BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Kim Chung
NHÂN VẬT PHÒ TRỢ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở GIA LAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trần Thị Kim Chung
NHÂN VẬT PHÒ TRỢ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở GIA LAI
Chuyên ngành Mã số : Văn học Việt Nam : 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ QUỐC HÙNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
2
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này hoàn thành với sự nỗ lực của bản thân.
Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
TS. Hồ Quốc Hùng – người đã hướng dẫn tôi rất tận tình.
Phòng Sau Đại học, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn cùng Ban quản lý Thư viện
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, Thư viện tỉnh Gia Lai – các thầy cô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành luận văn Thạc sĩ.
Trong thời gian hoàn thành luận văn này, tôi nhận được nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ của
gia đình, bạn bè.
.
Học viên
Trần Thị Kim Chung
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ............. 11
1.1. Cơ cấu tộc người ........................................................................................... 11
1.2. Tình hình tư liệu ............................................................................................ 16
1.2.1. Tư liệu đã được công bố ........................................................................ 17
1.2.2. Tư liệu điền dã ......................................................................................... 17
1.2.3. Nhận xét chung ....................................................................................... 18
1.3. Những vấn đề lí thuyết của Propp được vận dụng trong đề tài ............... 21
1.4. Những vần đề về típ và mô típ liên quan đến đề tài .................................. 24
Tiểu kết chương 1: .................................................................................................. 26
Chương 2. CÁC KIỂU NHÂN VẬT PHÒ TRỢ TRONG TRUYỆN CỔ
TÍCH CỦA TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở GIA LAI ......................................... 27
2.1. Các tiêu chí phân loại nhân vật phò trợ ...................................................... 28
2.2. Phân loại nhân vật phò trợ ........................................................................... 32
2.2.1. Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng giải quyết những nhiệm vụ khó
khăn ..................................................................................................................... 32
2.2.2. Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng phò trợ về việc thay đổi về không
gian ...................................................................................................................... 39
2.3. So sánh nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia
Lai và truyện cổ tích người Việt.............................................................................. 46
2.3.1. Sự tương đồng ......................................................................................... 47
2.3.2. Sự khác biệt ............................................................................................. 47
Tiểu kết chương 2: .................................................................................................. 53
Chương 3. MỘT SỐ MÔ TÍP LIÊN QUAN ĐẾN NHÂN VẬT PHÒ TRỢ
TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở GIA LAI54
3.1. Mô típ uống rượu và hút thuốc của nhân vật phò trợ................................ 55
3.2. Mô típ hóa thân của nhân vật phò trợ ......................................................... 57
3.3. Mô típ vật thiêng của nhân vật phò trợ ....................................................... 59
3.4. Mô típ đánh nhau của nhân vật phò trợ ...................................................... 61
4
3.5. Mô típ kết hôn của nhân vật phò trợ ........................................................... 63
Tiểu kết chương 3: .................................................................................................. 67
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 70
PHỤ LỤC
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là Trời, Thần, Tiên ............ 36
Bảng 2.2. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là đồ vật ............................. 40
Bảng 2.3. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là con vật ........................... 43
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học dân gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng là nơi lưu giữ những mối
quan hệ văn hóa các dân tộc, lịch sử hình thành và phát triển của các dân tộc đó.
Nằm trong mối quan hệ với các nước Đông Nam Á,Việt Nam được xem là quốc gia
có nền văn hóa đa các dân tộc với kho tàng văn học dân gian khá phong phú. Các
dân tộc thiểu số ở Gia Lai là một bộ phận trong cộng đồng cư dân Tây Trường Sơn.
Qua các biểu hiện văn hóa, trong đó có văn học dân gian của nhóm các dân tộc này
có thể thấy được chân dung đời sống tinh thần của khối cộng đồng đó. Thực tế cho
thấy, nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến các lĩnh vực này. Riêng đối với thể loại
cổ tích rất quen thuộc của giới nghiên cứu Folklore, chúng tôi muốn khảo sát sâu một
khía cạnh nhỏ. Đó là khía cạnh về nhân vật phò trợ.
Để giúp cho nhân vật chính được hoàn thiện, truyện cổ tích các dân tộc Gia Lai
bao giờ cũng xuất hiện nhân vật phò trợ. Đây là nét đặc thù trong cấu tạo truyện cổ
nói chung của nhân loại.
Vì vậy, nghiên cứu nhân vật phò trợ (hay còn gọi là nhân vật trợ thủ) là một vấn
đề cần được quan tâm. Từ nhân vật phò trợ, chúng ta có thể mở rộng nghiên cứu các
mô típ liên quan tới nhân vật này, cấu tạo cốt truyện, kiểu truyện…Đồng thời so sánh
các nhân vật trợ thủ, cấu tạo truyện…giữa các vùng miền trong một đất nước để từ đó
tìm ra những nét tương đồng, dị biệt.
Với tất cả những lí do trên nên chúng tôi quyết định lựa chọn lựa đề tài: Nhân
vật phò trợ trong truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Chúng tôi
hi vọng góp một phần công sức nhỏ vào quá trình nghiên cứu văn học dân gian ở
một vùng đất đỏ ba dan đầy nắng gió.
2. Mục đích nghiên cứu và phạm vi đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đặt ra những mục tiêu nghiên cứu sau:
Thứ nhất: Khảo sát sự xuất hiện của nhân vật phò trợ được phân bố truyện cổ
tích của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
Thứ hai: Thông qua việc khảo sát nhân vật phò trợ trong truyện cổ của các dân
tộc thiểu số ở vùng này, chúng tôi muốn tìm hiểu cách tổ chức, cấu tạo của thể loại
7
truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
Thứ ba: Thử so sánh nhân vật phò trợ của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai và dân
tộc Việt.
Đề tài được giới hạn trong phạm vi truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai
trong đó chỉ xin trình bày truyện cổ của hai các dân tộc là Jơ rai và Ba na. Vì đây là
hai cộng đồng lớn nhất và lâu đời ở khu vực này. Việc chọn hai dân tộc này theo
chúng tôi là phù hợp về mặt khoa học.
3. Lịch sử vấn đề
Những công trình chuyên viết về nhân vật phò trợ của truyện cổ tích các dân tộc
ít người ở Gia Lai hiện nay chúng tôi chưa tìm thấy. Tuy nhiên một số công trình ở
nhiều mức độ khác nhau có liên quan đến đề tài, xin dẫn ra đây:
Trần Đức Ngôn: Nghiên cứu kết cấu truyện cổ tích thần kì Việt theo lí
thuyết hình thái học của Vladimia Iacoplevich Prop, tiểu luận cấp I, bản đánh
máy tại Thư viện Viện nghiên cứu văn hóa, Hà Nội.
Tăng Thị Kim Ngân với luận văn: Khảo sát những đặc điểm trong cấu tạo
truyện cổ tích thần kì dân tộc Việt Nam (dưới ánh sáng lí thuyết của Propp về
hình thái học).
Với hai tài liệu này, chúng tôi thấy được những đặc điểm cấu tạo của truyện cổ
tích người Việt dựa trên lí thuyết của Propp.
Trong luận án tiến sĩ văn hóa học: Yếu tố thần kì trong truyền thuyết và
truyện cổ tích người Việt ở Nam Trung Bộ, tác giả Nguyễn Định trình bày khá
công phu về yếu tố thần kì trong truyện cổ và truyền thuyết ở Nam Trung Bộ dựa trên
lí thuyết hình thái học của Propp. Toàn bộ luận văn được chia làm ba chương.
Chương thứ nhất tác giả trình bày về các khái niệm yếu tố thần kì, khái quát về tiểu
vùng văn hóa, quá trình nghiên cứu văn hóa dân gian người Việt ở Nam Trung Bộ.
Đây là chương cơ sở để làm nền tảng cho các chương sau. Chương thứ hai, chương
thứ ba, tác giả trình bày về yếu tố thần kì trong truyện cổ tích thần kì, truyền thuyết
của người Việt ở Nam Trung Bộ. Trong chương này, tác giả trình bày khá công phu,
tác giả có cố gắng lựa chọn các tác phẩm truyện cổ, truyền thuyết ở Nam Trung Bộ,
sắp xếp, phân loại, so sánh với yếu tố thần kì ở Bắc Bộ và Nam Bộ. Những thao tác
8
dựa vào lí thuyết Propp tác giả đã chỉ ra vai trò, chức năng của nhân vật phò trợ. Tiếc
rằng những khảo sát này chú trọng khảo sát ở truyện cổ người Việt ở Nam Trung Bộ
nên chúng tôi chỉ tham khảo các thao tác khoa học.
Phan Ánh Nguyễn với luận văn thạc sĩ : Motif hôn nhân giữa người và thần
linh trong truyền thuyết và cổ tích Việt Nam có đề cập tới chức năng của thần linh
với vai trò phò trợ. Ở đây tác giả cũng khẳng định rằng thần linh xuất hiện trong cuộc
sống của con người và có một vai trò nhất định đối với xã hội loài người. Ở đây, dưới
nhiều hình thức khác nhau, thần linh luôn là lực lượng giúp đỡ cho con người để đời
sống của loài người tốt hơn.
Như vậy trên thực tế các công trình chuyên khảo về nhân vật phò trợ của các
dân tộc thiểu sốở Gia Lai hầu như chưa thấy.
Dẫn những công trình trên, chúng tôi muốn thử vận dụng một số thao tác để tiến
hành phân loại, mô tả các chức năng, các mô típ liên quan để tìm hiểu cấu tạo nhân
vật phò trợ trong truyện cổ các dân tộc thiểu sốở Gia Lai.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê: Được sử dụng để thống kê số lượng truyện cổ tích các
dân tộc thiểu số ở Gia Lai có sự xuất hiện của nhân vật phò trợ. Đồng thời khảo sát
tần số xuất hiện của nhân vật phò trợ thông qua ba bảng thống kê.
Phương pháp nghiên cứu văn học dân gian theo vùng văn hóa: Quá trình
sinh sống, môi trường sống tác động không nhỏ tới văn hóa của các dân tộc này.
Nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu sốcho chúng ta thấy nét đặc trưng riêng của các
dân tộc thiểu số tác động vào quá trình xây dựng, tổ chức các kiểu nhân vật và kiểu
truyện.
Phương pháp so sánh: Thông qua hình ảnh nhân vật phò trợ, phương pháp này
được sử dụng để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt giữa truyện cổ của người
Việt và truyện cổ của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai.
Phương pháp điền dã: Thông qua cuộc điền dã, chúng tôi sẽ bổ sung thêm
những câu chuyện liên quan tới đề tài. Việc sưu tầm này bước đầu cho chúng tôi một
cái nhìn thực tế, toàn diện hơn về nhân vật phò trợ.
9
Phương pháp cấu trúc: Được sử dụng để nghiên cứu chức năng nhân vật theo
phương pháp nghiên cứu của Propp.
5. Đóng góp của luận văn
Từ những cố gắng nhất định, tác giả luận văn mong muốn góp phần nhỏ trong
việc giải quyết được các nội dung sau:
Thứ nhất: Thống kê, phân loại, mô tả kiểu nhân vật phò trợ trong truyện cổ
người Ba na, Jơ rai.
Thứ hai: Từ hệ thống nhân vật này qua thao tác có thể thấy tính ưu việt của một
số lí thuyết được vận dụng vào nghiên cứu truyện cổ các dân tộc ít người ở Tây
Nguyên. Trong đó lí thuyết Hình thái học được chúng tôi quan tâm chú ý. Khi miêu
tả nhân vật phò trợ, chúng tôi đã chú ý xác định được một số chức năng của nhân vật
phò trợ theo cách xác định chức năng nhân vật trong truyện cổ tích của Propp.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận luận, văn được chia làm ba chương chính.
Chương thứ nhất có tên là Những vấn đề chung liên quan đến đề tài. Trong
phần này, chúng tôi trình bày các vấn đề đó là cơ cấu các dân tộc, phân bố các dân
tộc, tình hình tư liệu và những vấn đề vận dụng lí thuyết Propp trong khảo cứu.
Chương thứ hai có tên là Các kiểu nhân vật phò trợ trong truyện cổ của các
dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Trong đó chúng tôi tập trung phân loại và mô tả ba kiểu
nhân vật phò trợ đồng thời nêu bật hình thức phò trợ của nhân vật này. Qua đó so
sánh với nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích người Việt để thấy sự khác biệt giữa
kiểu nhân vật phò trợ này trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số với người Việt.
Chương thứ ba có tên là Một số mô típ liên quan đến nhân vật phò trợ
trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Trong chương này chúng tôi
khảo sát các mô típ thường xuất hiện trong các kiểu truyện như sau: Mô típ uống
rượu và hút thuốc của nhân vật phò trợ, mô típ tái sinh của nhân vật phò trợ,
mô típ vật thiêng của nhân vật phò trợ, mô típ đánh nhau của nhân vật phò trợ,
mô típ kết hôn của nhân vật phò trợ .
Phần cuối cùng của luận văn, chúng tôi rút ra những kết luận bước đầu trong
việc khảo cứu nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích các dân tộc thiểu sốở Gia Lai.
10
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Trong mục này, chúng tôi tập trung mô tả, phân tích những cơ sở về các dân tộc
trong quá trình phát triển của lịch sử, xã hội có liên quan đến nhân vật phò trợ để tạo
tiền đề cho việc triển khai hai chương sau. Chúng tôi đi sâu, làm rõ ba vấn đề sau:
Một là, cơ cấu các dân tộc thiểu số ở Gia Lai và tập tục, đặc trưng văn hóa liên
quan đến nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích ở Gia Lai.
Hai là, tình hình tư liệu có ảnh hưởng quyết định tới việc khảo sát nhân vật phò
trợ. Việc đặt ra những tiêu chí và lựa chọn những tiêu chí là nhiệm vụ quan trọng
trong việc xử lí tài liệu. Ngoài ra, qua quá trình điền dã, chúng tôi đã sưu tầm được 4
câu chuyện liên quan đến đề tài. Nội dung các câu chuyện được chúng tôi trình bày
trong phần phụ lục của luận văn.
Ba là, vận dụng cách phân chia nhân vật theo chức năng của Propp, chúng tôi
nhận thấy có nhiều điểm khác biệt về chức năng của nhân vật phò trợ trong truyện cổ
của thế giới và truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
1.1. Cơ cấu tộc người
Tình hình cơ cấu và phân bố các dân tộc chính là cơ sở quan trọng để hình
thành nên các văn bản truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở nơi đây. Từ sự phân bố
khác nhau của các dân tộc thiểu sốđã tạo nên sự khác biệt trong lối sống của họ.
Thậm chí ngay trong từng bộ phận của cùng một các dân tộc cũng ảnh hưởng tới
nhận thức, văn hóa ứng xử của họ. Điều này được lí giải một phần nào khi nghiên
cứu văn bản truyện cổ của các dân tộc ở vùng đất Gia Lai.
Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía bắc Tây Nguyên với hai dân tộc chính
là Jơ rai và Ba na, chiếm gần 1/2 dân số toàn tỉnh với khoảng 600.000 người. Các di
sản văn hóa dân tộc ở Gia Lai đã được các cấp chính quyền địa phương và ngành
chức năng gìn giữ và phát huy giá trị, đặc biệt là không gian văn hóa cồng chiêng Tây
nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân
loại. Theo điều tra dân số (01/04/2009) bao gồm nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh
sống. Trong đó, người Kinh chiếm 52% dân số. Còn lại là các dân tộc Jơ rai (33,5%),
Ba na(13,7%). Các nhóm các dân tộc khác như Giẻ triêng, Xơ đăng, Cơ ho, Thái,
Mường,… chiếm tỉ lệ nhỏ và có bộ phận mới đến tụ cư vài thập niên gần đây.
11
Nhìn chung kho tàng văn học dân gian có giá trị lớn hầu như tập trung ở hai các
dân tộc là Jơ rai và Ba na.
Tìm hiểu cơ cấu các dân tộc cho phép chúng ta nhìn nhận một cách toàn diện
hơn về văn hóa của các dân tộc thiểu số này trong bối cảnh phát triển của xã hội.
Đồng thời đây còn được xem là cơ sở chắc chắn để khẳng định mối quan hệ giữa văn
hóa các dân tộc và truyện cổ tích của họ trong đó có liên quan đến nhân vật phò trợ.
Về các dân tộc Jơ rai:
Theo các tư liệu để lại, người Jơ rai hay còn gọi là: Jarai, Djarai, Giơ Rai, Chơ
Rai, Tơ Buăn, Hơbau, Hdrung, Chor hay Gia Lai. Các dân tộc Jơ rai là một dân tộc
nói tiếng Jơ rai thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo. Dân số của dân tộc này tại Việt Nam
khoảng 317.557 người năm 1999 và 411.275 người năm 2009. Người Jơ Rai là một
nhánh lớn của các dân tộc Orang Đê cổ hay còn gọi là người Ê đê cổ. Trong lịch sử
điều này được ghi chép khá nhiều trong các bia ký Chăm Pa. Sự tấn công của đế quốc
Mông Cổ, sau này là Nam Tiến của người Việt đã đẩy bộ phận người Chăm Pa lên
vùng bình nguyên Cheo Reo hòa hợp với người Ê đê cổ tạo ra nhóm các dân tộc, tự
gọi là Anak Jarai tức con cái của Jơ rai. Trong văn hóa và tính cách của người Jơ Rai
có nhiều yếu tố Chăm Pa trung đại so với người Ê đê chịu ảnh hưởng đứt gãy của yếu
tố Lâm Ấp Chăm Pa cổ đại. Vậy có chăng trong mối quan hệ ấy, truyện dân gian của
Ê đê và Jơ rai có ảnh hưởng ít nhiều đến nhau? Vấn đề này sẽ còn được nghiên cứu
rất nhiều tuy nhiên trong phạm vi cho phép của luận văn, chúng tôi xin tạm dừng bàn
luận vấn đề ở đây.
Theo sự tìm hiểu của cá nhân trong khắp toàn vùng Gia Lai thì người Jơ rai có
tất cả năm nhóm: Jơ rai cheo reo (Jơ rai chor hay Jơ rai phun); Jơ rai Hđrung; Jơ rai
Aráp, Jơ rai M’thur và Jơ rai Tpuan (hay Puôn).
Nhóm Jơ rai chor (Cheo reo hay phun) sống chủ yếu ở thung lũng sông Ayun Pa
(thuộc Ayun Pa – Gia lai) và một ít ở huyện Krông Pa (Gia Lai). Theo tiếng Jơ rai,
chor nghĩa là cát trắng của vùng thung lũng lòng chảo; Phun có nghĩa là gốc; còn
Cheo Reo là tên của hai vị tù trưởng Chu và Chreo ghép vào đặt tên cho đèo Cheo
Reo – một đèo núi đi từ vùng núi cao xuống vùng đất bằng của thị xã Ayun Pa. Vì thế
12
Jơ rai chor có nghĩa là người Jơ rai vùng thung lũng, hay người Jơ rai khu vực đèo
Cheo Reo.
Hđrung có nghĩa là hàm rồng, là tên ngọn núi lửa lớn đã tắt cách thành phố
Playku chừng 3km về phía Đông Nam. Người Jơ rai Hđrung xưa kia họ sống tập
trung quanh ngọn núi Hđrung rồi sau đó mới tỏa đi các nơi khác. Hiên nay Jơ rai
Hđrung sống chủ yếu ở thành Phố Pleiku, Chư Pah, Chư Prông và Măng Yang (Gia
Lai).
Aráp cũng là tên gọi của một ngọn núi. Núi này nằm ở phía đông của thành phố
Kon Tum và là nơi giáp ranh giữa nơi cư trú của người Jơ rai và Ba na. Ngoài ra
Aráp còn tên của một con Voi của câu chuyện huyền thoại. Nhóm này cư trú ở phía
bắc thành phố Pleiku, bắc huyện Chư Pah, xã Hbau Đak Đoa (Gia Lai), thành phố
Kon Tum và một số xã thuộc huyện Sa Thầy (Kon Tum).
Nhóm Jơ rai Tpuan (hay Puôn) chủ yếu sống ở vùng dọc biên giới Việt Nam –
Campuchia, tức là phía tây huyện Chư Pah và ở huyện Chư Prong (Gia Lai). Ở bên
Campuchia, người Jơ rai Tpuan sống dọc theo dòng sông Xê xan (khúc sông ở Việt
Nam gọi là Pô Cô). Do sống ở biên giới nên gọi là Tpuan (nghĩa là người Jơ rai vùng
ven hay người Jơ rai ngoại vi).
Nhóm M’thur (hay Mdhur) có nghĩa là nghèo.Nhóm Jơ rai này sống giáp với
các dân tộc Ê đê, Chăm, sống chủ yếu ở vùng Krông Pa (Gia Lai). Do ít nhiều bị
tách biệt và sống gần các dân tộc khác nhau nên nếp sống thường ngày của từng
nhóm người Jơ rai cũng khác nhau.
Về dân tộc Ba na
Người Ba na còn có các tên gọi khác: Ba na dưới Núi, Ba na Đông, Ba na Tây,
Ba na trên Núi, Tơ Lộ, Bơ Nâm, Glơ Lâng, Rơ Ngao, Krem, Roh, Con Kde, A la
công, Krăng, Bơ Môn, Kpăng Công, Y Lăng) có dân số 174.456 người (đến năm
2003), thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.
Người Ba na có hai nhóm chính, nhóm sống từ đèo Mang yang về phía thấp là
nhóm Hla Kông (người Ba na ở dưới chân núi) và nhóm từ đèo Mang yang lên trên
cao là nhóm Kpal Công (người Ba na ở trên núi).
Nhóm Hla Kông gồm các nhóm: Ba na Tơ lô, Ba na Konkodeh, Ba na kriem.
13
Nhóm Kopal Kông gồm: Ba na roh, Ba na Rongao, Ba na Honeng, Ba na Kolan,
Ba na Bonam, Ba na Kon Tum.
Hiện nay Kon Tum gồm những nhóm Ba na: Nhóm Ba na Kon Tum, Ba na
Rongao và Ba na Bơnam. Nhóm Tơ lô sinh sống chủ yếu ở vùng Kông Chro, An khê.
Ba na honeng và Ylang tập trung chủ yếu sống ở Kon tum, Huyện Konplong,
Đak Đoa.
Nhóm Ba na Roh chủ yếu sống ở Mang yang, Đak Đoa..
Nhóm Ba na Kriem sinh sống chủ yếu ở xã Sơn Lang thuộc Kbang, Vinh Thạnh
- Bình Định. Thực tế hiện nay Ba na Tơ lô, Bonam, và Konkodeh sống ở An Khê,
Kông Chro, Kbang có những sắc thái khác biệt nhau. Người Ba na Bonam chủ yếu
sống ở vùng rừng già, làm nương đốt rẫy là chính, có phải vì sống ít tiếp xúc với bên
ngoài nên coi là lạc hậu (Bonam). Người Ba na Tơ lô sống ven sông Ba, trên nhưng
đồi núi tương đối bằng phẳng và rộng, làm nương. Đồng bào ở đây có tiếp xúc rộng
rãi hơn vói các nhóm khác. Người Ba na Konkodeh là người sinh sống trung gian
giữa người Ba na Tơ lô và Bonam. Phải chăng vì lẽ đó mà người Ba na Konkodeh có
hai nghĩa là người ở vùng giữa hoặc người mới đến cư ngụ? Con Ba na Roh là người
sinh sống lâu đời tại địa phương. Ở đây đáng lưu ý mái nhà rông và nhà mồ có mái
cao, thon đẹp chứ không rộng và thấp như Ba na khác tại An khê, Kbang, Kông Chro.
Nguồn gốc Ba na hiện nay là vấn đề phức tạp chưa rõ ràng. Theo nhiều nhà nghiên
cứu trước đây các dân tộc thiểu sốvùng Trường Sơn – Tây Nguyên có nguồn gốc từ
các cuộc di cư của giống người Melanesien ở các quần đảo nam Thái Bình Dương
lên. Sau đó lại có các cuộc di chuyển của giống người Inđônêxia từ phía Tây sang.
Trong quá trình di cư đã có các cuộc chung đụng để chiếm giữ đất đai, một bộ phận
chuyển lên miền núi, cao nguyên và trở thành các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên trong
đó có người Ba na. Ngày nay theo một số truyền thuyết cho rằng người Ba na là một
nhóm người có nguồn gốc tại chỗ, lúc đầu cư trú ở phần đất phía đông tỉnh Gia Lai,
một phần đồng bằng và phía đông tỉnh Bình Định, về sau di cư sang Kon Tum. Từ
thế kỉ X về trước, người Ba na sống trong vùng đất tương đối ổn định và đóng kín.
Trong hơn 300 năm, từ 1150-1470 người Ba na cùng với các dân tộc Tây Nguyên
chịu sự thống trị của Vương quốc Chăm Pa. Năm 1471 dưới sự lãnh đạo của vua Lê
14
Thánh Tông, người Ba na thoát khỏi ách đô hộ của người Chăm. Sau đó, khu vực này
thường xuyên chịu ảnh hưởng ít nhiều của các cuộc gây hấn của Lào và Thái Lan. Từ
thế kỉ XX, đồng bào ở đây sống chung cùng với các dân tộc thiểu sốkhác trong sự
hòa hiếu, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới. Dấu ấn rõ ràng nhất về việc chịu ảnh
hưởng của văn hóa Chăm Pa là hình ảnh Thần Rắn trong văn học dân gian của các
dân tộc này. Ngày nay, các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy những vết tích hình Thần
Rắn còn sót lại trên các họa tiết trang trí của chum, vòng đeo tay, ghè rượu…
Điều đáng lưu ý giữa hai các dân tộc này là sự phân bố phạm vi sinh sống của
họ. Người Jơ rai thường phân bố dọc ven núi cho nên những câu truyện cổ của họ
thường xuất hiện các vị thần như: núi, trời và thường hướng ra phía biển. Còn người
Ba na sống chủ yếu ở dọc bờ sông, đời sống gắn liền với nước. Ở hai các dân tộc
này, họ sống bằng nghề trồng trọt nương rẫy; lúa tẻ là cây lương thực chính. Công cụ
canh tác của họ giản đơn, chủ yếu là con dao chặt cây, phát rừng, cái cuốc xới đất và
cây gậy chọc lỗ khi tra hạt giống. Cho nên chúng ta rất dễ dàng bắt gặp những công
cụ này trong các sáng tác dân gian. Đối với họ, mỗi công cụ là một vị thần linh cứu
trợ, phù giúp cho con người có được miếng cơm, miếng nước. Cũng như vậy, nhưng
người Ba na lại có thêm vật dụng cần thiết cho lao động nữa, đó là cái lò rèn. Chúng
ta không mấy xa lạ khi bắt gặp hình ảnh cái lò rèn có phép thuật được nhân vật chính
diện trong truyện cổ sử dụng để sáng tạo ra công cụ lao động và diệt trừ yêu tinh.
Chính vì vậy, trong những câu chuyện của người Ba na chúng ta thấy có xuất hiện
kiểu truyện người anh hùng sử dụng cái lò rèn thần được Thần ban để tiêu diệt yêu
tinh nhưng trong truyện của người Jơ rai thì ta lại không thấy xuất hiện.
Người Jơ rai sống thành từng làng (plơi hay bôn). Đây các dân tộc duy nhất
thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo có nhà rông, có thể do ảnh hưởng của cư dân Ba na
thuộc hệ ngôn ngữ Môn-Khmer. Có nhóm A Ráp của người Jơ rai thực ra là người
gốc Ba na đã bị Jơ rai hóa. Plei của các dân tộc này là “đơn vị cư trú của các gia
đình mẫu hệ nhỏ”. Nên trong phạm vi ấy, chúng ta vẫn thấy đâu đó sự giao thoa trong
sáng tác dân gian của hai các dân tộc này.
Nói tóm lại, cơ cấu các dân tộc và những tác động của môi trường sinh sống có
liên quan tới cấu tạo, chức năng của nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích của các dân
15
tộc thiểu số ở Gia Lai. Trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, chúng ta
thấy xuất hiện rất nhiều hình ảnh nhân vật thần linh như: trời, thần. Họ sống chủ yếu
trên các đỉnh núi cao, các triền núi, nơi tiếp giáp giữa ranh giới Trời- Đất, nơi khoảng
cách giữa Trời, thần và con người khá gần gũi. Cho nên hình tượng này xem ra rất
giống con người, rất cởi mở, thân thiện. Người Ba na lại sống theo các con sông, con
suối cho nên nước có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống tâm linh của họ. Đó là vị
thần cứu họ thoát khỏi nạn đại hồng thủy, sự ăn thịt của các loài vật sống dưới nước
khác. Cuộc sống gắn bó với nương rẫy, săn bắn nên công cụ lao động sản xuất chủ
yếu là khiên, giáo, mác, cung tên, gươm. Với quan niệm đa thần, họ coi mỗi công cụ
sản xuất là một vị thần cứu mạng, giúp họ săn được nhiều thú, làm được nhiều lúa
gạo. Không giống như các dân tộc thiểu sốkhác,mỗi khi vào rừng săn bắn các dân tộc
thiểu số ở Gia Lai thường không mang một con vật nuôi như chó, mèo đi cùng mà họ
đi tới đâu, ở đó đều là bạn, là người giúp đỡ. Hình ảnh con Rắn, con Voi, lợn rừng
xuất hiện trong truyện cổ tích của họ với vai trò cứu trợ là điều chúng ta rất đáng suy
nghĩ.
1.2. Tình hình tư liệu
Nguồn tư liệu và kho tàng văn học dân gian hiện nay chỉ tập trung vào nghiên
cứu kho tàng của hai các dân tộc trên ngoài ra chúng tôi chưa tìm thấy một văn bản
nào liên quan đến đề tài của các dân tộc thiểu số khác mặc dù họ đã chuyển tới vùng
đất này sinh sống. Có thể do tính chất manh mún, thiếu ổn định nên các nhà nghiên
cứu chưa chú tâm khảo sát. Trên thực tế, chúng tôi thấy được rằng các dân tộc thiểu
số khác họ sinh sống rải rác theo từng cụm nhỏ, số lượng dân cư không nhiều, mức
độ tập trung cũng không cao cho nên việc tạo ra những dấu ấn về văn học dân gian là
khá ít. Mặt khác, các dân tộc thiểu số này di cư tới vùng đất đỏ ba dan này, họ đã
mang theo những nét văn hóa bất biến của các dân tộc mình, dường như họ không
thay đổi lối sống hay tập tục của mình khi tới đây. Sự ảnh hưởng của vùng miền này
không quá mạnh mẽ để họ có thể làm thay đổi hoặc là ảnh hưởng tới cuộc sống riêng
của họ. Các dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Mông, Mường, Mán…có một nhỏ sống
rải rác trong môi trường cùng với người Kinh ở các huyện, thị trấn,các vùng trung
tâm của vùng, số còn lại sống tập trung và tách biệt nên việc giao lưu văn hóa và sự
16
ảnh hưởng của nó tới vùng miền là không đáng kể. Bởi vậy nên nghiên cứu văn hóa
dân gian ở các dân tộc thiểu sốnày cũng không hề dễ dàng. Cần phải nói thêm, Gia
Lai không phải là địa bàn cố hữu của những các dân tộc này vì họ mới bắt đầu di cư
tới từ đầu thế kỉ XX. Do đó chưa có điều kiện để khảo cứu.
Tiến trình sưu tầm và nghiên cứu đã khẳng định vốn folklore Gia Lai vừa đa
dạng lại vừa phong phú hay nói chính xác hơn là “ Các tư liệu thu thập được cho
phép khẳng định rằng fôn- clo của người Ba na Tơ lô vùng đất này trước đây ít nhất
năm mươi năm là một nền nghệ thuật dân gian đồng bộ, giàu có và có chất lượng
nghệ thuật” [48, tr.252]
1.2.1. Tư liệu đã được công bố
Qua quá trình tìm kiếm, chúng tôi thu thập được những nguồn tài liệu vô cùng
quan trọng về truyện cổ tích của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai như sau:
Theo khảo sát bước đầu từ các cuốn sách hiện có: Vũ Ngọc Bình (chủ biên),
Văn học dân gian Gia Lai, (Sở văn hóa thông tin thể thao), năm 1996.
Trong tư liệu này, các tác giả đã thu thập tài liệu từ thư tịch, kế thừa kết quả sưu
tầm nghiên cứu của những người đi trước. Trong nguồn tư liệu này ghi rõ xuất xứ của
tư liệu, tác giả đã sưu tầm được 33 truyện cổ của hai các dân tộc Ba na và Jơ rai
nhưng chưa phân loại các truyện này. Trong 33 truyện này, có tới 20 truyện đều có
hình ảnh nhân vật phò trợ. Chúng tôi sử dụng cuốn này vì các dữ liệu liên quan đến
đề tài khá đầy đủ và chính xác các truyện cổ của các dân tộc nơi đây.
Cuốn Truyện cổ dân gian Gia Lai do Sở văn hóa thông tin Gia Lai cung cấp,
trong cuốn này nhìn chung vẫn dựa trên cuốn Văn học dân gian Gia Lai trong cuốn
này cũng trình bày lại 33 truyện cổ, chưa sắp xếp theo một mục nào cụ thể.
1.2.2. Tư liệu điền dã
Nguồn thứ hai là từ việc sưu tầm điền dã. Với sự cố gắng nhất định của chúng
tôi, chúng tôi đã đi diền dã các vùng của các dân tộc thiểu số sinh sống, chủ yếu là ở
huyện Kbang – nơi có dòng sông Ba êm đềm chảy qua, nơi có số lượng người Ba na
và Giơ rai chiếm tỉ lệ đông nhất.
Qui trình điền dã được chúng tôi thực hiện như sau:
Thời gian: Chúng tôi đi điền dã là từ ngày 1/7/2013 tới 1/8/2013.
17
Địa điểm: Tại huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.
Phương tiện thực hiện: Máy ghi âm, máy ảnh.
Kết quả thu được: Trong đó chúng tôi sưu tầm được thêm 4 truyện có liên
quan đến đề tài luận văn. Đó là các câu chuyện có tên như sau:
Truyện thứ nhất: Cuộc chiến giữa các tù trưởng (Sưu tầm)
Do Bà Đinh Thị H’Nót, 76 tuổi, làng T’MẬT- xã Đông- Kbang- Gia Lai kể.
Truyện thứ hai: Chàng Jăng Gre (Sưu tầm)
Do Bà Đinh Thị H’Nót,76 tuổi, làng T’MẬT, xã Đông, Kbang, Gia Lai kể.
Truyện thứ ba: Kén chàng rể ( Sưu tầm)
Do Ông Đinh Kuek, 69 tuổi, làng Kyang, xã Kon Lương Khương, Kbang, Gia
Lai kể.
Truyện thứ tư: Cô em út( Sưu tầm)
Do Bà Đinh Thị Lăm, 52 tuổi làng Kyang, xã Kon Lương Khương, Kbang, Gia
Lai kể.
Chúng tôi xin tạm dịch và trình bày nội dung của bốn truyện này trong phần Phụ
lục 1b của luận án.
Nhìn chung kho tàng văn học dân gian của các dân tộc thiểu số ở đây khá
phong phú về thể loại, đa dạng về nội dung, cách thể hiện nhưng chưa được sưu tầm
hết. Riêng về truyện cổ theo đánh giá của chúng tôi thì số người biết kể chuyện hiện
giờ còn rất ít. Một lí do khách quan là những người biết kể chuyện thì không còn
nhiều, một số còn lại thì tuổi tác của họ khá cao, họ đều tầm trên 70 tuổi, số lượng
này chỉ tính trên đầu ngón tay. Mặt khác lối sống hiện đại hóa bắt đầu du nhập vào
trong làng bản nên hầu như lớp trẻ bây giờ ít quan tâm tới kho tàng truyện cổ hơn.
Đây là một khó khăn lớn trong việc lưu giữ những nét văn hóa nói chung của nền văn
hóa nước ta và truyện cổ của các dân tộc thiểu sốở nước ta nói riêng. Chúng ta sẽ hi
vọng trong một thời gian gần nhất chúng ta sẽ nhận được sự quan tâm nhiều hơn của
các ban nghành tới kho tàng văn học dân gian nơi đây.
1.2.3. Nhận xét chung
Việc xác lập một tiêu chí cho quá trình lựa chọn văn bản là hết sức cần thiết. Từ
lâu trong việc nghiên cứu về văn học dân gian đã từng có ý kiến khác nhau về vấn đề
18
thể loại. Có một thực tế là khi kể chuyện, người kể chuyện không có ý thức về thể
loại. Ngay cả người sưu tầm vẫn dùng khái niệm duy nhất là truyện cổ dân gian. Tuy
nhiên theo chúng tôi, truyện cổ dân gian là một khái niệm chỉ một bộ phận của văn
học dân gian, bộ phận này gồm nhiều thể loại trong đó có cả thể loại truyện cổ tích.
Truyện cổ tích là khái niệm được dùng với hai nghĩa chủ yếu: nghĩa thứ nhất là chỉ
một bộ phận của văn học dân gian, nghĩa thứ hai là một thể loại của bộ phận truyện
cổ dân gian trong văn học dân gian.
Dựa trên những nền tảng nói chung, chúng tôi sẽ khoanh vùng và lựa chọn
những câu truyện mang đậm tính chất “cổ tích” nhất. Đó là một thể loại chính của
sáng tác tự sự dân gian có tâm thế hư cấu, bao gồm cổ tích thần kì, cổ tích sinh hoạt
và cổ tích loài vật.
Những truyện dưới đây được chúng tôi lựa chọn như sau:
Tất cả những truyện tìm được không đề cập tới vấn đề phân loại truyện cổ.
Chẳng hạn như, trong cuốn Văn học dân gian Gia Lai, (Sở văn hóa thông tin thể
thao), năm 1996 có phân chia các tác phẩm văn học dân gian theo thể loại như
Trường ca (Hơ mon, Hơ ri), loại này thường dựa được hát hoặc kể, không được lưu
giữ bằng văn bản, loại thứ hai là truyện kể hay truyện cổ (Khan, T’roi) – đây là đối
tượng mà chúng tôi muốn hướng tới trong luận văn này.
Chính vì vậy mà việc phân loại truyện cổ ở đây không hề dễ dàng chút nào. Tuy
nhiên việc phân loại truyện cổ là một việc làm cần thiết trong nghiên cứu văn học dân
gian. Trong chính các công trình nghiên cứu về truyện cổ của các dân tộc thiểu số
thiểu số, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định rằng: “Trong thực tế thì nhiều khi ranh
giới giữa các thể loại cũng chưa thật rành mạch, nhất là ở những truyện có xu hướng
chuyển tiếp giữa truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích sinh hoạt. Hoặc trong nhiều
trường hợp lại rất khó phân biệt giữa truyện cổ tích về loài vật và truyện cổ tích thần
kì…Do sự biến đổi kì ảo giữa các thể loại mà nhiều khi việc sắp xếp phân loại truyện
cổ tích còn phải dựa trên những phán đoán chủ quan của người thực hiện”[43, tr.7].
Nói như vậy để thấy việc phân loại và lựa chọn truyện cũng chỉ dừng lại ở mức độ
tương đối.
19
Với số lượng 33 văn bản truyện cổ được các tác giả sưu tầm từ các vùng, huyện
thuộc tỉnh Gia Lai cùng với 4 truyện cổ chúng tôi sưu tầm cho phép chúng ta có thể
khẳng định đây là một thể loại tồn tại khá đậm nét so với thể loại khác ở hai dân tộc
này. Tuy nhiên, việc xem xét các loại truyện này trên văn bản sẵn có, chúng ta nhận
thấy tính chất đan xen của những câu chuyện được phỏng đoán là truyện cổ tích.
Thực tế một câu chuyện vẫn có sự đan xen về thể loại. Trong những câu chuyện cổ
có bóng dáng của Anh hùng ca, đôi khi có cả sự đan xen của truyền thuyết hay là
truyện cổ tích về loài vật, về sinh hoạt. Chẳng hạn như truyện Đăm Dông đánh
thần sét, Cha con Đăm Bông Pha, Chiếc sáo thần kì,…Tính chất thể loại là một
vấn đề khó phân biệt rạch ròi và không thuộc phạm vi khảo sát của đề tài tuy nhiên
nhìn chung có thể đánh giá được rằng: Tính chất bay bổng cùng với những đặc trưng
văn hóa các dân tộc làm người ta ngờ rằng chúng mang hơi thở của những truyện
mang cốt lõi của tư duy cổ tích, đôi khi ngờ rằng truyện ca ngợi về người anh hùng
bộ lạc cho nên nó lại mang bóng dáng của những truyện truyền thuyết.
Những nhận thức trên hoàn toàn dựa vào văn bản, nếu đi sâu vào văn bản sẽ
thấy cách kể truyện cổ tích không giống như kể trường ca, mỗi câu chuyện được kể
chỉ khoảng mười phút, một đêm kể chừng từ năm đến bảy câu chuyện và không cần
tập trung đầy đủ mọi người trong bản làng để kể mà người trong nhà ai lớn tuổi nhất
và biết kể chuyện thì kể lại cho con cháu nghe. Với cách lưu giữ như vậy, truyện cổ ở
đây được truyền từ đời này sang đời khác, họ nhớ như in và cách kể rất diễn cảm.
Từ tình hình tư liệu trên chúng tôi có thể đưa ra các nhận xét sau:
Thứ nhất: Quá trình thu thập không chỉ dừng lại ở những văn bản truyện cổ tích
mà ngay cả những truyện được xem là “nghi án cổ tích” cũng được xem xét vì những
sự phân định, giới thuyết về chúng như:truyện cổ tích, truyện cổ, truyện kể…không
phải lúc nào cũng đầy đủ và rõ ràng. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn những truyện nào
mang đậm tính cổ tích để phục vụ cho nghiên cứu của đề tài này.
Thứ hai: Trong thực tế số lượng truyện kể còn khá nhiều nhưng nhớ nhiều nhất
vẫn là các già làng, các vị lớn tuổi trong làng. Những văn bản truyện cổ này được
dịch ra từ tiếng địa phương cho nên khó bộc lộ hết được cái thần thái của chúng. Tuy
20
nhiên người nghe sẽ dễ dàng cảm nhận được tính “thiêng” của những câu chuyện
thông qua cách kể của người kể.
1.3. Những vấn đề lí thuyết của Propp được vận dụng trong đề tài
Lí thuyết của Vladi mir Iakovlevits Propp – nhà khoa học lỗi lạc Xô Viết ( 1895
– 1970) trình bày trong công trình nổi tiếng: Hình thái học truyện cổ tích xuất bản
lần đầu năm 1928. Công trình gồm 9 chương, do khuôn khổ và mục tiêu của luận
văn, chúng tôi chỉ nêu tóm tắt những nội dung liên quan trực tiếp đến vấn đề đang
bàn được các nhà khoa học trình bày ở chương II và chương III của công trình.
Vladi mir Iakovlevits Propp (từ đây trở đi chỉ gọi Propp) xây dựng lí thuyết hình
thái học truyện cổ tích từ việc so sánh về mặt đề tài các truyện cổ tích được xếp trong
khung phân loại của A. Aarne từ số 300 đến số 749. Tác giả đề cập tới việc so sánh
cấu tạo dựa theo những chức năng của nhân vật. Propp đã tách ra những bộ phận tạo
thành của truyện cổ tích phép thuật theo những cú pháp riêng và sau đó tác giả so
sánh những truyện cổ tích về mặt các bộ phận tạo thành chúng. Kết quả là chúng ta
có được hình thái học tức là sự miêu tả truyện cổ tích theo bộ phận cấu thành và theo
mối quan hệ của những bộ phận đối với nhau như đối với toàn thể.
Tuy nhiên, khi đưa ra danh mục, Propp không quên nhấn mạnh: danh mục này
chỉ đáng chú ý khi nào nó được xây dựng từ góc độ những vấn đề bao quát hơn, đó là
những qui luật của sự biến đổi và những ý niệm trừu tượng được phản ánh trong
những hình thức cơ bản của những thuộc tính đó. Quả thật, từ góc độ này, ông chỉ rõ
rằng việc lập bảng và ghi những thuộc tính của các nhân vật cũng như việc nghiên
cứu những đại lượng biến đổi xét chung giúp chúng ta nhận ra nhiều điều. Để làm
sáng tỏ điều này, chúng ta hãy xem xét tới quan niệm của lí thuyết của Propp về nhân
vật và sự phân nhóm nhân vật dựa vào chức năng của chính nhân vật. Truyện cổ tích
thường gắn những hành động như nhau cho các nhân vật khác nhau. Điều này cho
phép ta có thể nghiên cứu truyện cổ tích dựa theo những chức năng của những nhân
vật hoạt động.
Trong Hình thái học (HTH) của Propp, ( ở các chương II,III,IV,…), tác giả đã
hơn một lần chỉ ra rằng đối với nghiên cứu truyện cổ tích, vấn đề quan trọng là các
nhân vật làm gì; còn ai làm và làm như thế nào thì chỉ có tính chất thứ yếu. Nói như
21
vậy có nghĩa là tác giả đã đề cao tới chức năng của nhân vật, khẳng định vai trò chức
năng của nhân vật trong truyện cổ tích. Tuy nhiên trên thực tế, ông vẫn gắn vấn đề
chức năng với vấn đề nhân vật. Ông không thể giới thiệu chức năng mà không nói
đến nhân vật (chương III), đặc biệt trong chương VI, tác giả trình bày những kết quả
khảo sát chung về “Sự phân bố chức năng theo các nhân vật”.
Theo đó sự phân bố chức năng theo các nhân vật – “ sơ đồ 7 nhân vật” được tác
giả phân tích khá kĩ càng. Như đã nói ở trên, tuy đối tượng nghiên cứu của Propp chỉ
là các chức năng chứ không phải người thực hiện chúng, nhưng vấn đề “Các chức
năng được phân bố như thế nào theo các nhân vật” vẫn được ông khảo sát kĩ lưỡng.
Kết quả thu được không chỉ soi sáng thêm ý nghĩa của chức năng trong tiến trình
hành động mà còn góp phần làm rõ bản chất truyện cổ tích thần kì. Điều đó càng
khẳng định tầm quan trọng của chức năng nhân vật trong truyện cổ tích.
Propp nhận thấy nhiều chức năng được tập hợp một cách logic theo những nhóm
nhất định. Những nhóm này, nói chung cũng tương hợp với người thực hiện. Đó là
các nhóm hành động, truyện cổ tích thần kì có bảy nhóm hành động.
Từ kết quả khảo sát sự phân bố chức năng theo các nhân vật, tác giả rút ra kết
luận: Truyện cổ tích có 7 nhân vật. Từ kết luận này, khi trở lại với vấn đề phân loại
truyện cổ tích thần kì (sản phẩm của cách phân loại dựa vào một nhóm đặc trưng về
nội dung là yếu tố kì diệu, mà ông coi là không chính xác) bằng thuật ngữ truyện cổ
tích theo sơ đồ 7 nhân vật được Propp đánh giá là “tuy khá bất tiện nhưng rất chính
xác”, phù hợp với quan điểm phân loại dựa vào cấu trúc của ông căn cứ vào những
dấu hiệu là hình thức, kết cấu.
Vấn đề nằm ở sự phân bố chức năng theo các nhân vật: nhiều chức năng đã
được tập hợp một cách logic thành những nhóm hành động nhất định, xét chung,
tương ứng với những nhân vật thực hiện.
Dựa vào các chức năng đưa nhân vật vào tiến trình hành động tác giả khẳng
định, mỗi loại nhân vật đều có hình thức xuất hiện riêng của nó, đối với mỗi loại,
người ta đều sử dụng những cách thức riêng để đưa nhân vật vào tiến trình hành
động.
22
Đề cập tới vấn đề sự phân loại và chức năng của các nhân vật Propp nêu ra
những hình thức được coi là chuẩn của tự sự cổ tích. Đó là những hình thức xuất hiện
của các nhân vật sau: Đối thủ (Kẻ phá hoại) - Nhân vật xuất hiện trong tiến trình
hành động hai lần: lần thứ nhất, bất ngờ; lần thứ hai, bị tìm thấy do có sự dẫn đường;
Người tặng (Người cung cấp pttk) – mà nhân vật chính luôn gặp ngẫu nhiên; Trợ thủ
thần kì - nhân vật được dẫn nhập vào tiến trình hành động như tặng phẩm, Người
phái đi, Nhân vật chính, Kẻ giả mạo nhân vật chính, và cả Công chúa nữa – những
nhân vật được đưa vào câu chuyện ngay từ hoàn cảnh xuất phát. Propp cho biết, kho
tư liệu về truyện cổ tích ông dùng để khảo sát cho thấy cấu tạo truyện cổ tích gồm 31
chức năng do hành động nhân vật tạo nên. Mỗi chức năng trên bao gồm nhiều nhóm,
được ông kí hiệu riêng biệt. Trong đề tài này, chúng tôi vận dụng chức năng 12, chức
năng 14 để nghiên cứu cấu tạo, chức năng của nhân vật phò trợ. Cần phải nhấn mạnh
rằng trong chức năng 12, được gọi là chức năng thứ nhất của người tặng, từ đây
truyện cổ xuất hiện một nhân vật mới mà Propp gọi là “người tặng” hay chính xác
hơn là “người cung cấp” (phương tiện thần kì). Trong chức năng này, tác giả Propp
chú thích thêm rằng người tặng không phải là trợ thủ cũng không phải là đối thủ của
nhân vật chính. Đây chỉ là nhân vật có chức năng “chuyển giao” phương tiện thần kì
(hoặc trợ thủ thần kì) cho nhân vật chính. Xét theo chức năng nhân vật trợ thủ thần kì
là nhân vật có chức năng tham gia vào tiến trình tặng phẩm cho nhân vật chính. Nhân
vật người tặng được xem tham gia vào việc cung cấp các phương tiện thần kì hay
người trợ thủ . Về vấn đề này, theo tác giả Đỗ Bình Trị trong cuốn Truyện cổ tích
thần kì Việt đọc theo hình thái học của truyện cổ tích V.Ja Propp nhấn mạnh
rằng trong truyện cổ tích đến đây, xuất hiện một nhân vật mới mà Propp gọi là
“người tặng” hay chính xác hơn là “người cung cấp”. Như vậy, “người tặng” và “trợ
thủ thần kì” có liên quan gì tới nhau không? Theo Đỗ Bình Trị cho rằng “người tặng
không phải là trợ thủ, cũng không phải là đối thủ của nhân vật chính. Đây nhân vật
có chức năng chuyển giao phương tiện thần kì hay trợ thủ cho nhân vật chính”. Hai
nhân vật này có liên quan tới nhau là đều cung cấp phương tiện thần kì để giúp cho
nhân vật chính vượt qua được thủ thách. Dựa trên chức năng hai nhân vật có chức
năng là cung cấp phương tiện thần kì hoặc trợ thủ thần kì. Sơ đồ 7 nhân vật thực hiện
23
các nhóm chức năng có nhân vật người ban tặng thực hiện chức năng thử thách nhân
vật chính để trao phương tiện thần kì hay giúp đỡ nhân vật thần kì. Chúng ta lưu ý
điều này hoàn toàn khác với nhân vật người giúp đỡ thần kì hay là trợ thủ. Ngoài ra
phương tiện thần kì không phải là người giúp đỡ thần kì. Phần này chúng tôi sẽ lí giải
rõ hơn trong phần phân loại nhân vật phò trợ của luận văn.
Qui trình này sẽ được chúng tôi vận dụng thực hiện trong các phần tiếp theo của
luận văn.
Như vậy, nếu vận dụng lí thuyết Propp trong các câu chuyện cổ về nhân vật phò
trợ ở Gia Lai có thể cho phép chúng ta khẳng định vai trò của lí thuyết Hình thái học
trong việc nghiên cứu nhân vật phò trợ dựa trên chức năng. Đồng thời có những chức
năng của nhân vật phò trợ vượt ngoài mô hình cấu tạo của Propp là điều rất đáng suy
nghĩ. Phải chăng đó là cái riêng của truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai mà lí
thuyết chưa bao quát đến?
1.4. Những vần đề về típ và mô típ liên quan đến đề tài
Trong nghệ thuật dân gian, có mô típ của hình phác họa là những hình mẫu
thường lặp lại hoặc kết hợp với những hình mẫu khác theo một cách riêng biệt nào
đó.
Trong văn học dân gian, mô típ được hiểu như là một đơn vị nhỏ nhất, là những
đơn vị tế bào hạt nhân để xây dựng nên cốt truyện, là một thành tố tạo nên truyện. Nó
rất linh động, bởi trong truyện kể nó có thể tách rời ra hoặc lắp ghép lại được. Mô típ
truyện kể có thể là những khái niệm đơn giản thường gặp trong kho tàng văn học dân
gian như: những tạo vật khác thường bao gồm thần tiên, phù thủy, yêu tinh, con vật
biết nói,...; những thế giới kì diệu mà ở đó có những hiện tượng tự nhiên khác
thường, ma thuật luôn có hiệu lực,... Mô típ cũng có thể là một mẩu kể ngắn, đơn
giản, một sự việc đủ gây ấn tượng và thích thú đối với người nghe.
Theo Nguyễn Tấn Đắc trong Đề cương bài giảng sau đại học tại Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998 [37, tr.50-51], mô típ có thể là sản phẩm
của trí tưởng tượng thơ ngây trước sự phát triển của xã hội. Nó cũng có thể là sản
phẩm từ quan sát thực tế của con người trước thực tại cuộc sống, Nó cũng có thể là
biểu hiện của sự thông minh, nhạy bén của con người trong cuộc sống xã hội.
24
Có thể thấy rằng thuật ngữ mô típ được dùng một cách rất lỏng lẻo, bao gồm bất
kì yếu tố nào tham gia vào truyện truyền miệng. Để trở thành một phần thật sự của
truyện kể, nó phải có cái gì đó khác lạ, đặc biệt, làm cho người ta nhớ và lặp đi lặp
lại.
Việc nghiên cứu motif còn có ý nghĩa quan trọng đối với những người muốn tìm
hiểu về văn hóa. Phân tích mô típ, người nghiên cứu có cơ hội khám phá những tầng
văn hóa ẩn sau mô típ đó.
Liên quan đến nhân vật phò trợ, chúng tôi nhận thấy có các mô típ liên quan như
sau: Mô típ uống rượu và hút thuốc của nhân vật phò trợ, mô típ hóa thân của
nhân vật phò trợ, mô típ vật thiêng của nhân vật phò trợ, mô típ đánh nhau của
nhân vật phò trợ, Mô típ kết hôn của nhân vật phò trợ.
25
Tiểu kết chương 1:
Vì sự hình thành và biểu hiện của nhân vật phò trợ có nền tảng từ cơ sở lịch sử -
xã hội nên việc tìm hiểu những cơ sở về các dân tộc, đặc điểm các dân tộc là điều
cần thiết trong quá trình nghiên cứu nhân vật này. Qua đây, chúng tôi phần nào lí giải
được cách thức hình thành nhân vật phò trợ trong truyện cổ các dân tộc thiểu sốở Gia
Lai. Việc thu thập, xử lí các tư liệu đóng vai trò cơ sở cho việc tìm hiểu nhân vật phò
trợ. Một số vấn đề về lý thuyết của Propp về chức năng nhân vật phò trợ được ứng
dụng trong luận văn này cho phép chúng ta khẳng định lí thuyết này có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc nghiên cứu nhân vật dựa trên chức năng.
26
Chương 2. CÁC KIỂU NHÂN VẬT PHÒ TRỢ TRONG TRUYỆN
CỔ TÍCH CỦA TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở GIA LAI
Trong mục này, chúng tôi tập trung mô tả, phân tích những đặc điểm, chức năng
của nhân vật phò trợ để tạo tiền đề cho việc so sánh với nhân vật phò trợ trong truyện
cổ tích người Việt. Chúng tôi đi sâu, làm rõ bốn vấn đề sau:
Một là, để tiến hành phân loại nhân vật này, chúng tôi xác lập một số tiêu chí
phân loại. Đây là điều kiện cần thiết trong việc nghiên cứu nhân vật phò trợ.
Hai là, thông qua quá trình phân tích chúng tôi lựa chọn một cách để phân loại.
Từ đó chúng tôi tập trung mô tả đặc điểm từng tiểu loại.
Ba là, vận dụng cách phân chia nhân vật theo chức năng của Propp, đây là cơ sở
để chúng tôi tìm ra được những điểm khác biệt về chức năng nhân vật phò trợ trong
truyện cổ các dân tộc thiểu sốở Gia Lai.
Bốn là, dựa trên tất cả những đặc điểm chúng tôi bắt đầu tiến hành so sánh kiểu
nhân vật này trong truyện cổ tích của người Việt. Dựa trên những đặc điểm cơ cấu
các dân tộc và sự biến thiên của xã hội ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng nhân
vật phò trợ.
Tất cả những vấn đề trên chúng tôi sẽ lần lượt giải quyết trong các phần dưới
đây.
Chúng ta đều biết, nhân vật phò trợ ra đời đều mang một quan niệm thẫm mĩ,
những nhìn nhận về thế giới đầu tiên của loài người. Chúng ta hoàn toàn đồng ý với ý
kiến cho rằng những nhận thức sai lệch, những quan niệm huyễn hoặc về thực tại là
nguồn gốc sinh ra thế giới quan thần linh của người nguyên thủy và thần thoại là thể
loại văn học đầu tiên của văn học thế giới phản ánh thế giới quan ấy của loài người.
Bởi bất cứ một thể loại nào, một hình thái xã hội nào khi phát triển đến một mức nào
đó thì luôn tồn tại hình thức sơ khai của nó. Đó là những giá trị đầu tiên và cũng là
những tinh hoa của loài người.
Nhân vật phò trợ xuất hiện trong hầu hết các thể loại văn học dân gian, nhưng
theo các nhà nghiên cứu, nhân vật phò trợ xuất hiện tập trung và có vai trò quan trọng
nhất ở ba thể loại: thần thoại, truyền thuyết và truyện cổ tích (chủ yếu ở tiểu loại cổ
tích thần kì). Trong đó thần thoại được xem là một thể loại văn học dân gian lưu giữ 27
rõ nét nhất những hình thức ấy, nói như C. Mác, thần thoại là “hình thức văn hóa tinh
thần đầu tiên của loài người”. Thần thoại là truyện về thần. Tất nhiên khi nói về thần
thì nhân vật trung tâm và cũng là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống nhân vật phò
trợ của thần thoại là thần. Nhân vật thần ấy có nguồn gốc từ thế giới quan thần linh
của người nguyên thủy. Đinh Gia Khánh đã nhấn mạnh tới quá trình lao động sản
xuất thực tiễn của con người là nguồn gốc sâu xa của việc hình thành các câu truyện.
Trong nhận xét, tác giả này cũng đã đặt ra câu hỏi: Tại sao chúng lại được thể hiện
dưới hình thức hoang đường? Chúng ta có thể hiểu từ “hoang đường” được nhà khoa
học sử dụng trong nhận xét trên đồng nghĩa với từ “thần kì”. Vậy là, trong thần thoại
chúng có nguồn gốc từ những nhận thức sai lệch, những quan niệm huyễn hoặc về
thực tại của người nguyên thuỷ.
Trong khi truyền thuyết nhấn mạnh về lịch sử thì truyện cổ tích thần kì thể hiện
chức năng nhận thức con người, nhận thức xã hội, chủ yếu, bằng việc phản ánh xung
đột, mâu thuẫn xã hội. Để nhân vật có sức hút mạnh mẽ, có sự tôn vinh gần như tuyệt
đối thì truyền thuyết cần có những nhân vật phò trợ. Còn trong truyện cổ tích xung
đột, mâu thuẫn truyện chất đó là những mâu thuẫn của đời sống thực tế. Chúng có vai
trò to lớn, không thể thiếu trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột, mâu thuẫn
của truyện.
Do giới hạn nghiên cứu đề tài nên ở đây, chúng tôi chỉ nêu khái quát vai trò của
nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích.
Như vậy, xét ở mọi phương diện, nhân vật phò trợ xuất hiện đóng vai trò quan
trọng trong việc giải quyết mọi mâu thuẫn của thực tại và đó cũng chính là mơ ước
của con người về cuộc sống với những điều tốt đẹp nhất. Nhân vật phò trợ trong
truyện cổ tích thần kì là yếu tố nghệ thuật của sự “hư cấu có chủ tâm và mang tính
nghệ thuật”.
2.1. Các tiêu chí phân loại nhân vật phò trợ
Trước khi đi vào phân loại, để làm rõ chức năng của nhân vật, chúng ta phải
hiểu rõ về nghĩa của khái niệm nhân vật phò trợ. Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng
Phê:“Phò là theo vua, chúa hoặc người mà mình tôn sùng: phò vua giúp nước, một
lòng phò chính trừ tà”[33, tr. 771]. Phò trợ có nghĩa là giúp đỡ. Trong truyện cổ tích,
28
phò trợ cũng được dùng với nghĩa đó. Nhân vật xuất hiện làm nhiệm vụ cứu giúp
nhân vật chính diện thì được gọi là nhân vật phò trợ. Loại nhân vật này thường mang
trên mình những sự biến hóa thần kì, có được sức mạnh vô biên và bao giờ cũng xuất
hiện kịp thời để cứu đỡ cho nhân vật chính diện vượt qua những thử thách hoặc là
những khó khăn trên con đường làm nhiệm vụ. Sự xuất hiện của nhân vật này làm
cho câu chuyện cổ trở nên hấp dẫn hơn, thần kì hơn, làm cho người đọc có cảm giác
yên tâm hơn về những nhiệm vụ của nhân vật chính diện phải vượt qua. Hơn nữa sự
xuất hiện của nhân vật này gắn liền với những giá trị văn hóa, những quan niệm thẫm
mĩ, quan niệm nhân sinh và cuộc sống trong thời đại lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, không phải tất cả các yếu tố thần kì đều có nhiệm vụ phò trợ và
ngược lại không phải tất cả các nhân vật phò trợ đều có phép biến hóa thần kì đôi khi
chỉ là “sức mạnh thần kì”, “uy lực” trong lời nói. Ở một số truyện nhân vật phò trợ
không mang trong mình phép biến hóa thần kì mà lại sử dụng những sức mạnh vốn
có của chính mình. Sức mạnh này cũng giống như sức mạnh của một con người bình
thường, cũng đánh nhau với nhân vật phản diện mà không hề có sức mạnh của thế
lực siêu nhiên. Điều này được thể hiện rất rõ trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số
ở Gia Lai. Ở đây, vai trò của tính cộng đồng ảnh hưởng đến cấu tạo và chức năng
nhân vật phò trợ.
Chúng ta cần lưu ý rằng, giữa yếu tố thần kì và nhân vật phò trợ có liên quan ít
nhiều tới nhau, bổ sung cho nhau. Yếu tố thần kì là bao gồm tất cả những yếu tố có
mang màu sắc thần thánh, có thế lực siêu nhiên. Còn nhân vật phò trợ không phải bao
gồm tất cả các yếu tố thần kì mà chỉ những yếu tố nào có ảnh hưởng tới nhân vật
chính, có nhiệm vụ phò trợ. Đôi khi nhân vật phò trợ đặt ra những vấn đề khó khăn
để thử thách nhân vật chính. Như vậy, không phải tất cả các yếu tố thần kì đều là
nhân vật phò trợ.
Xem xét nhân vật dưới góc độ của chức năng, nhóm hành động là một vấn đề
hết sức cần thiết trong nghiên cứu cấu tạo truyện cổ tích. Trong bài viết “Nhân vật lí
tưởng và cốt truyện của truyện cổ tích thần kì”, Nguyễn Tấn Phát và Bùi Mạnh Nhị
đã khẳng định rằng nhân vật phò trợ (đôi khi cũng là yếu tố thần kì) trong truyện cổ
tích thường được chia làm ba nhóm: nhóm giúp đỡ nhân vật lí tưởng, nhóm thứ hai
29
là giúp đỡ kẻ thù đối kháng, nhóm thứ ba là mang màu sắc trung tính tức là ở trong
tay nhân vật chính diện thì sẽ trở thành chính diện, ở trong tay nhân vật phản diện thì
sẽ trở thành phản diện. Đó là những yếu tố hoang đường, huyễn hoặc, những phép
màu, sự kỳ diệu và sự biến hóa khôn lường nhằm trợ giúp con người vượt qua khó
khăn, hiểm nghèo để đạt được ước mơ hạnh phúc. Sáng tạo các nhân vật phò trợ, con
người muốn thể hiện khát vọng, ước mơ của người xưa vươn tới một cuộc sống bình
yên và tươi đẹp. Vì thế, nhân vật phò trợ là đặc trưng cơ bản của truyện cổ thần kỳ
mà ở các truyện cổ tích loài vật, cổ tích thế sự (hiện thực) hầu như không có.
Nhìn chung, nhân vật phò trợ sử dụng những phép thuật hoặc phương tiện thần
kì để làm nhiệm vụ giúp đỡ nhân vật chính, trừng trị nhân vật tuyến ác. Do đặc trưng
chức năng và thi pháp thể loại mà nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích thần kì cũng
có những điểm riêng biệt. Sự phân loại nào cũng mang tính chất tương đối, cho nên
cách phân loại về nhân vật phò trợ của chúng tôi cũng vậy. Dưới đây là một gợi ý
nhỏ cho cách phân loại nhân vật phò trợ, chúng tôi nghĩ cách phân chia này có thể là
hợp lí trong các cách phân chia nhóm nhân vật.
Theo dạng biểu hiện, nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích thần kì bao gồm:
- Dạng hữu hình gồm: Tiên Bụt, bà Chằng, Ngọc Hoàng, mụ Phù Thủy,..; dạng
loài vật: đại bàng, phượng hoàng, trăn tinh, …; dạng đồ vật: búa thần, cung thần, đàn
thần, niêu cơm thần,…
- Dạng vô hình: ma quỷ, câu thần chú – lời nói thần kì,…
Theo bản chất xã hội, nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích thần kì có hai tuyến:
tuyến thiện và tuyến ác.
Ở tuyến thiện, nhân vật phò trợ đóng vai trò trợ giúp nhân vật tích cực vượt qua
các bế tắc, trở ngại trong cuộc sống. Đồng thời ở một số truyện, nhân vật phò trợ còn
tham gia vào việc trừng trị kẻ ác và thực hiện công bằng xã hội.
Nhân vật phò trợ ở tuyến ác trong truyện cổ tích thần kì Việt Nam nói chung và
trong truyện cổ người dân tộc thiểu số ở Gia Lai có số lượng không nhiều. Nó đóng
vai trò chức năng cản trở, thử thách đối với nhân vật thuộc tuyến tích cực, tuyến
thiện. Nhân vật phò trợ thuộc tuyến ác bao giờ cũng bị lên án.
30
Nhân vật phò trợ giữ vai trò quan trọng đối với tiến trình phát triển của cốt
truyện. Nó là nhân tố thắt nút, cởi nút, để thúc đẩy cốt truyện phát triển. Nếu không
có các nhân vật phò trợ thì cốt truyện sẽ bế tắc hoặc không kết thúc trọn vẹn. Cái kết
thúc có hậu của truyện cổ tích thần kì được thực hiện một phần nhờ sự tham gia của
các nhân vật phò trợ. Tuy nhiên trong truyện cổ tích các dân tộc Gia Lai, chúng ta
thấy nhân vật phò trợ trước khi quay sang phò trợ tuyến thiện hay nhân vật chính thì
có đánh nhau với nhân vật tuyến thiện vì lòng tức giận, ghen ghét. Nhưng sau khi thất
bại thì chấp nhận sự sai khiến của nhân vật chính. Đó là điểm đặc biệt mà chúng ta
nhìn thấy rất rõ thông qua những câu truyện cổ của các dân tộc thiểu số.
Dựa vào các thuộc tính vốn có của sự vật, nhân vật phò trợ có thể được chia
thành ba kiểu như sau:
Thứ nhất: Nhân vật phò trợ là Trời, Thần, Tiên:
Thứ hai: Nhân vật phò trợ là đồ vật thần
Thứ ba: Nhân vật phò trợ là con vật thần
Theo Propp, đồ vật trong truyện cổ tích thần kì đóng vai trò là phương tiện thần
kì, không phải là nhân vật phò trợ. Quan điểm của Propp là dựa vào chức năng của
nhân vật được danh từ thực hiện hành động (sự ngăn cấm, việc chạy trốn…).
Chúng tôi dựa vào chức năng của Propp để tạm thời phân chia các loại nhân vật
phò trợ như sau:
Thứ nhất: Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng giải quyết những nhiệm vụ khó
khăn
Thứ hai: Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng phò trợ về việc thay đổi về
không gian
Các cách phân loại đó, chúng tôi chỉ xin lựa chọn một cách để phân loại nhân
vật phò trợ của truyện cổ từ đó nêu ra những kết luận về truyện cổ của các dân tộc
thiểu số ở Gia Lai
Trong truyện cổ của người dân tộc ở Gia Lai, hình tượng các nhân vật phò trợ
kiểu như Tiên, Bụt xuất hiện với nhiều ý nghĩa phong phú, trong một phạm vi rộng.
Các nhân vật này không chỉ là hình tượng biểu trưng tôn giáo hay tín ngưỡng dân
gian mà đã đi vào đời sống hàng ngày của người bình dân để chuyển hoá thành nhiều
31
ý nghĩa khác nhau.
Qua khảo sát 37 câu truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, chúng ta thấy
rằng có đến 24 câu chuyện có hình ảnh nhân vật phò trợ xuất hiện dưới các hình hài
khác nhau, tập trung vào các kiểu như đã trình bày trên.
2.2. Phân loại nhân vật phò trợ
Dựa vào những tiêu chí đã phân loại ở trên chúng tôi sẽ lựa chọn cách phân loại
dựa vào chức năng của nhân vật phò trợ để mô tả các tiểu loại về cấu tạo, chức năng,
vai trò nhân vật này trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
2.2.1. Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng giải quyết những nhiệm vụ khó
khăn
Chức năng giải quyết những nhiệm vụ khó khăn thường xuất hiện trong
nhóm nhân vật Trời, Thần, Tiên
Như chúng ta đã biết, Trời (Thiên) là một phạm trù quan trọng trong hệ thống
triết học cổ điển Trung Quốc. Từ các triều đại Thương, Chu trở về sau, nhiều triết gia
đã liên tục đề xuất, tranh luận về nội hàm phạm trù Trời và mối quan hệ của nó với
các phạm trù khác. Trong quan niệm của người Trung Quốc, Trời có ý nghĩa vô cùng
phong phú, bao gồm: trời đất (không gian sinh tồn của vạn vật), ông trời (thần tối cao
– thượng đế), đạo trời, tự nhiên, thiên nhiên, ý trời, lòng trời, mệnh trời, lí trời...Căn
cứ vào Kinh Thi và Kinh Thư, Trời được xem là có đặc trưng tính cách của con
người. Trời có ý chí, luôn hướng tới điều chí thiện, luôn đề cao chính nghĩa. Trời
không chỉ thống lĩnh điều hành các hiện tượng tự nhiên, mà còn thống lĩnh cả “chính
đạo” trong xã hội. Có thể thấy rằng, vì Trời vô cùng thần bí, sức mạnh vô song, vượt
ra khỏi mọi sự đo lường của tư duy con người, có khả năng chở che, hóa dục muôn
loại, nên Trời được tôn xưng là vị thần tối thượng có đủ mọi năng lực. Trời và con
người giống nhau ở chỗ không ngừng hướng thượng để truy cầu những điều thiện mĩ.
Đối với người dân tộc ở Gia Lai, Trời xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích
như: Chàng Reng, Voi và Kiến, Chàng Lười, Chiếc quạt thần...Trong truyện cổ
của họ, Trời xuất hiện rất đỗi tự nhiên, không có một khuôn mẫu hình hài nào cho
Trời nhưng khi đọc lên chúng ta thấy Trời gần gũi như một con người bình thường.
Trời xuất hiện để giúp đỡ cho họ vượt qua những khó khăn, thử thách trước hết là
32
giúp được sinh con đẻ cái. Trời truyền sức mạnh vốn có nhân vật phò trợ có thể tạo ra
những sinh linh mới mang trong mình dòng máu của con người. Những sinh linh mới
này ra đời mang cũng giống như Trời ra đời có nhiệm vụ trừ gian tà, tiêu diệt kẻ thù.
Vì vậy thường dáng dấp của những người anh hùng hoặc ít nhất cũng có biệt tài hoặc
sức mạnh đặc biệt. Như trong câu chuyện Chàng Reng, Trời ở đây xuất hiện như một
người thật mà họ có thể tìm gặp như đến nhà của người dân trong buôn. Họ mất hai
năm rưỡi để tìm đến nhà Trời và gặp được Trời để bày tỏ nỗi lòng. Lúc đầu họ
không nhìn thấy Trời nhưng Trời lại thấy họ trước, vì thấy hai người này rất đẹp đôi
nhưng có gì đó trăn trở nên Trời bèn cất giọng hỏi:“ Đi không biết mấy ngày, mấy
tháng, mấy năm, cái chân đã mỏi, người đã yếu mệt nhọc như kéo cây gỗ lim mới đến
được đây chắc là có chuyện gì cần hỏi”[7, tr.272]. Người chồng thưa:“Chân cháu
biết đi, đầu cháu biết nghĩ, mồm cháu biết nói, cháu chẳng dấu gì, cháu đi mất hai
năm rưỡi mới tới đây bây giờ tay chưa bắt mặt chưa nhìn kỉ để ngồi chơi hút thuốc
đã rồi cháu sẽ nói” [7, tr.273]. Sau đó, Trời còn sai vợ giết gà nấu cơm tiếp đãi họ và
cuối cùng thì ước nguyện của họ đã thành hiện thực. Họ muốn sinh bảy đứa con và
Trời đã đưa cho họ bảy nhánh thuốc uống vào là sẽ có con. Sự giúp đỡ của Trời hoàn
toàn diễn ra một cách tự nhiên, họ có thể ngồi ăn cơm uống nước và có thể ngồi trình
bày những nỗi niềm để được Trời giúp đỡ. Sau đó, những đứa con của họ, cả bảy anh
em đều có sức mạnh vô biên, có nghĩa khí và cùng xây dựng và phát triển buôn làng
mà không có một thế lực nào dám phá hoại. Như vậy, trời không chỉ giúp cho họ có
được những đứa con bình thường như ước nguyện của họ và còn có cả sức mạnh của
những vị thần nữa. Cách thức để người trần mang trong mình những sinh linh kì diệu
phải chăng là ước nguyện của con người về đời sống tinh thần? Thế giới thần linh
được kéo lại gần hơn với cuộc sống của con người. Con người sẽ bớt đau khổ khi bên
cạnh luôn có một thế lực siêu nhiên luôn sẵn sàng giúp đỡ. Khi tư duy nguyên thủy
còn chi phối mạnh mẽ tới nhận thức cộng đồng nơi đây, họ tin rằng Trời là một vị
thần như con người nhưng khác con người là có thêm sức mạnh mà con người không
có được. Thế giới tự nhiên được xích lại gần với con người nhờ trí tưởng tượng bay
bổng. Từ đó, các vị thần được nảy sinh. Quá trình lao động càng làm nảy sinh những
nhu cầu thẩm mĩ. Sản phẩm của quá trình ấy là sự ra đời và tiếp hợp của các vị thần
33
phò trợ trong đời sống tinh thần của họ. Chỉ có lực lượng vô hình nhưng đầy quyền
năng mới đủ sức mạnh như các vị thần phò trợ mới cứu vớt họ ra khỏi thế giới hỗn
độn. Họ tư duy theo lối nguyên thủy, họ tin vào sức mạnh của giới thần tiên cho rằng
Trời cũng là “con người”.
Các dân tộc sống chủ yếu bằng nghề nông, cây trồng chủ yếu là lúa rẫy. Với
trình độ thấp kém phụ thuộc gần như đến phó mặc cho thiên nhiên người bản địa
chưa giải thích được một cách khoa học các hiện tượng tự nhiên xảy ra xung quanh
họ. Họ cho rằng mất mùa, được mùa, hạn hán hay lũ lụt đều do các vi thần linh điều
khiển mà tập trung là hai vị thần: Trời (Yang adai) và thần Lúa (Yang hri). Từ trong
tâm thức nguyên thủy của họ, Trời là một đấng linh thiêng cao cả và cũng chính Trời
là người cứu vớt tâm hồn, giúp đỡ họ khi họ gặp khó khăn. Từ một nhân vật không có
thật nhưng có quyền uy và sức mạnh vô biên, Trời trở thành một nhân vật của dân
gian. Đây là sản phẩm của nhận thức cảm tính nên những gì trừu tượng thường được
hình dung dưới những sự vật cụ thể. Nguyễn Đổng Chi khẳng định rằng “Các nhân
vật vốn là biểu tượng của tôn giáo như Bụt, Tiên, Ngọc Hoàng … đều đã được cái
nhìn thực tiễn của dân gian – dân tộc nhân cách hoá để trở thành lực lượng cứu tinh
đối với mọi người dân cùng khổ.” [9, tr.1635]. Khi yếu tố dân chủ nguyên thủy còn
chiếm địa vị thống trị trong xã hội thì các vị thần bình đẳng với nhau. Khi xã hội có
giai cấp xuất hiện thì có sự phân biệt đẳng cấp trong thế giới của thần. Sự phân loại
tất yếu của các vị thần nảy sinh khi xã hội phát triển ở mức độ cao hơn. Vị thần nào
có quyền lực nhất sẽ nắm toàn quyền trong tay, mỗi vị thần đều có những nhiệm vụ
cai quản riêng.
Trời là nơi thể hiện cho sự công bằng, là người “cầm cân nảy mực” giúp họ đấu
tranh chống lại cái ác, lấy lại tự do công bằng cho họ. Truyện Voi và Kiến cho thấy
rõ vai trò của nhân vật phò trợ. Con Voi với thân hình đồ sộ đã ăn hiếp các loài vật
khác, đã có thái độ ngang ngược nên Kiến và Kì nhông đã lên trời hỏi kiện. Lúc này,
Trời vui vẻ nhận lời và đã dạy cho Voi một bài học và trừng trị Voi bằng cách để cho
người cưỡi lên đầu lên cổ, khi chết muốn sống lại thì chôn vào cây bằng lăng, nếu
muốn chết hẳn thì chôn vào cây dừng.
34
Nhân vật phò trợ trong truyện cổ của người dân tộc ở Gia Lai không xuất hiện
một cách đột ngột như Tiên hay Bụt nhưng vẫn luôn luôn hướng về con người, theo
dõi con người, nâng đỡ con người trong mọi hoàn cảnh khó khăn. Thậm chí đôi khi
còn biến dạng thành một con người khác chẳng hạn như trời biến thành ông già trong
truyện Chiếc quạt thần để giúp chàng trai Y Rít đi tìm vợ. Ông già ấy nhìn xuống
trần gian thấy Y Rít không qua được vùng nước rộng nên đã chỉ cách cho chàng có
thể qua bên kia biển để tìm vợ. Ở đây Trời không xuất hiện trực tiếp mà hiện hình
trong giấc mơ. Một trong những biểu hiện phản ánh thế giới nội tâm của con người là
giấc mơ. Giấc mơ là bức thông điệp được gửi từ các vị thần, mang theo bao sức mạnh
tiên tri về những điều sẽ tới. Nhà nghiên cứu Kahlil Gibran đã từng khẳng định: “
Hãy kỳ vọng vào giấc mơ, nơi đó đang ẩn giấu cánh cửa để đi đến điều trường tồn
bất diệt”. Nói như nhà Phân tâm học Pierre Daco: “ Người ấy liên hệ với những con
người, những nơi chốn, những đồ vật, những con thú… mà trong lúc nằm mơ, người
ấy coi là những thực thể, cũng giống như những hiện tượng trong đời sống thực khi
tỉnh thức” [34,tr.9]. Họ tin rằng thần linh xuất hiện dù ở hoàn cảnh nào đều có linh
nghiệm vì vậy cho nên chàng Rít đã làm theo từ đó trở thành tù trưởng lớn mạnh.
Đôi khi nhân vật phò trợ không trực tiếp xuất hiện hay biến dạng thành người
mà sai người khác thực hiện nhiệm vụ đó hoặc là biến phép cho người khác xuống
trần gian để giúp đỡ. Mô típ này xuất hiện khá nhiều trong truyện cổ. Chúng tôi sẽ
trình bày rõ hơn trong phần chương 3 về các mô típ liên quan đến nhân vật phò trợ.
Thông thường người được thần phái đến là những người thân thuộc, thí dụ như con
gái hoặc cận thần thân thuộc của mình. Giống như trong câu chuyện: Chàng Lười.
Chàng trai vì quá lười biếng, không làm nhưng toàn ăn uống xong rồi lại ngủ đến
mức cha mẹ tức giận, đuổi đi. Thấy vậy thần tiên hóa phép cho con gái của mình
xuống trần gian để giúp đỡ chàng trai đó. Mới đầu, cô gái ấy biến thành một cô gái
xinh đẹp, giúp chàng trai làm việc nhà, sau dần làm vợ chàng trai. Ngày ngày trôi
qua, người vợ đã giúp chồng không còn lười biếng nữa. Xong nhiệm vụ, người vợ
liền bay về trời. Kết thúc có hậu của truyện cổ tích các dân tộc thiểu số ở Gia Lai
khẳng định vai trò của Thần trong việc đem tới cho con người một cuộc sống tốt đẹp
hơn.
35
Khảo sát các nhân vật là Trời, Thần, Tiên trong truyện cổ các dân tộc thiểu số ở
Gia Lai, chúng thống kê tần số xuất hiện theo bảng sau:
Bảng 2.1. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là Trời, Thần, Tiên
Tiêu chí Trời Thần Sét Thần Tiên
Dân tộc Nước
Ba na 6/ 10 lần 1/3 lần 1/ 3 lần 1/1 lần
Jơ rai 4/10 lần 2/ 3 lần 2/3 lần 0 lần
Dựa vào bảng khảo sát trên chúng tôi thống kê được 10 lần xuất hiện hình ảnh
phò trợ là Trời, trong đó truyện của dân tộc Jơ rai chiếm 4/10 lần, còn truyện của dân
tộc Ba ba gồm 6/10 lần xuất hiện; những truyện có xuất hiện hình ảnh nhân vật phò
trợ dạng Trời như: Kén chàng rể (Ba na), Nguồn gốc các dân tộc (Ba na), Sự tích
Ia Nueng (Jơ rai), Chiếc quạt thần (Ba na), Gươm ông Tú (Ba na), Chàng Reng
(Jơ rai), Hai chàng trai lành nghề (Ba na), Chàng lười (Jơ rai), Voi và Kiến (Jơ
rai), Cuộc chiến của các tù trưởng (Ba na); Những truyện có xuất hiện là Thần Sét:
Đăm Dông đánh thần Sét (Ba na), Di ông đi lấy mặt trời (Jơ rai), Cây tông lông
(Jơ rai); Những truyện xuất hiện thần Nước: Sự tích Ialy (Ba na), Chàng Reng (Jơ
rai), Chiếc sáo thần kì (Jơ rai); Chỉ có một truyện duy nhất xuất hiện hình ảnh Tiên
của dân tộc Ba na, đó là câu chuyện Chàng Jăng Gre (Ba na).
Hình ảnh Trời chiếm số lượng nhiều nhất, tiếp đến là thần Sét, sau nữa là thần
Nước. Điều này cho thấy vai trò của Trời đối với cuộc sống của các dân tộc nơi đây
rất quan trọng. Chúng tôi khảo sát toàn bộ 24/37 truyện có 2/24 truyện xuất hiện hình
ảnh nhân vật phò trợ là phụ nữ. Đó là câu chuyện : Chàng Jăng Gre (bà Tiên nữ
hiện lên ban cho chàng gươm thần, khiên thần giúp chàng bay về trời), Cuộc chiến
của các tù trưởng (vợ ông Trời nung hai anh em trong lò bát quát để hai anh em có
sức mạnh phi thường). Hai câu chuyện này đều của dân tộc Ba na. Người Ba na có
tục bắt chồng, ở rễ, theo chế độ mẫu hệ. Mọi quyền lực trong gia đình đều do người
phụ nữ nắm quyền. Chính vì vậy trong truyện cổ của họ chúng ta bắt gặp dấu ấn văn
hóa các dân tộc khẳng định vai trò người phụ nữ rất quan trọng. Người Jơ rai cũng
theo chế độ mẫu hệ tuy nhiên chúng tôi chưa tìm thấy trong truyện cổ của họ xuất
hiện hình ảnh nhân vật phò trợ là người phụ nữ. Ngoài ra chúng tôi thấy có một
36
truyện có hình ảnh bà Tiên cũng là truyện cổ của người Ba na. Một số ít người Ba na
sinh sống trong các buôn làng gần với người Việt cho nên có thể do ảnh hưởng một
phần của văn hóa người Việt vào đời sống của họ. Sau thế kỉ XX, người Việt cùng
với một số các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc bắt đầu di cư vào lập nghiệp ở
đất này. Hiện tại, chúng tôi có tìm thấy có ba văn bản truyện cổ có xuất hiện nhân vật
phò trợ là Tiên, đây là những sản phẩm của người Việt khi tới vùng đất đỏ: Sự tích
núi Jađok, Đàn ngựa núi hiển hách, Sư tích cây ké phất cờ. Sự giao thoa giữa các
nền văn hóa khác nhau càng khẳng định sự phong phú của truyện cổ các dân tộc
thiểu số ở đây. Mặt khác càng khẳng định nét riêng biệt về dấu ấn các dân tộc.
Theo khảo sát của chúng tôi, trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai,
nhân vật phò trợ là Trời, Thần và Tiên xuất hiện với chức năng chủ yếu sau: phò trợ
về việc giải quyết những nhiệm vụ khó khăn. Trong chức năng này, nhân vật phò trợ
có nhiệm vụ giúp nhân vật chính vượt qua khó khăn. Nhân vật phò trợ hóa phép để
nhân vật chính di chuyển hoặc nhân vật phò trợ để nhân vật chính cưỡi trên lưng hoặc
là nhân vật phò có nhiệm vụ ban vũ khí thần kì để nhân vật chính có thể di chuyển
được. Trường hợp nhân vật phò trợ là Trời, Thần, Tiên thường hóa phép để con
người có sức mạnh linh diệu hoặc là ban vũ khí thần kì để giúp con người di chuyển.
Bà Tiên trong truyện Chàng Jăng Gre đã ban cho chàng vũ khí là gươm thần giúp
chàng bay từ dưới đất lên trời. Chàng Y Rít trong Chiếc quạt thần đã được ông Trời
chỉ cho cách bay qua vùng biển rộng lớn để tìm vợ.
Trường hợp nhân vật phò trợ để nhân vật chính cưỡi trên lưng không xuất hiện ở
dạng phò trợ này trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Tuy xuất hiện ở
dạng người, gần gũi với con người nhưng những vị thần có sức mạnh vô biên. Khi
con người không thể tin vào bất kì ai, bất kì điều gì thì sự linh nghiệm của các vị thần
có ý nghĩa hết sức quan trọng. Mọi mâu thuẫn lúc này được giải quyết bằng tư duy
duy tâm. Trình độ nhận thức của con người càng thay đổi ở mức độ cao hơn khi xã
hội phát triển.
Chức năng này theo Propp được gọi là thanh toán tai họa hay sự thiếu thốn.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, nhân vật chính gặp nhiều khó khăn,
thách thức thậm chí đôi khi đó là tai họa. Nhiệm vụ của nhân vật phò trợ sẽ thanh
37
toán tai họa hay sự thiếu thốn để nhân vật chính hoàn thành nhiệm vụ. Việc thanh
toán này phụ thuộc vào tính chất của cuộc chiến, kẻ thù của cuộc chiến. Thường nhân
vật phò trợ cung cấp phương tiện thần kì cho nhân vật chính, tham gia trực tiếp trong
việc tiêu diệt kẻ thù, hoặc là mách bảo những cách giải quyết những xung đột của
nhân vật chính.
Nhân vật phò trợ có chức năng biến hóa của nhân vật chính thành một nhân vật
có sức mạnh kì diệu khác để tiêu diệt kẻ địch. Nhờ có các chức năng này mà nhân vật
chính có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tuyệt đối. Nếu thất bại thì đó
chẳng qua là những sự thử thách còn kết cục vẫn là tất thắng. Truyện cổ các dân tộc
thiểu số ở Gia Lai cũng cho thấy có xuất hiện các chức năng này của nhân vật phò
trợ.
Việc cứu thoát nhân vật chính thoát khỏi truy nã của nhân vật phò trợ không
xuất hiện trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Điều này vượt ra khỏi
mô hình chức năng của nhân vật phò trợ mà Propp đã khái quát trong công trình về
Hình thái học của mình. Vượt ra ngoài mô hình cấu tạo chức năng của nhân vật phò
trợ mà Propp đã đưa ra, phải chăng đây là điểm mới trong truyện cổ của các dân tộc
thiểu số ở Gia Lai mà Propp chưa bao quát tới?
Như vậy, nhân vật phò trợ trong truyện cổ của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai
xuất hiện giống như một con người thật nhưng có phép thần, hình tượng này vừa
mang một vài nét giống như Bụt hay Tiên trong truyện cổ của người Việt là luôn sẵn
lòng giúp đỡ khi con người gặp khó khăn, hoạn nạn. Trời, Thần, Tiên trong truyện cổ
của dân tộc ở Gia Lai mang ý nghĩa là vị thần linh tối cao thống lĩnh chư thần, nhưng
vị chúa tể duy nhất của thế giới thần linh là Trời. Vì giữ địa vị tối cao vô thượng nên
Trời có quyền lực vô hạn, có thể quan sát và chi phối đến tất cả các mặt của giới tự
nhiên và đời sống xã hội. Trời là vị tổ sản sinh và hóa dục nhân loại vạn vật, đồng
thời thiết lập nên trật tự xã hội loài người. Trời luôn đầy ắp lòng yêu thương, có
những tình cảm vui mừng buồn giận của con người, thường quan sát theo dõi công tội
của từng người để thưởng thiện phạt ác.
38
2.2.2. Nhóm nhân vật phò trợ có chức năng phò trợ về việc thay đổi về không
gian
Chức năng giải phò trợ về việc thay đổi không gian thường xuất hiện trong
nhóm nhân vật là đồ vật thần kì, con vật thần kì
Nhân vật là đồ vật thần kì:
Đồ vật thần kỳ trong các truyện cổ xuất hiện khá nhiều. Mỗi vật dụng đóng vai
trò như một vị thần, giao tiếp với con người bằng những dấu hiệu của linh cảm.
Trong truyện cổ Nhật Bản đồ vật thần kì cũng chiếm một số lượng không nhỏ như
Cọng rơm triệu phú, Cậu bé sinh ra từ quả đào, Cây liễu thành Kyoto, Cái ấm
hạnh phúc, Chim sẻ bị cắt lưỡi, Chiếc khăn thần kỳ, Hai anh em.... các truyện
hay trong truyện cổ Trung Quốc cũng không ít như truyện Cây bút thần, Cô gái
trong vỏ hàu, Chiếc gương soi của bà Tiên... những vật dụng quen thuộc, những đồ
vật, sự vật gắn bó với con người sống chủ yếu bằng lao động nông nghiệp. Những
chiếc hộp thần, nước thần, chậu hoa thần kỳ, quả đào, chiếc giỏ tre, cái ấm đun nước,
cây liễu, cọng rơm..., có những phép biến hóa kỳ diệu dường như đã rất quen thuộc
đối với chúng ta.
Trong truyện cổ của các dân tộc ở Gia Lai thì hình ảnh các vật dụng như khiên,
rìu, lao… biết bay xuất hiện khá nhiều. Ở đây, những vật dụng này thường xuất hiện
không đem lại tài sản hay của cái để giúp nhân vật giàu có, sung túc mà thường giúp
con người di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Theo cuốn “Nét đặc trưng văn hóa
cổ truyền của người Jơ rai ở Tây Nguyên” có ghi lại đồng bào quan niệm chiếc rìu
là công cụ lao động, vũ khí chống kẻ thù, nên nó tượng trưng cho sức khỏe. Cha mẹ
khấn thần rìu mong cho con có sức khỏe, cứng rắn như chiếc rìu, có thể đẵn được cây
gỗ to, phá rừng làm rẫy. Các loại thịt ngon đem khấn thần cầu mong thần phù hộ cho
con mình được khỏe mạnh. Những quan niệm ấy càng khẳng định được vai trò to lớn
của những công cụ lao động, và khẳng định rằng nông nghiệp là ngành chính trong
đời sống dù sơ khai của họ.
Nhân vật phò trợ dạng vật xuất hiện trong các câu chuyện như: Cha con Đăm
Bông Pha, Chiếc sáo thần kì, Chiếc quạt thần, Chàng Jăng Gre …
39
Khảo sát sự xuất hiện của các nhân vật phò trợ là vật thần, chúng tôi thống kê như
sau:
Bảng 2.2. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là đồ vật
Tiêu chí Khiên Nỏ Gươm Chiếc Chiếc Thuốc
thần thần thần quạt sáo thần
Dân tộc thần thần
Ba na 0 1/1 2/ 3 1/1 0 0
lần lần lần lần lần lần
Jơ rai 1/1 0 1/3 0 1/1 2/2
lần lần lần lần lần lần
Dựa vào bảng khảo sát, trên chúng tôi thống kê được số lần xuất hiện hình ảnh
phò trợ là vật thần như sau:
Những vật chỉ xuất hiện trong truyện cổ của người Ba na mà không xuất hiện
trong truyện cổ các dân tộc Jơ rai: Nỏ thần, chiếc quạt thần; những vật này xuất
hiện trong các câu chuyện sau: Chiếc quạt thần (Ba na), Chàng Jăng Gre (Ba na)
với tần số xuất hiện là 1 lần.
Trong khi đó những vật là thuốc thần, khiên thần, chiếc sáo thần lại chỉ xuất
hiện trong truyện cổ của các dân tộc Jơ rai mà không xuất hiện trong các dân tộc Ba
na; những vật này xuất hiện trong các câu chuyện sau: Chàng Reng (Jơ rai), Chiếc
sáo thần kì (Jơ rai), Chàng Dơ Lên và nàng Phơ (Jơ rai) với tần số là 1 lần.
Ngoài ra hình ảnh nhân vật là gươm thần xuất hiện cả trong truyện cổ của cả hai
các dân tộc nhưng xuất hiện nhiều hơn trong truyện cổ của các dân tộc Ba na chiếm
2/3 lần. Gươm tần xuất hiện trong các truyện cổ sau: Chàng Jăng Gre (Ba na),
Gươm ông Tú (Ba na), Chàng Dơ Lên và nàng Phơ (Jơ rai). Sự xuất hiện của
gươm thần phản ánh dấu vết ra đời của xã hội có giai cấp. Khi sự dân chủ trong xã
hội nguyên thủy bị phá vỡ, giai cấp mới được ra đời trên cơ sở lao động và tư hữu về
công cụ lao động. Người quyền lực nắm trong tay những của cải vật chất có giá trị.
Những người khác phải tuân theo những nguyên tắc của người đứng đầu. Khi giai cấp
mới ra đời phù hợp với hoàn cảnh xã hội dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo. Người nào
nắm trong tay nhiều công cụ sản xuất người đó sẽ trở thành thủ lĩnh. Người nào
40
không có tài sản thường phụ thuộc vào người thủ lĩnh. Khát vọng về sự công bằng
thường nảy sinh trong bối cảnh đó. Vậy nên, gươm thần thường xuất hiện trong tay
các chàng trai nghèo, hiền lành, có tài năng gì đó.
Riêng hình ảnh gươm thần trong truyện Gươm ông Tú (Ba na), chúng tôi thấy
có những nét gần giống với truyền thuyết Hồ Gươm của người Việt. Có điều, chiếc
gươm của ông Tú xuất hiện thần kì hơn gươm của Lê Lợi. Nhiều tài liệu để lại tại
vùng đất Gia Lai cho thấy các anh em nhà Tây Sơn mà tiêu biểu là Nguyễn Nhạc và
Nguyễn Huệ đã lập được mối quan hệ anh em giữa người Kinh và người Thượng, tập
hợp được các dân tộc Bắc Tây Nguyên ở vùng Tây Sơn Thượng đạo như người Ba
na, Jơ rai vào cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại
do ba anh em Quang Trung-Nguyễn Huệ lãnh đạo bùng nổ năm 1771. Vùng rừng núi
An Khê của tỉnh Gia Lai ngày nay trở thành căn cứ địa đầu tiên, được coi là “an toàn
khu” của cuộc khởi nghĩa. Trong công cuộc đấu tranh giữ nước các dân tộc thiểu số
tại đây tham gia rất nhiệt tình. Trong quá trình ấy sự giao thoa văn hóa giữa các dân
tộc thiểu sốcàng được mở rộng. Sự xuất hiện của gươm thần đại diện cho sức mạnh
giai cấp có thể là một dấu hiệu để chúng ta chứng minh ảnh hưởng qua lại của văn
hóa nói chung và văn học dân gian nói riêng. Một điều nữa, hai các dân tộc Ba na và
Jơ rai là hai các dân tộc cố hữu ở vùng đất này từ xa xưa.
Xét về chức năng nhân vật phò trợ là vật thần có nhiệm vụ đưa nhân vật chính di
chuyển từ một không gian này tới một không gian khác để nhân vật chính thực hiện
nhiệm vụ của mình xuất hiện nhiều. Chiếc khiên có phép thuật trong truyện Chàng
Dơ Lên và nàng Phơ được chàng Dơ Lên sử dụng cứu vợ mình trên đường đi tìm
vợ.
Chức năng trợ giúp nhân vật chính thoát khỏi sự truy nã giúp của nhân vật phò
trợ cũng không xuất hiện trong truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Việc làm
cho nhân vật chính trở nên có sức mạnh diệu kì như trong dạng nhân vật phò trợ là
Trời, Thần, Tiên cũng không thấy xuất hiện trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số
ở đây.
Tóm lại, từ những câu chuyện này chúng ta có thể thấy được rằng, những vật
dụng như khiên, lao, tên…có phép thần là những vật dụng cần thiết, gần gũi với cuộc
41
sống nương rẫy, tự do phóng khoáng của họ, những vật dụng ấy thường biết bay. Con
người mong muốn cuộc sống của họ có được sự tự do, no ấm. Các vật thần thì thường
giúp đỡ về đời sống tinh thần, giúp có một tình yêu mãnh liệt, sâu sắc chứ không giúp
về của cải, vật chất như truyện cổ của người Việt. Từ xa xưa, con người hình dung
các hiện tượng tự nhiên, bất kì các các vật dụng nào tồn tại như chính mình. Và đến
lượt mình, con người lại tự đồng nhất với thế giới ấy. Đó là cơ sở tương tác giữa con
người với thế giới thần.
Nhân vật phò trợ là con vật thần kì
Các nhân vật siêu nhiên thần kì khác như Chim, Trăn Tinh, Hồ Tinh, ma, quỷ…
xuất hiện không ít trong các câu chuyện cổ tích của người Việt, xuất hiện với cả hai
phương diện có lúc cứu người nhưng cũng có lúc hại người. Đối với tộc thiểu số ở
Gia Lai thì loại nhân vật là con vật thần kì này chủ yếu là để cứu trợ cho những người
nào đang gặp khó khăn hay thử thách .
Trong truyện cổ của các dân tộc ở Gia Lai, loại nhân vật này không có nơi chốn
cố định (trên trời, dưới âm phủ hay dưới nước) mà thường ở những khu vực đặc biệt
trong cõi trần như núi cao, rừng rậm, hang động…
Như trong câu chuyện, Chàng Dơ Lên và nàng Phơ. Nàng Phơ là vợ của chàng
Dơ bị tù trưởng bắt mất, chàng Phơ trên đường đi tìm đã gặp biết bao nhiêu sự khó
khăn: vừa đói khát, vừa mệt mỏi, lại đi tìm vợ trong sự vô vọng chàng đã được sự
giúp đỡ của chim. Chim đã hái trái cho chàng ăn, chở chàng đi tìm sau đó lại gặp
được khỉ chỉ đường và chim ri dẫn lối. Hay như trong câu chuyện Cây Tồng Lông.
Câu chuyện kể về hai vợ chồng nghèo, không có con, một hôm người vợ đi làm
nương trời nắng, khát nước, tìm nước thì không thấy vì suối đã cạn, cuối cùng bà tìm
thấy dưới gốc cây Tồng Lông có một vũng nước nhỏ, bà lấy tay vốc nước lên uống
sau này mang thai và đẻ ra hạt cây Tồng Lông. Sau này, hạt Tồng Lông được trồng
sau vườn và trở thành loài cây cao lớn vô vùng, sau này có con chim phượng hoàng
tới đẻ trứng, không ngờ trứng rớt xuống gốc cây sau này trở thành chim vào nhà nhận
ông bà già làm bố mẹ, sau này con chim ấy biến thành chàng trai cường tráng đi giết
một con chim chuyên phá hoại làng. Một hôm chàng đang ngồi dưới gốc cây Tồng
Lông nghĩ ngợi tìm cách giết con chim ấy thì đột nhiên Ngà Voi xuất hiện cùng với
42
hạt Tồng Lông nói “chúng em sẽ giúp anh giết con chim ác này” rồi chỉ cách cho
chàng tìm cách giết con chim này. Chàng trai sau khi giết xong thì mới ngỡ ra là con
chim ấy là bố mình. Cuối cùng, chàng đã hoàn thành xong nhiệm vụ của mình và trở
thành tù trưởng lớn mạnh nhất của buôn làng. Hay trong chuyện Chàng cóc. Nàng
H’lúi là một cô gái con nhà nghèo được sự phò trợ cùa lợn lòi. Nó đã chở nàng về
nhà an toàn khi trên người dường như không còn sức sống.
Khảo sát sự xuất hiện của các nhân vật phò trợ là con vật thần, chúng tôi thống
kê như sau:
Bảng 2.3. Thống kê sự xuất hiện nhân vật phò trợ là con vật
Phân loại Voi Rắn Cua Sóc Chim
thần thần gáy Lợn Rồng
Truyện cổ
Ba na 0 2/3 1/ 1 1/1 0 0 1/1
lần lần lần lần lần lần lần
Jơ rai 3/3 1/3 0 0 1/1 1/1 0
lần lần lần lần lần lần lần
Dựa vào bảng khảo sát trên, chúng tôi thống kê được số lần xuất hiện hình ảnh
phò trợ là các con vật như sau: Voi thần ( 3 lần) trong đó chỉ xuất hiện trong truyện
cổ Jơ rai; những truyện có xuất hiện hình ảnh nhân vật phò trợ dạng con vật như:
Cây tông lông (Jơ rai), Voi và Kiến (Jơ rai), Con sâu đá (Jơ rai). Rắn thần lại xuất
hiện chủ yếu trong truyện của người Ba na với tần số xuất hiện là 2/3 lần, trong đó
truyện cổ Jơ rai chỉ xuất hiện 1/3 lần; những truyện có hình ảnh Voi thần xuất hiện là:
Chiếc quạt thần (Ba na), Cô em út (Ba na), Chàng cóc (Jơ rai). Nhân vật phò trợ là
Cua, Sóc, Rồng chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong các truyện cổ của các dân tộc
Ba na; đó là những truyện: Tia oong tư và con đại bàng, Cô em út, Nàng trứng gà.
Nhân vật phò trợ là chim Gáy, Lợn chỉ xuất hiện một lần trong truyện cổ của người
Jơ rai: Sự tích Ia nueng, Chàng cóc.
Về mặt biểu tượng Rắn, đó là một hình ảnh phức tạp. Hiện nay, trong dân gian
nhiều nước. Rắn biểu trưng cho sự độc hại, gian hiểm. Và một số tín ngưỡng như Ấn
độ giáo, ngày nay còn thờ Rắn, thần linh Naga. Rắn không những là một biểu tượng
43
phức tạp, mà còn tượng trưng cho các động lực tương phản : tử sinh, âm dương, thiện
ác. Hình ảnh Rắn mang ý nghĩa tượng trưng cho sức mạnh, lòng dũng cảm của con
người Tây Nguyên.
Hình ảnh con Voi và con Rắn thần chiếm số lượng nhiều nhất trong truyện cổ
của các dân tộc thiểu số trong đó hình ảnh Voi thần lại xuất hiện trong truyện cổ các
dân tộc Jơ rai mà không xuất hiện trong truyện cổ của tộc Ba na. Trong khi đó hình
ảnh Rắn thần lại hiện chủ yếu trong truyện cổ dân tộc Ba na và xuất hiện 1 lần trong
truyện cổ người Jơ rai . Sự khác biệt này có điều gì đáng lưu ý? Phải chăng trong văn
hóa các dân tộc Jơ rai, thần Voi có vai trò hết sức ý nghĩa đối với cuộc sống của họ.
Người dân tộc thiểu số ở Gia Lai nhất là người Jơ rai, người Mnông có rất nhiều lễ
cúng dành cho Voi, đó là vị thần linh thiêng nhất của núi rừng, ví dụ như: cúng hồn
Voi, đặt tên cho Voi, cúng cắt ngà Voi, cúng Voi ốm, Voi chết…tất cả đều phải có
chiêng, có rượu cần vang lên. Họ cúng thần Voi, cầu nguyện Ông thần đừng phá hoại
mùa màng, đừng bệnh tật, đừng hại người, đêm ngày bình an. Còn ở người Ba na thì
thần Rắn lại có vai trò quan trọng hơn. Chúng ta tìm thấy sự giao thoa nào về văn hóa
của hai các dân tộc này hay không? Một trong những biểu hiện đầu tiên của sự nhất
thể hóa giữa con người với tự nhiên chính là Tôtem. Theo nhiều tài liệu cho rằng
Tôtem giáo là một trong những hình thức tôn giáo sớm nhất đã sản sinh trên cơ sở
của quan niệm hỗn hợp về thế giới. Tôtem (vật tổ) của dân tộc Kinh là con rồng, của
dân tộc Dao là con chó thần Bàn Hồ,…có khi nào Rắn được xem là vật tổ của các dân
tộc Ba na còn Voi là vật tổ của các dân tộc Jơ rai.
Bên cạnh hình ảnh Rắn còn xuất hiện hình ảnh Rồng trong truyện cổ của người
Ba na. Chúng ta lí giải vấn đề này như thế nào? Rồng hay Tiên là một sản phẩm văn
học xuất hiện khá muộn màng trong tư duy dân tộc, ít nhiều do ảnh hưởng Trung
Quốc và Đạo giáo. Ngay chữ “tiên” cũng mới xuất hiện từ đời Hán. Hình ảnh của rắn
thực sự mang màu sắc phong kiến, đồng nhất với hình ảnh của vương quyền khi nó
gắn liền với hình ảnh của Rồng. Rồng chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Không ít
các nhà nghiên cứu đã khẳng định mối liên hệ đặc biệt này giữa Rắn và Rồng ân
nhân.
44
Ngoài ra, nhân vật phò trợ là Cua, Sóc, Rồng chỉ xuất hiện một lần duy nhất
trong các truyện cổ của các dân tộc Bana mà không xuất hiện trong truyện cổ các
dân tộc Jơ rai. Nhân vật phò trợ là chim Gáy, Lợn chỉ xuất hiện một lần trong truyện
cổ của người Jơ rai mà không xuất hiện trong truyện các dân tộc Ba na.
Như vậy, những con vật xuất hiện trong truyện cổ của người Jơ rai, Ba na
thường mang một phép màu nào đó, thường giúp đỡ con người khi gặp khó khăn. Ở
đây, con vật và loài người như đang hòa quyện vào nhau, con vật thường giúp con
người vượt qua những khó khăn thường như giúp miếng ăn cho khỏi đói, giúp giết
những thế lực phá hoại, giúp tìm đường trở về nhà. Các con vật có tài biến hóa để
giúp con người vượt qua khó khăn và đạt được ước mơ hạnh phúc. Những con vật
này phần lớn là giúp con người để trả ơn cứu mạng, hay thương cảnh nghèo đói của
họ mà ra tay cứu giúp. Bên cạnh đó, hình ảnh Voi và Rắn trở thành hai biểu tượng
đặc trưng cho nét đẹp văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
Khảo sát các câu truyện cổ, chúng tôi thấy được có những nhiệm vụ chỉ xuất
hiện trong truyện cổ tích của người Ba na mà không xuất hiện trong truyện cổ của
người Jơ rai, chẳng hạn như: Nhân vật phò trợ cho nhân vật chính biến hóa thành một
dạng khác. Riêng chức năng nhân vật phò trợ tham gia vào quá trình di chuyển không
gian chiếm số lượng nhiều nhất. Giúp con người vượt ra khỏi những không gian chật
hẹp, hiểm trở là ước mơ của con người trong việc chinh phục thiên nhiên. Để thực
hiện điều đó cần phải có sức mạnh thần kì. Sự xuất hiện của nhân vật phò trợ đã giúp
con người thỏa nguyện ước mong. Cũng có nhiệm vụ không xuất hiện trong truyện cổ
của các dân tộc Jơ rai mà cũng không xuất hiện trong truyện của người Ba na, chẳng
hạn như: việc cứu thoát khỏi việc truy nã. Ở đây vai trò của người anh hùng có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Tầm vóc của người tù trưởng qui định sức mạnh của họ đối
với dân làng. Chính vì vậy cho nên bất kì một sự cứu thoát khỏi truy nã cũng làm cho
vẽ đẹp vĩ đại mà con người Tây Nguyên muốn thể hiện. Phải chăng đó là dụng ý của
dân gian?
Nếu căn cứ vào sơ đồ phân bổ các chức năng theo nhân vật của Propp trong
truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, chúng tôi nhận thấy rằng nhóm hành
động của người giúp đỡ thần kì (nhân vật phò trợ) cũng bao gồm các nhiệm vụ như
45
đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, do phạm vi khảo sát của Propp tương đối rộng, do tính
chất từng loại truyện cho nên có những chức năng của nhân vật phò trợ mà Propp
khảo sát không xuất hiện trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
Tóm lại, nhìn từ góc độ chức năng nhân vật phò trợ, chúng tôi thấy rằng truyện
cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai cũng xuất hiện một số chức năng của nhân vật
phò trợ như Propp khảo sát. Sự tương đồng này cho phép chúng ta khẳng định tầm
quan trọng của Hình thái học trong việc nghiên cứu cấu tạo của truyện cổ tích của thế
giới và Việt Nam nói riêng. Về cơ bản lí thuyết Propp phù hợp với thực tế tài liệu
truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Trong kho tàng truyện cổ các dân tộc thiểu
số ở Gia Lai có những đặc trưng riêng về cấu trúc cốt truyện, phương thức phản ánh
hiện thực so với các thể loại khác.
Tuy nhiên, những hiện tượng vượt ra ngoài sơ đồ cấu trúc của Propp trong
truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai như: sự vắng mặt hàng loạt các chức
năng liền nhau trong truyện cổ được khảo sát, sự xuất hiện lẻ tẻ các các năng của
nhân vật phò trợ, sự xuất hiện thêm những chức năng mới của nhân vật phò trợ khiến
chúng ta phải suy nghĩ, lí giải.
Nằm song song với hệ thống truyện cổ của người Việt, truyện cổ của các dân tộc
thiểu số cũng có những biểu hiện của tính dân tộc, đặc trưng thể loại, góp phần làm
phong phú thêm kho tàng truyện cổ. Điều này được chúng tôi triển khai trong các
phần tiếp theo của luận án trong đó phần so sánh với truyện cổ của người Việt sẽ giúp
chúng ta nhìn nhận được sự tương đồng, khác biệt trong việc xây dựng nhân vật phò
trợ.
2.3. So sánh nhân vật phò trợ trong truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia
Lai và truyện cổ tích người Việt
Để so sánh sự khác biệt và sự tương đồng về nhân vật phò trợ trong truyện cổ
của người Việt với các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, chúng tôi đã dựa vào các tài liệu
sưu tầm của các tác giả sau:
Ở Trung Bộ theo sách Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập VI; Truyện
cổ tích thần kì trong kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ của Ninh Viết Giao
chủ biên. Ngoài ra còn có Hòn trống mái (Bùi Khắc Nguyên chủ biên). Trong tài
46
liệu này có 18 truyện cổ thần kì, tần số xuất hiện của yếu tố thần kì khoảng 41 lần
nhưng các yếu tố thần kì liên quan tới nhân vật phò trợ cho nhân vật chính có khoảng
35 lần.
Ở Nam Bộ, theo sách Tổng tập văn học dân gian người Việt, tập VI, truyện cổ
tích thần kì; các sách như: Truyện cổ dân gian Nam Bộ (Nguyễn Hữu Hiếu), Văn
học dân gian Bến Tre (Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Thị Bạch Liên), Huyền thoại
miệt vườn (Nguyễn Phương Thảo), Truyện dân gian đồng bằng sông Cửu Long
(Hà Thắng chủ biên, Sơn Phước Hoan, Ngô Kim Long, Tào Văn Ân), Văn học dân
gian đồng bằng sông Cửu Long ( Khoa Ngữ Văn, Đại học Cần Thơ) có 17 truyện
cổ tích thần kì, trong số truyện này có khoảng 27 lần nhân vật phò trợ xuất hiện.
Ở Bắc Bộ, chúng tôi căn cứ vào Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, quyển 1
(tập 1, 2,3), quyển 2 (tập 4, 5) của Nguyễn Đổng Chi, ở đây chúng tôi lựa chọn 50
câu chuyện có liên quan tới nhân vật phò trợ của truyện cổ tích người Việt. Nhân vật
phò trợ xuất hiện 40 lần.
2.3.1. Sự tương đồng
Dựa vào các tài liệu trên, chúng ta có thể thấy được nhân vật phò trợ dạng vô
hình có tần số xuất hiện gần như không đáng kể so với sự xuất hiện của nhân vật phò
trợ hữu hình. Điều này đúng với cả ba miền Bắc –Trung-Nam.
Nhờ sự giúp đỡ của lực lượng thần kì mà xung đột được giải quyết theo hai
hướng: cái tiến bộ, cái tích cực thắng thế và được khẳng định các lạc hậu, tiêu cực bị
thất thế. Sự thắng lợi của các yếu tố tuyến thiện suy cho cùng là niềm tin vào triết lí
“ở hiền gặp lành” và ước mơ công lí của nhân dân ta như trong truyện cổ tích ta
thường gặp.
Sự xuất hiện của nhân vật Tiên trong truyện cổ của các tộc người càng khẳng
định sự giao thoa văn hóa trong quá trình phát triển xã hội.
2.3.2. Sự khác biệt
Trong truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, nhân vật phò trợ thường xuất
hiện một lần và phò trợ thành công còn trong truyện người Việt thường xuất hiện đột
ngột, ngay khi nhân vật gặp khó khăn, hỏi lí do, giúp đỡ rồi biến mất ngay lập tức, có
thể xuất hiện nhiều lần trong câu chuyện, giúp đỡ cho nhân vật thành công. Nếu ở
47
truyện cổ người Việt xuất hiện những ông Bụt, ông Tiên là chủ yếu ...thì ở truyện cổ
người dân tộc Gia Lai lại xuất hiện những vị thần (thần sông, thần núi, thần làng,
Trời.).
Nếu yếu tố Tiên, Bụt xuất hiện tương đối nhiều, chiếm tỉ lệ tương đối cao và cao
nhất trong cấu tạo cốt truyện của người Việt (Phụ lục 2) thì yếu tố Trời, Thần lại xuất
hiện nhiều trong truyện cổ của tộc người thiểu số ờ Gia Lai. Ngay trong từ vùng miền
của người Việt cũng có sự khác nhau hết sức rõ ràng. Nếu như người Việt ở Nam
Trung Bộ không quen dùng thậm chí cũng có nơi không dùng (Bình Định, Phú Yên)
mà thường dùng hay chỉ dùng danh từ Tiên đề chỉ một dạng người trợ giúp tuyến
thiện còn ở Bắc Bộ thì thường dùng từ Bụt, Nam Bộ là từ Phật, được xem là “Bậc
giác ngộ” ở trên cao nhưng lại có rất ít khả năng xuất hiện một cách trực tiếp để cứu
người tốt và trừng trị kẻ ác như Tiên. Căn cứ vào những dấu tích văn hóa, lịch sử văn
hóa của từng vùng miền, chúng ta có thể dễ dàng lí giải tại sao có thể có sự khác biệt
như vậy. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì Nam Trung Bộ không được dùng để chỉ nhân
vật phò trợ dạng người trong truyện cổ vì những tác nhân văn hóa và lịch sử. Vào
triều Hậu Lê lúc khai phá vùng đất Nam Trung Bộ thì Phật giáo không còn vai trò
quan trọng trong đời sống của người dân nơi đây nữa. Vì vậy, cho nên ảnh hưởng của
các yếu tố này là không có hoặc rất ít. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào bảng số liệu ở tài
liệu C thì chúng ta vẫn thấy có một vài truyện ở đây vẫn xuất hiện yếu tố này. Có lẽ,
dấu ấn của người sưu tầm ít nhiều ảnh hưởng từ Phật giáo hoặc do sự tác động một
phần nào đó của các vùng miền khác.
Trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, nhân vật phò trợ xuất hiện
như một người thường, có sự dự báo trước, nhân vật chính đi tìm nhân vật phò trợ
còn truyện người Việt thường xuất hiện đột ngột, ngay lập tức. Giống như trong
chuyện Chàng Reng, kể về hành trình đi tìm ông Trời để giúp sức. Câu chuyện kể
rằng: Ở một làng nọ có hai vợ chồng là Kul và H’Liu lấy nhau đã lâu mà chưa có
con. Một hôm, hai vợ chồng đem cơm lên gặp ông Trời xin được có con. Họ đi hết
hai năm rưỡi mới tới nơi được. Trời đã giúp cho họ thỏa ước nguyện.
Người giúp đỡ trong truyện cổ người Việt không phải là mụ phù thủy, là con
ngựa có phép… mà một thế lực siêu nhiên nào đó không biết rõ (người em chết tự
48
nhiên biến thành đá vôi, người anh hóa thành cây cau, người vợ bồng con lên núi
ngóng chồng lâu ngày hóa đá…) hoặc là Diêm Vương (Diêm Vương thương tình cho
ba người hóa thành ba ông đầu râu, hoặc thổ thần (Thổ thần báo mộng cho Lang Liêu
biết cách làm hai loại bánh tượng hình cho trời và đất) hoặc các con vật biết ơn nói
chung (chó, mèo…)
Đối với nhân vật phò trợ là vật thần sử dụng âm thanh phát ra để giúp nhân vật
tìm người yêu, tìm vợ hoặc là dự báo trước những điều không may sẽ xảy ra. Như
trong câu chuyện Chiếc sáo thần kì kể rằng: Chàng trai nghèo khổ mồ côi cha mẹ
tên là H Rit được bà Pôm nhận làm con nuôi. Vì mặc cảm mình là người xấu xí nên
đêm nào chàng cũng ra bờ suối than thở. Ở đây, chàng ngủ thiếp đi và khi chàng tỉnh
dậy gặp được con gái thủy tề xinh đẹp. Đem lòng yêu người con gái ấy chàng ngày
đêm nhớ mong, quên ăn quên ngủ. Thần linh hiện lên chỉ bảo và ban cho chiếc sáo
thần. Nhờ siêng năng, chàng tập luyện thổi sáo thật giỏi rồi làm theo lời thần dặn.
Cuối cùng chàng lấy được người con gái ấy và sống hạnh phúc suốt đời. Còn trong
truyện người Việt âm thanh phát ra giúp tiêu diệt các thế lực đen tối trong xã hội khi
xã hội phân hóa giai cấp. Tiếng đàn thần kì của chàng Thạch Sanh vang lên khiến
quân sĩ bủn rủn chân tay không còn nghĩ tới chuyện đánh nhau nữa. Tiếng đàn làm
quân 18 nước chư hầu phải cuốn giáp xin hàng. Với khả năng thần kì, tiếng đàn là đại
diện cho cái thiện và tinh thần yêu chuộng hoà bình của nhân dân ta. Nó là vũ khí đặc
biệt để cảm hoá kẻ thù. Nhờ đó mà Lí Thông bị vạch mặt. Tiếng đàn thần là tiếng
đàn của công lý.
Đối với nhân vật là con vật thường có nhiệm vụ là tiêu diệt yêu tinh, trừ ma quỉ,
con vật linh thiêng này sẽ có nhiệm vụ dẫn đường chỉ lối và dẫn dắt nhân vật chính
tới nơi cần tìm. Dường như con vật này là đại diện của thần linh nhưng lại sống trong
môi trường của con người. Sau khi phò trợ nhân vật chính, hoàn thành nhiệm vụ của
mình, các con vật linh thiêng này thường sống chung với nhân vật chính trong buôn
làng. Âm hưởng của núi rừng đã chi phối tới suy nghĩ của các dân tộc, bước ra khỏi
nhà là gặp những con vật, đi săn họ cũng mang chúng đi, đi lên rẫy lên nương cũng
mang đi cho nên chúng hết sức gần gũi với cuộc sống con người. Còn trong truyện
49
của người Việt thường giúp nhân vật vượt qua khó khăn, đạt được sự giàu có, cuộc
sống ấm no, hạnh phúc.
Sau khi trải qua thử thách của người tặng và nhân vật chính phản ứng lại thì
chính anh ta tiếp nhận được phương tiện thần kì hay người trợ thủ thần kì (phương
tiện thần kì). Những phương tiện thần kì ấy có thể là những con vật có phép (ngựa,
đại bàng,…), những vật mà từ đó giúp đỡ thần kì (chiếc nhẫn với các chàng lực
sĩ,…), những đồ vật có tính chất thần kì (cái gậy, cây đàn, cây kiếm…), những phẩm
vật được ban trực tiếp (sức khỏe, khả năng biến hóa…) và còn rất nhiều sự ban
thưởng này mang tính chất một sự ban thưởng. Một số truyện cổ tích thần kì kết thúc
ở lúc tặng thưởng nhưng trong trường hợp như vậy, vật tặng thưởng có giá trị vật
chất nào đó chứ không phải có vai trò là một phương tiện thần kì.
Nhìn chung, nhân vật phò trợ trong truyện cổ của người Việt để trừng trị người
ác xuất hiện không nhiều lắm, có chênh lệch cũng không nhiều nhưng cũng không
phải là không có nhất là ở tài liệu A và B.
Tính ổn định của truyện cổ tích người Việt cho phép chúng ta khẳng định tính
dân tộc, thống nhất của văn học dân gian và càng khẳng định việc ứng dụng lí thuyết
Propp có vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu cấu tạo truyện cổ tích thế giới nói
chung và truyện cổ Việt Nam nói riêng.
Nhóm hành động của người giúp đỡ thần kì gồm sự thay đổi về không gian, sự
thanh toán tai họa hay sự thiếu thốn, việc cứu thoát khỏi việc truy nã, việc giải quyết
những nhiệm vụ khó khăn, sự biến hóa của nhân vật chính. Truyện cổ người Việt hầu
như vắng mặt hoàn toàn các chức năng này nhưng do chức năng sự truy nã ít xuất
hiện nên chức năng cùng cặp với nó là việc giải thoát khỏi sự truy nã cũng ít có mặt
trong truyện kể.
Nhóm hành động của người giúp đỡ thần kì trong truyện cổ người Việt theo
khảo sát của Tăng Thị Kim Ngân bao gồm sự thay đổi về không gian (27 lần), sự
thanh toán tai họa hay thiếu thốn (46 lần), việc cứu thoát khỏi sự truy nã (4 lần), việc
giải quyết những nhiệm vụ khó khăn, sự biến hóa của nhân vật chính (9 lần). Còn
trong truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai thì sự thay đổi về không gian theo (7
lần), sự thanh toán tai họa hay thiếu thốn (13 lần), việc cứu thoát khỏi sự truy nã
50
(không xuất hiện), việc giải quyết những nhiệm vụ khó khăn, sự biến hóa của nhân
vật chính (6 lần). Tất cả những chức năng này đều có mặt trong truyện cổ người Việt
còn riêng chức năng sự truy nã ít xuất hiện nên chức năng cứu thoát khỏi sự truy nã
cũng ít có mặt trong truyện cổ. Chức năng sự truy nã lại không xuất hiện trong truyện
cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Có lẽ vai trò của người anh hùng không cho
phép chịu thất bại trước khó khăn. Điều này, truyện cổ các dân tộc thiểu số ở Gia Lai
ảnh hưởng phần nào của sử thi còn truyện cổ người Việt thì ít hơn.
Phần lớn những truyện cổ dân gian của người Việt có những yếu tố thần kỳ đã
mang đến cho con người những điều tốt đẹp, chứa đựng những khát vọng sâu xa.
Điều đó thể hiện sự chia sẻ, đồng cảm và nói lên ý chí, nghị lực của người lao động
vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong cuộc đấu tranh đó, những người lao động còn
đơn độc chưa đủ mạnh để chống lại những thế lực hắc ám nên họ mong muốn có một
phép màu nhiệm giúp đỡ để điều khiển cán cân công lý thực hiện được những mong
muốn của mình. Nhưng với người dân tộc Jơ rai, họ không nghĩ như vậy, họ đến với
thiên nhiên như con hổ về núi, như con nai về rừng vậy. Họ xem thiên nhiên là cuộc
sống của họ, sự đấu tranh giành lại công lí chỉ ở mức tư duy rất nguyên thủy, ở đây
không có sự phân hóa giai cấp.
Để tìm hiểu sự khác biệt này theo chúng tôi, người Việt ảnh hưởng của Phật
giáo, Nho giáo. Nho giáo và Phật giáo được xem là hai trong những tôn giáo có sự
chi phối mạnh mẽ đối với đời sống tâm linh của người Việt. Còn các dân tộc thiểu số
chịu chi phối cùa quan niệm vạn vật hữu linh. Về nhân vật phò trợ, nếu ở truyện cổ
người Việt xuất hiện những ông Bụt, ông Tiên ...thì ở truyện cổ người dân tộc thiểu
số ở Gia Lai lại xuất hiện những vị thần (thần sông, thần núi, thần làng, Trời..). Điều
này do đặc trưng dân tộc chi phối, người Việt trọng nhân nghĩa, sáng tạo ra ông Bụt,
ông Tiên như là đấng tối cao, sáng suốt để giải quyết mọi vấn đề, nhất là khi con
người gặp nạn hay khó khăn. Còn trong tâm thức của người Jơ rai, họ tin rằng thế
giới tự nhiên là muôn màu muôn vẻ, có một lực lượng vô hình có quyền năng vô hạn
ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống họ, họ tin rằng có một thế giới nữa tồn tại song
song với cuộc sống của họ, cho nên họ cảm thấy rất gần gũi nhưng lại có phép màu.
Lực lượng vô hình ấy được qui tụ ở khái niệm Yang (thần) của người Jơ rai. Theo
51
quan niệm của họ, có rất nhiều thần tồn tại như thần ruộng nương (yang hma), thần
sét (yang ktan), thần bến nước (yang pên ia),…những thần này luôn gắn chặt với
cuộc sống của họ. Văn hóa tâm linh còn gọi là văn hóa tôn giáo hay tín ngưỡng thể
hiện mối quan hệ của con người vào những điều không thấy được nhưng tin là có
thật, qua đó thể hiện vũ trụ quan, thế giới quan và một phần nhân sinh quan của con
người. Trong thời kì khoa học kĩ thuật chưa phát triển thì văn hóa tâm linh là phương
thức giải thích và chiếm hữu thế giới siêu hình, góp phần làm cân bằng cuộc sống tư
duy của con người.
52
Tiểu kết chương 2:
Tóm lại nhân vật phò trợ trong truyện cổ của người Ba na, Jơ rai thường xuất
hiện với ý nghĩa là giúp đỡ cho nhân vật chính diện vượt qua những khó khăn thử
thách. Đó có thể là Thần (Trời), đồ vật thần, con vật thần. Tất cả những nhân vật này
xuất hiện phản ánh tư duy nguyên thủy, nền nông nghiệp lạc hậu từ rất xa xưa và
quan niệm về thế giới, về cuộc sống với ước mơ về một xã hội tốt đẹp hơn. Điều này
khác với người Việt ở chỗ yếu tố Phật giáo, Nho giáo chi phối tới tư duy người Việt
nên phảng phất trong câu chuyện hình ảnh nhân vật phò trợ được cụ thể hóa qua hình
ảnh ông Tiên, bà Tiên, ông Bụt.
53
Chương 3. MỘT SỐ MÔ TÍP LIÊN QUAN ĐẾN NHÂN VẬT PHÒ
TRỢ TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH CỦA TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ Ở
GIA LAI
Mỗi câu chuyện là sự kết nối giữa các tình tiết tạo nên chỉnh thể của một hệ
thống cốt truyện. Mô típ đóng vai trò như là tình tiết tạo nên đề tài, tư tưởng của cốt
truyện. Vai trò của mô típ trong truyện cổ tích rất quan trọng. Thông thường, mỗi câu
chuyện được xây dựng bởi nhiều mô típ với các màu sắc khác nhau, có liên quan chặt
chẽ tới nhân vật, cốt truyện, đề tài, tư tưởng.
Ở Việt Nam, có thể kể ra một số công trình đã áp dụng lý thuyết về típ và mô típ
để nghiên cứu như: Truyện kể dân gian đọc bằng type và mô típ (Nguyễn Tấn Đắc
), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á
(Nguyễn Bích Hà), Cổ tích thần kỳ người Việt – đặc điểm cấu tạo cốt truyện
(Tăng Kim Ngân), Nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam theo bảng mục lục
tra cứu típ và mô típ truyện cổ dân gian của Antti và Stith Thompson (Nguyễn
Thị Hiền),…
Trong truyện cổ tích nói chung, chúng ta bắt gặp rất nhiều mô típ như: Mô típ
tái sinh của nhân vật, mô típ sinh nở thần kì, mô típ vật thiêng, mô típ kết hôn, mô típ
trả ơn, mô típ đánh nhau, mô típ phản bội…Mỗi mô típ ấy gắn liền với từng kiểu
truyện khác nhau, nó là dấu hiệu nhận biết hay nói cách khác đó là đặc trưng cho
từng kiểu truyện. Ví dụ như, trong các kiểu truyện về người anh hùng chúng ta
thường bắt gặp các mô típ như: Mô típ tái sinh (là những tình tiết dùng để miêu tả
hiện tượng chết đi và sống lại của nhân vật trong truyện kể, bao hàm hình thức sống
lại thành người và cả sống lại thành vật), mô típ vật thiêng (là những tình tiết được
cho hoặc ban tặng để giúp nhân vật chính vượt qua thử thách). Hay là mô típ sinh nở
thần kì (là tình tiết cho thấy sự ra đời kì lạ, khác thường của nhân vật )… Còn trong
các kiểu truyện về người hóa thân thì các mô típ thường xuất hiện là mô típ hóa thân,
lột xác…hay trong kiểu truyện về người mồ côi, chúng ta lại bắt gặp mô típ mẹ ghẻ -
con chồng, mô típ lưu lạc đoàn viên…
54
Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cũng bắt gặp trong cùng một kiểu truyện có những
mô típ không phải là mô típ đặc trưng cho kiểu truyện ấy. Ví dụ như: trong các kiểu
truyện về nhân vật mồ côi thì mô típ tái sinh cũng xuất hiện, nó khẳng định vai trò
của người bất hạnh trong xã hội và cái nhìn nhân văn của con người về cuộc sống.
Trong chương này, chúng tôi tập trung mô tả, phân tích những mô típ liên quan
tới nhân vật phò trợ. Chúng tôi đi sâu, làm rõ ba vấn đề sau:
Một là, mô tả các mô típ liên quan tới nhân vật phò trợ.
Hai là, khái quát các mô típ liên quan đến nhân vật phò trợ dưới dạng mô hình.
Ba là, ẩn dưới những mô típ là nét đặc trưng văn hóa của các dân tộc thiểu số ở
Gia Lai. Tìm hiểu mô típ liên quan tới nhân vật phò trợ, chúng ta thử lí giải các mô
típ ấy dưới góc nhìn văn hóa, đặc điểm các dân tộc .
3.1. Mô típ uống rượu và hút thuốc của nhân vật phò trợ
Trong những lễ hội của người dân tộc thiểu số, nét đặc trưng và phổ biến đó là
luôn hiện hữu hình ảnh của ché rượu cần, còn gọi là rượu ghè (jrăm), hình ảnh trai
gái, già trẻ quay quần bên ché rượu, hút thuốc đã gắn liền với cuộc sống của các dân
tộc thiểu số ở nơi đây. Nó không chỉ là loại đồ uống thuần túy trong các cuộc vui mà
còn ẩn chứa nhiều tín ngưỡng tâm linh trong các dân tộc cư ngụ tại đây.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu rượu cần trở thành một vật linh thiêng trong các
lễ hội, là phần thưởng quý giá cho những ai săn được nhiều con thú nhất, người cao
quý được uống rượu trong những chiếc ghè đẹp nhất, những gia đình nào lưu trữ
được nhiều ghè trong nhà càng thể hiện được sự sung túc, sức mạnh của dòng tộc và
là vật níu kéo được thần linh lâu hơn trong nhà mình, bảo vệ mình trải qua được sự
khắc nghiệt của thiên nhiên. Người nghèo có ít trâu bò chỉ đổi được những cái ghè
sành thông thường, còn gia đình khá giả lại có những chiếc ghè tráng men đủ màu
sắc, có hoa văn cây cỏ, có hình tượng đặc trưng theo ý muốn.
Mô típ uống rượu và hút thuốc là mô típ thường gặp trong truyện cổ các dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên nói chung và ở Gia Lai nói riêng. Qua khảo sát sơ bộ chúng
tôi thấy có ba lần xuất hiện mô típ này. Trước khi làm nhiệm vụ của mình, nhân vật
phò trợ thường làm cơm, thịt gà lấy rượu ra mời nhân vật chính thưởng thức. Sau khi
thưởng thức xong, nhân vật chính sẽ kể lại tất cả những gì mà mà họ muốn được giúp
55
đỡ. Giống như trong truyện: Chàng Reng. Câu chuyện kể ở một làng nọ có hai vợ
chồng là Kul và H’Liu lấy nhau đã lâu mà chưa có con. Một hôm hai vợ chồng đem
cơm lên gặp ông Trời xin được có con. Họ đi hết hai năm rưỡi mới tới nơi được. Tới
nơi hai vợ chồng được ông Trời đón tiếp rất nồng nhiệt, mời hút thuốc, uống rượu,
thết đãi no say, nói chuyện thân mật. Khi ra về, ông Trời hỏi cần mấy người con rồi
cho bấy nhiêu nhánh thuốc, rồi dặn cứ hai năm ăn một nhánh sẽ có con.
Trong một số trường hợp, nhân vật phò trợ sẽ không đồng ý với ý định của nhân
vật chính, phản ứng lại ý định ấy là họ thường đánh nhau. Nhưng trước khi đánh nhau
họ mời nhau hút thuốc, uống rượu. Cũng trong câu chuyện chàng Reng. Sau khi
chàng được ra đời, chàng muốn tới xin Thần Nước lấy con gái Thần làm vợ nhưng
Thần Nước không đồng ý. Trước khi vào nhà chơi, Reng được mời hút thuốc, nói
chuyện bảy ngày, bảy đêm sau đó Reng nói ý định của mình nhưng Thần Nước vẫn
không đồng ý. Hai người đánh nhau, ngồi nghỉ hút thuốc rồi lại đánh nhau triền miên
từ năm này sang năm khác, đánh nhau tới nỗi con cái họ đã cao lớn.
Mô típ uống rượu hút thuốc thường đi kèm với nhau, chúng phản ánh một nét
văn hóa đặc trưng của đồng bào Tây Nguyên. Trong truyện cổ, chúng ta thấy nhân
vật phò trợ dù trong trường hợp nào trước khi bắt tay vào công việc họ đều mời nhau
ăn uống, hút thuốc uống rượu. Giống như một nghệ nhân thổi hồn vào một tác phẩm
nghệ thuật nào đó, cái ghè, cái cần thuốc cũng như vậy, đối với người dân tộc thiểu
số nó là biểu tượng của sự mạnh mẽ, nó làm cho con người “say” trong mỗi cuộc vui,
làm vơi đi nỗi buồn, bớt đi sự nhọc nhằn trong cuộc sống.
Đối với mô típ hút thuốc và uống rượu của nhân vật phò trợ thường được khái
quát thành dạng thức sau:
Con người tìm tới nhân vật phò trợ để xin được giúp đỡ
Nhân vật phò trợ mời hút thuốc, uống rượu
Nhân vật phò trợ thử thách Nhân vật phò trợ không thử thách
Con người được toại nguyện
56
Đã trở thành một tín ngưỡng cho nên uống rượu hút thuốc trở thành một nét văn
hóa đặc trưng của đồng bào các dân tộc thiểu số. Ngày nay, chúng ta đặt chân tới
vùng đất Gia Lai, tới các buôn làng của người Ba na, Giơ rai, chúng ta sẽ được mời
uống rượu, hút thuốc, chung vui với đồng bào nơi đây.
Chúng ta sẽ khó lòng từ chối bởi sự hiếu khách của họ. Đồng thời cũng vì xuất
phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, thần ở mọi nơi trong nhà, họ cho rằng khách tới
nhà mà không thết đãi thì sẽ bị Yàng phạt: làm cho đau bụng, bệnh tật, không có
nhiều lúa, nhiều trâu, nhiều bò…Ngay cả thần linh – đáng tối cao nhất cũng không
thể không uống rượu, hút thuốc cùng với họ trong ngày vui. Phải chăng đây là lí do
tại sao trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, hình ảnh nhân vật phò trợ
uống rượu, hút thuốc trước khi ban phép thuật hoặc ra tay đánh lại thế lực xấu, cứu
giúp buôn làng ?
3.2. Mô típ hóa thân của nhân vật phò trợ
Mô típ hóa thân là mô típ thường gặp trong truyện cổ tích. Theo nghiên cứu của
chúng tôi, trong truyện cổ tích sự hóa thân của nhân vật thường được chia làm ba
loại:
Thứ nhất: Nhân vật sống lại hóa thân thành người.
Thứ hai: Nhân vật hóa thân thành người sau khi đã hóa thân thành nhiều hình
dạng khác nhau.
Thứ ba: Nhân vật hóa thân thành vật.
Sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối tuy nhiên trong một phạm vi nào
đó, chúng ta có thể thấy sự hóa thân thành người thường xuất hiện nhiều hơn. Điều
này luôn đúng ngay cả trong truyện cổ tích và trong truyền thuyết. Nó phản ánh quan
niệm của nhân dân về sự bảo vệ cái Thiện.
Như trên đã nói thì tất cả các nhân vật phò trợ được tái sinh do đầu thai hay hóa
thân đều là những con người hiền lành, nhân hậu, có phép thuật, thường hóa thân để
giúp con người vượt qua thử thách. Nếu như nhân vật chính thường hóa thân thành
những con người hiền lành, nhân hậu nhưng cả tin một cách ngây thơ vào người khác
thì nhân vật phò trợ thường hóa thân thành dạng người hiền lành để giúp cho nhân
vật chính nhận ra được sự cả tin ngây thơ ấy.
57
Trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, dạng thức hóa thân của
nhân vật phò trợ thường trong vai một cụ già tóc bạc trắng, khoan thai, chậm rãi, hỏi
chuyện nhân vật chính. Chẳng hạn như trong câu chuyện Voi và Kiến. Voi nghênh
ngang khắp nơi không biết nể sợ ai bao giờ, gặp ai cũng đá và giẫm không thương
tiếc. Kiến và Kì nhông là những loài vật nhỏ bé vô cùng lo sợ. Chúng ở dưới đất bị
Voi giẫm lên chết rất nhiều, leo lên cây cũng không thoát khỏi cái vòi của nó. Mỗi
lần Voi quay cái vòi của mình lên cành cây, quất vài lần thì kiến và kì nhông chết
nhiều vô kể. Thấy tội nghiệp những loài vật bé nhỏ nên ông Trời hóa thân thành
người, đã đứng ra làm người “cầm cân nảy mực” xử lý việc cho kiến và kì nhông.
Bằng cách nói chuyện nhẹ nhàng và chỉ ra cho Voi lỗi lầm của mình và dọa sẽ trị tội
nếu không nghe lời, ông trời giúp kiến và kì nhông thỏa mong muốn của mình. Nói
xong ông trời bận việc nên biến mất ngay lúc đó còn Voi lúc đầu vẫn ngông nghênh
nhưng sau đó thì hiền lành làm theo những gì ông trời bảo.
Hay như trong câu chuyện Chiếc quạt thần. Nghe tin Y Rít giàu có, vợ đẹp, các
tù trưởng trong làng có ý đinh cướp của cải, lấy quạt thần và bắt vợ Y Rít. Y Rít ở
dưới xuôi biết chuyện nhờ chiếc nhẫn thần báo mộng và đi tìm vợ. Y Rít đi khắp nơi,
vượt qua suối, qua song, vượt qua gian nguy, sợ hãi rồi đến một vùng nước xanh
biếc, chàng không tài nào qua được. Ở trên cao, ông Trời phơi áo đỏ, nhìn xuống trần
gian thấy chàng không qua được liền biến thành ông già, bay xuống bảo với Y Rít
đường đi. Nói xong, ông già biến mất, Y Rít tỉnh dậy làm theo lời ông già dặn. Lúc
khó khăn ấy, cá giúp chàng đi lại, chuột giúp chàng tìm quạt thần, nhím đào đường
ngầm, mèo và chó đùa giỡn để không bị phát hiện. Cuối cùng, nhân vật phò trợ
thường xuất hiện và biến mất trong chốc lát. Kết quả cuối cùng mà nhân vật phò trợ
giúp không nằm ngoài qui luật “nhân quả”, cuộc sống con người lại trở nên tốt đẹp
hơn.
Tiềm ẩn bên trong những con người hiền lành ấy cũng tiềm ẩn một khả năng
chịu đựng ghê gớm với một sức sống dai dẳng, mãnh liệt mà không một thế lực gian
ác nào có thể tiêu diệt được. Dù có bị truy sát đến đường cùng, họ cũng tìm mọi cách
đấu tranh để bảo vệ cho sự tồn sinh của cái Thiện. Cuối cùng thì cái thiện cũng thắng,
người thiện cho dù đã bị hãm hại thì cũng nhận được hạnh phúc viên mãn. Chẳng hạn
58
như trong truyện Chiếc quạt thần. Trải qua muôn vàn khó khăn cuối cùng Y Rít
cũng tìm được vợ, quạt thần giúp chàng lấy lại nhà cửa, lợn gà, tôi tớ, chiêng ché và
sống cuộc đời hạnh phúc. Cũng giống như kết quả như vậy trong câu chuyện Kiến và
Voi muôn loài từ đó có cuộc sống thuận hòa, yêu thương nhau, không ai bắt nạt ai
được nữa.
Mô hình của mô típ hóa thân liên quan đến nhân vật phò trợ được mô tả như
sau:
Con người gặp khó khăn
Cầu xin sự giúp đỡ của nhân vật phò trợ
Nhân vật phò trợ xuất hiện
Xuất hiện trong giấc mơ của con người Xuất hiện trong hiện thực
Biến dạng thành người (ông già, râu bạc)
Con người được toại nguyện
Sự hóa thân của các nhân vật phò trợ trong cổ tích là biểu hiện của lòng yêu
thương con người, sự cảm thông sâu sắc của dân gian với những số phận bất hạnh,
những con người hiền lành luôn gặp rủi ro hay với những mối tình éo le của những
con người không có quyền được lựa chọn cho mình hạnh phúc. Kết thúc có hậu của
truyện cổ tích phản ánh ước nguyện sâu xa của con người về cuộc sống hạnh phúc.
3.3. Mô típ vật thiêng của nhân vật phò trợ
Mô típ vật thiêng thường xuất hiện thường xuyên trong truyện cổ của các dân
tộc thiểu số không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả những các dân tộc cùng chung ngữ
hệ Nam Đảo ở các nước như: Inđônêxia, Malaixia.
Nhân vật phò trợ thường có sức mạnh vô biên và nắm giữ trong tay của mình
những vật thiêng vô giá. Những vật thiêng ấy có thể có phép màu hoặc không có
nhưng đó là vật báu và sức mạnh của nó là vô biên. Chúng tôi thống kê nhân vật phò
59
trợ có vật thiêng trong truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở nơi đây như sau:
Thần linh hiện lên chỉ bảo và ban cho chiếc sáo thần để chàng H Rít có thể chinh
phục được con gái của vua Thủy tề (Chiếc sáo thần kì), ông Trời ban nước thần để
vợ chồng nghèo có thể thỏa nguyện ước mong có được con cái (Chàng Reng), Già
Pôm có lọ nước thần giúp chàng trai Y Rít cưới vợ đẹp. Cũng trong câu chuyện về bà
Pôm có đứa cháu tên là Y Rít, nhờ có chiếc áo phép thiêng mà vợ chàng đưa cho mà
chàng đã vượt qua được hai lần thử thách (Bà Pôm và Y Rít)…
Khi khảo sát về những vật thiêng của nhân vật phò trợ thì hình ảnh lọ nước thần
xuất hiện khá nhiều trong truyện cổ tích. Xuất hiện ít nhất 4 lần trong 24 câu chuyện.
Sự xuất hiện này cho phép chúng ta liên tưởng tới vai trò của nước đối với tiềm thức
và cuộc sống của các dân tộc thiểu số ở nơi đây.
Một điểm đặc biệt đáng lưu ý là khi ban phát vật thiêng, nhân vật phò trợ không
ban phát vàng, bạc, châu báu. Đúng hơn là những thứ của cải vật chất liên quan đến
tiền không xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai.
Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân
chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được
xuất hiện. Quá trình phân chia các bộ tộc của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai diễn ra
khá chậm cho nên sự hình thành các giai cấp xã hội muộn màng hơn so với người
Việt.
Mô hình của mô típ vật thiêng liên quan đến nhân vật phò trợ được mô tả như
sau:
Nhân vật phò trợ có vật thiêng
Nhân vật phò trợ ban vật thiêng cho con người
(Có thể là lọ nước thần, vật thần, không có vàng)
Con người được toại nguyện
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy các dân tộc Nam Đảo xưa kia vốn sinh
sống ở các vùng biển. Sau này vì nhiều lí do như sự xâm chiếm của các dân tộc khác
đe dọa sự sống của họ, hay vì điều kiện sống ở biển khá khắt khe nên họ bắt đầu di
60
tản tới các vùng đất liền, định cư ở vùng núi cao hoặc ven sông, ven suối, những ngôi
làng dù làm trên núi thì nóc nhà luôn có hướng ra biển. Họ tới vùng đất mới mang
theo những dấu ấn văn hóa các dân tộc . Cho nên trong một số câu chuyện họ thường
đề cập tới nước, ngay các vị thần của họ cũng có thần Nước, nước giúp họ trồng trọt
suôn sẻ cho nên có lễ hội cầu mưa, nước xuất hiện trong các vò rượu cần, nước giúp
chữa trị bệnh tật, đem lại cuộc sống yên bình cho họ. Họ hướng về Nước như một cổ
mẫu, ở đó họ luôn hướng về nguồn gốc các dân tộc với những vốn văn hóa đặc
trưng.
3.4. Mô típ đánh nhau của nhân vật phò trợ
Trong truyện cổ tích, chúng ta thường bắt gặp mô típ đánh nhau của các nhân
vật. Nguyên nhân xảy ra các cuộc ẩu đả có thể là do tranh chấp về quyền lợi, tranh
chấp về của cải vật chất, tranh chấp về sức khỏe…Nhưng có một nguyên nhân tuy
không mấy xa lạ nhưng lại có ý nghĩa hết sức quan trọng, đó là các nhân vật thường
đánh nhau vì người đẹp.
Hầu hết các truyện cổ tích Việt Nam, các nhân vật chỉ được kể ngắn gọn, chung
chung về vẻ đẹp hình thức nên nhân vật đẹp như thế nào mỗi người kể, người nghe sẽ
có những liên tưởng riêng. Còn nhân vật người phụ nữ đẹp được miêu tả rất chi tiết
trong một số truyện cổ tích của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai, đây là nét khác biệt
với truyện cổ tích Việt…Nhưng đẹp nhất vẫn là nàng Mặt Trời- một người con gái
đại diện cho sức mạnh vô biên, quyền lực mạnh mẽ của phụ nữ. Câu chuyện kể về ba
anh em nhà Di Ông, Dây Núi. Di Ông là anh cả, người to lớn, rất khỏe, đã đến tuổi
lấy vợ nhưng chàng không thể thích ai vì không ai đẹp cả. Nghe em nói người mà anh
mơ ước chỉ có nàng Mặt trời thôi. Nàng mặt trời tròn trĩnh, mái tóc dài mượt óng, mắt
sáng như sao, má đỏ hồng. Chính vẻ đẹp này khiến cho bao chàng trai phải bỏ vợ, rời
buôn làng lên đường xin cưới nàng làm vợ (Di Ông đi lấy Mặt Trời). Một khi khát
vọng mong muốn được lấy người đẹp không được toại nguyện tất yếu sẽ xảy ra các
cuộc ẩu đả. Nhân vật trong các cuộc ẩu đả ta thường thấy là các tù trưởng lớn mạnh
nhưng chúng ta cũng không mấy xa lạ với hình ảnh các tù trưởng đánh nhau với các
vị thần để cướp người vợ xinh đẹp của các vị thần. Trong câu chuyện Di Ông đi lấy
Mặt Trời cũng vậy. Thần Sét và Di Ông đánh nhau vì Di Ông đòi cướp nàng Mặt
61
Trời xinh đẹp, vợ của thần Sét nên thần Sét đã ra tay đánh lại dữ dội. Cuộc chiến
không cân bằng sức đã triền miên từ ngày này sang ngày khác, từ tháng này sang
tháng khác, năm này sang năm khác nhưng rốt cuộc chẳng ai chịu thua ai, chẳng ai
nhường ai. Lúc này, thần Mặt Trời- cha của nàng Mặt Trời đứng ra phân giải bằng
cách nặn ra một cô gái đẹp giống nàng Mặt Trời, sau đó hóa phép con gái thành
tượng để cho hai người chọn cho mình một cô gái. Cuối cùng, Di Ông chọn đúng
nàng Mặt Trời còn thần Sét mất vợ nên trong lòng rất tức giận. Cách kết thúc câu
chuyện, khiến chúng ta khá ngỡ ngàng nhưng có lẽ là do cách xây dựng nhân vật của
dân gian. Người anh hùng trong truyện không chỉ đẹp, không chỉ có sức khỏe phi
thường mà còn có thể lấy được người vợ xinh đẹp. Có lẽ do muốn đề cao vai trò của
người anh hùng trong đời sống của buôn làng, đó là vị thần “sống” duy nhất của dân
làng nên họ phải tô đậm tính chất người anh hùng, càng tăng nên sự ngưỡng mộ của
mọi người đối với vị anh hùng của họ. Vẻ đẹp của các nàng khiến ai cũng khao khát,
ngay cả các vị thần đầy quyền uy - vị thần Sét, thần Mặt Trời cũng đắm say trước
dung nhan của người đẹp. Từ việc thần ngợi ca cái đẹp đến chủ ý cướp đoạt cái đẹp là
một khoảng cách rất gần cho nên xảy ra đánh nhau cũng là tất yếu.
Đôi lúc, sự mâu thuẫn của các nhân vật chính với các vị thần có thể là do các vị
thần không chấp nhận ý muốn của nhân vật chính nên họ đánh nhau. Đây có thể là
cách để kiểm nghiệm lại sức mạnh của các tù trưởng, hay nói cách khác đó có thể là
sự thử thách mà các tù trưởng phải vượt qua. Đó là hình ảnh chàng Reng đánh nhau
với thần Nước. Chàng Reng muốn cưới con gái xinh đẹp của thần Nước nên chàng
tới nhà thần để xin thần cho lấy con gái. Reng gặp rất nhiều khó khăn, vượt qua rất
nhiều cửa ải mới tới nhà thần. Trước khi vào nhà chơi, Reng được mời hút thuốc, nói
chuyện bảy ngày, bảy đêm sau đó Reng nói ý định của mình nhưng Thần Nước
không đồng ý. Hai người đánh nhau, ngồi nghỉ hút thuốc rồi lại đánh nhau. Sau đó
Reng vượt qua thử thách và lấy được con gái thần Nước, hai người rẽ nước lên trần
gian sinh sống.
Ở một số câu chuyện, đôi khi các nhân vật đánh nhau vì ghen tức tài năng. Các
vị thần cũng ghen tức tài năng của nhân vật chính nên hung hăng ỷ thế tới đánh nhân
vật chính. Như trong câu chuyện: Hai chàng trai lành nghề kể về một cụ già góa vợ,
62
có hai người con trai, người nào cũng khéo tay. Anh cả dựng nhà rất đẹp, từng cái
cột, cây nêu anh đều làm trơn tru và đẹp đẽ. Nhưng tài gọt đẽo của anh là nhất. Còn
người em út lại giỏi tạc tượng gỗ. Một hôm, người bố đi rẫy, không may bị cọp vồ
chết, dân làng sợ không ai dám viếng thăm, giúp đỡ gì, hai an hem đành lúi húi đẽo
quan tài, khâm niệm cha rồi cùng nhau khiêng đi chôn. Thương cha quá, họ bàn nhau
nghỉ việc để làm nhà mồ cho cha. Trong khi hai anh em làm mệt quá, ngủ thiếp đi,
trời vén mây xuống, nhìn thấy người trần mà giỏi quá bèn sai thần sét xuống đánh
nhau.
Mô hình của mô típ đánh nhau liên quan đến nhân vật phò trợ được mô tả như
sau:
Nhân vật phò trợ lúc đầu trợ giúp con người, về sau đánh nhau với con người
Vì người Đẹp Vì ghen tị tài năng
Con người thắng thế
Cuộc đánh nhau nào cuối cùng cũng kết thúc phần thắng thuộc về con người, đó
là những con người nghèo khổ, hiếu thảo. Một ý nghĩa giàu tính nhân bản càng khẳng
định ý nghĩa về cái Thiện, chiến đấu và bảo vệ nó là điều cần làm trong cuộc sống.
Sự tất thắng của cái Thiện mang tới cho chúng ta sự cảnh giác về âm mưu xấu xa,
lòng ghen tị vô đối của con người trong cuộc sống.
3.5. Mô típ kết hôn của nhân vật phò trợ
Đối với con người việc dựng vợ gả chồng, thành gia lập thất là một vấn đề hệ
trọng đối với những người nghèo thì ước mơ ấy lại là khó khăn lớn, ước mơ có được
hạnh phúc gia đình êm ấm là khát khao muôn đời của con người được gửi gắm qua
các truyện cổ tích. Mô típ sự kết hôn xuất hiện khá phổ biến trong truyện cổ tích các
dân tộc thiểu sốở Gia Lai.
Nhân vật phò trợ biến thành con vật và kết hôn với nhân vật chính là một trong
những biểu hiện của mô típ sự kết hôn. Lấy nhân vật mang lốt thường là nhân vật
người con gái út hiền lành, tốt bụng trong gia đình giàu có. Nhân vật phò trợ mang lốt
luôn phải phấn đấu để khẳng định mình với những thách thức lớn: gia đình nghèo
63
khó, bị phân biệt đối xử. Trong các câu chuyện chúng ta thấy cái lốt của nhân vật phò
trợ là thách thức lớn khi nhân vật đó muốn bảo vệ tình yêu chính đáng của mình. Có
được hạnh phúc lứa đôi, cái lốt sẽ được cởi bỏ. Đó là nhân vật chàng cóc. Ngày xưa ở
làng nọ có một cô gái nghèo. Gặp hôm cúng thần lúa, theo đứng tục lệ người Jo- Rai,
hôm ấy mọi người kiêng không được làm rẫy. Bởi vậy già trẻ gái trai rủ nhau đi bắt
cá, hái rau. Cô gái nghèo H Lui đứng tựa chân cầu thang, buồn tủi nhìn dân làng tấp
lập đi lại. Trong một lần đi hái lá với tốp thanh niên trong làng, H Lui đã mang thai,
đứa con sinh ra là cậu bé cóc xấu xí. Sau này cóc lấy được một người vợ đẹp lại giàu
có tên là H Bia Pang. Vì sĩ diện gia đình nên bố mẹ H Bia đã đuổi vợ chồng Cóc ra
khỏi làng.
Chuyện Nàng trứng gà cũng vậy, câu chuyện kể về hai bà cháu nghèo khổ là bà
Pôm và cháu HRit. Thấy thương chàng trai nghèo mà tốt tính, nàng Trứng gà đã xuất
hiện để giúp chàng giặt đồ, giã gạo, xách nước nhưng sau khi làm xong việc thì nàng
lại chui vào vỏ trứng y như trước. Chàng trai thấy lạ bèn rình và bắt được nàng. Từ
đó nàng trở thành vợ HRit.
Qua đây, tác giả dân gian khẳng định quyền hạnh phúc của mỗi người trong xã
hội và quan niệm về sự hài hoà đạo đức và thẩm mỹ của con người.
Nếu như trong kiểu truyện người dũng sĩ thường gắn với mô típ hôn nhân kì lạ.
Điều này làm tăng lên vẻ đẹp linh thiêng, kì vĩ của người anh hùng.
Ở một số câu chuyện, nhân vật phò trợ nhìn thấy được hoàn cảnh nghèo khổ của
nhân vật chính hoặc thấy được những điểm yếu ví dụ như: lười biếng làm việc, ăn
nhiều mà không lao động…thì lúc này nhân vật phò trợ sẽ ra hóa phép cho con gái
mình xuống trần gian để lấy nhân vật chính, giúp nhân vật thấy được nhược điểm của
mình, từ đó biết làm ăn, lao động tạo ra của cải. Xong nhiệm vụ, nhân vật phò trợ lại
hóa phép để con cái họ được trở về thiên đàng. Những câu chuyện thuộc dạng thức
này thường mang một ý nghĩa giáo dục rất sâu sắc, đúng với câu ca dao:“Có làm thì
mới có ăn/ Không dưng ai dễ đem phần tới cho”.
Câu chuyện Chàng Lười kể về chàng trai lười biếng, ăn xong là ngủ và ngủ từ
ngày này sang ngày khác, mùa này sang mùa khác không hề có vấn đề gì. Tiên trên
64
trời cao nhìn thấy chàng trai nghèo mà lười biếng nên hóa phép cho con gái mình
xuống nhà Pơ Tao ở và trở thành con gái Pơ Tao.
Câu chuyện về chàng Đam A Lách cũng là một bài học sâu sắc về sự siêng năng
làm lụng của con người. Có hai vợ chồng đến già cả mới sinh được một mụn con trai,
thằng con trai chẳng biết làm gì, ăn xong lại nằm. Một hôm, bố mẹ đi làm hết chỉ còn
mình A Lách ở nhà, chàng thấy một cô gái xuất hiện dọn dẹp, xin được làm vợ Lách.
Có một lần thấy con trai lười quá nên hai vợ chồng đuổi nó ra khỏi nhà cho biết cuộc
sống ngoài đời. Khi A Lách đi thì vợ cũng đi theo, hai vợ chồng sống cuộc đời bình
yên. Vợ của chàng – Maich là người có phép thần thong, đã làm A Lách thay đổi tính
cách, làm ăn siêng năng, chăm chỉ hơn.
Sự kết hôn lạ lùng ấy có thể cho chúng ta thấy sự phân định của các thế giới
theo đúng bản chất của truyện cổ tích. Khi các cõi thế giới chưa có sự phân định rách
ròi thì tư duy nguyên hợp thể hiện rõ trong nhân sinh quan, thế giới quan của truyện
cổ tích. Vì vậy, hôn nhân là con đường tự nhiên nhất để giao hòa giữa các cõi và tìm
được tiếng nói chung. Mỗi cõi đều có một đặc tính riêng nhưng khi chưa thần thánh
hóa, tôn sùng hóa thì khoảng cách giữa con người thường và thần là rất hữu hạn.
Mô hình của mô típ kết hôn liên quan đến nhân vật phò trợ được mô tả như sau:
Nhân vật phò trợ kết hôn với con người
Đội lốt con vật Giữ nguyên hình dạng là người bình thường
Cởi lốt
Giúp con người vượt qua khó khăn
Nhân vật phò trợ kết hôn với con người và kết quả của cuộc hôn nhân này thông
thường, đó là sự ra đời của một vị thần linh mới nhưng dạng thức này không thấy
xuất hiện trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Cũng như vậy, việc
nhân vật phò trợ kết hôn với người thường xuất hiện nhiều hơn so với việc nhân vật
phò trợ kết hôn với những đối tượng có địa vị cao trong xã hội. Sự xuất hiện những
65
tầng lớp khổ cực trong xã hội khiến cho con người luôn khát khao được vượt lên
hoàn cảnh, thay đổi cuộc sống của mình. Dạng hôn nhân này gặp gỡ những dạng hôn
nhân trên trong việc kéo thế giới thần linh gần lại với thế giới con người. Điều này
cũng giúp giải thích vì sao nhân vật phò trợ được kết hôn với đối tượng là người
nghèo khổ, bất hạnh trong xã hội loài người.
Ngoài ra dạng thức nhân vật phò trợ kết hôn với người thường giúp con người
thay đổi cuộc sống, thay đổi tính cách nhưng không thấy xuất hiện kết hôn với người
thường vì mục đích chống lại ngoại xâm hay chống lại thế lực đen tối. Không xuất
hiện dạng thức này một lần nữa khẳng định sự ra đời muộn của các giai cấp xã hội
của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai. Hơn nữa càng khẳng định cuộc sống yên bình trên
vùng đất cố hữu của các dân tộc thiểu sốnày. Phải chăng đó là ước mơ của con người
bất hạnh trong cuộc sống, gắn bó với nhân vật phò trợ là tiến gần với những điều tốt
đẹp trong cuộc sống.
Thời xa xưa, dân bản địa có quan niệm vạn vật hữu linh, vạn vật tương giao nên
con người không chỉ nói chuyện, hiểu được suy nghĩ, tình cảm của muôn loài mà con
người còn có thể kết hôn với vật, với thần linh. Hôn nhân giữa người với vật cho thấy
mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với môi trường tự nhiên, với vạn vật bởi“người
sống trong rừng, giữa cây cối và muông thú, người tin rằng loài người cũng chỉ là
một trong muôn loài”. Mô típ sự kết hôn là một trong những mô típ được biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng tất cả đều phản ánh vai trò quan trọng của hôn
nhân trong cuộc sống của người dân bản địa.
66
Tiểu kết chương 3:
Trong truyện cổ của các dân tộc thiểu sốở Gia Lai cũng có những mô típ chung
của truyện cổ thế giới và cũng có những đặc điểm riêng mang đậm dấu ấn của truyện
cổ của các dân tộc ở đây. Liên quan tới nhân vật phò trợ, các mô típ thường xuất hiện
trong truyện thường là các mô típ sau: Mô típ uống rượu và hút thuốc của nhân
vật phò trợ, mô típ hóa thân của nhân vật phò trợ, mô típ vật thiêng của nhân
vật phò trợ, mô típ đánh nhau của nhân vật phò trợ, Mô típ kết hôn của nhân
vật phò trợ. Vai trò của nhân vật phò trợ đối với nhân vật chính rất quan trọng, nó
khẳng định nhân vật được giúp đỡ không hề cô độc trên hành trình vượt qua thử
thách của mình, nó thể hiện vai trò của cái Thiện luôn thắng cái Ác dù cuộc sống
Thiện - Ác phân tranh.
Các mô típ liên quan đến nhân vật phò trợ đóng vai trò quan trọng trong việc
cấu tạo nên cốt truyện. Cái yếu tố quyết định tới sự thành bại trong các cuộc chiến là
cái Thiện. Trên đây là toàn bộ những mô típ mà chúng ta bắt gặp trong những câu
truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Điều khác biệt giữa các nhân vật trong
truyện cổ của người Việt với truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai là nhân vật
phò trợ thường giúp đỡ với những cử chỉ thân thiện, nhẹ nhàng và cũng thường ít xảy
ra ẩu đả, nhân vật phò trợ nói gì và yêu cầu nhân vật chính như thế nào thì nhân vật
chính luôn nghe theo một cách tuyệt đối, nếu không nghe thì thường thất bại hoặc
gặp đau khổ còn trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số dù là thần nhưng trong các
cuộc chiến công bằng cũng không được nhân nhượng, nhân vật chính có thể nghe
theo hoặc có thể “phản bác” lại. Điều này khẳng định vai trò của người anh hùng
trong đời sống của dân làng và quan niệm về cuộc sống của họ, đối với họ sự công
bằng là phép thuật và “vị thần” tối ưu giúp con người luôn luôn sống tốt hơn, ấm no
hơn.
67
PHẦN KẾT LUẬN
1. Qua quá trình đi thực tế tại huyện Kbang, chúng tôi nhận thấy nguồn truyện
cổ thực tế ở các buôn làng dường như có sự chênh lệch nhau so với những câu truyện
có sẵn trên văn bản. Thực tế ở ngoài có khá nhiều câu chuyện về các đề tài khác
nhau. Có thể do điều kiện khách quan chưa cho phép nên chúng ta vẫn chưa khai thác
hết kho tàng truyện cổ tích ở đây.
2. Nhân vật phò trợ xuất hiện trong truyện cổ của người dân tộc ở Gia Lai
thường xuất hiện với vai trò là giúp đỡ, phò trợ cho nhân vật chính diện vượt qua
những khó khăn thử thách. Đó có thể là Thần (Trời), đồ vật thần, con vật thần. Vai
trò của thần, tín ngưỡng đa thần là những biểu hiện của những nét văn hóa lâu đời
của các dân tộc nơi này được chuyển hóa vào nhân vật phò trợ. Sự xuất hiện của
nhân vật phò trợ, đấng thần linh đã hóa giải tất cả bế tắc trong cuộc sống. Sự xuất
hiện này không chỉ có trong truyện cổ mà còn xuất hiện trong truyền thuyết nữa. Xu
hướng thần thánh hóa, tôn thờ các vị thần linh là điều tất yếu trong truyện cổ của các
dân tộc thiểu số ở Gia Lai và chi phối đến vai trò nhân vật phò trợ khá lớn.
3. Nếu dựa vào chức năng để phân loại nhân vật như trong HTH của Propp thì
chúng ta thấy rằng sự xuất hiện của nhân vật phò (chức năng 12,14) cũng tuân theo
mô hình cấu tạo của truyện cổ thế giới nói chung, truyện cổ Việt Nam nói riêng. Tuy
nhiên, ở một số truyện cũng có điểm khác biệt. Trong truyện cổ của các dân tộc thiểu
số ở Gia Lai, sau khi nhân vật chính nhận được sự giúp đỡ của nhân vật phò trợ
thường có sức mạnh phi thường có sức khỏe, có phép thuật nhưng lại không có được
của cải và sự giàu sang. Tính “phi vật chất” vẫn còn đóng vai trò lớn trong truyện cổ
của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai. Thêm một trường hợp đáng lưu ý, nhân vật phò
trợ ít xuất hiện với những lời nguyền, thần chú mà xuất hiện để đánh nhau hoặc để
phò tá, hỗ trợ cho nhân vật chính. Nhân vật phò trợ đôi khi cũng giao chiến với nhân
vật chính thâu đêm suốt sáng, từ năm này sang năm khác, từ ngày này sang ngày
khác. Cách giao chiến ấy cũng là sự thử thách đối với nhân vật chính, đồng thời
luyện tập cho nhân vật chính vượt qua được những sự thử thách ban đầu khi tới
những cuộc giao chiến chính thức.
68
4. Một số truyện, nhân vật phò trợ luôn sẵn sàng chuẩn bị tinh thần để hỗ trợ
nhân vật chính nhưng lại bị nhân vật chính từ chối. Nhân vật phò trợ ấy thường là
Rồng. Dấu ấn về Rồng có trong truyện cổ của các dân tộc thiểu số ở Gia Lai đặt ra
cho người đọc những nghi vấn về nguồn gốc, sự ảnh hưởng giao thoa của văn hóa
Trung Hoa. Ngoài những dòng họ là người bản địa, còn những dòng họ khác có liên
quan gì tới người Hoa ở đây không? Có khi nào, người đứng đầu trong một các dân
tộc vốn có nguồn gốc Nam Đảo này là một người có nguồn gốc Trung Hoa chăng?
Hay đây chỉ là những ảnh hưởng nhất thời của nền văn hóa Trung này lên các dân tộc
của họ?Hành động từ chối sự giúp đỡ này cũng cho thấy sự giữ gìn văn hóa các dân
tộc, sự tiếp biến văn hóa ngoại lai không có ảnh hưởng tới đời sống của người bản
địa.
5. Liên quan tới các mô típ của nhân vật phò trợ chúng ta thấy khi nhân vật phò
trợ xuất hiện và giúp đỡ nhân vật chính thường kèm theo các mô típ như: Mô típ
uống rượu và hút thuốc của nhân vật phò trợ, mô típ hóa thân của nhân vật phò
trợ, mô típ vật thiêng của nhân vật phò trợ, mô típ đánh nhau, mô típ kết hôn.
Trong các mô típ ấy, chúng ta thấy ấn tượng nhất là mô típ uống rượu và hút thuốc,
hầu như nhân vật phò trợ nào trước khi ra tay thì thường mời nhân vật chính uống
rượu, hút thuốc. Mô típ đánh nhau vì người đẹp có liên quan tới tục cướp vợ của các
dân tộc thiểu số. Thông thường, các tù trưởng muốn khẳng định vai trò của mình đối
với buôn làng thì phải có uy thế nào đó đối với họ. Tù trưởng đó nhất thiết phải là
người gan dạ, dũng mạnh, phải có nhiều trâu bò, lợn gà và đặc biệt là phải có vợ đẹp.
Từ việc muốn lấy một người vợ đẹp đã làm cho xung đột xảy ra, những cuộc đánh
nhau triền miên không chỉ với các tù trưởng với nhau mà với thần linh cũng vậy.
Phần thưởng xứng đáng cho tù trưởng là một cô vợ đẹp càng khiến cho cuộc giao
tranh trở nên kịch liệt hơn. Cho nên, nhân vật thần linh sau khi giao chiến với nhân
vật chính thường bị mất vợ đẹp, quay sang phò tá nhân vật chính.
69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị An (2003), “Quan niệm về thần và việc văn bản hóa truyền thuyết trong
truyện văn xuôi trung đại”, Thông báo văn hóa dân gian 2002, tr.517-527.
2. Trần Thị An (2005), “ Mối quan hệ tương hỗ giữa truyền thuyết dân gian, tục thờ
cúng và thần tích: Nghiên cứu trường hợp Trương Hống, Trương Hát”, Thông
báo văn hóa dân gian 2002,tr.9-25.
3. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, tái bản, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.
5. Trần Lê Bảo (1998), “Lại bàn về mẫu đề thần thoại trong Tây Du kí”, Văn hóa
dân gian, (4), tr.55 – 59.
6. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hóa dân gian Việt Nam - những suy nghĩ, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
7. Vũ Ngọc Bình (1996), Văn học dân gian Gia Lai, Nxb Sở văn hóa thông tin thể
thao.
8. Vũ Ngọc Bình (chủ biên), Truyện cổ dân gian Gia Lai, Nxb Văn hóa Thông tin
Gia Lai.
9. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập 1), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (quyển 1, 2), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Từ Chi ( 2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và các dân tộc, Nxb Văn
hóa Dân Tộc, Hà Nội.
12. Lâm Hòa Chiếm, Lí Thị Xuân Các, Xuân Huy (1997), Từ điển Việt – Hán, Nxb
Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
13. Thiều Chửu (2005), Hán – Việt từ điển, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
14. Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian, mấy vấn đề phương pháp luận và
nghiên cứu thể loại, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
15. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh.
70
16. Nguyễn Định (1997), “Tìm về nơi đầu tiên của nghề dệt chiếu ở Tuy Hòa”, Văn
hóa dân gian, (2), tr.60 – 66.
17 Nguyễn Định (2006), “ Sự khác nhau giữa hai khái niệm truyện cổ dân gian và
truyện cổ tích”, Văn hóa dân gian, (4), tr.43 – 47.
18. Nguyễn Xuân Đức (1995), “ Cổ tích hay nhại cổ tích”, Văn hóa dân gian, (2), tr.
51 – 52.
19. Nguyễn Xuân Đức (2002), “ Vấn đề phân loại truyện dân gian, Thông báo văn
hóa dân gian 2001, tr.356 – 365.
20. Edward Tylor (2001), Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch, Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, Hà Nội.
21. Nguyễn Minh Hào, Trần Sĩ Nghệ (1997), “Gương mặt một vùng đất”, Văn hóa
dân gian, (1), tr. 92 – 100.
22. Kiều Thu Hoạch chủ biên, Trần Thị An, Mai Ngọc Hồng (2004), Tổng tập văn
học dân gian người Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
23. Kiều Thu Hoạch (2006), Văn học dân gian người Việt góc nhìn thể loại, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
24. Trần Hoàng (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Nguyễn Thị Huế chủ biên, Trần Thị An (2004), Tổng tập văn học dân gian người
Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
26. Rơ Chăm Oanh (2002), Nét đặc trưng văn hóa cổ truyền của người Jơ rai ở Tây
Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
27. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997), Văn học dân gian Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian Việt Nam với sự phát triển xã hội Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Đặng Văn Lung chủ biên, Võ Thị Hảo, Nguyễn Sông Thao (1997), Nghiên cứu
văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Văn học Dân tộc, Hà Nội.
30. Tăng Kim Ngân (1994), Cổ tích thần kì người Việt, đặc điểm cấu tạo cốt truyện
(Viet’s fairy tales, structural characterictics of their plots ), Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
71
31. Trần Đức Ngôn (1981), Nghiên cứu kết cấu truyện cổ tích thần kì Việt theo lí
thuyết hình thái học của Vladimia Iacoplevich Prop, tiểu luận cấp I, bản đánh
máy tại Thư viện Viện nghiên cứu văn hóa, Hà Nội.
gian – Những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
32. Bùi Mạnh Nhị (Chủ biên), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (1999), Văn học dân
33. Hoàng Phê chủ biên (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Pierre Daco (1999), Giải mã những giấc mộng qua ánh sáng Phân tâm học, Nxb
Trẻ, TPHCM,tr.9.
35. Lê Hồng Phong, Truyện cổ Tây Nguyên và những mô tip chung Đông Nam Á dẫn
theo:http:www.vanhoahoc.edu.vn/index.php?option=com
_concent&task=view&id=891&Itermit=72
36. Lâm Tâm – Linh Nga Niek Đam ( 1996), Một số nét đặc trưng của phong tục các
dân tộc Tây Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
37. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí
Minh, TP. Hồ Chí Minh.
38. Ngô Đức Thịnh chủ biên, Vũ Ngọc Khánh, Ngô Văn Doanh, Tăng Kim Ngân
(1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
39. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb
Trẻ, TP. Hồ Chi Minh.
40. Ngô Đức Thịnh, Frank Proschan đồng chủ biên (2005), Folklore một số thuật ngữ
đương đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
41. Nguyễn Thị Bích Thủy (2011), So sánh một số kiểu truyện cổ tích của các dân
tộc thiểu sốsử dụng ngữ hệ Nam đảo ở Việt Nam và Inđônêxia, Luận văn thạc
sĩ văn học, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh.
42. Bùi Văn Tiếng (2001), “Tổng quan văn học dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng”,
Nguồn sáng dân gian, (1), tr.22 – 29.
43. Đỗ Bình Trị (2002), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân gian, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
72
44. Đỗ Bình Trị (2006), Truyện cổ tích thần kì Việt đọc theo hình thái học của truyện
cổ tích của V. Ja. Propp, Nxb Đại học Quốc Gia, TP. Hồ Chí Minh.
45. Võ Quang Trọng (1995), “ Một vài đặc điểm của truyện cổ tích văn học trong
mối quan hệ thể loại với truyện cổ tích dân gian”, Văn hóa dân gian, (2), tr. 47
– 50.
46. Hoàng Tiến Tựu (1983), Mấy vấn đề phương pháp giẳng dạy, nghiên cứu văn học
dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Hoàng Tiến Tựu (1999), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Ty văn hóa và Thông tin Gia Lai- Kon Tum (1981), Bài phác thảo về Fôn-clo một
làng Banah ở Gia Lai-Kon Tum, tr. 252.
49. Valadimir Iakovlevits Propp (2003), Tuyển tập, tập I, Chu Xuân Diên, Phạm Lan
Hương, Nguyễn Kim Loan, Phạm Bích Ngọc, Trần Minh Tâm, Đỗ Đức Thịnh,
Đỗ Lai Thúy, Phan Ngọc dịch, Nxb Văn hóa Dân Tộc, Hà Nội.
50. Valadimir Iakovlevits Propp (2004), Tuyển tập, tập II, Chu Xuân Diên, Nguyễn
Quang Lê, Nguyễn Kim Loan, Trần Thị Phương Phương dịch, Nxb Văn hóa
Dân Tộc, Hà Nội.
51. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc Gia, TP. Hồ Chí Minh.
52. Phan Xuân Viện (2007), Truyện dân gian các dân tộc thiểu số Nam Đảo ở Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ văn học, Trường Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh,
TP. Hồ Chí Minh.
53. V. Guxep (1999), Mĩ học Folklore, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb Đà Nẵng, Tp. Đà
Nẵng.
54. Viện khoa học xã hội Việt Nam (2001), Phần truyện cổ tích (tập 15), Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
73
PHỤ LỤC
GIỚI THUYẾT VỀ CÁCH TRÌNH BÀY
Trong phần này, chúng tôi giới thiệu các truyện chứa nhân vật phỏ trợ trong cổ
tích các dân tộc thiểu sốở Gia Lai dưới dạng tóm tắt. Tên các truyện được sắp xếp
theo trình tự trong bảng chữ cái tiếng Việt. Đầu tiên là những truyện đã được công bố
và sau đó là những truyện cổ tích mà chúng tôi đã sưu tầm.
PHỤ LỤC 1: Tóm tắt văn bản truyện cổ về nhân vật phò trợ trong
truyện cổ tích các dân tộc thiểu sốthiểu ở Gia Lai
1.a.Những truyện đã công bố:
1. Bà Pôm và YRit (Dân tộc
Bà Pôm có đứa cháu tên là Y Rít, cuộc sống nghèo khổ nhưng lúc nào cũng đầm
ấm, hạnh phúc. Một hôm, vừa đi rừng về, Y Rít thấy một cô gái xinh đẹp hóa từ khúc
gỗ ra nhận làm vợ Y Rít. Hai vợ chồng sống hạnh phúc. Một hôm, nghe tin Y Rít có
vợ đẹp nên các tù trưởng dụ chàng đổi vợ lấy 100 con trâu nhưng chàng không đồng
ý. Thấy chàng khăng khăng không đồng ý chúng càng nuôi ý định cướp vợ chàng.
Nhờ có chiếc áo phép thiêng mà vợ chàng đưa cho, chàng đã vượt qua được hai lần
thử thách. Đến lần thứ ba thì nhờ có Voi thần giúp sức, chàng hạ gục được tên tù
trưởng giàu có ấy.
2. Cây tông lông (Dân tộc Jơ rai)
Câu chuyện kể về một chàng trai có sức mạnh phi thường nhưng được sinhra từ
một con chim phượng. Con chim này được bố mẹ nuôi chăm sóc rất chu đáo nhưng
vì hai ông bà già không nuôi nổi vì con chim ăn nhiều nên hai ông bà bảo chim tự
kiếm ăn. Chim bay qua rừng xanh cởi lốt thành một chàng trai khỏe mạnh, đẹp đẽ và
có sức mạnh phi thường. Chàng trai ấy được Voi, hạt cây tông lông giúp nên đã đánh
gục con chim phượng hoàng đực kia. Sau này chàng mới biết đó là cha mình. Chàng
đã cưới một cô gái xinh đẹp làm vợ nhưng cô gái ấy nấu ăn quá chậm, không đủ cho
chàng ăn nên chàng đi hỏi nàng mặt trời làm vợ. Chàng phải đánh nhau với thần Sét-
chồng nàng Mặt trời nhưng thất bại. Lần sau, chàng kiên quyết đánh cho bằng được.
74
Và chàng đã giành thắng lợi nhờ có hạt tông lông giúp sức. Cuối cùng chàng đem hạt
tông lông trồng ở một góc trời sống hạnh phúc bên nàng mặt trời mãi mãi.
3. Con Sâu đá
Con sâu đá là kết quả của một lần đi bắt cá, bắt tôm của bà Pôm. Chiều về, ai
cũng đầy những cá tôm nhưng riêng bà Pôm chỉ được mỗi con sâu đá. Con trai bà
thấy thương con sâu đá nên nuôi dưỡng. Một thời gian sau, con sâu đá biến thành con
Voi rất đẹp. Thấy ĐRít có con Voi đẹp nên nhiều địa chủ trong làng có ý định bắt
Voi về làm của riêng. Ỷ thế giàu có nên lão địa chủ đã bắt đặt ra những thử thách
như: chọi gà, chọi trâu, chọi chó,…với điều kiện nếu ĐRit thua sẽ bị bắt Voi. Cuối
cùng ĐRit đều giành thắng lợi nên lão địa chủ tìm ra kế khác. Hắn dọa sẽ bỏ bà Pôm
vào nồi nước nếu chàng không đưa Voi đẹp đánh nhau với Voi của hắn. Voi của hắn
lại tiếp tục thua. Hắn nghĩ ra kế khác nữa là bắt Voi của chàng đi đánh nhau với Voi
của Thủy Tề và nhất định Voi của chàng phải chịu chết thì hắn mới hả dạ. Voi của
chàng chết thật, chàng vô cùng thương xót khóc thương Voi mấy ngày ròng rã. Sau
đó Voi hiện lên bảo chàng mang hai cái ngà về trồng trước nhà. Sau này, ngà biến
thành hai cây tre, đem lại cho chàng sự giàu có. Tên địa chủ thấy vậy bèn cho người
nhổ về nhà trồng nhưng không đem lại sự giàu có cho tên địa chủ nên hắn ta chặt tre
thành nhiều khúc vất đi. ĐRít thấy vậy, khóc thương, kiệt sức, ngủ lịm đi, Voi lại
hiện lên bảo ĐRit đem tre đan thành lờ bỏ ở thác nước. ĐRit làm theo và được rất
nhiều vàng bạc. Tên địa chủ thấy vậy bèn tìm tới ĐRit dọa sẽ giết bà Pôm nếu chàng
không nói ra sự thật. Hắn ta làm theo thì lờ lại đổ ra toàn phân người, phân lợn khiến
hắn rất tức tối, sai quân chặt nát cái lờ. ĐRit lại khóc than,Voi hiện lên bảo đốt thành
tro rồi rải theo dấu chân thú. Chàng làm theo nên cả buôn làng lúc nào cũng đủ thịt
thú rừng ăn. Tên địa chủ thấy vậy làm theo nhưng hắn lại đổ tro lên dấu chân người
đầy tớ nhà hắn, và hắn. Cuối cùng chúng chết hết. Cả làng ăn mừng, ĐRit sống sung
sướng hạnh phúc.
4. Chàng Cóc (Dân tộc Jơ rai)
Ngày xưa ở làng nọ có một cô gái nghèo. Gặp hôm cúng thần lúa, theo đứng tục
lệ người Jo- Rai, hôm ấy mọi người kiêng không được làm rẫy. Bởi vậy già trẻ gái
trai rủ nhau đi bắt cá, hái rau. Cô gái nghèo H Lui đứng tựa chân cầu thang, buồn tủi
75
nhìn dân làng tấp lập đi lại. Trong một lần đi hái lá với tốp thanh niên trong làng, H
Lui đã mang thai, đứa con sinh ra là cậu bé cóc xấu xí. Sau này cóc lấy được một
người vợ đẹp lại giàu có tên là H Bia Pang. Vì sĩ diện gia đình nên bố mẹ H Bia đã
đuổi vợ chồng Cóc ra khỏi làng. Họ dắt nhau đi qua biết bao con sông, ngủ lại biết
bao cánh rừng. Một hôm Cóc gặp chim gáy, chàng giương nỏ định bắn thì chim xin
tha mạng, chim gáy trả ơn chàng bằng việc chỉ cho chàng nơi ăn chốn ngủ của cóc.
Hai vợ chồng lại dắt nhau đi theo lời chim gáy dặn. Trên đường đi chàng gặp Rắn hổ
mang, Rắn cho chàng chiếc gậy cẩm nang, chiếc gậy này giúp chùng có nhà cửa, heo
bò, Voi,…Từ đó gia đình chàng sống hạnh phúc, giàu sang nhất vùng. Chàng cóc cởi
bỏ lốt cóc và trở thành chàng trai đẹp nhất, khỏe mạnh nhất, giỏi giang nhất. Sau này
chàng mời bố mẹ H Bia Pang sng nhà chơi để ăn mừng lúa mới. Gia đình chàng từ đó
lại sum vầy bên nhau.
5. Chàng Dơ Lên và nàng Phơ (Dân tộc Jơ rai)
Ngày xưa có một cô gái tên Phơ, nàng mồ côi cha mẹ nên ở với già Pôm trong
rừng sâu. Một hôm có một chàng trai khỏe mạnh, tốt bụng tên là Dơ Lên mải đuổi
theo một con thú nên không tìm thấy đường về. Thấy có một ngôi nhà nhỏ, chàng
định chạy vào nhà xin nghỉ ngơi nhưng vừa bước tới của thì bị tan xương nát thịt vì
nàng Phơ lỡ tay làm vỡ thuốc thần của già Pôm. Nàng thấy vậy xin già Pôm cứu
chàng trai lạ mặt kia và từ đó hai người nên duyên vợ chồng. Thấy nàng Phơ xinh đẹp
nên các tù trưởng có ý đinh cướp nàng. Lần cướp thứ nhất, nhờ sự giúp đỡ của én,
khỉ, sói và khiên thần, lọ nước thần mà cứu được nàng Phơ. Lần thứ hai, nàng lại tiếp
tục bị cướp và nhờ có thanh kiếm và chiếc khiên bay mà nàng được cứu thoát. Cuộc
sống bình yên trở lại với buôn làng.
6. Chàng Reng (Dân tộc Jơ rai)
Ở một làng nọ có hai vợ chồng là Kul và H’Liu lấy nhau đã lâu mà chưa có con.
Một hôm hai vợ chồng đem cơm lên gặp ông Trời xin được có con. Họ đi hết hai năm
rưỡi mới tới nơi được. Tới nơi hai vợ chồng được ông Trời đón tiếp rất nồng nhiệt,
mời hút thuốc, uống rượu, thết đãi no say, nói chuyện thân mật. Khi ra về, ông Trời
hỏi cần mấy người con rồi cho bấy nhiêu nhánh thuốc, rồi dặn: cứ hai năm ăn một
nhánh sẽ có con. Trên đường về nhà, chồng bảo vợ ăn thử một nhánh, thấy không có,
76
ăn thử hai nhánh thấy không có, đi một lát lại ăn hết cả thảy bảy nhánh nhưng cũng
không thấy gì cả. Đã hai năm rưỡi, người vợ sinh được bảy người con trai nhưng tất
cả đều không biết làm việc, ăn khỏe. Một hôm đi vào rừng đốn củi, sáu người anh
chết hết chỉ còn lại mình Reng. Sau đó Reng khấn trời giúp các anh mình sống lại
tiếp tục vào rừng đốt rẫy nhưng thật không may vì chàng gặp cọp. Reng và các anh
chiến đấu tới cùng dù vợ chồng cọp rất khỏe. Reng cầu xin sức khỏe để đánh lại mụ
cọp. Một thời gian sau, Reng đi gặp H’Bia Bla. Trên đường đi, Reng gặp rất nhiều
khó khăn. Cuối cùng cũng tới nhà thần nước. Trước khi vào nhà chơi, Reng được mời
hút thuốc, nói chuyện bảy ngày, bảy đêm sau đó Reng nói ý định của mình nhưng
Thần Nước không đồng ý. Hai người đánh nhau, ngồi nghỉ hút thuốc rồi lại đánh
nhau. Sau đó Reng lấy được con gái thần Nước, hai người rẽ nước lên trần gian. Cuộc
sống lúc đầu gặp trắc trở nhưng cuối cùng cũng yên ổn.
7. Chàng lười (Dân tộc Jơ rai)
Câu chuyện kể về chàng trai lười biếng, ăn xong là ngủ và ngủ từ ngày này sang
ngày khác, mùa này sang mùa khác không hề có vấn đề gì. Tiên trên trời cao nhìn
thấy chàng trai nghèo mà lười biếng nên hóa phép cho con gái mình xuống nhà Pơ
Tao ở và trở thành con gái Pơ Tao. Một hôm. Chàng trai đi câu cá nhưng không
muốn bắt cá bỏ vào giỏ nên quạ tha đi. Con cá ấy được quạ mang về cho con gái Pơ
Tao ăn, bỗng nhiên nàng mang thai. Pơ Tao thấy con gái mình không chồng mà chửa
bèn tung hô khắp dân làng tìm cha đứa bé. Ai cũng mặc quần áo đẹp đến nhà Pơ Tao
nhưng đứa trẻ chỉ lắc đầu cho đến khi chàng lười tới thì đứa trẻ nhận làm cha. Pơ Tao
rất tức tối vì con gái mình lại quen với người luời biếng như vậy nên đuổi đi. Hai vợ
chồng mang gạo lên núi sống. Sau một thời gian chung sống chàng lười vẫn không
thay đổi tính cách nên vợ chàng liền nghĩ ra cách bảo với chàng lười rằng nàng vừa
đánh mất cục vàng làm ra lúa gạo. Nghe vợ nói, chàng cầm rựa phát cả khu rừng còn
nàng theo sau cầm gậy đâm lỗ trồng lúa. Sau khi phát xong không thấy vàng đâu,
người vợ nhanh trí bảo chàng là lúa gạo từ kia mà sinh ra. Từ đó, chàng trở nên chăm
chỉ làm ăn và trở thành người giàu có, còn vợ chàng bay về trời vì đã xong nhiệm vụ
của mình. Từ biệt chồng con nàng bay về trời và hẹn mỗi năm xuống thăm chàng và
con một lần.
77
8. Chiếc sáo thần kì (Dân tộc Jơ rai)
Chàng trai nghèo khổ mồ côi cha mẹ tên là H Rit được bà Pôm nhận làm con
nuôi. Vì mặc cảm mình là người xấu xí nên đêm nào chàng cũng ra bờ suối than thở.
Ở đây, chàng ngủ thiếp đi và khi chàng tỉnh dậy gặp được con gái thủy tề xinh đẹp.
Đem lòng yêu người con gái ấy, chàng ngày đêm nhớ mong, quên ăn quên ngủ. Thần
linh hiện lên chỉ bảo và ban cho chiếc sáo thần. Nhờ siêng năng, chàng tập luyện thổi
sáo thật giỏi rồi làm theo lời thần dặn. Cuối cùng chàng lấy được người con gái ấy và
sống hạnh phúc suốt đời.
9. Chiếc quạt thần (Dân tộc Ba na)
Ngày xưa, loài hổ cũng biết đi đặt bẫy như người, hổ làm đủ các thứ bẫy, bẫy
được nhiều thú rừng. Y Rít đi đào củ mài, gặp Hổ đang bẫy chim và Rắn. Hổ bỏ cho
Rít một con Rắn, chàng định bỏ đi và nghĩ chẳng lấy để làm gì nhưng Rắn đã cầu xin
đừng vất đi và xin đi theo chàng để giúp chàng làm việc. Lâu ngày, thân nhau, Rắn
định gả chị gái cho Y Rít. Một lần về thăm nhà Rắn, Rắn giúp Y Rít vượt qua sông,
suối và nói cho Y Rít về chiếc quạt thần. Để trả ơn Y Rít đã nuôi dưỡng trong thời
gian qua, mẹ Rắn đã ban tặng chàng chiếc quạt thần, gả con gái cho chàng. Nghe tin
Y Rít giàu có, vợ đẹp, các tù trưởng trong làng có ý đinh cướp của cải, lấy quạt thần
và bắt vợ Y Rít. Y Rít ở dưới xuôi biết chuyện nhờ chiếc nhẫn thần báo mộng và đi
tìm vợ. Y Rít đi khắp nơi, vượt qua suối, qua song, vượt qua gian nguy, sợ hãi rồi đến
một vùng nước xanh biếc, chàng không tài nào qua được. Ở trên cao, ông trời phơi áo
đỏ, nhìn xuống trần gian thấy chàng không qua được liền biến thành ông già, bay
xuống bảo với Y Rít đường đi. Nói xong, ông già biến mất, Y Rít tỉnh dậy làm theo
lời ông già dặn. Lúc khó khăn ấy, cá giúp chàng đi lại, chuột giúp chàng tìm quạt
thần, nhím đào đường ngầm, mèo và chó đùa giỡn để không bị phát hiện. Cuối cùng,
Y Rít cũng tìm được vợ, quạt thần giúp chàng lấy lại nhà cửa, lợn gà, tôi tớ, chiêng
ché và sống cuộc đời hạnh phúc.
10. Di Ông lấy mặt trời (Dân tộc Jơ rai)
Câu chuyện kể về ba anh em nhà Di Ông, Dây Núi. Di Ông là anh cả, người to
lớn, rất khỏe, đã đến tuổi lấy vợ nhưng chàng không thể thích ai vì không ai đẹp cả.
Nghe em nói người mà anh mơ ước chỉ có nàng Mặt trời thôi. Nàng mặt trời tròn
78
trĩnh, mái tóc dài mượt óng, mắt sáng như sao, má đỏ hồng. Vượt qua nhiều khó khăn
nhưng đến đoạn gặp một vũng nước lớn, chàng lại tiếp tục tìm cách qua nhưng không
qua được. Chàng thấy một con Rùa từ đâu tới, nảy ý đinh bắt, Rùa bị bắt van xin tha
và cho chàng thuốc uống để vượt qua biển, đến gặp nàng Mặt trời. Rùa chỉ đường tới
vương quốc của nàng. Sau khi gặp nữ thần mặt trời, chàng và chồng nàng là Thần
Sét đã đánh nhau quyết liệt. Chàng đánh Rồng làm ba khúc, đánh nhau với thần Sét
và cuối cùng cũng giành thắng lợi. Nàng Mặt trời phân vân chưa biết thế nào thì một
cụ già đầu tóc bạc phơ, chống gậy bước tới giải hòa và nặn hai cô gái xinh đẹp, mỗi
người chọn một người, nhà chọn một gian. Di Ong chọn đúng thần mặt trời còn thần
Sét thì vừa cầm đã vỡ vụn. Từ đó, thần Sét tức giận và hận thù Di Ông còn Di Ông
sống sung sướng, hạnh phúc.
11. Đam A Lách
Có hai vợ chồng đến già cả mới sinh được một mụn con trai, thằng con trai
chẳng biết làm gì, ăn xong lại nằm. Một hôm, bố mẹ đi làm hết chỉ còn mình A Lách
ở nhà, chàng thấy một cô gái xuất hiện dọn dẹp, xin được làm vợ Lách. Có một lần
thấy con trai lười quá nên hai vợ chồng đuổi nó ra khỏi nhà cho biết cuộc sống ngoài
đời. Khi A Lách đi thì vợ cũng đi theo, hai vợ chồng sống cuộc đời bình yên. Vợ của
chàng – Maich là người có phép thần thông, đã làm A Lách thay đổi tính cách, làm ăn
siêng năng, chăm chỉ hơn. Nhưng có một sự việc xảy ra khiến cuộc sống không còn
yên bình như trước nữa. Vợ của chàng vì xinh đẹp nên các tù trưởng trong vùng dụ
dỗ, có ý định cướp vợ. Chúng đặt ra những chiêu thức như chọi gà, bắt heo đực của
chàng tới cắn nhau, trâu đực húc nhau,.. nhưng rồi đều bị thất bại vì vợ chàng hóa
phép giúp chàng giành thắng lợi. Sau đó chúng tìm cách bắt bóng vợ chàng, chàng
tìm mọi cách để cứu vợ. Cuối cùng hai vợ chồng sống yên vui.
12. Đăm Dông đánh thần Sét (Dân tộc Ba na)
Ngày xưa trong buôn người Ba-Na có hai vợ chồng chung sống rất hòa thuận.
Họ sinh được bảy người con trai, trong đó người con thứ bảy có sức mạnh phi
thường, làm việc gì cũng giỏi hơn người. Cha mẹ đặt tên là Đăm Dông. Đăm Dông
chưa bao giờ đầu hàng trước bất kì người nào, bất kì việc gì. Một hôm, nhà tù trưởng
rất giàu mạnh ở phương xa lên đánh phá làng Đăm Dông, chúng đông như mối, giáo
79
gươm tua tủa như lau lách. Anh kêu gọi trai tráng trong làng vác khiên đuổi lại. Họ
đánh nhau từ sáng đến tối, làm đất đổ ào ào. Đăm Dông tức lắm, muốn giết chết kẻ
thù, tiếng thét của anh làm rung chuyển núi rừng. Bót-Gơ lây sốt ruột, càu nhàu vén
mây gió xuống, hét lớn. Đăm Dông bảo thần sét hãy kéo mây, kéo mặt trời lên để
chàng đánh đuổi kẻ thù. Bót-Gơ lây không chịu vì cho rằng Đăm Dông hỗn xược.
Thấy Đăm Dông làm dữ, Bót- Gơ lây đành nói với mặt trời chịu khó nhô lên chiếu
sáng cho Đăm Dông đánh kẻ thù. Sau khi đánh xong kẻ thù, tiếng tăm của Đăm Dông
vang xa, Bót-Gơ lây sinh ra ghen ghét, bèn sai người xuống giết Đăm Dông. Hai bên
lại nghênh chiến hết ngày này sang ngày nọ, tháng nay qua tháng kia. Thần Sét giở
hết phép thuật ra đều thua Đăm Dông. Cuối cùng, thần Sét phải giảng hòa với Đăm
Dông và từ đó không ai dám động tới anh nữa.
13. Gươm Ông Tú (Dân tộc Ba na)
Năm ấy, có tên bạo chúa xa ầm ầm kéo quân tràn tới vùng của người Ba na. Mọi
người ai cũng căm hận, nuôi ước mơ sẽ trả thù. Trong buôn nhỏ có bà Hơ Bia Đát.
Một hôm bà Đát lên rẫy mệt quá, vào gốc cây ngồi nghỉ, nắng quá, bà khát nước và
sau đó bà mang thai. Sau ba tháng, bà sinh được một cậu con trai khỏe mạnh, lớn
nhanh như phỗng, có sức mạnh phi thường. Cậu đi khắp mọi nơi tìm người tài giỏi
đánh giặc nhưng không gặp ai cả. Một hôm, chàng than với ông Trời về hoàn cảnh
của mình. Bỗng nhiên trời tối sầm lại, chuyển đất, làm núi đồi lảo đảo, rừng cây
nghiêng ngả, chàng bị ngã vào một hồ nước nóng và tìm thấy một thanh thép quý.
Chính gươm thần đã giúp chàng đánh tan kẻ thù. Cuộc sống của buôn làng lại trở lên
tươi đẹp. Nhưng một lần, ông Tú (tên chàng trai khi già) bị ốm nặng bèn trả lại thanh
gươm nơi mà ngày xưa nhặt được. Thần linh nhận gươm. Và sau đó, người Khơ me
mò được chuôi gươm, Ba na mò được lưỡi gươm. Nếu lắp chúng lại thì sẽ trở thành
một sức mạnh vô địch.
14. Hai chàng trai lành nghề (Dân tộc Ba na)
Một cụ già góa vợ, có hai người con trai, người nào cũng khéo tay. Anh cả dựng
nhà rất đẹp, từng cái cột, cây nêu anh đều làm trơn tru và đẹp đẽ. Nhưng tài gọt đẽo
của anh là nhất. Còn người em út lại giỏi tạc tượng gỗ. Một hôm, người bố đi rẫy,
80
không may bị cọp vồ chết, dân làng sợ không ai dám viếng thăm, giúp đỡ gì, hai anh
em đành lúi húi đẽo quan tài, khâm liệm cha rồi cùng nhau khiêng đi chôn. Thương
cha quá, họ bàn nhau nghỉ việc để làm nhà mồ cho cha. Trong khi hai anh em làm
mệt quá, ngủ thiếp đi, trời vén mây xuống, nhìn thấy người trần mà giỏi quá bèn sai
thần Sét xuống đánh nhau nhưng nhờ có hai con chim treo ở nhà mồ đã biết bay và
gọi đàn chim xuống giúp hai anh em, tượng gỗ khóc thầm, dâng rượu, hầu chủ nó.
15. H Bia lấy chồng chồn
Ngày xưa ở một làng nọ có hai ông bà già nghèo khổ sinh được hai cô gái xinh
đẹp. Nhưng người chị xinh đẹp hơn cô em nên có nhiều người dòm ngó. Cô chị càng
lớn càng xinh đẹp nên dân làng gọi cô là Rác. Một hôm hai chị em đang tắm bên bờ
suối thì Rác gặp nạn. Hai ông bà kêu cứu khắp làng và nói ai cứu được sẽ gả Rác cho
người đó. Khắp buôn làng không ai cứu được nàng, nhưng chỉ có chồn cứu được. Sau
đó Rác được gả cho chồn. Sau khi cứu Rác, chồn bị bệnh nặng, chàng bảo vợ tới gặp
gấu, gặp hổ xin thuốc thì mới khỏi. Vợ chàng băng đèo lội suối đi tìm, cuối cùng
chàng khỏi bệnh, hiện lên thành chàng trai khỏe mạnh. Từ đó họ sống hạnh phúc bên
nhau.
16. Nàng Trứng gà (Dân tộc Ba na)
Câu chuyện kể về hai bà cháu nghèo khổ là bà Pôm và cháu HRit. Thấy thương
chàng trai nghèo mà tốt tính, nàng Trứng gà đã xuất hiện để giúp chàng giặt đồ, giã
gạo, xách nước nhưng sau khi làm xong việc thì nàng lại chui vào vỏ trứng y như
trước. Chàng trai thấy lạ bèn rình và bắt được nàng. Từ đó nàng trở thành vợ HRit.
Trong vùng ai cũng ghen tị với vợ của HRit đặc biệt là Bok Roh. Không muốn mất
vợ, chàng Hrit phải làm theo những gì lão ta bắt. Đầu tiên là mang gà tới trọi, chẳng
may gà của lão chết, lão ta bắt chàng phải làm thịt gà của mình và tàn nhẫn hơn là
phải ăn thịt con gà ấy. Ở nhà vợ chàng thấy vậy nên đã bồng con bỏ đi sang bảy ngọn
núi kia để ở. Chàng về không thấy bèn đi tìm. Trên đường đi, chàng đinh giết sóc, lấy
thịt ăn cho đỡ đói nhưng sóc xin tha mạng và hứa sẽ dẫn đi tìm vợ. Trên đường đi
cùng sóc, chẳng may sóc chết, ruồi đã giúp chàng sang được bên kia bảy ngọn núi.
Chàng gặp vợ vui mừng khôn xiết, hai vợ chồng cùng về chăm sóc bà Pôm. Tên Bok
Roh thấy vậy, liền dọa nếu chàng không làm theo yêu cầu của hắn thì hắn sẽ bắt vợ
81
chàng đi. Nhờ có sự giúp đỡ của vợ mà chàng đã lần lượt vượt qua những thử thách.
Cuối cùng lão Bok Roh bị trừng trị, chàng sống hạnh phúc bên vợ và trở thành người
giàu có nhất làng.
17. Sự tích thác Iali (Dân tộc Ba na)
Ngày xưa ở buôn nọ có hai anh em. Người anh tên là Lo, người em tên là Li. Lo
thì giàu có nhưng keo kiệt còn Li thì nghèo khổ nhưng sống tốt bụng, việc gì cúng bái
đều hỏi Trời nên ai cũng yêu mến. Thấy vậy, Lo lập âm mưu giết em. Một hôm Lo rủ
Li đi bắt cá, đến gần Lo đẩy Li xuống nước cho chết ngạt. Nhưng lạ thay, vừa đẩy Li
xuống nước đã có người mà Li từng giúp đỡ thấy vậy liền cứu Li. Thần Ptao Giàng
Đak ( thần nước) giúp đỡ và cứu Li. Thần thết đãi ăn uống no say, cho chiếng ché quí
và Li trở thành người giàu có nhất buôn làng. Lo thấy vậy hỏi em, hôm sau rủ em đi
bắt cá và nhờ em đẩy xuống nước. Thần Đak thấy vậy trừng trị Lo, sai quân dìm chết,
mổ thịt ăn.
18. Sự tích Ia Nueng (Biển Hồ) (Dân tộc Jơ rai)
Chẳng ai biết Ia Nueng có từ bao giờ? Ai đào nó? Họ nhớ rằng từ khi lũ làng
đến đây phá rừng làm nương rẫy, sinh sống, sinh cơ lập nghiệp, đời sống lúc nào
cũng sung túc, bếp nào cũng đủ ăn, vào rừng đặt chân đến đâu cũng đều gặp bò, dê,
voi. Ông trời mọc ngang đầu núi, Ya Pôm rủ Ya Chao đi múc nước ở bến IA Nueng,
đang đi gặp chú lợn màu trắng, kêu ủn ỉn bên đường, đem về nuôi và con lợn này chỉ
ăn cát. Trong một lần, dân làng chuẩn bị làm lễ mừng nhà rông mới, ai cũng có ý
định bắt con lợn này để cúng thần nhưng Ya Chao không đồng ý. Vì đây là việc quan
trọng của làng nên không ai được từ chối. Ya Chao thê rằng: “Nếu tôi ăn thịt này thì
đất sẽ động, IA Nueng sẽ sụp lở”. Nhưng con cháu của Ya Chao thèm quá nên Ya
Chao bèn lấy một miếng cho cháu ăn. Bỗng nhiên Trời gầm thét, đất đai sụp đổ, dân
làng chết hết chỉ còn lại Ya Nơm, tiếc thương dân làng đã lập bàn thờ bên hồ. Vết
tích còn lại là Biển Hồ ngày nay.
19. Tia oong Tư và con chim đại bàng (Dân tộc Ba na)
Khi bố mẹ qua đời thì Tia oong Tư trở thành chủ làng, giàu có, sống sum vầy
trong bản làng của mình, có người yêu không đẹp nhưng tài giỏi là Bia voong Bơ.
Một hôm có con Cơ linh giang tới phá hoại làng. Để đánh lại chúng, Tia oong Tư rất
82
cố gắng mà không cần giúp đỡ. Còn Rồng ngửi thấy mùi hương trầm trên người
chàng liền tới giúp đỡ nhưng Tia oong Tư từ chối. Sau đó để giúp Cơ linh Giang
nhanh chóng, Rồng đã chạy tới lấy dao, khiên để đánh đại bàng. Lúc này Tư cũng từ
chối nốt. Thấy Tư giỏi và dũng cảm, Rồng đinh gả con gái cho Tư. Chàng thấy mọi
người ai cũng ủng hộ. Cuối cùng họ sống hạnh phúc, chim đại bàng cũng không dám
phá làng người Ba na nữa.
20. Voi và Kiến (Dân tộc Jơ rai)
Ngày xưa, ở dưới trần gian, cỏ cây quanh năm tươi tốt, muông thú và loài người
sinh sôi nảy nở rất nhiều. Trong đó họ hàng nhà Voi đông hơn cả. Voi nghênh ngang
khắp nơi không biết nể sợ ai bao giờ, gặp ai cũng đá và giẫm không thương tiếc. Kiến
và Kì Nhông là những loài vật nhỏ bé vô cùng lo sợ. Chúng ở dưới đất bị Voi giẫm
lên chết rất nhiều, leo lên cây cũng không thoát khỏi cái vòi của nó. Mỗi lần Voi quay
cái vòi của mình lên cành cây, quất vài lần thì Kiến và Kì Nhông chết nhiều vô kể.
Thấy tội nghiệp những loài vật bé nhỏ nên ông Trời hóa thân thành người, đã đứng ra
làm người “cầm cân nảy mực” xử lý việc. Bằng cách nói chuyện nhẹ nhàng và chỉ ra
cho Voi lỗi lầm của mình và dọa sẽ trị tội nếu không nghe lời, ông Trời giúp kiến và
kì nhông thỏa mong muốn của mình. Nói xong ông trời bận việc nên biến mất ngay
lúc đó. Còn Voi lúc đầu vẫn ngông nghênh nhưng sau đó thì hiền lành làm theo
những gì ông Trời bảo. Từ đó, cuộc sống giữa muôn loài trở lên tốt đẹp hơn.
1.b.Những truyện sưu tầm
1. Cô em út (Dân tộc Ba na)
Ngày xưa, ở một làng nọ, có một gia đình rất đông con gái. Một hôm mấy chị
em rủ nhau vào rẫy hái dưa. Các cô chị hái được rất nhiều dưa, riêng cô út thì không
hái được quả nào. Khi mặt trời đổ bóng về chiều, các chị ai cũng đầy gùi dưa, riêng
cô em chỉ có một quả duy nhất. Vì không được nhiều dưa như các chị nên cô em cố
gắng hái thêm nhưng lại chẳng tìm thấy quả nào nữa. Các chị thấy vậy liền bảo em:
- Thôi em về đi, bọn chị hái được nhiều lắm rồi. Đây này, các chị chia bớt cho
em.
Nhưng cô em nhất định không chịu lấy dưa của các chị cho. Trên đường đi về
nhà cô em thấy gùi của mình rất nặng liền bảo các chị xem giùm ở trong đó có gì.
83
Các chị hoảng hốt thấy một con Rắn rất to. Các chị chạy một mạch về nhà, gặp
người bố, hoảng hốt nói với bố rằng có một con Rắn rất to trong gùi của em. Ông bố
thấy vậy liền chạy ra chỗ cô út và thả con Rắn đi. Một thời gian sau ông bố phát hiện
có một con Rắn trong nhà, cô con gái út ngủ đâu con Rắn theo đó, cô út lên nương
rẫy, Rắn cũng theo lên. Ông bố không biết làm sao liền nghĩ ra cách làm nhà riêng
cho Rắn. Từ ngày có Rắn bỗng nhiên nhà cửa trở nên gọn gàng, thúng mủng, rổ rá từ
đó xuất hiện. thấy vậy ông bố mới gả cô út cho Rắn. Một hôm, hai vợ chồng ra sông
tắm. Chàng Rắn bảo với cô út:
- Em tắm ở đoạn đầu con sông còn anh tắm ở đoạn cuối này.
Sau khi bảo vợ vậy chàng Rắn liền cởi lốt ra. Chàng bảo với bà Cua:
- Làm thế nào để tôi có thể trở lên đẹp hơn, cường tráng hơn.
Cua nghe nói vậy liền phán:
- Mọi thứ đều đẹp hết, chỉ có cái chân là không đẹp thôi, để ta hóa phép làm cho
chúng trở lên đẹp hơn.
Nói xong, chàng Rắn bỗng biến mất, thay vào đó là chàng dũng sĩ cao to khỏe
mạnh. Cô út rất ngạc nhiên khi phát hiện ra chồng mình là một chàng trai rất đẹp,
đánh đàn hay. Một hôm, chồng đi vắng, cô út bị một con Rắn khác nuốt chửng vào
bụng. Mọi người hốt hoảng đi kiếm cô em nhưng không được. Cuối cùng chồng của
cô biến lại thành Rắn đi tìm vợ. Lúc sau tìm được, chàng dùng dao chém chết con
Rắn, mổ bụng, lấy vợ ra. Thấy vợ nằm bất tỉnh, chàng liền ngẩng mặt lên Trời và nói:
- Nếu em chết vì trời phạt thì thôi, còn nếu em chết vì con Rắn kia thì sống lại.
Nói xong cô em sống lại, từ đó họ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
(Bà Đinh Thị Lăm
52 tuổi làng Kyang, Kon Lương Khương, Kbang, Gia Lai)
2. Chàng Jăng Gre (Dân tộc Ba na)
Ở làng Jăng Gre có ba anh em mồ côi cha mẹ. Ngày ngày, ba anh em chăn trâu
để sống qua ngày. Một hôm, người anh bảo với em trai ở nhà canh trâu cẩn thận để
các anh đi mua rượu. Người em liền bảo rằng em còn nhỏ nên chưa chăn được trâu.
Các anh bảo không sao đâu rồi đi mua rượu ngay. Các anh trai của chàng vừa đi,
chàng Jăng Gre liền chăn thả trâu nhưng không may trâu ăn lúa nhà người ta nên khi
84
các anh về đã đánh cho chàng một trận tơi bời rồi họ còn đuổi đi, không cho ở trong
làng nữa. Chàng đi lang thang mãi, đến một nơi có cây đa lớn chàng mệt nhoài, nằm
thiếp đi bên cây đa. Bỗng nhiên có một bà Tiên hiện lên, cho chàng ăn uống, giao cho
chàng nỏ thần, gươm thần rồi ban cho cho chàng phép thuật để chàng bay về trời.
Một hôm, chàng vừa ăn uống xong, chàng liền đi săn trong một cánh rừng nọ,
chàng đi mãi nhưng chẳng thấy một con thú nào nhưng chàng nhìn thấy một ngôi
làng của tù trưởng Bok Ria. Gặp tù trưởng chàng vẫn để nguyên hình là một anh
chàng xấu xí. Thật may mắn cho chàng vì Bok Ria thấy chàng tội nghiệp nên nhận
nuôi chàng, sau đó ông hứa gả hai cô con gái cho chàng. Chàng xuống sông tắm, nhờ
có cua, cá lóc chỉnh sửa nguyên hình nên chàng đã biến thành một hoàng tử đẹp nhất
vùng, cưới liền hai cô con gái Bok Ria làm vợ. Từ đó, buôn làng của chàng trở nên
yên bình. Chàng là tù trưởng giàu có nhất cả vùng.
( Bà Đinh Thị H’Nót kể
76 tuổi, làng T’MẬT- xã Đông- Kbang- Gia Lai)
3. Cuộc chiến giữa các tù trưởng (Dân tộc Ba na)
Hỡi các cô công chúa, chúng ta chuẩn bị đi xúc cá nhưng đi xúc cá không có
đàn ông mà toàn phụ nữ không, chúng ta không sợ sao, phải tìm người đàn ông chứ,
để họ dẫn đi. Ôh! Vậy thì tìm ai bây giờ? Vậy thì chỉ công chúa Siêu Biên qua kêu
anh hoàng tử Sách Bánh dẫn đi. Ơh, anh Sách Bánh, chúng em muốn anh dẫn chúng
em đi xúc cá nhưng anh mắc đan lát, đan gùi rồi sao dẫn đi được. Không sao đâu, lát
nữa về đan sau cũng được. Thế rồi mọi người cầm theo rổ xúc cá, đi từ núi này qua
núi khác, từ sông này qua sông khác. Họ đi mãi đi mãi tới hạ lưu cửa sông, xúc được
nhiều cá nhưng không biết đổ cá vào đâu. Chàng hoàng tử liền chặt ống tre đựng cá
cho ba chục chị là công chúa kia. Một hôm, có chàng trai là Đắk Dai cùng dân làng đi
săn, họ đi một nơi tới nơi thấy con kì đà leo lên cây, họ cử người leo lên cây theo con
kì đà. Khi đi qua họ thấy ba chục người đang đi qua rẫy họ, họ đã dẫm đám bắp, lúa,
ngô. Chàng Đắk Dai thấy vậy bảo: Cứ để như vậy, chắc không được, phải đánh
chiêng, gõ mõ kêu toàn bộ dân làng ra ngoài đánh đám người kia. À! đúng rồi, họ là
những người ngày xưa nợ mình chiêng, ché giờ lại dẫm nát lúa ngô của mình. Họ bảo
tỉa lại nhưng không tỉa, bây giờ chúng ta đánh họ thôi. Nói xong, họ liền bao vây đám
85
xúc cá. Bà Jăng Ch’Cua bảo : Ơ kìa! Có đám người bao vây chúng ta nhưng mọi
người không tin, thế là họ bị bao vây nhưng may sao bà Jăng Ch’Cua thoát được và
chạy về báo với dân làng của mình.
Thế là các chàng công tử làng Jăng Gre chuẩn bị dao, kiếm, khiên, mác, ná
chuẩn bị đi cứu người và đi đánh làng Đắk Dai. Ai cũng đi đánh giặc hết còn công tử
Khùng cứ ngủ miết còn hai em trai của công tử thì không có sức mạnh, phép thuật
nên không thể đánh nhau với đám người làng bên kia. Chính vì vậy, hai anh em đã
qua nhà vợ ông Trời cầu xin giúp đỡ. Vợ ông trời biết chuyện nên dùng phép thuật
nung hai người này trong lò bát quái. Nấu bảy ngày, bảy đêm khiến sức mạnh của hai
chàng trai trở nên phi thường hơn.
Sau khi có sức mạnh trở về, hai chàng trai tổ chức dân làng sang làng Jăng Gre
đòi người. Họ đã qua bên đó đánh với thời gian 365 năm. Cuối cùng bên làng Đắk
Dai đã thua, họ đã thắng. Tất cả những người chết chóc đều được vợ ông Trời hóa
phép, cúng bái cho họ sống lại. Cuộc sống yên bình bắt đầu trở lại.
( Bà Đinh Thị H’Nót kể
76 uổi, làng T’MẬT- xã Đông- Kbang- Gia Lai
4. Kén chàng rể ( Sưu tầm)
Tù trưởng Bok Ria cho chọn chàng rể cho con gái nhưng công chúa Bia Phu lại
không yêu người mà bố chọn- chàng Jiêng Jơ rai. Nàng đem lòng yêu HRit. Nhờ có
sự phù hộ của tổ tiên, nhờ có sự chỉ đường của ông Trời mà Bok Ria đã hiểu ra được
chàng Jiêng Jơ rai rất lười biếng, chỉ có HRít là siêng năng thôi. Cuối cùng, công
chúa Bia Phu lấy được người mình yêu.
(Ông Đinh Kuek
69 tuổi, làng Kon Lương Khương, Kbang, Gia Lai)
PHỤ LỤC 2: Bảng số liệu về tần số xuất hiện của nhân vật phò trợ trong truyện
cổ tích các dân tộc thiểu số ở Gia Lai và người Việt
Tần số xuất hiện của yếu tố thần kì cả vô hình lẫn hữu hình ở ba tài liệu: A (cổ
tích thần kì người Việt Nam ở Bắc Bộ), B ( cổ tích thần kì người Việt Nam ở Trung
Bộ), C ( cổ tích thần kì người Việt Nam ở Nam Bộ), Tài liệu D (cổ tích ở Gia Lai)
86
Ghi chú TT Tài liệu
Tần số xuất hiện nhân vật phò trợ dạng đồ vật Tần số xuất hiện nhân vật phò trợ dạng người
số Tần xuất hiện nhân vật trợ phò dạng loài vật
16/40 (40%) A 1 19/40 (37,5%) Nhiều chất hình ảnh Tiên 9/40 (22,5%)
12/35 (34%) B 2 12/35 (34%) 4/35 (32%) Nhiều chất hình ảnh Tiên – Bụt
C 3 8/27 (29,6%) 13/27 (48,2%) 6/27 (22,2)%) Nhiều chất hình ảnh Tiên – Bụt – Phật
D 4 12/30 (40%) 8/30 (26,7%) Nhiều hình ảnh Trời- Yang 10/30 (33,3%)
PHỤ LỤC 3: Một số hình ảnh của người kể chuyện về nhân vật
phò trợ trong truyện cổ tích các dân tộc thiểu số ở Gia Lai
(Ông Đinh Kuek trước khi kể chuyện
69 tuổi, làng Kon Lương Khương, Kbang, Gia Lai)
87
( Bà Đinh Thị H’Nót kể
76 tuổi, làng T’MẬT- xã Đông- Kbang- Gia Lai)
(Bà Đinh Thị Lăm
52 tuổi làng Kyang, Kon Lương Khương, Kbang, Gia Lai)