất cả những điều này diễn ra thường xuyên sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển sinh lý của đứa trẻ.
38
2.2.1.3. Quyền được giáo dục, học tập
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ và quyền giáo
dục của cha mẹ tại Điều 72 như sau:
1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều
kiện cho con học tập.
Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình
đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp
chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con.
2. Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề,
quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con.
3. Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để
thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải
quyết được [22].
Quyền được học tập là một trong những quyền cơ bản nhất của trẻ em.
Bởi lẽ trẻ em có được học tập, giáo dục tốt mới có thể tạo dựng được một
cuộc sống vững chắc, góp phần xây dựng phát triển đất nước. Với tầm quan
trọng đó, trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng như trong hệ thống
pháp luật Việt Nam, giáo dục ở trẻ em không những là quyền mà còn là bổn
phận của cha mẹ, của nhà trường và toàn xã hội. Việc giáo dục trẻ em để trở
thành công dân có ích cho xã hội thuộc trách nhiệm từ nhiều phía nhưng trước
hết chắc chắn phải là vai trò của gia đình. Gia đình là nền tảng giáo dục của
trẻ em. Những tri thức đầu tiên mà trẻ nhận được từ khi sinh ra xuất phát từ
cha, mẹ và những người thân trong gia đình. Không những thế, một gia đình
êm ấm cha mẹ yêu thương con cái là điều kiện tốt để giáo dục con cái. Ngược
lại một gia đình không hạnh phúc thiếu sự dạy dỗ, giáo cụ của cha mẹ cũng
ảnh hưởng không tốt đến con cái. Chính vì vậy, Luật Hôn nhân và gia đình
quy định cha mẹ tạo điều kiện để con được sống trong môi trường gia đình
39
đầm ấm, hòa thuận, làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với
nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con.Việc giáo dục con
không thể phó mặc cho cha hoặc mẹ mà cần có sự phối hợp của cả hai. Cha
mẹ có nghĩa vụ và trách nhiệm theo dõi, kiểm tra việc học tập của con, đảm
bảo con được học tập trong môi trường tốt nhất.
Khi gặp khó khăn không thể giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị cơ
quan tổ chức hữu quan giúp đỡ để giáo dục con. Khó khăn ở đây không chỉ về
vật chất. Có lẽ các nhà làm luật muốn nói tới trường hợp những đứa trẻ hư
hỏng ngỗ ngược. Sự hỗ trợ của cơ quan tổ chức như một cách nhà nước thực
hiện việc giáo dục với công dân. Sự hỗ trợ của nhà nước trong việc giáo dục
con cái thực sự là việc ủy thác của cha mẹ. Con có thể được giao hẳn cho cơ
quan chức năng để được giáo dục tập trung…
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 bổ sung quy định “quyền tham gia
hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa” của con mà cha mẹ có nghĩa vụ phải tôn
trọng. Có thể nói đây là một trong những quyền hết sức cơ bản của con cần
được cha mẹ tôn trọng. Nhu cầu của trẻ em bây giờ không chỉ dừng lại ở việc
ăn no mặc ấm, mà trẻ em ngày nay được Nhà nước và xã hội trao cho rất
nhiều cơ hội để tham gia chính trị, kinh tế, xã hội và tạo sân chơi rèn luyện
nhiều kĩ năng cho các em. Đó có thể là những hành động vụ thể trong các
ngày lễ dân tộc, các game show truyền hình, các hoạt động vì môi trường…
Đặc biệt ở những vùng kinh tế khó khăn, việc trẻ em tham gia và phát triển
các hoạt động kinh tế cần được khuyến khích.
2.2.1.4. Đại diện cho con
Cha mẹ là người đại diện đương nhiên (đại diện theo pháp luật), người
quản lý tài sản của con chưa thành niên.
Theo định nghĩa tại Khoản 2 Điều 139 Bộ luật dân sự 2005 “Đại diện
là việc một người (sau đây gọi tắt là người đại diện) nhân danh vì mục đích
40
của người khác (sau đây gọi tắt là người được đại diện) xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện” [17]. Đại diện có hai hình thức là
đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Điều 141 Bộ luật dân sự
quy định cha mẹ là người đại diện theo pháp luật với con chưa thành niên.
Nghĩa vụ và quyền đại diện của cha mẹ đối với con được Điều 73 Luật
Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định cụ thể là: “Cha mẹ là người đại diện
theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác
đại diện theo pháp luật” [22].
Quy định này được hiểu là nếu con chưa thành niên thì cha mẹ là
người đại diện theo pháp luật một cách đương nhiên (trừ trường hợp cha, mẹ
bị hạn chế quyền đại diện theo pháp luật cho con theo quyết định của Tòa
án). Nếu con đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự thì không phải
cha, mẹ là người đại diện đương nhiên mà còn tùy từng trường hợp như: con
chưa có vợ chồng hoặc con đã có vợ chồng nhưng họ không đủ điều kiện
làm người đại diện …
Con chưa thành niên là người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
nhiều giao dịch dân sự bị hạn chế. Do đó, theo quy định nêu trên thì cha mẹ là
người đại diện theo pháp luật cho con, có quyền nhân danh và bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của con. Như vậy,mọi giao dịch dân sự của con dưới 6 tuổi đều
phải do cha mẹ xác lập, thực hiện. Con từ đủ 6 đến dưới 18 tuổi khi xác lập,
thực hiện các giao dịch dân sự thì phải được sự đồng ý của cha mẹ, trừ giao
dịch phụ vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Do đó, vì
quyền lợi của con pháp luật hôn nhân và gia đình quy định cha mẹ là người
đại diện theo pháp luật của con là điều hết sức cần thiết.
Mở rộng quy định so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014 đã điều chỉnh bổ sung thêm một số nội dung
cho cụ thể, rõ ràng hơn. Cụ thể là:
41
- Cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không có khả năng la động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Đối với giao dịch liên quan đến tài sản là bất động sản, động sản có
đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, tài sản đưa vào kinh doanh của con
chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự
thỏa thuận của cha mẹ.
- Cha mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới về việc thực hiện giao dịch liên
quan đến tài sản của người con được quy định tại Khoản 2 và 3 Điều này và
theo quy định của Bộ luật dân sự.
Các nhu cầu trên của con đều là các nhu cầu tối thiểu hàng ngày nên
khi thực hiện các giao dịch này, cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực hiện mà
không cần hỏi ý kiến của người còn lại nếu không thực sự cần thiết nhưng về
trách nhiệm thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới khi thực hiện các giao
dịch này. Mục đích của quy định này chính là tang trách nhiệm của cha mẹ
trong việc quản lý định đoạt tài sản của con, đảm bảo cho những tài sản này
được sử dụng một cách hiệu quả nhất, vì lợi ích của con.
2.2.2. Bảo vệ các quyền lợi liên quan đến tài sản của con
2.2.2.1. Quản lý và định đoạt tài sản riêng của con
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, năng lực pháp luật dân
sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự và
mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Trong các nội dung
năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, quyền sở hữu đối với tài sản là một
trong những quyền quan trọng. Như vậy, có thể thấy, không phân biệt tuổi
tác, dân tộc, giới tính,… pháp luật quy định mọi cá nhân đều có quyền sở
hữu đối với tài sản.
Tuy nhiên, với tâm lý và suy nghĩ của đại bộ phận trong xã hội hiện
42
nay, đặc biệt với văn hóa và truyền thống của người châu Á, trong một gia
đình, vì con còn nhỏ, là những người chưa thể lao động, còn sống phụ thuộc
vào bố mẹ nên không thể có tài sản riêng, mọi tài sản của con là của bố mẹ do
đó bố mẹ có thể tự ý giao dịch đối với tài sản thuộc sở hữu của con mà không
cần hỏi ý kiến. Do đó, có rất nhiều trường hợp bố mẹ đã vi phạm đến quyền
sở hữu đối với tài sản riêng của con. Để bảo vệ quyền của con đối với tài sản
riêng, tiếp tục kế thừa quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, tại
Khoản 1 Điều 75 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 tiếp tục quy định:
1. Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài
sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động
của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu
nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của
con cũng là tài sản riêng của con.
Như vậy, với quy định trên, Luật Hôn nhân và gia đình tiếp tục quy
định để bảo vệ quyền có tài sản riêng của con trong mối quan hệ với cha mẹ.
Quy định trên là hoàn toàn phù hợp. Để cụ thể hóa đối với quyền được có tài
sản riêng, Luật cũng đã quy định tài sản riêng của con gồm những tài sản nào.
Theo đó, tài sản riêng của con sẽ bao gồm: tài sản được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng của con, tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con. Quy định
trên sẽ góp phần xác định chính xác, tránh các phát sinh các tranh chấp khi
xác định tài sản riêng của con
Bên cạnh việc quy định quyền có tài sản riêng của con, Luật Hôn nhân
và gia đình 2014 cũng quy định về việc thực hiện các quyền quản lý và định
đoạt đối với tài sản riêng của con. Theo đó, đối với quyền quản lý tài sản
1. Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng
hoặc nhờ cha mẹ quản lý.
43
2. Tài sản riêng của con dưới 15 tuổi, con mất năng lực hành vi dân
sự do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản
lý tài sản riêng của con. Tài sản riêng của con do cha mẹ hoặc
người khác quản lý được giao lại cho con khi con từ đủ 15 tuổi trở
lên hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
trường hợp cha mẹ và con có thỏa thuận khác - Điều 76 Quyền
quản lý tài sản riêng của con
Quyền định đoạt tài sản riêng của con:
1. Trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của
con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con,
nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
2. Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản
riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì
phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.
3. Trong trường hợp con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự
thì việc định đoạt tài sản riêng của con do người giám hộ thực hiện
– Điều 77 Định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, có thể thấy, đối với tài sản riêng của mình, Luật Hôn nhân và
gia đình đã quy định đối với con dưới 15 tuổi, tài sản riêng của con sẽ do cha
mẹ quản lý và định đoạt vì lợi ích của con. Và từ khi đủ 15 tuổi trở lên, con có
thể tự quản lý tài sản và định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của mình. Quy
định trên của Luật là hoàn toàn phù hợp, bởi quyền quản lý, chiếm hữu là một
trong ba quyền năng cơ bản của chủ sở hữu đối với tài sản. Đối với người khi
đã đủ 15 tuổi trở lên, năng lực hành vi dân sự đã hoàn thiện, đầy đủ hơn do đó
Pháp luật trao cho quyền quản lý là phù hợp, để con có thể chủ động trong
44
việc thực hiện quyền độ với tài sản thuộc sở hữu của mình, là tiền đề cơ bản
để thực hiện các quyền sử dụng, định đoạt. Bên cạnh đó, nhìn nhận từ khía
cạnh khác quy định về quyền quản lý, định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu
của con dưới 15 tuổi là do bố mẹ thực hiện cũng là một trong những quy định
bảo vệ đối với con. Bởi trên thực tế, do nhận thức còn chưa chín chắn, chưa
nhận thức được các hậu quả pháp lý do mình thực hiện mà nhiều đứa trẻ khi
thực hiện các quyền đối với tài sản của mình đã gây ảnh hưởng đến chính
quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân mình hoặc là quyền, lợi ích hợp pháp
của chủ thể khác. Do đó, quy định cho phép bố mẹ được thực hiện quyền
quản lý, định đoạt đối với tài sản riêng của con hoặc đối với tài sản là lớn như
bất động sản động sản phải đăng ký cũng là một trong những quy định để bảo
vệ quyền, lợi ích cho con.
2.2.2.2. Bồi thường thiệt hại do con gây ra
Bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự, theo đó một người
vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì phải bồi
thường những tổn thất mà mình gây ra. Nghĩa vụ của cha, mẹ trong việc bồi
thường thiệt hại cho con được quy định tại Điều 74 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014, cụ thể là:“Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy
định của Bộ Luật Dân sự”. Đây là trách nhiệm bổ sung của của cha mẹ, dựa
trên cơ sở lỗi của cha, mẹ vì đã thiếu trách nhiệm trong việc trông nom, chăm
sóc, giáo dục, quản lý con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất
năng lực hành vi dân sự dẫn đến việc con gây thiệt hại cho người khác.
Trước đó, tại Điều 606 Bộ luật Dân sự 2005 cũng đã quy định:
2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn
cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản
của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây
45
thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn
thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt
hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài
sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng
tài sản của mình.
Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của một người do hành
vi của người đó gây ra, pháp luật có quy định về mặt năng lực hành vi dân
sự. Theo đó, đối với một người từ đủ 18 tuổi, do có đầy đủ năng lực hành
vi dân sự, đã tự thực hiện được các quyền mà pháp luật đã quy định do đó
khi xảy ra thiệt hại thì pháp luật buộc người đó phải tự chịu trách nhiệm
đối với thiệt hại do họ gây ra. Còn đối con chưa thành niên, vì là những
người sống phụ thuộc vào bố mẹ, chưa phần nhiều chưa có tài sản riêng để
có thể bồi thường thiệt hại do bản thân mình gây ra, do đó, Luật đã quy
định đối với con chưa thành niên, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây
ra sẽ do cha mẹ thực hiện. Quy định trên phù hợp bởi thực tế, con chưa
thành niên là những người phần nhiều chưa có tài sản riêng do đó nếu quy
định con phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
quyền lợi của con, sẽ phải chịu trách nhiệm khi vượt quá khả năng của
mình. Hơn nữa, việc con gây thiệt hại cũng thể hiện một phần nào trách
nhiệm quản lý, giáo dục của cha mẹ, vì vậy yêu cầu cha mẹ có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại là một điều cần thiết.
2.2.3. Bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong một số trường hợp đặc biệt
2.2.3.1. Bảo vệ quyền lợi của trẻ em được sinh ra không phụ thuộc vào
hôn nhân của cha mẹ
Thực tế trong xã hội hiện nay, việc một người nam và người nữ có con
46
với nhau nhưng không đăng ký kết hôn thường không được xã hội coi trọng.
Do đó, những đứa trẻ được sinh ra từ cha mẹ không đăng ký kết hôn cũng
hoàn toàn có thể gặp phải những cái nhìn không thiện cảm từ người bên
ngoài. Có thể lấy ví dụ: rất nhiều bạn nam và nữ còn trẻ sống thử với nhau,
đến khi có con thì lại không kết hôn hoặc đi lấy người khác. Có thể thấy về
mặt pháp luật, do chưa được đăng ký kết hôn theo quy định của Pháp luật,
mối quan hệ hôn nhân cũng như quyền và nghĩa vụ theo quy định chưa được
hình thành. Tuy nhiên, những đứa trẻ được sinh ra này vẫn có mối quan hệ
huyết thống với cha mẹ đã sinh ra mà không phụ thuộc vào việc Pháp luật có
thừa nhận mối quan hệ vợ chồng của họ hay không. Do đó, để bảo vệ cho
những trẻ em sinh ra trong hoàn cảnh như vậy tại Khoản 2 Điều 68 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 có quy định: “2. Con sinh ra không phụ thuộc vào
tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với
cha mẹ của mình được quy định tại Luật này, Bộ Luật Dân sự và các luật
khác có liên quan” [22].
Như vậy, với quy định trên, một đứa trẻ sinh ra mà cha mẹ không có
đăng ký kết hôn với một đứa trẻ sinh ra mà cha mẹ có đăng ký kết hôn các
quyền lợi đều được đảm bảo. Ví dụ: theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005,
tại Khoản 1 Điều 676 về hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Như vậy, với quy
định của pháp luật có thể thấy, con sinh ra được hưởng đầy đủ các quyền do
cha, mẹ của mình để lại mà không phụ thuộc vào việc cha mẹ của đứa trẻ đó
có xác lập quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật hay không.
2.2.3.2. Bảo vệ trẻ em trong trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật
Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy
định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Do đó, kết hôn
trái pháp luật được hiểu là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng nhưng vi
47
phạm các điều kiện của Luật Hôn nhân và gia đình. Để đảm bảo ổn định các
mối quan hệ trong xã hội, các hành vi vi phạm pháp luật phải được ngăn chặn,
việc kết hôn trái pháp luật phải bị hủy bỏ bằng Quyết định của Tòa án theo
quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Việc hủy kết hôn trái pháp luật sẽ
đặt ra hai vấn đề được quan tâm: quan hệ hôn nhân giữa hai bên kết hôn trái
pháp luật và mối quan hệ giữa người cha, người mẹ đối với con. Tại Điều 12
Luật Hôn nhân và gia đình có quy định:
1. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải
chấm dứt quan hệ như vợ chồng.
2. Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định
về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn… .
Đối với mối quan hệ hôn nhân giữa người nam và người nữ, do đã vi
phạm quy định của pháp luật về việc kết hôn nên mối quan hệ hôn nhân phải
chấm dứt, hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. Tuy nhiên,
đối với mối quan hệ giữa người cha, người mẹ với con, nếu chấm dứt mối
quan hệ giữa người cha, người mẹ đối với con thì đó sẽ là một thiệt thòi rất
lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người con. Bởi trên thực tế,
giữa người cha, người mẹ đó với con của mình có quan hệ huyết thống hoặc
nuôi dưỡng. Hơn nữa, tại Khoản 2 Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình cũng
đã quy định “con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha
mẹ…”. Do đó, việc Luật Hôn nhân và gia đình quy định quyền, nghĩa vụ của
cha mẹ đối với con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cua
mẹ đối với con khi ly hôn là điều cần thiết, đảm bảo quyền, lợi ích cho người
con sinh ra mà việc kết hôn của cha, mẹ không đúng quy định của Pháp luật.
Và như vậy, theo quy định trên, đối với trường hợp việc kết hôn của cha mẹ
bị hủy, cha mẹ vẫn phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với
con như trường hợp cha mẹ ly hôn.
48
2.2.3.3. Bảo vệ trẻ em trong trường hợp cha mẹ ly hôn
Ly hôn là điều mà không cặp vợ chồng cũng như không người con nào
muốn. Khi ly hôn, quan hệ hôn nhân giữa người nam và người nữ chấm dứt,
các quyền và nghĩa vụ vợ chồng cũng sẽ không còn. Tuy vậy, mối quan hệ
huyết thống, nuôi dưỡng giữa cha mẹ với con cái vẫn còn tồn tại. Do đó, để
bảo vệ quyền và lợi ích của con, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con cái sau khi ly hôn đã được quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân
và gia đình như sau:
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ
luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ,
quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không
thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực
tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ
07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ
trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận
khác phù hợp với lợi ích của con.
Như vậy, theo quy định trên, cha mẹ sau khi ly hôn vẫn phải có nghĩa
vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đối với con chưa thành niên
theo quy định. Cha mẹ cũng có thể thỏa thuận về việc người sẽ chăm sóc trực
tiếp nuôi con hoặc Tòa án sẽ quyết định người chăm sóc trực tiếp cho con căn
cứ theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để người con có thể nhận được sự chăm
sóc tốt nhất. Bên cạnh đó, để người con có thể nhận được sự chăm sóc đầy đủ,
49
Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định nghĩa vụ của cha, mẹ không trực
tiếp nuôi con. Theo đó, cha mẹ không trực tiếp nuôi con sẽ có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con, tôn trọng quyền được sống chung với người trực tiếp của con.
Ngược lại, người trực tiếp nuôi con cũng không được có những hành vi cản
trở việc người không trực tiếp nuôi con thực hiện việc thăm nuôi. Bởi trên
thực tế, có rất nhiều cha mẹ sau khi ly hôn vì vẫn còn mâu thuẫn mà khi
người cha, người mẹ đến thăm con thì người còn lại không cho, cố tình ngăn
cản. Do đó, quy định trên của Luật Hôn nhân và gia đình là hoàn toàn cần
thiết để đảm bảo cho người con có thể nhận được sự chăm sóc đầy đủ cả về
vật chất cũng như tình thần của cha và mẹ.
Đồng thời, Luật Hôn nhân và gia đình cũng có quy định về việc thay
đổi trực tiếp người nuôi con sau khi ly hôn. Tại Điều 84 của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 quy định:
1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức
được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc
thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một
trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con
phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng
của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện
trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ
theo quy định của Bộ luật dân sự [22, Điều 84].
50
Trên thực tế, có thể do: điều kiện kinh tế của người cha, người mẹ
không đủ để nuôi dưỡng con; hoàn cảnh công tác khiến người cha, người mẹ
không có thời gian chăm sóc con hoặc người cha, người mẹ có những hành vi,
ứng xử có thể xâm hại đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của con
mà việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn là điều cần thiết. Do
đó, quy định trên của Luật Hôn nhân và gia đình đã có quy định về việc thay
đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi
con ngoài việc căn cứ vào sự thỏa thuận hay điều kiện của cha mẹ cũng phải
xem xét đến nguyện vọng của con. Đồng thời, ngoài chủ thể có quyền yêu cầu
thay đổi là cha mẹ thì Luật Hôn nhân và gia đình cũng cho phép các chủ thể
khác có quyền là: người thân thích, Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, Cơ
quan quản lý nhà nước về trẻ em và Hội Liên hiệp phụ nữ. Quy định trên sẽ
góp phần bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho trẻ em.
Đặc biệt, pháp luật còn quy định cụ thể về nghĩa vụ của bố dượng, mẹ
kế đối với con riêng của vợ hoặc của chồng. Hiện nay có rất nhiều cặp vợ
chồng kết hôn và chung sống với con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng.
Nhiều tình trạng bố dượng, mẹ kế sống chung với con riêng của bên kia xảy
ra nhiều xích mích. Xét trên cơ sở quan hệ huyết thống thì họ với đứa trẻ
không phải là quan hệ cha – mẹ, mẹ - con. Tuy nhiên do bố dượng là chồng
của mẹ, mẹ kế là vợ của cha nên thực tế trong gia đình họ phải đối xử với đứa
trẻ như những người con ruột, không có sự phân biệt đối xử giữa con riêng và
con chung. Để đảm bảo quyền và lợi ích của những người con riêng, Luật
Hôn nhân và gia đình quy định cụ thể bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền
trông nom, chăm sóc, giáo dục con riêng chung sống với mình như đối với
con đẻ, không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau.
2.2.3.4. Quy định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên
Cha mẹ nào khi sinh con ra cũng luôn muốn dành cho con mình sự nuôi
51
dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt nhất. Điều đó dường như là bản năng của cha
mẹ mà không cần pháp luật phải quy định thành nghĩa vụ của cha mẹ đối với
con. Tuy vậy, trong thực tế xã hội hiện nay, vẫn còn có những người cha,
người mẹ có hành vi ứng xử không chuẩn mực, trực tiếp hoặc có nguy cơ xâm
hại đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản của con. Để bảo vệ
trẻ em tránh được những hành vi có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng,
danh dự, nhân phẩm của trẻ em, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy
định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
Theo đó, những trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa
thành niên bao gồm:
a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phá tán tài sản của con;
c) Có lối sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức
xã hội – Khoản 1 Điều 85 Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên.
Tuy nhiên, do con chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi,
chưa đủ năng lực hành vi theo quy định của Pháp luật nên chưa thể tự mình
thực hiện quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối
với con. Để đảm bảo quyền được yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ
đối với con chưa thành niên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã có
quy định về các chủ thể thực hiện quyền trên. Theo đó, tại Điều 86 có quy
định về người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ đối với con
chưa thành niên gồm:
52
1. Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha,
mẹ đối với con chưa thành niên:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
Trên thực tế, mặc dù là cha mẹ nhưng có rất nhiều người cha, người
mẹ có những hành vi xâm hại đến quyền, lợi ích của con mình do đó nếu
chỉ quy định cho cha hoặc mẹ có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của
cha, mẹ thì sẽ là rất khó thực hiện, bởi sẽ không có cha mẹ nào yêu cầu Tòa
hạn chế quyền của bản thân hay vợ hoặc chồng của mình. Quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cho phép chủ thể thực hiện quyền yêu cầu
hạn chế quyền của cha mẹ ngoài cha, mẹ còn có người thân thích, cơ quan
quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan nhà nước về trẻ em, Hội Liên hiệp
phụ nữ là cần thiết.
2.2.3.5. Nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi đối với con nuôi
Vấn đề về quyền và nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi đối với con nuôi
được quy định tại Điều 78 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Theo đó:
1. Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ,
con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm quan hệ nuôi con
nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi.
Trong trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của
53
Tòa án thì quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi
chấm dứt từ ngày quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Quyền nghĩa vụ của cha đẻ, mẹ đẻ và con đã làm con nuôi của
người khác được thực hiện theo Luật nuôi con nuôi.
3. Quyền, nghĩa vụ giữa cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ được khôi phụ kể
từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt. Trong trường hợp cha
đẻ, mẹ đẻ không còn hoặc không có đủ điều kiện để nuôi con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì
Tòa án giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi và chỉ định người
giám hộ cho con theo quy định của Bộ luật dân sự.
Như vậy, theo quy định này, kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi
được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi thì giữa cha mẹ nuôi và
con nuôi sẽ có đầy đủ các nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con theo quy
định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định
khác của pháp luật có liên quan. Điều này thể hiện sự nhất quán nguyên tắc
“không phân biệt đối xử giữa các con”, bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho đứa trẻ
được nhận nuôi.
54
Chương 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA BÀ MẸ VÀ TRẺ EM TRONG
QUAN HỆ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
3.1. Nhận xét chung về thực tiễn thực hiện những quy định về bảo vệ
quyền lợi của bà mẹ và trẻ em trong pháp luật hôn nhân gia đình hiện hành
3.1.1. Ưu điểm
Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, pháp luật Việt Nam từ Hiến pháp
cho đến các luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật đã bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ. Hiến pháp năm 2013 đã đưa ra nguyên tắc cơ bản, khẳng định
chính sách nhất quán của Nhà nước ta trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy các
giá trị tốt đẹp của gia đình, bảo vệ các quyền hôn nhân và gia đình và các
nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong hàng loạt các văn bản pháp luật có
liên quan. Trên thực tế, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (về chế độ hôn
nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia
đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây
dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình); Bộ luật Hình sự (Chương XV -
Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, từ các Điều 146 đến 152); Bộ
luật Dân sự (quy định về quyền kết hôn, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng
trong quan hệ dân sự, Quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên
trong gia đình...); Luật Bình đẳng giới (quy định nguyên tắc bình đẳng giới
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình
đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực
hiện bình đẳng giới); Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (quy định về phòng
ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm
của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình
55
và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình) đã cụ thể hóa
nguyên tắc và quy định của Hiến pháp.
Các văn bản dưới luật, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao cũng đã cụ thể hóa các quy định của luật, pháp lệnh để bảo
đảm thực hiện hiệu quả các quy định bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình. Nhìn chung, qua rà soát, pháp luật bảo vệ quyền con
người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình Việt Nam không phát hiện thấy sự
mâu thuẫn giữa các văn bản.
Có thể thấy, năm 2014, Luật Hôn nhân và gia đình đã được Quốc hội
Việt Nam thông qua và ban hành, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2015.
Với các quy định mới đã có sự mở rộng phạm vi, đối tượng và nội dung liên
quan đến hôn nhân và gia đình nhằm bảo đảm mọi quyền lợi của công dân
trong quan hệ hôn nhân, đặc biệt là quyền lợi bình đẳng về tài sản, bảo vệ
những đối tượng dễ bị tổn thương là phụ nữ và trẻ em trước các hành vi
cưỡng ép hôn nhân, bạo lực gia đình, con cái không được chăm sóc.
Mọi công dân Việt Nam khi đủ tuổi để đăng ký kết hôn (nam đủ 20
tuổi, nữ đủ 18 tuổi) đều có quyền tự do và bình đẳng trong việc quyết định
hôn nhân của bản thân, không bên nào được ép buộc bên nào, không một ai
được cưỡng ép hoặc cản trở. Những tục lệ hôn nhân lạc hậu (như cưỡng ép,
trọng nam khinh nữ, đa thê, không tôn trọng quyền lợi con cái…) đều được
bãi bỏ. Đồng thời, người phụ nữ trong quan hệ hôn nhân được pháp luật bảo
vệ trước hành vi tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, bạo lực gia đình.
Theo nghiên cứu mới nhất với 1.829 người tại 7 tỉnh thành mới công bố
cho thấy một bức tranh khá rõ nét về đặc trưng cơ bản của hôn nhân ở Việt
Nam sau khi thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, GS.TS
Nguyễn Hữu Minh (Phó Chủ nhiệm Chương trình gia đình - Viện Hàn lâm
KHXHVN): "Nghiên cứu “Một số đặc trưng cơ bản của hôn nhân ở Việt
56
Nam” của Viện Hàn lâm KHXHVN mới được thực hiện với tổng số mẫu định
lượng là 1.819 trong đó có 48 nam, 52 là nữ. 55,6 ở nông thôn và
44,4 ở đô thị. Có 72 phỏng vấn sâu và 27 thảo luận nhóm diễn ra tại 7
tỉnh/thành phố đại diện cho các vùng miền địa lý gồm Hà Nội, Nam Định,
Yên Bái, Thừa Thiên Huế, Đắk Lắk, T.P HCM và Cần Thơ". Kết quả khảo
sát cho thấy, có tới 75 phụ nữ được hỏi lựa chọn đời sống hôn nhân (tức là
việc duy trì hôn nhân vẫn được coi trọng và hôn nhân vẫn là giá trị cơ bản
của các gia đình Việt Nam) Quan niệm “đến tuổi phải lấy chồng” vẫn còn
khá phổ biến. Tuy nhiên cũng đã xuất hiện xu hướng người phụ nữ lựa chọn
lối sống độc thân (phụ nữ trên 40 tuổi).
- Tuổi kết hôn: Đang có xu hướng gia tăng ở Việt Nam với cả nam và
nữ. Năm 1989, nữ là 23,2. Năm 1999, nữ là 24. Năm 2009, nữ là 24. Năm 2014,
nữ là 22,9… Tuổi kết hôn với người sống ở đô thị cao hơn so với người ở nông
thôn, tuy nhiên ở những người con trai cả thì có xu hướng kết hôn sớm hơn.
- Quyền quyết định trong hôn nhân: Nét nổi bật là vai trò quyết định
của cá nhân tăng, nhưng cha mẹ và gia đình vẫn có vai trò quan trọng trong
việc tham khảo và tư vấn. Những đối tượng hiện có nhiều quyền quyết định
trong hôn nhân đó là nam giới, những người sống ở đô thị, người kết hôn
muộn, người có học vấn cao, người làm nhà nước… Tuy nhiên, hiện nay phần
lớn người phụ nữ có quyền quyết định hôn nhân của mình.
Tại bài phát biểu tại Lễ Phát động “Năm an toàn cho phụ nữ và trẻ em”
nhân dịp kỷ niệm 1979 năm Khởi nghĩa Hai Bà Trưng và 109 năm Ngày
Quốc tế phụ nữ sang ngày 6/3/2019 tại Tượng đài Lý Thái Tổ - Hoàn Kiếm –
Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, lịch sử phát triển của thế
giới cho thấy ở bất cứ quốc gia nào, bất cứ dân tộc nào phụ nữ và trẻ em cũng
luôn giữ vị trí đặc biệt. Có phụ nữ mới duy trì được giống nòi, xây dựng được
tổ ấm của gia đình, dân tộc mới trường tồn và xã hội mới phát triển. Thủ
57
tướng cũng nhắc lại, khi còn sống, Bác Hồ kính yêu luôn dành những tình
cảm sâu sắc và sự quan tâm đặc biệt đến phụ nữ và trẻ em với nhiều tư tưởng
tiến bộ về bình đẳng giới và chăm sóc bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Học tập tư
tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có những quan điểm
nhất quán, xuyên suốt để đảm bảo các quyền cho người dân, trong đó có phụ
nữ và trẻ em.
Theo đó đã ban hành, thực thi chính sách, chương trình, đề án về an
toàn, an sinh cho phụ nữ và trẻ em, phù hợp với chương trình nghị sự 2030 về
phát triển bền vững của Liên hợp quốc; công ước về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ. Việt Nam là quốc gia đầu tiên của châu Á và thứ
2 trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em ngày 20/2/1990. Hệ
thống pháp luật về bình đẳng giới, chống bạo hành gia đình, bảo vệ quyền lợi,
sự phát triển của nữ giới ngày càng được hoàn thiện.
Chị em phụ nữ đã tham gia đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là lực lượng to lớn trong mọi lĩnh vực của đời
sống, giữ nhiều vị trí quan trọng của quốc gia, của bộ, ngành, địa phương. Lần
đầu tiên chúng ta có Chủ tịch Quốc hội là nữ, có 3 Ủy viên Bộ Chính trị là nữ.
Trong lĩnh vực kinh doanh, Việt Nam có tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp cao
hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Nhiều chị em lãnh đạo những doanh nghiệp
hàng đầu Việt Nam, tạo được vị thế và uy tín trên trường quốc tế. Những
thành tựu của chúng ta trong lĩnh vực bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ
được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Hệ thống pháp luật về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em đến nay cơ
bản được hoàn thiện. Nhà nước đã cấp bảo hiểm y tế miễn phí cho tất cả trẻ
em dưới 6 tuổi. Gần 100 trẻ em dưới 1 tuổi được tham gia tiêm chủng mở
rộng. Gần 100 trẻ em 5 tuổi được đi học mẫu giáo. Khoảng 90 trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt được hưởng chính sách trợ cấp trợ giúp xã hội. Thủ tướng
58
đánh giá, là tổ chức đại diện cho phụ nữ, Đảng và Nhà nước ghi nhận vai trò
và những đóng góp quan trọng của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc
chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ. Thủ tướng đánh giá
cao và ủng hộ sáng kiến của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc chọn
chủ đề hoạt động năm 2019 là “Năm an toàn cho phụ nữ và trẻ em”. Điều này
thể hiện sự sáng tạo, đổi mới trong phương thức hoạt động của Hội, thể hiện
trách nhiệm và sự quyết tâm của Hội đồng hành, chung tay cùng với Chính
phủ giải quyết các vấn đề xã hội, hướng tới sự an toàn cho phụ nữ, trẻ em và
toàn xã hội.
3.1.2. Hạn chế còn tồn tại
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 sau hơn 5 năm thi hành đã đạt
được nhiều thành tựu tuy nhiên bên cạnh đó cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế
trong quá trình áp dụng.
3.1.2.1. Vấn đề tài sản riêng của người phụ nữ sau khi ly hôn
Theo kết quả của báo cáo nghiên cứu “Thực trạng đảm bảo quyền tiếp
cận đất đai của phụ nữ sau ly hôn” do Văn phòng liên minh đất đai (LANDA)
công bố ngày 12/10/2018, bạo lực gia đình và tâm lý cam chịu của phụ nữ
trước những bất công trong hôn nhân và sau khi ly hôn được nói đến nhiều,
trong đó vấn đề sau ly hôn nhiều phụ nữ lại phải đối mặt với cuộc sống không
nhà cửa, không tài sản. Phụ nữ thiếu quyền tài sản của mình sau ly hôn
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chung ngoài mục đích giảm thiểu
sự bất bình đẳng giới về các vấn đề pháp lý liên quan đến đất đai, còn bảo
vệ gia đình khỏi những hành động đơn phương của chồng và bảo vệ quyền lợi
của phụ nữ trong trường hợp ly hôn hoặc trong các tranh chấp về đất đai.
Theo nghiên cứu được LANDA và các tổ chức thành viên tiến hành
thực hiện từ tháng 7- 8/2015 tại tỉnh Quảng Ngãi và Long An, với 143 phụ nữ
sau ly hôn tham gia khảo sát cho thấy sau ly hôn, phụ nữ không có chỗ ở ổn
59
định, phải về sống với cha mẹ đẻ, ở nhờ nhà người thân hoặc đi làm thuê
biệt xứ. Khảo sát đã cho thấy, hiện tỷ lệ phụ nữ đứng tên chủ quyền đất ở và
các loại đất khác thấp hơn so với nam giới, ở nông thôn thấp hơn ở đô thị.
Tỷ lệ hộ gia đình ở đô thị thực hiện việc đưa tên cả hai vợ chồng vào Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cao hơn hẳn các địa bàn nông thôn. Và dù
nguồn gốc tài sản thường là bên vợ hay bên chồng thì người đứng tên trên
giấy tờ thường là người chồng. Đối với những phụ nữ làm ruộng là chính, họ
ít quan tâm hiểu về thủ tục đất đai, giấy tờ nên thường người chồng “đứng
tên vì vợ không biết”.
Người phụ nữ thường thiếu kiến thức về quyền tài sản cũng như thiếu
sự hỗ trợ tư pháp đầy đủ về hôn nhân gia đình, về quyền tài sản, trong khi đó,
các tài sản chung của Vợ chồng là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở,
chủ yếu có liên quan đến bố mẹ chồng hoặc gia đình bên chồng, nhất là vùng
nông thôn. Ông Phạm Hải Bình, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết:
Trong tình trạng đó, việc để các cặp Vợ chồng tự thỏa thuận về tài
sản trong ly hôn làm tăng những bất lợi thuộc về phía phụ nữ, khiến
họ mất đi các cơ hội được tòa án và các bên xác minh, kiểm kê và
chia cho họ phần tài sản chính đáng của mình, trong đó có nhà ở và
đất sản xuất, đẩy họ ra khỏi cộng đồng và phải đối mặt với nhiều rủi
ro trong cuộc sống tiếp theo.
Hệ quả là người phụ nữ dễ mất quyền với đất đai trong mọi trường hợp,
nhất là khi vợ chồng ly hôn hoặc góa bụa. Đấy là chưa kể đến khó khăn của
phụ nữ trong trường hợp cần vay vốn tín dụng của Nhà nước khi chồng ốm
đau hay được quyền chủ động trồng cây gì, gieo hạt gì đạt năng suất cao...
3.1.2.2. Vấn đề công sức đóng góp của người vợ trong gia đình chưa
được đánh giá khách quan
Người phụ nữ sinh con và dành phần lớn thời gian tuổi trẻ của mình để
chăm sóc con cái, chăm sóc gia đình.Có người chọn công việc nội trợ để có
60
thể chăm sóc con của mình. Tuy nhiên đó đồng nghĩa với việc họ không có
thu nhập riêng và sống phụ thuộc vào nguồn thu từ chồng, từ gia đình chồng.
Đây chính là tình trạng lệ thuộc kinh tế. Các hội thảo về vấn đề giới, các
chuyên gia cũng chỉ ra rằng tình trạng bạo hành gia đình nhằm vào phụ nữ
còn rất cao; và một trong những nguyên nhân chính khiến phụ nữ dễ rơi vào
tình huống dễ bị tổn thương là sự lệ thuộc, trong đó sự lệ thuộc về kinh tế,
quyền tài sản được nhắc đến như là một trong những nguyên nhân chính. Khi
người phụ nữ lấy chồng, về gia đình chồng ở, đóng góp nhiều công sức xây
dựng chung; nhưng khi mục đích hôn nhân không đạt được, người phụ nữ bắt
buộc phải đứng trước lựa chọn: hoặc bế con đi tay trắng, hoặc tiếp tục ở lại
trong cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Các chuyên gia chỉ rõ, trường hợp của
chị Lê Thị Lý bị chồng là Nguyễn Tiến Thịnh bạo hành ở Vĩnh Phúc ồn ào
mấy năm trước là một câu chuyện điển hình.
Ngoài ra, cho dù quyền bình đẳng của phụ nữ đã được thể chế hóa
trong Hiến pháp từ năm 1945, được chi tiết hóa trong các luật dân sự và các
bộ luật liên quan đến tài sản khác nhau… Việt Nam cũng đã cam kết thực thi
nhiều công ước quốc tế có liên quan đến quyền bình đẳng của nam và nữ.
Tuy nhiên, ở nhiều nơi, vì nhiều lý do: tập tục văn hóa, nhận thức hạn
chế của chị em phụ nữ về quyền của mình, cũng như trách nhiệm thực thi của
các Cơ quan quản lý liên quan về vấn đề này chưa cao, dẫn tới tình trạng ở
nhiều nơi GCNQSDĐ hiện vẫn còn chưa được ghi cả tên Vợ và tên chồng.
Điều này dẫn tới việc thực hiện chính sách pháp luật không đầy đủ, tiếp tục
đẩy phụ nữ vào trạng thái dễ tổn thương, cùng vô vàn hệ lụy khác dẫn tới
vòng luẩn quẩn về hôn nhân và chất lượng sống không giải quyết được.
3.1.2.3. Vấn đề Bạo lực gia đình còn diễn ra thường xuyên, liên tục và
có tính chất gia tăng
Một khi tế bào gia đình đã bị các tệ nạn xã hội xâm nhập vào thì tất
61
yếu sẽ dẫn đến chuyện vợ chồng lục đục, kinh tế gia đình trở nên khó khăn.
Từ đó, những mâu thuẫn, xích mích giữa vợ với chồng trong gia đình sẽ nảy
sinh và ngày càng trở nên gay gắt; đỉnh điểm của những hành vi này là tình
trạng bạo hành.
Cơ quan giám sát cho biết, theo báo cáo của Bộ Văn hoá, thể thao và du
lịch, số vụ bạo lực gia đình giảm dần qua các năm. Trong giai đoạn từ 2008
đến hết 2011, toàn quốc đã xảy ra 152.873 vụ bạo lực gia đình. Giai đoạn từ
2012 đến hết 2017 xảy ra 139.395 vụ bạo lực gia đình. Trong đó bạo lực về
thân thể 69.133 vụ, bạo lực về tinh thần 51.227 vụ, bạo lực về kinh tế 14.331
vụ, bạo lực tình dục 4.338 vụ. Bên cạnh đó, vẫn còn một số tỉnh, thành phố có
hiện tượng bạo lực, xâm hại trẻ em bởi người thân gia đình.
Theo số liệu tổng hợp của Cục cảnh sát hình sự, Bộ Công an trong
năm 2016 và 2017 có 28 tỉnh, thành phố có từ 30 đến 110 trẻ em bị xâm hại,
trong đó bị xâm hại bởi người thân trong gia đình (bố đẻ, bố dượng, anh, em
họ…) là 21,3%.
Kết quả giám sát cho thấy, nguyên nhân chủ yếu của bạo lực gia đình là
do bất bình đẳng giới vẫn tồn tại trong xã hội và mỗi gia đình. Nhận thức về
pháp luật của người dân còn hạn chế cùng với đó là tư tưởng gia trưởng. Cộng
đồng, chính quyền, đoàn thể thiếu quan tâm, coi bạo lực gia đình là chuyện
riêng tư, chỉ can thiệp khi gây ra hậu quả nghiêm trọng. Kinh tế khó khăn đi
kèm với tệ nạn xã hội (nghiện rượu, cờ bạc...) cũng được kể đến như một
nguyên nhân khác.
Về hạn chế, báo cáo giám sát nêu rõ số liệu thống kê về bạo lực gia
đình cũng như phòng chống bạo lực gia đình (các biện pháp bảo vệ hỗ trợ nạn
nạn nhân; số lượng cơ sở trợ giúp nạn nhân…) chưa đáng tin cậy, chưa phản
ánh đầy đủ thực trạng bạo lực gia đình nên không dự báo được tình hình và
khó đưa ra giải pháp hữu hiệu trong quá trình thực thi pháp luật.
62
Hạn chế thứ hai là còn có sự khác nhau giữa thống kê bạo lực gia đình
và số liệu thống kê các vụ việc xét xử của Tòa án nhân dân tối cao về vụ việc
hôn nhân gia đình có nguyên nhân từ bạo lực gia đình.
Cụ thể, theo báo cáo của Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch thì trong
giai đoạn 2008-2017, toàn quốc đã xảy ra 292.268 vụ. Tuy nhiên, theo báo
cáo của Tòa án nhân dân Tối cao, từ 1/7/2008 đến 30/9/2017, trong số
1.220.163 vụ ly hôn Tòa đã giải quyết thì có 1.050.687 vụ xuất phát từ nguyên
nhân bạo lực gia đình.
Không hiếm những vụ án đau thắt lòng được đăng tải trên các phương
tiện truyền thông mỗi ngày kể về những điều gây nhức nhối trong các gia đình
hiện nay. Chưa bao giờ những cảnh tượng chồng truy sát vợ, con giết cha mẹ,
rồi cha mẹ giết con, bạo hành con cái… xảy ra thường xuyên đến như vậy.
Tình trạng lộn xộn đó khiến an ninh trật tự của xã hội trở nên khó kiểm soát,
gây tâm lý bất an cho người dân.
Vụ án điển hình gần đây tại Thành phố Cà Mau: Đến lớp sau khi nghỉ
lễ 2-9, giáo viên đã phát hiện nhiều vết bầm trên người 4 em học sinh tiểu học
của trường, nghi bị bạo hành.Tối 3-9, lãnh đạo UBND TP Cà Mau (Cà Mau)
đã chỉ đạo công an thành phố điều tra làm rõ nghi vấn 4 học sinh tiểu học trên
địa bàn nghi bị người thân bạo hành. Cả 4 bé trên được gửi cho ông N.V.H.
(là ông nội các bé) chăm sóc do cha mẹ các bé lên Bình Dương để làm. Theo
lời khai ban đầu, các bé bị ông nội và chị ở chung nhà đánh từ ngày 31-8. Đến
sáng 3-9, các em vào lớp học thì sự việc được giáo viên phát hiện và trình
báo. Hiện, các bé bị ông nội đánh đang được điều trị và theo dõi tại Bệnh viện
Sản – Nhi Cà Mau.
Hay mới đây trên mạng truyền đi một đoạn clip ngắn người chồng đánh
đập vợ mình trước mặt con cái ở Bắc Cạn, gây phẫn nộ trong dư luận. Người
đàn ông xuất hiện trong đoạn video là Nguyễn Việt Lượng (sinh năm 1984 trú
63
tại Phùng Chí Kiên, Thành phố Bắc Cạn). Trao đổi với báo chí,ông này cho
rằng: “Gia đình nào chả có lúc xô xát”.
Cuối năm 2017, cơ quan cảnh sát điều tra Công an Bình Phước đã
nhanh chóng truy tìm thủ phạm giết người rồi đốt xác phi tang ở nghĩa trang
xã Phú Riềng gây bức xúc cho người dân tại địa phương. Cơ quan công an đã
mời đối tượng tình nghi Bùi Thanh Sang về làm việc. Sau hơn 5 tiếng dùng
các nghiệp vụ đấu tranh với tội phạm để xét hỏi, đối tượng Sang đã phải cúi
đầu khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.Theo lời khai ban đầu, nạn
nhân chính là bà Trần Thị Mai Hoa- vợ của đối tượng. Được biết, trong cuộc
sống, hai vợ chồng vẫn thường xuyên xảy ra lục đục do đối tượng Sang hay
uống rượu say rồi kiếm cớ đánh đập vợ, đỉnh điểm của mâu thuẫn chính là đối
tượng Sang ra tay giết hại chị Hoa.
Đó chỉ là những vụ án rất nhỏ trong vô số những sự việc kinh hoàng
được lôi ra ánh sáng. Điều đáng nói, tuy đây là vấn nạn đã xảy ra từ nhiều
năm nay nhưng có tới 1/3 số gia đình mỗi khi xảy ra vấn đề BLGĐ thường
không biết phải làm gì; khoảng 25 các gia đình cho rằng BLGĐ là việc
riêng của hàng xóm, không nên can dự vào vì sợ phiền hà, liên lụy.
Bên cạnh đó, ngay chính các nạn nhân là người trực tiếp phải chịu sự
đánh đập, bạo hành cũng không dám lên tiếng tố cáo. Họ cứ nhẫn nhịn chịu
đựng hết ngày này sang ngày khác, năm này qua năm khác cho đến lúc bị dồn
vào đường cùng mới yếu ớt tìm cách phản kháng thì đã xảy ra với những hậu
quả đáng tiếc.
Thực tế, nước ta đang có hàng chục Luật với các điều khoản, quy định
nhằm ngăn cấm, định tội cho hành vi BLGĐ như: Luật Phòng chống BLGĐ;
Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bình đẳng giới; Bộ luật Hình sự… Tuy nhiên,
để các Luật này đi được vào cuộc sống trong thực tế vẫn còn rất nhiều hạn chế.
Thêm vào đó, việc xử phạt các hành vi BLGĐ không nghiêm minh, đa số
64
thường được hòa giải chứ chưa được giải quyết nghiêm chỉnh và dứt điểm.
Trong thực tế, nếu chỉ hòa giải thì sẽ không bao giờ dập tắt được bạo lực.
3.1.2.4. Thực trạng lao động trẻ em hiện nay
Trên 1 triệu trẻ em phải bỏ học đi làm
Kết quả điều tra của Cục Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em, Bộ LĐ-TB&XH
cho thấy, cả nước hiện có trên 2,8 triệu trẻ em tham gia hoạt động kinh tế, chiếm
15.5 dân số trẻ em, trong đó có 42,6 là trẻ em gái và 57,4 là trẻ em trai.
Theo bà Vũ Thị Kim Hoa - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ và Chăm sóc
trẻ em thì trẻ em nông thôn tham gia hoạt động kinh tế không những chiếm tỷ
lệ cao trong tổng số trẻ em nông thôn, mà còn chiếm tỷ lệ lớn ở tổng số trẻ em
tham gia hoạt động kinh tế của cả nước. Trong tổng số 2,83 triệu trẻ em hoạt
động kinh tế thì có tới hơn 2,43 triệu trẻ em từ khu vực nông thôn, chiếm 85
tổng số trẻ em tham gia hoạt động kinh tế của cả nước. Các chuyên gia hoạt
động trong lĩnh vực xã hội cho rằng, tình trạng này có thể là do thu nhập
hộ gia đình ở khu vực nông thôn thấp hơn khu vực thành thị, trẻ em phải tham
gia các hoạt động kinh tế để phụ giúp nhằm nâng cao thu nhập cho gia đình;
hơn nữa kinh tế nông thôn chủ yếu là các hình thức kinh tế hộ gia đình, khu
vực kinh tế nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là hình thức và khu vực mà
trẻ em dễ dàng tham gia.
Đáng lo ngại nhất là trong số hơn 2,83 triệu em phải tham gia hoạt
động kinh tế, có khoảng 1,18 triệu em đã nghỉ học, chiếm 41,6% và có
khoảng 567 ngàn em, chiếm 2 chưa từng đi học. Tỷ lệ này cao hơn so với
mức 1,35 dân số trẻ em chưa từng đi học bình quân của cả nước.
Đặc biệt, có khoảng 933 ngàn trẻ em làm việc ở những nơi có nguy cơ
bị bóc lột và bị xâm hại, trong đó có 11,6 lao động phải dịch chuyển nơi
làm liên tục; gần 3,9 trẻ em làm việc tại các nhà máy/xưởng sản xuất; trên
2,3 làm việc tại nhà khách hàng, 1,47 làm việc tại các nhà hàng, quán,
65
bar, khách sạn; khoảng 2,45 trẻ em phải làm việc tại các phố/chợ. Các địa
điểm làm việc khó khăn như mỏ đá, công trường xây dựng, xưởng sản xuất,
hoặc môi trường nhạy cảm như cửa hàng, quán, bar, nhà hàng, khách sạn…
chủ yếu là trẻ em nhóm 15-17 tuổi.
3.1.2.5. Xâm hại tình dục ở trẻ em hiện nay
Một điều đáng bàn nữa là tình trạng xâm hại tình dục trẻ em ngày càng
gia tăng mà thủ phạm là những người sống gần gũi bên các em như: bố
dượng, hàng xóm, anh em, bạn bè… Nếu không có kiến thức giáo dục giới
tính, các em không biết tự bảo vệ cho bản thân tạo cơ hội cho những “con yêu
râu xanh” làm hại cuộc đời các em. Theo thống kê gần đây nhất của Hội kế
hoạch hoá Gia đình thì Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ nạo phá
thai cao nhất thế giới, trong đó 20 ở lứa tuổi vị thành niên. Đó là điều đáng
báo động cho toàn xã hội.
Sáng 3/6, trong khuôn khổ Kỳ họp thứ bảy (Quốc hội khóa XIV), bà
Triệu Thị Thu Phương (đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Kạn) cho rằng những
vụ bạo lực, xâm hại trẻ em liên tục xảy ra trong thời gian gần đây, gây bức
xúc lớn trong xã hội. Đặc biệt, mức độ các vụ việc ngày càng nghiêm trọng.
Số liệu thống kê của Thư viện Quốc hội cho thấy, trong hai năm (2017, 2018)
và quý 1 (năm 2019), trên cả nước xảy ra có hơn 3.500 trường hợp trẻ em bị
bạo lực, xâm hại được phát hiện; trong đó, số trẻ em bị xâm hại tình dục
chiếm khoảng 60 .
Đại biểu Triệu Thị Thu Phương nhấn mạnh, trẻ em bị xâm hại tình dục
bởi chính người thân trong gia đình chiếm tỷ lệ cao (với 21,3 ). Ngoài ra, có
gần 60 trẻ em bị xâm hại bởi hàng xóm, người quen. Bên cạnh đó, ước tính
có khoảng 68,4 trẻ (trong độ tuổi từ 1-14 tuổi) phải chịu ít nhất một hình
phạt về thể chất hoặc tâm lý bởi người thân trong gia đình...
Vụ việc anh Nguyễn Thanh Trung (SN 1993, TP Vinh Nghệ An) –
66
người bố tố cáo người tình cùng hai đối tượng xâm hại tình dục con gái 6 tuổi
đang có những tình tiết phát sinh mới khiến dư luận vô cùng bất ngờ. Nhất là
khi mới đây, Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An – Nguyễn Hữu Cầu đã công bố
một thông tin gây sốc dư luận khi chính Trung là đối tượng đã dựng lên câu
chuyện con gái bị xâm hại và không có chuyện cháu bé bị xâm hại tình dục.
Bản thân Trung đã thừa nhận trước cảnh sát là mình đã dựng lên sự
việc trên và động cơ bắt nguồn từ mâu thuẫn tình ái. Để con gái khai như
trong clip, Trung đã dọa tự tử nên cháu bé đã làm theo, sau đó Trung đưa clip
con gái mình lên mạng.
Trong đó, cháu T. con gái Trung là nạn nhân đáng thương nhất, việc bị
bố dựng chuyện nói dối bị xâm hại sẽ dẫn đến việc cháu bị tổn hại về mặt tinh
thần, danh dự và đó sẽ là sự ám ảnh trong tâm hồn ngây thơ của cháu bé cho
đến khi trưởng thành.
Bởi từ cuối tháng 6 đến nay, cùng với việc tố cáo con gái bị xâm hại,
Trung liên tục viết đơn cầu cứu, đưa cháu bé đến các bệnh viện khác nhau để
khám và đăng tải những hình ảnh, clip rõ mặt cháu, thậm chí cả hình ảnh cháu
bé gào khóc khi đi giám định. Những hình ảnh, clip, những tiếng kêu đau đớn
và lời kể của cháu bé đã ngay lập tức thu hút sự chú ý của dư luận, cộng đồng
mạng và báo chí. Từ đây, sự việc trở thành “điểm nóng” khi nhiều người chia
sẻ clip, hình ảnh của cháu bé, thậm chí có người còn cho biết, sẽ chia sẻ hình
ảnh vùng kín của cháu.
Đáng chú ý, việc cháu bé dù mới 6 tuổi nhưng đã bắt đầu có sự nhận
thức đã bị chính người bố của mình dùng thủ đoạn ép phải nói dối. Một đứa
trẻ trong độ tuổi thơ ngây đã bị cuốn vào vòng xoáy của những mâu thuẫn của
người lớn để rồi bản thân cháu bé phải chịu những tổn thương về mặt tâm lý
khi sự việc bị đẩy đi quá xa. Những hình ảnh về cháu bé tràn lan trên mạng sẽ
làm ảnh hưởng đến cháu bé cho đến khi trưởng thành, sự ám ảnh ấy cũng có
thể theo cháu bé đến suốt cuộc đời.
67
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả bảo vệ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em trong quan hệ hôn nhân gia đình
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định trong các văn bản pháp
luật về hôn nhân và gia đình
Để bảo vệ tốt hơn quyền của người phụ nữ và trẻ em trong mối quan hệ
hôn nhân gia đình thì Nhà nước cần rà soát lại các chính sách và hệ thống
pháp luật, đặc biệt là các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Hôn
nhân và gia đình để xóa bỏ những nội dung qua thực tế thi hành chưa đạt
được hiệu quả.
- Cần quy định rõ hành vi vi phạm quyền được yêu thương, chung thủy
và có chế tài xử lý cụ thể. Luật Hôn nhân và gia đình đã có quy định về việc
đảm bảo chế độ hôn nhân một vợ một chồng và các hành vi vi phạm chế độ
này như việc người chồng kết hôn với người khác, người chồng ngoại tình,
chung sống như vợ chồng với người phụ nữ khác. Tuy nhiên, trên thực tế xảy
ra tình trạng ngoại tình nhiều và dưới nhiều hình thức khác nhau pháp luật
không thể mô tả hết được. Vậy thì hành vi ngoại tình và hành vi “chung sống
như vợ chồng”có giống nhau không? Về hành vi thì không giống nhau nhưng
hậu quả là phá vỡ kết cấu hôn nhân gia đình, gây tổn thương cho người vợ thì
như nhau. Do vậy, việc áp dụng quy định về xử phạt vi phạm hành vi “chung
sống như vợ chồng” trên thực tế là khó khăn. Theo cá nhân tôi, để coi có vi
phạm nghĩa vụ chung thủy hay không chỉ cần xác định là người chồng có
hành vi kết hôn hoặc chung sống hoặc ngoại tình với người khác có thể là
công khai hoặc bí mật, có thể kéo dài hoặc trong thời gian ngắn miễn là hành
vi đó gây ra hậu quả về tinh thần và vật chất cho người vợ.
- Cụ thể hóa quy định về hành vi bạo lực gia đình làm căn cứ cho ly
hôn: cần bổ sung hướng dẫn áp dụng căn cứ ly hôn khi vợ hoặc chồng
có hành vi bạo lực gia đình, cụ thể như sau:
68
“Trong trường hợp chồng hoặc vợ có hành vi bạo lực gia đình thì vợ
hoặc chồng được Tòa án giải quyết cho ly hôn khi có căn cứ sau:
Đối với hành vi bạo lực vật chất: Vợ, chồng thường xuyên đánh đập,
ngược đãi, hành hạ làm cho người bị ngược đãi, hành hạ luôn bị giày vò về
mặt tình cảm, bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần hoặc bị thương tích,
tổn hại đến sức khỏe mà chưa đến mức xử lý về hình sự hoặc đã bị xử phạt vi
phạm hành chính.
Đối với bạo lực tinh thần: Vợ, chồng bị chửi bới, sỉ nhục, xâm phạm
danh dự, nhân phẩm và uy tín.
Hành vi bạo lực của vợ, chồng được lặp đi lặp lại nhiều lần, đã được
chính quyền địa phương nhắc nhở hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính
hoặc có văn bản của cơ quan điều tra có dấu hiệu tội phạm (tội ngược đãi vợ;
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội
bức tử) nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.
- Cần đảm bảo quyền bình đẳng của người phụ nữ bị hạn chế hoặc mất
năng lực hành vi dân sự trong việc chăm sóc con. Hiện trạng về việc bạo
hành trẻ em còn diễn ra phổ biến. Trong khi nhiều người mẹ - người yêu
thương con cái nhất lại đang phải chấp hành án phạt tù hoặc bị hạn chế
quyền thì khi con bị bạo hành bởi người cha, người thân khác trong gia đình
thì người đứng ra bảo vệ quyền lợi cho con là ai. Theo tôi, Luật Hôn nhân và
gia đình cần có những quy định mở rộng trong việc đảm bảo quyền của
người phụ nữ ngay cả khi họ bị hạn chế quyền hoặc bị mất năng lực hành vi
dân sự thì quyền được chăm sóc, bảo vệ con của họ vẫn được đảm bảo. Bằng
việc quy định những người thân khác trong gia đình có quyền được thay
người mẹ chăm sóc, giáo dục, giám sát người chồng có hành vi bạo lực đối
với người con để phát hiện kịp thời.
69
- Về bảo vệ quyền tự do ly hôn của người phụ nữ:
Trước hết trường hợp yêu cầu ly hôn xuất phát từ một bên theo quy
định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, pháp luật cần nêu rõ
cụ thể như thế nào là vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng
để đảm bảo quyền lợi cho người vợ.
Cần bổ sung xem xét các trường hợp người vợ bị tâm thần hoặc bị bệnh
mà không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình đồng thời người chồng
không có hành vi bạo lực người vợ nhưng có hành vi tẩu tán tài sản của vợ.
Pháp luật chưa quy định cụ thể để đảm bảo quyền lợi cho người vợ.
- Bảo vệ quyền lưu cư của người vợ khi ly hôn: pháp luật quy định
quyền lưu cư cho người vợ nhưng nếu người chồng không có nghĩa vụ cho
người vợ lưu cư thì rất khó thực hiện quy định này. Pháp luật chưa dự phòng
trường hợp thực tế nếu người vợ được quyền lưu cư lại trong nhà người chồng
nhưng người chồng lại có hành vi cản trở gây khó khăn như cắt điện, cắt nước
sinh hoạt… thì pháp luật cần bổ sung chế tài cụ thể bảo vệ người vợ trong
trường hợp này.
- Cần bổ sung chế định ly thân. Pháp luật Việt Nam hiện nay không
trực tiếp quy định về ly thân nhưng trên thực tế nhiều cặp vợ chồng đã lựa
chọn giải pháp ly thân để giải quyết mâu thuẫn. Tuy nhiên, những ảnh hưởng
về quyền và nghĩa vụ liên quan đến nhân thân và tài sản trong thời kì ly thân
còn chứa đựng những yếu tố bất cập nếu pháp luật chưa điều chỉnh rõ ràng.
Ly thân là một trong các dấu hiệu phản ánh tình trạng khủng hoảng trong hôn
nhân, theo cách hiểu thông thường thể hiện mối quan hệ vợ chồng bị rạn nứt,
một trong hai người, hoặc cả hai người không còn muốn sống chung với nhau
nữa mặc dù trên phương diện pháp lý họ vẫn đang là vợ chồng, đang trong
mối quan hệ hôn nhân. Ly thân có thể diễn ra trong những không gian hoàn
toàn riêng biệt như tách nhà, thuê nhà ra ở riêng hoặc vẫn chung sống dưới
70
một mái nhà theo kiểu sống chung nhưng ăn ngủ riêng, hoặc sống chung, ăn
chung nhưng ngủ riêng.... Vậy thì trong quá trình ly thân này, ai là người sẽ
chu cấp tiền sinh hoạt cho con, hoặc có sự trục lợi từ khối tài sản chung để
cầm cố thế chấp hoặc trong thời ly thân mà người chồng/vợ góp vốn làm ăn
với người thứ ba nhưng lợi nhuận thu được không nhằm mục đích phục vụ
nhu cầu đời sống chung của gia đình và sau đó thua lỗ, nợ nần, dẫn đến bên
còn lại bị buộc trách nhiệm cùng trả nợ vì giữa vợ chồng chưa có thỏa thuận
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân… Để giảm thiểu những bất cập
trong thực trạng ly thân, Chế định ly thân cần được ra đời và pháp luật ghi
nhận nhằm thực hiện ba mục đích chính đó là: giải quyết mâu thuẫn của vợ
chồng, tạo căn cứ pháp lý điều chỉnh về nhân thân, tài sản và con trong khi
hôn nhân của họ chưa chấm dứt và đảm bảo sự minh bạch, công khai trong
các giao dịch dân sự.
- Cần quy định thời hạn để tài sản riêng của vợ chồng sau một thời gian
được đưa vào sử dụng, quản lý chung sẽ trở thành tài sản chung của vợ chồng,
để đánh giá đúng thực trạng quan hệ tài sản của vợ chồng và đảm bảo quyền,
lợi ích của các thành viên trong gia đình. Theo đúng tinh thần của Bộ Luật
Dân sự năm 2015 tại Điều 236 quy định về việc xác lập quyền sở hữu theo
thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật:
Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản,
30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời
điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan
quy định khác.
- Liên quan đến chế độ tài sản do vợ chồng thỏa thuận, để những cặp
vợ chồng kết hôn trước ngày 01/1/2015 và những cặp vợ chồng đã đăng ký
kết hôn sau ngày 01/1/2015 nhưng chưa thỏa thuận chế độ tài sản được đảm
71
bảo quyền tự thỏa thuận, định đoạt về chế độ tài sản của vợ chồng thì pháp
luật cần quy định quyền thỏa thuận về chế độ tài sản giữa vợ và chồng không
phụ thuộc vào thời điểm trước kết hôn hay sau kết hôn.
- Cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và
đang chấp hành án phạt tù
Cần bổ sung quy định căn cứ ly hôn khi chồng hoặc vợ phạm tội và
đang chấp hành án phạt tù, cụ thể như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc
chồng của người đang chấp hành án phạt tù yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải
quyết cho ly hôn”.
Kiến nghị này xuất phát từ những lý do sau:
Một là, chúng ta nên học hỏi pháp luật nước ngoài trong việc quy định
trường hợp vợ hoặc chồng ly hôn với chồng hoặc vợ đang chấp hành án phạt
tù. Ví dụ, pháp luật Thái Lan quy định:
Vợ hoặc chồng đã bị Tòa án kết án có phán quyết cuối cùng và bị
tù hơn một năm vì phạm tội mà không có bất cứ sự tham gia,
đồng tình hoặc hay biết của người kia và sự chung sống như vợ
chồng gây cho người kia phải chịu đựng thiệt hại hoặc quấy
nhiễu quá đáng.
Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành nên kế thừa những quy
định của pháp luật trước đây về căn cứ ly hôn. Tại Sắc lệnh số 159/SL ngày
17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định: Một
trong những căn cứ ly hôn là trường hợp một bên vợ hoặc chồng can án phạt
giam [4]. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng thực hiện quyền
được ly hôn khi một bên vợ, chồng có đạo đức không tốt, vi phạm pháp luật.
Quy định này cũng có ý nghĩa răn đe những người là vợ, chồng chuẩn bị
phạm tội phải suy nghĩ, đắn đo khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và
hậu quả của nó đối với chính mình.
72
Hai là, gia đình có các chức năng cơ bản: Chức năng kinh tế, giáo dục,
duy trì nòi giống và thỏa mãn nhu cầu sinh lý, tình cảm. Khi một người đang
chấp hành án phạt tù thì không thực hiện được nghĩa vụ giữa vợ chồng. Vì
vậy, họ không thể duy trì hạnh phúc gia đình, không có trách nhiệm với gia
đình, không cùng nhau xây dựng mục đích của hôn nhân cũng như trong việc
chung tay nuôi dưỡng con cái. Việc duy trì hôn nhân chỉ là hình thức bên
ngoài. Mặt khác, người đang chấp hành án phạt tù thì không thể chăm lo được
về đời sống vật chất cũng như tinh thần cho gia đình, người phạm tội có thể là
người mất tư cách, có đạo đức xấu ảnh hưởng đến việc giáo dục con cái.
- Bổ sung mức cấp dưỡng cụ thể cho con sau khi ly hôn: Theo Điều
115 Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi năm 2014 quy định: Khi ly hôn, nếu
bên trực tiếp nuôi con khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do
chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Thực
tế cho thấy, khi cha mẹ ly hôn hầu hết con còn ở tuổi rất nhỏ có trường hợp
14, 15 năm sau mới đủ 18 tuổi. Mức cấp dưỡng không thay đổi trong khi thị
trường giá cả biến động đã và đang trở thành gánh nặng cho những người trực
tiếp nuôi dưỡng con sau khi ly hôn. Tuy nhiên, nếu chiếu theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình thì điều này rất khó đi vào thực tiễn. Bởi, trong các
trường hợp ly hôn, mỗi người có mức thu nhập, điều kiện cụ thể và hoàn cảnh
sống khác nhau. Để đảm bảo nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống cho những
người con có cha mẹ ly hôn được phát triển lành mạnh về thể chất và tinh
thần thì pháp luật cần quy định cụ thể hơn về mức cấp dưỡng.
- Cần bổ sung quy định việc bắt con trong độ tuổi vị thành niên đi làm
và không cho đi học là hành vi bạo lực gia đình theo quy định của pháp luật
cũng như về mặt đạo đức. Tình trạng này rất phổ biến ở những khu vực nông
thôn, tại đó không thiếu trẻ vị thành niên bị ép buộc đi làm thay vì đi học.
73
Thứ hai: đẩy mạnh công tác tuyên truyền
Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình mang tính khép kín, với các
thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc trong gia đình thì
người ngoài ít có cơ hội xen vào. Các quy định pháp luật khó vươn tới từng
gia đình, bởi nhận thức của người dân về vấn đề này còn hạn chế, sự can thiệp
bằng quy định, chế tài của pháp luật có thể dẫn tới phá hoại các mối quan hệ
các thành viên gia đình. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo
vệ phụ nữ, trẻ em là rất quan trọng, góp phần định hướng hành vi của mỗi
người. Việc thường xuyên tổ chức các buổi tuyên truyền văn hóa, thực hiện
hoạt động tư vấn tại cơ sở, tổ chức câu lạc bộ hay trung tâm tư vấn về hôn
nhân gia đình… sẽ có tác động trong việc thay đổi nhận thức, hành vi trong
ứng xử về gia đình đồng thời cung cấp các thông tin, kiến thức cần thiết để
phụ nữ và trẻ em có thể tự bảo vệ quyền, lợi ích cũng như trong việc chống lại
các hành vi xâm hại. Việc tuyên truyền, phổ biến cần phải có kế hoạch,
chương trình cụ thể, trong đó chú trọng đến việc lồng ghép nội dung truyền
thông vào trong sinh hoạt của thôn, ấp, tổ dân phố; trong sinh hoạt ngoại khóa
của các cấp học và sinh hoạt chuyên đề của các tổ chức, đoàn thể các cấp...
Để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
cho nhân dân cần phải:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chương trình, đề án mà Chính phủ đề ra về
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân;
Thứ hai, lựa chọn những nội dung giáo dục pháp luật sao cho phù hợp
với từng đối tượng, từng địa phương, khu vực khác nhau trong cả nước;
Thứ ba, cần xây dựng được đội ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên có
đầy đủ phẩm chất đạo đức, tiêu chuẩn theo quy định của Bộ tư pháp;
Thứ tư, đẩy mạnh công tác phối kết hợp giữa các Bộ, ban, ngành, đoàn
thể, chính quyền địa phương từ trung ương cho tới địa phương.
74
Thứ năm: Tăng cường, đa dạng các hình thức giáo dục, phổ biến, tuyên
truyền pháp luật cho nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng:
Trong xã hội hiện đại, có rất nhiều cách để người dân có thể tiếp cận
được với các thông tin về pháp luật, nhưng có lẽ phương tiện thông tin đại
chúng là một giải pháp hữu hiệu nhất.
Phát thanh, truyền hình ngày nay được phổ biến rộng rãi ở khắp nơi
trên cả nước, kể cả khu vực vùng sâu vùng xa, rừng núi, hải đảo. Do đó, phát
thanh, truyền hình có thể nói là một hình thức phù hợp với mọi đối tượng,
tầng lớp nhân dân.
Qua các phương tiện thông tin đại chúng, mọi người dân sẽ được cung
cấp thông tin mới nhất về hoạt động xây dựng, ban hành, chấp hành pháp luật
trên cả nước nói chung và ở tại địa phương nơi mình sinh sống nói riêng.
Phương tiện thông tin đại chúng còn giúp người dân có thể hiểu một cách sâu
rộng những vấn đề pháp luật, những đạo luật của các ngành luật cụ thể, đồng
thời nó còn giúp nâng cao ý thức pháp luật của người dân.
Thứ ba, phát huy vai trò tích cực của các tổ chức cơ sở: Hội Liên
hiệp phụ nữ, Hội bảo vệ quyền trẻ em,…
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cho phép một số cơ
quan, tổ chức như: Hội Liên hiệp phụ nữ, Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ
em, Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình,… được quyền thay mặt cho phụ
nữ, trẻ em thực hiện các quyền như: quyền ly hôn, hạn chế quyền của cha mẹ
đối với con chưa thành niên,… trong trường hợp người phụ nữ, trẻ em bị xâm
hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại mà không thể tự thực hiện quyền mà pháp luật
đã quy định cho. Do đó, bên cạnh việc thực hiện tốt công tác tuyên truyền,
phổ biến kiến thức cho phụ nữ và trẻ em thì các cơ quan, tổ chức bảo vệ phụ
nữ, trẻ em cũng cần phải chủ động trong việc thực hiện các quyền mà pháp
luật quy định để có thể góp phần vào việc hạn chế, xóa bỏ các hành vi có thể
xâm hại đến phụ nữ và trẻ em.
75
Kiện toàn từ trung ương đến địa phương hệ thống tổ chức, đội ngũ cán
bộ tư pháp, cán bộ làm công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ bà mẹ
trẻ em,... bố trí phù hợp cán bộ chuyên trách, đảm bảo môi trường làm việc cho
cán bộ. Đảm bảo mỗi cụm dân cư đều có cán bộ chuyên trách nhằm đưa công
tác, giáo dục tuyên truyền vận động về bình đẳng giới đến từng hộ gia đình
- Đảm bảo kinh phí cho hoạt động bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em tại địa phương
Một trong những nguyên nhân khiến pháp luật không thể đi sâu vào
cuộc sống chính là kinh phí dành cho việc thực hiện hoạt động này còn hạn
chế. Để có nguồn kinh phí phục vụ cho công tác đảm bảo quyền và lợi ích của
phụ nữ, trẻ em trong xã hội thì Nhà nước ta cần:
+ Xây dựng kế hoạch kinh phí hàng năm, trong đó có kinh phí riêng
phục vụ cho công tác đảm bảo đáp ứng kịp thời kinh phí, công cụ, tài liệu, cơ
sở vật chất,… phục vụ cho các hoạt động này;
+ Vận động nguồn lực phục vụ cho các hoạt động tuyên truyền, giáo
dục… diễn ra được thường xuyên liên tục bằng việc phối hợp với các tổ chức
phi chính phủ, các doanh nghiệp trong và ngoài nước,…
Có thể nói về mặt văn bản pháp luật và các thiết chế bảo vệ trẻ em
chúng ta đã có đủ, nhưng thực tế cho thấy tội phạm xâm hại trẻ em chưa được
ngăn chặn hiệu quả, điều đó buộc mỗi gia đình, mỗi nhà trường, mỗi cơ quan,
tổ chức và các cấp chính quyền phải đặt vấn đề này thành một mối quan tâm
thường xuyên, liên tục với những phương thức, biện pháp phù hợp hơn.
Một trong những điều căn cốt nhất cần phải thay đổi, đó là nhận thức.
Nhận thức đúng đắn thì mới có hành vi đúng đắn. Đó là nguy cơ có thể đe dọa
sự an toàn của trẻ có thể xảy ra ở bất kỳ thời điểm nào, môi trường nào, quan
hệ nào nên trẻ cần được quan tâm, bảo vệ mọi nơi, mọi lúc. Chỉ một vài phút
lơ là, chủ quan là sự xâm hại đã có thể xảy ra.
76
Mặc dù qua báo chí, truyền thông, thực trạng xâm hại trẻ em đã được
phản ánh đậm nét, nhưng nhiều phụ huynh, nhiều thầy cô giáo, nhiều thiết chế
bảo vệ chăm sóc trẻ em vẫn chủ quan... Điều đáng nói hơn nhiều phụ huynh
hoàn toàn không được trang bị kỹ năng chăm sóc, bảo vệ, giám sát con một
cách phù hợp. Thực trạng đó phải thay đổi.
Một vấn đề khác là hướng dẫn trẻ kỹ năng tự bảo vệ. Kỹ năng này ở
nhiều nước phát triển, trẻ em được hướng dẫn từ tuổi mẫu giáo, còn ở nước ta,
do quan niệm có tính truyền thống nên ít nhắc đến những nguy cơ xâm hại
nên trẻ bị hạn chế về kỹ năng tự bảo vệ.
77
KẾT LUẬN
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 ra đời đã góp phần
hoàn thiện chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện chuẩn
mực pháp lý theo hướng nhân văn hơn, cải cách ứng xử giữa các thành viên
trong quan hệ hôn nhân, nâng cao nhận thức, cách tiếp cận mới về tôn trọng,
thực hiện, bảo vệ quyền con người, quyền công dân… Đặc biệt là quyền và
lợi ích của bà mẹ và trẻ em. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng này, ngay sau
khi Luật được ban hành, Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan ngang bộ, các ban,
ngành, địa phương đã tích cực, triển khai đồng bộ, toàn diện các hoạt động thi
hành Luật cả về thể chế, thực hiện quản lý nhà nước… Về cơ bản, những quy
định pháp luật về nhân thân, về tài sản,… đều thể hiện được nguyên tắc bảo
vệ bà mẹ và trẻ em tương đối đầy đủ.
Tuy nhiên, một số nội dung của Luật vẫn còn thiếu tính khả thi như
trong áp dụng tập quán, trong hoàn thiện cơ chế đồng bộ, thống nhất, minh
bạch trong đăng ký tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng và giao dịch liên
quan… Một số quy định có tính tiến bộ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội nhưng do còn chịu ảnh hưởng bởi yếu tố tập quán, văn hóa truyền
thống nên còn có nhận thức khác nhau trong triển khai thi hành như mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo, chế độ tài sản theo thỏa thuận, thanh toán tài sản
dựa trên cơ sở lỗi khi ly hôn... Trong tầm hiểu biết còn giới hạn, tác giả đã cố
gắng nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện các quy định của pháp luật hôn
nhân và gia đình liên quan, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
hôn nhân và gia đình liên quan đến nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, đồng
thời đưa ra một số giải pháp đảm bảo cho nguyên tắc này được áp dụng một
cách có hiệu quả trên thực tế.
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Hồng Bắc (2004), “Bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”, Tạp chí luật học, đặc san về phụ nữ.
2.
Bộ tư pháp – Viện khoa học pháp lý (2004), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, Nxb Chính trị quốc gia.
3.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1998), Về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4.
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950.
5.
Phạm Thị Chuyên (2015), Bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6.
Hoàng Thị Thùy Dung (2014), Các quyền cơ bản của trẻ em theo pháp luật Việt Nam hiện hành, Luật văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
7.
Đại học quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội
8.
Bùi Minh Giang (2013), Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ sau khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
9.
Nguyễn Thị Giang (2013), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Học viện CTQG Hồ Chí Minh (1993), Tập bài giảng lý luận về quyền
con người, Nxb Sự thật, Hà Nội.
79
11. Chu Mạnh Hùng (2003), “Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989
– cơ sở để bảo vệ quyền trẻ em”, Tạp chí luật học, tháng 3 năm 2003.
12. Hoàng Thị Khánh Linh (2015), Bảo vệ quyền lợi của phụ nữ theo Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Quốc hội (1959), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
14. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
15. Quốc hội (1999), Bộ Luật Hình sự, Hà Nội.
16. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
17. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
18. Quốc hội (2006), Luật bình đẳng giới, Hà Nội.
19. Quốc hội (2007), Luật phòng chống bạo lực gia đình, Hà Nội.
20. Quốc hội (2008), Luật quốc tịch, Hà Nội.
21. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
22. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Quyền (2014), Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con
theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
24. Doãn Thanh Thủy (2015), Bảo vệ quyền lợi của người vợ khi ly hôn-
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học – Trường
Đại học Luật Hà Nội.
25. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam, Nxb Công an nhân dân.
26. Viện khoa học pháp lý – Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ
điển Bách khoa – Nxb Tư pháp, Hà Nội.
80
27. Viện Khoa học chính trị - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và UB Bảo vệ & chăm sóc trẻ em Việt Nam (1999), Trẻ em trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và nhà nước ta, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội.
28. Viện thông tin khoa học xã hội – trung tâm nghiên cứu quyền con người (1995), Quyền con người trong thế giới hiện đại, Nhà in Viện thông tin khoa học xã hội.
* Tài liệu Website
29.
http://web.hcmulaw.edu.vn/doantruong/index.php/ho-tro-sinh- vien/khac/61-sv-khpl-s-c-n-thi-t-lu-t-hoa-ch-d-nh-ly-than-trong-phap- lu-t-hon-nhan-gia-dinh-vi-t-nam.
30.
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao- doi.aspx?ItemID=2344.
31.
https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/hoan-thien-phap-luat-ve- can-cu-ly-hon-trong-luat-hon-nhan-va-gia-dinh-nam-2014.
32.
http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676686/27677461?p _page_id=27677461&pers_id=28346379&folder_id=&item_id=12908 5908&p_details=1.
81