BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Kim Chung

NHÂN VẬT PHÒ TRỢ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở GIA LAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Kim Chung

NHÂN VẬT PHÒ TRỢ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở GIA LAI

Chuyên ngành Mã số : Văn học Việt Nam : 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ QUỐC HÙNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

2

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này hoàn thành với sự nỗ lực của bản thân.

Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:

TS. Hồ Quốc Hùng – người đã hướng dẫn tôi rất tận tình.

Phòng Sau Đại học, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn cùng Ban quản lý Thư viện

trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện tổng hợp Thành phố Hồ

Chí Minh, Thư viện tỉnh Gia Lai – các thầy cô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn

thành luận văn Thạc sĩ.

Trong thời gian hoàn thành luận văn này, tôi nhận được nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ của

gia đình, bạn bè.

.

Học viên

Trần Thị Kim Chung

3

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 7

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ............. 11

1.1. Cơ cấu tộc người ........................................................................................... 11

1.2. Tình hình tư liệu ............................................................................................ 16

1.2.1. Tư liệu đã được công bố ........................................................................ 17

1.2.2. Tư liệu điền dã ......................................................................................... 17

1.2.3. Nhận xét chung ....................................................................................... 18

1.3. Những vấn đề lí thuyết của Propp được vận dụng trong đề tài ............... 21

1.4. Những vần đề về típ và mô típ liên quan đến đề tài .................................. 24

Tiểu kết chương 1: .................................................................................................. 26

Chương 2. CÁC KIỂU NHÂN VẬT PHÒ TRỢ TRONG TRUYỆN CỔ

TÍCH CỦA TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở GIA LAI ......................................... 27

2.1. Các tiêu chí phân loại nhân vật phò trợ ...................................................... 28

2.2. Phân loại nhân vật phò trợ ........................................................................... 32

2.2.1. Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng giải quyết những nhiệm vụ khó

khăn ..................................................................................................................... 32

2.2.2. Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng phò trợ về việc thay đổi về không

gian ...................................................................................................................... 39

2.3. So sánh nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia

Lai và truyện cổ tích người Việt.............................................................................. 46

2.3.1. Sự tương đồng ......................................................................................... 47

2.3.2. Sự khác biệt ............................................................................................. 47

Tiểu kết chương 2: .................................................................................................. 53

Chương 3. MỘT SỐ MÔ TÍP LIÊN QUAN ĐẾN NHÂN VẬT PHÒ TRỢ

TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở GIA LAI54

3.1. Mô típ uống rượu và hút thuốc của nhân vật phò trợ................................ 55

3.2. Mô típ hóa thân của nhân vật phò trợ ......................................................... 57

3.3. Mô típ vật thiêng của nhân vật phò trợ ....................................................... 59

3.4. Mô típ đánh nhau của nhân vật phò trợ ...................................................... 61

4

3.5. Mô típ kết hôn của nhân vật phò trợ ........................................................... 63

Tiểu kết chương 3: .................................................................................................. 67

PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 68

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 70

PHỤ LỤC

5

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là Trời, Thần, Tiên ............ 36

Bảng 2.2. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là đồ vật ............................. 40

Bảng 2.3. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là con vật ........................... 43

6

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Văn học dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng là nơi lưu giữ những mối

quan hệ văn hóa các dân tộc, lịch sử hình thành và phát triển của các dân tộc đó.

Nằm trong mối quan hệ với các nước Đông Nam Á,Việt Nam được xem là quốc gia

có nền văn hóa đa các dân tộc với kho tàng văn học dân gian khá phong phú. Các

dân tộc thiểu số ở Gia Lai là một bộ phận trong cộng đồng cư dân Tây Trường Sơn.

Qua các biểu hiện văn hóa, trong đó có văn học dân gian của nhóm các dân tộc này

có thể thấy được chân dung đời sống tinh thần của khối cộng đồng đó. Thực tế cho

thấy, nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến các lĩnh vực này. Riêng đối với thể loại

cổ tích rất quen thuộc của giới nghiên cứu Folklore, chúng tôi muốn khảo sát sâu một

khía cạnh nhỏ. Đó là khía cạnh về nhân vật phò trợ.

Để giúp cho nhân vật chính được hoàn thiện, truyện cổ tích các dân tộc Gia Lai

bao giờ cũng xuất hiện nhân vật phò trợ. Đây là nét đặc thù trong cấu tạo truyện cổ

nói chung của nhân loại.

Vì vậy, nghiên cứu nhân vật phò trợ (hay còn gọi là nhân vật trợ thủ) là một vấn

đề cần được quan tâm. Từ nhân vật phò trợ, chúng ta có thể mở rộng nghiên cứu các

mô típ liên quan tới nhân vật này, cấu tạo cốt truyện, kiểu truyện…Đồng thời so sánh

các nhân vật trợ thủ, cấu tạo truyện…giữa các vùng miền trong một đất nước để từ đó

tìm ra những nét tương đồng, dị biệt.

Với tất cả những lí do trên nên chúng tôi quyết định lựa chọn lựa đề tài: Nhân

vật phò trợ trong truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Chúng tôi

hi vọng góp một phần công sức nhỏ vào quá trình nghiên cứu văn học dân gian ở

một vùng đất đỏ ba dan đầy nắng gió.

2. Mục đích nghiên cứu và phạm vi đề tài

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đặt ra những mục tiêu nghiên cứu sau:

Thứ nhất: Khảo sát sự xuất hiện của nhân vật phò trợ được phân bố truyện cổ

tích của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.

Thứ hai: Thông qua việc khảo sát nhân vật phò trợ trong truyện cổ của các dân

tộc thiểu số ở vùng này, chúng tôi muốn tìm hiểu cách tổ chức, cấu tạo của thể loại

7

truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.

Thứ ba: Thử so sánh nhân vật phò trợ của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai và dân

tộc Việt.

Đề tài được giới hạn trong phạm vi truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai

trong đó chỉ xin trình bày truyện cổ của hai các dân tộc là Jơ rai và Ba na. Vì đây là

hai cộng đồng lớn nhất và lâu đời ở khu vực này. Việc chọn hai dân tộc này theo

chúng tôi là phù hợp về mặt khoa học.

3. Lịch sử vấn đề

Những công trình chuyên viết về nhân vật phò trợ của truyện cổ tích các dân tộc

ít người ở Gia Lai hiện nay chúng tôi chưa tìm thấy. Tuy nhiên một số công trình ở

nhiều mức độ khác nhau có liên quan đến đề tài, xin dẫn ra đây:

Trần Đức Ngôn: Nghiên cứu kết cấu truyện cổ tích thần kì Việt theo lí

thuyết hình thái học của Vladimia Iacoplevich Prop, tiểu luận cấp I, bản đánh

máy tại Thư viện Viện nghiên cứu văn hóa, Hà Nội.

Tăng Thị Kim Ngân với luận văn: Khảo sát những đặc điểm trong cấu tạo

truyện cổ tích thần kì dân tộc Việt Nam (dưới ánh sáng lí thuyết của Propp về

hình thái học).

Với hai tài liệu này, chúng tôi thấy được những đặc điểm cấu tạo của truyện cổ

tích người Việt dựa trên lí thuyết của Propp.

Trong luận án tiến sĩ văn hóa học: Yếu tố thần kì trong truyền thuyết và

truyện cổ tích người Việt ở Nam Trung Bộ, tác giả Nguyễn Định trình bày khá

công phu về yếu tố thần kì trong truyện cổ và truyền thuyết ở Nam Trung Bộ dựa trên

lí thuyết hình thái học của Propp. Toàn bộ luận văn được chia làm ba chương.

Chương thứ nhất tác giả trình bày về các khái niệm yếu tố thần kì, khái quát về tiểu

vùng văn hóa, quá trình nghiên cứu văn hóa dân gian người Việt ở Nam Trung Bộ.

Đây là chương cơ sở để làm nền tảng cho các chương sau. Chương thứ hai, chương

thứ ba, tác giả trình bày về yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì, truyền thuyết

của người Việt ở Nam Trung Bộ. Trong chương này, tác giả trình bày khá công phu,

tác giả có cố gắng lựa chọn các tác phẩm truyện cổ, truyền thuyết ở Nam Trung Bộ,

sắp xếp, phân loại, so sánh với yếu tố thần kì ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Những thao tác

8

dựa vào lí thuyết Propp tác giả đã chỉ ra vai trò, chức năng của nhân vật phò trợ. Tiếc

rằng những khảo sát này chú trọng khảo sát ở truyện cổ người Việt ở Nam Trung Bộ

nên chúng tôi chỉ tham khảo các thao tác khoa học.

Phan Ánh Nguyễn với luận văn thạc sĩ : Motif hôn nhân giữa người và thần

linh trong truyền thuyết và cổ tích Việt Nam có đề cập tới chức năng của thần linh

với vai trò phò trợ. Ở đây tác giả cũng khẳng định rằng thần linh xuất hiện trong cuộc

sống của con người và có một vai trò nhất định đối với xã hội loài người. Ở đây, dưới

nhiều hình thức khác nhau, thần linh luôn là lực lượng giúp đỡ cho con người để đời

sống của loài người tốt hơn.

Như vậy trên thực tế các công trình chuyên khảo về nhân vật phò trợ của các

dân tộc thiểu sốở Gia Lai hầu như chưa thấy.

Dẫn những công trình trên, chúng tôi muốn thử vận dụng một số thao tác để tiến

hành phân loại, mô tả các chức năng, các mô típ liên quan để tìm hiểu cấu tạo nhân

vật phò trợ trong truyện cổ các dân tộc thiểu sốở Gia Lai.

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thống kê: Được sử dụng để thống kê số lượng truyện cổ tích các

dân tộc thiểu số ở Gia Lai có sự xuất hiện của nhân vật phò trợ. Đồng thời khảo sát

tần số xuất hiện của nhân vật phò trợ thông qua ba bảng thống kê.

Phương pháp nghiên cứu văn học dân gian theo vùng văn hóa: Quá trình

sinh sống, môi trường sống tác động không nhỏ tới văn hóa của các dân tộc này.

Nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu sốcho chúng ta thấy nét đặc trưng riêng của các

dân tộc thiểu số tác động vào quá trình xây dựng, tổ chức các kiểu nhân vật và kiểu

truyện.

Phương pháp so sánh: Thông qua hình ảnh nhân vật phò trợ, phương pháp này

được sử dụng để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt giữa truyện cổ của người

Việt và truyện cổ của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai.

Phương pháp điền dã: Thông qua cuộc điền dã, chúng tôi sẽ bổ sung thêm

những câu chuyện liên quan tới đề tài. Việc sưu tầm này bước đầu cho chúng tôi một

cái nhìn thực tế, toàn diện hơn về nhân vật phò trợ.

9

Phương pháp cấu trúc: Được sử dụng để nghiên cứu chức năng nhân vật theo

phương pháp nghiên cứu của Propp.

5. Đóng góp của luận văn

Từ những cố gắng nhất định, tác giả luận văn mong muốn góp phần nhỏ trong

việc giải quyết được các nội dung sau:

Thứ nhất: Thống kê, phân loại, mô tả kiểu nhân vật phò trợ trong truyện cổ

người Ba na, Jơ rai.

Thứ hai: Từ hệ thống nhân vật này qua thao tác có thể thấy tính ưu việt của một

số lí thuyết được vận dụng vào nghiên cứu truyện cổ các dân tộc ít người ở Tây

Nguyên. Trong đó lí thuyết Hình thái học được chúng tôi quan tâm chú ý. Khi miêu

tả nhân vật phò trợ, chúng tôi đã chú ý xác định được một số chức năng của nhân vật

phò trợ theo cách xác định chức năng nhân vật trong truyện cổ tích của Propp.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận luận, văn được chia làm ba chương chính.

Chương thứ nhất có tên là Những vấn đề chung liên quan đến đề tài. Trong

phần này, chúng tôi trình bày các vấn đề đó là cơ cấu các dân tộc, phân bố các dân

tộc, tình hình tư liệu và những vấn đề vận dụng lí thuyết Propp trong khảo cứu.

Chương thứ hai có tên là Các kiểu nhân vật phò trợ trong truyện cổ của các

dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Trong đó chúng tôi tập trung phân loại và mô tả ba kiểu

nhân vật phò trợ đồng thời nêu bật hình thức phò trợ của nhân vật này. Qua đó so

sánh với nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích người Việt để thấy sự khác biệt giữa

kiểu nhân vật phò trợ này trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số với người Việt.

Chương thứ ba có tên là Một số mô típ liên quan đến nhân vật phò trợ

trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Trong chương này chúng tôi

khảo sát các mô típ thường xuất hiện trong các kiểu truyện như sau: Mô típ uống

rượu và hút thuốc của nhân vật phò trợ, mô típ tái sinh của nhân vật phò trợ,

mô típ vật thiêng của nhân vật phò trợ, mô típ đánh nhau của nhân vật phò trợ,

mô típ kết hôn của nhân vật phò trợ .

Phần cuối cùng của luận văn, chúng tôi rút ra những kết luận bước đầu trong

việc khảo cứu nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích các dân tộc thiểu sốở Gia Lai.

10

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Trong mục này, chúng tôi tập trung mô tả, phân tích những cơ sở về các dân tộc

trong quá trình phát triển của lịch sử, xã hội có liên quan đến nhân vật phò trợ để tạo

tiền đề cho việc triển khai hai chương sau. Chúng tôi đi sâu, làm rõ ba vấn đề sau:

Một là, cơ cấu các dân tộc thiểu số ở Gia Lai và tập tục, đặc trưng văn hóa liên

quan đến nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích ở Gia Lai.

Hai là, tình hình tư liệu có ảnh hưởng quyết định tới việc khảo sát nhân vật phò

trợ. Việc đặt ra những tiêu chí và lựa chọn những tiêu chí là nhiệm vụ quan trọng

trong việc xử lí tài liệu. Ngoài ra, qua quá trình điền dã, chúng tôi đã sưu tầm được 4

câu chuyện liên quan đến đề tài. Nội dung các câu chuyện được chúng tôi trình bày

trong phần phụ lục của luận văn.

Ba là, vận dụng cách phân chia nhân vật theo chức năng của Propp, chúng tôi

nhận thấy có nhiều điểm khác biệt về chức năng của nhân vật phò trợ trong truyện cổ

của thế giới và truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.

1.1. Cơ cấu tộc người

Tình hình cơ cấu và phân bố các dân tộc chính là cơ sở quan trọng để hình

thành nên các văn bản truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở nơi đây. Từ sự phân bố

khác nhau của các dân tộc thiểu sốđã tạo nên sự khác biệt trong lối sống của họ.

Thậm chí ngay trong từng bộ phận của cùng một các dân tộc cũng ảnh hưởng tới

nhận thức, văn hóa ứng xử của họ. Điều này được lí giải một phần nào khi nghiên

cứu văn bản truyện cổ của các dân tộc ở vùng đất Gia Lai.

Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía bắc Tây Nguyên với hai dân tộc chính

là Jơ rai và Ba na, chiếm gần 1/2 dân số toàn tỉnh với khoảng 600.000 người. Các di

sản văn hóa dân tộc ở Gia Lai đã được các cấp chính quyền địa phương và ngành

chức năng gìn giữ và phát huy giá trị, đặc biệt là không gian văn hóa cồng chiêng Tây

nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân

loại. Theo điều tra dân số (01/04/2009) bao gồm nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh

sống. Trong đó, người Kinh chiếm 52% dân số. Còn lại là các dân tộc Jơ rai (33,5%),

Ba na(13,7%). Các nhóm các dân tộc khác như Giẻ triêng, Xơ đăng, Cơ ho, Thái,

Mường,… chiếm tỉ lệ nhỏ và có bộ phận mới đến tụ cư vài thập niên gần đây.

11

Nhìn chung kho tàng văn học dân gian có giá trị lớn hầu như tập trung ở hai các

dân tộc là Jơ rai và Ba na.

Tìm hiểu cơ cấu các dân tộc cho phép chúng ta nhìn nhận một cách toàn diện

hơn về văn hóa của các dân tộc thiểu số này trong bối cảnh phát triển của xã hội.

Đồng thời đây còn được xem là cơ sở chắc chắn để khẳng định mối quan hệ giữa văn

hóa các dân tộc và truyện cổ tích của họ trong đó có liên quan đến nhân vật phò trợ.

 Về các dân tộc Jơ rai:

Theo các tư liệu để lại, người Jơ rai hay còn gọi là: Jarai, Djarai, Giơ Rai, Chơ

Rai, Tơ Buăn, Hơbau, Hdrung, Chor hay Gia Lai. Các dân tộc Jơ rai là một dân tộc

nói tiếng Jơ rai thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo. Dân số của dân tộc này tại Việt Nam

khoảng 317.557 người năm 1999 và 411.275 người năm 2009. Người Jơ Rai là một

nhánh lớn của các dân tộc Orang Đê cổ hay còn gọi là người Ê đê cổ. Trong lịch sử

điều này được ghi chép khá nhiều trong các bia ký Chăm Pa. Sự tấn công của đế quốc

Mông Cổ, sau này là Nam Tiến của người Việt đã đẩy bộ phận người Chăm Pa lên

vùng bình nguyên Cheo Reo hòa hợp với người Ê đê cổ tạo ra nhóm các dân tộc, tự

gọi là Anak Jarai tức con cái của Jơ rai. Trong văn hóa và tính cách của người Jơ Rai

có nhiều yếu tố Chăm Pa trung đại so với người Ê đê chịu ảnh hưởng đứt gãy của yếu

tố Lâm Ấp Chăm Pa cổ đại. Vậy có chăng trong mối quan hệ ấy, truyện dân gian của

Ê đê và Jơ rai có ảnh hưởng ít nhiều đến nhau? Vấn đề này sẽ còn được nghiên cứu

rất nhiều tuy nhiên trong phạm vi cho phép của luận văn, chúng tôi xin tạm dừng bàn

luận vấn đề ở đây.

Theo sự tìm hiểu của cá nhân trong khắp toàn vùng Gia Lai thì người Jơ rai có

tất cả năm nhóm: Jơ rai cheo reo (Jơ rai chor hay Jơ rai phun); Jơ rai Hđrung; Jơ rai

Aráp, Jơ rai M’thur và Jơ rai Tpuan (hay Puôn).

Nhóm Jơ rai chor (Cheo reo hay phun) sống chủ yếu ở thung lũng sông Ayun Pa

(thuộc Ayun Pa – Gia lai) và một ít ở huyện Krông Pa (Gia Lai). Theo tiếng Jơ rai,

chor nghĩa là cát trắng của vùng thung lũng lòng chảo; Phun có nghĩa là gốc; còn

Cheo Reo là tên của hai vị tù trưởng Chu và Chreo ghép vào đặt tên cho đèo Cheo

Reo – một đèo núi đi từ vùng núi cao xuống vùng đất bằng của thị xã Ayun Pa. Vì thế

12

Jơ rai chor có nghĩa là người Jơ rai vùng thung lũng, hay người Jơ rai khu vực đèo

Cheo Reo.

Hđrung có nghĩa là hàm rồng, là tên ngọn núi lửa lớn đã tắt cách thành phố

Playku chừng 3km về phía Đông Nam. Người Jơ rai Hđrung xưa kia họ sống tập

trung quanh ngọn núi Hđrung rồi sau đó mới tỏa đi các nơi khác. Hiên nay Jơ rai

Hđrung sống chủ yếu ở thành Phố Pleiku, Chư Pah, Chư Prông và Măng Yang (Gia

Lai).

Aráp cũng là tên gọi của một ngọn núi. Núi này nằm ở phía đông của thành phố

Kon Tum và là nơi giáp ranh giữa nơi cư trú của người Jơ rai và Ba na. Ngoài ra

Aráp còn tên của một con Voi của câu chuyện huyền thoại. Nhóm này cư trú ở phía

bắc thành phố Pleiku, bắc huyện Chư Pah, xã Hbau Đak Đoa (Gia Lai), thành phố

Kon Tum và một số xã thuộc huyện Sa Thầy (Kon Tum).

Nhóm Jơ rai Tpuan (hay Puôn) chủ yếu sống ở vùng dọc biên giới Việt Nam –

Campuchia, tức là phía tây huyện Chư Pah và ở huyện Chư Prong (Gia Lai). Ở bên

Campuchia, người Jơ rai Tpuan sống dọc theo dòng sông Xê xan (khúc sông ở Việt

Nam gọi là Pô Cô). Do sống ở biên giới nên gọi là Tpuan (nghĩa là người Jơ rai vùng

ven hay người Jơ rai ngoại vi).

Nhóm M’thur (hay Mdhur) có nghĩa là nghèo.Nhóm Jơ rai này sống giáp với

các dân tộc Ê đê, Chăm, sống chủ yếu ở vùng Krông Pa (Gia Lai). Do ít nhiều bị

tách biệt và sống gần các dân tộc khác nhau nên nếp sống thường ngày của từng

nhóm người Jơ rai cũng khác nhau.

 Về dân tộc Ba na

Người Ba na còn có các tên gọi khác: Ba na dưới Núi, Ba na Đông, Ba na Tây,

Ba na trên Núi, Tơ Lộ, Bơ Nâm, Glơ Lâng, Rơ Ngao, Krem, Roh, Con Kde, A la

công, Krăng, Bơ Môn, Kpăng Công, Y Lăng) có dân số 174.456 người (đến năm

2003), thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.

Người Ba na có hai nhóm chính, nhóm sống từ đèo Mang yang về phía thấp là

nhóm Hla Kông (người Ba na ở dưới chân núi) và nhóm từ đèo Mang yang lên trên

cao là nhóm Kpal Công (người Ba na ở trên núi).

Nhóm Hla Kông gồm các nhóm: Ba na Tơ lô, Ba na Konkodeh, Ba na kriem.

13

Nhóm Kopal Kông gồm: Ba na roh, Ba na Rongao, Ba na Honeng, Ba na Kolan,

Ba na Bonam, Ba na Kon Tum.

Hiện nay Kon Tum gồm những nhóm Ba na: Nhóm Ba na Kon Tum, Ba na

Rongao và Ba na Bơnam. Nhóm Tơ lô sinh sống chủ yếu ở vùng Kông Chro, An khê.

Ba na honeng và Ylang tập trung chủ yếu sống ở Kon tum, Huyện Konplong,

Đak Đoa.

Nhóm Ba na Roh chủ yếu sống ở Mang yang, Đak Đoa..

Nhóm Ba na Kriem sinh sống chủ yếu ở xã Sơn Lang thuộc Kbang, Vinh Thạnh

- Bình Định. Thực tế hiện nay Ba na Tơ lô, Bonam, và Konkodeh sống ở An Khê,

Kông Chro, Kbang có những sắc thái khác biệt nhau. Người Ba na Bonam chủ yếu

sống ở vùng rừng già, làm nương đốt rẫy là chính, có phải vì sống ít tiếp xúc với bên

ngoài nên coi là lạc hậu (Bonam). Người Ba na Tơ lô sống ven sông Ba, trên nhưng

đồi núi tương đối bằng phẳng và rộng, làm nương. Đồng bào ở đây có tiếp xúc rộng

rãi hơn vói các nhóm khác. Người Ba na Konkodeh là người sinh sống trung gian

giữa người Ba na Tơ lô và Bonam. Phải chăng vì lẽ đó mà người Ba na Konkodeh có

hai nghĩa là người ở vùng giữa hoặc người mới đến cư ngụ? Con Ba na Roh là người

sinh sống lâu đời tại địa phương. Ở đây đáng lưu ý mái nhà rông và nhà mồ có mái

cao, thon đẹp chứ không rộng và thấp như Ba na khác tại An khê, Kbang, Kông Chro.

Nguồn gốc Ba na hiện nay là vấn đề phức tạp chưa rõ ràng. Theo nhiều nhà nghiên

cứu trước đây các dân tộc thiểu sốvùng Trường Sơn – Tây Nguyên có nguồn gốc từ

các cuộc di cư của giống người Melanesien ở các quần đảo nam Thái Bình Dương

lên. Sau đó lại có các cuộc di chuyển của giống người Inđônêxia từ phía Tây sang.

Trong quá trình di cư đã có các cuộc chung đụng để chiếm giữ đất đai, một bộ phận

chuyển lên miền núi, cao nguyên và trở thành các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên trong

đó có người Ba na. Ngày nay theo một số truyền thuyết cho rằng người Ba na là một

nhóm người có nguồn gốc tại chỗ, lúc đầu cư trú ở phần đất phía đông tỉnh Gia Lai,

một phần đồng bằng và phía đông tỉnh Bình Định, về sau di cư sang Kon Tum. Từ

thế kỉ X về trước, người Ba na sống trong vùng đất tương đối ổn định và đóng kín.

Trong hơn 300 năm, từ 1150-1470 người Ba na cùng với các dân tộc Tây Nguyên

chịu sự thống trị của Vương quốc Chăm Pa. Năm 1471 dưới sự lãnh đạo của vua Lê

14

Thánh Tông, người Ba na thoát khỏi ách đô hộ của người Chăm. Sau đó, khu vực này

thường xuyên chịu ảnh hưởng ít nhiều của các cuộc gây hấn của Lào và Thái Lan. Từ

thế kỉ XX, đồng bào ở đây sống chung cùng với các dân tộc thiểu sốkhác trong sự

hòa hiếu, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới. Dấu ấn rõ ràng nhất về việc chịu ảnh

hưởng của văn hóa Chăm Pa là hình ảnh Thần Rắn trong văn học dân gian của các

dân tộc này. Ngày nay, các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy những vết tích hình Thần

Rắn còn sót lại trên các họa tiết trang trí của chum, vòng đeo tay, ghè rượu…

Điều đáng lưu ý giữa hai các dân tộc này là sự phân bố phạm vi sinh sống của

họ. Người Jơ rai thường phân bố dọc ven núi cho nên những câu truyện cổ của họ

thường xuất hiện các vị thần như: núi, trời và thường hướng ra phía biển. Còn người

Ba na sống chủ yếu ở dọc bờ sông, đời sống gắn liền với nước. Ở hai các dân tộc

này, họ sống bằng nghề trồng trọt nương rẫy; lúa tẻ là cây lương thực chính. Công cụ

canh tác của họ giản đơn, chủ yếu là con dao chặt cây, phát rừng, cái cuốc xới đất và

cây gậy chọc lỗ khi tra hạt giống. Cho nên chúng ta rất dễ dàng bắt gặp những công

cụ này trong các sáng tác dân gian. Đối với họ, mỗi công cụ là một vị thần linh cứu

trợ, phù giúp cho con người có được miếng cơm, miếng nước. Cũng như vậy, nhưng

người Ba na lại có thêm vật dụng cần thiết cho lao động nữa, đó là cái lò rèn. Chúng

ta không mấy xa lạ khi bắt gặp hình ảnh cái lò rèn có phép thuật được nhân vật chính

diện trong truyện cổ sử dụng để sáng tạo ra công cụ lao động và diệt trừ yêu tinh.

Chính vì vậy, trong những câu chuyện của người Ba na chúng ta thấy có xuất hiện

kiểu truyện người anh hùng sử dụng cái lò rèn thần được Thần ban để tiêu diệt yêu

tinh nhưng trong truyện của người Jơ rai thì ta lại không thấy xuất hiện.

Người Jơ rai sống thành từng làng (plơi hay bôn). Đây các dân tộc duy nhất

thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo có nhà rông, có thể do ảnh hưởng của cư dân Ba na

thuộc hệ ngôn ngữ Môn-Khmer. Có nhóm A Ráp của người Jơ rai thực ra là người

gốc Ba na đã bị Jơ rai hóa. Plei của các dân tộc này là “đơn vị cư trú của các gia

đình mẫu hệ nhỏ”. Nên trong phạm vi ấy, chúng ta vẫn thấy đâu đó sự giao thoa trong

sáng tác dân gian của hai các dân tộc này.

Nói tóm lại, cơ cấu các dân tộc và những tác động của môi trường sinh sống có

liên quan tới cấu tạo, chức năng của nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích của các dân

15

tộc thiểu số ở Gia Lai. Trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, chúng ta

thấy xuất hiện rất nhiều hình ảnh nhân vật thần linh như: trời, thần. Họ sống chủ yếu

trên các đỉnh núi cao, các triền núi, nơi tiếp giáp giữa ranh giới Trời- Đất, nơi khoảng

cách giữa Trời, thần và con người khá gần gũi. Cho nên hình tượng này xem ra rất

giống con người, rất cởi mở, thân thiện. Người Ba na lại sống theo các con sông, con

suối cho nên nước có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống tâm linh của họ. Đó là vị

thần cứu họ thoát khỏi nạn đại hồng thủy, sự ăn thịt của các loài vật sống dưới nước

khác. Cuộc sống gắn bó với nương rẫy, săn bắn nên công cụ lao động sản xuất chủ

yếu là khiên, giáo, mác, cung tên, gươm. Với quan niệm đa thần, họ coi mỗi công cụ

sản xuất là một vị thần cứu mạng, giúp họ săn được nhiều thú, làm được nhiều lúa

gạo. Không giống như các dân tộc thiểu sốkhác,mỗi khi vào rừng săn bắn các dân tộc

thiểu số ở Gia Lai thường không mang một con vật nuôi như chó, mèo đi cùng mà họ

đi tới đâu, ở đó đều là bạn, là người giúp đỡ. Hình ảnh con Rắn, con Voi, lợn rừng

xuất hiện trong truyện cổ tích của họ với vai trò cứu trợ là điều chúng ta rất đáng suy

nghĩ.

1.2. Tình hình tư liệu

Nguồn tư liệu và kho tàng văn học dân gian hiện nay chỉ tập trung vào nghiên

cứu kho tàng của hai các dân tộc trên ngoài ra chúng tôi chưa tìm thấy một văn bản

nào liên quan đến đề tài của các dân tộc thiểu số khác mặc dù họ đã chuyển tới vùng

đất này sinh sống. Có thể do tính chất manh mún, thiếu ổn định nên các nhà nghiên

cứu chưa chú tâm khảo sát. Trên thực tế, chúng tôi thấy được rằng các dân tộc thiểu

số khác họ sinh sống rải rác theo từng cụm nhỏ, số lượng dân cư không nhiều, mức

độ tập trung cũng không cao cho nên việc tạo ra những dấu ấn về văn học dân gian là

khá ít. Mặt khác, các dân tộc thiểu số này di cư tới vùng đất đỏ ba dan này, họ đã

mang theo những nét văn hóa bất biến của các dân tộc mình, dường như họ không

thay đổi lối sống hay tập tục của mình khi tới đây. Sự ảnh hưởng của vùng miền này

không quá mạnh mẽ để họ có thể làm thay đổi hoặc là ảnh hưởng tới cuộc sống riêng

của họ. Các dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Mông, Mường, Mán…có một nhỏ sống

rải rác trong môi trường cùng với người Kinh ở các huyện, thị trấn,các vùng trung

tâm của vùng, số còn lại sống tập trung và tách biệt nên việc giao lưu văn hóa và sự

16

ảnh hưởng của nó tới vùng miền là không đáng kể. Bởi vậy nên nghiên cứu văn hóa

dân gian ở các dân tộc thiểu sốnày cũng không hề dễ dàng. Cần phải nói thêm, Gia

Lai không phải là địa bàn cố hữu của những các dân tộc này vì họ mới bắt đầu di cư

tới từ đầu thế kỉ XX. Do đó chưa có điều kiện để khảo cứu.

Tiến trình sưu tầm và nghiên cứu đã khẳng định vốn folklore Gia Lai vừa đa

dạng lại vừa phong phú hay nói chính xác hơn là “ Các tư liệu thu thập được cho

phép khẳng định rằng fôn- clo của người Ba na Tơ lô vùng đất này trước đây ít nhất

năm mươi năm là một nền nghệ thuật dân gian đồng bộ, giàu có và có chất lượng

nghệ thuật” [48, tr.252]

1.2.1. Tư liệu đã được công bố

Qua quá trình tìm kiếm, chúng tôi thu thập được những nguồn tài liệu vô cùng

quan trọng về truyện cổ tích của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai như sau:

Theo khảo sát bước đầu từ các cuốn sách hiện có: Vũ Ngọc Bình (chủ biên),

Văn học dân gian Gia Lai, (Sở văn hóa thông tin thể thao), năm 1996.

Trong tư liệu này, các tác giả đã thu thập tài liệu từ thư tịch, kế thừa kết quả sưu

tầm nghiên cứu của những người đi trước. Trong nguồn tư liệu này ghi rõ xuất xứ của

tư liệu, tác giả đã sưu tầm được 33 truyện cổ của hai các dân tộc Ba na và Jơ rai

nhưng chưa phân loại các truyện này. Trong 33 truyện này, có tới 20 truyện đều có

hình ảnh nhân vật phò trợ. Chúng tôi sử dụng cuốn này vì các dữ liệu liên quan đến

đề tài khá đầy đủ và chính xác các truyện cổ của các dân tộc nơi đây.

Cuốn Truyện cổ dân gian Gia Lai do Sở văn hóa thông tin Gia Lai cung cấp,

trong cuốn này nhìn chung vẫn dựa trên cuốn Văn học dân gian Gia Lai trong cuốn

này cũng trình bày lại 33 truyện cổ, chưa sắp xếp theo một mục nào cụ thể.

1.2.2. Tư liệu điền dã

Nguồn thứ hai là từ việc sưu tầm điền dã. Với sự cố gắng nhất định của chúng

tôi, chúng tôi đã đi diền dã các vùng của các dân tộc thiểu số sinh sống, chủ yếu là ở

huyện Kbang – nơi có dòng sông Ba êm đềm chảy qua, nơi có số lượng người Ba na

và Giơ rai chiếm tỉ lệ đông nhất.

Qui trình điền dã được chúng tôi thực hiện như sau:

Thời gian: Chúng tôi đi điền dã là từ ngày 1/7/2013 tới 1/8/2013.

17

Địa điểm: Tại huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.

Phương tiện thực hiện: Máy ghi âm, máy ảnh.

Kết quả thu được: Trong đó chúng tôi sưu tầm được thêm 4 truyện có liên

quan đến đề tài luận văn. Đó là các câu chuyện có tên như sau:

Truyện thứ nhất: Cuộc chiến giữa các tù trưởng (Sưu tầm)

Do Bà Đinh Thị H’Nót, 76 tuổi, làng T’MẬT- xã Đông- Kbang- Gia Lai kể.

Truyện thứ hai: Chàng Jăng Gre (Sưu tầm)

Do Bà Đinh Thị H’Nót,76 tuổi, làng T’MẬT, xã Đông, Kbang, Gia Lai kể.

Truyện thứ ba: Kén chàng rể ( Sưu tầm)

Do Ông Đinh Kuek, 69 tuổi, làng Kyang, xã Kon Lương Khương, Kbang, Gia

Lai kể.

Truyện thứ tư: Cô em út( Sưu tầm)

Do Bà Đinh Thị Lăm, 52 tuổi làng Kyang, xã Kon Lương Khương, Kbang, Gia

Lai kể.

Chúng tôi xin tạm dịch và trình bày nội dung của bốn truyện này trong phần Phụ

lục 1b của luận án.

Nhìn chung kho tàng văn học dân gian của các dân tộc thiểu số ở đây khá

phong phú về thể loại, đa dạng về nội dung, cách thể hiện nhưng chưa được sưu tầm

hết. Riêng về truyện cổ theo đánh giá của chúng tôi thì số người biết kể chuyện hiện

giờ còn rất ít. Một lí do khách quan là những người biết kể chuyện thì không còn

nhiều, một số còn lại thì tuổi tác của họ khá cao, họ đều tầm trên 70 tuổi, số lượng

này chỉ tính trên đầu ngón tay. Mặt khác lối sống hiện đại hóa bắt đầu du nhập vào

trong làng bản nên hầu như lớp trẻ bây giờ ít quan tâm tới kho tàng truyện cổ hơn.

Đây là một khó khăn lớn trong việc lưu giữ những nét văn hóa nói chung của nền văn

hóa nước ta và truyện cổ của các dân tộc thiểu sốở nước ta nói riêng. Chúng ta sẽ hi

vọng trong một thời gian gần nhất chúng ta sẽ nhận được sự quan tâm nhiều hơn của

các ban nghành tới kho tàng văn học dân gian nơi đây.

1.2.3. Nhận xét chung

Việc xác lập một tiêu chí cho quá trình lựa chọn văn bản là hết sức cần thiết. Từ

lâu trong việc nghiên cứu về văn học dân gian đã từng có ý kiến khác nhau về vấn đề

18

thể loại. Có một thực tế là khi kể chuyện, người kể chuyện không có ý thức về thể

loại. Ngay cả người sưu tầm vẫn dùng khái niệm duy nhất là truyện cổ dân gian. Tuy

nhiên theo chúng tôi, truyện cổ dân gian là một khái niệm chỉ một bộ phận của văn

học dân gian, bộ phận này gồm nhiều thể loại trong đó có cả thể loại truyện cổ tích.

Truyện cổ tích là khái niệm được dùng với hai nghĩa chủ yếu: nghĩa thứ nhất là chỉ

một bộ phận của văn học dân gian, nghĩa thứ hai là một thể loại của bộ phận truyện

cổ dân gian trong văn học dân gian.

Dựa trên những nền tảng nói chung, chúng tôi sẽ khoanh vùng và lựa chọn

những câu truyện mang đậm tính chất “cổ tích” nhất. Đó là một thể loại chính của

sáng tác tự sự dân gian có tâm thế hư cấu, bao gồm cổ tích thần kì, cổ tích sinh hoạt

và cổ tích loài vật.

Những truyện dưới đây được chúng tôi lựa chọn như sau:

Tất cả những truyện tìm được không đề cập tới vấn đề phân loại truyện cổ.

Chẳng hạn như, trong cuốn Văn học dân gian Gia Lai, (Sở văn hóa thông tin thể

thao), năm 1996 có phân chia các tác phẩm văn học dân gian theo thể loại như

Trường ca (Hơ mon, Hơ ri), loại này thường dựa được hát hoặc kể, không được lưu

giữ bằng văn bản, loại thứ hai là truyện kể hay truyện cổ (Khan, T’roi) – đây là đối

tượng mà chúng tôi muốn hướng tới trong luận văn này.

Chính vì vậy mà việc phân loại truyện cổ ở đây không hề dễ dàng chút nào. Tuy

nhiên việc phân loại truyện cổ là một việc làm cần thiết trong nghiên cứu văn học dân

gian. Trong chính các công trình nghiên cứu về truyện cổ của các dân tộc thiểu số

thiểu số, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định rằng: “Trong thực tế thì nhiều khi ranh

giới giữa các thể loại cũng chưa thật rành mạch, nhất là ở những truyện có xu hướng

chuyển tiếp giữa truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích sinh hoạt. Hoặc trong nhiều

trường hợp lại rất khó phân biệt giữa truyện cổ tích về loài vật và truyện cổ tích thần

kì…Do sự biến đổi kì ảo giữa các thể loại mà nhiều khi việc sắp xếp phân loại truyện

cổ tích còn phải dựa trên những phán đoán chủ quan của người thực hiện”[43, tr.7].

Nói như vậy để thấy việc phân loại và lựa chọn truyện cũng chỉ dừng lại ở mức độ

tương đối.

19

Với số lượng 33 văn bản truyện cổ được các tác giả sưu tầm từ các vùng, huyện

thuộc tỉnh Gia Lai cùng với 4 truyện cổ chúng tôi sưu tầm cho phép chúng ta có thể

khẳng định đây là một thể loại tồn tại khá đậm nét so với thể loại khác ở hai dân tộc

này. Tuy nhiên, việc xem xét các loại truyện này trên văn bản sẵn có, chúng ta nhận

thấy tính chất đan xen của những câu chuyện được phỏng đoán là truyện cổ tích.

Thực tế một câu chuyện vẫn có sự đan xen về thể loại. Trong những câu chuyện cổ

có bóng dáng của Anh hùng ca, đôi khi có cả sự đan xen của truyền thuyết hay là

truyện cổ tích về loài vật, về sinh hoạt. Chẳng hạn như truyện Đăm Dông đánh

thần sét, Cha con Đăm Bông Pha, Chiếc sáo thần kì,…Tính chất thể loại là một

vấn đề khó phân biệt rạch ròi và không thuộc phạm vi khảo sát của đề tài tuy nhiên

nhìn chung có thể đánh giá được rằng: Tính chất bay bổng cùng với những đặc trưng

văn hóa các dân tộc làm người ta ngờ rằng chúng mang hơi thở của những truyện

mang cốt lõi của tư duy cổ tích, đôi khi ngờ rằng truyện ca ngợi về người anh hùng

bộ lạc cho nên nó lại mang bóng dáng của những truyện truyền thuyết.

Những nhận thức trên hoàn toàn dựa vào văn bản, nếu đi sâu vào văn bản sẽ

thấy cách kể truyện cổ tích không giống như kể trường ca, mỗi câu chuyện được kể

chỉ khoảng mười phút, một đêm kể chừng từ năm đến bảy câu chuyện và không cần

tập trung đầy đủ mọi người trong bản làng để kể mà người trong nhà ai lớn tuổi nhất

và biết kể chuyện thì kể lại cho con cháu nghe. Với cách lưu giữ như vậy, truyện cổ ở

đây được truyền từ đời này sang đời khác, họ nhớ như in và cách kể rất diễn cảm.

Từ tình hình tư liệu trên chúng tôi có thể đưa ra các nhận xét sau:

Thứ nhất: Quá trình thu thập không chỉ dừng lại ở những văn bản truyện cổ tích

mà ngay cả những truyện được xem là “nghi án cổ tích” cũng được xem xét vì những

sự phân định, giới thuyết về chúng như:truyện cổ tích, truyện cổ, truyện kể…không

phải lúc nào cũng đầy đủ và rõ ràng. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn những truyện nào

mang đậm tính cổ tích để phục vụ cho nghiên cứu của đề tài này.

Thứ hai: Trong thực tế số lượng truyện kể còn khá nhiều nhưng nhớ nhiều nhất

vẫn là các già làng, các vị lớn tuổi trong làng. Những văn bản truyện cổ này được

dịch ra từ tiếng địa phương cho nên khó bộc lộ hết được cái thần thái của chúng. Tuy

20

nhiên người nghe sẽ dễ dàng cảm nhận được tính “thiêng” của những câu chuyện

thông qua cách kể của người kể.

1.3. Những vấn đề lí thuyết của Propp được vận dụng trong đề tài

Lí thuyết của Vladi mir Iakovlevits Propp – nhà khoa học lỗi lạc Xô Viết ( 1895

– 1970) trình bày trong công trình nổi tiếng: Hình thái học truyện cổ tích xuất bản

lần đầu năm 1928. Công trình gồm 9 chương, do khuôn khổ và mục tiêu của luận

văn, chúng tôi chỉ nêu tóm tắt những nội dung liên quan trực tiếp đến vấn đề đang

bàn được các nhà khoa học trình bày ở chương II và chương III của công trình.

Vladi mir Iakovlevits Propp (từ đây trở đi chỉ gọi Propp) xây dựng lí thuyết hình

thái học truyện cổ tích từ việc so sánh về mặt đề tài các truyện cổ tích được xếp trong

khung phân loại của A. Aarne từ số 300 đến số 749. Tác giả đề cập tới việc so sánh

cấu tạo dựa theo những chức năng của nhân vật. Propp đã tách ra những bộ phận tạo

thành của truyện cổ tích phép thuật theo những cú pháp riêng và sau đó tác giả so

sánh những truyện cổ tích về mặt các bộ phận tạo thành chúng. Kết quả là chúng ta

có được hình thái học tức là sự miêu tả truyện cổ tích theo bộ phận cấu thành và theo

mối quan hệ của những bộ phận đối với nhau như đối với toàn thể.

Tuy nhiên, khi đưa ra danh mục, Propp không quên nhấn mạnh: danh mục này

chỉ đáng chú ý khi nào nó được xây dựng từ góc độ những vấn đề bao quát hơn, đó là

những qui luật của sự biến đổi và những ý niệm trừu tượng được phản ánh trong

những hình thức cơ bản của những thuộc tính đó. Quả thật, từ góc độ này, ông chỉ rõ

rằng việc lập bảng và ghi những thuộc tính của các nhân vật cũng như việc nghiên

cứu những đại lượng biến đổi xét chung giúp chúng ta nhận ra nhiều điều. Để làm

sáng tỏ điều này, chúng ta hãy xem xét tới quan niệm của lí thuyết của Propp về nhân

vật và sự phân nhóm nhân vật dựa vào chức năng của chính nhân vật. Truyện cổ tích

thường gắn những hành động như nhau cho các nhân vật khác nhau. Điều này cho

phép ta có thể nghiên cứu truyện cổ tích dựa theo những chức năng của những nhân

vật hoạt động.

Trong Hình thái học (HTH) của Propp, ( ở các chương II,III,IV,…), tác giả đã

hơn một lần chỉ ra rằng đối với nghiên cứu truyện cổ tích, vấn đề quan trọng là các

nhân vật làm gì; còn ai làm và làm như thế nào thì chỉ có tính chất thứ yếu. Nói như

21

vậy có nghĩa là tác giả đã đề cao tới chức năng của nhân vật, khẳng định vai trò chức

năng của nhân vật trong truyện cổ tích. Tuy nhiên trên thực tế, ông vẫn gắn vấn đề

chức năng với vấn đề nhân vật. Ông không thể giới thiệu chức năng mà không nói

đến nhân vật (chương III), đặc biệt trong chương VI, tác giả trình bày những kết quả

khảo sát chung về “Sự phân bố chức năng theo các nhân vật”.

Theo đó sự phân bố chức năng theo các nhân vật – “ sơ đồ 7 nhân vật” được tác

giả phân tích khá kĩ càng. Như đã nói ở trên, tuy đối tượng nghiên cứu của Propp chỉ

là các chức năng chứ không phải người thực hiện chúng, nhưng vấn đề “Các chức

năng được phân bố như thế nào theo các nhân vật” vẫn được ông khảo sát kĩ lưỡng.

Kết quả thu được không chỉ soi sáng thêm ý nghĩa của chức năng trong tiến trình

hành động mà còn góp phần làm rõ bản chất truyện cổ tích thần kì. Điều đó càng

khẳng định tầm quan trọng của chức năng nhân vật trong truyện cổ tích.

Propp nhận thấy nhiều chức năng được tập hợp một cách logic theo những nhóm

nhất định. Những nhóm này, nói chung cũng tương hợp với người thực hiện. Đó là

các nhóm hành động, truyện cổ tích thần kì có bảy nhóm hành động.

Từ kết quả khảo sát sự phân bố chức năng theo các nhân vật, tác giả rút ra kết

luận: Truyện cổ tích có 7 nhân vật. Từ kết luận này, khi trở lại với vấn đề phân loại

truyện cổ tích thần kì (sản phẩm của cách phân loại dựa vào một nhóm đặc trưng về

nội dung là yếu tố kì diệu, mà ông coi là không chính xác) bằng thuật ngữ truyện cổ

tích theo sơ đồ 7 nhân vật được Propp đánh giá là “tuy khá bất tiện nhưng rất chính

xác”, phù hợp với quan điểm phân loại dựa vào cấu trúc của ông căn cứ vào những

dấu hiệu là hình thức, kết cấu.

Vấn đề nằm ở sự phân bố chức năng theo các nhân vật: nhiều chức năng đã

được tập hợp một cách logic thành những nhóm hành động nhất định, xét chung,

tương ứng với những nhân vật thực hiện.

Dựa vào các chức năng đưa nhân vật vào tiến trình hành động tác giả khẳng

định, mỗi loại nhân vật đều có hình thức xuất hiện riêng của nó, đối với mỗi loại,

người ta đều sử dụng những cách thức riêng để đưa nhân vật vào tiến trình hành

động.

22

Đề cập tới vấn đề sự phân loại và chức năng của các nhân vật Propp nêu ra

những hình thức được coi là chuẩn của tự sự cổ tích. Đó là những hình thức xuất hiện

của các nhân vật sau: Đối thủ (Kẻ phá hoại) - Nhân vật xuất hiện trong tiến trình

hành động hai lần: lần thứ nhất, bất ngờ; lần thứ hai, bị tìm thấy do có sự dẫn đường;

Người tặng (Người cung cấp pttk) – mà nhân vật chính luôn gặp ngẫu nhiên; Trợ thủ

thần kì - nhân vật được dẫn nhập vào tiến trình hành động như tặng phẩm, Người

phái đi, Nhân vật chính, Kẻ giả mạo nhân vật chính, và cả Công chúa nữa – những

nhân vật được đưa vào câu chuyện ngay từ hoàn cảnh xuất phát. Propp cho biết, kho

tư liệu về truyện cổ tích ông dùng để khảo sát cho thấy cấu tạo truyện cổ tích gồm 31

chức năng do hành động nhân vật tạo nên. Mỗi chức năng trên bao gồm nhiều nhóm,

được ông kí hiệu riêng biệt. Trong đề tài này, chúng tôi vận dụng chức năng 12, chức

năng 14 để nghiên cứu cấu tạo, chức năng của nhân vật phò trợ. Cần phải nhấn mạnh

rằng trong chức năng 12, được gọi là chức năng thứ nhất của người tặng, từ đây

truyện cổ xuất hiện một nhân vật mới mà Propp gọi là “người tặng” hay chính xác

hơn là “người cung cấp” (phương tiện thần kì). Trong chức năng này, tác giả Propp

chú thích thêm rằng người tặng không phải là trợ thủ cũng không phải là đối thủ của

nhân vật chính. Đây chỉ là nhân vật có chức năng “chuyển giao” phương tiện thần kì

(hoặc trợ thủ thần kì) cho nhân vật chính. Xét theo chức năng nhân vật trợ thủ thần kì

là nhân vật có chức năng tham gia vào tiến trình tặng phẩm cho nhân vật chính. Nhân

vật người tặng được xem tham gia vào việc cung cấp các phương tiện thần kì hay

người trợ thủ . Về vấn đề này, theo tác giả Đỗ Bình Trị trong cuốn Truyện cổ tích

thần kì Việt đọc theo hình thái học của truyện cổ tích V.Ja Propp nhấn mạnh

rằng trong truyện cổ tích đến đây, xuất hiện một nhân vật mới mà Propp gọi là

“người tặng” hay chính xác hơn là “người cung cấp”. Như vậy, “người tặng” và “trợ

thủ thần kì” có liên quan gì tới nhau không? Theo Đỗ Bình Trị cho rằng “người tặng

không phải là trợ thủ, cũng không phải là đối thủ của nhân vật chính. Đây nhân vật

có chức năng chuyển giao phương tiện thần kì hay trợ thủ cho nhân vật chính”. Hai

nhân vật này có liên quan tới nhau là đều cung cấp phương tiện thần kì để giúp cho

nhân vật chính vượt qua được thủ thách. Dựa trên chức năng hai nhân vật có chức

năng là cung cấp phương tiện thần kì hoặc trợ thủ thần kì. Sơ đồ 7 nhân vật thực hiện

23

các nhóm chức năng có nhân vật người ban tặng thực hiện chức năng thử thách nhân

vật chính để trao phương tiện thần kì hay giúp đỡ nhân vật thần kì. Chúng ta lưu ý

điều này hoàn toàn khác với nhân vật người giúp đỡ thần kì hay là trợ thủ. Ngoài ra

phương tiện thần kì không phải là người giúp đỡ thần kì. Phần này chúng tôi sẽ lí giải

rõ hơn trong phần phân loại nhân vật phò trợ của luận văn.

Qui trình này sẽ được chúng tôi vận dụng thực hiện trong các phần tiếp theo của

luận văn.

Như vậy, nếu vận dụng lí thuyết Propp trong các câu chuyện cổ về nhân vật phò

trợ ở Gia Lai có thể cho phép chúng ta khẳng định vai trò của lí thuyết Hình thái học

trong việc nghiên cứu nhân vật phò trợ dựa trên chức năng. Đồng thời có những chức

năng của nhân vật phò trợ vượt ngoài mô hình cấu tạo của Propp là điều rất đáng suy

nghĩ. Phải chăng đó là cái riêng của truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai mà lí

thuyết chưa bao quát đến?

1.4. Những vần đề về típ và mô típ liên quan đến đề tài

Trong nghệ thuật dân gian, có mô típ của hình phác họa là những hình mẫu

thường lặp lại hoặc kết hợp với những hình mẫu khác theo một cách riêng biệt nào

đó.

Trong văn học dân gian, mô típ được hiểu như là một đơn vị nhỏ nhất, là những

đơn vị tế bào hạt nhân để xây dựng nên cốt truyện, là một thành tố tạo nên truyện. Nó

rất linh động, bởi trong truyện kể nó có thể tách rời ra hoặc lắp ghép lại được. Mô típ

truyện kể có thể là những khái niệm đơn giản thường gặp trong kho tàng văn học dân

gian như: những tạo vật khác thường bao gồm thần tiên, phù thủy, yêu tinh, con vật

biết nói,...; những thế giới kì diệu mà ở đó có những hiện tượng tự nhiên khác

thường, ma thuật luôn có hiệu lực,... Mô típ cũng có thể là một mẩu kể ngắn, đơn

giản, một sự việc đủ gây ấn tượng và thích thú đối với người nghe.

Theo Nguyễn Tấn Đắc trong Đề cương bài giảng sau đại học tại Đại học Sư

phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998 [37, tr.50-51], mô típ có thể là sản phẩm

của trí tưởng tượng thơ ngây trước sự phát triển của xã hội. Nó cũng có thể là sản

phẩm từ quan sát thực tế của con người trước thực tại cuộc sống, Nó cũng có thể là

biểu hiện của sự thông minh, nhạy bén của con người trong cuộc sống xã hội.

24

Có thể thấy rằng thuật ngữ mô típ được dùng một cách rất lỏng lẻo, bao gồm bất

kì yếu tố nào tham gia vào truyện truyền miệng. Để trở thành một phần thật sự của

truyện kể, nó phải có cái gì đó khác lạ, đặc biệt, làm cho người ta nhớ và lặp đi lặp

lại.

Việc nghiên cứu motif còn có ý nghĩa quan trọng đối với những người muốn tìm

hiểu về văn hóa. Phân tích mô típ, người nghiên cứu có cơ hội khám phá những tầng

văn hóa ẩn sau mô típ đó.

Liên quan đến nhân vật phò trợ, chúng tôi nhận thấy có các mô típ liên quan như

sau: Mô típ uống rượu và hút thuốc của nhân vật phò trợ, mô típ hóa thân của

nhân vật phò trợ, mô típ vật thiêng của nhân vật phò trợ, mô típ đánh nhau của

nhân vật phò trợ, Mô típ kết hôn của nhân vật phò trợ.

25

Tiểu kết chương 1:

Vì sự hình thành và biểu hiện của nhân vật phò trợ có nền tảng từ cơ sở lịch sử -

xã hội nên việc tìm hiểu những cơ sở về các dân tộc, đặc điểm các dân tộc là điều

cần thiết trong quá trình nghiên cứu nhân vật này. Qua đây, chúng tôi phần nào lí giải

được cách thức hình thành nhân vật phò trợ trong truyện cổ các dân tộc thiểu sốở Gia

Lai. Việc thu thập, xử lí các tư liệu đóng vai trò cơ sở cho việc tìm hiểu nhân vật phò

trợ. Một số vấn đề về lý thuyết của Propp về chức năng nhân vật phò trợ được ứng

dụng trong luận văn này cho phép chúng ta khẳng định lí thuyết này có ý nghĩa rất

quan trọng trong việc nghiên cứu nhân vật dựa trên chức năng.

26

Chương 2. CÁC KIỂU NHÂN VẬT PHÒ TRỢ TRONG TRUYỆN

CỔ TÍCH CỦA TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở GIA LAI

Trong mục này, chúng tôi tập trung mô tả, phân tích những đặc điểm, chức năng

của nhân vật phò trợ để tạo tiền đề cho việc so sánh với nhân vật phò trợ trong truyện

cổ tích người Việt. Chúng tôi đi sâu, làm rõ bốn vấn đề sau:

Một là, để tiến hành phân loại nhân vật này, chúng tôi xác lập một số tiêu chí

phân loại. Đây là điều kiện cần thiết trong việc nghiên cứu nhân vật phò trợ.

Hai là, thông qua quá trình phân tích chúng tôi lựa chọn một cách để phân loại.

Từ đó chúng tôi tập trung mô tả đặc điểm từng tiểu loại.

Ba là, vận dụng cách phân chia nhân vật theo chức năng của Propp, đây là cơ sở

để chúng tôi tìm ra được những điểm khác biệt về chức năng nhân vật phò trợ trong

truyện cổ các dân tộc thiểu sốở Gia Lai.

Bốn là, dựa trên tất cả những đặc điểm chúng tôi bắt đầu tiến hành so sánh kiểu

nhân vật này trong truyện cổ tích của người Việt. Dựa trên những đặc điểm cơ cấu

các dân tộc và sự biến thiên của xã hội ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng nhân

vật phò trợ.

Tất cả những vấn đề trên chúng tôi sẽ lần lượt giải quyết trong các phần dưới

đây.

Chúng ta đều biết, nhân vật phò trợ ra đời đều mang một quan niệm thẫm mĩ,

những nhìn nhận về thế giới đầu tiên của loài người. Chúng ta hoàn toàn đồng ý với ý

kiến cho rằng những nhận thức sai lệch, những quan niệm huyễn hoặc về thực tại là

nguồn gốc sinh ra thế giới quan thần linh của người nguyên thủy và thần thoại là thể

loại văn học đầu tiên của văn học thế giới phản ánh thế giới quan ấy của loài người.

Bởi bất cứ một thể loại nào, một hình thái xã hội nào khi phát triển đến một mức nào

đó thì luôn tồn tại hình thức sơ khai của nó. Đó là những giá trị đầu tiên và cũng là

những tinh hoa của loài người.

Nhân vật phò trợ xuất hiện trong hầu hết các thể loại văn học dân gian, nhưng

theo các nhà nghiên cứu, nhân vật phò trợ xuất hiện tập trung và có vai trò quan trọng

nhất ở ba thể loại: thần thoại, truyền thuyết và truyện cổ tích (chủ yếu ở tiểu loại cổ

tích thần kì). Trong đó thần thoại được xem là một thể loại văn học dân gian lưu giữ 27

rõ nét nhất những hình thức ấy, nói như C. Mác, thần thoại là “hình thức văn hóa tinh

thần đầu tiên của loài người”. Thần thoại là truyện về thần. Tất nhiên khi nói về thần

thì nhân vật trung tâm và cũng là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống nhân vật phò

trợ của thần thoại là thần. Nhân vật thần ấy có nguồn gốc từ thế giới quan thần linh

của người nguyên thủy. Đinh Gia Khánh đã nhấn mạnh tới quá trình lao động sản

xuất thực tiễn của con người là nguồn gốc sâu xa của việc hình thành các câu truyện.

Trong nhận xét, tác giả này cũng đã đặt ra câu hỏi: Tại sao chúng lại được thể hiện

dưới hình thức hoang đường? Chúng ta có thể hiểu từ “hoang đường” được nhà khoa

học sử dụng trong nhận xét trên đồng nghĩa với từ “thần kì”. Vậy là, trong thần thoại

chúng có nguồn gốc từ những nhận thức sai lệch, những quan niệm huyễn hoặc về

thực tại của người nguyên thuỷ.

Trong khi truyền thuyết nhấn mạnh về lịch sử thì truyện cổ tích thần kì thể hiện

chức năng nhận thức con người, nhận thức xã hội, chủ yếu, bằng việc phản ánh xung

đột, mâu thuẫn xã hội. Để nhân vật có sức hút mạnh mẽ, có sự tôn vinh gần như tuyệt

đối thì truyền thuyết cần có những nhân vật phò trợ. Còn trong truyện cổ tích xung

đột, mâu thuẫn truyện chất đó là những mâu thuẫn của đời sống thực tế. Chúng có vai

trò to lớn, không thể thiếu trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột, mâu thuẫn

của truyện.

Do giới hạn nghiên cứu đề tài nên ở đây, chúng tôi chỉ nêu khái quát vai trò của

nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích.

Như vậy, xét ở mọi phương diện, nhân vật phò trợ xuất hiện đóng vai trò quan

trọng trong việc giải quyết mọi mâu thuẫn của thực tại và đó cũng chính là mơ ước

của con người về cuộc sống với những điều tốt đẹp nhất. Nhân vật phò trợ trong

truyện cổ tích thần kì là yếu tố nghệ thuật của sự “hư cấu có chủ tâm và mang tính

nghệ thuật”.

2.1. Các tiêu chí phân loại nhân vật phò trợ

Trước khi đi vào phân loại, để làm rõ chức năng của nhân vật, chúng ta phải

hiểu rõ về nghĩa của khái niệm nhân vật phò trợ. Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng

Phê:“Phò là theo vua, chúa hoặc người mà mình tôn sùng: phò vua giúp nước, một

lòng phò chính trừ tà”[33, tr. 771]. Phò trợ có nghĩa là giúp đỡ. Trong truyện cổ tích,

28

phò trợ cũng được dùng với nghĩa đó. Nhân vật xuất hiện làm nhiệm vụ cứu giúp

nhân vật chính diện thì được gọi là nhân vật phò trợ. Loại nhân vật này thường mang

trên mình những sự biến hóa thần kì, có được sức mạnh vô biên và bao giờ cũng xuất

hiện kịp thời để cứu đỡ cho nhân vật chính diện vượt qua những thử thách hoặc là

những khó khăn trên con đường làm nhiệm vụ. Sự xuất hiện của nhân vật này làm

cho câu chuyện cổ trở nên hấp dẫn hơn, thần kì hơn, làm cho người đọc có cảm giác

yên tâm hơn về những nhiệm vụ của nhân vật chính diện phải vượt qua. Hơn nữa sự

xuất hiện của nhân vật này gắn liền với những giá trị văn hóa, những quan niệm thẫm

mĩ, quan niệm nhân sinh và cuộc sống trong thời đại lúc bấy giờ.

Tuy nhiên, không phải tất cả các yếu tố thần kì đều có nhiệm vụ phò trợ và

ngược lại không phải tất cả các nhân vật phò trợ đều có phép biến hóa thần kì đôi khi

chỉ là “sức mạnh thần kì”, “uy lực” trong lời nói. Ở một số truyện nhân vật phò trợ

không mang trong mình phép biến hóa thần kì mà lại sử dụng những sức mạnh vốn

có của chính mình. Sức mạnh này cũng giống như sức mạnh của một con người bình

thường, cũng đánh nhau với nhân vật phản diện mà không hề có sức mạnh của thế

lực siêu nhiên. Điều này được thể hiện rất rõ trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số

ở Gia Lai. Ở đây, vai trò của tính cộng đồng ảnh hưởng đến cấu tạo và chức năng

nhân vật phò trợ.

Chúng ta cần lưu ý rằng, giữa yếu tố thần kì và nhân vật phò trợ có liên quan ít

nhiều tới nhau, bổ sung cho nhau. Yếu tố thần kì là bao gồm tất cả những yếu tố có

mang màu sắc thần thánh, có thế lực siêu nhiên. Còn nhân vật phò trợ không phải bao

gồm tất cả các yếu tố thần kì mà chỉ những yếu tố nào có ảnh hưởng tới nhân vật

chính, có nhiệm vụ phò trợ. Đôi khi nhân vật phò trợ đặt ra những vấn đề khó khăn

để thử thách nhân vật chính. Như vậy, không phải tất cả các yếu tố thần kì đều là

nhân vật phò trợ.

Xem xét nhân vật dưới góc độ của chức năng, nhóm hành động là một vấn đề

hết sức cần thiết trong nghiên cứu cấu tạo truyện cổ tích. Trong bài viết “Nhân vật lí

tưởng và cốt truyện của truyện cổ tích thần kì”, Nguyễn Tấn Phát và Bùi Mạnh Nhị

đã khẳng định rằng nhân vật phò trợ (đôi khi cũng là yếu tố thần kì) trong truyện cổ

tích thường được chia làm ba nhóm: nhóm giúp đỡ nhân vật lí tưởng, nhóm thứ hai

29

là giúp đỡ kẻ thù đối kháng, nhóm thứ ba là mang màu sắc trung tính tức là ở trong

tay nhân vật chính diện thì sẽ trở thành chính diện, ở trong tay nhân vật phản diện thì

sẽ trở thành phản diện. Đó là những yếu tố hoang đường, huyễn hoặc, những phép

màu, sự kỳ diệu và sự biến hóa khôn lường nhằm trợ giúp con người vượt qua khó

khăn, hiểm nghèo để đạt được ước mơ hạnh phúc. Sáng tạo các nhân vật phò trợ, con

người muốn thể hiện khát vọng, ước mơ của người xưa vươn tới một cuộc sống bình

yên và tươi đẹp. Vì thế, nhân vật phò trợ là đặc trưng cơ bản của truyện cổ thần kỳ

mà ở các truyện cổ tích loài vật, cổ tích thế sự (hiện thực) hầu như không có.

Nhìn chung, nhân vật phò trợ sử dụng những phép thuật hoặc phương tiện thần

kì để làm nhiệm vụ giúp đỡ nhân vật chính, trừng trị nhân vật tuyến ác. Do đặc trưng

chức năng và thi pháp thể loại mà nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích thần kì cũng

có những điểm riêng biệt. Sự phân loại nào cũng mang tính chất tương đối, cho nên

cách phân loại về nhân vật phò trợ của chúng tôi cũng vậy. Dưới đây là một gợi ý

nhỏ cho cách phân loại nhân vật phò trợ, chúng tôi nghĩ cách phân chia này có thể là

hợp lí trong các cách phân chia nhóm nhân vật.

Theo dạng biểu hiện, nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích thần kì bao gồm:

- Dạng hữu hình gồm: Tiên Bụt, bà Chằng, Ngọc Hoàng, mụ Phù Thủy,..; dạng

loài vật: đại bàng, phượng hoàng, trăn tinh, …; dạng đồ vật: búa thần, cung thần, đàn

thần, niêu cơm thần,…

- Dạng vô hình: ma quỷ, câu thần chú – lời nói thần kì,…

Theo bản chất xã hội, nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích thần kì có hai tuyến:

tuyến thiện và tuyến ác.

Ở tuyến thiện, nhân vật phò trợ đóng vai trò trợ giúp nhân vật tích cực vượt qua

các bế tắc, trở ngại trong cuộc sống. Đồng thời ở một số truyện, nhân vật phò trợ còn

tham gia vào việc trừng trị kẻ ác và thực hiện công bằng xã hội.

Nhân vật phò trợ ở tuyến ác trong truyện cổ tích thần kì Việt Nam nói chung và

trong truyện cổ người dân tộc thiểu số ở Gia Lai có số lượng không nhiều. Nó đóng

vai trò chức năng cản trở, thử thách đối với nhân vật thuộc tuyến tích cực, tuyến

thiện. Nhân vật phò trợ thuộc tuyến ác bao giờ cũng bị lên án.

30

Nhân vật phò trợ giữ vai trò quan trọng đối với tiến trình phát triển của cốt

truyện. Nó là nhân tố thắt nút, cởi nút, để thúc đẩy cốt truyện phát triển. Nếu không

có các nhân vật phò trợ thì cốt truyện sẽ bế tắc hoặc không kết thúc trọn vẹn. Cái kết

thúc có hậu của truyện cổ tích thần kì được thực hiện một phần nhờ sự tham gia của

các nhân vật phò trợ. Tuy nhiên trong truyện cổ tích các dân tộc Gia Lai, chúng ta

thấy nhân vật phò trợ trước khi quay sang phò trợ tuyến thiện hay nhân vật chính thì

có đánh nhau với nhân vật tuyến thiện vì lòng tức giận, ghen ghét. Nhưng sau khi thất

bại thì chấp nhận sự sai khiến của nhân vật chính. Đó là điểm đặc biệt mà chúng ta

nhìn thấy rất rõ thông qua những câu truyện cổ của các dân tộc thiểu số.

Dựa vào các thuộc tính vốn có của sự vật, nhân vật phò trợ có thể được chia

thành ba kiểu như sau:

Thứ nhất: Nhân vật phò trợ là Trời, Thần, Tiên:

Thứ hai: Nhân vật phò trợ là đồ vật thần

Thứ ba: Nhân vật phò trợ là con vật thần

Theo Propp, đồ vật trong truyện cổ tích thần kì đóng vai trò là phương tiện thần

kì, không phải là nhân vật phò trợ. Quan điểm của Propp là dựa vào chức năng của

nhân vật được danh từ thực hiện hành động (sự ngăn cấm, việc chạy trốn…).

Chúng tôi dựa vào chức năng của Propp để tạm thời phân chia các loại nhân vật

phò trợ như sau:

Thứ nhất: Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng giải quyết những nhiệm vụ khó

khăn

Thứ hai: Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng phò trợ về việc thay đổi về

không gian

Các cách phân loại đó, chúng tôi chỉ xin lựa chọn một cách để phân loại nhân

vật phò trợ của truyện cổ từ đó nêu ra những kết luận về truyện cổ của các dân tộc

thiểu số ở Gia Lai

Trong truyện cổ của người dân tộc ở Gia Lai, hình tượng các nhân vật phò trợ

kiểu như Tiên, Bụt xuất hiện với nhiều ý nghĩa phong phú, trong một phạm vi rộng.

Các nhân vật này không chỉ là hình tượng biểu trưng tôn giáo hay tín ngưỡng dân

gian mà đã đi vào đời sống hàng ngày của người bình dân để chuyển hoá thành nhiều

31

ý nghĩa khác nhau.

Qua khảo sát 37 câu truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, chúng ta thấy

rằng có đến 24 câu chuyện có hình ảnh nhân vật phò trợ xuất hiện dưới các hình hài

khác nhau, tập trung vào các kiểu như đã trình bày trên.

2.2. Phân loại nhân vật phò trợ

Dựa vào những tiêu chí đã phân loại ở trên chúng tôi sẽ lựa chọn cách phân loại

dựa vào chức năng của nhân vật phò trợ để mô tả các tiểu loại về cấu tạo, chức năng,

vai trò nhân vật này trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.

2.2.1. Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng giải quyết những nhiệm vụ khó

khăn

Chức năng giải quyết những nhiệm vụ khó khăn thường xuất hiện trong

nhóm nhân vật Trời, Thần, Tiên

Như chúng ta đã biết, Trời (Thiên) là một phạm trù quan trọng trong hệ thống

triết học cổ điển Trung Quốc. Từ các triều đại Thương, Chu trở về sau, nhiều triết gia

đã liên tục đề xuất, tranh luận về nội hàm phạm trù Trời và mối quan hệ của nó với

các phạm trù khác. Trong quan niệm của người Trung Quốc, Trời có ý nghĩa vô cùng

phong phú, bao gồm: trời đất (không gian sinh tồn của vạn vật), ông trời (thần tối cao

– thượng đế), đạo trời, tự nhiên, thiên nhiên, ý trời, lòng trời, mệnh trời, lí trời...Căn

cứ vào Kinh Thi và Kinh Thư, Trời được xem là có đặc trưng tính cách của con

người. Trời có ý chí, luôn hướng tới điều chí thiện, luôn đề cao chính nghĩa. Trời

không chỉ thống lĩnh điều hành các hiện tượng tự nhiên, mà còn thống lĩnh cả “chính

đạo” trong xã hội. Có thể thấy rằng, vì Trời vô cùng thần bí, sức mạnh vô song, vượt

ra khỏi mọi sự đo lường của tư duy con người, có khả năng chở che, hóa dục muôn

loại, nên Trời được tôn xưng là vị thần tối thượng có đủ mọi năng lực. Trời và con

người giống nhau ở chỗ không ngừng hướng thượng để truy cầu những điều thiện mĩ.

Đối với người dân tộc ở Gia Lai, Trời xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích

như: Chàng Reng, Voi và Kiến, Chàng Lười, Chiếc quạt thần...Trong truyện cổ

của họ, Trời xuất hiện rất đỗi tự nhiên, không có một khuôn mẫu hình hài nào cho

Trời nhưng khi đọc lên chúng ta thấy Trời gần gũi như một con người bình thường.

Trời xuất hiện để giúp đỡ cho họ vượt qua những khó khăn, thử thách trước hết là

32

giúp được sinh con đẻ cái. Trời truyền sức mạnh vốn có nhân vật phò trợ có thể tạo ra

những sinh linh mới mang trong mình dòng máu của con người. Những sinh linh mới

này ra đời mang cũng giống như Trời ra đời có nhiệm vụ trừ gian tà, tiêu diệt kẻ thù.

Vì vậy thường dáng dấp của những người anh hùng hoặc ít nhất cũng có biệt tài hoặc

sức mạnh đặc biệt. Như trong câu chuyện Chàng Reng, Trời ở đây xuất hiện như một

người thật mà họ có thể tìm gặp như đến nhà của người dân trong buôn. Họ mất hai

năm rưỡi để tìm đến nhà Trời và gặp được Trời để bày tỏ nỗi lòng. Lúc đầu họ

không nhìn thấy Trời nhưng Trời lại thấy họ trước, vì thấy hai người này rất đẹp đôi

nhưng có gì đó trăn trở nên Trời bèn cất giọng hỏi:“ Đi không biết mấy ngày, mấy

tháng, mấy năm, cái chân đã mỏi, người đã yếu mệt nhọc như kéo cây gỗ lim mới đến

được đây chắc là có chuyện gì cần hỏi”[7, tr.272]. Người chồng thưa:“Chân cháu

biết đi, đầu cháu biết nghĩ, mồm cháu biết nói, cháu chẳng dấu gì, cháu đi mất hai

năm rưỡi mới tới đây bây giờ tay chưa bắt mặt chưa nhìn kỉ để ngồi chơi hút thuốc

đã rồi cháu sẽ nói” [7, tr.273]. Sau đó, Trời còn sai vợ giết gà nấu cơm tiếp đãi họ và

cuối cùng thì ước nguyện của họ đã thành hiện thực. Họ muốn sinh bảy đứa con và

Trời đã đưa cho họ bảy nhánh thuốc uống vào là sẽ có con. Sự giúp đỡ của Trời hoàn

toàn diễn ra một cách tự nhiên, họ có thể ngồi ăn cơm uống nước và có thể ngồi trình

bày những nỗi niềm để được Trời giúp đỡ. Sau đó, những đứa con của họ, cả bảy anh

em đều có sức mạnh vô biên, có nghĩa khí và cùng xây dựng và phát triển buôn làng

mà không có một thế lực nào dám phá hoại. Như vậy, trời không chỉ giúp cho họ có

được những đứa con bình thường như ước nguyện của họ và còn có cả sức mạnh của

những vị thần nữa. Cách thức để người trần mang trong mình những sinh linh kì diệu

phải chăng là ước nguyện của con người về đời sống tinh thần? Thế giới thần linh

được kéo lại gần hơn với cuộc sống của con người. Con người sẽ bớt đau khổ khi bên

cạnh luôn có một thế lực siêu nhiên luôn sẵn sàng giúp đỡ. Khi tư duy nguyên thủy

còn chi phối mạnh mẽ tới nhận thức cộng đồng nơi đây, họ tin rằng Trời là một vị

thần như con người nhưng khác con người là có thêm sức mạnh mà con người không

có được. Thế giới tự nhiên được xích lại gần với con người nhờ trí tưởng tượng bay

bổng. Từ đó, các vị thần được nảy sinh. Quá trình lao động càng làm nảy sinh những

nhu cầu thẩm mĩ. Sản phẩm của quá trình ấy là sự ra đời và tiếp hợp của các vị thần

33

phò trợ trong đời sống tinh thần của họ. Chỉ có lực lượng vô hình nhưng đầy quyền

năng mới đủ sức mạnh như các vị thần phò trợ mới cứu vớt họ ra khỏi thế giới hỗn

độn. Họ tư duy theo lối nguyên thủy, họ tin vào sức mạnh của giới thần tiên cho rằng

Trời cũng là “con người”.

Các dân tộc sống chủ yếu bằng nghề nông, cây trồng chủ yếu là lúa rẫy. Với

trình độ thấp kém phụ thuộc gần như đến phó mặc cho thiên nhiên người bản địa

chưa giải thích được một cách khoa học các hiện tượng tự nhiên xảy ra xung quanh

họ. Họ cho rằng mất mùa, được mùa, hạn hán hay lũ lụt đều do các vi thần linh điều

khiển mà tập trung là hai vị thần: Trời (Yang adai) và thần Lúa (Yang hri). Từ trong

tâm thức nguyên thủy của họ, Trời là một đấng linh thiêng cao cả và cũng chính Trời

là người cứu vớt tâm hồn, giúp đỡ họ khi họ gặp khó khăn. Từ một nhân vật không có

thật nhưng có quyền uy và sức mạnh vô biên, Trời trở thành một nhân vật của dân

gian. Đây là sản phẩm của nhận thức cảm tính nên những gì trừu tượng thường được

hình dung dưới những sự vật cụ thể. Nguyễn Đổng Chi khẳng định rằng “Các nhân

vật vốn là biểu tượng của tôn giáo như Bụt, Tiên, Ngọc Hoàng … đều đã được cái

nhìn thực tiễn của dân gian – dân tộc nhân cách hoá để trở thành lực lượng cứu tinh

đối với mọi người dân cùng khổ.” [9, tr.1635]. Khi yếu tố dân chủ nguyên thủy còn

chiếm địa vị thống trị trong xã hội thì các vị thần bình đẳng với nhau. Khi xã hội có

giai cấp xuất hiện thì có sự phân biệt đẳng cấp trong thế giới của thần. Sự phân loại

tất yếu của các vị thần nảy sinh khi xã hội phát triển ở mức độ cao hơn. Vị thần nào

có quyền lực nhất sẽ nắm toàn quyền trong tay, mỗi vị thần đều có những nhiệm vụ

cai quản riêng.

Trời là nơi thể hiện cho sự công bằng, là người “cầm cân nảy mực” giúp họ đấu

tranh chống lại cái ác, lấy lại tự do công bằng cho họ. Truyện Voi và Kiến cho thấy

rõ vai trò của nhân vật phò trợ. Con Voi với thân hình đồ sộ đã ăn hiếp các loài vật

khác, đã có thái độ ngang ngược nên Kiến và Kì nhông đã lên trời hỏi kiện. Lúc này,

Trời vui vẻ nhận lời và đã dạy cho Voi một bài học và trừng trị Voi bằng cách để cho

người cưỡi lên đầu lên cổ, khi chết muốn sống lại thì chôn vào cây bằng lăng, nếu

muốn chết hẳn thì chôn vào cây dừng.

34

Nhân vật phò trợ trong truyện cổ của người dân tộc ở Gia Lai không xuất hiện

một cách đột ngột như Tiên hay Bụt nhưng vẫn luôn luôn hướng về con người, theo

dõi con người, nâng đỡ con người trong mọi hoàn cảnh khó khăn. Thậm chí đôi khi

còn biến dạng thành một con người khác chẳng hạn như trời biến thành ông già trong

truyện Chiếc quạt thần để giúp chàng trai Y Rít đi tìm vợ. Ông già ấy nhìn xuống

trần gian thấy Y Rít không qua được vùng nước rộng nên đã chỉ cách cho chàng có

thể qua bên kia biển để tìm vợ. Ở đây Trời không xuất hiện trực tiếp mà hiện hình

trong giấc mơ. Một trong những biểu hiện phản ánh thế giới nội tâm của con người là

giấc mơ. Giấc mơ là bức thông điệp được gửi từ các vị thần, mang theo bao sức mạnh

tiên tri về những điều sẽ tới. Nhà nghiên cứu Kahlil Gibran đã từng khẳng định: “

Hãy kỳ vọng vào giấc mơ, nơi đó đang ẩn giấu cánh cửa để đi đến điều trường tồn

bất diệt”. Nói như nhà Phân tâm học Pierre Daco: “ Người ấy liên hệ với những con

người, những nơi chốn, những đồ vật, những con thú… mà trong lúc nằm mơ, người

ấy coi là những thực thể, cũng giống như những hiện tượng trong đời sống thực khi

tỉnh thức” [34,tr.9]. Họ tin rằng thần linh xuất hiện dù ở hoàn cảnh nào đều có linh

nghiệm vì vậy cho nên chàng Rít đã làm theo từ đó trở thành tù trưởng lớn mạnh.

Đôi khi nhân vật phò trợ không trực tiếp xuất hiện hay biến dạng thành người

mà sai người khác thực hiện nhiệm vụ đó hoặc là biến phép cho người khác xuống

trần gian để giúp đỡ. Mô típ này xuất hiện khá nhiều trong truyện cổ. Chúng tôi sẽ

trình bày rõ hơn trong phần chương 3 về các mô típ liên quan đến nhân vật phò trợ.

Thông thường người được thần phái đến là những người thân thuộc, thí dụ như con

gái hoặc cận thần thân thuộc của mình. Giống như trong câu chuyện: Chàng Lười.

Chàng trai vì quá lười biếng, không làm nhưng toàn ăn uống xong rồi lại ngủ đến

mức cha mẹ tức giận, đuổi đi. Thấy vậy thần tiên hóa phép cho con gái của mình

xuống trần gian để giúp đỡ chàng trai đó. Mới đầu, cô gái ấy biến thành một cô gái

xinh đẹp, giúp chàng trai làm việc nhà, sau dần làm vợ chàng trai. Ngày ngày trôi

qua, người vợ đã giúp chồng không còn lười biếng nữa. Xong nhiệm vụ, người vợ

liền bay về trời. Kết thúc có hậu của truyện cổ tích các dân tộc thiểu số ở Gia Lai

khẳng định vai trò của Thần trong việc đem tới cho con người một cuộc sống tốt đẹp

hơn.

35

Khảo sát các nhân vật là Trời, Thần, Tiên trong truyện cổ các dân tộc thiểu số ở

Gia Lai, chúng thống kê tần số xuất hiện theo bảng sau:

Bảng 2.1. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là Trời, Thần, Tiên

Tiêu chí Trời Thần Sét Thần Tiên

Dân tộc Nước

Ba na 6/ 10 lần 1/3 lần 1/ 3 lần 1/1 lần

Jơ rai 4/10 lần 2/ 3 lần 2/3 lần 0 lần

Dựa vào bảng khảo sát trên chúng tôi thống kê được 10 lần xuất hiện hình ảnh

phò trợ là Trời, trong đó truyện của dân tộc Jơ rai chiếm 4/10 lần, còn truyện của dân

tộc Ba ba gồm 6/10 lần xuất hiện; những truyện có xuất hiện hình ảnh nhân vật phò

trợ dạng Trời như: Kén chàng rể (Ba na), Nguồn gốc các dân tộc (Ba na), Sự tích

Ia Nueng (Jơ rai), Chiếc quạt thần (Ba na), Gươm ông Tú (Ba na), Chàng Reng

(Jơ rai), Hai chàng trai lành nghề (Ba na), Chàng lười (Jơ rai), Voi và Kiến (Jơ

rai), Cuộc chiến của các tù trưởng (Ba na); Những truyện có xuất hiện là Thần Sét:

Đăm Dông đánh thần Sét (Ba na), Di ông đi lấy mặt trời (Jơ rai), Cây tông lông

(Jơ rai); Những truyện xuất hiện thần Nước: Sự tích Ialy (Ba na), Chàng Reng (Jơ

rai), Chiếc sáo thần kì (Jơ rai); Chỉ có một truyện duy nhất xuất hiện hình ảnh Tiên

của dân tộc Ba na, đó là câu chuyện Chàng Jăng Gre (Ba na).

Hình ảnh Trời chiếm số lượng nhiều nhất, tiếp đến là thần Sét, sau nữa là thần

Nước. Điều này cho thấy vai trò của Trời đối với cuộc sống của các dân tộc nơi đây

rất quan trọng. Chúng tôi khảo sát toàn bộ 24/37 truyện có 2/24 truyện xuất hiện hình

ảnh nhân vật phò trợ là phụ nữ. Đó là câu chuyện : Chàng Jăng Gre (bà Tiên nữ

hiện lên ban cho chàng gươm thần, khiên thần giúp chàng bay về trời), Cuộc chiến

của các tù trưởng (vợ ông Trời nung hai anh em trong lò bát quát để hai anh em có

sức mạnh phi thường). Hai câu chuyện này đều của dân tộc Ba na. Người Ba na có

tục bắt chồng, ở rễ, theo chế độ mẫu hệ. Mọi quyền lực trong gia đình đều do người

phụ nữ nắm quyền. Chính vì vậy trong truyện cổ của họ chúng ta bắt gặp dấu ấn văn

hóa các dân tộc khẳng định vai trò người phụ nữ rất quan trọng. Người Jơ rai cũng

theo chế độ mẫu hệ tuy nhiên chúng tôi chưa tìm thấy trong truyện cổ của họ xuất

hiện hình ảnh nhân vật phò trợ là người phụ nữ. Ngoài ra chúng tôi thấy có một

36

truyện có hình ảnh bà Tiên cũng là truyện cổ của người Ba na. Một số ít người Ba na

sinh sống trong các buôn làng gần với người Việt cho nên có thể do ảnh hưởng một

phần của văn hóa người Việt vào đời sống của họ. Sau thế kỉ XX, người Việt cùng

với một số các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc bắt đầu di cư vào lập nghiệp ở

đất này. Hiện tại, chúng tôi có tìm thấy có ba văn bản truyện cổ có xuất hiện nhân vật

phò trợ là Tiên, đây là những sản phẩm của người Việt khi tới vùng đất đỏ: Sự tích

núi Jađok, Đàn ngựa núi hiển hách, Sư tích cây ké phất cờ. Sự giao thoa giữa các

nền văn hóa khác nhau càng khẳng định sự phong phú của truyện cổ các dân tộc

thiểu số ở đây. Mặt khác càng khẳng định nét riêng biệt về dấu ấn các dân tộc.

Theo khảo sát của chúng tôi, trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai,

nhân vật phò trợ là Trời, Thần và Tiên xuất hiện với chức năng chủ yếu sau: phò trợ

về việc giải quyết những nhiệm vụ khó khăn. Trong chức năng này, nhân vật phò trợ

có nhiệm vụ giúp nhân vật chính vượt qua khó khăn. Nhân vật phò trợ hóa phép để

nhân vật chính di chuyển hoặc nhân vật phò trợ để nhân vật chính cưỡi trên lưng hoặc

là nhân vật phò có nhiệm vụ ban vũ khí thần kì để nhân vật chính có thể di chuyển

được. Trường hợp nhân vật phò trợ là Trời, Thần, Tiên thường hóa phép để con

người có sức mạnh linh diệu hoặc là ban vũ khí thần kì để giúp con người di chuyển.

Bà Tiên trong truyện Chàng Jăng Gre đã ban cho chàng vũ khí là gươm thần giúp

chàng bay từ dưới đất lên trời. Chàng Y Rít trong Chiếc quạt thần đã được ông Trời

chỉ cho cách bay qua vùng biển rộng lớn để tìm vợ.

Trường hợp nhân vật phò trợ để nhân vật chính cưỡi trên lưng không xuất hiện ở

dạng phò trợ này trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Tuy xuất hiện ở

dạng người, gần gũi với con người nhưng những vị thần có sức mạnh vô biên. Khi

con người không thể tin vào bất kì ai, bất kì điều gì thì sự linh nghiệm của các vị thần

có ý nghĩa hết sức quan trọng. Mọi mâu thuẫn lúc này được giải quyết bằng tư duy

duy tâm. Trình độ nhận thức của con người càng thay đổi ở mức độ cao hơn khi xã

hội phát triển.

Chức năng này theo Propp được gọi là thanh toán tai họa hay sự thiếu thốn.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, nhân vật chính gặp nhiều khó khăn,

thách thức thậm chí đôi khi đó là tai họa. Nhiệm vụ của nhân vật phò trợ sẽ thanh

37

toán tai họa hay sự thiếu thốn để nhân vật chính hoàn thành nhiệm vụ. Việc thanh

toán này phụ thuộc vào tính chất của cuộc chiến, kẻ thù của cuộc chiến. Thường nhân

vật phò trợ cung cấp phương tiện thần kì cho nhân vật chính, tham gia trực tiếp trong

việc tiêu diệt kẻ thù, hoặc là mách bảo những cách giải quyết những xung đột của

nhân vật chính.

Nhân vật phò trợ có chức năng biến hóa của nhân vật chính thành một nhân vật

có sức mạnh kì diệu khác để tiêu diệt kẻ địch. Nhờ có các chức năng này mà nhân vật

chính có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tuyệt đối. Nếu thất bại thì đó

chẳng qua là những sự thử thách còn kết cục vẫn là tất thắng. Truyện cổ các dân tộc

thiểu số ở Gia Lai cũng cho thấy có xuất hiện các chức năng này của nhân vật phò

trợ.

Việc cứu thoát nhân vật chính thoát khỏi truy nã của nhân vật phò trợ không

xuất hiện trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Điều này vượt ra khỏi

mô hình chức năng của nhân vật phò trợ mà Propp đã khái quát trong công trình về

Hình thái học của mình. Vượt ra ngoài mô hình cấu tạo chức năng của nhân vật phò

trợ mà Propp đã đưa ra, phải chăng đây là điểm mới trong truyện cổ của các dân tộc

thiểu số ở Gia Lai mà Propp chưa bao quát tới?

Như vậy, nhân vật phò trợ trong truyện cổ của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai

xuất hiện giống như một con người thật nhưng có phép thần, hình tượng này vừa

mang một vài nét giống như Bụt hay Tiên trong truyện cổ của người Việt là luôn sẵn

lòng giúp đỡ khi con người gặp khó khăn, hoạn nạn. Trời, Thần, Tiên trong truyện cổ

của dân tộc ở Gia Lai mang ý nghĩa là vị thần linh tối cao thống lĩnh chư thần, nhưng

vị chúa tể duy nhất của thế giới thần linh là Trời. Vì giữ địa vị tối cao vô thượng nên

Trời có quyền lực vô hạn, có thể quan sát và chi phối đến tất cả các mặt của giới tự

nhiên và đời sống xã hội. Trời là vị tổ sản sinh và hóa dục nhân loại vạn vật, đồng

thời thiết lập nên trật tự xã hội loài người. Trời luôn đầy ắp lòng yêu thương, có

những tình cảm vui mừng buồn giận của con người, thường quan sát theo dõi công tội

của từng người để thưởng thiện phạt ác.

38

2.2.2. Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng phò trợ về việc thay đổi về không

gian

Chức năng giải phò trợ về việc thay đổi không gian thường xuất hiện trong

nhóm nhân vật là đồ vật thần kì, con vật thần kì

 Nhân vật là đồ vật thần kì:

Đồ vật thần kỳ trong các truyện cổ xuất hiện khá nhiều. Mỗi vật dụng đóng vai

trò như một vị thần, giao tiếp với con người bằng những dấu hiệu của linh cảm.

Trong truyện cổ Nhật Bản đồ vật thần kì cũng chiếm một số lượng không nhỏ như

Cọng rơm triệu phú, Cậu bé sinh ra từ quả đào, Cây liễu thành Kyoto, Cái ấm

hạnh phúc, Chim sẻ bị cắt lưỡi, Chiếc khăn thần kỳ, Hai anh em.... các truyện

hay trong truyện cổ Trung Quốc cũng không ít như truyện Cây bút thần, Cô gái

trong vỏ hàu, Chiếc gương soi của bà Tiên... những vật dụng quen thuộc, những đồ

vật, sự vật gắn bó với con người sống chủ yếu bằng lao động nông nghiệp. Những

chiếc hộp thần, nước thần, chậu hoa thần kỳ, quả đào, chiếc giỏ tre, cái ấm đun nước,

cây liễu, cọng rơm..., có những phép biến hóa kỳ diệu dường như đã rất quen thuộc

đối với chúng ta.

Trong truyện cổ của các dân tộc ở Gia Lai thì hình ảnh các vật dụng như khiên,

rìu, lao… biết bay xuất hiện khá nhiều. Ở đây, những vật dụng này thường xuất hiện

không đem lại tài sản hay của cái để giúp nhân vật giàu có, sung túc mà thường giúp

con người di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Theo cuốn “Nét đặc trưng văn hóa

cổ truyền của người Jơ rai ở Tây Nguyên” có ghi lại đồng bào quan niệm chiếc rìu

là công cụ lao động, vũ khí chống kẻ thù, nên nó tượng trưng cho sức khỏe. Cha mẹ

khấn thần rìu mong cho con có sức khỏe, cứng rắn như chiếc rìu, có thể đẵn được cây

gỗ to, phá rừng làm rẫy. Các loại thịt ngon đem khấn thần cầu mong thần phù hộ cho

con mình được khỏe mạnh. Những quan niệm ấy càng khẳng định được vai trò to lớn

của những công cụ lao động, và khẳng định rằng nông nghiệp là ngành chính trong

đời sống dù sơ khai của họ.

Nhân vật phò trợ dạng vật xuất hiện trong các câu chuyện như: Cha con Đăm

Bông Pha, Chiếc sáo thần kì, Chiếc quạt thần, Chàng Jăng Gre …

39

Khảo sát sự xuất hiện của các nhân vật phò trợ là vật thần, chúng tôi thống kê như

sau:

Bảng 2.2. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là đồ vật

Tiêu chí Khiên Nỏ Gươm Chiếc Chiếc Thuốc

thần thần thần quạt sáo thần

Dân tộc thần thần

Ba na 0 1/1 2/ 3 1/1 0 0

lần lần lần lần lần lần

Jơ rai 1/1 0 1/3 0 1/1 2/2

lần lần lần lần lần lần

Dựa vào bảng khảo sát, trên chúng tôi thống kê được số lần xuất hiện hình ảnh

phò trợ là vật thần như sau:

Những vật chỉ xuất hiện trong truyện cổ của người Ba na mà không xuất hiện

trong truyện cổ các dân tộc Jơ rai: Nỏ thần, chiếc quạt thần; những vật này xuất

hiện trong các câu chuyện sau: Chiếc quạt thần (Ba na), Chàng Jăng Gre (Ba na)

với tần số xuất hiện là 1 lần.

Trong khi đó những vật là thuốc thần, khiên thần, chiếc sáo thần lại chỉ xuất

hiện trong truyện cổ của các dân tộc Jơ rai mà không xuất hiện trong các dân tộc Ba

na; những vật này xuất hiện trong các câu chuyện sau: Chàng Reng (Jơ rai), Chiếc

sáo thần kì (Jơ rai), Chàng Dơ Lên và nàng Phơ (Jơ rai) với tần số là 1 lần.

Ngoài ra hình ảnh nhân vật là gươm thần xuất hiện cả trong truyện cổ của cả hai

các dân tộc nhưng xuất hiện nhiều hơn trong truyện cổ của các dân tộc Ba na chiếm

2/3 lần. Gươm tần xuất hiện trong các truyện cổ sau: Chàng Jăng Gre (Ba na),

Gươm ông Tú (Ba na), Chàng Dơ Lên và nàng Phơ (Jơ rai). Sự xuất hiện của

gươm thần phản ánh dấu vết ra đời của xã hội có giai cấp. Khi sự dân chủ trong xã

hội nguyên thủy bị phá vỡ, giai cấp mới được ra đời trên cơ sở lao động và tư hữu về

công cụ lao động. Người quyền lực nắm trong tay những của cải vật chất có giá trị.

Những người khác phải tuân theo những nguyên tắc của người đứng đầu. Khi giai cấp

mới ra đời phù hợp với hoàn cảnh xã hội dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo. Người nào

nắm trong tay nhiều công cụ sản xuất người đó sẽ trở thành thủ lĩnh. Người nào

40

không có tài sản thường phụ thuộc vào người thủ lĩnh. Khát vọng về sự công bằng

thường nảy sinh trong bối cảnh đó. Vậy nên, gươm thần thường xuất hiện trong tay

các chàng trai nghèo, hiền lành, có tài năng gì đó.

Riêng hình ảnh gươm thần trong truyện Gươm ông Tú (Ba na), chúng tôi thấy

có những nét gần giống với truyền thuyết Hồ Gươm của người Việt. Có điều, chiếc

gươm của ông Tú xuất hiện thần kì hơn gươm của Lê Lợi. Nhiều tài liệu để lại tại

vùng đất Gia Lai cho thấy các anh em nhà Tây Sơn mà tiêu biểu là Nguyễn Nhạc và

Nguyễn Huệ đã lập được mối quan hệ anh em giữa người Kinh và người Thượng, tập

hợp được các dân tộc Bắc Tây Nguyên ở vùng Tây Sơn Thượng đạo như người Ba

na, Jơ rai vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại

do ba anh em Quang Trung-Nguyễn Huệ lãnh đạo bùng nổ năm 1771. Vùng rừng núi

An Khê của tỉnh Gia Lai ngày nay trở thành căn cứ địa đầu tiên, được coi là “an toàn

khu” của cuộc khởi nghĩa. Trong công cuộc đấu tranh giữ nước các dân tộc thiểu số

tại đây tham gia rất nhiệt tình. Trong quá trình ấy sự giao thoa văn hóa giữa các dân

tộc thiểu sốcàng được mở rộng. Sự xuất hiện của gươm thần đại diện cho sức mạnh

giai cấp có thể là một dấu hiệu để chúng ta chứng minh ảnh hưởng qua lại của văn

hóa nói chung và văn học dân gian nói riêng. Một điều nữa, hai các dân tộc Ba na và

Jơ rai là hai các dân tộc cố hữu ở vùng đất này từ xa xưa.

Xét về chức năng nhân vật phò trợ là vật thần có nhiệm vụ đưa nhân vật chính di

chuyển từ một không gian này tới một không gian khác để nhân vật chính thực hiện

nhiệm vụ của mình xuất hiện nhiều. Chiếc khiên có phép thuật trong truyện Chàng

Dơ Lên và nàng Phơ được chàng Dơ Lên sử dụng cứu vợ mình trên đường đi tìm

vợ.

Chức năng trợ giúp nhân vật chính thoát khỏi sự truy nã giúp của nhân vật phò

trợ cũng không xuất hiện trong truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Việc làm

cho nhân vật chính trở nên có sức mạnh diệu kì như trong dạng nhân vật phò trợ là

Trời, Thần, Tiên cũng không thấy xuất hiện trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số

ở đây.

Tóm lại, từ những câu chuyện này chúng ta có thể thấy được rằng, những vật

dụng như khiên, lao, tên…có phép thần là những vật dụng cần thiết, gần gũi với cuộc

41

sống nương rẫy, tự do phóng khoáng của họ, những vật dụng ấy thường biết bay. Con

người mong muốn cuộc sống của họ có được sự tự do, no ấm. Các vật thần thì thường

giúp đỡ về đời sống tinh thần, giúp có một tình yêu mãnh liệt, sâu sắc chứ không giúp

về của cải, vật chất như truyện cổ của người Việt. Từ xa xưa, con người hình dung

các hiện tượng tự nhiên, bất kì các các vật dụng nào tồn tại như chính mình. Và đến

lượt mình, con người lại tự đồng nhất với thế giới ấy. Đó là cơ sở tương tác giữa con

người với thế giới thần.

 Nhân vật phò trợ là con vật thần kì

Các nhân vật siêu nhiên thần kì khác như Chim, Trăn Tinh, Hồ Tinh, ma, quỷ…

xuất hiện không ít trong các câu chuyện cổ tích của người Việt, xuất hiện với cả hai

phương diện có lúc cứu người nhưng cũng có lúc hại người. Đối với tộc thiểu số ở

Gia Lai thì loại nhân vật là con vật thần kì này chủ yếu là để cứu trợ cho những người

nào đang gặp khó khăn hay thử thách .

Trong truyện cổ của các dân tộc ở Gia Lai, loại nhân vật này không có nơi chốn

cố định (trên trời, dưới âm phủ hay dưới nước) mà thường ở những khu vực đặc biệt

trong cõi trần như núi cao, rừng rậm, hang động…

Như trong câu chuyện, Chàng Dơ Lên và nàng Phơ. Nàng Phơ là vợ của chàng

Dơ bị tù trưởng bắt mất, chàng Phơ trên đường đi tìm đã gặp biết bao nhiêu sự khó

khăn: vừa đói khát, vừa mệt mỏi, lại đi tìm vợ trong sự vô vọng chàng đã được sự

giúp đỡ của chim. Chim đã hái trái cho chàng ăn, chở chàng đi tìm sau đó lại gặp

được khỉ chỉ đường và chim ri dẫn lối. Hay như trong câu chuyện Cây Tồng Lông.

Câu chuyện kể về hai vợ chồng nghèo, không có con, một hôm người vợ đi làm

nương trời nắng, khát nước, tìm nước thì không thấy vì suối đã cạn, cuối cùng bà tìm

thấy dưới gốc cây Tồng Lông có một vũng nước nhỏ, bà lấy tay vốc nước lên uống

sau này mang thai và đẻ ra hạt cây Tồng Lông. Sau này, hạt Tồng Lông được trồng

sau vườn và trở thành loài cây cao lớn vô vùng, sau này có con chim phượng hoàng

tới đẻ trứng, không ngờ trứng rớt xuống gốc cây sau này trở thành chim vào nhà nhận

ông bà già làm bố mẹ, sau này con chim ấy biến thành chàng trai cường tráng đi giết

một con chim chuyên phá hoại làng. Một hôm chàng đang ngồi dưới gốc cây Tồng

Lông nghĩ ngợi tìm cách giết con chim ấy thì đột nhiên Ngà Voi xuất hiện cùng với

42

hạt Tồng Lông nói “chúng em sẽ giúp anh giết con chim ác này” rồi chỉ cách cho

chàng tìm cách giết con chim này. Chàng trai sau khi giết xong thì mới ngỡ ra là con

chim ấy là bố mình. Cuối cùng, chàng đã hoàn thành xong nhiệm vụ của mình và trở

thành tù trưởng lớn mạnh nhất của buôn làng. Hay trong chuyện Chàng cóc. Nàng

H’lúi là một cô gái con nhà nghèo được sự phò trợ cùa lợn lòi. Nó đã chở nàng về

nhà an toàn khi trên người dường như không còn sức sống.

Khảo sát sự xuất hiện của các nhân vật phò trợ là con vật thần, chúng tôi thống

kê như sau:

Bảng 2.3. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là con vật

Phân loại Voi Rắn Cua Sóc Chim

thần thần gáy Lợn Rồng

Truyện cổ

Ba na 0 2/3 1/ 1 1/1 0 0 1/1

lần lần lần lần lần lần lần

Jơ rai 3/3 1/3 0 0 1/1 1/1 0

lần lần lần lần lần lần lần

Dựa vào bảng khảo sát trên, chúng tôi thống kê được số lần xuất hiện hình ảnh

phò trợ là các con vật như sau: Voi thần ( 3 lần) trong đó chỉ xuất hiện trong truyện

cổ Jơ rai; những truyện có xuất hiện hình ảnh nhân vật phò trợ dạng con vật như:

Cây tông lông (Jơ rai), Voi và Kiến (Jơ rai), Con sâu đá (Jơ rai). Rắn thần lại xuất

hiện chủ yếu trong truyện của người Ba na với tần số xuất hiện là 2/3 lần, trong đó

truyện cổ Jơ rai chỉ xuất hiện 1/3 lần; những truyện có hình ảnh Voi thần xuất hiện là:

Chiếc quạt thần (Ba na), Cô em út (Ba na), Chàng cóc (Jơ rai). Nhân vật phò trợ là

Cua, Sóc, Rồng chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong các truyện cổ của các dân tộc

Ba na; đó là những truyện: Tia oong tư và con đại bàng, Cô em út, Nàng trứng gà.

Nhân vật phò trợ là chim Gáy, Lợn chỉ xuất hiện một lần trong truyện cổ của người

Jơ rai: Sự tích Ia nueng, Chàng cóc.

Về mặt biểu tượng Rắn, đó là một hình ảnh phức tạp. Hiện nay, trong dân gian

nhiều nước. Rắn biểu trưng cho sự độc hại, gian hiểm. Và một số tín ngưỡng như Ấn

độ giáo, ngày nay còn thờ Rắn, thần linh Naga. Rắn không những là một biểu tượng

43

phức tạp, mà còn tượng trưng cho các động lực tương phản : tử sinh, âm dương, thiện

ác. Hình ảnh Rắn mang ý nghĩa tượng trưng cho sức mạnh, lòng dũng cảm của con

người Tây Nguyên.

Hình ảnh con Voi và con Rắn thần chiếm số lượng nhiều nhất trong truyện cổ

của các dân tộc thiểu số trong đó hình ảnh Voi thần lại xuất hiện trong truyện cổ các

dân tộc Jơ rai mà không xuất hiện trong truyện cổ của tộc Ba na. Trong khi đó hình

ảnh Rắn thần lại hiện chủ yếu trong truyện cổ dân tộc Ba na và xuất hiện 1 lần trong

truyện cổ người Jơ rai . Sự khác biệt này có điều gì đáng lưu ý? Phải chăng trong văn

hóa các dân tộc Jơ rai, thần Voi có vai trò hết sức ý nghĩa đối với cuộc sống của họ.

Người dân tộc thiểu số ở Gia Lai nhất là người Jơ rai, người Mnông có rất nhiều lễ

cúng dành cho Voi, đó là vị thần linh thiêng nhất của núi rừng, ví dụ như: cúng hồn

Voi, đặt tên cho Voi, cúng cắt ngà Voi, cúng Voi ốm, Voi chết…tất cả đều phải có

chiêng, có rượu cần vang lên. Họ cúng thần Voi, cầu nguyện Ông thần đừng phá hoại

mùa màng, đừng bệnh tật, đừng hại người, đêm ngày bình an. Còn ở người Ba na thì

thần Rắn lại có vai trò quan trọng hơn. Chúng ta tìm thấy sự giao thoa nào về văn hóa

của hai các dân tộc này hay không? Một trong những biểu hiện đầu tiên của sự nhất

thể hóa giữa con người với tự nhiên chính là Tôtem. Theo nhiều tài liệu cho rằng

Tôtem giáo là một trong những hình thức tôn giáo sớm nhất đã sản sinh trên cơ sở

của quan niệm hỗn hợp về thế giới. Tôtem (vật tổ) của dân tộc Kinh là con rồng, của

dân tộc Dao là con chó thần Bàn Hồ,…có khi nào Rắn được xem là vật tổ của các dân

tộc Ba na còn Voi là vật tổ của các dân tộc Jơ rai.

Bên cạnh hình ảnh Rắn còn xuất hiện hình ảnh Rồng trong truyện cổ của người

Ba na. Chúng ta lí giải vấn đề này như thế nào? Rồng hay Tiên là một sản phẩm văn

học xuất hiện khá muộn màng trong tư duy dân tộc, ít nhiều do ảnh hưởng Trung

Quốc và Đạo giáo. Ngay chữ “tiên” cũng mới xuất hiện từ đời Hán. Hình ảnh của rắn

thực sự mang màu sắc phong kiến, đồng nhất với hình ảnh của vương quyền khi nó

gắn liền với hình ảnh của Rồng. Rồng chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Không ít

các nhà nghiên cứu đã khẳng định mối liên hệ đặc biệt này giữa Rắn và Rồng ân

nhân.

44

Ngoài ra, nhân vật phò trợ là Cua, Sóc, Rồng chỉ xuất hiện một lần duy nhất

trong các truyện cổ của các dân tộc Bana mà không xuất hiện trong truyện cổ các

dân tộc Jơ rai. Nhân vật phò trợ là chim Gáy, Lợn chỉ xuất hiện một lần trong truyện

cổ của người Jơ rai mà không xuất hiện trong truyện các dân tộc Ba na.

Như vậy, những con vật xuất hiện trong truyện cổ của người Jơ rai, Ba na

thường mang một phép màu nào đó, thường giúp đỡ con người khi gặp khó khăn. Ở

đây, con vật và loài người như đang hòa quyện vào nhau, con vật thường giúp con

người vượt qua những khó khăn thường như giúp miếng ăn cho khỏi đói, giúp giết

những thế lực phá hoại, giúp tìm đường trở về nhà. Các con vật có tài biến hóa để

giúp con người vượt qua khó khăn và đạt được ước mơ hạnh phúc. Những con vật

này phần lớn là giúp con người để trả ơn cứu mạng, hay thương cảnh nghèo đói của

họ mà ra tay cứu giúp. Bên cạnh đó, hình ảnh Voi và Rắn trở thành hai biểu tượng

đặc trưng cho nét đẹp văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.

Khảo sát các câu truyện cổ, chúng tôi thấy được có những nhiệm vụ chỉ xuất

hiện trong truyện cổ tích của người Ba na mà không xuất hiện trong truyện cổ của

người Jơ rai, chẳng hạn như: Nhân vật phò trợ cho nhân vật chính biến hóa thành một

dạng khác. Riêng chức năng nhân vật phò trợ tham gia vào quá trình di chuyển không

gian chiếm số lượng nhiều nhất. Giúp con người vượt ra khỏi những không gian chật

hẹp, hiểm trở là ước mơ của con người trong việc chinh phục thiên nhiên. Để thực

hiện điều đó cần phải có sức mạnh thần kì. Sự xuất hiện của nhân vật phò trợ đã giúp

con người thỏa nguyện ước mong. Cũng có nhiệm vụ không xuất hiện trong truyện cổ

của các dân tộc Jơ rai mà cũng không xuất hiện trong truyện của người Ba na, chẳng

hạn như: việc cứu thoát khỏi việc truy nã. Ở đây vai trò của người anh hùng có ý

nghĩa hết sức quan trọng. Tầm vóc của người tù trưởng qui định sức mạnh của họ đối

với dân làng. Chính vì vậy cho nên bất kì một sự cứu thoát khỏi truy nã cũng làm cho

vẽ đẹp vĩ đại mà con người Tây Nguyên muốn thể hiện. Phải chăng đó là dụng ý của

dân gian?

Nếu căn cứ vào sơ đồ phân bổ các chức năng theo nhân vật của Propp trong

truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, chúng tôi nhận thấy rằng nhóm hành

động của người giúp đỡ thần kì (nhân vật phò trợ) cũng bao gồm các nhiệm vụ như

45

đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, do phạm vi khảo sát của Propp tương đối rộng, do tính

chất từng loại truyện cho nên có những chức năng của nhân vật phò trợ mà Propp

khảo sát không xuất hiện trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.

Tóm lại, nhìn từ góc độ chức năng nhân vật phò trợ, chúng tôi thấy rằng truyện

cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai cũng xuất hiện một số chức năng của nhân vật

phò trợ như Propp khảo sát. Sự tương đồng này cho phép chúng ta khẳng định tầm

quan trọng của Hình thái học trong việc nghiên cứu cấu tạo của truyện cổ tích của thế

giới và Việt Nam nói riêng. Về cơ bản lí thuyết Propp phù hợp với thực tế tài liệu

truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Trong kho tàng truyện cổ các dân tộc thiểu

số ở Gia Lai có những đặc trưng riêng về cấu trúc cốt truyện, phương thức phản ánh

hiện thực so với các thể loại khác.

Tuy nhiên, những hiện tượng vượt ra ngoài sơ đồ cấu trúc của Propp trong

truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai như: sự vắng mặt hàng loạt các chức

năng liền nhau trong truyện cổ được khảo sát, sự xuất hiện lẻ tẻ các các năng của

nhân vật phò trợ, sự xuất hiện thêm những chức năng mới của nhân vật phò trợ khiến

chúng ta phải suy nghĩ, lí giải.

Nằm song song với hệ thống truyện cổ của người Việt, truyện cổ của các dân tộc

thiểu số cũng có những biểu hiện của tính dân tộc, đặc trưng thể loại, góp phần làm

phong phú thêm kho tàng truyện cổ. Điều này được chúng tôi triển khai trong các

phần tiếp theo của luận án trong đó phần so sánh với truyện cổ của người Việt sẽ giúp

chúng ta nhìn nhận được sự tương đồng, khác biệt trong việc xây dựng nhân vật phò

trợ.

2.3. So sánh nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia

Lai và truyện cổ tích người Việt

Để so sánh sự khác biệt và sự tương đồng về nhân vật phò trợ trong truyện cổ

của người Việt với các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, chúng tôi đã dựa vào các tài liệu

sưu tầm của các tác giả sau:

Ở Trung Bộ theo sách Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập VI; Truyện

cổ tích thần kì trong kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ của Ninh Viết Giao

chủ biên. Ngoài ra còn có Hòn trống mái (Bùi Khắc Nguyên chủ biên). Trong tài

46

liệu này có 18 truyện cổ thần kì, tần số xuất hiện của yếu tố thần kì khoảng 41 lần

nhưng các yếu tố thần kì liên quan tới nhân vật phò trợ cho nhân vật chính có khoảng

35 lần.

Ở Nam Bộ, theo sách Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập VI, truyện cổ

tích thần kì; các sách như: Truyện cổ dân gian Nam Bộ (Nguyễn Hữu Hiếu), Văn

học dân gian Bến Tre (Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Thị Bạch Liên), Huyền thoại

miệt vườn (Nguyễn Phương Thảo), Truyện dân gian đồng bằng sông Cửu Long

(Hà Thắng chủ biên, Sơn Phước Hoan, Ngô Kim Long, Tào Văn Ân), Văn học dân

gian đồng bằng sông Cửu Long ( Khoa Ngữ Văn, Đại học Cần Thơ) có 17 truyện

cổ tích thần kì, trong số truyện này có khoảng 27 lần nhân vật phò trợ xuất hiện.

Ở Bắc Bộ, chúng tôi căn cứ vào Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, quyển 1

(tập 1, 2,3), quyển 2 (tập 4, 5) của Nguyễn Đổng Chi, ở đây chúng tôi lựa chọn 50

câu chuyện có liên quan tới nhân vật phò trợ của truyện cổ tích người Việt. Nhân vật

phò trợ xuất hiện 40 lần.

2.3.1. Sự tương đồng

Dựa vào các tài liệu trên, chúng ta có thể thấy được nhân vật phò trợ dạng vô

hình có tần số xuất hiện gần như không đáng kể so với sự xuất hiện của nhân vật phò

trợ hữu hình. Điều này đúng với cả ba miền Bắc –Trung-Nam.

Nhờ sự giúp đỡ của lực lượng thần kì mà xung đột được giải quyết theo hai

hướng: cái tiến bộ, cái tích cực thắng thế và được khẳng định các lạc hậu, tiêu cực bị

thất thế. Sự thắng lợi của các yếu tố tuyến thiện suy cho cùng là niềm tin vào triết lí

“ở hiền gặp lành” và ước mơ công lí của nhân dân ta như trong truyện cổ tích ta

thường gặp.

Sự xuất hiện của nhân vật Tiên trong truyện cổ của các tộc người càng khẳng

định sự giao thoa văn hóa trong quá trình phát triển xã hội.

2.3.2. Sự khác biệt

Trong truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, nhân vật phò trợ thường xuất

hiện một lần và phò trợ thành công còn trong truyện người Việt thường xuất hiện đột

ngột, ngay khi nhân vật gặp khó khăn, hỏi lí do, giúp đỡ rồi biến mất ngay lập tức, có

thể xuất hiện nhiều lần trong câu chuyện, giúp đỡ cho nhân vật thành công. Nếu ở

47

truyện cổ người Việt xuất hiện những ông Bụt, ông Tiên là chủ yếu ...thì ở truyện cổ

người dân tộc Gia Lai lại xuất hiện những vị thần (thần sông, thần núi, thần làng,

Trời.).

Nếu yếu tố Tiên, Bụt xuất hiện tương đối nhiều, chiếm tỉ lệ tương đối cao và cao

nhất trong cấu tạo cốt truyện của người Việt (Phụ lục 2) thì yếu tố Trời, Thần lại xuất

hiện nhiều trong truyện cổ của tộc người thiểu số ờ Gia Lai. Ngay trong từ vùng miền

của người Việt cũng có sự khác nhau hết sức rõ ràng. Nếu như người Việt ở Nam

Trung Bộ không quen dùng thậm chí cũng có nơi không dùng (Bình Định, Phú Yên)

mà thường dùng hay chỉ dùng danh từ Tiên đề chỉ một dạng người trợ giúp tuyến

thiện còn ở Bắc Bộ thì thường dùng từ Bụt, Nam Bộ là từ Phật, được xem là “Bậc

giác ngộ” ở trên cao nhưng lại có rất ít khả năng xuất hiện một cách trực tiếp để cứu

người tốt và trừng trị kẻ ác như Tiên. Căn cứ vào những dấu tích văn hóa, lịch sử văn

hóa của từng vùng miền, chúng ta có thể dễ dàng lí giải tại sao có thể có sự khác biệt

như vậy. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì Nam Trung Bộ không được dùng để chỉ nhân

vật phò trợ dạng người trong truyện cổ vì những tác nhân văn hóa và lịch sử. Vào

triều Hậu Lê lúc khai phá vùng đất Nam Trung Bộ thì Phật giáo không còn vai trò

quan trọng trong đời sống của người dân nơi đây nữa. Vì vậy, cho nên ảnh hưởng của

các yếu tố này là không có hoặc rất ít. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào bảng số liệu ở tài

liệu C thì chúng ta vẫn thấy có một vài truyện ở đây vẫn xuất hiện yếu tố này. Có lẽ,

dấu ấn của người sưu tầm ít nhiều ảnh hưởng từ Phật giáo hoặc do sự tác động một

phần nào đó của các vùng miền khác.

Trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, nhân vật phò trợ xuất hiện

như một người thường, có sự dự báo trước, nhân vật chính đi tìm nhân vật phò trợ

còn truyện người Việt thường xuất hiện đột ngột, ngay lập tức. Giống như trong

chuyện Chàng Reng, kể về hành trình đi tìm ông Trời để giúp sức. Câu chuyện kể

rằng: Ở một làng nọ có hai vợ chồng là Kul và H’Liu lấy nhau đã lâu mà chưa có

con. Một hôm, hai vợ chồng đem cơm lên gặp ông Trời xin được có con. Họ đi hết

hai năm rưỡi mới tới nơi được. Trời đã giúp cho họ thỏa ước nguyện.

Người giúp đỡ trong truyện cổ người Việt không phải là mụ phù thủy, là con

ngựa có phép… mà một thế lực siêu nhiên nào đó không biết rõ (người em chết tự

48

nhiên biến thành đá vôi, người anh hóa thành cây cau, người vợ bồng con lên núi

ngóng chồng lâu ngày hóa đá…) hoặc là Diêm Vương (Diêm Vương thương tình cho

ba người hóa thành ba ông đầu râu, hoặc thổ thần (Thổ thần báo mộng cho Lang Liêu

biết cách làm hai loại bánh tượng hình cho trời và đất) hoặc các con vật biết ơn nói

chung (chó, mèo…)

Đối với nhân vật phò trợ là vật thần sử dụng âm thanh phát ra để giúp nhân vật

tìm người yêu, tìm vợ hoặc là dự báo trước những điều không may sẽ xảy ra. Như

trong câu chuyện Chiếc sáo thần kì kể rằng: Chàng trai nghèo khổ mồ côi cha mẹ

tên là H Rit được bà Pôm nhận làm con nuôi. Vì mặc cảm mình là người xấu xí nên

đêm nào chàng cũng ra bờ suối than thở. Ở đây, chàng ngủ thiếp đi và khi chàng tỉnh

dậy gặp được con gái thủy tề xinh đẹp. Đem lòng yêu người con gái ấy chàng ngày

đêm nhớ mong, quên ăn quên ngủ. Thần linh hiện lên chỉ bảo và ban cho chiếc sáo

thần. Nhờ siêng năng, chàng tập luyện thổi sáo thật giỏi rồi làm theo lời thần dặn.

Cuối cùng chàng lấy được người con gái ấy và sống hạnh phúc suốt đời. Còn trong

truyện người Việt âm thanh phát ra giúp tiêu diệt các thế lực đen tối trong xã hội khi

xã hội phân hóa giai cấp. Tiếng đàn thần kì của chàng Thạch Sanh vang lên khiến

quân sĩ bủn rủn chân tay không còn nghĩ tới chuyện đánh nhau nữa. Tiếng đàn làm

quân 18 nước chư hầu phải cuốn giáp xin hàng. Với khả năng thần kì, tiếng đàn là đại

diện cho cái thiện và tinh thần yêu chuộng hoà bình của nhân dân ta. Nó là vũ khí đặc

biệt để cảm hoá kẻ thù. Nhờ đó mà Lí Thông bị vạch mặt. Tiếng đàn thần là tiếng

đàn của công lý.

Đối với nhân vật là con vật thường có nhiệm vụ là tiêu diệt yêu tinh, trừ ma quỉ,

con vật linh thiêng này sẽ có nhiệm vụ dẫn đường chỉ lối và dẫn dắt nhân vật chính

tới nơi cần tìm. Dường như con vật này là đại diện của thần linh nhưng lại sống trong

môi trường của con người. Sau khi phò trợ nhân vật chính, hoàn thành nhiệm vụ của

mình, các con vật linh thiêng này thường sống chung với nhân vật chính trong buôn

làng. Âm hưởng của núi rừng đã chi phối tới suy nghĩ của các dân tộc, bước ra khỏi

nhà là gặp những con vật, đi săn họ cũng mang chúng đi, đi lên rẫy lên nương cũng

mang đi cho nên chúng hết sức gần gũi với cuộc sống con người. Còn trong truyện

49

của người Việt thường giúp nhân vật vượt qua khó khăn, đạt được sự giàu có, cuộc

sống ấm no, hạnh phúc.

Sau khi trải qua thử thách của người tặng và nhân vật chính phản ứng lại thì

chính anh ta tiếp nhận được phương tiện thần kì hay người trợ thủ thần kì (phương

tiện thần kì). Những phương tiện thần kì ấy có thể là những con vật có phép (ngựa,

đại bàng,…), những vật mà từ đó giúp đỡ thần kì (chiếc nhẫn với các chàng lực

sĩ,…), những đồ vật có tính chất thần kì (cái gậy, cây đàn, cây kiếm…), những phẩm

vật được ban trực tiếp (sức khỏe, khả năng biến hóa…) và còn rất nhiều sự ban

thưởng này mang tính chất một sự ban thưởng. Một số truyện cổ tích thần kì kết thúc

ở lúc tặng thưởng nhưng trong trường hợp như vậy, vật tặng thưởng có giá trị vật

chất nào đó chứ không phải có vai trò là một phương tiện thần kì.

Nhìn chung, nhân vật phò trợ trong truyện cổ của người Việt để trừng trị người

ác xuất hiện không nhiều lắm, có chênh lệch cũng không nhiều nhưng cũng không

phải là không có nhất là ở tài liệu A và B.

Tính ổn định của truyện cổ tích người Việt cho phép chúng ta khẳng định tính

dân tộc, thống nhất của văn học dân gian và càng khẳng định việc ứng dụng lí thuyết

Propp có vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu cấu tạo truyện cổ tích thế giới nói

chung và truyện cổ Việt Nam nói riêng.

Nhóm hành động của người giúp đỡ thần kì gồm sự thay đổi về không gian, sự

thanh toán tai họa hay sự thiếu thốn, việc cứu thoát khỏi việc truy nã, việc giải quyết

những nhiệm vụ khó khăn, sự biến hóa của nhân vật chính. Truyện cổ người Việt hầu

như vắng mặt hoàn toàn các chức năng này nhưng do chức năng sự truy nã ít xuất

hiện nên chức năng cùng cặp với nó là việc giải thoát khỏi sự truy nã cũng ít có mặt

trong truyện kể.

Nhóm hành động của người giúp đỡ thần kì trong truyện cổ người Việt theo

khảo sát của Tăng Thị Kim Ngân bao gồm sự thay đổi về không gian (27 lần), sự

thanh toán tai họa hay thiếu thốn (46 lần), việc cứu thoát khỏi sự truy nã (4 lần), việc

giải quyết những nhiệm vụ khó khăn, sự biến hóa của nhân vật chính (9 lần). Còn

trong truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai thì sự thay đổi về không gian theo (7

lần), sự thanh toán tai họa hay thiếu thốn (13 lần), việc cứu thoát khỏi sự truy nã

50

(không xuất hiện), việc giải quyết những nhiệm vụ khó khăn, sự biến hóa của nhân

vật chính (6 lần). Tất cả những chức năng này đều có mặt trong truyện cổ người Việt

còn riêng chức năng sự truy nã ít xuất hiện nên chức năng cứu thoát khỏi sự truy nã

cũng ít có mặt trong truyện cổ. Chức năng sự truy nã lại không xuất hiện trong truyện

cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Có lẽ vai trò của người anh hùng không cho

phép chịu thất bại trước khó khăn. Điều này, truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai

ảnh hưởng phần nào của sử thi còn truyện cổ người Việt thì ít hơn.

Phần lớn những truyện cổ dân gian của người Việt có những yếu tố thần kỳ đã

mang đến cho con người những điều tốt đẹp, chứa đựng những khát vọng sâu xa.

Điều đó thể hiện sự chia sẻ, đồng cảm và nói lên ý chí, nghị lực của người lao động

vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong cuộc đấu tranh đó, những người lao động còn

đơn độc chưa đủ mạnh để chống lại những thế lực hắc ám nên họ mong muốn có một

phép màu nhiệm giúp đỡ để điều khiển cán cân công lý thực hiện được những mong

muốn của mình. Nhưng với người dân tộc Jơ rai, họ không nghĩ như vậy, họ đến với

thiên nhiên như con hổ về núi, như con nai về rừng vậy. Họ xem thiên nhiên là cuộc

sống của họ, sự đấu tranh giành lại công lí chỉ ở mức tư duy rất nguyên thủy, ở đây

không có sự phân hóa giai cấp.

Để tìm hiểu sự khác biệt này theo chúng tôi, người Việt ảnh hưởng của Phật

giáo, Nho giáo. Nho giáo và Phật giáo được xem là hai trong những tôn giáo có sự

chi phối mạnh mẽ đối với đời sống tâm linh của người Việt. Còn các dân tộc thiểu số

chịu chi phối cùa quan niệm vạn vật hữu linh. Về nhân vật phò trợ, nếu ở truyện cổ

người Việt xuất hiện những ông Bụt, ông Tiên ...thì ở truyện cổ người dân tộc thiểu

số ở Gia Lai lại xuất hiện những vị thần (thần sông, thần núi, thần làng, Trời..). Điều

này do đặc trưng dân tộc chi phối, người Việt trọng nhân nghĩa, sáng tạo ra ông Bụt,

ông Tiên như là đấng tối cao, sáng suốt để giải quyết mọi vấn đề, nhất là khi con

người gặp nạn hay khó khăn. Còn trong tâm thức của người Jơ rai, họ tin rằng thế

giới tự nhiên là muôn màu muôn vẻ, có một lực lượng vô hình có quyền năng vô hạn

ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống họ, họ tin rằng có một thế giới nữa tồn tại song

song với cuộc sống của họ, cho nên họ cảm thấy rất gần gũi nhưng lại có phép màu.

Lực lượng vô hình ấy được qui tụ ở khái niệm Yang (thần) của người Jơ rai. Theo

51

quan niệm của họ, có rất nhiều thần tồn tại như thần ruộng nương (yang hma), thần

sét (yang ktan), thần bến nước (yang pên ia),…những thần này luôn gắn chặt với

cuộc sống của họ. Văn hóa tâm linh còn gọi là văn hóa tôn giáo hay tín ngưỡng thể

hiện mối quan hệ của con người vào những điều không thấy được nhưng tin là có

thật, qua đó thể hiện vũ trụ quan, thế giới quan và một phần nhân sinh quan của con

người. Trong thời kì khoa học kĩ thuật chưa phát triển thì văn hóa tâm linh là phương

thức giải thích và chiếm hữu thế giới siêu hình, góp phần làm cân bằng cuộc sống tư

duy của con người.

52

Tiểu kết chương 2:

Tóm lại nhân vật phò trợ trong truyện cổ của người Ba na, Jơ rai thường xuất

hiện với ý nghĩa là giúp đỡ cho nhân vật chính diện vượt qua những khó khăn thử

thách. Đó có thể là Thần (Trời), đồ vật thần, con vật thần. Tất cả những nhân vật này

xuất hiện phản ánh tư duy nguyên thủy, nền nông nghiệp lạc hậu từ rất xa xưa và

quan niệm về thế giới, về cuộc sống với ước mơ về một xã hội tốt đẹp hơn. Điều này

khác với người Việt ở chỗ yếu tố Phật giáo, Nho giáo chi phối tới tư duy người Việt

nên phảng phất trong câu chuyện hình ảnh nhân vật phò trợ được cụ thể hóa qua hình

ảnh ông Tiên, bà Tiên, ông Bụt.

53

Chương 3. MỘT SỐ MÔ TÍP LIÊN QUAN ĐẾN NHÂN VẬT PHÒ

TRỢ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở

GIA LAI

Mỗi câu chuyện là sự kết nối giữa các tình tiết tạo nên chỉnh thể của một hệ

thống cốt truyện. Mô típ đóng vai trò như là tình tiết tạo nên đề tài, tư tưởng của cốt

truyện. Vai trò của mô típ trong truyện cổ tích rất quan trọng. Thông thường, mỗi câu

chuyện được xây dựng bởi nhiều mô típ với các màu sắc khác nhau, có liên quan chặt

chẽ tới nhân vật, cốt truyện, đề tài, tư tưởng.

Ở Việt Nam, có thể kể ra một số công trình đã áp dụng lý thuyết về típ và mô típ

để nghiên cứu như: Truyện kể dân gian đọc bằng type và mô típ (Nguyễn Tấn Đắc

), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á

(Nguyễn Bích Hà), Cổ tích thần kỳ người Việt – đặc điểm cấu tạo cốt truyện

(Tăng Kim Ngân), Nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam theo bảng mục lục

tra cứu típ và mô típ truyện cổ dân gian của Antti và Stith Thompson (Nguyễn

Thị Hiền),…

Trong truyện cổ tích nói chung, chúng ta bắt gặp rất nhiều mô típ như: Mô típ

tái sinh của nhân vật, mô típ sinh nở thần kì, mô típ vật thiêng, mô típ kết hôn, mô típ

trả ơn, mô típ đánh nhau, mô típ phản bội…Mỗi mô típ ấy gắn liền với từng kiểu

truyện khác nhau, nó là dấu hiệu nhận biết hay nói cách khác đó là đặc trưng cho

từng kiểu truyện. Ví dụ như, trong các kiểu truyện về người anh hùng chúng ta

thường bắt gặp các mô típ như: Mô típ tái sinh (là những tình tiết dùng để miêu tả

hiện tượng chết đi và sống lại của nhân vật trong truyện kể, bao hàm hình thức sống

lại thành người và cả sống lại thành vật), mô típ vật thiêng (là những tình tiết được

cho hoặc ban tặng để giúp nhân vật chính vượt qua thử thách). Hay là mô típ sinh nở

thần kì (là tình tiết cho thấy sự ra đời kì lạ, khác thường của nhân vật )… Còn trong

các kiểu truyện về người hóa thân thì các mô típ thường xuất hiện là mô típ hóa thân,

lột xác…hay trong kiểu truyện về người mồ côi, chúng ta lại bắt gặp mô típ mẹ ghẻ -

con chồng, mô típ lưu lạc đoàn viên…

54

Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cũng bắt gặp trong cùng một kiểu truyện có những

mô típ không phải là mô típ đặc trưng cho kiểu truyện ấy. Ví dụ như: trong các kiểu

truyện về nhân vật mồ côi thì mô típ tái sinh cũng xuất hiện, nó khẳng định vai trò

của người bất hạnh trong xã hội và cái nhìn nhân văn của con người về cuộc sống.

Trong chương này, chúng tôi tập trung mô tả, phân tích những mô típ liên quan

tới nhân vật phò trợ. Chúng tôi đi sâu, làm rõ ba vấn đề sau:

Một là, mô tả các mô típ liên quan tới nhân vật phò trợ.

Hai là, khái quát các mô típ liên quan đến nhân vật phò trợ dưới dạng mô hình.

Ba là, ẩn dưới những mô típ là nét đặc trưng văn hóa của các dân tộc thiểu số ở

Gia Lai. Tìm hiểu mô típ liên quan tới nhân vật phò trợ, chúng ta thử lí giải các mô

típ ấy dưới góc nhìn văn hóa, đặc điểm các dân tộc .

3.1. Mô típ uống rượu và hút thuốc của nhân vật phò trợ

Trong những lễ hội của người dân tộc thiểu số, nét đặc trưng và phổ biến đó là

luôn hiện hữu hình ảnh của ché rượu cần, còn gọi là rượu ghè (jrăm), hình ảnh trai

gái, già trẻ quay quần bên ché rượu, hút thuốc đã gắn liền với cuộc sống của các dân

tộc thiểu số ở nơi đây. Nó không chỉ là loại đồ uống thuần túy trong các cuộc vui mà

còn ẩn chứa nhiều tín ngưỡng tâm linh trong các dân tộc cư ngụ tại đây.

Theo nhiều tài liệu nghiên cứu rượu cần trở thành một vật linh thiêng trong các

lễ hội, là phần thưởng quý giá cho những ai săn được nhiều con thú nhất, người cao

quý được uống rượu trong những chiếc ghè đẹp nhất, những gia đình nào lưu trữ

được nhiều ghè trong nhà càng thể hiện được sự sung túc, sức mạnh của dòng tộc và

là vật níu kéo được thần linh lâu hơn trong nhà mình, bảo vệ mình trải qua được sự

khắc nghiệt của thiên nhiên. Người nghèo có ít trâu bò chỉ đổi được những cái ghè

sành thông thường, còn gia đình khá giả lại có những chiếc ghè tráng men đủ màu

sắc, có hoa văn cây cỏ, có hình tượng đặc trưng theo ý muốn.

Mô típ uống rượu và hút thuốc là mô típ thường gặp trong truyện cổ các dân tộc

thiểu số ở Tây Nguyên nói chung và ở Gia Lai nói riêng. Qua khảo sát sơ bộ chúng

tôi thấy có ba lần xuất hiện mô típ này. Trước khi làm nhiệm vụ của mình, nhân vật

phò trợ thường làm cơm, thịt gà lấy rượu ra mời nhân vật chính thưởng thức. Sau khi

thưởng thức xong, nhân vật chính sẽ kể lại tất cả những gì mà mà họ muốn được giúp

55

đỡ. Giống như trong truyện: Chàng Reng. Câu chuyện kể ở một làng nọ có hai vợ

chồng là Kul và H’Liu lấy nhau đã lâu mà chưa có con. Một hôm hai vợ chồng đem

cơm lên gặp ông Trời xin được có con. Họ đi hết hai năm rưỡi mới tới nơi được. Tới

nơi hai vợ chồng được ông Trời đón tiếp rất nồng nhiệt, mời hút thuốc, uống rượu,

thết đãi no say, nói chuyện thân mật. Khi ra về, ông Trời hỏi cần mấy người con rồi

cho bấy nhiêu nhánh thuốc, rồi dặn cứ hai năm ăn một nhánh sẽ có con.

Trong một số trường hợp, nhân vật phò trợ sẽ không đồng ý với ý định của nhân

vật chính, phản ứng lại ý định ấy là họ thường đánh nhau. Nhưng trước khi đánh nhau

họ mời nhau hút thuốc, uống rượu. Cũng trong câu chuyện chàng Reng. Sau khi

chàng được ra đời, chàng muốn tới xin Thần Nước lấy con gái Thần làm vợ nhưng

Thần Nước không đồng ý. Trước khi vào nhà chơi, Reng được mời hút thuốc, nói

chuyện bảy ngày, bảy đêm sau đó Reng nói ý định của mình nhưng Thần Nước vẫn

không đồng ý. Hai người đánh nhau, ngồi nghỉ hút thuốc rồi lại đánh nhau triền miên

từ năm này sang năm khác, đánh nhau tới nỗi con cái họ đã cao lớn.

Mô típ uống rượu hút thuốc thường đi kèm với nhau, chúng phản ánh một nét

văn hóa đặc trưng của đồng bào Tây Nguyên. Trong truyện cổ, chúng ta thấy nhân

vật phò trợ dù trong trường hợp nào trước khi bắt tay vào công việc họ đều mời nhau

ăn uống, hút thuốc uống rượu. Giống như một nghệ nhân thổi hồn vào một tác phẩm

nghệ thuật nào đó, cái ghè, cái cần thuốc cũng như vậy, đối với người dân tộc thiểu

số nó là biểu tượng của sự mạnh mẽ, nó làm cho con người “say” trong mỗi cuộc vui,

làm vơi đi nỗi buồn, bớt đi sự nhọc nhằn trong cuộc sống.

Đối với mô típ hút thuốc và uống rượu của nhân vật phò trợ thường được khái

quát thành dạng thức sau:

Con người tìm tới nhân vật phò trợ để xin được giúp đỡ

Nhân vật phò trợ mời hút thuốc, uống rượu

Nhân vật phò trợ thử thách Nhân vật phò trợ không thử thách

Con người được toại nguyện

56

Đã trở thành một tín ngưỡng cho nên uống rượu hút thuốc trở thành một nét văn

hóa đặc trưng của đồng bào các dân tộc thiểu số. Ngày nay, chúng ta đặt chân tới

vùng đất Gia Lai, tới các buôn làng của người Ba na, Giơ rai, chúng ta sẽ được mời

uống rượu, hút thuốc, chung vui với đồng bào nơi đây.

Chúng ta sẽ khó lòng từ chối bởi sự hiếu khách của họ. Đồng thời cũng vì xuất

phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, thần ở mọi nơi trong nhà, họ cho rằng khách tới

nhà mà không thết đãi thì sẽ bị Yàng phạt: làm cho đau bụng, bệnh tật, không có

nhiều lúa, nhiều trâu, nhiều bò…Ngay cả thần linh – đáng tối cao nhất cũng không

thể không uống rượu, hút thuốc cùng với họ trong ngày vui. Phải chăng đây là lí do

tại sao trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, hình ảnh nhân vật phò trợ

uống rượu, hút thuốc trước khi ban phép thuật hoặc ra tay đánh lại thế lực xấu, cứu

giúp buôn làng ?

3.2. Mô típ hóa thân của nhân vật phò trợ

Mô típ hóa thân là mô típ thường gặp trong truyện cổ tích. Theo nghiên cứu của

chúng tôi, trong truyện cổ tích sự hóa thân của nhân vật thường được chia làm ba

loại:

Thứ nhất: Nhân vật sống lại hóa thân thành người.

Thứ hai: Nhân vật hóa thân thành người sau khi đã hóa thân thành nhiều hình

dạng khác nhau.

Thứ ba: Nhân vật hóa thân thành vật.

Sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối tuy nhiên trong một phạm vi nào

đó, chúng ta có thể thấy sự hóa thân thành người thường xuất hiện nhiều hơn. Điều

này luôn đúng ngay cả trong truyện cổ tích và trong truyền thuyết. Nó phản ánh quan

niệm của nhân dân về sự bảo vệ cái Thiện.

Như trên đã nói thì tất cả các nhân vật phò trợ được tái sinh do đầu thai hay hóa

thân đều là những con người hiền lành, nhân hậu, có phép thuật, thường hóa thân để

giúp con người vượt qua thử thách. Nếu như nhân vật chính thường hóa thân thành

những con người hiền lành, nhân hậu nhưng cả tin một cách ngây thơ vào người khác

thì nhân vật phò trợ thường hóa thân thành dạng người hiền lành để giúp cho nhân

vật chính nhận ra được sự cả tin ngây thơ ấy.

57

Trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, dạng thức hóa thân của

nhân vật phò trợ thường trong vai một cụ già tóc bạc trắng, khoan thai, chậm rãi, hỏi

chuyện nhân vật chính. Chẳng hạn như trong câu chuyện Voi và Kiến. Voi nghênh

ngang khắp nơi không biết nể sợ ai bao giờ, gặp ai cũng đá và giẫm không thương

tiếc. Kiến và Kì nhông là những loài vật nhỏ bé vô cùng lo sợ. Chúng ở dưới đất bị

Voi giẫm lên chết rất nhiều, leo lên cây cũng không thoát khỏi cái vòi của nó. Mỗi

lần Voi quay cái vòi của mình lên cành cây, quất vài lần thì kiến và kì nhông chết

nhiều vô kể. Thấy tội nghiệp những loài vật bé nhỏ nên ông Trời hóa thân thành

người, đã đứng ra làm người “cầm cân nảy mực” xử lý việc cho kiến và kì nhông.

Bằng cách nói chuyện nhẹ nhàng và chỉ ra cho Voi lỗi lầm của mình và dọa sẽ trị tội

nếu không nghe lời, ông trời giúp kiến và kì nhông thỏa mong muốn của mình. Nói

xong ông trời bận việc nên biến mất ngay lúc đó còn Voi lúc đầu vẫn ngông nghênh

nhưng sau đó thì hiền lành làm theo những gì ông trời bảo.

Hay như trong câu chuyện Chiếc quạt thần. Nghe tin Y Rít giàu có, vợ đẹp, các

tù trưởng trong làng có ý đinh cướp của cải, lấy quạt thần và bắt vợ Y Rít. Y Rít ở

dưới xuôi biết chuyện nhờ chiếc nhẫn thần báo mộng và đi tìm vợ. Y Rít đi khắp nơi,

vượt qua suối, qua song, vượt qua gian nguy, sợ hãi rồi đến một vùng nước xanh

biếc, chàng không tài nào qua được. Ở trên cao, ông Trời phơi áo đỏ, nhìn xuống trần

gian thấy chàng không qua được liền biến thành ông già, bay xuống bảo với Y Rít

đường đi. Nói xong, ông già biến mất, Y Rít tỉnh dậy làm theo lời ông già dặn. Lúc

khó khăn ấy, cá giúp chàng đi lại, chuột giúp chàng tìm quạt thần, nhím đào đường

ngầm, mèo và chó đùa giỡn để không bị phát hiện. Cuối cùng, nhân vật phò trợ

thường xuất hiện và biến mất trong chốc lát. Kết quả cuối cùng mà nhân vật phò trợ

giúp không nằm ngoài qui luật “nhân quả”, cuộc sống con người lại trở nên tốt đẹp

hơn.

Tiềm ẩn bên trong những con người hiền lành ấy cũng tiềm ẩn một khả năng

chịu đựng ghê gớm với một sức sống dai dẳng, mãnh liệt mà không một thế lực gian

ác nào có thể tiêu diệt được. Dù có bị truy sát đến đường cùng, họ cũng tìm mọi cách

đấu tranh để bảo vệ cho sự tồn sinh của cái Thiện. Cuối cùng thì cái thiện cũng thắng,

người thiện cho dù đã bị hãm hại thì cũng nhận được hạnh phúc viên mãn. Chẳng hạn

58

như trong truyện Chiếc quạt thần. Trải qua muôn vàn khó khăn cuối cùng Y Rít

cũng tìm được vợ, quạt thần giúp chàng lấy lại nhà cửa, lợn gà, tôi tớ, chiêng ché và

sống cuộc đời hạnh phúc. Cũng giống như kết quả như vậy trong câu chuyện Kiến và

Voi muôn loài từ đó có cuộc sống thuận hòa, yêu thương nhau, không ai bắt nạt ai

được nữa.

Mô hình của mô típ hóa thân liên quan đến nhân vật phò trợ được mô tả như

sau:

Con người gặp khó khăn

Cầu xin sự giúp đỡ của nhân vật phò trợ

Nhân vật phò trợ xuất hiện

Xuất hiện trong giấc mơ của con người Xuất hiện trong hiện thực

Biến dạng thành người (ông già, râu bạc)

Con người được toại nguyện

Sự hóa thân của các nhân vật phò trợ trong cổ tích là biểu hiện của lòng yêu

thương con người, sự cảm thông sâu sắc của dân gian với những số phận bất hạnh,

những con người hiền lành luôn gặp rủi ro hay với những mối tình éo le của những

con người không có quyền được lựa chọn cho mình hạnh phúc. Kết thúc có hậu của

truyện cổ tích phản ánh ước nguyện sâu xa của con người về cuộc sống hạnh phúc.

3.3. Mô típ vật thiêng của nhân vật phò trợ

Mô típ vật thiêng thường xuất hiện thường xuyên trong truyện cổ của các dân

tộc thiểu số không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả những các dân tộc cùng chung ngữ

hệ Nam Đảo ở các nước như: Inđônêxia, Malaixia.

Nhân vật phò trợ thường có sức mạnh vô biên và nắm giữ trong tay của mình

những vật thiêng vô giá. Những vật thiêng ấy có thể có phép màu hoặc không có

nhưng đó là vật báu và sức mạnh của nó là vô biên. Chúng tôi thống kê nhân vật phò

59

trợ có vật thiêng trong truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở nơi đây như sau:

Thần linh hiện lên chỉ bảo và ban cho chiếc sáo thần để chàng H Rít có thể chinh

phục được con gái của vua Thủy tề (Chiếc sáo thần kì), ông Trời ban nước thần để

vợ chồng nghèo có thể thỏa nguyện ước mong có được con cái (Chàng Reng), Già

Pôm có lọ nước thần giúp chàng trai Y Rít cưới vợ đẹp. Cũng trong câu chuyện về bà

Pôm có đứa cháu tên là Y Rít, nhờ có chiếc áo phép thiêng mà vợ chàng đưa cho mà

chàng đã vượt qua được hai lần thử thách (Bà Pôm và Y Rít)…

Khi khảo sát về những vật thiêng của nhân vật phò trợ thì hình ảnh lọ nước thần

xuất hiện khá nhiều trong truyện cổ tích. Xuất hiện ít nhất 4 lần trong 24 câu chuyện.

Sự xuất hiện này cho phép chúng ta liên tưởng tới vai trò của nước đối với tiềm thức

và cuộc sống của các dân tộc thiểu số ở nơi đây.

Một điểm đặc biệt đáng lưu ý là khi ban phát vật thiêng, nhân vật phò trợ không

ban phát vàng, bạc, châu báu. Đúng hơn là những thứ của cải vật chất liên quan đến

tiền không xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.

Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân

chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được

xuất hiện. Quá trình phân chia các bộ tộc của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai diễn ra

khá chậm cho nên sự hình thành các giai cấp xã hội muộn màng hơn so với người

Việt.

Mô hình của mô típ vật thiêng liên quan đến nhân vật phò trợ được mô tả như

sau:

Nhân vật phò trợ có vật thiêng

Nhân vật phò trợ ban vật thiêng cho con người

(Có thể là lọ nước thần, vật thần, không có vàng)

Con người được toại nguyện

Theo nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy các dân tộc Nam Đảo xưa kia vốn sinh

sống ở các vùng biển. Sau này vì nhiều lí do như sự xâm chiếm của các dân tộc khác

đe dọa sự sống của họ, hay vì điều kiện sống ở biển khá khắt khe nên họ bắt đầu di

60

tản tới các vùng đất liền, định cư ở vùng núi cao hoặc ven sông, ven suối, những ngôi

làng dù làm trên núi thì nóc nhà luôn có hướng ra biển. Họ tới vùng đất mới mang

theo những dấu ấn văn hóa các dân tộc . Cho nên trong một số câu chuyện họ thường

đề cập tới nước, ngay các vị thần của họ cũng có thần Nước, nước giúp họ trồng trọt

suôn sẻ cho nên có lễ hội cầu mưa, nước xuất hiện trong các vò rượu cần, nước giúp

chữa trị bệnh tật, đem lại cuộc sống yên bình cho họ. Họ hướng về Nước như một cổ

mẫu, ở đó họ luôn hướng về nguồn gốc các dân tộc với những vốn văn hóa đặc

trưng.

3.4. Mô típ đánh nhau của nhân vật phò trợ

Trong truyện cổ tích, chúng ta thường bắt gặp mô típ đánh nhau của các nhân

vật. Nguyên nhân xảy ra các cuộc ẩu đả có thể là do tranh chấp về quyền lợi, tranh

chấp về của cải vật chất, tranh chấp về sức khỏe…Nhưng có một nguyên nhân tuy

không mấy xa lạ nhưng lại có ý nghĩa hết sức quan trọng, đó là các nhân vật thường

đánh nhau vì người đẹp.

Hầu hết các truyện cổ tích Việt Nam, các nhân vật chỉ được kể ngắn gọn, chung

chung về vẻ đẹp hình thức nên nhân vật đẹp như thế nào mỗi người kể, người nghe sẽ

có những liên tưởng riêng. Còn nhân vật người phụ nữ đẹp được miêu tả rất chi tiết

trong một số truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, đây là nét khác biệt

với truyện cổ tích Việt…Nhưng đẹp nhất vẫn là nàng Mặt Trời- một người con gái

đại diện cho sức mạnh vô biên, quyền lực mạnh mẽ của phụ nữ. Câu chuyện kể về ba

anh em nhà Di Ông, Dây Núi. Di Ông là anh cả, người to lớn, rất khỏe, đã đến tuổi

lấy vợ nhưng chàng không thể thích ai vì không ai đẹp cả. Nghe em nói người mà anh

mơ ước chỉ có nàng Mặt trời thôi. Nàng mặt trời tròn trĩnh, mái tóc dài mượt óng, mắt

sáng như sao, má đỏ hồng. Chính vẻ đẹp này khiến cho bao chàng trai phải bỏ vợ, rời

buôn làng lên đường xin cưới nàng làm vợ (Di Ông đi lấy Mặt Trời). Một khi khát

vọng mong muốn được lấy người đẹp không được toại nguyện tất yếu sẽ xảy ra các

cuộc ẩu đả. Nhân vật trong các cuộc ẩu đả ta thường thấy là các tù trưởng lớn mạnh

nhưng chúng ta cũng không mấy xa lạ với hình ảnh các tù trưởng đánh nhau với các

vị thần để cướp người vợ xinh đẹp của các vị thần. Trong câu chuyện Di Ông đi lấy

Mặt Trời cũng vậy. Thần Sét và Di Ông đánh nhau vì Di Ông đòi cướp nàng Mặt

61

Trời xinh đẹp, vợ của thần Sét nên thần Sét đã ra tay đánh lại dữ dội. Cuộc chiến

không cân bằng sức đã triền miên từ ngày này sang ngày khác, từ tháng này sang

tháng khác, năm này sang năm khác nhưng rốt cuộc chẳng ai chịu thua ai, chẳng ai

nhường ai. Lúc này, thần Mặt Trời- cha của nàng Mặt Trời đứng ra phân giải bằng

cách nặn ra một cô gái đẹp giống nàng Mặt Trời, sau đó hóa phép con gái thành

tượng để cho hai người chọn cho mình một cô gái. Cuối cùng, Di Ông chọn đúng

nàng Mặt Trời còn thần Sét mất vợ nên trong lòng rất tức giận. Cách kết thúc câu

chuyện, khiến chúng ta khá ngỡ ngàng nhưng có lẽ là do cách xây dựng nhân vật của

dân gian. Người anh hùng trong truyện không chỉ đẹp, không chỉ có sức khỏe phi

thường mà còn có thể lấy được người vợ xinh đẹp. Có lẽ do muốn đề cao vai trò của

người anh hùng trong đời sống của buôn làng, đó là vị thần “sống” duy nhất của dân

làng nên họ phải tô đậm tính chất người anh hùng, càng tăng nên sự ngưỡng mộ của

mọi người đối với vị anh hùng của họ. Vẻ đẹp của các nàng khiến ai cũng khao khát,

ngay cả các vị thần đầy quyền uy - vị thần Sét, thần Mặt Trời cũng đắm say trước

dung nhan của người đẹp. Từ việc thần ngợi ca cái đẹp đến chủ ý cướp đoạt cái đẹp là

một khoảng cách rất gần cho nên xảy ra đánh nhau cũng là tất yếu.

Đôi lúc, sự mâu thuẫn của các nhân vật chính với các vị thần có thể là do các vị

thần không chấp nhận ý muốn của nhân vật chính nên họ đánh nhau. Đây có thể là

cách để kiểm nghiệm lại sức mạnh của các tù trưởng, hay nói cách khác đó có thể là

sự thử thách mà các tù trưởng phải vượt qua. Đó là hình ảnh chàng Reng đánh nhau

với thần Nước. Chàng Reng muốn cưới con gái xinh đẹp của thần Nước nên chàng

tới nhà thần để xin thần cho lấy con gái. Reng gặp rất nhiều khó khăn, vượt qua rất

nhiều cửa ải mới tới nhà thần. Trước khi vào nhà chơi, Reng được mời hút thuốc, nói

chuyện bảy ngày, bảy đêm sau đó Reng nói ý định của mình nhưng Thần Nước

không đồng ý. Hai người đánh nhau, ngồi nghỉ hút thuốc rồi lại đánh nhau. Sau đó

Reng vượt qua thử thách và lấy được con gái thần Nước, hai người rẽ nước lên trần

gian sinh sống.

Ở một số câu chuyện, đôi khi các nhân vật đánh nhau vì ghen tức tài năng. Các

vị thần cũng ghen tức tài năng của nhân vật chính nên hung hăng ỷ thế tới đánh nhân

vật chính. Như trong câu chuyện: Hai chàng trai lành nghề kể về một cụ già góa vợ,

62

có hai người con trai, người nào cũng khéo tay. Anh cả dựng nhà rất đẹp, từng cái

cột, cây nêu anh đều làm trơn tru và đẹp đẽ. Nhưng tài gọt đẽo của anh là nhất. Còn

người em út lại giỏi tạc tượng gỗ. Một hôm, người bố đi rẫy, không may bị cọp vồ

chết, dân làng sợ không ai dám viếng thăm, giúp đỡ gì, hai an hem đành lúi húi đẽo

quan tài, khâm niệm cha rồi cùng nhau khiêng đi chôn. Thương cha quá, họ bàn nhau

nghỉ việc để làm nhà mồ cho cha. Trong khi hai anh em làm mệt quá, ngủ thiếp đi,

trời vén mây xuống, nhìn thấy người trần mà giỏi quá bèn sai thần sét xuống đánh

nhau.

Mô hình của mô típ đánh nhau liên quan đến nhân vật phò trợ được mô tả như

sau:

Nhân vật phò trợ lúc đầu trợ giúp con người, về sau đánh nhau với con người

Vì người Đẹp Vì ghen tị tài năng

Con người thắng thế

Cuộc đánh nhau nào cuối cùng cũng kết thúc phần thắng thuộc về con người, đó

là những con người nghèo khổ, hiếu thảo. Một ý nghĩa giàu tính nhân bản càng khẳng

định ý nghĩa về cái Thiện, chiến đấu và bảo vệ nó là điều cần làm trong cuộc sống.

Sự tất thắng của cái Thiện mang tới cho chúng ta sự cảnh giác về âm mưu xấu xa,

lòng ghen tị vô đối của con người trong cuộc sống.

3.5. Mô típ kết hôn của nhân vật phò trợ

Đối với con người việc dựng vợ gả chồng, thành gia lập thất là một vấn đề hệ

trọng đối với những người nghèo thì ước mơ ấy lại là khó khăn lớn, ước mơ có được

hạnh phúc gia đình êm ấm là khát khao muôn đời của con người được gửi gắm qua

các truyện cổ tích. Mô típ sự kết hôn xuất hiện khá phổ biến trong truyện cổ tích các

dân tộc thiểu sốở Gia Lai.

Nhân vật phò trợ biến thành con vật và kết hôn với nhân vật chính là một trong

những biểu hiện của mô típ sự kết hôn. Lấy nhân vật mang lốt thường là nhân vật

người con gái út hiền lành, tốt bụng trong gia đình giàu có. Nhân vật phò trợ mang lốt

luôn phải phấn đấu để khẳng định mình với những thách thức lớn: gia đình nghèo

63

khó, bị phân biệt đối xử. Trong các câu chuyện chúng ta thấy cái lốt của nhân vật phò

trợ là thách thức lớn khi nhân vật đó muốn bảo vệ tình yêu chính đáng của mình. Có

được hạnh phúc lứa đôi, cái lốt sẽ được cởi bỏ. Đó là nhân vật chàng cóc. Ngày xưa ở

làng nọ có một cô gái nghèo. Gặp hôm cúng thần lúa, theo đứng tục lệ người Jo- Rai,

hôm ấy mọi người kiêng không được làm rẫy. Bởi vậy già trẻ gái trai rủ nhau đi bắt

cá, hái rau. Cô gái nghèo H Lui đứng tựa chân cầu thang, buồn tủi nhìn dân làng tấp

lập đi lại. Trong một lần đi hái lá với tốp thanh niên trong làng, H Lui đã mang thai,

đứa con sinh ra là cậu bé cóc xấu xí. Sau này cóc lấy được một người vợ đẹp lại giàu

có tên là H Bia Pang. Vì sĩ diện gia đình nên bố mẹ H Bia đã đuổi vợ chồng Cóc ra

khỏi làng.

Chuyện Nàng trứng gà cũng vậy, câu chuyện kể về hai bà cháu nghèo khổ là bà

Pôm và cháu HRit. Thấy thương chàng trai nghèo mà tốt tính, nàng Trứng gà đã xuất

hiện để giúp chàng giặt đồ, giã gạo, xách nước nhưng sau khi làm xong việc thì nàng

lại chui vào vỏ trứng y như trước. Chàng trai thấy lạ bèn rình và bắt được nàng. Từ

đó nàng trở thành vợ HRit.

Qua đây, tác giả dân gian khẳng định quyền hạnh phúc của mỗi người trong xã

hội và quan niệm về sự hài hoà đạo đức và thẩm mỹ của con người.

Nếu như trong kiểu truyện người dũng sĩ thường gắn với mô típ hôn nhân kì lạ.

Điều này làm tăng lên vẻ đẹp linh thiêng, kì vĩ của người anh hùng.

Ở một số câu chuyện, nhân vật phò trợ nhìn thấy được hoàn cảnh nghèo khổ của

nhân vật chính hoặc thấy được những điểm yếu ví dụ như: lười biếng làm việc, ăn

nhiều mà không lao động…thì lúc này nhân vật phò trợ sẽ ra hóa phép cho con gái

mình xuống trần gian để lấy nhân vật chính, giúp nhân vật thấy được nhược điểm của

mình, từ đó biết làm ăn, lao động tạo ra của cải. Xong nhiệm vụ, nhân vật phò trợ lại

hóa phép để con cái họ được trở về thiên đàng. Những câu chuyện thuộc dạng thức

này thường mang một ý nghĩa giáo dục rất sâu sắc, đúng với câu ca dao:“Có làm thì

mới có ăn/ Không dưng ai dễ đem phần tới cho”.

Câu chuyện Chàng Lười kể về chàng trai lười biếng, ăn xong là ngủ và ngủ từ

ngày này sang ngày khác, mùa này sang mùa khác không hề có vấn đề gì. Tiên trên

64

trời cao nhìn thấy chàng trai nghèo mà lười biếng nên hóa phép cho con gái mình

xuống nhà Pơ Tao ở và trở thành con gái Pơ Tao.

Câu chuyện về chàng Đam A Lách cũng là một bài học sâu sắc về sự siêng năng

làm lụng của con người. Có hai vợ chồng đến già cả mới sinh được một mụn con trai,

thằng con trai chẳng biết làm gì, ăn xong lại nằm. Một hôm, bố mẹ đi làm hết chỉ còn

mình A Lách ở nhà, chàng thấy một cô gái xuất hiện dọn dẹp, xin được làm vợ Lách.

Có một lần thấy con trai lười quá nên hai vợ chồng đuổi nó ra khỏi nhà cho biết cuộc

sống ngoài đời. Khi A Lách đi thì vợ cũng đi theo, hai vợ chồng sống cuộc đời bình

yên. Vợ của chàng – Maich là người có phép thần thong, đã làm A Lách thay đổi tính

cách, làm ăn siêng năng, chăm chỉ hơn.

Sự kết hôn lạ lùng ấy có thể cho chúng ta thấy sự phân định của các thế giới

theo đúng bản chất của truyện cổ tích. Khi các cõi thế giới chưa có sự phân định rách

ròi thì tư duy nguyên hợp thể hiện rõ trong nhân sinh quan, thế giới quan của truyện

cổ tích. Vì vậy, hôn nhân là con đường tự nhiên nhất để giao hòa giữa các cõi và tìm

được tiếng nói chung. Mỗi cõi đều có một đặc tính riêng nhưng khi chưa thần thánh

hóa, tôn sùng hóa thì khoảng cách giữa con người thường và thần là rất hữu hạn.

Mô hình của mô típ kết hôn liên quan đến nhân vật phò trợ được mô tả như sau:

Nhân vật phò trợ kết hôn với con người

Đội lốt con vật Giữ nguyên hình dạng là người bình thường

Cởi lốt

Giúp con người vượt qua khó khăn

Nhân vật phò trợ kết hôn với con người và kết quả của cuộc hôn nhân này thông

thường, đó là sự ra đời của một vị thần linh mới nhưng dạng thức này không thấy

xuất hiện trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Cũng như vậy, việc

nhân vật phò trợ kết hôn với người thường xuất hiện nhiều hơn so với việc nhân vật

phò trợ kết hôn với những đối tượng có địa vị cao trong xã hội. Sự xuất hiện những

65

tầng lớp khổ cực trong xã hội khiến cho con người luôn khát khao được vượt lên

hoàn cảnh, thay đổi cuộc sống của mình. Dạng hôn nhân này gặp gỡ những dạng hôn

nhân trên trong việc kéo thế giới thần linh gần lại với thế giới con người. Điều này

cũng giúp giải thích vì sao nhân vật phò trợ được kết hôn với đối tượng là người

nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội loài người.

Ngoài ra dạng thức nhân vật phò trợ kết hôn với người thường giúp con người

thay đổi cuộc sống, thay đổi tính cách nhưng không thấy xuất hiện kết hôn với người

thường vì mục đích chống lại ngoại xâm hay chống lại thế lực đen tối. Không xuất

hiện dạng thức này một lần nữa khẳng định sự ra đời muộn của các giai cấp xã hội

của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai. Hơn nữa càng khẳng định cuộc sống yên bình trên

vùng đất cố hữu của các dân tộc thiểu sốnày. Phải chăng đó là ước mơ của con người

bất hạnh trong cuộc sống, gắn bó với nhân vật phò trợ là tiến gần với những điều tốt

đẹp trong cuộc sống.

Thời xa xưa, dân bản địa có quan niệm vạn vật hữu linh, vạn vật tương giao nên

con người không chỉ nói chuyện, hiểu được suy nghĩ, tình cảm của muôn loài mà con

người còn có thể kết hôn với vật, với thần linh. Hôn nhân giữa người với vật cho thấy

mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với môi trường tự nhiên, với vạn vật bởi“người

sống trong rừng, giữa cây cối và muông thú, người tin rằng loài người cũng chỉ là

một trong muôn loài”. Mô típ sự kết hôn là một trong những mô típ được biểu hiện

dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng tất cả đều phản ánh vai trò quan trọng của hôn

nhân trong cuộc sống của người dân bản địa.

66

Tiểu kết chương 3:

Trong truyện cổ của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai cũng có những mô típ chung

của truyện cổ thế giới và cũng có những đặc điểm riêng mang đậm dấu ấn của truyện

cổ của các dân tộc ở đây. Liên quan tới nhân vật phò trợ, các mô típ thường xuất hiện

trong truyện thường là các mô típ sau: Mô típ uống rượu và hút thuốc của nhân

vật phò trợ, mô típ hóa thân của nhân vật phò trợ, mô típ vật thiêng của nhân

vật phò trợ, mô típ đánh nhau của nhân vật phò trợ, Mô típ kết hôn của nhân

vật phò trợ. Vai trò của nhân vật phò trợ đối với nhân vật chính rất quan trọng, nó

khẳng định nhân vật được giúp đỡ không hề cô độc trên hành trình vượt qua thử

thách của mình, nó thể hiện vai trò của cái Thiện luôn thắng cái Ác dù cuộc sống

Thiện - Ác phân tranh.

Các mô típ liên quan đến nhân vật phò trợ đóng vai trò quan trọng trong việc

cấu tạo nên cốt truyện. Cái yếu tố quyết định tới sự thành bại trong các cuộc chiến là

cái Thiện. Trên đây là toàn bộ những mô típ mà chúng ta bắt gặp trong những câu

truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Điều khác biệt giữa các nhân vật trong

truyện cổ của người Việt với truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai là nhân vật

phò trợ thường giúp đỡ với những cử chỉ thân thiện, nhẹ nhàng và cũng thường ít xảy

ra ẩu đả, nhân vật phò trợ nói gì và yêu cầu nhân vật chính như thế nào thì nhân vật

chính luôn nghe theo một cách tuyệt đối, nếu không nghe thì thường thất bại hoặc

gặp đau khổ còn trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số dù là thần nhưng trong các

cuộc chiến công bằng cũng không được nhân nhượng, nhân vật chính có thể nghe

theo hoặc có thể “phản bác” lại. Điều này khẳng định vai trò của người anh hùng

trong đời sống của dân làng và quan niệm về cuộc sống của họ, đối với họ sự công

bằng là phép thuật và “vị thần” tối ưu giúp con người luôn luôn sống tốt hơn, ấm no

hơn.

67

PHẦN KẾT LUẬN

1. Qua quá trình đi thực tế tại huyện Kbang, chúng tôi nhận thấy nguồn truyện

cổ thực tế ở các buôn làng dường như có sự chênh lệch nhau so với những câu truyện

có sẵn trên văn bản. Thực tế ở ngoài có khá nhiều câu chuyện về các đề tài khác

nhau. Có thể do điều kiện khách quan chưa cho phép nên chúng ta vẫn chưa khai thác

hết kho tàng truyện cổ tích ở đây.

2. Nhân vật phò trợ xuất hiện trong truyện cổ của người dân tộc ở Gia Lai

thường xuất hiện với vai trò là giúp đỡ, phò trợ cho nhân vật chính diện vượt qua

những khó khăn thử thách. Đó có thể là Thần (Trời), đồ vật thần, con vật thần. Vai

trò của thần, tín ngưỡng đa thần là những biểu hiện của những nét văn hóa lâu đời

của các dân tộc nơi này được chuyển hóa vào nhân vật phò trợ. Sự xuất hiện của

nhân vật phò trợ, đấng thần linh đã hóa giải tất cả bế tắc trong cuộc sống. Sự xuất

hiện này không chỉ có trong truyện cổ mà còn xuất hiện trong truyền thuyết nữa. Xu

hướng thần thánh hóa, tôn thờ các vị thần linh là điều tất yếu trong truyện cổ của các

dân tộc thiểu số ở Gia Lai và chi phối đến vai trò nhân vật phò trợ khá lớn.

3. Nếu dựa vào chức năng để phân loại nhân vật như trong HTH của Propp thì

chúng ta thấy rằng sự xuất hiện của nhân vật phò (chức năng 12,14) cũng tuân theo

mô hình cấu tạo của truyện cổ thế giới nói chung, truyện cổ Việt Nam nói riêng. Tuy

nhiên, ở một số truyện cũng có điểm khác biệt. Trong truyện cổ của các dân tộc thiểu

số ở Gia Lai, sau khi nhân vật chính nhận được sự giúp đỡ của nhân vật phò trợ

thường có sức mạnh phi thường có sức khỏe, có phép thuật nhưng lại không có được

của cải và sự giàu sang. Tính “phi vật chất” vẫn còn đóng vai trò lớn trong truyện cổ

của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Thêm một trường hợp đáng lưu ý, nhân vật phò

trợ ít xuất hiện với những lời nguyền, thần chú mà xuất hiện để đánh nhau hoặc để

phò tá, hỗ trợ cho nhân vật chính. Nhân vật phò trợ đôi khi cũng giao chiến với nhân

vật chính thâu đêm suốt sáng, từ năm này sang năm khác, từ ngày này sang ngày

khác. Cách giao chiến ấy cũng là sự thử thách đối với nhân vật chính, đồng thời

luyện tập cho nhân vật chính vượt qua được những sự thử thách ban đầu khi tới

những cuộc giao chiến chính thức.

68

4. Một số truyện, nhân vật phò trợ luôn sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để hỗ trợ

nhân vật chính nhưng lại bị nhân vật chính từ chối. Nhân vật phò trợ ấy thường là

Rồng. Dấu ấn về Rồng có trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai đặt ra

cho người đọc những nghi vấn về nguồn gốc, sự ảnh hưởng giao thoa của văn hóa

Trung Hoa. Ngoài những dòng họ là người bản địa, còn những dòng họ khác có liên

quan gì tới người Hoa ở đây không? Có khi nào, người đứng đầu trong một các dân

tộc vốn có nguồn gốc Nam Đảo này là một người có nguồn gốc Trung Hoa chăng?

Hay đây chỉ là những ảnh hưởng nhất thời của nền văn hóa Trung này lên các dân tộc

của họ?Hành động từ chối sự giúp đỡ này cũng cho thấy sự giữ gìn văn hóa các dân

tộc, sự tiếp biến văn hóa ngoại lai không có ảnh hưởng tới đời sống của người bản

địa.

5. Liên quan tới các mô típ của nhân vật phò trợ chúng ta thấy khi nhân vật phò

trợ xuất hiện và giúp đỡ nhân vật chính thường kèm theo các mô típ như: Mô típ

uống rượu và hút thuốc của nhân vật phò trợ, mô típ hóa thân của nhân vật phò

trợ, mô típ vật thiêng của nhân vật phò trợ, mô típ đánh nhau, mô típ kết hôn.

Trong các mô típ ấy, chúng ta thấy ấn tượng nhất là mô típ uống rượu và hút thuốc,

hầu như nhân vật phò trợ nào trước khi ra tay thì thường mời nhân vật chính uống

rượu, hút thuốc. Mô típ đánh nhau vì người đẹp có liên quan tới tục cướp vợ của các

dân tộc thiểu số. Thông thường, các tù trưởng muốn khẳng định vai trò của mình đối

với buôn làng thì phải có uy thế nào đó đối với họ. Tù trưởng đó nhất thiết phải là

người gan dạ, dũng mạnh, phải có nhiều trâu bò, lợn gà và đặc biệt là phải có vợ đẹp.

Từ việc muốn lấy một người vợ đẹp đã làm cho xung đột xảy ra, những cuộc đánh

nhau triền miên không chỉ với các tù trưởng với nhau mà với thần linh cũng vậy.

Phần thưởng xứng đáng cho tù trưởng là một cô vợ đẹp càng khiến cho cuộc giao

tranh trở nên kịch liệt hơn. Cho nên, nhân vật thần linh sau khi giao chiến với nhân

vật chính thường bị mất vợ đẹp, quay sang phò tá nhân vật chính.

69

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị An (2003), “Quan niệm về thần và việc văn bản hóa truyền thuyết trong

truyện văn xuôi trung đại”, Thông báo văn hóa dân gian 2002, tr.517-527.

2. Trần Thị An (2005), “ Mối quan hệ tương hỗ giữa truyền thuyết dân gian, tục thờ

cúng và thần tích: Nghiên cứu trường hợp Trương Hống, Trương Hát”, Thông

báo văn hóa dân gian 2002,tr.9-25.

3. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, tái bản, Nxb Văn hóa - Thông

tin, Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

5. Trần Lê Bảo (1998), “Lại bàn về mẫu đề thần thoại trong Tây Du kí”, Văn hóa

dân gian, (4), tr.55 – 59.

6. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hóa dân gian Việt Nam - những suy nghĩ, Nxb Văn

hóa Dân tộc, Hà Nội.

7. Vũ Ngọc Bình (1996), Văn học dân gian Gia Lai, Nxb Sở văn hóa thông tin thể

thao.

8. Vũ Ngọc Bình (chủ biên), Truyện cổ dân gian Gia Lai, Nxb Văn hóa Thông tin

Gia Lai.

9. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập 1), Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

10. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (quyển 1, 2), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

11. Nguyễn Từ Chi ( 2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và các dân tộc, Nxb Văn

hóa Dân Tộc, Hà Nội.

12. Lâm Hòa Chiếm, Lí Thị Xuân Các, Xuân Huy (1997), Từ điển Việt – Hán, Nxb

Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.

13. Thiều Chửu (2005), Hán – Việt từ điển, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

14. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian, mấy vấn đề phương pháp luận và

nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

15. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nxb

Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.

70

16. Nguyễn Định (1997), “Tìm về nơi đầu tiên của nghề dệt chiếu ở Tuy Hòa”, Văn

hóa dân gian, (2), tr.60 – 66.

17 Nguyễn Định (2006), “ Sự khác nhau giữa hai khái niệm truyện cổ dân gian và

truyện cổ tích”, Văn hóa dân gian, (4), tr.43 – 47.

18. Nguyễn Xuân Đức (1995), “ Cổ tích hay nhại cổ tích”, Văn hóa dân gian, (2), tr.

51 – 52.

19. Nguyễn Xuân Đức (2002), “ Vấn đề phân loại truyện dân gian, Thông báo văn

hóa dân gian 2001, tr.356 – 365.

20. Edward Tylor (2001), Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch, Tạp chí Văn hóa

nghệ thuật, Hà Nội.

21. Nguyễn Minh Hào, Trần Sĩ Nghệ (1997), “Gương mặt một vùng đất”, Văn hóa

dân gian, (1), tr. 92 – 100.

22. Kiều Thu Hoạch chủ biên, Trần Thị An, Mai Ngọc Hồng (2004), Tổng tập văn

học dân gian người Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

23. Kiều Thu Hoạch (2006), Văn học dân gian người Việt góc nhìn thể loại, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

24. Trần Hoàng (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Nguyễn Thị Huế chủ biên, Trần Thị An (2004), Tổng tập văn học dân gian người

Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

26. Rơ Chăm Oanh (2002), Nét đặc trưng văn hóa cổ truyền của người Jơ rai ở Tây

Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

27. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997), Văn học dân gian Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

28. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển xã hội Việt

Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Đặng Văn Lung chủ biên, Võ Thị Hảo, Nguyễn Sông Thao (1997), Nghiên cứu

văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Văn học Dân tộc, Hà Nội.

30. Tăng Kim Ngân (1994), Cổ tích thần kì người Việt, đặc điểm cấu tạo cốt truyện

(Viet’s fairy tales, structural characterictics of their plots ), Nxb. Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

71

31. Trần Đức Ngôn (1981), Nghiên cứu kết cấu truyện cổ tích thần kì Việt theo lí

thuyết hình thái học của Vladimia Iacoplevich Prop, tiểu luận cấp I, bản đánh

máy tại Thư viện Viện nghiên cứu văn hóa, Hà Nội.

gian – Những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.

32. Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (1999), Văn học dân

33. Hoàng Phê chủ biên (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. Pierre Daco (1999), Giải mã những giấc mộng qua ánh sáng Phân tâm học, Nxb

Trẻ, TPHCM,tr.9.

35. Lê Hồng Phong, Truyện cổ Tây Nguyên và những mô tip chung Đông Nam Á dẫn

theo:http:www.vanhoahoc.edu.vn/index.php?option=com

_concent&task=view&id=891&Itermit=72

36. Lâm Tâm – Linh Nga Niek Đam ( 1996), Một số nét đặc trưng của phong tục các

dân tộc Tây Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

37. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí

Minh, TP. Hồ Chí Minh.

38. Ngô Đức Thịnh chủ biên, Vũ Ngọc Khánh, Ngô Văn Doanh, Tăng Kim Ngân

(1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

39. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb

Trẻ, TP. Hồ Chi Minh.

40. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan đồng chủ biên (2005), Folklore một số thuật ngữ

đương đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

41. Nguyễn Thị Bích Thủy (2011), So sánh một số kiểu truyện cổ tích của các dân

tộc thiểu sốsử dụng ngữ hệ Nam đảo ở Việt Nam và Inđônêxia, Luận văn thạc

sĩ văn học, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh.

42. Bùi Văn Tiếng (2001), “Tổng quan văn học dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng”,

Nguồn sáng dân gian, (1), tr.22 – 29.

43. Đỗ Bình Trị (2002), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân gian, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

72

44. Đỗ Bình Trị (2006), Truyện cổ tích thần kì Việt đọc theo hình thái học của truyện

cổ tích của V. Ja. Propp, Nxb Đại học Quốc Gia, TP. Hồ Chí Minh.

45. Võ Quang Trọng (1995), “ Một vài đặc điểm của truyện cổ tích văn học trong

mối quan hệ thể loại với truyện cổ tích dân gian”, Văn hóa dân gian, (2), tr. 47

– 50.

46. Hoàng Tiến Tựu (1983), Mấy vấn đề phương pháp giẳng dạy, nghiên cứu văn học

dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

47. Hoàng Tiến Tựu (1999), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

48. Ty văn hóa và Thông tin Gia Lai- Kon Tum (1981), Bài phác thảo về Fôn-clo một

làng Banah ở Gia Lai-Kon Tum, tr. 252.

49. Valadimir Iakovlevits Propp (2003), Tuyển tập, tập I, Chu Xuân Diên, Phạm Lan

Hương, Nguyễn Kim Loan, Phạm Bích Ngọc, Trần Minh Tâm, Đỗ Đức Thịnh,

Đỗ Lai Thúy, Phan Ngọc dịch, Nxb Văn hóa Dân Tộc, Hà Nội.

50. Valadimir Iakovlevits Propp (2004), Tuyển tập, tập II, Chu Xuân Diên, Nguyễn

Quang Lê, Nguyễn Kim Loan, Trần Thị Phương Phương dịch, Nxb Văn hóa

Dân Tộc, Hà Nội.

51. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb Đại học

Quốc Gia, TP. Hồ Chí Minh.

52. Phan Xuân Viện (2007), Truyện dân gian các dân tộc thiểu số Nam Đảo ở Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ văn học, Trường Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh,

TP. Hồ Chí Minh.

53. V. Guxep (1999), Mĩ học Folklore, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb Đà Nẵng, Tp. Đà

Nẵng.

54. Viện khoa học xã hội Việt Nam (2001), Phần truyện cổ tích (tập 15), Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

73

PHỤ LỤC

GIỚI THUYẾT VỀ CÁCH TRÌNH BÀY

Trong phần này, chúng tôi giới thiệu các truyện chứa nhân vật phỏ trợ trong cổ

tích các dân tộc thiểu sốở Gia Lai dưới dạng tóm tắt. Tên các truyện được sắp xếp

theo trình tự trong bảng chữ cái tiếng Việt. Đầu tiên là những truyện đã được công bố

và sau đó là những truyện cổ tích mà chúng tôi đã sưu tầm.

PHỤ LỤC 1: Tóm tắt văn bản truyện cổ về nhân vật phò trợ trong

truyện cổ tích các dân tộc thiểu sốthiểu ở Gia Lai

1.a.Những truyện đã công bố:

1. Bà Pôm và YRit (Dân tộc

Bà Pôm có đứa cháu tên là Y Rít, cuộc sống nghèo khổ nhưng lúc nào cũng đầm

ấm, hạnh phúc. Một hôm, vừa đi rừng về, Y Rít thấy một cô gái xinh đẹp hóa từ khúc

gỗ ra nhận làm vợ Y Rít. Hai vợ chồng sống hạnh phúc. Một hôm, nghe tin Y Rít có

vợ đẹp nên các tù trưởng dụ chàng đổi vợ lấy 100 con trâu nhưng chàng không đồng

ý. Thấy chàng khăng khăng không đồng ý chúng càng nuôi ý định cướp vợ chàng.

Nhờ có chiếc áo phép thiêng mà vợ chàng đưa cho, chàng đã vượt qua được hai lần

thử thách. Đến lần thứ ba thì nhờ có Voi thần giúp sức, chàng hạ gục được tên tù

trưởng giàu có ấy.

2. Cây tông lông (Dân tộc Jơ rai)

Câu chuyện kể về một chàng trai có sức mạnh phi thường nhưng được sinhra từ

một con chim phượng. Con chim này được bố mẹ nuôi chăm sóc rất chu đáo nhưng

vì hai ông bà già không nuôi nổi vì con chim ăn nhiều nên hai ông bà bảo chim tự

kiếm ăn. Chim bay qua rừng xanh cởi lốt thành một chàng trai khỏe mạnh, đẹp đẽ và

có sức mạnh phi thường. Chàng trai ấy được Voi, hạt cây tông lông giúp nên đã đánh

gục con chim phượng hoàng đực kia. Sau này chàng mới biết đó là cha mình. Chàng

đã cưới một cô gái xinh đẹp làm vợ nhưng cô gái ấy nấu ăn quá chậm, không đủ cho

chàng ăn nên chàng đi hỏi nàng mặt trời làm vợ. Chàng phải đánh nhau với thần Sét-

chồng nàng Mặt trời nhưng thất bại. Lần sau, chàng kiên quyết đánh cho bằng được.

74

Và chàng đã giành thắng lợi nhờ có hạt tông lông giúp sức. Cuối cùng chàng đem hạt

tông lông trồng ở một góc trời sống hạnh phúc bên nàng mặt trời mãi mãi.

3. Con Sâu đá

Con sâu đá là kết quả của một lần đi bắt cá, bắt tôm của bà Pôm. Chiều về, ai

cũng đầy những cá tôm nhưng riêng bà Pôm chỉ được mỗi con sâu đá. Con trai bà

thấy thương con sâu đá nên nuôi dưỡng. Một thời gian sau, con sâu đá biến thành con

Voi rất đẹp. Thấy ĐRít có con Voi đẹp nên nhiều địa chủ trong làng có ý định bắt

Voi về làm của riêng. Ỷ thế giàu có nên lão địa chủ đã bắt đặt ra những thử thách

như: chọi gà, chọi trâu, chọi chó,…với điều kiện nếu ĐRit thua sẽ bị bắt Voi. Cuối

cùng ĐRit đều giành thắng lợi nên lão địa chủ tìm ra kế khác. Hắn dọa sẽ bỏ bà Pôm

vào nồi nước nếu chàng không đưa Voi đẹp đánh nhau với Voi của hắn. Voi của hắn

lại tiếp tục thua. Hắn nghĩ ra kế khác nữa là bắt Voi của chàng đi đánh nhau với Voi

của Thủy Tề và nhất định Voi của chàng phải chịu chết thì hắn mới hả dạ. Voi của

chàng chết thật, chàng vô cùng thương xót khóc thương Voi mấy ngày ròng rã. Sau

đó Voi hiện lên bảo chàng mang hai cái ngà về trồng trước nhà. Sau này, ngà biến

thành hai cây tre, đem lại cho chàng sự giàu có. Tên địa chủ thấy vậy bèn cho người

nhổ về nhà trồng nhưng không đem lại sự giàu có cho tên địa chủ nên hắn ta chặt tre

thành nhiều khúc vất đi. ĐRít thấy vậy, khóc thương, kiệt sức, ngủ lịm đi, Voi lại

hiện lên bảo ĐRit đem tre đan thành lờ bỏ ở thác nước. ĐRit làm theo và được rất

nhiều vàng bạc. Tên địa chủ thấy vậy bèn tìm tới ĐRit dọa sẽ giết bà Pôm nếu chàng

không nói ra sự thật. Hắn ta làm theo thì lờ lại đổ ra toàn phân người, phân lợn khiến

hắn rất tức tối, sai quân chặt nát cái lờ. ĐRit lại khóc than,Voi hiện lên bảo đốt thành

tro rồi rải theo dấu chân thú. Chàng làm theo nên cả buôn làng lúc nào cũng đủ thịt

thú rừng ăn. Tên địa chủ thấy vậy làm theo nhưng hắn lại đổ tro lên dấu chân người

đầy tớ nhà hắn, và hắn. Cuối cùng chúng chết hết. Cả làng ăn mừng, ĐRit sống sung

sướng hạnh phúc.

4. Chàng Cóc (Dân tộc Jơ rai)

Ngày xưa ở làng nọ có một cô gái nghèo. Gặp hôm cúng thần lúa, theo đứng tục

lệ người Jo- Rai, hôm ấy mọi người kiêng không được làm rẫy. Bởi vậy già trẻ gái

trai rủ nhau đi bắt cá, hái rau. Cô gái nghèo H Lui đứng tựa chân cầu thang, buồn tủi

75

nhìn dân làng tấp lập đi lại. Trong một lần đi hái lá với tốp thanh niên trong làng, H

Lui đã mang thai, đứa con sinh ra là cậu bé cóc xấu xí. Sau này cóc lấy được một

người vợ đẹp lại giàu có tên là H Bia Pang. Vì sĩ diện gia đình nên bố mẹ H Bia đã

đuổi vợ chồng Cóc ra khỏi làng. Họ dắt nhau đi qua biết bao con sông, ngủ lại biết

bao cánh rừng. Một hôm Cóc gặp chim gáy, chàng giương nỏ định bắn thì chim xin

tha mạng, chim gáy trả ơn chàng bằng việc chỉ cho chàng nơi ăn chốn ngủ của cóc.

Hai vợ chồng lại dắt nhau đi theo lời chim gáy dặn. Trên đường đi chàng gặp Rắn hổ

mang, Rắn cho chàng chiếc gậy cẩm nang, chiếc gậy này giúp chùng có nhà cửa, heo

bò, Voi,…Từ đó gia đình chàng sống hạnh phúc, giàu sang nhất vùng. Chàng cóc cởi

bỏ lốt cóc và trở thành chàng trai đẹp nhất, khỏe mạnh nhất, giỏi giang nhất. Sau này

chàng mời bố mẹ H Bia Pang sng nhà chơi để ăn mừng lúa mới. Gia đình chàng từ đó

lại sum vầy bên nhau.

5. Chàng Dơ Lên và nàng Phơ (Dân tộc Jơ rai)

Ngày xưa có một cô gái tên Phơ, nàng mồ côi cha mẹ nên ở với già Pôm trong

rừng sâu. Một hôm có một chàng trai khỏe mạnh, tốt bụng tên là Dơ Lên mải đuổi

theo một con thú nên không tìm thấy đường về. Thấy có một ngôi nhà nhỏ, chàng

định chạy vào nhà xin nghỉ ngơi nhưng vừa bước tới của thì bị tan xương nát thịt vì

nàng Phơ lỡ tay làm vỡ thuốc thần của già Pôm. Nàng thấy vậy xin già Pôm cứu

chàng trai lạ mặt kia và từ đó hai người nên duyên vợ chồng. Thấy nàng Phơ xinh đẹp

nên các tù trưởng có ý đinh cướp nàng. Lần cướp thứ nhất, nhờ sự giúp đỡ của én,

khỉ, sói và khiên thần, lọ nước thần mà cứu được nàng Phơ. Lần thứ hai, nàng lại tiếp

tục bị cướp và nhờ có thanh kiếm và chiếc khiên bay mà nàng được cứu thoát. Cuộc

sống bình yên trở lại với buôn làng.

6. Chàng Reng (Dân tộc Jơ rai)

Ở một làng nọ có hai vợ chồng là Kul và H’Liu lấy nhau đã lâu mà chưa có con.

Một hôm hai vợ chồng đem cơm lên gặp ông Trời xin được có con. Họ đi hết hai năm

rưỡi mới tới nơi được. Tới nơi hai vợ chồng được ông Trời đón tiếp rất nồng nhiệt,

mời hút thuốc, uống rượu, thết đãi no say, nói chuyện thân mật. Khi ra về, ông Trời

hỏi cần mấy người con rồi cho bấy nhiêu nhánh thuốc, rồi dặn: cứ hai năm ăn một

nhánh sẽ có con. Trên đường về nhà, chồng bảo vợ ăn thử một nhánh, thấy không có,

76

ăn thử hai nhánh thấy không có, đi một lát lại ăn hết cả thảy bảy nhánh nhưng cũng

không thấy gì cả. Đã hai năm rưỡi, người vợ sinh được bảy người con trai nhưng tất

cả đều không biết làm việc, ăn khỏe. Một hôm đi vào rừng đốn củi, sáu người anh

chết hết chỉ còn lại mình Reng. Sau đó Reng khấn trời giúp các anh mình sống lại

tiếp tục vào rừng đốt rẫy nhưng thật không may vì chàng gặp cọp. Reng và các anh

chiến đấu tới cùng dù vợ chồng cọp rất khỏe. Reng cầu xin sức khỏe để đánh lại mụ

cọp. Một thời gian sau, Reng đi gặp H’Bia Bla. Trên đường đi, Reng gặp rất nhiều

khó khăn. Cuối cùng cũng tới nhà thần nước. Trước khi vào nhà chơi, Reng được mời

hút thuốc, nói chuyện bảy ngày, bảy đêm sau đó Reng nói ý định của mình nhưng

Thần Nước không đồng ý. Hai người đánh nhau, ngồi nghỉ hút thuốc rồi lại đánh

nhau. Sau đó Reng lấy được con gái thần Nước, hai người rẽ nước lên trần gian. Cuộc

sống lúc đầu gặp trắc trở nhưng cuối cùng cũng yên ổn.

7. Chàng lười (Dân tộc Jơ rai)

Câu chuyện kể về chàng trai lười biếng, ăn xong là ngủ và ngủ từ ngày này sang

ngày khác, mùa này sang mùa khác không hề có vấn đề gì. Tiên trên trời cao nhìn

thấy chàng trai nghèo mà lười biếng nên hóa phép cho con gái mình xuống nhà Pơ

Tao ở và trở thành con gái Pơ Tao. Một hôm. Chàng trai đi câu cá nhưng không

muốn bắt cá bỏ vào giỏ nên quạ tha đi. Con cá ấy được quạ mang về cho con gái Pơ

Tao ăn, bỗng nhiên nàng mang thai. Pơ Tao thấy con gái mình không chồng mà chửa

bèn tung hô khắp dân làng tìm cha đứa bé. Ai cũng mặc quần áo đẹp đến nhà Pơ Tao

nhưng đứa trẻ chỉ lắc đầu cho đến khi chàng lười tới thì đứa trẻ nhận làm cha. Pơ Tao

rất tức tối vì con gái mình lại quen với người luời biếng như vậy nên đuổi đi. Hai vợ

chồng mang gạo lên núi sống. Sau một thời gian chung sống chàng lười vẫn không

thay đổi tính cách nên vợ chàng liền nghĩ ra cách bảo với chàng lười rằng nàng vừa

đánh mất cục vàng làm ra lúa gạo. Nghe vợ nói, chàng cầm rựa phát cả khu rừng còn

nàng theo sau cầm gậy đâm lỗ trồng lúa. Sau khi phát xong không thấy vàng đâu,

người vợ nhanh trí bảo chàng là lúa gạo từ kia mà sinh ra. Từ đó, chàng trở nên chăm

chỉ làm ăn và trở thành người giàu có, còn vợ chàng bay về trời vì đã xong nhiệm vụ

của mình. Từ biệt chồng con nàng bay về trời và hẹn mỗi năm xuống thăm chàng và

con một lần.

77

8. Chiếc sáo thần kì (Dân tộc Jơ rai)

Chàng trai nghèo khổ mồ côi cha mẹ tên là H Rit được bà Pôm nhận làm con

nuôi. Vì mặc cảm mình là người xấu xí nên đêm nào chàng cũng ra bờ suối than thở.

Ở đây, chàng ngủ thiếp đi và khi chàng tỉnh dậy gặp được con gái thủy tề xinh đẹp.

Đem lòng yêu người con gái ấy, chàng ngày đêm nhớ mong, quên ăn quên ngủ. Thần

linh hiện lên chỉ bảo và ban cho chiếc sáo thần. Nhờ siêng năng, chàng tập luyện thổi

sáo thật giỏi rồi làm theo lời thần dặn. Cuối cùng chàng lấy được người con gái ấy và

sống hạnh phúc suốt đời.

9. Chiếc quạt thần (Dân tộc Ba na)

Ngày xưa, loài hổ cũng biết đi đặt bẫy như người, hổ làm đủ các thứ bẫy, bẫy

được nhiều thú rừng. Y Rít đi đào củ mài, gặp Hổ đang bẫy chim và Rắn. Hổ bỏ cho

Rít một con Rắn, chàng định bỏ đi và nghĩ chẳng lấy để làm gì nhưng Rắn đã cầu xin

đừng vất đi và xin đi theo chàng để giúp chàng làm việc. Lâu ngày, thân nhau, Rắn

định gả chị gái cho Y Rít. Một lần về thăm nhà Rắn, Rắn giúp Y Rít vượt qua sông,

suối và nói cho Y Rít về chiếc quạt thần. Để trả ơn Y Rít đã nuôi dưỡng trong thời

gian qua, mẹ Rắn đã ban tặng chàng chiếc quạt thần, gả con gái cho chàng. Nghe tin

Y Rít giàu có, vợ đẹp, các tù trưởng trong làng có ý đinh cướp của cải, lấy quạt thần

và bắt vợ Y Rít. Y Rít ở dưới xuôi biết chuyện nhờ chiếc nhẫn thần báo mộng và đi

tìm vợ. Y Rít đi khắp nơi, vượt qua suối, qua song, vượt qua gian nguy, sợ hãi rồi đến

một vùng nước xanh biếc, chàng không tài nào qua được. Ở trên cao, ông trời phơi áo

đỏ, nhìn xuống trần gian thấy chàng không qua được liền biến thành ông già, bay

xuống bảo với Y Rít đường đi. Nói xong, ông già biến mất, Y Rít tỉnh dậy làm theo

lời ông già dặn. Lúc khó khăn ấy, cá giúp chàng đi lại, chuột giúp chàng tìm quạt

thần, nhím đào đường ngầm, mèo và chó đùa giỡn để không bị phát hiện. Cuối cùng,

Y Rít cũng tìm được vợ, quạt thần giúp chàng lấy lại nhà cửa, lợn gà, tôi tớ, chiêng

ché và sống cuộc đời hạnh phúc.

10. Di Ông lấy mặt trời (Dân tộc Jơ rai)

Câu chuyện kể về ba anh em nhà Di Ông, Dây Núi. Di Ông là anh cả, người to

lớn, rất khỏe, đã đến tuổi lấy vợ nhưng chàng không thể thích ai vì không ai đẹp cả.

Nghe em nói người mà anh mơ ước chỉ có nàng Mặt trời thôi. Nàng mặt trời tròn

78

trĩnh, mái tóc dài mượt óng, mắt sáng như sao, má đỏ hồng. Vượt qua nhiều khó khăn

nhưng đến đoạn gặp một vũng nước lớn, chàng lại tiếp tục tìm cách qua nhưng không

qua được. Chàng thấy một con Rùa từ đâu tới, nảy ý đinh bắt, Rùa bị bắt van xin tha

và cho chàng thuốc uống để vượt qua biển, đến gặp nàng Mặt trời. Rùa chỉ đường tới

vương quốc của nàng. Sau khi gặp nữ thần mặt trời, chàng và chồng nàng là Thần

Sét đã đánh nhau quyết liệt. Chàng đánh Rồng làm ba khúc, đánh nhau với thần Sét

và cuối cùng cũng giành thắng lợi. Nàng Mặt trời phân vân chưa biết thế nào thì một

cụ già đầu tóc bạc phơ, chống gậy bước tới giải hòa và nặn hai cô gái xinh đẹp, mỗi

người chọn một người, nhà chọn một gian. Di Ong chọn đúng thần mặt trời còn thần

Sét thì vừa cầm đã vỡ vụn. Từ đó, thần Sét tức giận và hận thù Di Ông còn Di Ông

sống sung sướng, hạnh phúc.

11. Đam A Lách

Có hai vợ chồng đến già cả mới sinh được một mụn con trai, thằng con trai

chẳng biết làm gì, ăn xong lại nằm. Một hôm, bố mẹ đi làm hết chỉ còn mình A Lách

ở nhà, chàng thấy một cô gái xuất hiện dọn dẹp, xin được làm vợ Lách. Có một lần

thấy con trai lười quá nên hai vợ chồng đuổi nó ra khỏi nhà cho biết cuộc sống ngoài

đời. Khi A Lách đi thì vợ cũng đi theo, hai vợ chồng sống cuộc đời bình yên. Vợ của

chàng – Maich là người có phép thần thông, đã làm A Lách thay đổi tính cách, làm ăn

siêng năng, chăm chỉ hơn. Nhưng có một sự việc xảy ra khiến cuộc sống không còn

yên bình như trước nữa. Vợ của chàng vì xinh đẹp nên các tù trưởng trong vùng dụ

dỗ, có ý định cướp vợ. Chúng đặt ra những chiêu thức như chọi gà, bắt heo đực của

chàng tới cắn nhau, trâu đực húc nhau,.. nhưng rồi đều bị thất bại vì vợ chàng hóa

phép giúp chàng giành thắng lợi. Sau đó chúng tìm cách bắt bóng vợ chàng, chàng

tìm mọi cách để cứu vợ. Cuối cùng hai vợ chồng sống yên vui.

12. Đăm Dông đánh thần Sét (Dân tộc Ba na)

Ngày xưa trong buôn người Ba-Na có hai vợ chồng chung sống rất hòa thuận.

Họ sinh được bảy người con trai, trong đó người con thứ bảy có sức mạnh phi

thường, làm việc gì cũng giỏi hơn người. Cha mẹ đặt tên là Đăm Dông. Đăm Dông

chưa bao giờ đầu hàng trước bất kì người nào, bất kì việc gì. Một hôm, nhà tù trưởng

rất giàu mạnh ở phương xa lên đánh phá làng Đăm Dông, chúng đông như mối, giáo

79

gươm tua tủa như lau lách. Anh kêu gọi trai tráng trong làng vác khiên đuổi lại. Họ

đánh nhau từ sáng đến tối, làm đất đổ ào ào. Đăm Dông tức lắm, muốn giết chết kẻ

thù, tiếng thét của anh làm rung chuyển núi rừng. Bót-Gơ lây sốt ruột, càu nhàu vén

mây gió xuống, hét lớn. Đăm Dông bảo thần sét hãy kéo mây, kéo mặt trời lên để

chàng đánh đuổi kẻ thù. Bót-Gơ lây không chịu vì cho rằng Đăm Dông hỗn xược.

Thấy Đăm Dông làm dữ, Bót- Gơ lây đành nói với mặt trời chịu khó nhô lên chiếu

sáng cho Đăm Dông đánh kẻ thù. Sau khi đánh xong kẻ thù, tiếng tăm của Đăm Dông

vang xa, Bót-Gơ lây sinh ra ghen ghét, bèn sai người xuống giết Đăm Dông. Hai bên

lại nghênh chiến hết ngày này sang ngày nọ, tháng nay qua tháng kia. Thần Sét giở

hết phép thuật ra đều thua Đăm Dông. Cuối cùng, thần Sét phải giảng hòa với Đăm

Dông và từ đó không ai dám động tới anh nữa.

13. Gươm Ông Tú (Dân tộc Ba na)

Năm ấy, có tên bạo chúa xa ầm ầm kéo quân tràn tới vùng của người Ba na. Mọi

người ai cũng căm hận, nuôi ước mơ sẽ trả thù. Trong buôn nhỏ có bà Hơ Bia Đát.

Một hôm bà Đát lên rẫy mệt quá, vào gốc cây ngồi nghỉ, nắng quá, bà khát nước và

sau đó bà mang thai. Sau ba tháng, bà sinh được một cậu con trai khỏe mạnh, lớn

nhanh như phỗng, có sức mạnh phi thường. Cậu đi khắp mọi nơi tìm người tài giỏi

đánh giặc nhưng không gặp ai cả. Một hôm, chàng than với ông Trời về hoàn cảnh

của mình. Bỗng nhiên trời tối sầm lại, chuyển đất, làm núi đồi lảo đảo, rừng cây

nghiêng ngả, chàng bị ngã vào một hồ nước nóng và tìm thấy một thanh thép quý.

Chính gươm thần đã giúp chàng đánh tan kẻ thù. Cuộc sống của buôn làng lại trở lên

tươi đẹp. Nhưng một lần, ông Tú (tên chàng trai khi già) bị ốm nặng bèn trả lại thanh

gươm nơi mà ngày xưa nhặt được. Thần linh nhận gươm. Và sau đó, người Khơ me

mò được chuôi gươm, Ba na mò được lưỡi gươm. Nếu lắp chúng lại thì sẽ trở thành

một sức mạnh vô địch.

14. Hai chàng trai lành nghề (Dân tộc Ba na)

Một cụ già góa vợ, có hai người con trai, người nào cũng khéo tay. Anh cả dựng

nhà rất đẹp, từng cái cột, cây nêu anh đều làm trơn tru và đẹp đẽ. Nhưng tài gọt đẽo

của anh là nhất. Còn người em út lại giỏi tạc tượng gỗ. Một hôm, người bố đi rẫy,

80

không may bị cọp vồ chết, dân làng sợ không ai dám viếng thăm, giúp đỡ gì, hai anh

em đành lúi húi đẽo quan tài, khâm liệm cha rồi cùng nhau khiêng đi chôn. Thương

cha quá, họ bàn nhau nghỉ việc để làm nhà mồ cho cha. Trong khi hai anh em làm

mệt quá, ngủ thiếp đi, trời vén mây xuống, nhìn thấy người trần mà giỏi quá bèn sai

thần Sét xuống đánh nhau nhưng nhờ có hai con chim treo ở nhà mồ đã biết bay và

gọi đàn chim xuống giúp hai anh em, tượng gỗ khóc thầm, dâng rượu, hầu chủ nó.

15. H Bia lấy chồng chồn

Ngày xưa ở một làng nọ có hai ông bà già nghèo khổ sinh được hai cô gái xinh

đẹp. Nhưng người chị xinh đẹp hơn cô em nên có nhiều người dòm ngó. Cô chị càng

lớn càng xinh đẹp nên dân làng gọi cô là Rác. Một hôm hai chị em đang tắm bên bờ

suối thì Rác gặp nạn. Hai ông bà kêu cứu khắp làng và nói ai cứu được sẽ gả Rác cho

người đó. Khắp buôn làng không ai cứu được nàng, nhưng chỉ có chồn cứu được. Sau

đó Rác được gả cho chồn. Sau khi cứu Rác, chồn bị bệnh nặng, chàng bảo vợ tới gặp

gấu, gặp hổ xin thuốc thì mới khỏi. Vợ chàng băng đèo lội suối đi tìm, cuối cùng

chàng khỏi bệnh, hiện lên thành chàng trai khỏe mạnh. Từ đó họ sống hạnh phúc bên

nhau.

16. Nàng Trứng gà (Dân tộc Ba na)

Câu chuyện kể về hai bà cháu nghèo khổ là bà Pôm và cháu HRit. Thấy thương

chàng trai nghèo mà tốt tính, nàng Trứng gà đã xuất hiện để giúp chàng giặt đồ, giã

gạo, xách nước nhưng sau khi làm xong việc thì nàng lại chui vào vỏ trứng y như

trước. Chàng trai thấy lạ bèn rình và bắt được nàng. Từ đó nàng trở thành vợ HRit.

Trong vùng ai cũng ghen tị với vợ của HRit đặc biệt là Bok Roh. Không muốn mất

vợ, chàng Hrit phải làm theo những gì lão ta bắt. Đầu tiên là mang gà tới trọi, chẳng

may gà của lão chết, lão ta bắt chàng phải làm thịt gà của mình và tàn nhẫn hơn là

phải ăn thịt con gà ấy. Ở nhà vợ chàng thấy vậy nên đã bồng con bỏ đi sang bảy ngọn

núi kia để ở. Chàng về không thấy bèn đi tìm. Trên đường đi, chàng đinh giết sóc, lấy

thịt ăn cho đỡ đói nhưng sóc xin tha mạng và hứa sẽ dẫn đi tìm vợ. Trên đường đi

cùng sóc, chẳng may sóc chết, ruồi đã giúp chàng sang được bên kia bảy ngọn núi.

Chàng gặp vợ vui mừng khôn xiết, hai vợ chồng cùng về chăm sóc bà Pôm. Tên Bok

Roh thấy vậy, liền dọa nếu chàng không làm theo yêu cầu của hắn thì hắn sẽ bắt vợ

81

chàng đi. Nhờ có sự giúp đỡ của vợ mà chàng đã lần lượt vượt qua những thử thách.

Cuối cùng lão Bok Roh bị trừng trị, chàng sống hạnh phúc bên vợ và trở thành người

giàu có nhất làng.

17. Sự tích thác Iali (Dân tộc Ba na)

Ngày xưa ở buôn nọ có hai anh em. Người anh tên là Lo, người em tên là Li. Lo

thì giàu có nhưng keo kiệt còn Li thì nghèo khổ nhưng sống tốt bụng, việc gì cúng bái

đều hỏi Trời nên ai cũng yêu mến. Thấy vậy, Lo lập âm mưu giết em. Một hôm Lo rủ

Li đi bắt cá, đến gần Lo đẩy Li xuống nước cho chết ngạt. Nhưng lạ thay, vừa đẩy Li

xuống nước đã có người mà Li từng giúp đỡ thấy vậy liền cứu Li. Thần Ptao Giàng

Đak ( thần nước) giúp đỡ và cứu Li. Thần thết đãi ăn uống no say, cho chiếng ché quí

và Li trở thành người giàu có nhất buôn làng. Lo thấy vậy hỏi em, hôm sau rủ em đi

bắt cá và nhờ em đẩy xuống nước. Thần Đak thấy vậy trừng trị Lo, sai quân dìm chết,

mổ thịt ăn.

18. Sự tích Ia Nueng (Biển Hồ) (Dân tộc Jơ rai)

Chẳng ai biết Ia Nueng có từ bao giờ? Ai đào nó? Họ nhớ rằng từ khi lũ làng

đến đây phá rừng làm nương rẫy, sinh sống, sinh cơ lập nghiệp, đời sống lúc nào

cũng sung túc, bếp nào cũng đủ ăn, vào rừng đặt chân đến đâu cũng đều gặp bò, dê,

voi. Ông trời mọc ngang đầu núi, Ya Pôm rủ Ya Chao đi múc nước ở bến IA Nueng,

đang đi gặp chú lợn màu trắng, kêu ủn ỉn bên đường, đem về nuôi và con lợn này chỉ

ăn cát. Trong một lần, dân làng chuẩn bị làm lễ mừng nhà rông mới, ai cũng có ý

định bắt con lợn này để cúng thần nhưng Ya Chao không đồng ý. Vì đây là việc quan

trọng của làng nên không ai được từ chối. Ya Chao thê rằng: “Nếu tôi ăn thịt này thì

đất sẽ động, IA Nueng sẽ sụp lở”. Nhưng con cháu của Ya Chao thèm quá nên Ya

Chao bèn lấy một miếng cho cháu ăn. Bỗng nhiên Trời gầm thét, đất đai sụp đổ, dân

làng chết hết chỉ còn lại Ya Nơm, tiếc thương dân làng đã lập bàn thờ bên hồ. Vết

tích còn lại là Biển Hồ ngày nay.

19. Tia oong Tư và con chim đại bàng (Dân tộc Ba na)

Khi bố mẹ qua đời thì Tia oong Tư trở thành chủ làng, giàu có, sống sum vầy

trong bản làng của mình, có người yêu không đẹp nhưng tài giỏi là Bia voong Bơ.

Một hôm có con Cơ linh giang tới phá hoại làng. Để đánh lại chúng, Tia oong Tư rất

82

cố gắng mà không cần giúp đỡ. Còn Rồng ngửi thấy mùi hương trầm trên người

chàng liền tới giúp đỡ nhưng Tia oong Tư từ chối. Sau đó để giúp Cơ linh Giang

nhanh chóng, Rồng đã chạy tới lấy dao, khiên để đánh đại bàng. Lúc này Tư cũng từ

chối nốt. Thấy Tư giỏi và dũng cảm, Rồng đinh gả con gái cho Tư. Chàng thấy mọi

người ai cũng ủng hộ. Cuối cùng họ sống hạnh phúc, chim đại bàng cũng không dám

phá làng người Ba na nữa.

20. Voi và Kiến (Dân tộc Jơ rai)

Ngày xưa, ở dưới trần gian, cỏ cây quanh năm tươi tốt, muông thú và loài người

sinh sôi nảy nở rất nhiều. Trong đó họ hàng nhà Voi đông hơn cả. Voi nghênh ngang

khắp nơi không biết nể sợ ai bao giờ, gặp ai cũng đá và giẫm không thương tiếc. Kiến

và Kì Nhông là những loài vật nhỏ bé vô cùng lo sợ. Chúng ở dưới đất bị Voi giẫm

lên chết rất nhiều, leo lên cây cũng không thoát khỏi cái vòi của nó. Mỗi lần Voi quay

cái vòi của mình lên cành cây, quất vài lần thì Kiến và Kì Nhông chết nhiều vô kể.

Thấy tội nghiệp những loài vật bé nhỏ nên ông Trời hóa thân thành người, đã đứng ra

làm người “cầm cân nảy mực” xử lý việc. Bằng cách nói chuyện nhẹ nhàng và chỉ ra

cho Voi lỗi lầm của mình và dọa sẽ trị tội nếu không nghe lời, ông Trời giúp kiến và

kì nhông thỏa mong muốn của mình. Nói xong ông trời bận việc nên biến mất ngay

lúc đó. Còn Voi lúc đầu vẫn ngông nghênh nhưng sau đó thì hiền lành làm theo

những gì ông Trời bảo. Từ đó, cuộc sống giữa muôn loài trở lên tốt đẹp hơn.

1.b.Những truyện sưu tầm

1. Cô em út (Dân tộc Ba na)

Ngày xưa, ở một làng nọ, có một gia đình rất đông con gái. Một hôm mấy chị

em rủ nhau vào rẫy hái dưa. Các cô chị hái được rất nhiều dưa, riêng cô út thì không

hái được quả nào. Khi mặt trời đổ bóng về chiều, các chị ai cũng đầy gùi dưa, riêng

cô em chỉ có một quả duy nhất. Vì không được nhiều dưa như các chị nên cô em cố

gắng hái thêm nhưng lại chẳng tìm thấy quả nào nữa. Các chị thấy vậy liền bảo em:

- Thôi em về đi, bọn chị hái được nhiều lắm rồi. Đây này, các chị chia bớt cho

em.

Nhưng cô em nhất định không chịu lấy dưa của các chị cho. Trên đường đi về

nhà cô em thấy gùi của mình rất nặng liền bảo các chị xem giùm ở trong đó có gì.

83

Các chị hoảng hốt thấy một con Rắn rất to. Các chị chạy một mạch về nhà, gặp

người bố, hoảng hốt nói với bố rằng có một con Rắn rất to trong gùi của em. Ông bố

thấy vậy liền chạy ra chỗ cô út và thả con Rắn đi. Một thời gian sau ông bố phát hiện

có một con Rắn trong nhà, cô con gái út ngủ đâu con Rắn theo đó, cô út lên nương

rẫy, Rắn cũng theo lên. Ông bố không biết làm sao liền nghĩ ra cách làm nhà riêng

cho Rắn. Từ ngày có Rắn bỗng nhiên nhà cửa trở nên gọn gàng, thúng mủng, rổ rá từ

đó xuất hiện. thấy vậy ông bố mới gả cô út cho Rắn. Một hôm, hai vợ chồng ra sông

tắm. Chàng Rắn bảo với cô út:

- Em tắm ở đoạn đầu con sông còn anh tắm ở đoạn cuối này.

Sau khi bảo vợ vậy chàng Rắn liền cởi lốt ra. Chàng bảo với bà Cua:

- Làm thế nào để tôi có thể trở lên đẹp hơn, cường tráng hơn.

Cua nghe nói vậy liền phán:

- Mọi thứ đều đẹp hết, chỉ có cái chân là không đẹp thôi, để ta hóa phép làm cho

chúng trở lên đẹp hơn.

Nói xong, chàng Rắn bỗng biến mất, thay vào đó là chàng dũng sĩ cao to khỏe

mạnh. Cô út rất ngạc nhiên khi phát hiện ra chồng mình là một chàng trai rất đẹp,

đánh đàn hay. Một hôm, chồng đi vắng, cô út bị một con Rắn khác nuốt chửng vào

bụng. Mọi người hốt hoảng đi kiếm cô em nhưng không được. Cuối cùng chồng của

cô biến lại thành Rắn đi tìm vợ. Lúc sau tìm được, chàng dùng dao chém chết con

Rắn, mổ bụng, lấy vợ ra. Thấy vợ nằm bất tỉnh, chàng liền ngẩng mặt lên Trời và nói:

- Nếu em chết vì trời phạt thì thôi, còn nếu em chết vì con Rắn kia thì sống lại.

Nói xong cô em sống lại, từ đó họ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

(Bà Đinh Thị Lăm

52 tuổi làng Kyang, Kon Lương Khương, Kbang, Gia Lai)

2. Chàng Jăng Gre (Dân tộc Ba na)

Ở làng Jăng Gre có ba anh em mồ côi cha mẹ. Ngày ngày, ba anh em chăn trâu

để sống qua ngày. Một hôm, người anh bảo với em trai ở nhà canh trâu cẩn thận để

các anh đi mua rượu. Người em liền bảo rằng em còn nhỏ nên chưa chăn được trâu.

Các anh bảo không sao đâu rồi đi mua rượu ngay. Các anh trai của chàng vừa đi,

chàng Jăng Gre liền chăn thả trâu nhưng không may trâu ăn lúa nhà người ta nên khi

84

các anh về đã đánh cho chàng một trận tơi bời rồi họ còn đuổi đi, không cho ở trong

làng nữa. Chàng đi lang thang mãi, đến một nơi có cây đa lớn chàng mệt nhoài, nằm

thiếp đi bên cây đa. Bỗng nhiên có một bà Tiên hiện lên, cho chàng ăn uống, giao cho

chàng nỏ thần, gươm thần rồi ban cho cho chàng phép thuật để chàng bay về trời.

Một hôm, chàng vừa ăn uống xong, chàng liền đi săn trong một cánh rừng nọ,

chàng đi mãi nhưng chẳng thấy một con thú nào nhưng chàng nhìn thấy một ngôi

làng của tù trưởng Bok Ria. Gặp tù trưởng chàng vẫn để nguyên hình là một anh

chàng xấu xí. Thật may mắn cho chàng vì Bok Ria thấy chàng tội nghiệp nên nhận

nuôi chàng, sau đó ông hứa gả hai cô con gái cho chàng. Chàng xuống sông tắm, nhờ

có cua, cá lóc chỉnh sửa nguyên hình nên chàng đã biến thành một hoàng tử đẹp nhất

vùng, cưới liền hai cô con gái Bok Ria làm vợ. Từ đó, buôn làng của chàng trở nên

yên bình. Chàng là tù trưởng giàu có nhất cả vùng.

( Bà Đinh Thị H’Nót kể

76 tuổi, làng T’MẬT- xã Đông- Kbang- Gia Lai)

3. Cuộc chiến giữa các tù trưởng (Dân tộc Ba na)

Hỡi các cô công chúa, chúng ta chuẩn bị đi xúc cá nhưng đi xúc cá không có

đàn ông mà toàn phụ nữ không, chúng ta không sợ sao, phải tìm người đàn ông chứ,

để họ dẫn đi. Ôh! Vậy thì tìm ai bây giờ? Vậy thì chỉ công chúa Siêu Biên qua kêu

anh hoàng tử Sách Bánh dẫn đi. Ơh, anh Sách Bánh, chúng em muốn anh dẫn chúng

em đi xúc cá nhưng anh mắc đan lát, đan gùi rồi sao dẫn đi được. Không sao đâu, lát

nữa về đan sau cũng được. Thế rồi mọi người cầm theo rổ xúc cá, đi từ núi này qua

núi khác, từ sông này qua sông khác. Họ đi mãi đi mãi tới hạ lưu cửa sông, xúc được

nhiều cá nhưng không biết đổ cá vào đâu. Chàng hoàng tử liền chặt ống tre đựng cá

cho ba chục chị là công chúa kia. Một hôm, có chàng trai là Đắk Dai cùng dân làng đi

săn, họ đi một nơi tới nơi thấy con kì đà leo lên cây, họ cử người leo lên cây theo con

kì đà. Khi đi qua họ thấy ba chục người đang đi qua rẫy họ, họ đã dẫm đám bắp, lúa,

ngô. Chàng Đắk Dai thấy vậy bảo: Cứ để như vậy, chắc không được, phải đánh

chiêng, gõ mõ kêu toàn bộ dân làng ra ngoài đánh đám người kia. À! đúng rồi, họ là

những người ngày xưa nợ mình chiêng, ché giờ lại dẫm nát lúa ngô của mình. Họ bảo

tỉa lại nhưng không tỉa, bây giờ chúng ta đánh họ thôi. Nói xong, họ liền bao vây đám

85

xúc cá. Bà Jăng Ch’Cua bảo : Ơ kìa! Có đám người bao vây chúng ta nhưng mọi

người không tin, thế là họ bị bao vây nhưng may sao bà Jăng Ch’Cua thoát được và

chạy về báo với dân làng của mình.

Thế là các chàng công tử làng Jăng Gre chuẩn bị dao, kiếm, khiên, mác, ná

chuẩn bị đi cứu người và đi đánh làng Đắk Dai. Ai cũng đi đánh giặc hết còn công tử

Khùng cứ ngủ miết còn hai em trai của công tử thì không có sức mạnh, phép thuật

nên không thể đánh nhau với đám người làng bên kia. Chính vì vậy, hai anh em đã

qua nhà vợ ông Trời cầu xin giúp đỡ. Vợ ông trời biết chuyện nên dùng phép thuật

nung hai người này trong lò bát quái. Nấu bảy ngày, bảy đêm khiến sức mạnh của hai

chàng trai trở nên phi thường hơn.

Sau khi có sức mạnh trở về, hai chàng trai tổ chức dân làng sang làng Jăng Gre

đòi người. Họ đã qua bên đó đánh với thời gian 365 năm. Cuối cùng bên làng Đắk

Dai đã thua, họ đã thắng. Tất cả những người chết chóc đều được vợ ông Trời hóa

phép, cúng bái cho họ sống lại. Cuộc sống yên bình bắt đầu trở lại.

( Bà Đinh Thị H’Nót kể

76 uổi, làng T’MẬT- xã Đông- Kbang- Gia Lai

4. Kén chàng rể ( Sưu tầm)

Tù trưởng Bok Ria cho chọn chàng rể cho con gái nhưng công chúa Bia Phu lại

không yêu người mà bố chọn- chàng Jiêng Jơ rai. Nàng đem lòng yêu HRit. Nhờ có

sự phù hộ của tổ tiên, nhờ có sự chỉ đường của ông Trời mà Bok Ria đã hiểu ra được

chàng Jiêng Jơ rai rất lười biếng, chỉ có HRít là siêng năng thôi. Cuối cùng, công

chúa Bia Phu lấy được người mình yêu.

(Ông Đinh Kuek

69 tuổi, làng Kon Lương Khương, Kbang, Gia Lai)

PHỤ LỤC 2: Bảng số liệu về tần số xuất hiện của nhân vật phò trợ trong truyện

cổ tích các dân tộc thiểu số ở Gia Lai và người Việt

Tần số xuất hiện của yếu tố thần kì cả vô hình lẫn hữu hình ở ba tài liệu: A (cổ

tích thần kì người Việt Nam ở Bắc Bộ), B ( cổ tích thần kì người Việt Nam ở Trung

Bộ), C ( cổ tích thần kì người Việt Nam ở Nam Bộ), Tài liệu D (cổ tích ở Gia Lai)

86

Ghi chú TT Tài liệu

Tần số xuất hiện nhân vật phò trợ dạng đồ vật Tần số xuất hiện nhân vật phò trợ dạng người

số Tần xuất hiện nhân vật trợ phò dạng loài vật

16/40 (40%) A 1 19/40 (37,5%) Nhiều chất hình ảnh Tiên 9/40 (22,5%)

12/35 (34%) B 2 12/35 (34%) 4/35 (32%) Nhiều chất hình ảnh Tiên – Bụt

C 3 8/27 (29,6%) 13/27 (48,2%) 6/27 (22,2)%) Nhiều chất hình ảnh Tiên – Bụt – Phật

D 4 12/30 (40%) 8/30 (26,7%) Nhiều hình ảnh Trời- Yang 10/30 (33,3%)

PHỤ LỤC 3: Một số hình ảnh của người kể chuyện về nhân vật

phò trợ trong truyện cổ tích các dân tộc thiểu số ở Gia Lai

(Ông Đinh Kuek trước khi kể chuyện

69 tuổi, làng Kon Lương Khương, Kbang, Gia Lai)

87

( Bà Đinh Thị H’Nót kể

76 tuổi, làng T’MẬT- xã Đông- Kbang- Gia Lai)

(Bà Đinh Thị Lăm

52 tuổi làng Kyang, Kon Lương Khương, Kbang, Gia Lai)

88