BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phan Thị Phương Thế Ngọc
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THÀNH THI
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhân vật là đối tượng trung tâm, là linh hồn của tác phẩm văn học. Qua nhân vật,
nhà văn bày tỏ quan điểm, tư tưởng, nhận thức,… trước cuộc đời và con người; gửi
gắm những tình cảm, suy tư, trải nghiệm của chính lòng mình, đời mình; đồng thời thể
hiện tài năng, cá tính, phong cách của mình.
Nhìn lại chiều dài lịch sử văn học Việt Nam, ta thấy xuất hiện nhiều loại nhân vật:
người phụ nữ, người nông dân, người lính, người anh hùng, người trí thức,… Mỗi loại
nhân vật đều có những đặc điểm riêng về hoàn cảnh, cuộc sống, diện mạo, tâm hồn,
tính cách,… nhưng sâu sắc và phức tạp hơn cả, có lẽ là hình tượng người trí thức.
Trí thức là người có kiến thức từ việc học tập, nghiên cứu, luôn khát khao cống
hiến tài năng cho đời, và có lối hành xử văn minh, văn hóa. Ở họ, tập trung mọi tinh
hoa của dân tộc và nhân loại. Họ là nhân vật trung tâm, là động lực của xã hội, có sự
đóng góp to lớn và giúp xã hội phát triển vững chắc, ngày càng văn minh, tiến bộ hơn.
Họ mang cái đẹp đến cho đời. Họ khai sáng cho những vùng đất còn tối tăm, hoang dã,
cho những con người còn sống trong nghèo đói, lạc hậu, u mê.
Trí thức, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ, mang lí tưởng, hoài bão, ước mơ cao cả, luôn
khát khao sáng tạo, và lúc nào cũng băn khoăn, tìm kiếm cho mình một chỗ đứng, một
lẽ sống trong cuộc đời, một con đường đi riêng cho mình. Họ gánh trên vai thiên chức
khai hóa dân trí và cải cách xã hội. Bên cạnh đó, họ lại là những người giàu mặc cảm
và cô đơn trong những bi kịch cá nhân. Vốn nhạy bén, đa cảm, dễ xúc động, lãng mạn
và mơ mộng trước cái đẹp, họ mang đầy những trăn trở, day dứt, dằn vặt, đau đớn
trước cái xấu trong cuộc đời và trong chính con người mình. Thế giới tâm hồn của
người trí thức đầy bí ẩn, phức tạp, nhiều cung bậc, sắc thái, thanh âm, luôn khát khao
vươn đến cái đẹp hoàn mỹ, tuyệt đối.
Hiện thực cuộc sống tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội, người trí thức rất
nhạy cảm với thời cuộc và những đổi thay trong cuộc sống. Bên cạnh quan niệm sống,
lí tưởng sống, họ còn phải tự tìm con đường đúng đắn để cống hiến tài năng và sáng
tạo, để hoàn thiện nhân cách, chế ngự tham vọng, tránh rơi vào những sai lầm, đánh
mất đi phẩm cách của mình, gây ra những tác hại cho con người và xã hội. Họ luôn
muốn sống xứng đáng và đẹp đẽ. Vì thế, trong họ luôn có nhu cầu nhận thức và tự
nhận thức; thường xuyên diễn ra những xung đột, những mâu thuẫn, những cuộc đấu
tranh nội tâm gay gắt, mãnh liệt để tự ý thức, tự nhận thức bản ngã đích thực của mình,
để từ đó càng hoàn thiện mình hơn.
Nhà văn cũng là trí thức văn nghệ sĩ, nên khi viết về nhân vật trí thức văn nghệ sĩ,
chính là lúc họ đang viết chuyện của đời mình, của lòng mình, của giới mình. Ở đây,
nhà văn và nhân vật đã có mối dây đồng cảm sâu sắc và dường như không có khoảng
cách. Hơn ai hết, nhà văn hiểu rõ nhân vật, cũng như hiểu rõ những ngõ ngách, những
khía cạnh, những ưu nhược điểm của bản thân mình và đời sống nội tâm phức tạp của
mình. Nhà văn mổ xẻ con người và thế giới tâm hồn của nhân vật, cũng chính là mổ xẻ
con người và thế giới tâm hồn của nhà văn trong những biến động của cuộc đời và bể
dâu của tình người.
Tìm hiểu về nhân vật trí thức trong văn học, ta tìm đến với diện mạo và tâm hồn
của giới văn nghệ sĩ Việt Nam nói riêng, của trí thức Việt Nam nói chung. Do vậy, tác
giả luận văn muốn khám phá, soi sáng những chiều kích, những ngóc ngách, những
góc cạnh trong con người và tâm hồn của nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi
Việt Nam hiện đại, những vấn đề xoay quanh nhân vật, và cả những gì nhà văn gửi
gắm qua nhân vật của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Ở đây, chúng tôi phân loại nhân vật trí thức trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam
hiện đại như sau:
Nhân vật trí thức sáng tạo ra cái đẹp: nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, kiến trúc sư,…
Nhân vật trí thức truyền tải kiến thức, ánh sáng văn hóa: nhà giáo, nhà báo,…
Nhân vật trí thức được đào tạo qua trường lớp, làm những nghề chuyên môn khác
như: luật sư, bác sĩ, kỹ sư,…
Luận văn tập trung tìm hiểu hai kiểu nhân vật trí thức: người sáng tạo ra cái đẹp và
người truyền tải kiến thức, ánh sáng văn hóa (chủ yếu là nhà văn và nhà giáo) được gọi
chung là nhân vật trí thức - văn nghệ sĩ. Do vậy, luận văn chỉ điểm qua sơ lược những
nhân vật trí thức khác để làm nền tảng cho việc khái quát diện mạo chung của giới trí
thức Việt Nam.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát phần văn xuôi Việt Nam hiện đại (từ đầu thế kỉ XX – 2000) chia
làm ba giai đoạn: đầu thế kỉ XX – 1945, 1945 – 1975, sau 1975. Ở mỗi giai đoạn, do
giới hạn của đề tài, luận văn chỉ chọn tìm hiểu một số tác phẩm nổi bật viết về nhân vật
trí thức văn nghệ sĩ.
Danh mục các tác giả, tác phẩm được chọn để khảo sát:
- Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945:
+ Nhất Linh: Hai vẻ đẹp, Làm gì mà băn khoăn thế, Đôi bạn, Đoạn tuyệt, …
+ Khái Hưng: Đẹp, Gánh hàng hoa.
+ Thạch Lam: Đói, Đứa con đầu lòng, Một cơn giận, Sợi tóc, Ngày mới,…
+ Nguyễn Tuân: Vang bóng một thời, Tùy bút I, Tùy bút II, Nguyễn, Thiếu quê
hương.
+ Vũ Trọng Phụng: Số đỏ.
+ Nguyên Hồng: Lớp học lẩn lút, Miếng bánh, Hai dòng sữa, Buổi chiều xám, Giọt
máu,…
+ Nam Cao: Trăng sáng, Đời thừa, Quên điều độ, Cái mặt không chơi được, Mua
nhà, Sống mòn,…
- Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975:
+ Nam Cao: Đôi mắt, Đường vô Nam, Nhật kí Ở rừng.
+ Nguyễn Huy Tưởng: Sống mãi với thủ đô.
+ Nguyễn Đình Thi: Vỡ bờ.
+ Nguyên Hồng: Cơn bão đã đến.
+ Nguyễn Minh Châu: Dấu chân người lính.
+ Trần Đình Vân: Sống như anh.
- Giai đoạn từ sau năm 1975 (tính đến năm 2000):
+ Nguyễn Minh Châu: Cỏ lau, Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa,…
+ Ma Văn Kháng: Đám cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn,
Ngược dòng nước lũ.
+ Nguyễn Khải: Gặp gỡ cuối năm, Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi nhân gian bé tí,
Thượng đế thì cười.
+ Nguyễn Huy Thiệp: Huyền thoại phố phường, Chút thoáng Xuân Hương, Mưa
Nhã Nam, Vàng lửa, Phẩm tiết,…
+ Dương Thu Hương: Bên kia bờ ảo vọng, Những thiên đường mù.
+ Phạm Thị Hoài: Man Nương, Thiên sứ.
+ Tô Hoài: Cát bụi chân ai.
+ Nguyễn Việt Hà: Cơ hội của Chúa.
Trong giai đoạn 1945 – 1975, luận văn sẽ không trực tiếp đề cập đến văn học thành
thị miền Nam, mà khi cần, chỉ liên hệ thêm để so sánh, đối chiếu.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp hệ thống
Luận văn hệ thống hóa các tác phẩm viết về người trí thức trong văn xuôi Việt Nam
hiện đại qua ba giai đoạn để làm rõ sự biến đổi, phát triển của hình tượng nhân vật trí
thức.
3.2. Phương pháp phân tích
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích là chủ yếu để khám phá những nét tính
cách đặc trưng cũng như phân tích hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí
thức qua từng chặng đường văn học.
3.3. Phương pháp tổng hợp
Phương pháp tổng hợp giúp luận văn khái quát nên những mẫu người tiêu biểu từ
việc phân tích những biểu hiện tính cách của hình tượng nhân vật, và khái quát nên
những kĩ thuật, hình thức thể hiện phổ biến khi xây dựng nhân vật trí thức.
3.4. Phương pháp so sánh
Khi phân tích và khái quát tính cách nhân vật cũng như kĩ thuật, hình thức thể hiện
nhân vật, luận văn có sử dụng phương pháp so sánh để rút ra những điểm giống và
khác nhau trong hình tượng nhân vật trí thức ở mỗi chặng đường văn học nói chung, ở
mỗi tác giả nói riêng.
3.5. Phương pháp miêu tả lịch sử
Luận văn đặt những tác phẩm viết về người trí thức vào từng chặng đường sáng tác
để thấy được sự tác động của hoàn cảnh xã hội và góc nhìn nghệ thuật đối với sự thay
đổi trong hình tượng nhân vật.
Các phương pháp nêu trên sẽ được phối hợp với nhau trong suốt quá trình nghiên
cứu để có thể giải quyết tốt những vấn đề đặt ra.
4. Lịch sử vấn đề
Văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù dùng ngôn từ để khám phá con người và
suy ngẫm về đời sống. Lịch sử văn học chính là lịch sử tâm hồn nhân loại. Nhiệm vụ
chủ yếu và lâu dài của văn học trong việc phản ánh hiện thực vẫn là miêu tả số phận
con người, khắc họa các tính cách con người. Để thực hiện nhiệm vụ đó, nhà văn, bằng
tài năng và tâm huyết, xây dựng nên những hình tượng nhân vật trong tác phẩm của
mình.
Văn xuôi Việt Nam hiện đại có một khối lượng lớn tác phẩm viết về người trí thức.
Có lẽ, ở loại nhân vật này, nhà văn dễ dàng bày tỏ, chia sẻ, phát ngôn những quan niệm,
tư tưởng, tình cảm,… của mình về con người và cuộc sống. Do vậy, có rất nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu của các nhà văn, các nhà lí luận phê bình về những tác
phẩm viết về nhân vật trí thức.
Nguyễn Hoành Khung trong bài viết về Nhất Linh (Từ điển văn học) đã nhận xét
rằng nhân vật thanh niên trí thức của Nhất Linh sống trong gia đình giàu sang nhưng
luôn cảm thấy băn khoăn về cuộc sống tối tăm của dân quê nghèo khổ, ngu dốt, muốn
tìm cách cứu vớt họ. Thế nhưng, “những nhân vật trí thức đầy trăn trở này chỉ để lại
trong người đọc một ấn tượng rằng họ không chấp nhận thực tế, họ luôn vật vã, suy tư,
đau khổ, nhưng họ không trở thành chiến sĩ cách mạng” [163, tr.1257]. Ở đây, Nguyễn
Hoành Khung đã soi chiếu nhân vật trí thức ở vai trò xã hội của họ.
Theo Phan Cự Đệ, trong tiểu thuyết Đẹp, “dường như Khái Hưng không lí tưởng
hóa lớp văn nghệ sĩ lãng mạn, mà muốn làm sống lại một lớp văn nghệ sĩ vào những
năm 40, những “nhân vật thật trong xã hội hiện thời” với tất cả những mặt đẹp, mặt
xấu, những nét đáng yêu và đáng ghét của họ, không bình luận, không phê phán. Và cố
gắng dựng nhiều kiểu người với những cá tính, phong cách và lối sống khác nhau” [52,
tr.923]. Nhìn chung, nhân vật trí thức của Nhất Linh, Khái Hưng là những “nhân vật
phi thường” hoặc “nhân vật lãng mạn”: “Họ phần lớn xuất thân từ những gia đình
quan lại hay tư sản giàu sang và có một cuộc sống dư dật. Họ nếu không phải là những
“khách tình si” cả cuộc đời theo đuổi một mối tình lãng mạn, thì cũng là những
“khách chinh phu” mải mê với một lí tưởng cách mạng nào đó. Cuộc sống của họ
được các nhà văn thi vị hóa” [Hà Văn Đức; dẫn theo 85, tr.569].
Trong khi đó, khi “tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác”, nhân vật trí thức của Thạch
Lam lại “có nét chân thực và gần với cuộc sống đời thường,… thường được đặt trong
những hoàn cảnh khó khăn, trở ngại. Cái đói, cái nghèo dường như lúc nào cũng đeo
đẳng với số phận của nhân vật, xô đẩy họ vào những tình huống đầy tuyệt vọng” [Hà
Văn Đức; dẫn theo 85, tr.580]. Nguyễn Thành Thi (Phong cách văn xuôi nghệ thuật
Thạch Lam) cũng cho rằng khi tìm kiếm hình ảnh con người trong cõi thầm kín - thế
giới nội tâm, thế giới cảm giác phiền phức mà người trí thức nào cũng có, “… Thạch
Lam chỉ kể nhiều về những trạng thái bất thường hoặc những cảm tưởng, cảm giác
mới mẻ dấy lên trong tâm hồn của họ. Những trí thức bình dân này có thể thành đạt
hay thất bại trên đường đời, đáng trọng hay đáng thương trong nhân cách số phận…
song tất cả họ giống nhau ở chỗ đều có những trạng thái nội tâm “phiền phức”, những
khoảnh khắc bí ẩn, bất thường” [131, tr.64]. Hai ý kiến trên cho thấy nhân vật trí thức
có một thế giới tâm hồn phong phú, một nội tâm phức tạp. Đó là địa hạt hấp dẫn sự
khám phá của người cầm bút.
Khi viết “Lời giới thiệu Nguyễn Tuân và thể tùy bút”, Vương Trí Nhàn cho rằng:
“Giả sử như giờ đây, có một ai đó muốn tìm hiểu cuộc sống của lớp trí thức thành thị,
nhất là cánh ký giả viết văn, viết báo đương thời xem họ ăn gì, chơi gì, đọc sách ra sao,
hưởng thụ ra sao…, tôi nghĩ nhất thiết người ấy phải đọc lại một số trang viết của ông
Nguyễn” [145, tr.19]. Theo nhà nghiên cứu này, nhân vật trí thức trong tác phẩm phản
ánh khá chân thực hình ảnh người trí thức ngoài cuộc đời. Mặt khác, nó phản ánh hình
ảnh của chính Nguyễn Tuân: “Nhân vật của ông nhìn kỹ đều là những con người lửng
lơ vượt thoát ra ngoài mối quan hệ bình thường với xã hội. Họ như không đi mà chỉ
bay là là trên mặt đất, không đậu hẳn vào đâu, gì cũng biết, mà hóa ra không ràng
buộc với cái gì cả. Nghề nghiệp, không xác định. Nhà cửa, không thiết tha. Cho đến cả
tiền tài, sự nghiệp cũng không phải là điều họ quan tâm theo đuổi... Niềm say mê mà
nhân vật của Nguyễn Tuân và chính ông để cả đời theo đuổi là say mê tìm hiểu chính
mình và và khắc họa bức chân dung tinh thần khác người của mình trước đồng loại”
Nhà văn Nam Cao có một mảng tác phẩm về đề tài người trí thức. Xoay quanh việc tìm
hiểu những tác phẩm này có nhiều ý kiến sâu sắc, thỏa đáng. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức
đặc biệt chú ý đến những biến động trong đời sống tinh thần của nhân vật trí thức của Nam
Cao trong mối quan hệ với hoàn cảnh: “Tiếp xúc với những thực tế khắc nghiệt, trải qua
những cuộc vật lộn kiếm sống, con người trí thức tiểu tư sản bị quăng quật nhừ tử cả thể xác
lẫn tâm hồn” [166, tr.483]. Bích Thu nhận ra: “Với các nhân vật nhà văn, nhà giáo nghèo, cái
nhục vì miếng ăn được Nam Cao đẩy lên đỉnh điểm. Đó là sự giằng xé nội tâm giữa “vị nhân
sinh” và “vị nghệ thuật”, giữa những lo lắng đời thường, thế sự với khát vọng sáng tác nghệ
thuật của họ” [Sức sống của một sự nghiệp văn chương; 134, tr.33]. Nguyễn Hoành Khung
(trong Nam Cao, về tác gia và tác phẩm) cho rằng: “Trong khi dựng lại tình cảnh nhếch nhác
của người trí thức nghèo, ngòi bút Nam Cao đã tập trung xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần
của họ, qua đó đặt ra một loạt vấn đề có ý nghĩa khái quát xã hội và triết học sâu sắc. (…).
Đó là tất cả tấn bi kịch đang diễn ra ngấm ngầm trong đời sống tinh thần thế hệ 1930 khi đó”
[134, tr.409-413]. Nhà văn đã phát hiện ra mặc cảm cô đơn, vỡ mộng trong tấn bi kịch tinh
thần của người trí thức, và, qua những câu chuyện về người trí thức: “Câu chuyện đời thường
xoàng xĩnh thế thôi, nhưng bao vấn đề hệ trọng trong tinh thần thời đại đã được đặt ra một
cách ám ảnh: cá nhân và xã hội, lí tưởng và hiện thực, nghệ thuật và tình thương, nhân cách
và hoàn cảnh” [134, tr.475]. Một số bài viết khác về tác phẩm viết về người trí thức của Nam
Cao: Nam Cao và sự lựa chọn một chủ nghĩa hiện thực mới (Phạm Xuân Nguyên), Nam
[Vương Trí Nhàn, Lời giới thiệu Thiếu quê hương; 146, tr.330].
Cao và nghệ thuật sáng tạo tâm lí (Hà Minh Đức) [134], Nam Cao – nhà văn hiện thực
xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn (Trần Đăng Xuyền, Tạp chí Văn học, số 6, 1998)
[153],... đều xoáy sâu vào tấn bi kịch tinh thần của nhân vật trí thức. Đặc biệt, Đinh Trí Dũng
(Bi kịch tự ý thức – Nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của Nam Cao) còn phát hiện ra:
“Trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 không phải chỉ có các nhân vật của Nam Cao
mới có vấn đề tự ý thức. Các nhân vật tiểu tư sản trong truyện ngắn của Thạch Lam, Nguyên
Hồng, Bùi Hiển,… cũng có nhiều phút suy tư dằn vặt đầy cảm động, nhưng chưa ai đưa được
vấn đề tự ý thức của nhân vật lên đến mức sâu sắc, thường trực, nhất quán như ở ngòi bút
Nam Cao” [134, tr.213].
Trong công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ
khám phá nhiều tác phẩm viết về người trí thức trong giai đoạn văn học 1945 – 1975.
Theo ông, tuỳ bút Nhận đường (Nguyễn Đình Thi) đã “ghi lại lộn xộn những thắc
mắc nhiều khi đau xót của một cuộc lột vỏ... Cuộc lột vỏ nhiều khi rất đau đớn” [20,
tr.130] của người trí thức. Còn Đôi mắt (Nam Cao) là “một tuyên ngôn của những nhà
văn lớp trước kiên quyết đoạn tuyệt với con người cũ và cố gắng vươn tới để hoà nhập
quần chúng cách mạng” [20, tr.131]. “Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Sóng gầm (Nguyên
Hồng) miêu tả chuyện thất nghiệp, đói cơm, rách áo, những đau đớn quằn quại trong
tâm hồn lớp tiểu tư sản trí thức nghèo ở thành thị; những con đường đến với cách
mạng khác nhau của họ, những nỗi băn khoăn, lo lắng của họ trước vận mệnh của đất
nước, của dân tộc” [20, tr.230]. Đặc biệt, khi xây dựng nhân vật điển hình Tư (Vỡ bờ),
“Nguyễn Đình Thi tập trung miêu tả niềm say mê sáng tạo của một nghệ sĩ có tài,
trong sạch” [20, tr.357] và “Nhà văn muốn đặt ra vấn đề có tầm khái quát cao: số
phận của những nghệ sĩ muốn sáng tạo ra một nền nghệ thuật chân chính trong xã hội
Tư bản chủ nghĩa, một xã hội mà mọi thứ thiêng liêng nhất của con người đều biến
thành hàng hóa” [20, tr.369]. Những tác phẩm viết về người trí thức trong giai đoạn
này đều khẳng định vai trò nghệ sĩ - chiến sĩ của nhân vật trí thức.
Hà Minh Đức (Khảo luận văn chương) nhận thấy trong Nhật kí Ở rừng “ít nhiều
bóng dáng của con người trí thức tiểu tư sản thời kì trước Cách mạng của Nam Cao
đang tự vượt lên ở trình độ cao hơn. Vẫn những tâm trạng dày vò trong cuộc đấu tranh
giữa hai con người tích cực và tiêu cực được bộc lộ ra một cách chân tình nhưng khác
đi là không xót xa, bế tắc. Con người cũ hiện ra thấp thoáng trong mạch cảm nghĩ như
một liên hệ, một trăn trở để càng nổi lên những suy nghĩ khỏe khoắn, tốt đẹp của con
người mới” [24, tr.328]. Cũng theo nhà nghiên cứu này, qua nhân vật trí thức của mình,
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã “khai thác sâu vào thế giới tiểu tư sản với những màu
sắc đa dạng và phức tạp của nó… Trong cuộc kháng chiến của Thủ đô, những người
trí thức tiểu tư sản, đặc biệt là bộ phận tiểu tư sản nghèo, đã biểu thị sâu sắc lòng
quyết tâm đánh giặc giữ nước” [24, tr.678].
Những tác phẩm viết sau năm 1975 với cái nhìn tiểu thuyết đã làm thay đổi cách
nhìn về nhân vật trí thức. “Khi tiếng nói thế sự vang lên trong văn học, muôn vàn
những sinh hoạt đời thường bày ra trước mắt, văn học đề cập đến cái sai, cái xấu, và
cả cái ác trong nội bộ con người, giữa con người với con người” [La Khắc Hoà, Nhìn
lại những bước đi, lắng nghe những tiếng nói; 89, tr.62]. Cho nên, “Không phải ngẫu
nhiên mà giai đoạn này, trong văn xuôi lại nổi lên nhân vật người trí thức. Trong rất
nhiều lý do, chúng tôi nghĩ có một lý do rất quan trọng này: Trí thức thường nhạy cảm,
dễ thức tỉnh, khả năng tự ý thức cao, hành trình tinh thần của loại nhân vật này thường
phong phú, phức tạp” (Nguyễn Thị Bình; 6, tr.311). Do đó, nhiều bài viết, công trình
nghiên cứu tập trung đi vào khai thác những biểu hiện của nhân vật trí thức trong thời
hiện đại.
Lê Thành Nghị quả quyết, từ nhân vật trí thức trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu, người đọc có thể nhận ra “bài học về nhân thế, sự thực nghiệt ngã trong các mối
quan hệ con người, nỗi buồn về những khuất tất ở đời...” [Nguyễn Minh Châu -
Người mải miết với cái đẹp; 100, tr.188].
Trong Đám cưới không có giấy giá thú, “Ma Văn Kháng viết về cái “bi kịch vỡ
mộng” của “một bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn sách hay để
lầm chỗ” rất tâm huyết, suy nghĩ và trăn trở, khát vọng và nỗi đau trước thời cuộc,
trước tình trạng xuống cấp về trình độ tư duy và phẩm chất đạo đức ngay trong một số
người tự cho mình là cán bộ lãnh đạo, là trí thức hoặc là kỹ sư của tâm hồn” [Phan Cự
Đệ; 20, tr.271]. Lê Thành Nghị (Người trí thức trong Đám cưới không có giấy giá
thú) phân tích rõ nét hơn nữa: “Đám cưới không có giấy giá thú làm nổi rõ trước mắt
bạn đọc một sự tha hóa, pha trộn của đội ngũ trí thức trong trường học, sự tha hóa của
nhân cách, sự pha trộn hổ lốn dẫn đến xung đột gay gắt giữa những người đồng
nghiệp, sự đảo lộn kỷ cương trong một không gian vốn được xem là nền nếp, sự phạm
quy nghiêm trọng ở chốn học đường, những thô phàm trong hành vi và lời ăn tiếng nói
của những thầy giáo - lớp người vốn là kỹ sư của tâm hồn, luôn tôn trọng cái đẹp, cái
chuẩn xác, cái “mực ngay thước thẳng” ở đời” [100, tr.134]. Từ nỗi đau, bi kịch của
một người trí thức, nhà văn Ma Văn Kháng đã khái quát bi kịch chung của người trí
thức trong một xã hội, một môi trường, một nền kinh tế cơ chế thị trường, đồng thời đề
cập đến thực trạng tha hóa, xuống cấp về đạo đức trong một bộ phận trí thức.
Đi sâu vào thực trạng này, nhân vật trí thức càng nhem nhuốc, xúi xó hẳn đi, và phá
hủy kiểu nhân vật trí thức truyền thống. Nguyễn Thị Thu Nguyên (Nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong tiểu thuyết Thiên sứ) đã có những nhận định khái quát: “Trong
truyền thống văn học trước 1945, trí thức như một biểu tượng của dân trí, là tinh hoa
của một cộng đồng, người đại diện cho cái mới, cái tiến bộ… Trong văn học hiện thực
xã hội chủ nghĩa, do hoàn cảnh lịch sử, nhân vật công – nông – binh lên ngôi, nhân vật
trí thức luôn đứng ở vị trí chông chênh và đầy mặc cảm trên hành trình hòa nhập vào
dòng thác cách mạng… Trong văn học đổi mới, sự trở lại của nhân vật trí thức đánh
dấu một thay đổi quan trọng trong sự bừng tỉnh của ý thức cá nhân, đồng thời cũng là
sự thay đổi quan niệm về bản chất văn chương” [89, tr.252]. Ma Văn Kháng đổ lỗi cho
hoàn cảnh đã tạo nên bi kịch của người trí thức. Dựa vào mối quan hệ giữa thời thế và
con người, Nguyễn Khải đưa ra một loạt trí thức “lạc thời”,... Thế nhưng, nhân vật trí
thức của Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu tuy có ít nhiều nét nhem
nhuốc, xúi xó, vẫn được các nhà văn xem họ là “chuẩn” của cách sống đẹp. Còn trong
Thiên sứ, Phạm Thị Hoài đã phá hủy hình tượng nhân vật trí thức truyền thống, nhà
văn “tập trung vào một đối tượng mà chị cho là ưu tú (élite), tầng lớp trí thức. Bằng
một hệ thống chữ nghĩa sắc như dao và một thái độ không chút khoan nhượng, thậm
chí đôi lúc đến mức đanh đá, chị xoáy sâu vào những ung nhọt vẫn bị che giấu của cái
tầng lớp thường đầy ảo tưởng về chính mình đó, mổ xẻ không thương tiếc cái tầng lớp
là đại diện ấy của xã hội, tự đặt nó đối diện với thực chất chẳng hay ho gì của chính nó,
thẳng tay lột tung chiếc mặt nạ lâu nay nó tự đeo cho mình” [Nguyên Ngọc, Văn xuôi
Việt Nam hiện nay – Lôgic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và
triển vọng; 89, tr.175]. Chưa khi nào, nhân vật trí thức bị phanh phui đến tận cùng
những mặt trái, góc khuất như trong những tác phẩm viết về họ sau năm 1975.
Mang tinh thần phê phán, nhà văn có ý thức mổ xẻ cái xấu xa, cái thấp hèn của con
người. Cho nên, hình tượng nhân vật trí thức không còn đẹp đẽ như trong nhận thức
truyền thống của cộng đồng nữa. Nguyễn Huy Thiệp viết khá nhiều truyện ngắn về
người trí thức. “Nhà văn đề cập đến những “trí thức giả cầy” và “sự ngu dốt của bọn
có học”. Đối với Nguyễn Huy Thiệp, nghệ sĩ chẳng phải loại người nào đặc biệt. Văn
chương cũng như mọi nghề khác vậy thôi. Thậm chí một số ông nhà văn còn nhếch
nhác, bệ rạc quá quắt nữa là đằng khác” [Nguyễn Đăng Mạnh; 97, tr.254]. Sử dụng
những nhân vật đã ổn định về giá trị trong quá khứ để chuyển tải các vấn đề hiện tại,
Nguyễn Huy Thiệp đã tạo nên một cuộc tranh cãi thú vị trong giới nghiên cứu, phê
bình: Một trường hợp đang bàn cãi (Đặng Anh Đào; Văn nghệ, ngày 3-9-1988), Khởi
sắc hay là sự chuyển mình của văn học (Nguyễn Oanh, Văn nghệ, 3-12-1988), Về
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (Nguyễn Văn Lưu, Báo Hà Nội mới, 28-8-
1988),... Trong Nhà văn hiện đại - Những giới hạn và sứ mệnh, Trần Văn Toàn có
cái nhìn thấu đáo hơn: “Các nhà văn trong những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là
những người có thể tạng mẫn cảm. Họ hiểu và cảm nhận một cách tinh tế sức o ép của
cuộc đời lên tồn tại của một cá thể. Có khi họ còn được miêu tả như một nhà tiên tri
thấu thị. Rất tinh tế nhưng bất lực. Tất cả họ đều bị lún sâu trong đám bùng nhùng của
hiện thực đời sống, hoàn toàn không có khả năng tác động đến hiện thực” [89,
tr.133]…
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chỉ trình bày một số ý kiến, bài viết có liên
quan tới đề tài. Nhìn chung, có nhiều ý kiến, bài viết về nhân vật trí thức trong văn học,
nhưng đó mới chỉ là những bài viết rải rác, chưa có một công trình dày dặn nào khảo
sát loại hình nhân vật này qua ba giai đoạn phát triển của văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam hiện đại. Do vậy, chúng tôi, bằng khả năng còn hạn hẹp của mình, mong muốn
đóng góp một vài ý kiến trong việc nghiên cứu hình tượng người trí thức trong văn
xuôi Việt Nam hiện đại.
5. Đóng góp của luận văn
5.1. Trên cơ sở nhìn nhận vai trò của người trí thức văn nghệ sĩ trong đời sống xã
hội hiện đại qua từng giai đoạn phát triển, luận văn xác định vị trí của hình tượng nhân
vật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
5.2. Với cái nhìn hệ thống, luận văn khảo sát, mô tả hình tượng nhân vật trí thức -
văn nghệ sĩ theo sự phân chia giai đoạn và theo cái nhìn nghệ thuật của nhà văn (tư duy
sử thi hay tư duy tiểu thuyết); từ đó, rút ra những đặc điểm chính của loại nhân vật này
trong quá trình hình thành và phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
5.3. Luận văn tìm hiểu và khái quát những hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng
nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại để làm nổi rõ hơn vị trí,
đặc điểm của hình tượng nhân vật trong văn học, đồng thời thấy được phần nào đặc
điểm sáng tạo nghệ thuật của nhà văn - những trí thức ngoài cuộc đời.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn triển khai thành
ba chương:
Chương 1: Người trí thức hiện đại Việt Nam - từ cuộc đời đến những trang văn
Chương 2: Hình tượng nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại - những
mẫu người đa tính cách
Chương 3: Hình tượng giàu ý nghĩa nhận thức và đậm chất tự truyện, bi kịch
Chương 1:
NGƯỜI TRÍ THỨC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
TỪ CUỘC ĐỜI ĐẾN NHỮNG TRANG VĂN
Trí thức là người có kiến thức, tài năng, nhân cách và cá tính sáng tạo. Ở bất kỳ
thời đại nào, họ đều có vai trò to lớn và đặc biệt quan trọng đối với sự tồn vong, phát
triển và tiến bộ của xã hội. Họ thực hiện sứ mệnh của lịch sử, thiên chức của người
“làm đổi thay thế giới”, khai hóa đất nước, đưa đất nước, dân tộc đến với chân trời tri
thức, với ánh sáng văn minh và giá trị nhân văn cao cả. Bàn tay và khối óc của họ làm
ra của cải vật chất cho xã hội, phát minh ra những thành tựu khoa học vĩ đại, kiến thiết
nên những công trình kiến trúc đồ sộ, vẽ nên những bức danh họa muôn đời, sáng tạo
những áng văn chương bất hủ,…
Người trí thức in đậm dấu ấn cá nhân của mình ở những biến chuyển lớn lao của
đời sống xã hội, của quốc gia dân tộc. Văn học là nơi ghi lại những dấu ấn sâu đậm đó
của người trí thức, đặc biệt của giới văn nghệ sĩ. Văn học và đời sống có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Văn học phản ánh mọi khía cạnh của đời sống. Đời sống xã hội với
những biến cố quan trọng, những sự thay đổi lớn lao ảnh hưởng đến cuộc sống con
người, tác động sâu sắc đến tinh thần, tình cảm, suy nghĩ, hành động của họ. Có thể nói,
mọi sự thay đổi của đời sống xã hội đều tác động đến người trí thức, và cũng chính
người trí thức, với nhu cầu nội tại của mình, góp phần làm thay đổi đời sống xã hội.
Văn học là nơi thể hiện sâu sắc, chân thực, toàn diện hình ảnh và vai trò của họ ở mỗi
giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển của đất nước. Ở chương 1, tác giả luận văn đi vào tìm
hiểu vai trò của người trí thức trong đời sống xã hội hiện đại và vị trí của hình tượng
người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại qua ba giai đoạn phát triển: Đầu thế kỉ
XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, từ năm 1945 đến năm 1975, và từ sau năm
1975 (tính đến năm 2000).
1.1. Vai trò của tầng lớp trí thức trong đời sống xã hội hiện đại
1.1.1. Người khai sáng văn hóa và tiên phong trong cải cách xã hội (Giai đoạn
từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945).
Sau khi xâm lược nước ta, Pháp tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất
từ năm 1897 đến năm 1914, lần thứ hai từ năm 1919 đến năm 1929) khiến cho nước ta
suy sụp, kiệt quệ về kinh tế, đời sống nhân dân đói khổ, lầm than, biến nước ta thành
nơi tiêu thụ hàng hóa, và thành nơi cung cấp sức người sức của cho gót giày xâm lược
của bọn lính viễn chinh. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa, cơ cấu xã hội Việt Nam có
những biến đổi sâu sắc. Một số thành phố công nghiệp ra đời, nhiều đô thị, thị trấn xuất
hiện, cuộc sống thay đổi từ thành thị đến nông thôn. Những giai cấp, tầng lớp xã hội: tư
sản, tiểu tư sản (trí thức, viên chức, học sinh, sinh viên,…), công nhân, dân nghèo
thành thị,… xuất hiện ngày càng đông đảo.
Trước thực trạng đó, tầng lớp trí thức phải trăn trở, hành động để tìm một lối thoát
cho đất nước. Ngay từ đầu thế kỉ, các nhà nho yêu nước mang tư tưởng tiến bộ đã thức
thời, và, chịu tác động của việc truyền bá tân thư, đã tập hợp lại đi tìm một đường lối
cứu nước mới : cải cách và duy tân. Họ thấy được tầm quan trọng của văn hóa và trình
độ dân trí của một quốc gia nên đã mở trường Đông Kinh nghĩa thục để truyền bá tư
tưởng yêu nước và duy tân. Phong trào lan rộng từ Bắc chí Nam, có sức ảnh hưởng
mạnh mẽ đối với những nhà nho và trí thức tân học buổi đầu. Tuy về sau phong trào
duy tân thất bại, nhưng nó đã để lại những âm vang cuộn trào trong lòng những người
yêu nước, và ghi lại những dấu ấn khó phai về vai trò, tấm lòng và bản lĩnh của trí thức
Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa phong kiến Trung Quốc,
bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Lớp thanh
niên Việt Nam tiếp xúc với văn minh phương Tây, văn hóa Pháp, trở thành tầng lớp trí
thức Tây học. Bên cạnh đó, ngoài chính sách bình định quân sự và khai thác kinh tế,
thực dân Pháp còn thi hành chính sách văn hóa nô dịch, biến một số trí thức trở thành
những kẻ lai căng, nô lệ, thực thi những chính sách cai trị của chúng, thành những “ông
Tây An Nam” lạc lõng trên đất nước mình. Còn phần lớn trí thức Tây học đều có tinh
thần dân tộc sâu sắc và có ý thức tự học, tự lập rất cao, mong muốn cống hiến tài năng,
tâm huyết cho đất nước. Họ ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình, mang khát vọng
thay đổi hoàn cảnh tối tăm hiện tại. Để nâng cao dân trí, họ khuyến khích học chữ quốc
ngữ. Họ đề xướng nhiều phong trào cải cách xã hội, chống lại lễ giáo phong kiến lỗi
thời, lạc hậu, tôn trọng tự do cá nhân,… Có thể kể qua một số tên tuổi như Vũ Ngọc
Phan, Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn, Đông Hồ, Thiếu Sơn, Hoài
Thanh, Hải Triều, Nam Xương, Nguyễn Huy Tưởng,… Những trí thức này, ngoài vai
trò khai hoá ánh sáng và cải cách xã hội, họ còn đảm nhận những vai trò kép: nhà
chính trị - khách văn chương.
Trong giai đoạn này, hoạt động kinh doanh văn hóa ra đời và phát triển sôi động.
Do sự phát triển của đô thị, một lớp công chúng mới xuất hiện, có đời sống tinh thần và
thị hiếu mới. Họ tìm đến văn học như một phương tiện giải trí, một công cụ nhận thức
về thực tại cuộc sống đang thay đổi xung quanh, và những bí ẩn trong đời sống nội tâm,
trong thế giới tinh thần của con người hơn là những bài học thuyết giảng về đạo đức
của văn học trung đại. Họ đòi hỏi tác phẩm văn học phải phù hợp và phản ánh được
nếp tâm lí, cách cảm nghĩ, những nhu cầu mới,… Mặt khác, chữ quốc ngữ được phổ
biến rộng rãi đã tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tiếp xúc với sách báo, với văn
chương. Những trí thức dân tộc nhân đó mà thực hiện sứ mệnh khai thông dân trí, mở
mang dân khí. Họ dùng văn chương như một phương tiện chuyển tải ánh sáng văn hóa
và phát huy hồn dân tộc. Qua văn chương, họ gửi vào đấy lòng yêu tiếng Việt. Văn
chương có thể làm cho xã hội tiến bộ hơn, văn minh hơn, và người trí thức phải là
những người tiên phong, nòng cốt trong việc khai thông dân trí, tác động mạnh mẽ đến
đời sống xã hội. Những điều này khiến cho đời sống xã hội đầu thế kỉ XX đến Cách
mạng tháng Tám năm 1945 trở nên sôi động, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đổi
mới theo hướng hiện đại hóa, mau chóng hòa nhập vào thế giới.
Hơn nữa, dưới chính sách chèn ép, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp, đời sống của
nhân dân ta nói chung, đời sống của tầng lớp trí thức nói riêng lâm vào tình trạng ngột
ngạt, khó khăn, bế tắc. Thực thi những thủ đoạn cai trị hà khắc, bạc đãi các tầng lớp
tiểu tư sản, các trí thức người Việt, thực dân Pháp cố tình đẩy họ vào tình trạng thất
nghiệp, bần cùng hóa, nhằm triệt tiêu khả năng phản kháng của họ. Trong khi đó, trên
vũ đài chính trị xuất hiện những lực lượng xã hội mới. Đảng Cộng Sản Đông Dương ra
đời 2/1930, phong trào cách mạng do giai cấp vô sản và Đảng lãnh đạo phát triển với
các cao trào mới. Giai cấp tiểu tư sản Việt Nam bất mãn sâu sắc với thực dân Pháp, lại
vốn có lòng yêu nước, nên không ít trí thức trong số họ, cùng với các giai cấp khác
như nông dân, công nhân,… đã đến với cách mạng, tham gia phong trào giải phóng
dân tộc, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh giành độc lập, tự do, thể hiện rõ ý thức
trách nhiệm của người công dân trong một đất nước đang bị nô dịch.
1.1.2. Những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, người thư kí trung thành của thời
đại (Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975)
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đem lại những đổi thay lớn lao, kỳ
diệu cho dân tộc và cho cả những cuộc “đời thừa” của người trí thức. Từ thân phận nô
lệ, con người ngỡ ngàng, sung sướng đón nhận sự tự do của một nước Việt Nam độc
lập. Đời sống cá nhân được đặt vào cộng đồng, sống với đời sống chung của dân tộc và
đất nước trong những năm tháng cam go, quyết liệt, trong dòng chảy của lịch sử, lay
chuyển và thức tỉnh ở mỗi cá nhân ý thức công dân, tinh thần dân tộc tiềm tàng bấy lâu.
Người trí thức, với sự nhạy cảm vốn có, đã cảm nhận được một cách sâu sắc những
biến đổi lớn lao ấy.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc được giải phóng, bước
vào thời kì khôi phục đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Lúc này, xã hội Việt
Nam lại đứng trước những thử thách mới: Một mặt là những nhu cầu thiết yếu của con
người trong cuộc sống thời bình sau bao nhiêu năm chiến tranh khốc liệt; Một mặt lại
tiếp tục đấu tranh chống một thế lực thù địch mới - đế quốc Mỹ - để thực hiện những
mục tiêu cách mạng: thống nhất đất nước và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Những thử
thách này buộc con người Việt Nam phải phát triển theo những điều kiện lịch sử mới,
những yêu cầu mới của cách mạng trong sự thống nhất hài hòa giữa cái riêng và cái
chung.
Sau hiệp định Genève, đất nước chia hai, miền Nam buộc phải sống dưới ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Mỹ và chính quyền Sài Gòn ra sức
thực hiện những thủ đoạn tàn ác đàn áp nhân dân, chống phá cách mạng, muốn làm
tiêu tan khát vọng độc lập, thống nhất, dân chủ, và thủ tiêu ý chí chiến đấu của nhân
dân ta. Chúng muốn “Chinh phục trái tim và khối óc”, “Hủy diệt màu xanh trong tâm
hồn Việt Nam”. Chúng đàn áp dã man giới trí thức tiến bộ ở các thành thị miền Nam.
Bất chấp sự đàn áp dã man đó, trí thức Nam Bộ vẫn tiếp tục đấu tranh sôi nổi ở các đô
thị miền Nam, trong đó, văn hóa văn nghệ là một trận tuyến. Văn học yêu nước ở các
đô thị miền Nam hình thành và phát triển trong một hoàn cảnh phức tạp với sự phân
chia giới tuyến giữa những văn nghệ sĩ phản động làm tay sai cho Pháp và những văn
nghệ sĩ chân chính một lòng vì đất nước.
Trải qua bao nhiêu đau thương mất mát, trả giá bằng máu và nước mắt, cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ là một thử thách vô cùng khốc liệt, nhưng cũng là một chiến
công vĩ đại, oanh liệt, hào hùng. Cuộc chiến đấu ấy đã làm sục sôi tình yêu nước, khơi
dậy mọi sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, tập hợp mọi công dân Việt Nam trong một ý
chí chung, một vận mệnh chung, một nhiệm vụ chung. Hoàn cảnh đất nước đòi hỏi con
người phải có sự biến chuyển, sự thay đổi cho phù hợp với thời đại. Nếu trước đây,
người trí thức “bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước”, thì bây giờ, đã thực sự có
bước chuyển tiến bộ trong nhận thức, tư tưởng, hành động. Từ địa vị nô lệ đến địa vị
người làm chủ đất nước, người trí thức hiểu một cách sâu sắc vai trò của họ đối với sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. “Hơn ai hết, họ cảm nhận được sự
thay đổi của vận mệnh dân tộc, vận mệnh công dân và giác ngộ sâu sắc về vai trò mới
của mình. Sau một thoáng ngơ ngác, choáng ngợp của buổi “ban đầu dân quốc”, các
nhà văn, nhà thơ đã mau chóng hòa nhập, mau chóng tìm được nguồn cảm hứng mới
mẻ, không kém phần sôi nổi và bồng bột từ thực tế lịch sử mới để sáng tác. Từ thế giới
cái Tôi tuyệt đối, cái Tôi nhiều giọng điệu, nhiều cung bậc từng thống lĩnh văn chương
trước năm 1945, các nhà văn, nhà thơ đã bắt đầu làm quen với thế giới của cái Ta hòa
đồng, cái Ta không ranh giới giữa nghệ sĩ và công dân, giữa nghệ sĩ và Tổ quốc” [164,
tr.568]. Người trí thức thực hiện vai trò kép: nghệ sĩ - chiến sĩ, sống, lao động, chiến
đấu cho Tổ quốc vinh quang. Họ dùng tài năng, trí tuệ và ngòi bút của mình phục vụ
cho kháng chiến, xây dựng một nền văn nghệ cách mạng, có sức động viên, cổ vũ lớn
lao tinh thần của quần chúng tham gia kháng chiến. Trong Đề cương văn hóa Việt Nam
năm 1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì
văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng… Anh chị
em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó” [Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.646]. Trước sự đổi đời và đổi thời, giới văn nghệ sĩ Việt
Nam đã kịp thời thức tỉnh và thức thời, đã có nhiều sự đóng góp tích cực cho cách
mạng. Chúng ta có thể kể đến những tên tuổi: Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên
Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn
Đình Thi, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu,…
Có thể nói, giới trí thức đã góp phần không nhỏ cho thắng lợi của dân tộc. Có một
thời, người ta quan niệm trí thức chỉ là tầng lớp trung gian của cuộc kháng chiến. Họ
không đông đảo như nông dân, công nhân - lực lượng nòng cốt của kháng chiến. Nhiều
người trong số họ không trực tiếp cầm súng chiến đấu. Nhưng, xét cho cùng, chính trí
thức là người góp phần đưa kháng chiến đến thành công. Họ soi lối, chỉ đường, vạch ra
những kế hoạch tác chiến cụ thể. Họ biết cách đi sâu sát quần chúng, tìm hiểu tâm tư,
nguyện vọng, tác động to lớn đến tâm lí chiến đấu. Hãy nhìn lại sự đóng góp to lớn của
họ trên mặt trận văn hóa văn nghệ để đánh giá một cách khách quan hơn vai trò của trí
thức ở giai đoạn này.
1.1.3. Người trí thức - điểm hội tụ của trình độ văn minh dân trí, dân chủ và phát
triển đời sống xã hội (Giai đoạn sau 1975)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước tự do, con người làm chủ đất nước,
làm chủ vận mệnh nhưng lại đương đầu với những khó khăn chồng chất, những thử
thách khắc nghiệt của thời hậu chiến. Từ thời chiến chuyển sang thời bình, cuộc sống
lại hiện ra với tất cả những mặt phức tạp vốn có của nó. Những khó khăn và khủng
hoảng của đời sống kinh tế xã hội, tính phức tạp và sự chi phối của kinh tế thị trường,
sự đổi thay những quan niệm về đạo đức, nhân sinh, lối sống,… đẩy tới sự phân cực
giữa trắng – đen, thiện – ác, tốt - xấu. Khái quát bức tranh xã hội Việt Nam những năm
bước ra từ thời chiến, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nhận định: “Thời này diễn ra
một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn
thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi
con người” [161, tr.5]. Hiện thực cuộc sống với những bộn bề, trăn trở, với những
niềm vui và nỗi buồn của con người vừa bước ra khỏi cơn ác mộng đằng đẵng ba mươi
năm là sự thách thức lớn đối với người trí thức. Làm thế nào để xây dựng lại đất nước,
làm thế nào để hàn gắn vết thương chiến tranh,… Đến giai đoạn này, người trí thức
càng thể hiện rõ hơn vai trò khai sáng. Họ tìm cách cải cách xã hội cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu.
Yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước ngày càng trở nên bức thiết. Trước tình hình đó,
tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” (Đại hội Đảng
lần VI/1986) đã mang lại luồng sinh khí mới cho mọi mặt đời sống xã hội, đã củng cố
lòng tin của giới trí thức, giúp họ nghĩ hành động theo đúng lương tâm, lương tri, và lý
tưởng của mình, góp phần phát triển đất nước.
Từ những năm 90 trở lại đây, đất nước ta chuyển hướng theo nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh trong bối cảnh giao lưu văn hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng toàn
cầu hóa. Giao lưu văn hóa là một cơ hội để văn hóa, văn học Việt Nam có dịp cọ xát
với thực tế, tìm kiếm một hướng đi riêng. “Sự mở rộng giao lưu văn hóa, không chỉ với
khu vực các nước Xã hội chủ nghĩa mà là với toàn thế giới, chấp nhận giao lưu đa
chiều, đa phương, tuy không tránh khỏi những phức tạp, nhưng rõ ràng có tác dụng
tích cực, thúc đẩy sự khởi phát nhiều tiềm năng văn học dân tộc, nhiều thể nghiệm
cách tân” [6, tr.134]. Như vậy, trong thời đại hội nhập, một yêu cầu cơ bản và cần thiết
được đặt ra là giao lưu văn hóa “hòa nhập chứ không hòa tan”, tiếp thu những văn
minh tiến bộ nhưng vẫn giữ vững bản sắc dân tộc – cái gốc của dân tộc Việt Nam.
Muốn được như vậy, người trí thức phải đi đầu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bước ra từ cuộc chiến, người trí thức trở về với cái Tôi cá nhân (cái Tôi đã có sự
hòa hợp, thống nhất với cái Ta), trăn trở tìm hướng phát triển cho đất nước: công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo cơ chế xã hội chủ nghĩa có sự chi phối của kinh
tế thị trường; và một hướng đi mới cho văn học: xây dựng một nền văn hóa, văn học
đậm đà bản sắc dân tộc, bắt kịp và giao lưu với văn hóa, văn học thế giới. Họ trở thành
điểm hội tụ của trình độ văn minh dân trí, dân chủ, thành lương tri và sự phản tỉnh của
dân tộc, thành sức mạnh của nhân cách cá nhân trên hành trình tự hoàn thiện chính
mình.
1.2. Sự nhận thức, tự nhận thức về thiên chức xã hội và về số phận cá nhân, bi
kịch tinh thần của tầng lớp trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
1.2.1. Ưu thế nhận thức của văn xuôi nghệ thuật hiện đại
Trong văn học trung đại, thể loại văn học chủ đạo là thơ. Khách văn chương -
những trí thức phong kiến - dùng hình thức văn học này để giãi bày tình cảm và nói chí.
Thơ giàu cảm xúc, giàu nhạc điệu, giàu hình ảnh, dễ dàng truyền tải những tình cảm, ý
chí của chủ thể sáng tạo (người nói, người viết) đến khách thể tiếp nhận (người đọc,
người nghe). Thơ tác động đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên
tưởng, tưởng tượng phong phú, nhưng cái cốt lõi của thơ là trữ tình. Nó là tấm gương
của tâm hồn, là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước
cuộc đời. Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống
khách quan. Trong văn học hiện đại, thơ chiếm một tỉ lệ lớn trong sáng tác, ở bất kỳ
hoàn cảnh nào, thời đại nào, con người cũng có nhu cầu bộc lộ tình cảm của mình.
Văn xuôi xuất hiện muộn hơn thơ. Bắt đầu từ “Chiếu dời đô” (Lý Công Uẩn) năm
1010, đến ba thế kỉ sau, đời Trần mới có tiếp những áng văn xuôi kể chuyện ma quái,
thần linh (Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh). Năm thế kỉ nữa mới có được văn
xuôi quốc ngữ hiện đại nhờ vào sự truyền bá rộng rãi chữ quốc ngữ, sự xuất hiện của
báo chí và phong trào dịch thuật, và nhờ vào những tìm tòi, thể nghiệm (cả về nội dung,
hình thức, thể loại,… ) của người trí thức trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Cuối thế kỉ XIX, nhiều nhà nho, quan lại hay thân sĩ - những trí thức của thời đại cũ
- hoặc tự nhiệm hoặc hưởng ứng phong trào Cần Vương, đứng lên cầm gươm giết giặc
và cầm bút làm văn chương: Nguyễn Đình Chiểu, Trương Định, Thủ Khoa Huân,
Nguyễn Trung Trực, Phan Tòng,… Họ kêu gọi nhân dân chống giặc, thổ lộ nỗi lòng
trước cảnh nước mất nhà tan, ca tụng những gương trung nghĩa của anh hùng cứu nước.
Thể loại văn học được sử dụng chủ yếu cho việc bày tỏ cảm xúc là chiếu, biểu, thư,
hịch, câu đối, văn tế, thơ cảm hoài.
Đầu thế kỉ XX, những nhà nho có tư tưởng tiến bộ, dân chủ (Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thượng Hiền,…) đã phát động phong trào
Duy tân rộng khắp trong cả nước nhằm truyền bá, giáo dục cho nhân dân những tư
tưởng mới, giác ngộ nhân dân, tập hợp lực lượng thanh niên yêu nước, để từ đó có thể
phát kiến con đường cứu nước mang lí tưởng tư sản. Nhận ra sự ảnh hưởng to lớn,
mạnh mẽ, và sức rung động sâu xa của văn chương, họ biến văn chương thành vũ khí,
thành “thứ công cụ vạn năng, vừa là trống, là chiêng thức tỉnh người mê ngủ, vừa là
gươm, là súng đánh đổ cường quyền” [21, tr.83]. Để thực hiện được điều đó, cần phải
có một thứ ngôn ngữ thống nhất (vì trong nhân dân nhiều người không biết chữ Hán,
chữ Nôm), và một thể loại thích hợp với việc giải thích, trình bày tư tưởng. Vấn đề
thiết yếu đặt ra là cải cách văn tự, cải cách ngôn ngữ, thể loại nghệ thuật của văn học.
Đông Kinh nghĩa thục đã chủ trương dùng chữ quốc ngữ và viết văn xuôi. Phục vụ cho
mục đích chính trị - xã hội, nhưng vô hình chung, các nhà nho duy tân đã là người khơi
nguồn cho sự phát triển của văn xuôi tiếng Việt.
Từ đó, văn xuôi - với sự phát triển phong phú của các thể loại và sự hiện đại hóa
trong kĩ thuật tự sự - đã trở thành một hình thức nghệ thuật thích hợp với việc phản ánh
đời sống và những biến chuyển trong tâm trạng con người. Tác phẩm của Tự lực văn
đoàn phản ánh đời sống thành thị Việt Nam những năm 1930 – 1945 cùng với những
tâm trạng băn khoăn của một bộ phận trí thức mới muốn đấu tranh đòi giải phóng cá
nhân, lên tiếng cho tự do hôn nhân, phê phán kịch liệt đại gia đình phong kiến. Tác
phẩm của các nhà văn hiện thực (Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao,…) đi sâu vào những đề tài xã hội và đời tư, thế sự, bộc lộ
niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận của con người, phản ánh hiện thực cuộc sống
tối tăm, ngột ngạt, bế tắc, có tác dụng tích cực cho sự chuyển biến tư tưởng và nhận
thức đúng đắn hiện thực của lớp thanh niên giàu lòng yêu nước, muốn thay đổi hoàn
cảnh hiện tại của đất nước với một khát vọng không che giấu: thoát khỏi thân phận nô
lệ, giành lại tự do. Văn xuôi trong giai đoạn 1945 - 1975 đã phản ánh hiện thực đời
sống trong hai cuộc chống Pháp và chống Mỹ; ghi lại và tạo dựng được những bức
tranh chân thực về một giai đoạn lịch sử của dân tộc với nhiều biến cố trọng đại, nhiều
gian lao, hi sinh, nhưng cũng rất đỗi hào hùng; thể hiện được những hình ảnh mới mẻ
về quần chúng nhân dân trong sự thức tỉnh và trưởng thành với sức mạnh vĩ đại và
những chiến công, những hi sinh to lớn, những phẩm chất cao đẹp kết tinh truyền
thống dân tộc và tinh thần của thời đại. Còn tác phẩm văn xuôi sau năm 1975 thì phản
ánh cuộc sống như một phức hợp với ngổn ngang những tạp âm đời thường, đi sâu vào
nỗi mất mát của con người bước ra từ cuộc chiến, cuộc sống đời thường với những góc
khuất, những “vùng mờ ẩn ức”, hạnh phúc riêng tư của con người, đời sống tâm linh
với những sắc thái tình cảm, những nhu cầu bản năng, những dục vọng thấp hèn,…
Như vậy, văn xuôi phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó qua con người,
hành vi, sự kiện được miêu tả và kể lại bởi một người kể chuyện (người trần thuật) nào
đó. Sự vận động của hiện thực cuộc sống được phản ánh qua các sự kiện, biến cố trong
tác phẩm, qua đó, góp phần khắc họa rõ nét tính cách nhân vật, số phận từng cá nhân.
Văn xuôi có khả năng tái hiện đời sống xã hội rộng lớn và bộc lộ, thể hiện từng số phận
con người, cho nên nó mang ưu thế đặc thù: chức năng nhận thức. Nhờ ưu thế nhận
thức đó, văn xuôi với các thể loại của nó (tiểu thuyết, truyện ngắn, tuỳ bút, hồi kí, nhật
kí,…) được sử dụng để thể hiện hình tượng người trí thức trong đời sống một cách toàn
vẹn, sinh động, đồng thời đi sâu khám phá số phận của tầng lớp trí thức trong việc thực
hiện vai trò xã hội và trong cuộc sống cá nhân.
1.2.2. Sự nhận thức và tự nhận thức về thiên chức xã hội của tầng lớp trí thức
Đảm nhận vai trò khai sáng văn hóa và tiên phong trong cải cách xã hội, người trí
thức nhận thức rất rõ về thiên chức cao cả của tầng lớp mình.
1.2.2.1. Sống trong một nước thuộc địa, bị nô dịch, bị cai trị bằng những chính sách
khủng bố, đàn áp, đại đa số quần chúng đói nghèo, mù chữ, trình độ dân trí chưa cao,
trong khi đó đất nước đang chuyển mình lớn lao, yêu cầu của thời đại, của dân tộc đang
thôi thúc mãnh liệt, người trí thức nhận thức và ý thức được vai trò, thiên chức của
mình đối với sự phát triển xã hội. Trong bài “Thiên chức của văn sĩ Việt Nam”, nhà
văn Lan Khai từng khẳng định: “Trong bài diễn văn đọc tại hội nghị quốc tế các nhà
văn họp năm 1935, một văn sĩ Pháp, André Gide đã nói: “Ngày nay, vấn đề cốt yếu là
tạo ra một nhân loại mới”. Tôi muốn nói khác: “Ngày nay, vấn đề cốt yếu của chúng
ta là tạo ra cho cuộc đời tương lai một lớp người Việt Nam mới, bằng những khả năng
của dân tộc” [Dẫn theo 164, tr.389]. Muốn tạo ra “một lớp người Việt Nam mới”, tầng
lớp trí thức phải đóng góp tài năng, truyền bá ánh sáng văn hóa, nâng cao dân trí, có
những chính sách cải cách xã hội cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của xã hội
đương thời. Vận mệnh và trình độ của một quốc gia được đo bằng trình độ của người
trí thức.
Ở thời kì trung đại, văn chương là một trong những thú vui tiêu khiển thanh nhã
của nhà nho. Họ thuộc tầng lớp quý tộc, quan lại, có cuộc sống sung túc hoặc trung lưu.
Những vấn đề của cuộc sống đời thường (cơm áo gạo tiền) chưa tác động sâu sắc đến
họ. Họ không xem văn chương là một cách để kiếm sống. Người sáng tác chưa có ý
thức rõ ràng về mục đích của việc cầm bút, cũng như chưa quan tâm đến “quyền tác
giả”. Trái lại, người trí thức của thế kỉ XX ý thức rất sâu sắc về nghề nghiệp. Viết văn
trở thành một nghề để kiếm sống (Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt, Cơm áo không đùa
với khách thơ), và để thực hiện lí tưởng, hoài bão trong cuộc đời. Lí tưởng, hoài bão đó
không gì khác hơn là muốn nâng cao dân trí người Việt Nam và cải tạo xã hội. Hơn thế
nữa, viết văn là cái nghề không nhằm vào sự giàu sang, vinh thân phì gia, càng không
chịu thân phận công chức nô lệ. “Cái định hướng chọn loại nghề tự do này cũng nói
lên phần nào ý thức dân tộc, lòng tự trọng, niềm mong mỏi tự do của người trí thức
Việt Nam; và mặt khác cũng chứng minh sự nhạy cảm của một thế hệ trí thức trước
nhu cầu canh tân, đổi mới. Họ đã không thể đi con đường của các văn thân - sĩ phu
trước đó hoặc của những người cộng sản đồng thời là con đường đầy chông gai và
nguy hiểm; không thể hoặc phải tránh những con đường đó, họ phải chọn con đường
xây dựng nền văn hóa dân tộc theo xu thế hiện đại, để cho kịp người và bằng người”
[164, tr.392]. Nhận thức được nghề văn thích hợp với điều kiện kinh tế, khả năng, tâm
lí của mình, giới trí thức tân học buổi đầu, và nhất là lớp trí thức Tây học những năm
1930 – 1945, đã tìm đến văn chương như một lẽ sống duy nhất. Trong hoàn cảnh nô lệ,
ngoài con đường làm cách mạng, con đường làm văn chương thích hợp với các trí thức
tâm huyết với đất nước. Qua văn chương, họ có thể nói tiếng nói của dân tộc, làm cho
nó trong sáng, tinh tế hơn, góp phần phát triển nền văn hóa của dân tộc, khơi dậy trong
nhân dân tình yêu sâu sắc đối với tiếng Việt.
1.2.2.2. Cách mạng tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ đã đem lại cho giới trí thức một sự phát hiện lớn lao: Sức mạnh quật
khởi của đất nước và con người Việt Nam trong một vẻ đẹp mới lạ của cuộc sống thời
chiến, của đời sống cộng đồng. Người trí thức nhận ra tâm thế của mình thay đổi theo
sự đổi thay của thời đại. Sau phút ngỡ ngàng, họ sung sướng và nhanh chóng bắt kịp
bước đi của lịch sử. Họ không còn muốn trốn chạy, ẩn mình trong những “vỏ ốc”,
những “tháp ngà” của cái tôi cô đơn, riêng lẻ. Họ nhận ra: “Cảnh tưng bừng của cả
dân tộc Việt Nam đang trỗi dậy. Tôi cảm thấy khắp nơi ở xung quanh tôi và trong lòng
tôi một cuộc tái sinh màu nhiệm” [Hoài Thanh. Dân khí, Tạp chí Tiên phong, số
3/1945]. Họ đã phải tiến hành cuộc đấu tranh tư tưởng gian khổ, phức tạp để nhận thức
và tự nhận thức về thiên chức xã hội mới trong giai đoạn mới của đất nước. Phần đông
người trí thức đi theo cách mạng, phục vụ cách mạng, mong muốn cống hiến sức lực,
tài năng, vạch đường, chỉ lối đưa cách mạng đến thành công, đưa đất nước thoát khỏi
ách nô lệ. Nhà văn vừa sáng tác với tư cách một nghệ sĩ sáng tạo, vừa sáng tác với tư
cách một người làm nhiệm vụ cổ động, tuyên truyền cách mạng, ghi lại những mâu
thuẫn của thời đại, những vấn đề của cuộc sống tinh thần, của lịch sử dân tộc.
Chẳng hạn như phong trào đấu tranh chính trị và khuynh hướng văn học yêu nước,
cách mạng ở các đô thị miền Nam (1954 – 1975). Mỹ và chính quyền Sài Gòn dùng
văn nghệ như một vũ khí chống lại cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc ta. Trong khi
không ít trí thức lầm đường, lạc lối, bị “chiêu bài” của Mỹ làm mờ mắt, quay lưng lại
với nhân dân, viết những văn phẩm suy đồi, phản động, lệch lạc, tiếp sức cho văn nghệ
thực dân mới,... thì số đông trí thức chân chính đã dấy động những cuộc đấu tranh
chính trị, những cuộc biểu tình rộng khắp trong sinh viên, học sinh: Trần Quang Long,
Vũ Hạnh, Sơn Nam, Lê Vĩnh Hòa, Miên Đức Thắng, Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Văn
Xuân, Lý Chánh Trung, Trần Nguyên Lan, Lữ Phương,... Vũ khí của họ chính là ngòi
bút:
Con sẽ vót nhọn thơ thành chông
Xuyên vào gan lũ giặc
Con sẽ mài thơ thành kiếm sắc
Chặt đầu văn nghệ tay sai…
(Thưa mẹ trái tim - Trần Quang Long)
Họ nhận thức và ý thức sâu sắc trách nhiệm và nhiệm vụ của một người cầm bút:
“Văn học ngày nay của chúng ta làm gì khác hơn nếu không phơi trần ra sự thực ấy để
kêu đòi cho đời sống tươi sáng hơn” [Lữ Phương - Mấy vấn đề văn nghệ, NXB Trình
bày, Sài Gòn, 1967]. “Bút máu” (Vũ Hạnh) là một tuyên ngôn nghệ thuật về trách
nhiệm nặng nề của người cầm bút, đồng thời là lời cảnh báo gián tiếp đến những cây
bút phản động, tiếp tay cho kẻ thù. Phong trào đấu tranh chính trị và những tác phẩm
văn học yêu nước có tác dụng lớn lao, có tính chiến đấu mạnh mẽ. Nó thức tỉnh những
trí thức vô tình lầm lạc và một bộ phận nhân dân đô thị, nhất là thanh niên. “Nó đã tẩy
rửa phần nào những vẩn đục của bùn nhơ tư tưởng mà kẻ thù đã gieo rắc, và đem lại
cho những người này lòng tự trọng, ý thức về nhân phẩm, tinh thần dân tộc truyền
thống và nhiệt tình yêu chân lí” [123, tr.126].
Sự tích cực thực hiện vai trò xã hội của người trí thức đã góp phần thúc đẩy đời
sống xã hội và tiến trình lịch sử, cũng như góp phần hiện đại hóa nền văn xuôi Việt
Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 theo xu hướng đại chúng
hóa và có sự phân chia “giới tuyến”.
1.2.2.3. Sau hai cuộc chiến tranh khốc liệt, trở lại với cuộc sống muôn mặt của đời
thường, bao nhiêu mặt trái, góc khuất của cuộc đời hiện ra: con người vật vã trong cuộc
mưu sinh, trong những vết thương tâm hồn không thể lành lặn bởi chiến tranh, trong
cuộc vật lộn nhân cách với cơm áo, tiền bạc, danh vọng, địa vị. Đứng trước nhiều thay
đổi, nhiều bộn bề trong cuộc sống đời thường, người trí thức lại băn khoăn, tìm kiếm
câu trả lời cho những câu hỏi: Thiên chức của người trí thức trong thời đại mới? Sứ
mệnh của người trí thức là gì? Lý tưởng của người trí thức là ở đâu?... Cả một thế hệ trí
thức lại bắt đầu nhập cuộc, lắng nghe hơi thở của đời sống, sự chuyển mình của thời
đại. Họ nhận thức qui luật phát triển của xã hội ở giai đoạn mới, xác lập những chuẩn
mực và giá trị tư tưởng mới, kết hợp giữa việc giữ gìn, phát huy truyền thống với hiện
đại hóa, giữa phê phán và xây dựng, giữa tính dân tộc và tính quốc tế. Để bắt kịp nhịp
sống sôi động của thời đại, và phản ánh trung thực hiện thực cuộc sống đa dạng, người
trí thức cần xác tín thái độ, nhận thức trách nhiệm đối với bản thân, nghề nghiệp, và
với xã hội, để tránh tình trạng tha hóa về đạo đức, đánh mất nhân phẩm của con người.
Trong thời đại giao lưu, hội nhập, họ tiếp xúc với văn hóa, văn học các nước trên thế
giới, quen thuộc với những giá trị chung của nhân loại, có nhu cầu trao đổi, trò chuyện,
đối thoại, giao lưu,… Đất nước phát triển theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, người trí thức lại tiếp tục thực hiện thiên chức xã hội của tầng lớp mình: xây dựng
một đất nước giàu đẹp, văn minh, xây dựng một xã hội với những nền tảng đạo đức
bền vững, mang đậm giá trị nhân văn.
Cuộc sống đời thường và những vận động ở chiều sâu của nó đòi hỏi một loại văn
học mới - văn học nghiền ngẫm hiện thực - khác với văn học sử thi giai đoạn trước.
Đổi mới là yêu cầu khách quan của sự phát triển, và là nỗi khát khao, nguyện vọng của
những nhà văn có trách nhiệm, có lương tâm. Nhà văn được giải phóng cá tính sáng tạo,
được tự do trong sáng tác, không còn ép mình, gò mình viết nên những đứa con tinh
thần theo khuôn mẫu, lí tưởng, thước đo của thời đại. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân và sự
đổi mới tư duy nghệ thuật trong hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ đã thúc đẩy văn
học Việt Nam đổi mới, làm cho văn xuôi Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ và có
nhiều thành tựu mới.
1.2.3. Sự nhận thức và tự nhận thức về số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của
tầng lớp trí thức
Bên cạnh thiên chức xã hội, người trí thức sống, làm việc trong môi trường cộng
đồng và trong nhiều mối quan hệ chồng chéo với gia đình, xã hội. Không phải lúc nào
họ cũng gặt hái được những vinh quang, thắng lợi, mà, trong đời sống cá nhân, họ vẫn
vấp phải những bi kịch, đắng cay.
1.2.3.1. Khi cái Tôi cá nhân xuất hiện, nó phá vỡ nhiều khuôn khổ, quan niệm.
Trong đó, con người thành thực với tâm hồn mình hơn. Họ bắt đầu nhận thức và tự
nhận thức về số phận của mình. Trong một xã hội nhiều biến động như xã hội Việt
Nam đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, tầng lớp trí thức mang tâm
thế hoang mang, cô đơn, nhiều mâu thuẫn: lúc vội vàng, hăng say theo đuổi lí tưởng,
hoài bão; lúc thờ ơ, chán nản, hoài nghi trước thực tại. Họ băn khoăn trong việc lựa
chọn hướng đi và dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, buồn bã, chán chường.
Trí thức luôn khao khát sáng tạo, thể hiện và cống hiến tài năng, nhưng sự thay đổi
của hoàn cảnh xã hội đã tác động rất lớn đến cuộc đời họ, khiến họ khó thể thực hiện
được những hoài bão cao đẹp. Họ bị cuốn vào vòng xoay áo cơm, dễ bị sa ngã trước
cám dỗ, thậm chí, đối diện với sự tha hóa nhân cách. Họ bắt đầu tự nhận thức về những
bi kịch cá nhân, có nhu cầu bộc bạch, thể hiện, nghiền ngẫm số phận và bi kịch cá nhân.
Họ vừa muốn phản ánh hiện thực cuộc sống, vừa muốn đi sâu khám phá cái tôi - thế
giới tâm hồn bí ẩn, phức tạp. Văn xuôi là hình thức nghệ thuật thích hợp nhất.
Sau 1975, bước ra từ cuộc chiến, như bao người khác, trí thức lại quay về với cuộc
sống đời thường. Cái tôi, một lần nữa, trỗi dậy mãnh liệt với ý thức cá tính sâu sắc. Họ
tiếp nối cuộc hành trình dang dở vì hoàn cảnh lịch sử, thể hiện những khát vọng sáng
tạo cái đẹp và cống hiến tài năng. Nhưng những đổi thay trong quan niệm cuộc sống,
đặc biệt là sự ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị trường, tác động sâu sắc đến họ. Sự
phân hoá giàu nghèo, sự phân biệt địa vị, chức vụ, gia thế đã đẩy người trí thức vào
những tình huống trớ trêu, bi kịch và tình trạng tha hoá, xói mòn nhân cách.
Con người sống giữa cộng đồng, và đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi cá nhân, đến từng
số phận. Sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người đã khiến người trí thức
tìm đến với hiện thực đời sống, khám phá những góc khuất, miền tối, vùng cấm địa
trước đây. Họ được miêu tả ở nhiều góc độ (tốt - xấu, thiện – ác,…) và ở mọi cung bậc
(xã hội, tự nhiên, tâm linh, bản năng, vô thức,…). Nhà văn đi sâu khai thác nội tâm,
đào xới đời sống tâm linh với những sắc thái tình cảm riêng tư, những dục vọng, bản
năng, tận cùng của nỗi đam mê và đau khổ - điều mà ở giai đoạn 1945 - 1975 họ chưa
dám thể hiện. Trong sự vật lộn với cuộc sống đời thường, người trí thức luôn khát khao
mãnh liệt vươn đến một thế giới của thần thánh, thế giới của lòng tin, thế giới của tình
yêu thương, thế giới của những giá trị nhân văn cao cả. Hình tượng người trí thức mất
dần tính nguyên phiến, sử thi, mà được soi chiếu từ nhiều chiều, hiện ra trong nhiều
mâu thuẫn, nhất là trong đạo đức, tình cảm. Ngoài con người xã hội kinh điển còn có
một loạt những con người trong cùng xã hội và ngay trong cùng một con người. Trong
họ, thường xuyên diễn ra những cuộc đấu tranh để tồn tại, để tự nhận thức, tự ý
thức, và để giữ được nhân cách. Những cuộc đấu tranh, những dòng ý thức đó đã làm
cho bộ mặt tinh thần của xã hội trong giai đoạn này trở nên đa dạng, phong phú, phức
tạp hơn, xoáy vào đúng bản chất người hơn, cũng như làm nổi bật số phận và bi kịch
tinh thần của tầng lớp trí thức hơn.
1.2.3.2. Khi thực hiện vai trò chiến sĩ - nghệ sĩ, người trí thức cũng rơi vào những
bi kịch, mặc cảm, đắng cay. Để tìm lại được sự hòa hợp, thống nhất với cái Ta, với
cuộc đời chung, với nhân dân, với cách mạng, họ đã rất khắt khe với chính mình: buộc
phải từ bỏ con người cá nhân, con người nghệ sĩ. Họ luôn muốn vượt qua con người
nghệ sĩ để hoàn thành trước hết trách nhiệm của một công dân. “Tôi đã nghĩ đến tôi
nhiều quá!... Nhiều khi phải biết quên mình đi. Quên cái tên tuổi của mình, nếu muốn
thành một người có ích. Có cần gì phải cầy cục tìm cách ghi tên mình lại cho lịch sử?
Tạo ra lịch sử là một việc làm lớn lao. Nhưng tạo ra lịch sử lại là sự nghiệp của số
đông. Ta nên nghĩ đến số đông nhiều hơn ta. Tôi đã cố gắng rất nhiều và vẫn còn đang
cố gắng để có thể thích những công việc nhũn nhặn, thầm lặng nhưng có ích” [Nam
Cao; 9, tr.326]. Bi kịch cá nhân của người trí thức cũng xuất phát từ đây. Một mặt,
người trí thức nhận thức số phận cá nhân phải gắn kết trong số phận cộng đồng, dân tộc.
Mặt khác, họ tự nhận thức trong con người họ vẫn còn chất tiểu tư sản, vẫn còn tính
chất ảo tưởng, vẫn còn xa cách với cuộc kháng chiến,… Và, ở một khía cạnh nào đó,
họ buộc phải triệt tiêu khả năng và ý thức sáng tạo cái đẹp, buộc phải tạm thời gác lại
địa vị kiêu hãnh, thiên chức lớn lao, muôn thuở, nguyện là “một chiếc lá, một viên đá
lát đường” hay một người chiến sĩ với mặc cảm thấp bé trước khối liên minh công
nông binh của cách mạng hoặc với một nỗi đau âm ỉ khôn nguôi của trí thức để trở
thành tầng lớp trung gian trong hai cuộc chiến đấu. Nhưng bên cạnh đó, nhiều trí thức
văn nghệ sĩ, vẫn, âm thầm và lặng lẽ, đưa ra những cuộc thử nghiệm mới về nghệ
thuật: Trần Dần, Hữu Loan, Quang Dũng, Hà Minh Tuân,… Văn chương phục vụ
chính trị do yêu cầu của thời đại, chứ không phải văn chương chỉ là những bài học
chính trị. Ở một sự cố gắng nhất định, giới cầm bút vẫn kín đáo thể hiện cái Tôi nghệ sĩ
của mình trong sáng tác, miễn là, cái Tôi đó không cách xa quá với cái Ta. Những thử
nghiệm cách tân của họ, mặc dù, ngay lúc đó, bị chê trách là xa rời quần chúng, bị
đánh giá chưa thỏa đáng, nhưng cùng với dòng chảy của thời gian, sẽ được thẩm định
lại. Và, có thể, với một khoảng lùi nhất định, biết đâu giới nghiên cứu văn học đang và
sẽ nhận ra những đóng góp không nhỏ của họ trong quá trình hiện đại hóa văn học.
1.3. Nhìn chung về tác giả, tác phẩm văn xuôi viết về người trí thức
Người trí thức nhận thức và tự nhận thức sâu sắc thiên chức xã hội cũng như số
phận, bi kịch cá nhân của tầng lớp họ. Để thể hiện, bộc bạch sự nhận thức và tự nhận
thức đó, họ sử dụng văn xuôi, với ưu thế nhận thức, là loại hình nghệ thuật chủ yếu để
gửi vào đấy những nỗi niềm thế sự và nhân sinh. Thêm vào đó, vai trò của người trí
thức trong đời sống xã hội và sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người ở từng
giai đoạn chi phối đến vị trí và đặc điểm của hình tượng người trí thức trong văn xuôi
hiện đại. Sự nhận thức và tự nhận thức của người trí thức về thiên chức xã hội và số
phận, bi kịch cá nhân được thể hiện trong văn xuôi với những nét khái quát và riêng
biệt. Trí thức có mặt và tham gia ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế, chính
trị, đến văn hóa, xã hội. Văn học phản ánh con người và đời sống, do vậy, tác giả và tác
phẩm văn xuôi viết về người trí thức chiếm một khối lượng lớn, đồ sộ, có một chất
lượng đáng kể, thật khó để thống kê con số chính xác. Nhìn chung, tác phẩm viết về
người trí thức có thể được chia thành các nhóm sau:
1.3.1. Người trí thức như là chủ thể sáng tạo văn học
Người trí thức là nhà văn, là người viết nên những tác phẩm văn học. Sau một quá
trình tư duy, tìm tòi, nghiền ngẫm, trăn trở, họ chuyển tải tất cả tư tưởng và tình cảm
vào tác phẩm bằng một nội dung và hình thức nhất định. Trong tác phẩm, họ nghiền
ngẫm hiện thực cuộc sống và nghiền ngẫm về chính bản thân mình. Qua đó, họ thể
hiện cái nhìn về cuộc đời, về con người.
Với tư cách là chủ thể sáng tạo văn học, người trí thức dễ dàng bày tỏ những quan
niệm, giãi bày những cảm xúc, suy tư mang màu sắc cá nhân, chủ quan. Do vậy, tác
phẩm văn xuôi viết về người trí thức như là chủ thể sáng tạo văn học thường là tự
truyện, nhật kí, hồi kí, tuỳ bút (những tác phẩm đậm chất tự truyện của Nam Cao: Cái
mặt không chơi được, Những truyện không muốn viết, Nhật kí Ở rừng; Tự truyện,
hồi kí Cát bụi chân ai , tiểu thuyết - hồi kí Ba người khác – Tô Hoài; tùy bút của
Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường,…). Nhân vật trí thức trong những tác phẩm
này kể lại câu chuyện mà họ là người chứng kiến, người trong cuộc. Họ đứng đằng sau
nhân vật, trình bày và thể hiện mọi suy nghĩ, quan niệm, trải nghiệm và cảm xúc về
cuộc đời, về con người. Vì thế, hình tượng người trí thức trong những tác phẩm văn
xuôi này, mang đậm dấu ấn của chủ thể sáng tạo.
1.3.2. Người trí thức như là đối tượng trung tâm của văn học
Chạm đến tầng lớp trí thức là chạm đến nhiều vấn đề ở mọi lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội. Vì ở bất kỳ lĩnh vực nào, trí thức cũng có mặt, hoạt động và có
những đóng góp to lớn. Gần như trí thức là người làm chủ vận mệnh, làm chủ tình thế,
có thể xoay chuyển và thay đổi mọi thứ. Do vậy, người trí thức là đối tượng nhận thức
trung tâm của văn học hiện đại.
Trong đời sống xã hội, trí thức thể hiện vai trò khai sáng văn hóa, tiên phong trong
cải cách xã hội. Họ hoàn thành xuất sắc thiên chức xã hội của tầng lớp mình, làm cho
xã hội ngày một phát triển và văn minh hơn. Nhưng trong đời sống cá nhân, không
phải lúc nào họ cũng gặt hái được vinh quang và thành công. Đời sống cá nhân của trí
thức có rất nhiều điều để khám phá. Thế nên, tác phẩm văn xuôi viết về người trí thức
như đối tượng nhận thức trung tâm của văn học chiếm một số lượng lớn và đạt được
chất lượng đáng kể: tác phẩm của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân,
Nhất Linh, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà,… Người trí thức trở thành khách thể của sự sáng tạo
văn học, được miêu tả trong sự vận động của từng giai đoạn lịch sử, của đời sống xã
hội và trong sự vận động của đời sống nội tâm cá nhân. Nhận lấy thiên chức xã hội cao
cả, họ đạt rất nhiều vinh quang và thành tựu, nhưng bên cạnh đó, họ cũng vấp phải
những thất bại, đắng cay. Họ sống, suy nghĩ, hành động, yêu, ghét,… phức tạp và sâu
sắc. Con người và đời sống nội tâm của trí thức là mảnh đất màu mỡ cho văn học, mà
qua đó, con người khám phá và nhận thức hiện thực cuộc sống, hiện thực tâm hồn
mình với những chiêm nghiệm thấu đáo, minh triết.
1.3.2.1. Ở giai đoạn đầu thế kỉ XX – 1945, người trí thức trở thành hình tượng
trung tâm trong tác phẩm văn học. Người trí thức trong tác phẩm cũng mang những đặc
điểm tâm lí, những khát vọng, những lí tưởng, những tính cách,… như những trí thức
ngoài đời thực. Họ được xây dựng trên quan niệm nghệ thuật mới về con người cá
nhân. Trí thức được miêu tả trong cuộc sống bình thường, biết khao khát quyền được
sống, quyền được hưởng hạnh phúc trần thế, biết ý thức sâu sắc về số phận, về nội tâm
của mình, và tự ý thức được tài năng, cá tính, nhân cách của mình. Loan (Đoạn tuyệt -
Nhất Linh), Mai (Nửa chừng xuân – Khái Hưng) có ý thức chống lại lễ giáo lỗi thời
của đại gia đình phong kiến để lên tiếng cho quyền sống, quyền tự do hôn nhân của
người phụ nữ. Dũng (Đoạn tuyệt, Đôi bạn - Nhất Linh) muốn bứt khỏi những ràng
buộc của luật lệ phong kiến hà khắc, thoát li, hành động theo lí tưởng dẫu lí tưởng đó
còn mờ mịt, mơ hồ. Nam (Đẹp – Khái Hưng) ý thức rất rõ về tài năng và lòng say mê
nghệ thuật của mình. Trường (Ngày mới), Thanh (Dưới bóng hoàng lan), Tân (Trở về
- Thạch Lam) là con người của thế giới nội tâm, cảm giác tinh tế của cuộc sống bình
thường mà nên thơ. Huấn Cao (Chữ người tử tù), Nguyễn (Nhà Nguyễn), Bạch
(Thiếu quê hương - Nguyễn Tuân) là cái tôi tài hoa, kiêu bạc, độc đáo của một ý thức
sâu sắc về nhân cách và vốn văn hóa dân tộc phong phú. Hộ (Đời thừa), Điền (Trăng
sáng, Nước mắt), Thứ (Sống mòn – Nam Cao) dằn vặt, day dứt giữa lí tưởng - hiện
thực, nghề nghiệp – gia đình, tình thương – trách nhiệm, lẽ sống – nhân cách trong
những vấn đề tẹp nhẹp cơm áo gạo tiền của cuộc sống đời thường,... Nhân vật trí thức
trong giai đoạn này gặp nhau ở nhiều điểm chung trong tính cách, trong tâm hồn. Họ
yêu và tôn thờ cái đẹp, khát khao sáng tạo cái đẹp, khát khao cống hiến tài năng: Nam
(Đẹp – Khái Hưng), Huấn Cao (Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân), Huyên (Hai dòng
sữa – Nguyên Hồng), Điền (Trăng sáng), Hộ (Đời thừa), Thứ (Sống mòn – Nam
Cao),… Họ khát khao vươn tới một thế giới tinh thần phong phú và một nhân cách đẹp
đẽ: Dũng (Đôi bạn - Nhất Linh), Thanh (Một cơn giận), Trường (Ngày mới - Thạch
Lam), Nguyễn (Nhà Nguyễn - Nguyễn Tuân), Hưng (Miếng bánh – Nguyên Hồng),…
Họ hay có cảm giác cô đơn, bất lực trước cuộc đời: Trương (Bướm trắng - Nhất Linh),
Thứ (Sống mòn – Nam Cao), Bạch (Thiếu quê hương - Nguyễn Tuân),… Qua một thế
giới nhân vật đông đúc, phức tạp, người đọc có thể khám phá chân dung, diện mạo,
tính cách của giới văn nghệ sĩ Việt Nam đương thời.
1.3.2.2. Cái Tôi cá nhân tạm gác lại do yêu cầu của hai cuộc kháng chiến. Nhưng
khi cuộc sống thời chiến khép lại, con người quay về với muôn mặt của đời thường,
đối mặt với bao sự đổi thay trong xã hội, với những mặt bình thường và phức tạp trong
chiều sâu tâm hồn nó thì ý thức cá nhân lại trỗi dậy mãnh liệt. Đây không phải là cái
Tôi thoát li, cái Tôi tuyệt đối trong văn học giai đoạn đầu thế kỉ XX – 1945, mà là cái
Tôi có sự hòa hợp với cái Ta. Con người sống giữa cộng đồng, và đòi hỏi sự quan tâm
đến mỗi cá nhân, đến từng số phận. Số phận người trí thức trong thời đại mới được thể
hiện trong “tổng hoà những mối quan hệ xã hội” (M. Bakhtin).
Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người đã khiến văn học tìm đến với hiện
thực đời sống, khám phá những góc khuất, miền tối, vùng cấm địa. Người trí thức được
miêu tả ở nhiều góc độ (tốt - xấu, thiện – ác,…) và ở mọi cung bậc (xã hội, tự nhiên,
tâm linh, bản năng, vô thức,…). Các nhà văn đi sâu khai thác nội tâm, đào xới đời sống
tâm linh với những sắc thái tình cảm riêng tư, những dục vọng, bản năng, tận cùng của
nỗi đam mê và đau khổ trong hình tượng người trí thức - điều mà ở giai đoạn 1945 -
1975 họ chưa dám thể hiện. Trong họ, thường xuyên diễn ra những cuộc đấu tranh để
tồn tại, để tự nhận thức, để tự ý thức, và để giữ được nhân cách: Con người sám hối và
tự ý thức của Nguyễn Minh Châu (Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Cỏ lau,…), con người được soi chiếu cả thể chất lẫn tâm hồn của Ma Văn Kháng
(Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú,…), con
người triết luận, chiêm nghiệm của Nguyễn Khải (Một cõi nhân gian bé tí, Vòng sóng
đến vô cùng,…), con người cô đơn của Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh),… Những
cuộc đấu tranh, những dòng ý thức đó đã làm cho bộ mặt tinh thần của xã hội
trong giai đoạn này trở nên đa dạng, phong phú, phức tạp hơn, xoáy vào đúng bản chất
người hơn. Cách ngôn La Mã cổ đại có câu: “Tôi là người, và không có gì thuộc về con
người là xa lạ với tôi”. Con người là một cá nhân độc lập, trong mối quan hệ với cộng
đồng, với xã hội, với tự nhiên. Vì thế, “con người vừa là điểm xuất phát, là đối tượng
khám phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng của văn học, đồng thời cũng là điểm quy
chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn đề xã hội, mọi sự kiện và biến cố lịch sử” [88,
tr.16]. Trong giai đoạn sau 1975, người trí thức, một lần nữa, trở thành đối tượng nhận
thức trung tâm của văn học.
Hình tượng nhân vật trí thức, với tư cách là đối tượng nhận thức trung tâm của văn
xuôi hiện đại, được khám phá sâu sắc, toàn diện trong mối quan hệ đa chiều với cuộc
sống. Nhân vật không còn giấu diếm bản thân, phớt lờ thế giới tâm hồn bên trong mà
tự do bộc lộ, biểu hiện mọi góc độ, mọi khía cạnh của con người mình. Nó, cùng với
các yếu tố khác như hệ thống thi pháp, đề tài, thể loại,… tạo cho văn học Việt Nam nói
chung, văn xuôi Việt Nam hiện đại nói riêng, một bước chuyển biến mới với những
thành tựu mới ở cả hai mặt nội dung và hình thức văn học.
1.3.3. Người trí thức và nhiệm vụ tôn vinh chiến sĩ, quần chúng cách mạng
Bước vào giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975, quan niệm
nghệ thuật về con người có sự thay đổi rõ rệt. Trước hoàn cảnh đất nước và nhu cầu
thời đại, ý thức cá nhân lui xuống bình diện thứ yếu, con người trở lại với cái ta rộng
lớn của cộng đồng, của quốc gia dân tộc. Cho nên, “Văn học thời kì này tập trung thể
hiện những nét tâm lí chung của quần chúng như lòng yêu nước, căm thù giặc, tình
nghĩa đồng bào, tình cảm tiền tuyến - hậu phương, ý thức giai cấp, sự ham thích đời
sống tập thể, sinh hoạt chính trị…” [88, tr.22].
Chính vì vậy, quan niệm con người tập thể, con người cộng đồng luôn đặt người trí
thức trong một đám đông, một tập thể. Bây giờ, họ trở thành con người của đoàn thể,
của dân tộc. Họ, một lần nữa, tham dự vào các biến cố của lịch sử, gánh vác cuộc
kháng chiến thông qua các tổ chức, đoàn thể. Vẻ đẹp, sức mạnh của họ chỉ có thể được
tỏa sáng trong những tập thể ấy. Mỗi con người là đại diện cho sức mạnh, quyết tâm,
tinh thần quật khởi tự cường của cả dân tộc. Do đó, các nhân vật trong tác phẩm văn
học được đưa vào những thử thách ngặt nghèo, những tình huống gian khổ và ác liệt vô
vàn của chiến tranh để khẳng định vẻ đẹp rạng rỡ của con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam trong máu lửa: Tnú (Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành); Kinh, Khuê, Lữ
(Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Châu); Việt (Những đứa con trong gia đình -
Nguyễn Thi); Sứ (Hòn đất – Anh Đức); Khắc (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi),… Họ là
những con người sử thi, đại diện đầy đủ cho tầm vóc, sức mạnh, ý chí và khát vọng độc
lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam.
Trong văn xuôi 1945 – 1975, nhân vật trí thức văn nghệ sĩ không còn đứng ở vị trí
trung tâm của tác phẩm văn học, mà nhường chỗ cho nhân vật người lính với vóc dáng
sử thi và hình ảnh cả dân tộc đang trỗi dậy được thể hiện ở nhiều thể loại của văn xuôi
(tuỳ bút, bút kí, tiểu thuyết,…). Tạm quên đi những cái riêng tư, người nghệ sĩ nhập
cuộc với ý thức cộng đồng vừa trỗi dậy mãnh liệt. Từ vai trò kép nghệ sĩ - chiến sĩ
trong đời sống xã hội, người trí thức đi vào văn học với nhiệm vụ tôn vinh chiến sĩ,
quần chúng cách mạng. Văn xuôi đã tái hiện được bức tranh hiện thực rộng lớn về cuộc
kháng chiến của dân tộc ở những chiến dịch, mặt trận và hình ảnh quần chúng với ý
thức đấu tranh mạnh mẽ và những hi sinh cao cả, anh hùng: Xung kích, Vỡ bờ
(Nguyễn Đình Thi), Vùng mỏ (Cao Huy Tâm), Cửa biển (Nguyên Hồng), Kí sự Cao
Lạng, Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc),
Dấu chân người lính, Cửa sông, Miền cháy (Nguyễn Minh Châu),…
Ở giai đoạn này, nhân vật trí thức được xây dựng là nhân vật trung gian, chủ yếu để
làm nền, làm nổi bật hình ảnh chiến sĩ, quần chúng cách mạng với những phẩm chất tốt
đẹp, ngời sáng. Trí thức có mặt để chứng kiến, ghi chép, miêu tả lại quá trình tham gia
cách mạng, hăng hái chiến đấu cũng như phản ánh sự đóng góp lớn lao và hi sinh cao
cả của người lính, quần chúng cách mạng. Trong một số ít tác phẩm, trí thức là nhân
vật chính, nhưng chủ yếu được thể hiện ở phương diện tự nhận thức, tự thức tỉnh, có
những chuyển biến về tâm thế và nhận thức về cách mạng, về quần chúng nhân dân.
Nhân vật trí thức sau những trở trăn, tự đấu tranh, giải quyết mâu thuẫn đã hòa mình
vào cách mạng, thực hiện sứ mệnh “người thư kí trung thành của thời đại” để tôn vinh
chiến sĩ và quần chúng cách mạng, có tác dụng tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, ý
chí đấu tranh của quân và dân ta.
1.3.4. Người trí thức – linh hồn của văn hóa và giá trị nhân văn, tinh thần dân
chủ.
Văn hóa là tinh hoa, là cội nguồn của dân tộc, được gìn giữ và lưu truyền qua nhiều
thế hệ. Con người ở mỗi thời đại đều thể hiện và tôn vinh những nét đẹp văn hóa dân
tộc, mà trí thức là người hội tụ đầy đủ nhất những tinh hoa văn hóa của dân tộc và thời
đại.
Thời phong kiến, người trí thức (vua, quan, nho sĩ) biểu hiện những nét đẹp của
văn hóa truyền thống. Họ yêu nước, thương dân, nhiệt tình cống hiến tài năng, sống
phải đạo, hành xử theo lễ nghĩa và thể hiện giá trị nhân văn. Người trí thức hiện đại
cũng tiếp nối và phát huy những nét đẹp truyền thống đó. Gánh lấy vai trò khai sáng
văn hóa và cải cách xã hội, người trí thức đóng góp cho cuộc đời tài năng và tâm huyết
với một khát vọng mãnh liệt về một xã hội dân chủ, lí tưởng. Những năm 90 trở lại đây,
nước ta đang trên con đường hội nhập với quốc tế. Chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường, con người lại phải đối diện với những vấn đề mới, trong đó, đáng báo động là
tình trạng xuống cấp, suy đồi về đạo đức, nhân cách. Giữa xã hội ồn ào, sôi động,
quyền lực và đồng tiền đôi lúc tưởng chừng như có sức mạnh vạn năng, chi phối mọi
mối quan hệ xã hội, kể cả mối quan hệ huyết thống, gia đình. Con người tìm mọi cách
làm giàu, tìm mọi đường tiến thân. Con người ngoi lên từ quyền lực, dùng quyền lực
để thỏa mãn lòng tham, lòng tự phụ. Con người đố kỵ, ghen ghét nhau trong sự được -
mất, hơn – thua. Con người hoài nghi, cô đơn, mang dáng dấp của hậu hiện đại,…
Chưa khi nào sự tha hóa về nhân phẩm lại là vấn nạn nhức nhối đến vậy. Và người trí
thức văn nghệ sĩ, thực hiện thiên chức, sứ mệnh của mình, đã đi vào những cái bình
thường khuất lấp đó của cuộc sống, đi vào cõi tế vi, miền vô thức của con người, phanh
phui, khám phá sự thật, dẫu đó là một sự thật trần trụi, trơ tráo. Nhân vật trí thức văn
nghệ sĩ, một lần nữa, trở thành nhân vật trung tâm trong văn xuôi: Đám cưới không có
giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Cơ hội của Chúa
(Nguyễn Việt Hà), Huyền thoại phố phường (Nguyễn Huy Thiệp),… Có lẽ, ở loại
nhân vật này, người nghệ sĩ có thể thể hiện đầy đủ, trọn vẹn, sâu sắc chân dung, diện
mạo, tính cách, tâm hồn của con người trong thế giới hiện đại. Khám phá chiều sâu
trong bản chất, trong tính cách của con người hiện đại với những nét “rồng phượng lẫn
rắn rết, thiên thần và ác quỷ” [12, tr.106], người nghệ sĩ muốn vạch trần cái xấu, cái ác,
đề cao cái tốt, cái thiện, cái đẹp để con người tiến dần đến sự hoàn thiện, đến chân -
thiện – mĩ. Đằng sau số phận từng nhân vật, từng mảnh đời cụ thể, các nhà văn đã đề
cập đến những vấn đề chung, có ý nghĩa khái quát của thời đại và đậm tinh thần nhân
văn. “Nhà văn rất cần thiết phải có mặt ở trên đời để làm công việc cảnh tỉnh nhân
loại và báo hiệu trước những tai họa” [Nguyễn Minh Châu, Báo Văn nghệ, số 49,
1987]. Đó là thiên chức, là sứ mệnh của người trí thức văn nghệ sĩ - người lữ khách
trên hành trình đi tìm cái đẹp.
1.4. Hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại từ góc nhìn,
tư duy nghệ thuật (tư duy tiểu thuyết và tư duy sử thi)
Sáng tạo hình tượng người trí thức, nhà văn xuất phát từ những góc nhìn tư duy
nghệ thuật khác nhau. Mỗi góc nhìn sẽ chi phối rất lớn đến cách xây dụng và thể hiện
hình tượng nhân vật trong tác phẩm. Đáng chú ý là hai góc nhìn, cũng là hai kiểu tư
duy: tư duy sử thi và tư duy tiểu thuyết.
1.4.1. Hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại - nhìn từ góc
nhìn và tư duy sử thi
1.4.1.1. Đặc điểm của tư duy sử thi
Tư duy sử thi về bản chất là kiểu tư duy nghệ thuật được xây dựng trên cái nhìn sử
thi. Cái nhìn ấy nhìn con người trong đời sống cộng đồng và trong mối quan hệ mật
thiết với cộng đồng. Theo đó, con người khi trở thành nhân vật trung tâm, nhân vật lí
tưởng của văn học, luôn luôn là sự kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng.
Giữa nhà văn với nhân vật luôn hiện hữu một khoảng cách (thường được gọi là
“khoảng cách sử thi”). Nhà văn là người “biết hết” và luôn đứng cao hơn nhân vật.
1.4.1.2. Môi trường phát triển của tư duy sử thi trong văn xuôi hiện đại Việt Nam là
môi trường đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà và xây dựng cuộc sống
xã hội chủ nghĩa trong từ Cách mạng thánhg Tám năm 1945 đến năm 1975. Dưới cái
nhìn sử thi, con người to lớn, kỳ vĩ, đẹp đẽ, mang những ước mơ, lí tưởng, kỳ vọng của
cộng đồng. Xây dựng nhân vật trí thức theo tư duy sử thi, nhà văn thiên về thể hiện vai
trò xã hội: người trí thức với nhiệm vụ tôn vinh chiến sĩ, quần chúng cách mạng. Đó là
những mẫu người lấy vinh quang, kiêu hãnh nhấn chìm cay đắng, mặc cảm trong cuộc
đời.
1.4.2. Hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại - nhìn từ góc
nhìn và tư duy tiểu thuyết
1.4.2.1. Đặc điểm của tư duy tiểu thuyết
Tư duy tiểu thuyết về bản chất là kiểu tư duy nghệ thuật được xây dựng trên cái
nhìn tiểu thuyết. Cái nhìn ấy nhìn mỗi con người như một thế giới riêng phong phú,
phức tạp, trong những quan hệ đa chiều và luôn luôn biến đổi. Theo đó, quan hệ giữa
nhà văn và nhân vật là quan hệ bình đẳng, thân mật, thậm chí suồng sã.
1.4.2.2. Môi trường phát triển thuận lợi của tư duy tiểu thuyết trong văn xuôi Việt
Nam hiện đại là xã hội Việt Nam hiện đại trong đời sống thường nhật với muôn màu
muôn vẻ của nó (trước năm 1945 và sau năm 1975). Con người được nhìn nhận với
nhiều quan niệm khác nhau trong mối quan hệ đa chiều với hoàn cảnh, với cuộc sống
và với chính nó. Vì vậy, nhân vật trí thức văn nghệ sĩ dưới góc nhìn của tư duy tiểu
thuyết được xoáy sâu vào bản thể và nội tâm. Đó là những mẫu người giàu kiêu hãnh
và mặc cảm trong ý thức sâu xa về nhân cách, về bản thể.
Trong văn xuôi, hình tượng người trí thức văn nghệ sĩ được thể hiện chân thực,
mang nhiều ý nghĩa nhân sinh. Từ vai trò của tầng lớp trí thức trong đời sống xã hội
hiện đại đến vị trí của hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, rõ
ràng có một quan hệ nhân quả và có cả một hành trình. Từ cuộc đời, họ đã bước vào
trang văn, mang theo tất cả những gì phức tạp sinh động của đời sống, hiện hữu trong
văn xuôi như một loại hình tượng nghệ thuật mang đến cho người đọc thật nhiều băn
khoăn, thao thức, trăn trở và không ít hoang mang trên những nẻo đường đi tìm lẽ sống
và đi tìm bản thể.
Ở chương 2, luận văn sẽ khảo sát, nghiên cứu hình tượng người trí thức Việt Nam
trong sự vận động phát triển của văn xuôi nghệ thuật hiện đại Việt Nam và trong sự chi
phối của tư duy nghệ thuật.
Chương 2
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRÍ THỨC VĂN NGHỆ SĨ
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
– NHỮNG MẪU NGƯỜI ĐA TÍNH CÁCH
Nhân vật văn học không chỉ thể hiện hình ảnh, tâm tư của con người thời đại, quan
niệm về con người, mà còn phản ánh khuôn mặt của giai đoạn lịch sử, đời sống thực
của xã hội, những nguyên nhân sâu xa của mọi biến chuyển trọng đại trong đời sống…
Một trong những loại nhân vật mà nhà văn quan tâm, khám phá là người trí thức
văn nghệ sĩ. Với tâm hồn nhạy cảm vốn có, nhà văn phát hiện ở loại nhân vật này
những khả năng to lớn để họ dễ dàng thể hiện tâm tư, tình cảm, suy nghĩ,… về cuộc
sống. Họ tìm được mối đồng cảm sâu xa, gần gũi, mật thiết với nhân vật. Nhân vật,
một mặt nào đó, là sự hóa thân của tác giả, thể hiện tư tưởng, quan niệm,… của tác giả
về cuộc đời và con người. Tư tưởng, quan niệm, suy nghĩ, tình cảm,… của tác giả có
tác dụng rất lớn trong việc xây dựng và hình thành nhân vật, tạo cho nhân vật một tính
cách nhất định, một nội tâm nhất định.
Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong tác phẩm phản ánh và thể hiện đời sống, tính
cách, tâm hồn, thế giới nội tâm,… của người trí thức ngoài cuộc đời thực. Việc soi
sáng mọi chiều kích của nhân vật, đồng nghĩa với việc soi sáng chân dung và tâm tư
của người trí thức trong mối quan hệ đa chiều với hoàn cảnh xã hội, với thế giới và con
người xung quanh. Từ nhân vật, tác giả có thể gửi gắm hoặc phát ngôn cho những niệm
tín riêng của mình.
Theo đó, hình tượng người trí thức hiện lên trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam
hiện đại không đơn giản, một chiều.
Đó thực sự là những mẫu người đa tính cách: những mẫu người hội đủ cả vinh
quang và cay đắng, kiêu hãnh và mặc cảm, như nguyên mẫu của chính mình trong cuộc
đời.
Tùy theo từng chặng đường văn học, không khí thời đại ở mỗi chặng đường và tùy
thuộc vào cái nhìn nghệ thuật (tư duy sử thi hay tư duy tiểu thuyết), mà hình tượng
người trí thức được thể hiện nghiêng về vinh quang hay cay đắng, kiêu hãnh hoặc mặc
cảm.
2.1. Những mẫu người lấy vinh quang, kiêu hãnh nhấn chìm cay đắng, mặc
cảm qua cái nhìn sử thi của văn xuôi Việt Nam hiện đại (1945 - 1975)
2.1.1. Mặc cảm lạc lõng trong quan hệ với cộng đồng (Người trí thức trong
những ngày đầu cùng nhân dân đi kháng chiến)
Nhận thức được vai trò của một công dân, người trí thức đã đi theo tiếng gọi của
cách mạng, tham gia vào quá trình giải phóng dân tộc. Họ hăng hái, nhiệt tình, và tận
tâm. Trong sâu thẳm tâm hồn, họ như muốn chuộc lại cái lỗi đã thờ ơ với thời cuộc ở
giai đoạn trước. Nhưng giữa âm vang của tinh thần đoàn kết và quyết tâm chiến đấu
của toàn dân tộc, vẫn rơi rớt những thanh âm lạc điệu. Một số trí thức chưa có sự thức
tỉnh và thức thời, hãy còn mê man trong những ảo tưởng, hãy còn nuối tiếc một đời no
đủ cá nhân. Họ không có can đảm, không đủ can đảm, và tệ hơn, không muốn can đảm
dứt bỏ con người cũ, dứt bỏ cái tôi ích kỷ, lạc thời. Họ trở nên lạc lõng, bơ vơ trong
cuộc kháng chiến hào hùng, vĩ đại của dân tộc. Họ như đứng tách riêng ra một chiến
tuyến, và rất dễ bị kẻ thù lợi dụng, mua chuộc, dụ dỗ, trở thành văn nghệ tay sai phản
cách mạng, phản dân tộc.
Giữa lúc đời sống kháng chiến đang sôi sục, mọi sức người, sức của đều đổ dồn
cho kháng chiến, thì văn sĩ Hoàng (Đôi mắt – Nam Cao) vẫn có một đời sống hết sức
phong lưu, không khác gì mấy so với ngày còn ở Hà Nội: ăn mía ướp hoa bưởi, chăn
thoang thoảng nước hoa, màn tuyn trắng toát. Ngoại hình to béo, khệnh khạng của
Hoàng đã cho thấy đầy ứ sự no nê, đầy đủ, nhàn hạ, phong lưu - một nghịch lí trong
hoàn cảnh cả dân tộc đang ăn đói, mặc rách, đang gian lao chiến đấu. Con người ích kỷ
này nhìn đời thật lạ. Người dân kháng chiến, trong mắt Hoàng, là những kẻ “ngu độn,
tham lam, bần tiện, thóc mách, rởm đời, đã ngố lại còn nhặng xị” [9, tr.383]. Hoàng
nhìn đời, nhìn người một phía, chỉ săm soi khuyết điểm của người dân mà không nghĩ
đến những ưu điểm của họ. Hoàng mang “đôi mắt” của một kẻ sống giữa dân nhưng
chỉ biết miệt thị sự hèn kém của dân. Hoàng thà chịu đựng cái đám cặn bã của tầng lớp
trên (“Trí thức gì cái đám ông tuần, ông đốc không biết gì đến văn chương nghệ thuật,
mà chỉ giỏi độc có một món tổ tôm”), [9, tr.387] còn hơn là chịu đựng đám dân quê hèn
kém. Không tham gia kháng chiến, không làm gì cho kháng chiến, nhưng Hoàng không
đến nỗi phản động, chống đối kháng chiến. Hoàng ca ngợi Cụ Hồ: “Hồ Chí Minh đáng
lẽ phải cứu vãn một nước như thế nào kia mới xứng tài. Phải cứu một nước như nước
mình kể cũng khổ cho Ông Cụ lắm” [9, tr.389] nhưng lại là một cách thức khác của
biểu hiện coi thường quần chúng. Say mê Tam quốc, tối nào trước khi đi ngủ cũng đọc
Tam quốc như một thứ lễ nghi, Hoàng tồn tại trong một thế giới không còn sống, một
thế giới không có trong đời thật. Xa lìa nhân dân, xa lìa cuộc sống kháng chiến, Hoàng
lạc lõng đến đáng thương – cái lạc lõng của một người không sao hòa nổi mình vào
cuộc sống.
Và tất nhiên, đối lập với Hoàng - “văn sĩ trùm chăn”, khinh bạc, dị ứng với thời
cuộc - là nhân vật Độ, nhà văn kháng chiến.
Thực ra, trong Đôi mắt, dù là nhân vật Hoàng, hay nhân vật Độ thì cũng đều là
hình ảnh của những người trí thức trong những ngày đầu kháng chiến và đều là hình
ảnh phân thân của Nam Cao. Từ họ toát ra một niềm mặc cảm rất trí thức trước biến
động lớn lao của dân tộc, đất nước, thời cuộc: mặc cảm lạc lõng. Cốt cách trí thức,
cùng với thái độ thức thời chân chính trong họ không cho phép họ tự bằng lòng, không
ngừng thôi thúc họ tự vượt lên chính mình, thắng niềm mặc cảm của chính mình (dù đó
là niềm mặc cảm lành mạnh). Trong sự đối lập giữa hai nhân vật trí thức này, Nam Cao
muốn gửi đến độc giả một thông điệp như thế.
2.1.2. Ước muốn “nhận đường” và “lột xác”
Thấy được sự thay đổi lớn lao của dân tộc và quần chúng cách mạng, người trí thức
cũng thấy được những thay đổi sâu xa trong tâm hồn mình, đúng như Tố Hữu nói 10
năm trước: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, Mặt trời chân lí chói qua tim” (Từ ấy).
Chưa khi nào, tinh thần dân tộc và lòng yêu nước lại trỗi dậy mạnh mẽ đến thế, trách
nhiệm công dân và khao khát tự do lại rõ ràng đến thế. Người trí thức đi theo tiếng gọi
của dân tộc, của Đảng, hòa mình vào cuộc kháng chiến, hòa mình vào nhân dân, trở
thành “người thư kí trung thành của thời đại”. Trước kia, tự phụ vào vốn kiến thức và
tâm hồn phức tạp, trí thức nhìn người nông dân “chân lấm tay bùn” nếu không phải
với thái độ kẻ cả của người bề trên, thì cũng là thái độ ít nhiều xa cách. Giờ đây, “cố
tìm mà hiểu”, người trí thức đã nhận ra ở những người nông dân chân chất, mộc mạc,
nhỏ bé, thậm chí nhếch nhác, hèn mọn,… một tấm lòng hồn hậu đối với đất nước cùng
những phẩm chất đẹp đẽ, những ưu điểm nổi bật. Từ thay đổi cách nhìn dẫn đến sự
thay đổi cách sống. Nhân vật Độ (Đôi mắt) của Nam Cao đã rất thành khẩn, thiết tha
trong việc thay đổi cách nhìn và lối sống như thế.
Độ là hình tượng một nhà văn mới – nhà văn của nhân dân, là hình ảnh của một
nền văn nghệ mới - nền văn nghệ nhân dân. Trong kháng chiến sinh tử, những nhà văn
như Nam Cao, như những nhân vật lí tưởng trong trang sách, họ luôn ao ước cây bút
của mình trở thành cây súng, “muốn vứt cả bút đi để cầm súng”, vì “Tất cả con dân
nước Việt Nam lúc này chỉ muốn cầm súng mà đi ra trận” . Và họ, lòng dặn lòng
“Sống đã rồi hãy viết” (Đường vô Nam – Nam Cao) [9, tr.328].
Hội (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi) mang dáng dấp của anh giáo Thứ trong Sống mòn
(Nam Cao) nhưng đã có những suy nghĩ tích cực và biến suy nghĩ thành hành động. Là
một thầy giáo tận tâm, anh đem hết sức lực, tâm trí để đào tạo lớp trẻ con – tương lai
của đất nước. Dạy học cũng là yêu nước. Khi trường Bạch Mai đóng cửa, anh lâm vào
tình trạng thất nghiệp, bị dồn vào bước đường cùng. Hội trải qua những cơn suy nghĩ
miên man, thấy mình thừa thãi, vô dụng: “Hội có óc, có tay. Hội không lười nhác gì,
khi có công việc, Hội làm như tự giết mình, chỉ mong kiếm được cái sống, miếng cơm
manh áo cho hai đứa con, cho gia đình, vậy mà lúc này phải bó tay!” [130, tập 1,
tr.624]. Trí não Hội luôn căng thẳng và lồng lên những câu hỏi: “Làm gì, mình phải
làm gì bây giờ?” [130, tập 1, tr.624]. Trải qua nhiều sự dằn vặt, Hội đã đi đến một
quyết định: viết văn. Noi gương Khắc, Hội đi theo cách mạng, trở thành người chiến sĩ
trên mặt trận văn hóa. “Có lẽ nếu phải đi lăn lộn, cầm súng cầm gươm thì Hội chỉ làm
vướng cho cách mạng. Nhưng nếu cầm bút thì Hội có thể làm được” [130, tập 2,
tr.337]. Tư tưởng anh có sự chuyển biến mạnh mẽ. Đến với cách mạng, Hội đã từ bỏ
được con người do dự, chần chừ.
Không trực tiếp cầm súng chiến đấu, nhưng người trí thức văn nghệ sĩ đã dùng cây
bút của mình như một vũ khí sắc bén trên mặt trận văn hóa, văn học, góp phần phục vụ
cách mạng và nhân dân.
Dù thức tỉnh, thức nhận được vai trò của mình với đất nước, với lịch sử, nhưng con
đường đến với cách mạng, với quần chúng không dễ dàng gì với người trí thức. Trong
họ diễn ra cuộc dày vò, đấu tranh giữa con người cũ và con người mới. Cái tôi lãng
mạn và chất nghệ sĩ bị kềm nén thỉnh thoảng lại trỗi dậy, họ đôi lúc lại muốn vứt bỏ tất
cả để trở về với con người cũ và thiên chức sáng tạo cái đẹp. “Vẫn còn những lúc
thằng nghệ sĩ cũ trong tôi vùng dậy. Tôi chợt thấy buồn rầu vì luôn mấy năm nay
không viết được một tác phẩm nào khiến cho các bạn tôi nhắc nhở… Bao giờ đây,
cuốn tiểu thuyết lớn, không mấy đêm tôi không nghĩ đến, luôn mấy năm nay?” [9,
tr.370]. Nhưng, qua những trở trăn, day dứt, giằng xé, họ phải có sự lựa chọn đúng đắn
cho cuộc đời và nghệ thuật của mình. Nếu như ngày trước, người nghệ sĩ viết văn để
người ta biết đến tên tuổi, ao ước tạo được những tác phẩm để đời, thì giờ đây, họ lại
mong ước “có một tờ báo nhỏ, hợp trình độ của người mới biết đọc, nghĩa là với số
đông” [9, tr.370]. Con người trí thức tiểu tư sản mềm yếu, ủy mị, thiếu thực tế, dễ dao
động đã tự “lột xác”, cải tạo mình, thành người cán bộ cách mạng gần gũi với quần
chúng: Thanh (Cơn bão đã đến – Nguyên Hồng), Hội (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi),
Trần Văn (Sống mãi với thủ đô - Nguyễn Huy Tưởng),... Nghệ thuật phải đi vào cuộc
đời thực, phải phản ánh được hiện thực cách mạng, phải xây dựng được hình tượng của
con người Việt Nam anh hùng, bất khuất trong máu lửa.
2.1.3. Vươn mình thành những trí thức - chiến sĩ
Khi đã xác định được lí tưởng cho đời người và nghệ thuật, người trí thức tận tâm
với lí tưởng đó. Họ mang trong lòng ngọn lửa của khát vọng sống và cống hiến. Cuộc
sống thật sự có ý nghĩa khi mình biết mình là ai, mình đang làm gì ở cuộc đời này. Họ
yêu nghề, trăn trở với nghề và khát khao cống hiến như những nhân vật trí thức văn
nghệ sĩ giai đoạn đầu thế kỉ XX – 1945, có khác chăng, ý thức về nghề đã gắn với ý
thức dân tộc.
Trong “Vỡ bờ”, Nguyễn Đình Thi đã xây dựng khá thành công hình ảnh hàng loạt
nhân vật trí thức có lí tưởng nghề nghiệp đẹp đẽ và khát vọng cống hiến cho cách mạng,
cho đất nước: Khắc, Tư, Hội, Toàn,... Sáng tạo và cống hiến luôn là khát khao cháy
bỏng trong lòng người trí thức. Hội lên án những người viết văn mà không cần đến văn
chương: “Họ chỉ cần tiền và chỉ chạy theo mốt, họ ăn cắp của các nhà văn nước ngoài,
họ mạ lại những ý của người khác để lòe người không biết, họ viết quàng xiên những
chuyện bịa đặt quái lạ, lấy sự li kỳ để câu người xem, chứ không biết nhìn vào sự thật
hàng ngày, cái sự thật tầm thường nó đáng nói biết bao” [130, tập 2, tr.113]. Đó là
những kẻ không có thực tài và không có tư cách. Hội tự tin sẽ đem đến cho văn học ta
một cái gì khác. Anh sẽ viết những cuốn tiểu thuyết lớn về người dân quê Việt Nam -
những người đang làm nên lịch sử.
Nhạc sĩ Toàn (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi) thì ấp ủ ước mơ khám phá tiếng nói âm
nhạc riêng của đất nước. Anh bắt tay vào đi tìm và ghi lại nhạc dân tộc cũ - những bài
dân ca, những điệu hát ả đào, những vở chèo cổ. Anh làm việc với sự miệt mài và say
mê, và với niềm an ủi khi bản thân không trực tiếp cầm súng chiến đấu.
Họa sĩ Tư (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi) thật sự là tấm gương yêu nghề và nhân cách
sáng đẹp của người trí thức. Anh không màng tới tiếng tăm, tiền bạc, dư luận. Bất cứ
giá nào anh cũng không bán đi nghệ thuật của mình, anh không làm được như Thanh
Tùng, vì bán nghệ thuật cũng chính là bán tâm hồn anh, là điều sỉ nhục đối với người
nghệ sĩ chân chính. Tình yêu và sự sáng tạo, hai niềm vui trong sáng nhất của loài
người, không thể đem đổi chác hay biến thành món hàng nhơ nhớp. Tư đã tìm được lí
tưởng nghệ thuật: vẽ tranh phục vụ kháng chiến. Anh vẽ chị du kích trên một cái nền
rừng núi, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới trên đầu; một bà mẹ đang ôm đầu vuốt mắt cho
người đàn ông chết đói, bên cạnh có một cô gái áo cánh nâu, tay cầm khẩu súng vừa
nhặt được trên bãi chiến trường còn ngổn ngang xác người, và vội vã sắp băng mình
chạy lên phía trước. Tư vẽ với niềm vui tột cùng, những dòng nước mắt xúc động,
những ý nghĩ như sóng bão cuộn đến. Tư đã để tất cả tâm huyết, nhiệt tình vào những
bức tranh. Anh gục chết bên bức tranh vừa hoàn tất. Nhân vật trí thức của Nguyễn
Đình Thi đã sống đẹp và chết đẹp. Cuộc đời họ là những nốt nhạc bổng trầm len lỏi
vào hiện thực khốc liệt của cuộc chiến, đem lại sức cổ vũ lớn lao cho những trí thức
ngoài đời thực, khích lệ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, khát vọng cống hiến và sáng
tạo của người nghệ sĩ.
Nhân vật trí thức trong văn học giai đoạn này, sau cuộc lột xác, nhận đường, qua
những cuộc đấu tranh dằn vặt với con người cũ, đã một lòng sống, chiến đấu, hi sinh vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trần Văn (Sống mãi với thủ đô - Nguyễn Huy Tưởng) luôn trăn trở về lẽ sống và
cái chết trong cuộc chiến đấu vì Tổ quốc. Anh lên án những kẻ ích kỷ, chỉ biết hưởng
lạc khi cả nước đang một lòng vì cuộc chiến đấu: có những người Hà Nội suốt đời chỉ
có một mục đích là cái bát phở buổi sáng. Trần Văn đã nhận rõ trách nhiệm cá nhân
trong cộng đồng. Anh đã cùng ở lại với thủ đô, sống và chiến đấu để bảo vệ từng tấc
đất quê hương.
Thái Văn (Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Châu), người nhạc sĩ - chiến sĩ,
sáng tác nên những bài thơ mang phong cách độc đáo và đã trở thành lời của những
bản nhạc có giá trị. Từng sống với bộ đội những ngày mới khởi nghĩa tháng Tám và
kháng chiến toàn quốc, từng cầm súng chiến đấu và lăn lộn gần một trăm ngày đêm
giữa Liên khu Một Hà Nội, những câu thơ hành quân của Thái Văn có tiếng trống và
tiếng gầm của đại bác. Cuộc đời của Thái Văn là một cuộc hành quân qua các chiến
dịch, chiến hào, những bài thơ cũng bắt đầu từ những cuộc hành quân gian khổ đó,
thấm đẫm hơi thở của cuộc sống và hiện thực đấu tranh, nên nó dễ dàng đi vào lòng
người, được đón nhận bằng những tình cảm yêu mến, trân trọng. Cùng âm hưởng với
những nốt nhạc của Thái Văn, những dòng tự vấn của Lữ (Dấu chân người lính -
Nguyễn Minh Châu) là sự toàn tâm toàn ý của một anh trí thức trẻ, gác lại quãng đời
thơ mộng để dấn thân vào chiến trận: “Tôi vẫn còn chưa thay đổi được dáng dấp một
cậu học sinh non nớt hay suy nghĩ viển vông. Tôi đã được tham gia chiến đấu nhưng
vẫn chưa được thử thách trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Tôi không muốn làm
con chim bông lau, nhưng chưa thể trở thành con đại bàng có đôi cánh cứng có thể
một mình bay qua giông bão” [11, tr.387]. Trải qua những hoàn cảnh chiến đấu quyết
liệt, Lữ đã trưởng thành và đã hình thành một quan niệm về cuộc sống hết sức nghiêm
ngặt. Chưa bao giờ Lữ hình dung được mình có thể dùng răng cắn nát gáy một tên lính
Mỹ. Trong một cuộc chiến đấu, để bảo vệ chiếc đài và cái ống tổ hợp – phương tiện
liên lạc thông tin với đơn vị - Lữ đã hi sinh.“Người chiến sĩ điện thanh ấy trước khi hi
sinh còn ngẩng cao đầu lên một lần cuối cùng: Trên nền trời cao, rất cao và xanh, lá
cờ đỏ mỗi lúc một thắm tươi đang bay, lá cờ mỗi lúc càng tiến dần đến trước mặt” [11,
tr.496].
Người trí thức văn nghệ sĩ đã đổ máu cho đất nước với một niềm tin bất diệt vào
độc lập, tự do. Trong loạn lạc, lửa đạn, họ vẫn thắp lên ngọn lửa đam mê của tình yêu
nghệ thuật và ngọn lửa yêu nước của trái tim Việt Nam. Họ tìm kiếm, thể nghiệm một
lẽ sống đẹp, và cuộc sống “tươi xanh” trộn hòa với “lửa cháy” đã giúp họ viết nên
những “Bài thơ về hạnh phúc” cho chính mình, cho những người thân yêu của mình và
cho cả cuộc đời.
Như vậy, hình tượng người trí thức, cũng như hình tượng người nông dân, người
công nhân, hình tượng người lính, hình tượng các anh hùng, lãnh tụ,… khi đi vào văn
xuôi, thường là sự kết tinh những phẩm chất cao đẹp của thời đại, dân tộc.
Đó là hình tượng người trí thức trong cái nhìn sử thi của văn xuôi nghệ thuật 1945 -
1975, khác với hình tượng người trí thức trong cái nhìn tiểu thuyết mà luận văn sẽ đề
cập đến dưới đây.
2.2. Những mẫu người giàu kiêu hãnh và mặc cảm trong ý thức sâu xa về nhân
cách, về bản thể qua cái nhìn tiểu thuyết của văn xuôi Việt Nam hiện đại
(trước 1945, sau 1975)
2.2.1. Người trí thức với niềm kiêu hãnh về bản ngã
2.2.1.1. Kiêu hãnh yêu, tôn thờ, khát khao sáng tạo cái đẹp, tha thiết với hoài bão,
lí tưởng cao cả
Sáng tạo cái đẹp là một hoạt động tinh thần đòi hỏi sự thăng hoa của cảm xúc, sự
hài hòa giữa lí trí và tình cảm. Mỗi người nghệ sĩ lại là một thế giới riêng của cảm xúc,
tình cảm và lí trí. Trên con đường sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo cái đẹp, người nghệ sĩ,
bằng nhiều cách, thể hiện tình yêu, lòng tôn thờ, khát khao sáng tạo đối với cái đẹp.
Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX – 1945 thường có chung một niềm đam mê,
khát vọng: sáng tạo cái đẹp, tìm đến với cái đẹp, và có riêng những con đường khác
nhau để đi tìm, theo đuổi mục đích lớn nhất của cuộc đời mình.
Nhân vật trí thức của Nguyễn Tuân yêu và tôn thờ cái đẹp của những nét truyền
thống văn hóa xưa cũ – cái đẹp của quá khứ “vang bóng một thời”. Huấn Cao (Chữ
người tử tù) là người có tài viết chữ đẹp có tiếng. “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông
lắm. Có được chữ ông Huấn treo trong nhà cũng như có một báu vật ở trên đời” [144,
tr.84]. Huấn Cao - kẻ cầm đầu trong sáu người tử tù chống lại triều đình – ý thức rất rõ
về cái tài đặc biệt của mình. Ông xem việc tạo ra những nét chữ vuông vắn, tươi tắn,
“nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người” [144, tr.85] là công việc của
một người nghệ sĩ: sáng tạo cái đẹp. Vì vậy, “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay
quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Bình sinh ta chỉ có viết hai bộ tứ bình và
một bức trung đường cho ba người bạn thân” [144, tr.85]. Yêu và tôn thờ cái đẹp,
Huấn Cao rất khó tính, kỹ lưỡng trong việc chia sẻ cái đẹp. Không phải ai cũng có thể
chiêm ngưỡng, thấu hiểu, đồng cảm và trân trọng cái đẹp, cho nên, trừ chỗ tri âm tri kỷ
(mà cũng rất ít ỏi), ông không tặng chữ một cách dễ dãi. Cái đẹp cần có người yêu nó,
hiểu nó, tôn thờ nó. Hiểu được tấm lòng và sở thích thanh cao của ngục quan - “một
thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật của nó đều hỗn độn, xô
bồ” [144, tr.82] - Huấn Cao đã rất trân trọng, cảm động. Để chữa lại cái nguy cơ sai
lầm suýt “phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” [144, tr.85], Huấn Cao đã đồng ý cho
chữ ngục quan. Và, một cảnh tượng sáng tạo nghệ thuật “xưa nay chưa từng có” đã
diễn ra nơi tù ngục. Nguyễn Tuân đã thể hiện thành công, đầy ấn tượng về một người
nghệ sĩ anh hùng thật uy nghi lẫm liệt như là ông mong muốn ước ao hơn là con người
có thực giữa cuộc đời. Ở một khía cạnh nào đó, tính cách của Huấn Cao, Quản ngục rất
gần với tính cách lãng mạn, sử thi. Nhưng ở một phương diện khác, hai hình tượng này
đều thể hiện thái độ “bất hòa”, “quay lưng” của Nguyễn Tuân đối với hiện thực đương
thời. Cái thế giới xô bồ hỗn tạp của nhà lao, thói lừa lọc quay quắt của con người trong
thế giới ấy có nguy cơ trộn lẫn vàng thau, giết chết những gì được coi là “thiên lương”
tốt đẹp. Tất cả những ai có lương tri, hãy biết gìn giữ thiên lương, cứu lấy cái đẹp. Đó
là lời di huấn của Huấn Cao và cũng là thông điệp mà Nguyễn Tuân thiết tha gửi đến
bạn đọc.
Những nhân vật khác trong “Vang bóng một thời” là những trí thức Nho học lỗi
thời, không bắt kịp với nhịp sống đương đại và những đổi thay chóng mặt của cuộc
sống, yêu và tìm về với cái đẹp một thời vang bóng. Nhưng họ, xét ở một mặt nào đó,
đều là những hình tượng trí thức mang thông điệp của nhà văn. Những cụ Sáu (Những
chiếc ấm đất), cụ Ấm (Chén trà sương), cụ Kép (Hương cuội), cùng với những cụ
Phủ, cô Tú, Mộng Liên, Phó Sứ,…(Thả thơ, Đánh thơ), hoặc là đam mê những sở
thích tao nhã đời thường (uống trà, ngâm thơ, bình thơ,…), hoặc là có lắm ngón nghề
tài hoa điệu nghệ (trong lối pha trà, thưởng hoa, đánh thơ, thả thơ,…). Tất cả đều là
hiện thân của cái đẹp, của sáng tạo: “Nó là trí tuệ, là tình cảm, là phong độ, là lối sống,
là cái đẹp của con người Việt Nam từ nghìn xưa mà nghìn sau có trách nhiệm phải
thừa kế, tài bồi. Nó là nguồn vốn cổ văn hóa mà tổ tiên đã chắt chiu dành dụm trao lại
cho con cháu gìn giữ, làm thêm ra để giữ nước và dựng nước” [93, tr.118]. Yêu cái
đẹp và tôn thờ cái đẹp, nhân vật trí thức của Nguyễn Tuân là hiện thân cho những gì
đẹp đẽ của văn hóa xưa.
Nhân vật “tôi” trong Tùy bút I, Tùy bút II, Nguyễn (Nguyễn Tuân) thì lại yêu và đi
tìm cái đẹp trong sự xê dịch: “Đi để thay thực đơn cho cảm giác”. Và, khao khát được
đi, được xê dịch cũng là khao khát đi tìm cái đẹp. “Mặc dù người ta là nhà viết tiểu
thuyết có tiếng, là một ngòi bút sắc phụng sự cái trí tưởng tượng lớn lao. Nghệ thuật
người đó cao đến bực nào đi chăng nữa, người đó cũng không dám ngồi để nghĩ và tả
sự giang hồ kia nếu, ít ra, người đó đã không sống những kiếp bồng bềnh” [145, tr.33].
Đó là ý thức của một người cầm bút muốn tìm tòi, khám phá những điều mới lạ trong
cuộc sống. Nhân vật “tôi” không sống được với những gì nhàn nhạt. Phải đi, phải có
vốn liếng sống thì mới có vốn liếng viết. Người nghệ sĩ luôn luôn phải biết làm mới
bản thân và nghệ thuật của mình.
Nam (Đẹp – Khái Hưng) cũng là một họa sĩ chân chính hết lòng vì cái đẹp. Cái đẹp
mà chàng theo đuổi là những gam màu trong hội họa. “Ngoài hội họa ra, Nam không
còn thiết một thứ gì ở đời nữa…” [52, tr.796]. Người họa sĩ này sống chết vì nghệ
thuật, và mê mải đuổi theo nghệ thuật sơn ta. Chàng muốn nâng sơn ta của Việt Nam
lên bực “đại nghệ thuật” không khác gì sơn dầu. Chỉ những họa sĩ yêu nghề tha thiết
mới có những trăn trở, những ý thức nghề nghiệp sâu sắc như thế. Nam cho rằng làm
sơn ta sướng hơn làm sơn dầu, vì trong khi vẽ có lắm cái bất ngờ, “mà cái bất ngờ bao
giờ cũng đẹp hơn cái mình định trước” [52, tr.797]. Người nghệ sĩ sáng tạo theo sự
thôi thúc của nội tâm, nên những phút thăng hoa của cảm xúc, của nội tâm đã tạo nên
những cái bất ngờ trong sáng tạo. Cái bất ngờ làm nên cái đẹp và điều kỳ diệu của nghệ
thuật. “Nhìn Nam mài than một bức sơn, có khi sau hàng giờ nét vẽ mới thành hình,
mới thấy được sự đam mê nghệ thuật của chàng” [52, tr.797]. Mỗi khi mài được một
màu ưng ý, chàng sung sướng thét vang, hét ầm nhà, và tìm đến bạn thân để chia sẻ.
Đường nét và màu sắc là niềm say mê mãnh liệt của Nam. Niềm hạnh phúc khi tạo
được những màu mới, phác họa được một bức tranh đẹp là phần thưởng quý báu mà
nghệ thuật ban tặng cho người nghệ sĩ. Cái đẹp là một sự khám phá, một sự sáng tạo
không ngừng và vĩnh viễn. Cái đẹp đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc, sự thỏa mãn
đam mê sáng tạo. Vì cái đẹp, vì niềm đam mê sáng tạo, Nam có thể hi sinh tất cả: sức
khoẻ, tuổi trẻ, tài sản, ái tình, gia đình. “Một nghệ sĩ chân chính phải cung cúc tận tụy
với nghệ thuật, phải hi sinh hết tài sản, ái tình cho nghệ thuật”. Cho nên, “nghệ thuật
không chấp nhận sự lắp lại, dẫm chân trên một lối mòn năng khiếu,… người nghệ sĩ
phải có bản lĩnh, không chạy theo sự ăn khách và những thị hiếu nhất thời của công
chúng” [52, tr.946].
Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX - 1945 không những yêu, tôn thờ, khát
khao sáng tạo cái đẹp mà còn mang trong đầu những hoài bão, lí tưởng lớn lao. Họ yêu
nghề, muốn cống hiến tất cả cho nghề nghiệp, cho ước mơ, và hăng say lao động với
một ý thức sâu sắc về nghề nghiệp. Được tiếp thu nền văn hóa mới và có chút vốn liếng
về học vấn, người trí thức có tầm nhìn rộng hơn, xa hơn, sâu hơn về bản thân và xã hội.
Họ những muốn làm một điều gì đó để hoàn thiện bản thân và đóng góp tài sức cho xã
hội.
Nhân vật trí thức của Nam Cao hầu hết đều nghèo. Có người phải “chạy ăn từng
bữa toát mồ hôi”, được bữa trưa đã vội lo bữa chiều. Họ vật lộn với một gia đình mà vợ
yếu, con bệnh, và thường xuyên phải vay nợ trang trải cuộc sống. Nhưng những khó
khăn đó không thể nào dập tắt đi ước muốn sáng tạo và cống hiến. Họ ấp ủ những hoài
bão, lí tưởng lớn lao, và cả mộng tưởng nữa. Sống là phải làm việc, phải sáng tạo, phải
cống hiến. Cái đích mà họ vươn tới trong đời là cái đẹp. Những tâm hồn trẻ trung, sôi
nổi, giàu nhiệt huyết luôn muốn làm được cái gì đó cho đời, và hết lòng, tận tâm với
nghề. Tá (Nguyện vọng) say sưa thiết kế một ngôi trường lớn mà anh sẽ là hiệu trưởng
để thực hiện được cái hoài bão vẫn ấp ủ bấy lâu trong lòng: “Anh sẽ trả lương giáo sư
rất hậu, đặt quỹ hưu bổng để các ông có thể yên lòng về vật chất mà tận tụy với nghề.
Anh sẽ tổ chức các lớp theo những phương pháp tối tân. Anh sẽ cấp học bổng cho
những thiếu niên lanh lợi đi ngoại quốc để nghiên cứu thêm về khoa Sư phạm” [7, tập
1, tr.130].
Nhà giáo là người mang sứ mệnh thanh cao: truyền thụ tri thức và rèn luyện nhân
cách cho con người. Cho nên, họ cần cù, siêng năng, mải đọc, chăm học, ham viết. Thứ
(Sống mòn) “còn chút thì giờ thừa nào y học rất chăm… Phải có một cái trình độ học
thức khá cao. Phải luyện tài. Có học, có tài, y mới có đủ năng lực để mà phụng sự cho
cái lí tưởng của y. Tạng người y không cho y cầm súng, cầm gươm, y sẽ cầm bút mà
chiến đấu” [8, tr.14]. Thứ cũng ước mơ có một ngôi trường lí tưởng, phục vụ tốt nhất
cho việc dạy và học, các đồng nghiệp có thể sống được bằng đồng lương để toàn tâm
toàn ý theo đuổi nghề, và học trò thì được phát triển toàn diện (có tủ sách, hội thể thao,
những cuộc giải trí). Y ý thức “mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển tới tận
độ những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình” [8, tr.199]. Thứ “thành
thật yêu nghề và yêu các trẻ em. Y rất tận tâm. Y dạy có phương pháp và chăm” [8,
tr.9] và thiết tha sống chết với nghề.
Những năm đầu XX, nền Hán học đã suy tàn, việc dạy và học chữ Hán không còn
sức hấp dẫn nữa, những ông đồ của thế hệ trước chỉ còn là chút dư âm, dư ảnh (Ông đồ
- Vũ Đình Liên, Lều chõng – Ngô Tất Tố). Chữ quốc ngữ ngày càng phổ biến rộng rãi,
được đưa vào giảng dạy ở nhà trường. Nền giáo dục nước ta có sự chuyển biến mạnh
mẽ. Nhu cầu canh tân đất nước được đặt ra bức thiết. Điều này ảnh hưởng to lớn đến
những người mang trọng trách dạy chữ, dạy người. Người có tâm huyết với xã hội, với
đất nước nhận thấy việc học có một ích lợi lớn lao.
Tá (Nguyện vọng) từ bỏ một chỗ làm lương hậu (bảy mươi đồng), sẵn sàng nhận
đồng lương còm cõi của ngề dạy học tư (ba mươi đồng), vì anh rất yêu nghề dạy học.
Anh đam mê nó với những lí tưởng trong sáng, cao cả. Có người hỏi: “Anh yêu nghề
dạy học lắm?”, Tá đã trả lời dứt khoát, hùng hồn: “Thì đã hẳn. Mà chẳng riêng gì tôi,
những kẻ còn nghĩ đến giống nòi đều nghĩ đến việc đào tạo óc. Vì chỉ có sự học thôi,
chỉ có sự học là đào tạo được con người. Xã hội Việt Nam muốn tiến, quốc dân Việt
Nam phải học” [7, tập 1, tr.130]. Thông qua nhân vật của mình, nhà văn Nam Cao đã
cho thấy nhu cầu đổi mới, canh tân đất nước, cũng như vai trò khai hóa ánh sáng của
người trí thức trong công cuộc đổi mới và xây dựng xã hội.
Cùng với dạy học, viết văn cũng là một thiên chức cao cả. Nhân vật nhà văn của
Nam Cao hăng hái bước vào nghề với những lí tưởng thiêng liêng, cao cả. Họ biết đó
là cái nghề rất thanh bạch, nhiều vất vả, lắm tủi cực, đắng cay, nhưng họ vẫn không
ngăn nổi ngọn lửa khát khao sáng tạo. Cũng giống như họa sĩ Nam (Đẹp – Khái Hưng)
có thể đánh đổi tất cả cho hội họa, họ nguyện đương đầu với mọi khổ cực, mọi thiếu
thốn, mọi thiệt thòi để phục vụ cho nghề văn.
Điền (Trăng sáng) có một thời “chăm chỉ đọc sách, viết văn. Điền nao nức muốn
trở nên một văn sĩ. Điền nguyện sẽ cam chịu tất cả những thiếu thốn, những đọa đày
mà văn nhân nước mình phải chịu… Điền sẵn lòng từ chối một chỗ làm kiếm mỗi
tháng hàng trăm bạc, nếu có thể kiếm được năm đồng bạc về nghề văn” [7, tập 1,
tr.582]. Có thể xem đó là hình tượng đẹp đẽ, chân thực, cảm động của những nhà văn
Việt Nam cho tình yêu nghệ thuật.
Hộ (Đời thừa) có lí tưởng nghệ thuật cao cả, ngưyện hiến cả đời mình cho nghề
văn. “Đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng
quan tâm nữa” [7, tập 1, tr.602]. Với niềm say mê lí tưởng đó, Hộ “băn khoăn nghĩ
đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng thời”. Hộ khao khát có
được “một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn,
phải là một tác phẩm chung cho loài người. Nó chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ,
vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng tình thương, lòng bác ái, sự công bình…
Nó làm cho người gần người hơn” [7, tập 1, tr.614]. Hộ không giấu diếm khát vọng và
khả năng của mình về cuốn tiểu thuyết để đời ấy. Nhân vật nhà văn của Nam Cao luôn
băn khoăn những câu hỏi rất chính đáng và chân thành: Viết văn cho ai đọc, và để làm
gì? Và nếu viết thì viết những gì, viết như thế nào?
Trả lời cho những câu hỏi này không phải là điều dễ dàng. Văn sĩ Điền (Trăng
sáng) đã phải trải qua một cuộc đấu tranh bên trong căng thẳng giữa mộng tưởng và
hiện thực mặn chát, đầy nước mắt. Điền nhanh chóng nhận ra ánh trăng huyền ảo Điền
mơ chỉ là một nghệ thuật giả dối: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối,
không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng Điền” [7, tập 1, tr.588]. Bất cứ
người nghệ sĩ nào cũng từng băn khoăn về lẽ sống, lẽ sáng tạo, để từ đó tìm một hướng
đi đúng đắn cho nghệ thuật. Họa sĩ Nam (Đẹp – Khái Hưng) từng quan niệm nghệ
thuật không phải là sự lắp lại. Nhân vật nhà văn của Nam Cao cũng có ý thức sâu sắc
về nghề: “Cái nghề văn, kỵ nhất là thấy người ăn khoai cũng vác mai đi đào” (Những
truyện không muốn viết). Nghệ thuật phải là sự sáng tạo “biết đào sâu, biết tìm tòi,
khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” [Đời thừa, 7, tập 1,
tr.614], là sự thăng hoa cảm xúc cá nhân một cách chân thực nhất. Nghệ thuật chân
chính không chấp nhận sự cẩu thả, dễ dãi, bất lương.
Nếu như nhân vật trí thức của Nam Cao chủ yếu mang những hoài bão, lí tưởng về
nghề, thì nhân vật trí thức của Nhất Linh lại là những con người luôn trăn trở với hoài
bão, lí tưởng dấn thân trước thời cuộc. Họ cảm thấy không bằng lòng với đời sống hiện
tại, họ mơ tưởng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn, và luôn suy nghĩ, hành động cho mơ
ước đó.
Phạm Đài trong truyện ngắn Làm gì mà băn khoăn thế ? (Người quay tơ - Nhất
Linh) hay băn khoăn, day dứt, khổ sở vì thấy cuộc sống của mình thật vô ích. Chàng
làm đủ mọi cách: thôi việc, không đọc sách, mở nhà máy, thử ăn diện chải chuốt, tán
gái như bọn công tử,… nhưng vẫn không thoát khỏi tâm trạng đó. Chàng đi kéo xe,
đi vào rừng ở ẩn cũng không giải quyết được vấn đề của chính mình. Sau cùng, chàng
mới nhận ra cái nguồn cơn của tất cả những băn khoăn, day dứt, khổ sở ấy là do “cái
đầu biết suy nghĩ của chàng”, và chàng đã tìm ra được chân lý là “hành động, hành
động cho đến kiệt lực, cho đến mãn chiều xế bóng” [85, tr.56].
Doãn (Hai vẻ đẹp - Nhất Linh) là sinh viên du học Pháp về, đỗ cử nhân Luật,
nhưng không ra làm quan mà chỉ ham mê về làng vẽ tranh. Khi thấy cảnh tá điền lam
lũ, nhẫn nhục, Doãn bỗng thấy cuộc sống ở nhà quê không còn thơ thái như chàng nghĩ,
và nghệ thuật mà chàng theo đuổi bỗng mất hết ý nghĩa. Chàng lại thấy rằng tiền chàng
ăn học bao năm trời là của những người nhà quê đói khổ. Sự bứt rứt, băn khoăn đó
khiến chàng không còn tìm thấy sự an ủi ở tranh và sách nữa, vì “Nghệ thuật, mục đích
đi tìm cái đẹp, lúc đó đối với chàng chỉ là một sự mỉa mai đau đớn” [85, tr.259].
Chàng muốn đứng ra cải tạo thôn quê, đem ánh sáng từ cái cù lao đơn độc của mình ra
rọi vào khoảng tối tăm xung quanh. Từ đó, chàng tìm thấy vẻ đẹp thứ hai từ cuộc sống,
khác xa cái đẹp ích kỉ mà chàng theo đuổi lâu nay.
Nhân vật Dũng (Đôi bạn - Nhất Linh), cũng mặc cảm về cái giàu sang phú quý mà
mình được hưởng. Chàng cảm thấy ngột ngạt khi sống trong một gia đình còn nặng nề
về lễ giáo phong kiến. Dũng muốn thoát ra, phá vỡ cuộc sống tù túng đó, muốn kiến
tạo cho mình một cuộc sống mới, một xã hội trật tự mới. Chàng đã từ bỏ tất cả: một
cuộc sống giàu sang, một tương lai sáng sủa để ra đi, dấn thân vào cuộc sống phiêu lưu
đầy trắc trở, gian khó hiểm nguy.
Xây dựng những nhân vật trí thức mang hoài bão cải cách xã hội, Nhất Linh đã đặt
ra vấn đề quan hệ giữa nghệ thuật với nhân sinh, đã nói lên được nỗi băn khoăn, bứt rứt
của một lớp thanh niên vào khoảng 1925 – 1930 (thời gian Phan Bội Châu về nước và
Quốc dân đảng hi sinh 13 đồng chí ở Yên Bái). Họ muốn làm những điều có thể đem
lại những thay đổi lớn lao, nhưng đứng trên lập trường dân chủ tư sản, nhân vật trí thức
của Nhất Linh coi cải cách xã hội là con đường duy nhất để tìm đến một chân trời mới,
thay đổi cuộc sống tối tăm hiện tại.
Nhìn chung, nhân vật trí thức trong giai đoạn đầu XX – 1945 mang những đặc
điểm chung: yêu, tôn thờ, khát khao sáng tạo cái đẹp và có những lí tưởng, hoài bão,
khát vọng cao cả. Một khi đã lựa chọn con đường gắn bó cùng nghệ thuật, người trí
thức phải lao động cật lực, gửi tâm tư và cả những giọt mồ hôi vào đứa con tinh thần.
Đó là nét đẹp của những con người đi tìm cái đẹp.
2.2.1.2. Kiêu hãnh bộc lộ niềm khát khao vươn tới một thế giới tinh thần phong
phú, độc đáo, một nhân cách đẹp theo quan niệm, cảnh ngộ của mỗi người, mỗi thời
Thế giới tinh thần của con người là một địa hạt phong phú, phức tạp. Vốn là những
người có tâm hồn rất đa cảm và nhạy cảm, thế giới tinh thần của người trí thức văn
nghệ sĩ lại càng phong phú, phức tạp hơn. Ở đó diễn ra đủ mọi cung bậc, mọi thanh âm
của cảm xúc, cảm giác, vô thức, ý thức, mà, khi khai phá thế giới tinh thần, ta nhận ra
một đời sống đặc biệt bên trong họ. Mỗi người trí thức đều mong tạo cho mình một thế
giới riêng, một vùng trời riêng để họ có thể soi chiếu, tìm kiếm con người thật của
mình trong thế giới riêng ấy, và để hoàn thiện nhân cách theo cái cách của chính mình.
Có thể đó là lí tưởng dùng văn chương đấu tranh cải cách xã hội (tiểu thuyết luận đề
của Tự lực văn đoàn), là lí tưởng dùng văn chương thanh lọc tâm hồn (truyện ngắn,
tiểu thuyết Thạch Lam), hay dùng văn chương để giải phóng cái tôi khao khát tự do mà
bế tắc (tùy bút, tiểu thuyết Nguyễn Tuân),... Mỗi nhà văn có thể tạo ra cho mình một
mẫu tính cách, một mẫu tâm hồn.
Nhân vật trí thức của Thạch Lam thường tự lắng nghe, cảm nhận, ngẫm nghĩ về
những vang động trong thế giới tinh thần bí ẩn của con người trong từng vang động
của tâm hồn mình. Họ luôn băn khoăn, suy ngẫm, chiêm nghiệm những trạng thái tình
cảm đến với mình, thường xuyên diễn ra những cuộc đấu tranh nội tâm – dù những
cuộc đấu tranh đó không quá gay gắt, quá quyết liệt – để hướng tới một thế giới tinh
thần “trong sạch và phong phú hơn”. Thanh (Một cơn giận), Tân (Đứa con đầu lòng),
Thành (Sợi tóc), Sinh (Đói),… đều thuộc mẫu tâm hồn như thế. Nhà văn dẫn người
đọc “tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác” [Hà Văn Đức, dẫn theo 52, tr.580] của nhân
vật người trí thức, để cùng khám phá những vùng sâu, những góc khuất của tâm hồn.
Và càng hiểu mình, người trí thức của Thạch Lam càng tha thiết hướng tới một nhân
cách hoàn thiện, một thế giới tinh thần phong phú, hoàn hảo.
Nhân vật trí thức của Nguyễn Tuân cũng đòi hỏi một thế giới tinh thần đầy đủ, trọn
vẹn, trong sạch, đúng với hai chữ “thiên lương” của con người. Những nhân vật trong
Vang bóng một thời thường là những nho sĩ cuối mùa, cốt cách ổn định, có đời sống
êm ả, phẳng lặng, luôn giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống thiêng liêng, trong
sạch (uống trà, ngâm thơ, thả thơ,…). Người trí thức ở đây, dù là bậc anh hùng “chọc
trời quấy nước” hay vị nho sinh hay chữ, là người từng một thời đắc ý hay kẻ sống
nhầm chỗ, sinh nhầm thời ,… nhưng họ đều là người giàu lòng yêu cái đẹp, trọng nghĩa
khí, nặng lòng với vốn văn hóa truyền thống của dân tộc, cảnh sắc phong vị của quê
hương đất nước.
Người đời thường chê trách những kẻ “ngông”, nhưng cái “ngông” mà Nguyễn
Tuân công tâm ca ngợi qua các nhân vật trong Vang bóng một thời, qua nhân vật tôi –
anh chàng Nguyễn, hay các nhân vật nghệ sĩ tài hoa tài tử trong tùy bút của ông lại làm
nên sức quyến rũ chủ yếu ở các nhân vật này. Bởi, “ngông”, với họ, đồng nghĩa với lối
sống vượt lên tình trạng sống “lèm đèm, lẹt đẹt, lờ mờ, luộm thuộm, và bằng lòng của
tất cả chung quanh” [146, tr.387], và để thỏa mãn điều đó, họ thả mình vào xê dịch,
giang hồ.
Bạch, Nguyễn, Hoàng (Thiếu quê hương - Nguyễn Tuân) đều mang bệnh thèm đi.
Họ dường như không quan tâm theo đuổi một điều gì cả, ngoài sự xê dịch. Họ muốn
vượt thoát ra ngoài những mối quan hệ bình thường, hướng đến một thế giới tinh thần
phong phú, nơi mà họ có thể trốn mình trong cái tôi kiêu bạc. Dường như xã hội không
thể hiểu hết, không thể nắm bắt họ, nên gọi họ là “ngông”. Họ cô đơn trong hiện tại.
Không xác định nghề nghiệp, không thiết tha gia đình, họ mang trong mình một vốn
kiến thức phong phú về văn hóa. Bạch, Nguyễn,… là biểu hiện của cái tôi cá nhân cực
đoan – cái tôi của một trí thức luôn có ý thức nhìn nhận, cảm nghĩ, suy nghiệm về cuộc
đời, cái tôi của con người không tìm thấy sự hòa hợp với cộng đồng, hay đúng hơn là
với thực tại xã hội.
Bạch (Thiếu quê hương) đi rất nhiều nơi, những nơi chàng đến là những hải cảng
xa lạ, nhưng đầy bí ẩn và hấp dẫn: bờ biển Hắc Hải, Ý Đại Lợi, Nam Mỹ, Thượng
Hải,… Chàng làm người khách lạ của bốn bể. Những nơi đã đi qua, Bạch không muốn
quay lại lần nữa. Còn rất nhiều nơi để đến, để đi.
Nhân vật “tôi” (Tùy bút I, Tùy bút II - Nguyễn Tuân) cũng thế: “Đi, đối với tôi, là
hình thức tốt đẹp nhất của sự thoát li. Thoát li khỏi cái tủn mủn của cuộc sống hàng
ngày, khỏi phiền phức của sự an bày; để trốn cái trơ trẽn của người cũ. Cứ bắt tôi ở
mãi một nơi, tôi sẽ hèn trong tình yêu – yêu hiểu theo nghĩa rộng – và trở nên nhút
nhát và ghẻ lạnh trước cuộc sống” [145, tr.93].
Trong tâm trí của Nguyễn luôn lưu giữ những ấn tượng “đẹp nhất về buổi lữ hành”
[145, tr.305], hoặc: “Cái va li đẹp nhất ở cuộc đời này vẫn là một cái va li chứa toàn
bản thảo của những năm, tháng đi làm việc thui thủi ở phương xa trở về” [145, tr.196].
Mẫu người như thế thành lạ lùng đối với những người xung quanh. Họ không thích
sự êm ấm, yên ổn, “thê tróc tử phọc”, mà thích sự mạo hiểm, phiêu lưu, du lịch. Họ đi
để trốn chạy thực tại, trốn chạy cái tôi đang hoài nghi, vô định, nhưng đi cũng là để
“thay thực đơn cho cảm giác”, tự mở mang tri thức, vốn sống cho mình, vì vậy, không
xa lạ với mẫu người: “Làm trai cho đáng nên trai - Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng
từng” (Ca dao).
Dù là đi để tìm hạnh phúc, để thoát khỏi cái tủn mủn hàng ngày, để thay đổi giác
quan, hay là để tìm kiếm, vươn đến một thế giới tinh thần phong phú thì những nhân
vật trí thức thèm đi của Nguyễn Tuân luôn mang tâm thế của lớp thanh niên thời đại,
và phần nào phản ánh bức tranh đời sống sinh hoạt của họ. Giữa buổi giao tranh Đông
– Tây, giữa hoàn cảnh đất nước loạn li, họ chưa dứt khoát được một hướng đi, chưa đủ
dũng khí để đến với cách mạng, họ tìm mọi cách thoát li thực tại. Nhưng họ không thể
nào trốn mãi vào cái đẹp “vang bóng một thời” nên phải tự tìm lối thoát cho mình -
Chủ nghĩa xê dịch. Nhưng cần phải hiểu rằng: “Đứng đằng sau Chủ nghĩa xê dịch là
một ý tưởng quan trọng hơn: ý niệm về sự tự do của con người, tự do không giống một
ai, tự do đến mức dám đi ngược mọi thành kiến thông thường, thói quen thông thường
miễn sao nó tạo ra niềm khoái lạc, và trúng với ý thích cá nhân của con người trong
cuộc” [146, tr.390].
Chủ nghĩa xê dịch, ý niệm về sự tự do, là một lối thoát tinh thần mà Nguyễn Tuân
lựa chọn cho nhân vật trí thức của mình trước hoàn cảnh “mưa Âu gió Mỹ”. Đây là lí
do vì sao văn xuôi một thời nói nhiều về sự “đi”, “ra đi” và rộng hơn, những nẻo đường
“thoát li”.
Nam (Đẹp – Khái Hưng) không tìm quên trong rượu, thuốc phiện, ái tình mà thoát
li vào nghệ thuật: tìm cái đẹp. Tìm cái đẹp, theo đuổi nghệ thuật - một nghệ thuật vị
nghệ thuật tách rời cuộc sống, thực tại, tách rời cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân
- Nam và những trí thức theo khuynh hướng này không tránh khỏi tình trạng bế tắc và
suy đồi. Nhưng một mặt nào đó, “tìm cái đẹp” là lời đề nghị, là phương hướng giải
quyết tình trạng bế tắc cho khá đông lớp văn nghệ sĩ lãng mạn đương thời. Xét cho
cùng, những băn khoăn của Nam, những chán nản, bế tắc của đám đông văn nghệ sĩ
trong “Đẹp” cũng chính là sự đòi hỏi có được một thế giới tinh thần phong phú, một
nhân cách toàn vẹn để tồn tại trong cuộc đời của người trí thức, mặc dù, ngay lúc đó,
họ chưa tìm được một lí tưởng sống đích thực.
Tâm hồn trong sáng, nhân cách đẹp đẽ luôn là điều mà người trí thức nào cũng
hướng đến. Nhưng để đạt được không phải là điều dễ dàng. Họ đã phải trải qua những
dằn vặt, khắc khoải, những cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, và thậm chí, đối diện với
mình trên ranh giới của bờ vực thẳm thiện - ác. Không ít trí thức rơi vào sự tha hóa,
vào những tấn bi kịch tinh thần. Và cũng không ít trong số họ biết tự thức tỉnh và tự ý
thức kịp thời trong cuộc đấu tranh sống còn của nhân cách.
Là con người, người trí thức cũng không tránh khỏi những thói xấu và cả những sa
ngã thường tình. Đôi lúc, họ là những người nhỏ nhen (Du, Giang, Tá - Nhỏ nhen),
keo kiệt (Hài - Quên điều độ), nói xấu đồng nghiệp (Thứ, San - Sống mòn, Nam Cao),
bất nghĩa (Quang - Ngày mới, Thạch Lam), phóng túng (Trương - Bướm trắng), sa đọa
(Chương - Đời mưa gió, Nhất Linh), ích kỷ (Nam - Đẹp, Khái Hưng, Minh – Gánh
hàng hoa, Nhất Linh - Khái Hưng),… Những vết sẹo này khiến cho tâm hồn, nhân
cách của họ méo mó đi, biến dạng đi. Một trong những tình huống thử thách nhân cách
của người trí thức là đặt họ đối diện với cái đói, với miếng ăn.
Cái đói và miếng ăn là nhu cầu bình thường, bản năng của con người. Nhưng cách
ăn, cách xử sự trước cái đói lại là tiêu chuẩn để người ta đánh giá nhân cách của con
người. Sinh (Đói - Thạch Lam) không thể nào chế ngự được cơn thèm ăn, đã ăn vụng
gói thức ăn vợ mình đem về bằng những đồng tiền bán thân mà trước đó mình đã hất
bỏ, khinh thị. Để rồi sau khi cơn đói tạm lắng dịu, Sinh đau đớn nhận ra nhân cách tồi
tệ của mình. Cũng như Sinh, Hưng (Miếng bánh – Nguyên Hồng) là thầy giáo nghèo
thất nghiệp, không dễ gì thắng được cái đói và đứng cao hơn được miếng ăn. Nhưng
đừng tưởng Hưng dễ dàng để cho miếng bánh lấy đi nhân cách của mình. Ăn miếng
bánh vị kỉ, quên cả vợ yếu con thơ, anh cảm thấy “ tức và đắng ở góc hai hàm răng
suốt tới cuống họng…” và “Qua những cái nghẹn cuồn cuộn trong người Hưng có một
thứ gì mặn chát và tanh như máu giàn ra. Cổ họng và ruột gan Hưng bị xoắn lại” [48,
tr.999]. Có một cuộc tranh chấp giữa bản năng và nhân tính trong con người trí thức
thất nghiệp, nghèo đói này.
Nam Cao là người không ngại ngần phơi trần cái nghèo, cái đói và thực trạng xói
mòn nhân cách của người trí thức thông qua những nhân vật của mình. Lấy chính mình
và những người cùng giới nghệ sĩ như một chất liệu có tính tự truyện ra phản ánh trong
tác phẩm, nhà văn đã đem đến cho người đọc hình ảnh không chỉ của một người mà cả
một đám đông, một tầng lớp trí thức đã sống và suy nghĩ thế nào trong cảnh khốn cùng.
Người trí thức của Nam Cao xuất thân từ cuộc đời nghèo khổ, suốt đời chịu đựng
sự dằn vặt, vật vã của cảnh nghèo. Tâm lí dễ hoang mang, dao động, họ cũng dễ bị lôi
cuốn vào những ham muốn nhỏ bé tầm thường, những tính toán nhỏ nhen, tẹp nhẹp.
Nhiều lúc, họ sắp sửa rơi vào sự sa ngã, ở mấp mé bờ vực của sự sa đọa, trụy lạc, và
thậm chí có những hành động lầm lỗi, đáng trách.
Điền (Trăng sáng), Hộ (Đời thừa), Thứ (Sống mòn) đều là giáo khổ trường tư thất
nghiệp, theo đuổi mộng văn chương, đều nghèo túng, tủi cực. Đã có lúc, họ trở nên tráo
trở, phản trắc trong ý nghĩ, lạnh lùng tàn nhẫn trong hành vi ứng xử với vợ con, hoặc
trở nên tính toán tủn mủn, nghĩ xấu về bạn bè. Hài (Quên điều độ) bị ốm nặng, không
có tiền chạy chữa, “chỉ chữa bệnh bằng nghệ sống, bằng nước rau má tía, bằng nước
tiểu trẻ con” [7, tập 1, tr.364]. Hắn đi khám sức khoẻ để xin một chân dạy học. Viên y
sĩ có “lương tâm nghề nghiệp” [7, tập 1, tr.365] cho biết hắn bị đau tim và phổi nặng,
khuyên hắn “đừng dạy học”, nếu không sẽ “chết mau lắm đấy”. Nhưng nếu Hài không
dạy học thì hắn sẽ chết ngay, bởi không ai có thể sống mà không ăn, “chết mau nghĩa
là chưa chết” [7, tập 1, tr.365]. Hài đã phải bán dần sự sống đi để giữ cho mình khỏi
chết. Hắn buộc phải sống “điều độ” để hợp với cái túi lúc nào cũng rỗng không. Một
lần gặp lại bạn cũ, hắn đã phá vỡ quy tắc sống. Lần đầu được ăn chơi xa hoa, Hài thích
lắm. Nhưng rồi Hài nhận ra cuộc sống “quên điều độ” đó không hợp với hắn chút nào,
chỉ vì hắn không đủ khả năng để sống như vậy. Hài là một bi kịch của cuộc sống nghèo
khổ, bế tắc.
Cuộc sống đầy vất vả, túng đói. Người trí thức cũng phải lo cơm áo, cũng cần tiền,
cũng phải sống như mọi người. Nhưng sự kiếm sống sao mà khó khăn quá. Người trí
thức của Nam Cao vật vã với nỗi lo về sinh kế. Ý thức về cái đói gần như luôn thường
trực trong tâm trí họ, có lúc át đi cả những hoài bão lớn lao về nghề nghiệp, những lí
tưởng cao cả về văn chương. Nhân vật trí thức của Nam Cao, cũng như người trí thức
ngoài cuộc đời thật kia, sống trong một xã hội thuộc địa khi mà Pháp đang ra sức o ép,
bóp chặt cuộc sống của họ, đẩy họ vào tình trạng thất nghiệp, bần cùng. Họ phải vật
lộn với hoàn cảnh gần như hết cả hơi sức, và không ít người rơi vào cảnh ngộ “sống
mòn”, “đời thừa”, và chết mòn.
Trực tiếp đề cập đến sự nghèo khổ, vất vả của người trí thức, Nam Cao đã cho thấy
được thảm trạng về cuộc sống của giới trí thức Việt Nam những năm 1930 – 1945. Đó
là một thái độ dũng cảm của nhà văn. “Qua đó mà gợi ra, đến mức ám ảnh, sự bế tắc
tinh thần và sự sa đọa về phẩm cách của con người, như một khía cạnh lên án tội trạng
của xã hội phong kiến, thuộc địa” [82, tr.21].
Thực tế là có không ít trí thức trở thành nô lệ của đồng tiền, cam tâm làm tay sai
cho Pháp. Nhưng những trí thức chân chính, dù nhẹ nhàng hay quyết liệt, vẫn cố vùng
vẫy để thoát ra khỏi hoàn cảnh. Điều đầu tiên họ chọn là giữ gìn nhân cách. Họ biết tự
nhận thức, tự đấu tranh để vươn lên, để hoàn thiện nhân cách. Nhân vật trí thức của
Nam Cao, dẫu có đôi lúc xuất hiện dấu hiệu tha hóa, vết rạn trong nhân cách, vẫn cố
gắng đứng dậy, đi tìm lại nhân cách, để xứng đáng là một CON NGƯỜI.
Người trí thức của Nam Cao không lúc nào ngừng lùng sục, mổ xẻ, phân tích, suy
ngẫm về nội tâm mình. Một “cái mặt không chơi được” cũng khiến họ áy náy, trăn trở
không yên, tìm mọi cách để hòa hợp với cuộc đời, với con người xung quanh. Thứ
(Sống mòn) sau khi nói xấu, nghĩ xấu cho Oanh, Đích, lại tự trách mình, lại băn khoăn
về nhân cách của mình. Tình thương là lẽ sống của người trí thức. Họ yêu thương gia
đình (Trăng sáng, Đời thừa,…), yêu thương bạn bè (Điếu văn), hàng xóm (Lão Hạc),
yêu thương cả những người “gây sự” với họ (Nước mắt). Hộ (Đời thừa) sau những lần
tệ bạc với vợ con là những giọt nước mắt ân hận, hối lỗi: “Anh chỉ là một thằng khốn
nạn” [7, tập 1, tr.606]. Bị giằng xé giữa lí tưởng văn chương và trách nhiệm làm chồng,
làm cha, có lúc, tưởng chừng như Hộ rơi vào cái hố sâu không lối thoát. Nhưng rồi,
anh cũng nhận ra: “Kẻ mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai người khác. Kẻ mạnh là kẻ
nâng đỡ người khác trên đôi vai của mình” [7, tập 1, tr.604]. Hộ đã hi sinh tình yêu
nghệ thuật cho tình yêu gia đình, cho lẽ sống tình thương mà bấy lâu nay anh vẫn xem
là nguyên tắc sống. Dù đau đớn, dù vật vã, dù phải sống một cuộc “đời thừa”, Hộ vẫn
là chính mình - một người chồng yêu vợ, một người cha thương con, một nhân cách
toàn vẹn. Trong tác phẩm của mình, Nam Cao nhiều lần để cho nhân vật trí thức khóc.
Sau những tật xấu và lỗi lầm, họ khóc vì bị dày vò, hối hận. Đó không phải là thứ hối
hận ồn ào, hời hợt, nông nổi mà là sự đớn đau, giằng xé đến chảy máu của những tâm
hồn trung thực và khát khao hướng thiện. Bằng những giọt nước mắt, nhân vật trí thức
của Nam Cao biết dừng lại đúng lúc, kịp thời trên bờ vực thẳm của sự sa ngã. Dù lâm
vào tình thế bi kịch, bế tắc, họ, rất vật vã và quằn quại, đều cố gắng quẫy đạp để cố
vươn lên lẽ sống nhân đạo.
Thế giới tinh thần của người trí thức thật sự rất phiền phức, nhiều thanh âm, lắm
cung bậc, đa sắc màu. Những cuộc độc thoại, đấu tranh nội tâm khiến tâm hồn họ
phong phú hơn. Nguyên nhân của những đau đớn, khổ sở, dằn vặt trong tâm hồn họ
chính là những nẻo đường đi tìm và giữ gìn nhân cách. Mổ xẻ, soi sáng những mặt xấu,
mặt trái, phần CON trong CON NGƯỜI mình, người trí thức muốn hướng đến một thế
giới tinh thần đầy đủ và một nhân cách hoàn thiện.
2.2.2. Người trí thức với niềm mặc cảm cay đắng, cô đơn trong hành trình đi tìm
bản thể
2.2.2.1. Người trí thức với mặc cảm cô đơn, vỡ mộng
2.2.2.1.1. Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại trước năm 1945
“Mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu, nhưng càng đi sâu càng lạnh” [125, tr.21]. Hoài
Thanh đã viết như thế về hành trình tìm bản thể của thế hệ Thơ Mới. Thực ra, đó cũng
là hành trình chung của giới trí thức nghệ sĩ ngoài cuộc đời lẫn trong văn chương.
Là người nhạy cảm với cuộc đời, người trí thức rất dễ rơi vào cảm giác cô đơn, bất
lực. Những suy nghĩ sâu sắc, những rung động tinh tế, những cảm xúc phức tạp,… của
họ khó tìm được mối dây đồng cảm với thế sự vốn rất ơ thờ. Những lúc cô đơn, bất lực
trước hoàn cảnh, họ lại trốn vào cái tôi của mình. Một cái tôi như là một bản hợp âm đa
cung bậc.
Dũng (Đôi bạn - Nhất Linh) cô đơn vì không tìm thấy sự hòa hợp trong cuộc sống
của gia đình và xã hội xung quanh. Chàng buồn nản, chán chường vì ý thức được khác
biệt giữa sự giàu sang của gia đình chàng với sự khốn khổ, tối tăm, cam chịu của
những người dân quê và sự trống rỗng tinh thần khi sống chỉ để cho riêng mình “sống
mà chỉ nghĩ đến mình thì bao giờ cũng buồn” [86, tr.306]. Dũng tìm đến cái tôi của
mình với một khát vọng được hành động và một hoài bão được ra đi để “thoát ra khỏi
cuộc đời tù túng” [86, tr.307]. Chàng muốn đoạn tuyệt với gia đình để sống cuộc đời
có ý nghĩa. Sau bao nhiêu băn khoăn, day dứt kiếm tìm, Dũng đã ra đi, dù sự ra đi đó
có vẻ liều lĩnh và không thực tế. Chưa biết sẽ làm gì nhưng chàng có một mong muốn
là sẽ thay đổi được cuộc sống hiện tại của những người dân quê, làm cho cuộc sống
của họ tốt hơn lên.
Từ ước mong của Dũng (Đôi bạn), Dũng (Đoạn tuyệt) đã đi vào hành động. Hành
động đó tuy còn mang tính chất mơ hồ nhưng đã thể hiện suy nghĩ của người thanh
niên đương thời và là hệ quả tất yếu của cuộc kiếm tìm tự do.
Ước mong của Dũng cũng là ước mong của Nhất Linh và nhóm Tự Lực văn đoàn.
Nhất Linh đã thể hiện ước mong này qua những nhân vật trí thức của mình: Trần Lưu
(Giấc mộng Từ Lâm, trích Người quay tơ), Doãn (Hai vẻ đẹp),... “Giấc mộng Từ
Lâm” là một xã hội lý tưởng mà Nhất Linh mong ước, ở đó người dân làm ruộng, canh
cửu, chăn tằm, nuôi ong, người trí thức yêu thiên nhiên, sống cuộc sống trong sạch,
thanh cao, dạy học, làm kinh tế để dân ngày càng văn minh, no ấm. “Nhà ánh sáng” là
chương trình mà Nhất Linh và Tự lực văn đoàn đã cố gắng thực hiện với mong muốn
chiếu rọi tia sáng vào nơi tối tăm, thêm một ít vui cho cái đời buồn tẻ của dân nghèo.
Với nhân vật Trần Lưu, Doãn, Dũng,… Nhất Linh đã khơi gợi lòng yêu nước ở lớp
thanh niên trí thức lúc bấy giờ, và kêu gọi họ hành động. Do ảnh hưởng tiểu thuyết của
Nhất Linh nói riêng và của Tự lực văn đoàn nói chung, không ít người xuất thân từ
tầng lớp tiểu tư sản đã “đoạn tuyệt” với cái cũ, với cái tôi cô đơn, chán chường, lạc
lõng để lên đường, kiếm tìm một chân trời mới.
Những nhân vật trong “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân thì mang tâm trạng
cô đơn của người hoài cổ. Họ tự nhận “mình chỉ là một nhà nho sống vào giữa buổi
Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất cả quan niệm cũ, làm tiêu mất bao nhiêu giá trị tinh
thần…, mình chỉ là kẻ chọn nhầm thế kỉ với hai bàn tay không có lợi khí mới” [144,
tr.70]. Họ tìm về cái đẹp quá khứ như một cách thoát li hiện tại, và cho nguôi ngoai đi
nỗi cô đơn của những người “chọn nhầm thế kỉ”. Nguyễn (Nhà Nguyễn), Bạch (Thiếu
quê hương) cũng là một cái tôi cô đơn, không tìm được sự đồng cảm, sẻ chia của gia
đình và mối dây liên hệ với hoàn cảnh xung quanh.
Nhân vật trí thức của Nhất Linh, của Nguyễn Tuân cô đơn vì sự tác động của hoàn
cảnh xã hội trên diện rộng, còn nhân vật trí thức của Nguyên Hồng, Nam Cao cô đơn vì
sự đối mặt với chính tâm hồn mình.
Họ cũng chịu sự tác động của hoàn cảnh, nhưng chủ yếu là ở phương diện đời sống
cá nhân: những lo toan cơm áo gạo tiền. Những nỗi lo toan thường ngày của cuộc sống
đã cướp mất đi những hoài bão, lí tưởng lớn lao, cao cả, và làm tha hóa nhân cách con
người. Không đủ khả năng lo cho gia đình một đời sống tươm tất, không thể theo đuổi
đến cùng những ước mơ nghề nghiệp, vất vả vật lộn với cuộc sinh tồn nhân cách,
người trí thức của Nam Cao rơi vào những bi kịch tinh thần đớn đau, không lối thoát,
rơi vào vực thẳm của sự bất lực, nỗi cô đơn.
Họ cô đơn ngay giữa cộng đồng mình. Bị bủa vây bởi cơm áo gạo tiền, con người
đôi lúc đã vô tâm với nhau một cách tàn nhẫn. Thứ (Sống mòn) vốn là người có chiều
sâu nhân cách, nhưng đôi lúc y chỉ thấy nỗi khổ của mình, nên đã nhìn San, Oanh,
Đích một cách hằn học, ganh ghét. Lúc biết Đích bị ốm nặng, Thứ còn mừng thầm, vì
ước mơ được toàn quyền làm chủ ngôi trường sắp trở thành hiện thực. Nhưng khi đọc
lá thư Đích gửi, Thứ ân hận, dày vò vì sự nhẫn tâm, ti tiện của mình. Điền (Nước mắt)
lại cực lòng khi nhận sự đối xử ghẻ lạnh, khinh miệt của viên thư ký ngân hàng. Rồi lại
thấy thương, thấy thông cảm cho viên thư ký ấy, vì biết đâu, ông ta cũng có một gia
đình nheo nhóc, cũng kiệt lực với công việc và cũng mệt mỏi vì kiếm sống như Điền.
Hộ (Đời thừa) chỉ nhận phải sự ơ thờ, “cái cười lặng lẽ” đầy ngụ ý của Trung, Mão khi
anh bộc bạch niềm đam mê văn chương. Tôi (Điếu văn) vì cuộc sống quá vất vả, đầu
tắt mặt tối nên chẳng còn một phút nào được rảnh rang để nhớ đến những người bạn
khổ sở thời thơ ấu. Và tôi (Mua nhà) buộc lòng phải nhẫn tâm với hai dứa trẻ gia đình
đã bán nhà, để gia đình mình có được nơi trú ngụ. Dường như ai cũng khổ sở vì cuộc
sống, vì kiếm tiền, vì kế sinh nhai, nên không còn nghĩ đến nỗi khổ của người khác.
Hay vì họ đã chịu quá nhiều khổ sở rồi nên không thấy ai khổ bằng mình nữa, nên
“nhìn người ta sung sướng” thì bất mãn, ghen tị, hằn học, đố kỵ? Để rồi có những phút
giây nhìn lại mình, họ nhận ra mình đã vô tâm, đã nhẫn tâm đến thế với đồng loại, để
tự thương mình và thương người hơn. Hạnh phúc quả thật là một cái chăn quá hẹp,
trong khi cuộc sống còn quá nhiều nỗi bộn bề, và trong khi con người chưa tự thoát ra
được những toan tính ích kỷ cho riêng mình.
Không chỉ cô đơn giữa cộng đồng, người trí thức của Nam Cao còn cô đơn ngay
giữa gia đình mình. Vốn là những nhà văn, nhà giáo đầy tâm huyết với nghề, không
tìm được sự tri âm nơi bạn bè, họ cần biết bao sự sẻ chia của người nhà, mà người gần
gũi, thân thiết nhất chính là người vợ. Buồn thay, họ lại đối diện với những người vợ
chỉ biết cuộc sống gia đình với nhu cầu cái ăn, cái mặc. Những người vợ này rất yêu
chồng, rất thương con, rất chăm lo gia đình, nhưng không phải là nơi để họ sẻ chia và
tìm được mối dây đồng cảm. Thương quá hình ảnh văn sĩ Hộ say mê đọc một đoạn văn
hay cho Từ nghe, Từ chăm chú lắng nghe nhưng thật ra chẳng hiểu gì và đầu còn
đương bận nghĩ đến các món tiền phải chi tiêu.
Sự cô đơn, bất lực của người trí thức của Nam Cao có nguyên nhân từ bi kịch vỡ
mộng và chuyển thành những bi kịch tinh thần đau đớn. Đó là bi kịch nảy sinh từ mâu
thuẫn giữa lí tưởng lớn lao và hoài bão không thành. Họ luôn ôm ấp những giấc mơ
đẹp về nghề nghiệp (dạy học tận tâm, tận lực; sáng tác được những tác phẩm để đời).
Và, trên hành trình thực hiện ước mơ, họ đã vấp phải một vấn đề nan giải: trách nhiệm
với gia đình. Vì nghèo, họ phải lo kiếm sống, lo duy trì cái gia đình bé nhỏ. Thứ (Sống
mòn) làm việc cật lực, chi tiêu dè sẻn mà vẫn không đủ tiền gửi về cho gia đình. Hộ
(Đời thừa), Điền (Nước mắt) phải viết những bài rất nông, rất nhạt để đủ tiền lo cuộc
sống. Nhưng họ lại là những người nhạy cảm và ý thức rất cao về bản thân và nghề
nghiệp, nên không thể tự đánh lừa mình và bằng lòng với điều đó. Bởi vậy, họ lâm vào
những cảnh ngộ đau đớn, khổ sở trong cô đơn, bế tắc, lắm khi phải chấp nhận “sống
mòn”, sống những “đời thừa”.
Tình trạng bế tắc của nhân vật trí thức của Nam Cao phản ánh cuộc sống ngột ngạt,
o ép của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trong xã hội thuộc địa, khi Pháp đang thi hành
những chính sách bóp nghẹt cuộc sống, đẩy họ vào tình trạng bần cùng hóa, tha hóa về
nhân cách để thủ tiêu ý chí phản kháng của họ. Với Nam Cao, “…người trí thức không
những đã hết những hào quang của sự lí tưởng hóa, mà còn có lúc lún sâu vào một tâm
trạng tự ti, xấu hổ…” [82, tr.20]. Nhưng dù rơi vào nỗi cô đơn, bất lực, người trí thức
của Nam Cao vẫn khắc khoải tìm kiếm một niềm tin vào ngày mai. “Sự đời không thể
cứ mờ mịt mãi” (Điếu văn), “phải làm thế nào cho được sống, được ngước mắt lên,
được hít thở tự do cùng với tất cả mọi người” (Sống mòn).
Nhân vật trí thức của Nguyên Hồng cũng thường lâm vào bi kịch tinh thần, mặc
cảm cô đơn gần với nhân vật của Nam Cao. Nhưng may mắn hơn, mạnh bạo hơn, so
với nhân vật của Nam Cao, nhân vật của Nguyên Hồng cuối cùng thường đến được với
cộng đồng lao khổ, đấu tranh cho một mục đích chung.
Huyên (Hai dòng sữa – Nguyên Hồng) là một trường hợp tiêu biểu. Người nhạc sĩ
này từng rơi vào sự cô đơn, từng sống một cuộc đời chán nản, trống rỗng. Cũng giống
như đám văn nghệ sĩ trong Đẹp (Khái Hưng), Huyên sống không có ngày mai, không
có lí tưởng, và tìm quên trong âm nhạc. Nhưng Huyên nhận thức được mình đã núp
dưới cái danh nghệ sĩ mà sống bám vào “bạn bè, bọn gái nhảy, bọn tiểu thư ăn không
ngồi rồi” [48, tr.1083]. Một nghệ sĩ chân chính phải thiết tha vì nghệ thuật, hi sinh vì
nghệ thuật, và sống dựa vào sức lực của mình, còn Huyên, “chỉ là thứ nghệ sĩ ăn mày,
thứ nghệ sĩ trùng bệnh độc, sống bằng khí lực người ta, hút cạn ý chí của người ta và
làm trụy lạc bao cuộc đời” [48, tr.1083]. Cũng may là cuối cùng nhân vật đã tìm được
điểm tựa tinh thần cho mình.
Nam (Đẹp – Khái Hưng) tìm quên trong cái đẹp của hội họa, Bạch (Thiếu quê
hương - Nguyễn Tuân) trốn vào sự xê dịch, Dũng (Đoạn tuyệt - Nhất Linh) đi vào
hành động mơ hồ, Thứ (Sống mòn – Nam Cao) le lói tia hi vọng một tương lai tươi
sáng hơn, thoát khỏi cuộc sống tối tăm, bế tắc, còn Huyên (Hai dòng sữa – Nguyên
Hồng) đã bắt đầu tìm thấy lí tưởng cho cuộc đời mình. Huyên với sự “thức tỉnh”, “nhận
đường” sẽ mở đường cho rất nhiều trí thức văn nghệ sĩ khác đến với con người lao khổ,
với dân tộc, với cách mạng.
2.2.2.1.2. Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại sau 1975
Chiến tranh đã qua đi, nhưng những vết thương mà nó để lại trên hình hài và tâm
hồn con người Việt Nam vẫn hằn theo năm tháng. Những hồi ức về một thời bom đạn
tàn khốc vẫn đeo đẳng người trong cuộc. Hòa bình rồi, mà những người bước ra từ
cuộc chiến cứ như người mộng du. Đời sống hiện tại dường như không dung nạp được
họ, họ lạc loài và cô đơn giữa cuộc sống đời thường.
Nguyễn Minh Châu đi tiên phong trong việc xây dựng nhân vật trí thức lạc loài, lạc
thời, cô đơn. Lực (Cỏ lau) bị nhát dao chiến tranh cắt lìa đời mình thành hai nửa. Ông
không thể tìm lại được tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc. Phía trước mặt ông là nỗi cô
đơn ám ảnh của tương lai: “một người lính già sống với một ông bố” giữa một vùng
“những hình người đàn bà bằng đá đầy cô đơn” [12, tr.490]. Nhân vật tôi (Vòng sóng
đến vô cùng - Nguyễn Khải) vẫn sống với những kỉ niệm, những giá trị của quá khứ,
thấy những người trẻ bây giờ thật khác với mình. Những nhân vật trí thức của Nguyễn
Khải (Thời gian của người, Cha và con và,…) là kẻ lạc thời, luôn mặc cảm về con
người thừa, về thân phận bèo bọt.
Có thể nói, trong văn học Việt Nam sau năm 1975, nhân vật cô đơn và lạc loài nhất
khi bước ra khỏi cuộc chiến là Kiên (Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh). Kiên là cựu
chiến binh, và là nhà văn “cấp phường”. Chiến tranh kết thúc, như bao người khác,
Kiên trở về với cuộc đời bình dị. Nhưng tâm hồn Kiên không thể nào bình yên giữa
thời bình. Anh rơi vào một cuộc sống mộng du, trầm uất và cô đơn bởi sự xô đẩy giữa
hai tiếng vọng: tiếng vọng âm u của những âm hồn đồng đội, của cái chết, của chiến
tranh và tiếng vọng đau đớn của một tình yêu tha thiết không thành. Những cơn dư
chấn nặng nề của chiến tranh làm Kiên khó thể hòa nhập với đời sống hậu chiến.
Những người xung quanh thấy anh kì quặc, khó hiểu, và lập dị. Kiên như người mộng
du đi giữa cuộc đời, sống với những giấc mơ, những hồi tưởng, những kí ức của chiến
tranh và tình yêu. Anh “khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy
lùi về dĩ vãng” và “chút lòng tin và lòng ham sống còn lại không phải là những ảo
tưởng mà là nhờ sức mạnh của hồi tưởng” [109, tr.51].
Kí ức của Kiên là một màu âm u của chiến tranh. “Kiên lặng đi nhớ lại… Đêm nay
hồn ai gọi hồn ai. Tiếng hú cất lên từ đâu đó trong rừng thẳm, âm u truyền dọc theo
những gờ núi lạnh lẽo của truông Gọi Hồn. Cô đơn. Lạc lõng” [109, tr.13]. Chiến
tranh “chà đạp, hành hạ, đày đọa, bị bạo lực tăm tối làm nhục, rồi giết chết, bị chôn
vùi, bị quét sạch, bị tuyệt diệt” [109, 231].
Kiên lần lượt mất đi những người thân yêu nhất: cha, mẹ, dượng, và những đồng
đội. Trong cuộc chiến bạo tàn, khốc liệt, Kiên chứng kiến cái chết của đồng đội hết lần
này đến lần khác. Họ bị giết trước mắt anh hoặc chết trong vòng tay anh. Có người chết
để cứu tính mạng anh, có người chết vì lỗi lầm của anh. Họ chết để anh được sống. Với
những đồng đội đã chết trong chiến tranh, Kiên mang một món nợ không trả nổi. Đêm
đêm, trong những giấc mơ đứt nối, những hồi tưởng gấp khúc, Kiên sống lại với những
năm tháng bên những người đồng đội cũ, với một thế giới âm hồn.
Kí ức của Kiên còn có cả những vạt nắng, những khoảng sáng trong trẻo. Đó là kí
ức về Phương - một tình yêu đã ăn sâu vào máu thịt. Tình yêu ấy là ánh sáng lấp lánh
qua những đêm dài trong rừng sâu và bom đạn. Nhưng đó cũng là những hồi ức chua
xót, đau đắng của một tình yêu mãi mãi không trọn vẹn, một tình yêu bị đày đọa trong
vòng xoáy nghiệt ngã của chiến tranh. Ngay từ đầu cuộc chiến, Phương đã bị làm nhục,
bị đọa đày về nhân phẩm. Chiến tranh chà đạp và hủy diệt không chừa thứ gì, mà
Phương của anh nhỏ bé, trong trắng và mong manh quá. Họ biệt li như lời Phương dự
cảm, như qui luật tất yếu và tàn nhẫn của chiến tranh. Hòa bình, gặp lại, những ám ảnh
của chiến tranh vẫn không buông tha họ. Mỗi người một lối rẽ cuộc đời. Mỗi người
đau một thân phận người.
Cách duy nhất để Kiên trả món nợ quá khứ cho những đồng đội đã hi sinh và cứu
chuộc tâm hồn mình là viết văn. Kiên trở thành một nhà văn “tồn tại đến trót đời với
thiên chức là một cây bút của những người đã hi sinh, là nhà tiên tri của những năm
tháng đã qua đi, người báo trước thời quá khứ” [109, tr.232], để nói thay lời trăng trối
của “những đồng đội thân yêu ruột thịt, vô số và vô danh, những liệt sĩ của lòng nhân,
đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến”
[109, tr.232], để một thời đại “đau thương nhưng huy hoàng, những ngày bất hạnh
nhưng chan chứa tình người” không chìm vào sự lãng quên và sự vô tình của “nền hòa
bình thản nhiên” [109, tr.287] thời hậu chiến .
Những ẩn ức tâm linh được Kiên gửi vào cuốn tiểu thuyết. Anh đã trải qua những
cơn mộng du đầy bấn loạn, những vật vã trong sáng tác, sự cô đơn, lạc loài ở thì hiện
tại. Hoàn thành cuốn tiểu thuyết, Kiên đã hoàn thành “thiên chức văn chương cũng như
thiên chức cuộc đời” [89, tr.236]: “kể lại, viết lại, làm sống lại những linh hồn đã mai
một, những tình yêu đã phai tàn, bừng sáng lại những giấc mộng xưa” [109, tr.90] để
những năm tháng đau thương mà anh hùng đó không bị vùi sâu xuống lòng đất lạnh, sẽ
sống và lưu dấu mãi trong tâm trí, trong trái tim những người còn sống, những người
đương thời, những người mai sau. Hoàn thành cuốn tiểu thuyết, Kiên mang gương mặt
của người “đi tìm thời gian đã mất”, “sống ngược trở lại con đường của mối tình xưa,
chiến đấu lại cuộc chiến đấu” [109, tr.90], vượt qua những kinh hoàng, bạo lực, hủy
diệt của chiến tranh, làm sống dậy “bất diệt những tình người”. Hành động đốt bản
thảo - sản phẩm tinh thần của cuộc đời nhà văn – như một nghi lễ, như một giải thoát
trong sự giác ngộ thiêng liêng. Bởi lẽ, Kiên đã trả được gánh nặng của món nợ chiến
tranh, món nợ quá khứ.
“Chiến tranh đã để lại gì khi con người bước ra khỏi vòng xoáy dữ dội của nó?”
[121, tr.399]. Nhân vật cựu chiến binh – nhà văn Kiên, với tư cách là người làm chứng,
người trong cuộc, không mang ý định giải thiêng cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Cách nhìn chiến tranh của Kiên không như những gì trước đây ta ca ngợi. Khi đã đứng
ở một độ lùi nhất định, chúng ta nhận ra rằng, chiến tranh không phải chỉ là những
chiến công, những anh hùng, những nụ cười chiến thắng, mà, để có được những điều
ấy, con người Việt Nam đã trả một cái giá rất đắt bằng máu, bằng nước mắt, bằng mất
mát, bằng nỗi đau. Những người lính đã để lại trên dãy Trường Sơn lửa đỏ cả tuổi trẻ,
tình yêu và hạnh phúc, cả sinh mạng, và cả những phút giây của ranh giới mong manh
giữa cái ác và nhân tính. Ai may mắn còn sót lại sau cuộc chiến, lại lạc loài, cô đơn. Đó
mới là hiện thực đầy đủ, toàn diện của chiến tranh. Hiểu được như vậy mới thấy ý
nghĩa sự hi sinh của những người đã khuất, mới thấy được sự khốc liệt của chiến tranh
và sự cao cả của con người: “Cuộc hành trình trong tâm tưởng của Kiên trong những
ngày hậu chiến phản ánh một dạng thức của chủ nghĩa anh hùng …” [89, tr.247]. Ở
một phương diện nào đó, nhân vật Kiên “là một sự đào sâu hiện thực chiến tranh bằng
những trải nghiệm cá nhân để làm phong phú thêm cái nhìn của cộng đồng về hiện
thực lịch sử” [89, tr.248].
Trong sự êm ả của hòa bình vẫn có những con sóng ngầm dữ dội. Nhiều giá trị,
quan niệm về cuộc sống được định vị lại. Và khi cơ chế thị trường của nền kinh tế mở
len lỏi vào trong từng mỗi gia đình, không ít bi kịch đã diễn ra.
Thầy giáo Tự (Đám cưới không có giấy giá thú - Ma Văn Kháng) là một trí thức
chân chính và một nhân cách cao đẹp. Tự vốn yêu nghề. Anh là một thầy giáo đầy tâm
huyết, một người dạy văn sống chết với vẻ đẹp của văn chương. Tự những mong
truyền đến cho học trò những kiến thức và tình cảm đối với văn chương, hoàn thiện
nhân cách của chúng, hướng chúng đến cái đẹp. Tự yêu sách. Căn gác của Tự là “cái
tháp ngà cao quý, câu lạc bộ văn hóa, phân xưởng rèn đúc nghị lực, ý chí” [65, tr.13],
chứa đầy sách - những cuốn sách anh yêu quý như sinh mệnh của mình. Căn gác chật
chội, nóng bức đó là khoảng trời riêng tự do của Tự. Anh có thể thả hồn mình bay bổng
cùng văn chương và “xa lánh, tách khỏi đời sống đang bị tước dần những giá trị đích
thực, thói sùng bái đồng tiền và sự tráo trở thô bạo, tránh xa những cuộc thăm viếng
xã giao xin xỏ, đút lót của cha mẹ học trò ” [65, tr.13]. Không mảy may để tâm cuộc
tranh giành, cãi cọ quyết liệt của Xuyến (vợ Tự) và Quỳnh với đủ các thứ ngôn từ hạ
đẳng, trên căn gác chật chội, nóng bức, Tự vẫn say sưa đàm đạo văn chương cùng Kha
với niềm xúc động chân thành, lòng đam mê cao độ, đến mức “Giọng Tự bỗng khan re.
Ngực Tự nghèn nghẹn” [65, tr.9]. Tuy nhiên, ở thầy giáo Tự, nỗi đam mê văn chương
đã lồng vào đấy nỗi cô đơn da diết, cực độ của một người thừa trong gia đình, một
người lạc loài trong thế giới gạo tiền lạnh lùng, tàn nhẫn. Nỗi cô đơn của người sống
trong sạch, yêu văn chương, yêu nghề dạy học trong thời buổi kinh tế thị trường.
Một trí thức chân chính như Tự nếu có được những điều kiện thuận lợi và một môi
trường thích hợp sẽ phát huy cao độ tài năng của mình. Tiếc thay, Tự nghèo và cái
gánh nặng cơm áo đời thường ghì anh sát đất. Xuyến lúc đầu còn bóng gió xa xôi, sau
càng ngày càng chua chát, châm chọc, ngoa ngoắt, mỉa mai, khiêu khích trắng trợn khả
năng kiếm tiền của Tự. Đời sống ngày càng khó khăn. Đồng lương Tự đem về không
thấm tháp vào đâu. Yêu sách, nhưng anh đành phải bán dần bán mòn để có tiền trang
trải cuộc sống. Thế mà, có lần Xuyến ném thẳng số tiền bán sách xuống đất ngay trước
mặt Tự vì nó chẳng bõ bèn gì. Khi Xuyến cố vùng vẫy thoát khỏi cái nghèo đói túng
quẫn bằng cách bỏ buôn thúng bán mẹt để lao vào thương trường, rồi trở nên sa đọa và
ngoại tình, Tự đã phải trốn những cảnh lục đục, những chuyện chướng tai gai mắt đến
ở nhờ một góc văn phòng trường. Tự làm vậy không phải vì sợ mà vì tự trọng, vì cố
giữ cho mình một chỗ đứng khỏi lung lay, cố giữ cho mình một niềm tin về sự tốt đẹp
của con người. Anh cô đơn vì không tìm được sự sẻ chia, đồng cảm ở gia đình. Anh cô
đơn trong cái vòng xoay cơm áo. Và anh cô đơn cả trong những quẫy đạp, chống chọi,
đấu tranh với cái xấu, cái ác đang hoành hành ở ngôi trường số 5.
Môi trường giáo dục tưởng chừng trong sạch và yên bình, nhưng vẫn bị cái ác, cái
xấu vấy bẩn. Những kẻ điều hành ngôi trường đã thừa nước đục thả câu, lợi dụng chức
vụ và quyền hạn để tư lợi. Tự bị hiệu trưởng Cẩm vu cáo trắng trợn là ăn tiền của học
sinh để chữa điểm bài thi, trong khi chính ông ta đã làm cái việc tồi tệ đó.
Cơn lốc của cơ chế thị trường len lỏi cả vào trong nhà trường. Những kẻ có quyền
lực nhưng năng lực yếu kém, tầm nhìn thiển cận đã đẩy người trí thức chân chính vào
ngõ cụt. Tự đành phải thực hiện một cuộc chia tay lớn của đời mình: chia tay mái
trường thân thương với bao mộng ước đẹp đẽ và lớn lao mà anh đã hết lòng tôn thờ.
Một cuộc chia tay bất đắc dĩ và buồn thảm. “Đời là một vại dưa muối hỏng” và Tự là:
“người còn sót lại sau một đám cháy lớn, một nạn nhân đầy thương tích sau cuộc hỗn
chiến giữa lý tưởng thiêng liêng và thực trạng thô phàm của xã hội” [65, tr.9]. Lí tưởng
không thành, hiện thực nhức nhối, Tự rơi vào bi kịch vỡ mộng của “một cuộc hôn phối
không thành, một bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn sách hay để
lầm chỗ” [65, tr.281]. Người trí thức chân chính này bị đặt vào những tình huống đối
lập, những hoàn cảnh trớ trêu, đau đớn tận cùng để thấy hết sự bất công vô lý của cuộc
đời.
Trong tác phẩm này, cuộc đời ông Thống - người thủ trống trường - cũng là một
chuỗi dài những bi kịch. Bên trong cái bề ngoài “tuổi xế chiều, xơ cứng, lão hóa, chết
mòn, tóc rụng dần, chân tay bị sừng hóa lại thêm căn bệnh cao huyết áp khiến ông xao
xác, uể oải sẵn sàng lên cơn kịch biến nguy hiểm cho tính mạn” [65, tr.196] là một tâm
hồn thâm uyên, trải nghiệm, thấu rõ tình đời, tình người. Chứng kiến việc làm của Cẩm,
Dương, Thảnh, ông khắc khoải, lo âu về sự sa sút của nhân cách người thầy và nghề
giáo. Nghề giáo vốn cao quý nhưng đang có nguy cơ trở thành một kế sinh nhai đơn
thuần. Người thầy phải là một nhân cách đẹp, là tấm gương cho học trò thì đang bị
nhem nhuốc, xúi xó, méo mó đi. Bị vu oan bất ngờ vì sự tráo trở của Cẩm, không chịu
được thói đê mạt, đểu giả của người đời, bệnh cũ tái phát làm ông gục ngã cấm khẩu,
liệt não bất động.
Tự, Thống là những trí thức chân chính, có đạo đức nhân phẩm, có năng lực,
chuyên môn nhưng gặp bi kịch do sức ép của môi trường và hoàn cảnh sống. Trí thức
cần biết bao một môi trường làm việc thuận lợi để phát huy năng lực và cống hiến tài
năng. Nhà văn Ma Văn Kháng đi vào tìm hiểu, khám phá những tấn bi kịch của người
thầy giáo bằng việc quan tâm đặc biệt tới số phận của người trí thức trong thời kì mới.
Thời buổi kinh tế thị trường, sức mạnh của đồng tiền, của vật chất làm con người xa rời
đạo lý truyền thống, chà đạp lên nhân phẩm, đạo đức của gia đình, xã hội và của chính
bản thân mình. Nhưng người trí thức trong văn xuôi hiện đại không chỉ thường xuyên
đối mặt với mặc cảm vỡ mộng, mặc cảm cô đơn. Trước hiện thực nghiệt ngã của đời
sống, họ còn đau nỗi đau mặc cảm tha hóa của bản thân mình, của giới mình. Và trong
nỗi đau ấy, từ nhân vật thường toát lên một tinh thần phê phán.
2.2.2.2. Người trí thức với mặc cảm tha hóa và tinh thần phê phán
Người đầu tiên viết về trí thức tha hóa, lưu manh là Vũ Trọng Phụng.
Trong tác phẩm của ông có cả một đám đông trí thức rởm, trí thức lưu manh. Họ
nhếch nhác, bệ rạc, hãnh tiến, lố bịch, khôi hài. Văn Minh (Số đỏ) là một trong số đó.
Từng du học sáu bảy năm ở Tây về nhưng “không có mảnh văn bằng nào cả” [115,
tr.12]. Hắn chỉ biết ngụy biện cho “học thức” của mình: “Học thức không ở văn bằng.
Những người như Phạm Quỳnh hay Nguyễn Văn Vĩnh mà khảo đến bằng thì thành ra
vô học hay sao?” [115, tr.58]. Hắn tự nhận là “nhà cải cách xã hội”, đề xướng phong
trào Âu hóa cho hai lĩnh vực thể thao và thời trang cho phụ nữ, thực ra xuất phát từ sự
hám danh, hám lợi. Sốt sắng động viên bà Phó Đoan tập thể thao, xây sân quần vợt,
mục đích của hắn là để vợ hắn có sân chơi mà hắn không phải tốn đồng tiền nào.
Những thiết kế thời trang của tiệm may Âu hóa toàn là những kiểu quần áo hở hang:
lời hứa, ỡm ờ, ngây thơ, dậy thì, lưỡng lự, nữ quyền, chờ một phút, ngừng tay,… giúp
cho phụ nữ hư hỏng một cách có lí luận, nhưng cũng là để buôn bán thời trang. Biết
xuất thân và bản chất của Xuân, Văn Minh “vờ” như không hay biết gì, còn làm mọi
cách để Xuân từng bước gia nhập vào giới thượng lưu, cuối cùng cũng là vì lợi ích
riêng của bản thân.
Xuân Tóc Đỏ là điển hình của những kẻ “lưu manh giả danh trí thức”. Xuất thân từ
một kẻ thất học, nghèo khó, từng trèo me, hái sấu, bán thuốc lậu, nhặt ban quần, nhờ
cái dâm mà hắn lọt vào “mắt xanh” của bà Phó Đoan. Được sự giúp sức của Văn Minh,
hắn từng bước “bò” vào, thâm nhập, và nghiễm nhiên trở thành nhân vật của giới
thượng lưu tư sản thành thị: sinh viên trường thuốc, đốc - tờ Xuân, quản lí tiệm may
Âu hóa, nhà cải cách xã hội, giáo sư quần vợt, anh hùng cứu quốc. Sở dĩ Xuân được xã
hội thượng lưu đó đón nhận và tôn sùng vì thực chất bọn người trong xã hội đó cũng
chỉ là những kẻ giả dối, lưu manh, hãnh tiến, ngoi lên nhờ quyền lực và đồng tiền, và vì
bọn chúng nhận ra Xuân xứng đáng là “đại ca”, là “ông tổ” của xã hội lưu manh đó.
Giới trí thức trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng còn nhiều nhân vật tha hóa đến dị
dạng: đốc - tờ Trực Ngôn, Victor Ban, Typn… , và một đám đông trí thức thượng lưu
quý phái nhưng thực chất là bịp bợm, dâm đãng, hãnh tiến, lố bịch. Đi đưa tang mà gài
vô số huân chương trên ngực áo để khoe khoang sự giàu có và địa vị, mà chỉ cảm động
khi nhìn “làn da trắng thập thò sau làn áo voan” [115, tr.148] của Tuyết, mà “chim
nhau, cười tình nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau”
[115, tr.150]. Vũ Trọng Phụng là người đầu tiên đề cập đến vấn đề trí thức rởm, trí
thức lưu manh. Ông đã lên tiếng cảnh báo về tình trạng tha hóa, suy đồi đạo đức của
con người trong xã hội thành thị Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với những bất
công, nhố nhăng, bịp bợm – cái xã hội con đẻ mà Pháp dùng như một chiêu bài để
“trụy lạc hóa” lối sống, nhân cách của một bộ phận tư sản hãnh tiến thành thị. Ông
cũng đưa ra lời cảnh báo với toàn xã hội: Hãy coi chừng trí thức rởm (như Văn Minh
chồng) một khi liên minh với bình dân vô học (như Xuân Tóc Đỏ) thì xã hội sẽ đảo
điên từ trên xuống dưới.
Tuy nhiên, những gì mà Vũ Trọng Phụng viết cũng vẫn là những màn hài kịch
trong một thiên tiểu thuyết trào phúng, dù hiện thực đến đâu thì tính chất cường điệu
của nó vẫn khiến người ta thấy thói xấu kia còn ở khá xa, ở tận bên kia, ở một phía
khác với mình. Người ta cười kẻ khác và vẫn an tâm với mình.
Phải đến thời kinh tế thị trường thì sự tha hóa, lưu manh mới trở nên nhức nhối
trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. “Chưa có thời buổi nào trí thức lưu manh hóa nhiều
như thời này” [63, tr.13], Đông (Mùa lá rụng trong vườn – Ma Văn Kháng) đã gào lên
như vậy.
Thực ra, sau 1975, Nguyễn Minh Châu, người “đọc lời ai điếu cho một thời văn
học minh họa” mới là người đầu tiên cảnh báo về nguy cơ tha hóa của giới trí thức văn
nghệ sĩ nói riêng và con người hiện đại nói chung. Hình tượng người họa sĩ trong
truyện Bức tranh là lời cảnh báo đó. Ở đây, chạy theo danh tiếng, quên cả tình nghĩa,
tráo trở với ân nhân là một biểu hiện của sự tha hóa tinh vi về nhân cách. Gọi là sự “tha
hóa tinh vi”, bởi sự tha hóa này nếu nhân vật không tự ý thức thì cũng chẳng ai hay biết,
nhất là khi người lính thồ tranh trước sau vẫn một mực im lặng.
Nhưng quả thật chưa ở đâu, chưa bao giờ, người trí thức lại tha hóa, biến chất nhiều
như trong cái thời kinh tế thị trường, thời “Mùa lá rụng trong vườn” và “Đám cưới
không có giấy giá thú” của Ma Văn Kháng, thời mà nhân vật Đông (Mùa lá rụng
trong vườn) không kìm nổi những lời ta thán trên đây.
Sự tha hóa của nhân vật trí thức trong tác phẩm của Thạch Lam, Nam Cao, Vũ
Trọng Phụng, Nguyên Hồng chỉ là bước khởi đầu trong sự trượt dài về nhân cách của
con người. Trong xã hội hiện đại, với sự lên ngôi của cơ chế kinh tế thị trường, con
người chạy theo danh vọng, địa vị, đồng tiền, dần đánh mất đi chính mình lúc nào
không hề hay biết. Đầy rẫy những kẻ giàu có nhờ buôn bán, làm ăn phi pháp. Đầy rẫy
những kẻ háo danh, ô trọc. Đầy rẫy những kẻ lừa thầy phản bạn. Đầy rẫy những kẻ giả
danh trí thức, đội lốt trí thức, vừa dốt vừa vô đạo đức, lợi dụng mọi cơ hội, chức quyền,
thủ đoạn, sẵn sàng dẫm đạp lên người khác để tư lợi về mình.
Nhân vật trí thức của Nguyễn Minh Châu còn biết tự ý thức để nhận ra bản ngã của
mình. Còn đám đông trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng)
lại nhố nhăng, trơ trẽn, tráo trở, lật lọng một cách trắng trợn mà không hề có sự áy náy,
cắn rứt lương tâm nào. Đáng buồn thay, họ lại là những người trong ngành sư phạm -
một ngành nghề vốn mang danh là cao quý và vì con người. Họ lợi dụng chức vụ,
quyền lực, biến ngôi trường trung học số 5 thành nơi cái ác hoành hành.
Cẩm - hiệu trưởng - giáo viên dạy Văn, ngoi lên từ cái lí lịch bần cố nông và sự
luồn lách khôn khéo. Bản chất hắn dốt nát lại háo danh, chạy đua theo thành tích, vùi
dập nhân tài. Hắn từng gây ra bao vụ xì-căng-đan tình ái mà vẫn tìm cách thoát thân
được. Hắn móc nối với Dương, Thảnh nâng điểm khống, lén lút tự ý vào phòng niêm
phong bài thi để chữa điểm cho học sinh, khi bị phát hiện lại đổ tội, vu cáo cho người
khác. Cẩm là một nhân cách méo mó, biến dạng, quái dị của người thầy.
Bí thư Dương - một trong những lãnh đạo của nhà trường - thuộc “dạng người chải
đầu chải từng sợi tóc, thổi cơm thổi từng hột gạo, suốt đời theo đuổi ngoại vật, tự làm
đui điếc và giết chết cái tâm của mình” [65, tr.253]. Suốt ngày hắn chỉ có một việc duy
nhất là cầm cây phất trần phủi bụi trên những tấm bằng khen lồng kính treo ngay ngắn
trên tường. Cụm từ cửa miệng của hắn là “xét một cách toàn diện” với ý đồ giáo huấn
lộ liễu, lồng quan điểm chính trị vào sự việc một cách khiên cưỡng, lố bịch. Con người
Dương là sự kết hợp “hoàn hảo” giữa: “Tính nguyên tắc và thói máy móc, giáo điều.
Niềm tin và chủ nghĩa duy lý mù quáng. Ổn định và trì trệ. Kiên trì và cố chấp bảo thủ.
Bản lĩnh và thói độc quyền quá quắt” [65, tr.163].
Những kẻ cầm cân nảy mực mà như thế thì những kẻ dưới trướng khó mà khuất
phục, trừ phi cùng một giuộc như họ. Thảnh, giáo viên dạy Hóa, là kẻ “bỉ tiện”, làm
chuyện nhơ nhuốc không chút thẹn thùng. Cô ta không hề có một chút tâm nào đối với
học trò, chỉ chăm chăm nịnh hót, dòm ngó chuyện người khác, biển thủ của công.
Thảnh không một chút sĩ diện, ngang nhiên cặp bồ, hò hẹn nhân tình, thô thiển phô
trương sự dâm đãng của mình. Cô ta không xứng với nghề nghiệp đã chọn.
Có những người tha hóa từ trong bản chất, cũng có những người chịu sự tác động
lớn của hoàn cảnh, môi trường. Thuật, giáo viên dạy Toán, là một trường hợp như thế.
Anh là một “tài năng toán học đặc sắc, mạch lạc, chặt chẽ mà thông thoáng phóng đạt
lạ lùng” [65, tr.260]. Anh thông thạo cả Anh, Pháp, Nga, đọc được cả văn bia, câu đối
cổ, viết chữ Nôm đẹp, giỏi thể thao,... và rất có tâm hồn: cảm nhận được sự sâu xa, tinh
vi, cái hay của Văn, Sử, Triết. Thuật dạy giỏi và năm nào học trò của Thuật cũng đạt
giải Toán. Khi bắt tay vào nghiên cứu, thực hiện nghiệp vụ, anh đều trội nổi về cá tính
và đạt kết quả hơn người. Anh cũng là một nhân cách tốt, mong muốn được sống, làm
việc, học hành không bị ai ngăn cản, không bị ai gây sức ép về tâm lý: “Gạt đi cái bề
ngoài nhiễu sự, cái hình sắc ma mãnh thiếu thiện tâm có thể thấy ở ngôn ngữ, cử chỉ,
hành vi con người này là một khát vọng nhân văn” [65, tr.282].
Nếu Tự là “nhân vật lớn của vở bi kịch, bi kịch của một bữa tiệc dở dang, một đám
cưới không thành, một cuốn sách hay để lầm chỗ, đẹp cao cả trong buồn đau” [65,
tr.281] thì Thuật là: “Nhân vật của vở bi kịch cỡ Sếchpia, là cơn lốc xoáy, cơn gió cụt
đầu, vừa tỉnh vừa rối loạn, xót xa và bất lực” [65, tr.282]. Từ xưa đến nay, “chữ tài
liền với chữ tai một vần”, cái tài của Thuật như báo trước những điều chẳng lành: “Tài
năng đích thực nhưng chật hẹp và chông chênh…” [65, tr.260] sẽ đi liền với nguy cơ
đổ vỡ. Rồi đổ vỡ thật. Bắt đầu là sự tha hóa (coi kiếm tiền, “kinh doanh giảng dạy” là
lẽ sống, là mục đích tối cao) sau đó là một kết cuộc bi thương (Thuật ngộ dại, mắc
bệnh tâm thần phải vào nhà thương điên). Cuộc đời của một trí thức tài hoa khép lại
trong đau đớn.
Trong Ngược dòng nước lũ, nhà văn Ma Văn Kháng lại phanh phui, mổ xẻ loại
người tráo trở, lật lọng đến ghê sợ của những con người trí thức trong một cơ quan văn
hóa. Cả một đám đông trí thức rởm, nhờ con ông cháu cha, nhờ mánh khóe, nịnh nọt,
lừa đảo mà leo lên chức: tổng cục trưởng Phô (đứa học trò mất dạy từng bị Khiêm đuổi
học giờ thành cấp trên và đang tìm cách trả thù Khiêm), Liệu (kẻ ác tâm, cơ hội, xem
anh trai như kẻ thù vì cái lí lịch bị tì vết của anh trai đã cản trở con đường tiến thân của
hắn)... Cả một đám đông trí thức cơ hội, hai mặt, trâng tráo, lật lọng, dễ dàng đổi trắng
thay đen.
Không khí xã hội với những gương mặt tha hóa trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng cũng là không khí chung: Bao trùm trong sáng tác của nhiều cây bút văn xuôi
thời kì này là một nỗi đau, một niềm mặc cảm bi thiết về tình trạng tha hóa của nhiều
giới trong xã hội, trong đó có giới trí thức.
Nhân vật trí thức của Nguyễn Huy Thiệp găm vào lòng người đọc biết bao điều
nhức nhối về tình trạng tha hóa, xói mòn nhân cách. Thiều Hoa (Giọt máu) là hình ảnh
nhại của các thi sĩ đạo văn nhan nhản thời hiện đại. Người cháu (Chú Hoạt tôi) thấy
rằng văn chương bây giờ không còn là nơi thể hiện tài năng, khát khao cống hiến và
sáng tạo nữa mà là “một phương tiện, một cái cần câu cơm” [133, tr.480]. Khổng
(Tướng về hưu) lại dùng thơ của mình chuyên đi tán tỉnh phụ nữ đã có chồng. Hạnh
(Huyền thoại phố phường) vì một tờ vé số mà làm tình với người đáng tuổi mẹ
mình… Nhan nhản những trí thức nửa mùa (“sự ngu dốt của những kẻ có học”, “khoa
học giả cầy” - Những bài học nông thôn) [133, tr.133], thực dụng, vụ lợi, không có
đời sống tâm linh (Thủy – Tướng về hưu). Khi những thành tựu phi thường của trí tuệ
con người đánh dấu nền văn minh vật chất, những trật tự mới được con người thiết lập
thì nhân tính càng phải được bảo tồn, gìn giữ. Những nhem nhuốc trong nhân cách của
nhân vật trí thức của Nguyễn Huy Thiệp là lời cảnh báo của nhân tính.
Nhà văn Phạm Thị Hoài từng khẳng định: “Trí thức Việt Nam là chủ đề của hầu
hết các sáng tác của tôi” [Dẫn theo 89, tr.253]. Có lẽ, hiện tượng tha hóa của giới trí
thức đã trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của nhiều người cầm bút. Vì thế, thế giới
nhân vật trong Thiên sứ (Phạm Thị Hoài) đầy rẫy những gương mặt méo mó, dị dạng,
phản trí thức, đội lốt trí thức. Chưa khi nào trí thức lại mang gương mặt thảm hại như
vậy.
Đọc sách là công việc thường xuyên của người trí thức để có một vốn kiến thức sâu
rộng. Đó còn là niềm vui, nỗi say mê, sự thích thú. Mỗi khi có một cuốn sách mới, hay
góp thêm vào tủ sách của mình, chủ nhân của nó đều cảm thấy vui sướng. Nhưng bố
Hoài (Thiên sứ) thì không như thế. Ông sưu tập sách với mục đích “khai báo một bộ
mặt tinh thần tươi tốt” và để “mở hiệu cho thuê sách khi về hưu” [Dẫn theo 89, tr.253].
Ông không để ý đến chất lượng, tư tưởng cuốn sách mà chỉ quan tâm độ dày mỏng của
nó. Tủ sách của ông chỉ nhằm khoe khoang và kiếm lợi. Con người này thực dụng đến
nỗi khi con gái lấy chồng, ông mời và xếp loại khách dự cưới theo tiêu chuẩn địa vị xã
hội. Đó còn là người lạnh lùng, vô cảm. Việc có thêm hay mất một đứa con, theo suy
nghĩ của ông, là chuyện bình thường của trời đất, không chút liên quan gì đến tình yêu
thương mà mọi người dành cho nó.
Hùng, con trai ông, lại là một trí thức xu thời “trung lập và ôn hòa tuyệt đối”, “cái
gì cũng biết một chút, cái gì cũng say mê một chút, toàn diện và hời hợt, vừa đủ và
thông minh để hài lòng về mình” [89, tr.253]. Lúc đầu, Hùng cũng biết xót xa cho cái
đẹp, nhưng khi bị đồng tiền chi phối, vì quyền lợi bản thân, Hùng chấp nhận một cuộc
sống tẻ nhạt, bình lặng nhưng an toàn. Anh ta “không dám sống với những đam mê,
giết dần những đam mê bằng một hợp đồng an toàn tối ưu với đời sống” [89, tr.253].
Chấp nhận đương đầu với thử thách và sức bật trước hoàn cảnh không phải là tính cách
của một người như Hùng. Bằng lòng với cuộc sống nhạt nhẽo, “mù lòa”, vô nghĩa để
đổi lấy một cuộc sống vật chất đủ đầy, kiểu người như Hùng nhan nhản trong xã hội
hiện đại.
Với Thiên sứ, một lần nữa, hình ảnh người thầy lại được Phạm Thị Hoài đem ra
mổ xẻ. Không như những gì chúng ta vẫn ca ngợi về sự cao quý của nghề giáo, vẫn còn
những “con sâu làm rầu nồi canh”, vẫn còn những người thầy không giữ được nhân
cách của mình, bị sức mạnh của đồng tiền làm mờ mắt. Thầy giáo Kiên hiện ra thật
nhếch nhác. Mỗi lần giảng bài xong, anh ta lại “lồm ngồm tìm dép ở một xó nào”, nói
đến nỗi “bọt trào ra trắng xóa hai bên mép” [89, tr.253]. Khi còn làm thầy giáo,
Hoàng bạc nhược, yếm thế bao nhiêu, thì khi trở thành con buôn, Hoàng tự tin, mạnh
mẽ bấy nhiêu. Quên đi niềm say mê cái đẹp, say mê nghệ thuật, Hoàng lao theo tiếng
gọi của đồng tiền. Hoàng không giữ được tư cách của một trí thức, của một ngưòi thầy.
Anh ta đã lợi dụng sự hào nhoáng của nghề nghiệp và bản thân để bẻ nát một “bông
cẩm chướng trắng không gai” [89, tr.254] mà không hề có sự tiếc thương hay ân hận
nào. Thế giới bên trong của bản thể con người không còn là mối quan tâm hàng đầu
của Hoàng nữa. Thay vào đó là quyền lực và đồng tiền.
Không trực tiếp mô tả những cơ chế đời sống khiến con người trở nên tha hóa,
nhưng chỉ qua vài hình ảnh trí thức (bố Hoài, Hùng, Kiên, Hoàng), nhà văn Phạm Thị
Hoài đã cho ta thấy được hiện thực phức tạp của cuộc sống, nhất là khi quyền lực, đồng
tiền và bạo lực móc nối với nhau. Không có và không đủ bản lĩnh, trí thức rất dễ bị sa
ngã, rất dễ bị bào mòn và triệt tiêu cá tính, rất dễ bị cạn kiệt khả năng yêu thương
người khác.
Một đặc điểm cần chú ý của văn xuôi sau 1975 là những tác phẩm về người trí thức
rất hiếm khi chỉ viết về sự tha hóa của một nhân vật mà là của cả một đám đông nhân
vật. Điều đó có nghĩa là, sự tha hóa trong nhân cách người trí thức không còn là một
hiện tượng đơn lẻ. Nó đã trở nên phổ biến và gây nhức nhối cho xã hội. Trong Cơ hội
của Chúa (Nguyễn Việt Hà), nhiều nhân vật trí thức giàu có, tiếng tăm nhưng thực
chất lại là những kẻ lưu manh, thời cơ, thủ đoạn. Trần Bình, con trai một quan chức có
cỡ, là một trùm buôn lậu. Hắn là “kẻ khốn nạn có gien” [28, tr.390], cùng một lúc ve
vãn, tán tỉnh vợ chưa cưới và em gái của một người bạn. Hắn còn “vô luân” khi chung
nhau một cô bồ nhí với ông bố. Núp sau cái danh nghĩa thầy giáo, Lâm là hiện thân
của “sự giả dối thượng thặng” [28, tr.436]. Anh ta đã tiến thân bằng thủ đoạn, bằng
lừa dối. Để được đi Hà Lan học, Lâm đá Nhã (người yêu đang có mang ba tháng với
Lâm) để làm con rể một gia đình trọc phú. Nhiều kẻ mang danh trí thức nhưng thực
chất chỉ là cái mác, là cái lốt để lấp liếm đi sự dốt nát, thiếu hiểu biết: “Ba vạn chín
nghìn tổng, chánh, phó giám đốc trong và ngoài quốc doanh đều mù và điếc theo mọi
nghĩa” [28, tr.362]. Nhiều kẻ lợi dụng chức quyền để làm việc sai trái và làm giàu bất
chính: “Quan buôn lậu có thế hơn dân buôn lậu. Những phi vụ xuyên dọc chiều dài đất
nước có thể là của dân, nhưng muốn xuyên ngang các quốc gia chỉ có thể là của quan”
[28, tr.62]. Tất nhiên không thể cả tin hết vào những khái quát “xanh rờn” [36, tr.5]
này, nhưng chúng cũng khiến ta phải suy ngẫm thật nhiều. Tha hóa đã trở thành một
vấn nạn nhức nhối của xã hội. Văn xuôi nghệ thuật đã gióng lên hồi chuông cảnh báo
về “hội chứng tha hóa” này ngay cả trong giới trí thức. Ngày trước, nhân vật trí thức
của Nam Cao còn biết băn khoăn về nhân cách, nên mỗi dấu hiệu tha hóa đều làm cho
họ mặc cảm - một sự mặc cảm lành mạnh. Sau những Hộ, những Thứ, những Điền của
Nam Cao chừng bốn, năm thập niên, nhân vật trí thức trong văn xuôi không mấy ai biết
mặc cảm như thế nữa.
Tất nhiên, không phải trí thức thời hiện đại trong văn xuôi nghệ thuật toàn là những
gương mặt tha hóa, lưu manh. Bên cạnh những trí thức rởm, lưu manh, gian xảo, thời
cơ, vẫn còn nhiều trí thức chân chính. Họ, có thể còn có một vài khiếm khuyết, vẫn
hướng đến cái thiện và cái đẹp. Họ tồn tại giữa cuộc đời nhiều cạm bẫy, bon chen với
niềm tin bất diệt về tình người, tình đời: Trọng (Mưa mùa hạ), Luận, Phượng (Mùa lá
rụng trong vườn), Tự, Thống (Đám cưới không có giấy giá thú – Ma Văn Kháng),
Hoài (Thiên sứ - Phạm Thị Hoài), Thắng, Hoàng (Cơ hội của Chúa - Nguyễn Việt
Hà),…
Đề cập đến cái xấu, lột trần cái ác, khám phá phần khuất tất trong nhân vật trí thức
văn nghệ sĩ, các nhà văn hiện đại mong muốn con người hãy thành thật nhận diện
chính mình để hoàn thiện nhân cách và để biết sống nhân văn hơn. Và hơn thế nữa,
người trí thức hiện đại cần trang bị cho mình một bản lĩnh vững vàng trước bao nhiêu
là cám dỗ đời thường.
2.2.3. Cái nhìn người trí thức - nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại càng
ngày càng nhạt chất tư duy sử thi, đậm chất tư duy tiểu thuyết
Trong tư tưởng và ý thức của người Việt Nam, viết văn là một nghề thanh cao,
mang sứ mệnh cao cả vì con người. Người nghệ sĩ đại diện cho tinh hoa, trí tuệ, tâm
hồn của cộng đồng. Họ luôn phải căng thẳng tự đấu tranh, tự mổ xẻ chính mình để
hoàn thiện nhân cách, để vươn lên những giá trị đẹp đẽ mà cộng đồng kì vọng nhiều ở
họ. Nhân vật trí thức của Nam Cao thường là nhà văn (kiêm thầy giáo). Chân dung của
họ được miêu tả theo quan niệm truyền thống này.
Thế nhưng, nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp thì
có nhiều điểm khác hẳn. Họ mang những chân dung nhàu nát, bám đầy bụi đời, mệt
mỏi, đau khổ và cô đơn. Họ rất dễ bị nhầm lẫn giữa đám đông như bao con người bình
thường khác. Nguyễn Du là “một con người bé nhỏ, mặt nhàu nát vì đau khổ” (Vàng
lửa) [133, tr.151]. Nhân vật thi sĩ (Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt) thì “đội chiếc mũ
cát trắng rộng vành, chiếc mũ đã cũ, ngả màu cháo lòng… Hắn đã nếm trải bao nhiêu
phong trần, bao nhiêu thay đổi trong đời,…nỗi u hoài tê tái trong đáy mắt hắn” [133,
tr.374-376]. Chân dung, ngoại hình của họ là kết quả của những trải nghiệm nhân sinh,
những cảm nhận về cuộc đời - thứ tài sản vô giá và duy nhất. Để có được tài sản ấy,
người nghệ sĩ phải không ngừng sống, cảm nhận và va chạm với những dâu bể, những
bất trắc của cuộc đời.
Cuộc đời lại là một đám bùng nhùng, hỗn độn. Dù cảm nhận, hiểu sâu sắc những
tác động của cuộc đời lên đời sống cá nhân, họ vẫn bị lún sâu vào đó, không cách gì
tháo gỡ ra được. Họ bất lực, không có khả năng tác động và làm thay đổi hiện thực
cuộc sống.
Nhân vật Nguyễn Du (Vàng lửa) tinh tế, đa cảm, nhưng không có sức mạnh thay
đổi hoàn cảnh như vua Gia Long - một người có thể “làm cho lịch sử sinh động hẳn
lên” bằng tất cả sự tàn nhẫn của mình. Ông “sống dân dã, hồn nhiên chịu đựng sự
nghèo túng cùng nhân dân. Ông không đứng cao hơn họ, không hưởng thụ cao hơn họ,
và như thế, ông hoàn toàn không biết làm chính trị” [133, tr.152]. Nhà thơ Đồ Hoạt
(Mưa Nhã Nam) thì lại mặc cảm khi thấy việc làm thơ của mình là “đê tiện”, không
có sức mạnh làm thay đổi hoàn cảnh trước một người mạnh mẽ trong hành động như
Hoàng Hoa Thám: “Anh đã làm điều mà bọn văn chương chúng tôi suốt đời thèm
muốn. Chúng tôi không làm sao biến được ngòi bút của chúng tôi thành ngọn giáo hay
cái câu liêm” [133, tr.189]. Và trong Sang sông, nhân vật thi sĩ là một gã mộng mơ vô
tích sự.
Nhân vật văn nghệ sĩ của Nguyễn Huy Thiệp bé nhỏ, yếu ớt và cô đơn. Họ thật
khác với hình ảnh của họ trước đây trong lí tưởng của cộng đồng. Họ nhận ra sự vô
nghĩa khi mãi đuổi theo một lô-gic ảo ảnh: thỏa hiệp với thị hiếu của cộng đồng. Chiều
theo xu thế cộng đồng, người nghệ sĩ sẽ giết dần giết mòn sự sáng tạo và cá tính của
mình. Trương Chi khi hát ngợi ca về công danh, tiền bạc - những thứ con người ham
muốn mù quáng - thật thảm hại: “Chàng khò khè trong cổ. Chưa bao giờ chàng hát
một bài hát thô bỉ thế này. Bài hát chỉ toàn “ấy a” với lại “huầy dô”. Bài hát đông
người” [133, tr.312]. Khi hát bài ca về cái đẹp tuyệt đối, Trương Chi mới chính thật là
mình.
Lấy những hình tượng nghệ sĩ có thực trong lịch sử để xây dựng thành nhân vật
văn nghệ sĩ cô đơn, yếu đuối, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có cái nhìn mới về nghề văn
và nhà văn hiện đại. Đó là một nghề nghiệp đầy bất trắc và người nghệ sĩ cô đơn trên
hành trình khám phá cuộc sống. Họ, nếu muốn tồn tại, muốn là chính mình, thì sáng tác
của họ không thể ve vuốt, chiều theo thị hiếu chung, tầm thường của số đông người.
Họ đặt ra những câu hỏi về sự tồn tại của thế giới xung quanh mình và về chính mình
trong sự phản biện với toàn bộ trật tự của đời sống hiện tồn. Một quan niệm mới đang
chờ đợi sự xác tín. Nhưng, những gì mà Nguyễn Huy Thiệp muốn thể hiện qua nhân
vật trí thức văn nghệ sĩ của mình là xác định chân dung và thiên chức của nhà văn hiện
đại. Nhà văn là một con người cũng có đầy đủ những mặt tính cách cao cả và tầm
thường. Đúng là: “Nhà văn, người của thời nay mà trang bị cho mình cái nhân cách
thánh thần là một viễn tưởng, không khéo trở thành giả tạo” [89, tr.280]. Nhà văn phải
lột trần cái đạo đức duy lí và cái mù quáng mạnh mẽ của con người trong sự ham muốn
tột cùng tiền bạc, danh dự, chức vụ,… để hướng đến giá trị nhân văn cao cả - tinh thần
chung của văn học mọi thời đại. Cho nên, khác với cảm hứng ngợi ca của những giai
đoạn trước, văn học sau 1975 là văn học hành động, là “sự nhắc nhở lương tâm và sự
phán xét mỗi khi con người không còn đủ năng lực để đối diện với mình. Văn học hành
động là một thứ văn học xa lạ với cảm hứng ca hát. Nó không chiều chuộng và ve vuốt.
Nó khinh bạc, chất vấn, và gây hấn nữa” [89, tr.137]. Vì thế, nhân vật trí thức văn
nghệ sĩ của Nguyễn Huy Thiệp nói riêng, của thế hệ nhà văn sau 1975 nói chung, được
soi chiếu nhiều chiều, nhiều bình diện để khái quát nên chân dung con người hiện đại
một cách chân thực nhất.
Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ thường có cuộc sống nội tâm phong phú, nên rất dễ
rơi vào cảm giác cô đơn. Họ được xem xét trong mối quan hệ với gia đình, tình bạn,
tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh, Bên kia bờ ảo vọng, Các vĩ nhân tỉnh lẻ –
Dương Thu Hương, Cơ hội của Chúa - Nguyễn Việt Hà,…). Trí thức thời hiện đại
không còn là nhân vật chính diện, nhân vật lí tưởng đơn phiến trong văn học nữa. Họ bị
đem ra mổ xẻ, soi chiếu, xem xét ở nhiều bình diện, đặc biệt là đi sâu vào vùng ẩn ức
của tâm lí, tâm linh. Con người không phải là thần thánh mà là chính nó với ý nghĩa
chân thật nhất. Nó có điểm tốt, nét đẹp, nhưng cũng không ít thói xấu, điều ác. Nó
mang những nét tính cách phản anh hùng, rất khác với cách tư duy quen thuộc ăn sâu
vào tiềm thức của người Việt.
Nhân vật trí thức của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng có ít nhiều lầm lạc
trong cuộc sống, nhưng cuộc đời họ nhìn chung vẫn là những tấm gương về đạo đức và
quá trình phấn đấu không mệt mỏi để giữ gìn nhân cách. Nhân vật trí thức của Nguyễn
Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng,… vẫn mang những nét đẹp chung của cộng đồng. Hình
ảnh người trí thức bắt đầu xúi xó, nhem nhuốc đi nhiều trong tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu, Ma Văn Kháng, và Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà
đã làm thay đổi cách nhìn về trí thức văn nghệ sĩ thời hiện đại.
Hoàng (Cơ hội của Chúa - Nguyễn Việt Hà) là “nhân vật mang tính cách phản
anh hùng lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam” [129, tr.527]. Những người xung
quanh đánh giá Hoàng theo những cách khác nhau. Tâm (em trai Hoàng) cho rằng:
“Đến tận giờ, người tuyệt vời, thông minh và nhân hậu duy nhất mà tôi được gặp vẫn
là Hoàng” [28, tr.294]. Với Nhã (bạn thân Hoàng) thì: “Tôi chưa bao giờ thấy Hoàng
dối trá. Cậu ta có thể tán lếu tán láo nhăng nhố nhưng tuyệt đối không dối trá” [28,
tr.458]. Còn Thủy (người yêu Hoàng) lại thấy: “Ở anh có cái gì là lạ. Một nét yếm thế
của những kẻ duy tâm… Ở Hoàng thiếu dũng mãnh” [28, tr.152-163]. Và Hoàng thì tự
nhận xét về mình: “Người tôi lem nhem một nỗi buồn chán. Tôi loay hoay và tôi làm
phiền nhiều người” [28, tr.430]. Hoàng sở hữu một trí tuệ xuất chúng, có cách ứng xử
điềm tĩnh, nhã nhặn (thể hiện ở buổi nói chuyện với Sáng và một phó tiến sĩ tài chính,
một phó tiến sĩ sinh học). Anh có đầy đủ “trung hiếu tiết nghĩa” nhưng cách thể hiện
và hành động không như những gì mà cộng đồng mong đợi ở một nhân vật chính diện.
Hoàng là một tín đồ Thiên chúa giáo, nhưng luôn có sự hoài nghi về giáo lí: “Ở
một mức độ nào đó tôi là người đọc sách. Có những thông điệp của Thiên chúa tôi đòi
thực chứng” [28, tr.407]. Con người trí thức mang đức tin và cũng chiến thắng đức tin.
Hoàng tự nhận: “Tôi bạc nhược, không neo đính vào chỗ nào cả” [28, tr.410]. Tính
cách bạc nhược đó khiến Hoàng luôn đứng trước sự đã rồi. Dù thiện hay ác, nhân vật
văn học phải có hành động và mục đích rõ ràng. Trước những sự việc xảy ra, Hoàng
không hành động gì. Anh chỉ lặng lẽ uống rượu, lặng lẽ ngắm nhìn con người và thế
giới xung quanh, rồi lặng lẽ chiêm nghiệm. Hoàng sống với bản thể và nội tâm của
mình. Chính vì vậy, Hoàng nhiều lần thất bại trong cuộc sống và trong cả tình yêu.
Không như những trí thức khác thường vùng quẫy để thoát khỏi thất bại, Hoàng chấp
nhận những thất bại đó, chấp nhận cả hiện tại và không hề dự tính tương lai. Anh nhiều
lần tự hỏi: “Mai tôi phải làm gì?”, rồi lại tự trả lời: “Đã nhiều lần tôi không biết ngày
mai sẽ làm gì” [28, tr.430]. Không hành động, Hoàng, cũng như nhiều trí thức trong
cuộc đời thực, cứ để cuộc sống chảy trôi trước mắt mình, không tham vọng thay đổi
hoàn cảnh, không tham vọng thay đổi đời mình. Con người cô đơn, bé nhỏ trước hoàn
cảnh. Thấm thía hơn, con người bất lực chứng kiến tham vọng làm giàu, tham vọng
quyền lực của những người xung quanh, dù họ có thể phải trả giá cho những tham vọng
đó bằng hạnh phúc và sự bình an trong tâm hồn.
Hoàng thất bại trong cuộc sống và tình yêu, như một luật bù trừ, anh khá thành
công trong việc viết văn. Viết văn đối với Hoàng là công việc duy nhất anh làm mà vẫn
giữ được, thực hiện được cứu cánh cho bản thân mình. Hoàng viết không phải để kiếm
tiền hay vì danh tiếng. Anh thường viết vào lúc chán, lúc buồn đến nỗi không uống
được cả rượu. Viết là một cứu cánh tinh thần giúp Hoàng cân bằng tâm lí trước những
thất bại của đời mình. Hoàng không chửi đời, không đổ lỗi cho cuộc đời, không oán
trách ai. Nếu có, chỉ là tự trách mình và tự sám hối. Cùng với viết văn, Hoàng “lại tiếp
tục một cuộc sống mãi mãi là dang dở, không tốt không xấu, không bi quan không lạc
quan, một cuộc sống như nó vốn thế” [129, tr.528].
Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn học sau 1975 tuy không đối lập hoàn toàn
nhưng khác rất nhiều so với nhân vật trí thức văn nghệ sĩ ở những giai đoạn trước. Văn
xuôi trước 1975, nhân vật đào xới tâm hồn chủ yếu trong mối quan hệ với chính mình.
Sau 1975, nhân vật trí thức trong văn xuôi lại đi tìm chính mình, tìm bản thể trong
nhiều mối quan hệ với hoàn cảnh, thế giới xung quanh, con người xung quanh. Vì thế,
họ không còn là hình ảnh đẹp đẽ, hoàn hảo một chiều như trước đây, mà là hình ảnh
con người “như tự nó” với cả cái tốt, cái đẹp, điều ác, điều xấu trong cái nhìn đa dạng,
đa chiều.
Như đã nói, tư duy sử thi luôn duy trì một khoảng cách giữa nhà văn, người kể
chuyện và nhân vật của mình, giọng điệu chung là giọng ngợi ca nồng nhiệt đối với
nhân vật lí tưởng. Hình tượng “trí thức xã hội chủ nghĩa” trong văn học 1945 - 1975
căn bản được nhìn, được miêu tả theo nguyên tắc này. Nhưng ngay cả hình tượng
người trí thức trong văn học trước 1945 dù được nhìn bằng con mắt tiểu thuyết, vẫn
đậm quan niệm truyền thống: đã là nhà văn chân chính thì đều có thể xem là thần
tượng, gương mẫu ít nhất là ở một phương diện nào đó. Tức là vẫn chưa thoát hẳn tư
duy sử thi. Việc phân tích một số nhân vật trí thức trên đây trong sáng tác Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà,… cho thấy cái nhìn sử thi hầu như đã được
thay thế bởi cái nhìn tiểu thuyết: giữa nhà văn, người kể chuyện và nhân vật của mình
không duy trì “khoảng cách sử thi” nào cả. Với một thái độ dân chủ thực sự, nhà văn,
người kể chuyện không phải e dè, kiêng kị khi kể, tả về nhân vật trí thức của mình như
khi nói đến các thần tượng.
Kết quả nghiên cứu ở hai chương trên cho thấy: Ở mỗi giai đoạn văn học, nhân vật
trí thức văn nghệ sĩ được khám phá ở những bình diện, cấp độ khác nhau. Các nhà văn,
về một số phương diện, đã khái quát khá chân thực và đầy đủ chân dung, tính cách, tâm
hồn của người trí thức Việt Nam qua từng chặng đường văn học. Đó là một loại hình
nhân vật có sự phát triển khá nhất quán cùng với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam
hiện đại.
Ở chương tiếp theo, luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu hình thức, kĩ thuật thể hiện
hình tượng người trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Chương 3
HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT GIÀU Ý NGHĨA NHẬN THỨC
VÀ ĐẬM CHẤT TỰ TRUYỆN, BI KỊCH
3.1. Một yêu cầu mang tính thời đại và đầy thách thức: nhà văn tự viết về
mình và giới mình
Một trong những chức năng của văn học là nhận thức, phản ánh đời sống. Qua văn
học, con người nhận thức thế giới khách quan, nhận thức hiện thực cuộc sống, nhận
thức những vấn đề xã hội và nhân sinh, cũng như nhận thức tính cách, tâm hồn mình.
Văn xuôi, với những đặc trưng riêng, là hình thức nghệ thuật có khả năng chuyển
tải đầy đủ những tư tưởng, những thông điệp mà nhà văn gửi gắm cho cuộc đời và con
người, cũng như phản ánh sự nhận thức và tự nhận thức của nhà văn về con người và
cuộc sống.
Thiên chức của nhà văn là nhận thức và mô tả cuộc sống, con người trong thời đại
mình bằng nghệ thuật ngôn từ. Văn học Việt Nam hiện đại có nhiệm vụ nhận thức và
mô tả - bằng văn xuôi nghệ thuật - cuộc sống, con người hiện đại trong một thế kỉ đầy
những biến động lớn lao của lịch sử và của tâm hồn.
Nhưng nhận thức, phản ánh những vấn đề gì, bằng cách nào? Câu hỏi này đặt ra
yêu cầu lựa chọn đối với nhà văn. Sự lựa chọn ấy dĩ nhiên không chỉ là chuyện riêng
của người cầm bút mà còn là sự gợi ý – thậm chí, sự đòi hỏi thúc bách – của thời đại.
Ở chương 1, luận văn đã xác định vị trí của người trí thức trong đời sống của đất
nước, xã hội thời hiện đại. Xin nhắc lại ở đây luận điểm này: “Người trí thức trở thành
khách thể của sự sáng tạo văn học, được miêu tả trong sự vận động của từng giai đoạn
lịch sử, của đời sống xã hội và trong sự vận động của đời sống nội tâm cá nhân. Nhận
lấy thiên chức xã hội cao cả, họ đạt rất nhiều vinh quang và thành tựu, nhưng bên
cạnh đó, họ cũng vấp phải những thất bại, đắng cay. Họ sống, suy nghĩ, hành động,
yêu, ghét,… phức tạp và sâu sắc. Con người và đời sống nội tâm của trí thức là mảnh
đất màu mỡ cho văn học, mà qua đó, con người khám phá và nhận thức hiện thực cuộc
sống, hiện thực tâm hồn mình với những chiêm nghiệm thấu đáo, minh triết.” [Chương
1, tr.38].
Ở đây, văn học đúng là “nhân học” với ý nghĩa rằng: văn học có ưu thế và có
nhiệm vụ mang lại cái nhìn hướng vào thế giới tinh thần, vào “cõi thầm kín” của con
người. Ở đâu, và thuộc về hạng người nào, thế giới ấy càng phức tạp, phong phú thì
văn học càng cần phải đào sâu, tìm tòi, khám phá và thể hiện. Hơn đâu hết, ở người trí
thức - nghệ sĩ, trong cuộc sống thời hiện đại, cái tôi cá nhân và vấn đề bản thể trở thành
một đòi hỏi gắt gao, một vấn đề sống còn. Họ hào hứng và nhẫn nại, kiêu hãnh và đôi
khi mặc cảm trong hành trình “tôi đi tìm tôi”, hoặc, “đi tìm cái tôi đã mất”.
Điều đó cho thấy nhà văn, trong cốt cách của người trí thức - nghệ sĩ, viết về mình
và giới mình là một yêu cầu của thời đại – một yêu cầu đầy tính thách thức.
Bởi vậy, nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại là những hình tượng
giàu ý nghĩa nhận thức và đậm chất tự truyện, bi kịch. Từ loại hình tượng nhân vật này,
nhà văn có nhiều cơ hội, điều kiện thuận lợi để bày tỏ những quan niệm, những trải
nghiệm sâu sắc trong cuộc đời với những vinh quang và những cay đắng của tầng lớp
trí thức và đặt ra bao nhiêu vấn đề trở trăn trong cuộc sống.
3.2. Sự thể hiện những hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa nhận thức
3.2.1. Cốt truyện, tình huống giàu ý nghĩa nhận thức
Cốt truyện là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ và
phát triển tính cách nhân vật. Ở mỗi giai đoạn văn học, cốt truyện trải qua những chặng
đường phát triển khác nhau. Nó thể hiện tư duy nghệ thuật của nhà văn trong từng giai
đoạn. Người viết truyện xây dựng cốt truyện để khắc họa tính cách nhân vật theo ý đồ
nghệ thuật. Bởi vì “Các cốt truyện tạo ra một trường hành động cho các nhân vật và
do đó cho phép tác giả bộc lộ và lí giải tính cách của chúng. Nhờ cốt truyện mà nhà
văn thường tái hiện được sự hình thành của các nhân vật” [114, tr.231]. Sự vận động
của cốt truyện là sợi dây liên kết các mối quan hệ của nhân vật, tổ chức, sắp xếp các sự
việc diễn ra, qua đó, nhân vật bộc lộ tính cách và tư tưởng của tác phẩm.
Cùng với cốt truyện, tình huống truyện là một yếu tố không thể thiếu trong tác
phẩm tự sự hiện đại. Nó là cái khoảnh khắc đặc biệt, là tình thế mà khi đặt nhân vật vào
đó, các khía cạnh của tính cách, quan hệ được bộc lộ, giúp nhà văn thực hiện ý đồ nghệ
thuật của mình. Tình huống truyện, vì vậy, thường đánh thức nhu cầu nhận thức của
người đọc, mang giá trị nhận thức cao. Chẳng hạn tình huống một “chiếc thuyền ngoài
xa” được kéo gần lại, nhìn trực diện vào số phận của những con người sống trên chiếc
thuyền ấy vào một ngày giông bão đã mang lại bao nhiêu nhận thức mới mẻ bất ngờ,
phản tỉnh cho người nghệ sĩ báo ảnh tài hoa (Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh
Châu).
Nhà văn hiện đại Việt Nam, khi viết về người trí thức, thường khai thác những cốt
truyện, tình huống giàu ý nghĩa nhận thức. Điểm qua một số tác phẩm, tác giả tiêu biểu
ở một số chặng đường văn học, ta sẽ thấy rõ điều đó. Hãy lấy trường hợp Nam Cao là
một ví dụ.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nam Cao là nhà văn đã sử dụng tài tình
cốt truyện, tình huống giàu ý nghĩa nhận thức. Trong tác phẩm của mình, ông không đi
tìm kiếm cốt truyện mà chủ yếu nêu ra những tình huống của đời sống, của hoàn cảnh,
đặc biệt là dạng tình huống nhận thức để đưa ra được những nhận xét, đánh giá xác
đáng về đời sống, để đi sâu vào khám phá, lí giải thế giới tâm lí của con người.
Một truyện xú-vơ-nia, Truyện tình, Mua nhà, Trăng sáng, Đời thừa,… đều đặt
nhân vật trước một tình huống nhận thức. Sau khi nhận thức được hoàn cảnh và quyết
định một cách xử lí tình huống, nhân vật thường ân hận vì sự lựa chọn của mình. Sự ân
hận bắt nguồn từ sự thất vọng khi nhận thức được sự thật. Điền (Trăng sáng) mơ mộng
trong một đêm trăng khi nghĩ đến những tác phẩm của mình được những người thiếu
phụ xinh đẹp, giàu có, nhàn nhã đọc và yêu mến. Nhưng tiếng vợ quát, tiếng con khóc
đã kéo Điền trở về thực tại. Tình huống bất ngờ khiến nhân vật nhận thức được cuộc
sống hiện tại tối tăm, bế tắc và nhận thức được chân lí của nghệ thuật: “Nghệ thuật
không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể
chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong
lòng Điền” [7, tập 1, tr.588].
Trong nhiều tác phẩm của mình, Nam Cao thường đặt nhân vật trước yêu cầu lựa
chọn cách giải quyết, cách xử thế, cách giải thích,… khác nhau, mang giá trị nhận thức
cao về hiện thực khách quan của xã hội và hiện thực tâm hồn của con người. Nhân vật
của ông thường nhận thức, lựa chọn cách ứng xử trước tình huống rồi phủ nhận nó, rồi
lại tiếp tục nhận thức, lựa chọn. Đây là một quá trình dai dẳng, quyết liệt ở cả bề mặt
và chiều sâu trong đời sống tinh thần của nhân vật.
Thứ (Sống mòn) nhiều lần nhận ra mình bị Đích và Oanh lợi dụng, nhiều lần định
nói thẳng rồi lại thôi. Sau đó, y lại hối hận, lại tự xỉ vả mình hèn yếu, cả nể, nhu nhược.
Đứng trước những thông tin về vợ mình ở nhà quê, Thứ luôn phân vân tìm cách xử lí
tình huống: tin – không tin, về - không về,… Y luôn bận tâm, day dứt, giày vò vì đã
làm thế này mà không làm thế kia. Nam Cao luôn đặt nhân vật vào tình huống nhận
thức để xây dựng những hình tượng giàu ý nghĩa nhận thức: con người luôn phải vật
lộn với hoàn cảnh và với chính bản thân mình để sống cho ra một con người.
Rõ ràng nhân vật trí thức trong Một truyện xú-vơ-nia, Truyện tình, Mua nhà,
Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn,… đã được Nam Cao đặt vào các tình huống giàu ý
nghĩa nhận thức một cách rất nghệ thuật.
Hơn thế, cốt truyện, tình huống giàu ý nghĩa nhận thức vừa giúp thể hiện cuộc hành
trình tư tưởng của cá nhân nhà văn, vừa thể hiện cách nhận thức của nhân vật về bản
thân và xã hội. Ta có thể dễ bắt gặp loại cốt truyện này ở những tác phẩm viết về người
trí thức sau năm 1975: Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Đám
cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Gặp gỡ cuối năm (Nguyễn Khải),…
Người họa sĩ (Bức tranh - Nguyễn Minh Châu) đối mặt với tình huống trớ trêu:
anh thợ cắt tóc chính là người lính thồ tranh ở chiến trường năm xưa, cũng là người
mẫu trong bức tranh “Anh giải phóng quân”. Lo sợ, hoảng hốt, ông nhiều lần trốn tránh
những cuộc gặp gỡ, nhưng không hiểu sao ông ta vẫn đến cái quán cắt tóc nhỏ ấy. Để
rồi, trong khi hớt tóc, ông tưởng tượng ra những tình huống đối thoại (mà thật ra là độc
thoại nội tâm) giữa ông và người thợ. Trong tình huống đó, ông ra sức biện minh, giải
thích cho hành động thất hứa của mình, và tự mâu thuẫn với những lời biện minh đó.
Sau những tình huống như vậy, người họa sĩ nhận ra lỗi lầm, và nhận thức được bản
chất của con người mình (cũng như của con người nói chung): hai mặt tốt - xấu, rồng
phượng - rắn rết, thiên thần – ác quỷ tồn tại trong cùng một con người. Làm người, ai
cũng có lỗi lầm, quan trọng là có nhận thức được lỗi lầm và có biết cách sửa chữa lỗi
lầm đó hay không.
Anh phóng viên Phùng (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu) lại trải qua
một tình huống lạ lùng, nghịch cảnh. Anh chứng kiến cảnh người chồng vũ phu, đánh
đập vợ mình dã man, tàn nhẫn, còn người vợ lại chịu đựng, chấp nhận những trận đòn
đó. Đằng sau cái nghịch cảnh lạ lùng đó là lí do sâu xa: những người đàn bà sống trên
thuyền không thể thiếu chỗ dựa là người đàn ông, người vợ cần chỗ dựa vững chắc cho
cuộc sống của gia đình và cho các con, nên hiểu được tâm tư, nỗi khổ của người chồng;
còn người chồng đánh vợ chỉ để giải toả nỗi ức chế vì cuộc sống nghèo khổ triền miên.
Tình huống đó đã khiến Phùng thay đổi quan điểm về đối tượng nghệ thuật, về cái nhìn
nghệ thuật, như Nam Cao đã từng cay đắng nhận ra: “Nghệ thuật không phải là ánh
trăng lừa dối…”.
Sáng tạo những cốt truyện, tình huống giàu ý nghĩa nhận thức trong những tác
phẩm viết về người trí thức, nhà văn dụng tâm đặt nhân vật trước những tình huống,
hoàn cảnh đặc biệt, để rồi qua sự lựa chọn, tìm kiếm cách giải quyết, nhân vật tự nói
lên nhận thức của mình về cuộc sống và con người, tự bộc lộ nhận thức về bản chất,
tính cách, tâm hồn của chính mình và của tầng lớp mình.
3.2.2. Nhân vật giàu ý nghĩa nhận thức
Tô Hoài đã từng quả quyết, rằng, nhân vật là nơi tập trung hết thảy, giải quyết hết
thảy trong một tác phẩm văn học.
Đúng như vậy. Tác giả Dế mèn phiêu lưu kí, Chiều chiều,… đã không quá lời.
Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về cuộc đời, đóng
vai trò không nhỏ trong việc thể hiện tư duy nghệ thuật của nhà văn và chủ đề tư tưởng
của tác phẩm. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn đi sâu khám phá số phận của con người:
phần thẳm sâu trong tâm hồn và ý thức của mỗi con người, bi kịch giữa lí tưởng - thực
tế, giữa cao cả - thấp hèn, giữa nhân bản - phi nhân bản,… Và, khi nhân vật sống dậy
trong tác phẩm, nhà văn qua nhân vật của mình, đã tạo ra một thứ quyền năng mới:
“Nhà văn sáng tạo ra nhân vật để đánh mất ta trong chúng, nhưng một mặt lại sai
khiến chúng trong ta” [Francois Regis Bastite; dẫn theo 20, tr.649].
Do những đặc điểm riêng, nhân vật trí thức được thể hiện trong tác phẩm là những
nhân vật giàu ý nghĩa nhận thức. Thông qua nhân vật, nhà văn thể hiện sự nhận thức và
tự nhận thức về vai trò xã hội và những số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp
trí thức. Mỗi nhân vật là sự nhận thức của nhà văn về cuộc đời và con người. Hình
tượng nhân vật được khám phá trong mối tương quan với hoàn cảnh xã hội và mối
tương quan trong nội tại bản thân nhân vật. Nó phản ánh tư tưởng và nhận thức của nhà
văn, khơi gợi sự nhận thức của người đọc, làm nổi bật chức năng nhận thức của văn
học. Khi tiếp nhận tác phẩm, người đọc tìm thấy ở nhân vật sự nhận thức của con
người về cuộc sống, từ đó, người đọc có nhận thức sâu xa, rộng mở hơn về tâm hồn
mình và thế giới xung quanh. B.Brêch cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ
thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống, mà là những
hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả” [Dẫn theo 114,
tr.210].
Tuy nhiên, cách xây dựng nhân vật trí thức văn nghệ sĩ của các nhà văn Việt Nam
hiện đại, ở từng giai đoạn, thuộc từng trào lưu văn học, có khác nhau.
Nhân vật trí thức trong văn học lãng mạn đầu thế kỉ XX – Cách mạng tháng Tám
năm 1945: Dũng (Đôi bạn, Đoạn tuyệt - Nhất Linh), Chương (Đời mưa gió - Nhất
Linh, Khái Hưng), Duy (Con đường sáng – Hoàng Đạo), Nguyễn (Nhà Nguyễn),
Bạch (Thiếu quê hương - Nguyễn Tuân),… giàu ý nghĩa nhận thức về tinh thần chống
lễ giáo phong kiến và thói hư tật xấu trong xã hội, tinh thần cảm thông với nỗi lam lũ,
cực khổ, bần cùng của người lao động, đề cao tự do cá nhân, thể hiện khát vọng dân
tộc, dân chủ chủ yếu của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Bên cạnh đó, những nhân vật trí
thức này còn cho người đọc nhận thức được một thế giới nội tâm phong phú của con
người. Tuy nhiên, nhân vật trí thức trong văn học lãng mạn còn mang tính chất ảo
tưởng, huyễn hoặc, xa rời hoàn cảnh, chưa nhận thức đúng bản chất xã hội và chưa đặt
ra vấn đề giải phóng xã hội.
Nhân vật trí thức trong dòng văn học hiện thực biểu hiện được sự nhận thức sâu sắc
về cuộc đời. Nhà văn đã cho người đọc nhận thức được nhiều trạng thái tâm lí tiêu biểu
của người trí thức. Qua tâm lí nhân vật, người đọc nhận thức được hoàn cảnh xã hội
Việt Nam thời kì này: Chiến tranh – Đói - Chết. Không khí xã hội nặng nề, u uất, số
phận cá nhân bị đe doạ. Hoàn cảnh xã hội tác động sâu sắc lên những thân phận người.
Không hề tô điểm, thi vị hóa đời sống và nhân vật, nhà văn Nam Cao đã khơi dậy
sự nhận thức và tự nhận thức của nhân vật về chính mình, cũng như sự nhận thức, tự
nhận thức của người đọc. Nhân vật trí thức của ông thường nghèo, và bị xô đẩy bởi
nhiều cảnh ngộ. Trước những cảnh ngộ, những tình huống, nhân vật phải nhận thức
được mình là ai, đang ở đâu, đang có trạng thái tâm lí như thế nào. Nhân vật phải tự
nhận ra chính mình, tự phân tích, mổ xẻ, phê phán mình với nhiều sắc thái khác nhau,
để giữ gìn phẩm chất, nhân cách trong sự xô đẩy nghiệt ngã của hoàn cảnh.
Điền (Trăng sáng) sau những phút giây mơ mộng hão huyền, huyễn hoặc về tác
phẩm của mình, đã tự mình đút rút ra chân lí nghệ thuật. Qua nhân vật, nhà văn thể
hiện và người đọc nhận thức được chức năng đích thực của văn chương: vì con người.
Nhà văn Hộ (Đời thừa) là một hình tượng giàu ý nghĩa nhận thức. Anh thấy được
viết văn là một hoạt động sáng tạo “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những
cái gì chưa có” [7, tập 1, tr.614] biết ý thức sâu sắc về nghề nghiệp “sự cẩu thả trong
văn chương thì thật là đê tiện” [7, tập 1, tr.602]. Bị giằng xé giữa lí tưởng và hiện thực,
anh tự giày vò mình và người thân của mình. Một người luôn coi lẽ sống tình thương là
nguyên tắc hàng đầu, lại vi phạm nguyên tắc ấy. Trong những lúc khốn cùng, trong
những cơn say, Hộ đã đối xử thô lỗ, tàn bạo, phũ phàng với vợ con mình như một kẻ
vô lại. Khi tỉnh táo, Hộ nhận thức lại bản thân và cuộc đời, phải chấp nhận hi sinh,
chấp nhận bi kịch vỡ mộng, sống một cuộc “đời thừa” để giữ lấy lẽ sống nhân đạo. Qua
nhân vật Hộ, Nam Cao thể hiện có chiều sâu và tầm vóc về vấn đề “sống và viết”.
Trong những lời phát biểu của nhân vật về văn chương, ông đối lập thứ văn chương giả
dối và văn chương chân thật, phân biệt sự “chân thật” bề ngoài với sự trung thực có
chiều sâu của nghệ thuật chân chính: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên
tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người…” [7, tập
1, tr.614]. Nam Cao nhận thức về yêu cầu tìm tòi, khám phá, sáng tạo của người cầm
bút: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu
đưa cho…” [7, tập 1, tr.614]. Từ cá nhân một anh nhà văn Hộ bình thường, nhà văn đặt
ra bao vấn đề hệ trọng của đời sống tinh thần thời đại trong hoàn cảnh thuộc địa tàn
bạo, điều kiện kinh tế, xã hội khắc nghiệt: cá nhân và xã hội, lí tưởng và hiện thực,
nghệ thuật và tình thương, nhân cách và hoàn cảnh,… “Đây là bi kịch của con người
có ý thức sâu sắc về sự sống, muốn vươn lên một cuộc sống chấn chỉnh, trong đó cá
nhân được phát triển bằng sự nghiệp tinh thần có ích cho xã hội, nhưng đã bị nhấn
chìm trong lối sống mà anh ta rất khinh ghét vì không xứng đáng với con người” [133,
tr.415].
Trong giai đoạn 1945 – 1975, nhân vật trí thức chủ yếu được nhận thức ở phương
diện con người chính trị, con người công dân, thể hiện tư tưởng, tình cảm, khát vọng
của quần chúng nhân dân do nhu cầu của cuộc cứu nước. Những Trần Văn (Sống mãi
với thủ đô - Nguyễn Huy Tưởng), Khắc, Tư (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi), Độ (Đôi mắt
– Nam Cao), Thái Văn, Lữ (Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Châu),… đều giàu ý
nghĩa nhận thức về cuộc kháng chiến của dân tộc dưới cái nhìn và sự đánh giá của đại
chúng. Họ được khắc họa ở phương diện lòng yêu nước, căm thù giặc, sự đấu tranh
chống lại con người tiểu tư sản, sự ham thích đời sống tập thể, sinh hoạt chính trị.
Độ (Đôi mắt – Nam Cao) là nhà văn có nhận thức sâu sắc về vai trò của người
nông dân trong kháng chiến. Anh hòa đồng vào người nông dân, cùng chiến đấu và
sinh hoạt bên họ, phát hiện ra những điểm sáng đẹp đẽ ở họ, đặc biệt là lòng yêu nước
và tinh thần dũng cảm. Khắc (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi) là tấm gương về người trí
thức yêu nước, thể hiện sự nhận thức cách mạng ở quan điểm, lập trường chính trị rõ
ràng, sống chết vì lí tưởng cách mạng. Hội (Vỡ bờ) là sự chuyển biến tư tưởng của
người trí thức ở xã hội cũ đã tìm được hướng đi mới cho cuộc đời mới của mình, thoát
khỏi sự bế tắc và hoài nghi trong cuộc sống. Lữ (Dấu chân người lính - Nguyễn Minh
Châu) là hình ảnh trí thức trẻ giàu lòng yêu nước, giàu nhiệt huyết cho cuộc chiến đấu
giải phóng đất nước,… Cách xây dựng nhân vật theo hướng đại chúng hóa, tập trung
thể hiện con người chính trị, con người công dân dẫn đến việc nhân vật trí thức văn
nghệ sĩ được miêu tả chủ yếu trong các biến cố lịch sử của cộng đồng, của cách mạng
hơn là những quan hệ và biến cố của đời tư cá nhân. “Mặc dù chưa chú trọng khắc họa
tính cách nhân vật và chưa có nhiều nhân vật điển hình, đặc sắc nhưng việc tập trung
thể hiện con người quần chúng với những nét phẩm chất và tính cách chung của giai
cấp, dân tộc và sáng tác những hình tượng tập thể quần chúng vẫn phải được coi là
những đóng góp của văn xuôi giai đoạn này vào quá trình phát triển văn xuôi hiện đại
Việt Nam” [88, tr.159].
Chuyển từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, văn xuôi sau năm 1975 từ cảm
hứng lịch sử dân tộc đã chuyển sang cảm hứng thế sự đời tư. Nhân vật trí thức được
giải phóng khỏi con người công dân, con người chính trị, được thể hiện ở những vấn đề
tư tưởng nhân sinh, những diễn biến tâm lí phức tạp và tinh tế, giàu ý nghĩa nhận thức
về cuộc đời và con người. Nhân vật không được xây dựng theo nguyên tắc nguyên
phiến, sử thi nữa mà được soi chiếu trong “tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
Nhân vật trí thức trong văn học sau 1975 là những cá thể bình thường và số phận
của nó có mối liên hệ mật thiết với cộng đồng, xã hội. Đó là những con người phong
phú trong tâm hồn, đa dạng trong hành động và không bao giờ “trùng khít với chính
nó” (Bakhtin). Các nhà văn đi sâu vào số phận, vào cấu trúc nhân cách của con người,
đề cập đến những khát vọng sống, hạnh phúc cá nhân, tình yêu đôi lứa, sự tha hóa nhân
tính,… Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ được quan sát ở bình diện sinh hoạt đời thường
trong hoàn cảnh sống và các mối quan hệ chồng chéo giữa cá nhân – cá nhân, giữa cá
nhân – xã hội.
Do vậy, khác với nhân vật tích cực được lí tưởng hóa của văn xuôi 1945 – 1975,
nhân vật trí thức của văn xuôi sau 1975 được xây dựng là kiểu người kiếm tìm, tự thú,
sám hối. Nhân vật có khả năng tự nhận thức, tự ý thức, khát khao hoàn thiện nhân cách.
Kiểu nhân vật này đã xuất hiện ở văn xuôi giai đoạn đầu thế kỉ XX – 1945 với Nguyên
Hồng, Nam Cao, nay lại được tiếp tục ở Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng,…
Người họa sĩ (Bức tranh - Nguyễn Minh Châu) nhận thức được lỗi lầm của mình
sau nhiều cuộc tự vấn lương tâm sâu sắc. Quá trình nhận thức đó diễn ra khá phức tạp.
Cùng với nhận thức về sự vi phạm chuẩn mực đạo đức thông thường, trong người họa
sĩ xuất hiện một con người khác biện hộ, biện minh cho hành động của anh ta. Qua
hình tượng nhân vật họa sĩ, Nguyễn Minh Châu đặt ra vấn đề lương tâm, trách nhiệm
của cá nhân trong sự đánh giá về chuẩn mực đạo đức của mọi con người trong xã hội:
Con người có thể tự cho phép mình vô ơn với những người đã cứu mạng mình? Có thể
dũng cảm để thú nhận tội lỗi? Có thể dũng cảm gánh lấy trách nhiệm? Có đủ dũng cảm
để nhận ra bản chất thật của mình?
Thông qua quá trình nhân vật Tự (Đám cưới không có giấy giá thú – Ma Văn
Kháng) tự đấu tranh quyết liệt để giữ được nhân cách của người thầy khi anh bị ném
vào cơn lốc của cơ chế thị trường và phải đối đầu với sự rình rập của cái ác, người đọc
nhận thức được tình trạng xuống cấp về trình độ tư duy và phẩm chất đạo đức ngay
trong một số người tự cho mình là cán bộ lãnh đạo, là trí thức hoặc kỹ sư của tâm hồn.
Cách xây dựng nhân vật trí thức ngày càng phong phú hơn và phù hợp với thời đại.
Nếu như trước đây, nhân vật trí thức chủ yếu được nhận thức ở vẻ đẹp trong hành động,
tâm hồn, nhân cách, thì ở giai đoạn sau 1975, nhân vật trí thức được phản ánh và nhận
thức ở nhiều tầng bậc, nhiều bình diện. Con người được khám phá ở cả hai mặt tốt -
xấu, thiện – ác, cao cả - thấp hèn, ở cả những góc khuất, mặt tối, vùng mờ uẩn ức. Đó
mới chính là con người với ý nghĩa chân thực nhất, bởi vì “Nhà văn sáng tạo nhân vật
để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về
một vấn đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào thế
giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định” [24, tr.102].
3.2.3. Ngôn ngữ trần thuật giàu ý nghĩa nhận thức, triết lí
Tình huống, cốt truyện giàu ý nghĩa nhận thức tất yếu tìm đến với ngôn ngữ trần
thuật, kể chuyện giàu ý nghĩa nhận thức, triết lý.
Ngôn ngữ là một yếu tố nghệ thuật chịu sự qui định của thể loại, góp phần nâng
cao chuẩn mực văn phạm nói chung và quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học nói
riêng.
Nhìn chung, điểm tương đồng của ngôn ngữ trong các tác phẩm viết về người trí
thức là ngôn ngữ kể chuyện giàu ý nghĩa nhận thức, triết lí. Để thể hiện những hình
tượng nhân vật trí thức giàu ý nghĩa nhận thức, bên cạnh cốt truyện, tình huống và cách
xây dựng nhân vật, ngôn ngữ là yếu tố nghệ thuật góp phần khắc họa thành công hình
tượng nhân vật. Đó là thứ ngôn ngữ có chiều sâu nội tâm, thể hiện những băn khoăn,
trăn trở cũng như những tư tưởng của nhà văn về cuộc đời và con người. Đó là thứ
ngôn ngữ có độ dày về trải nghiệm, có độ chín trong quá trình nhận thức của nhà văn.
Hãy điểm qua một số tác phẩm, tác giả để thấy rõ đặc điểm này.
Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, chúng ta thỉnh thoảng bắt gặp thứ ngôn ngữ
giàu ý nghĩa nhận thức và triết lí này. Nghề văn vốn rộng như cuộc đời, nên “Cứ ngồi
ro ró trong gian buồng kia, bất kể đến thời tiết đổi thay chung quanh mình, người ta
không làm gì có được tư tưởng phóng khoáng về đời giang hồ. Mặc dù người ta là nhà
viết tiểu thuyết có tiếng, là một ngòi bút sắc phụng sự cái trí tưởng tượng lớn lao. Nghệ
thuật người đó cao đến bực nào đi chăng nữa, người đó cũng không dám ngồi để nghĩ
và tả sự giang hồ kia nếu, ít ra, người đó đã không sống những kiếp bồng bềnh” [145,
tr.33]. Kể về tình trạng éo le, khó xử trước trang giấy trắng: vừa muốn viết vừa không
muốn viết, Nguyễn Tuân nhận thức: “Cái gì mà lúc nào trong người tôi cũng hình như
có một thằng người thứ hai cứ xục xặc sống để mà xét nét từng li từng tí. Khó chịu lên
đến nghẹn cổ. Nếu tôi cần mẫn thì ích cho thần xác tôi, nếu tôi lười thì tôi bị hại: can
chi đến thằng người thứ hai đó suốt ngày sa sả như một mụ đàn bà lắm nhời, hở trời!...
Cái thằng người thứ hai đó thực là ồn quá” [145, tr.94]. Đây không phải chỉ là sự nhận
thức của Nguyễn Tuân về sự chăm và lười của ngòi bút, mà Nguyễn Tuân đã nhận thức
được một vấn đề lớn của con người thời đại: sự phân thân của con người nói chung. Để
lí giải tính cách Bạch và sự đam mê xê dịch của chàng, Nguyễn Tuân triết lí: “Nhưng
những người như Bạch không phải là thứ người sống để làm chồng và làm cha. Họ là
người của ngũ đại châu. Họ chỉ có thể đẹp được trong sự vụt thoáng qua của một đoàn
xe lửa, họ chỉ có thể đẹp được trong cái chảy trôi của một con tàu biển, hoặc là khi
thui thủi lần bước ở một quãng đường đèo xoắn ốc qua quả núi chênh vênh. Bắt người
ấy vỗ về một người đàn bà hoặc xổ mũi, thay áo cho đứa con thơ thì kết quả chỉ là đổ
vỡ gãy nát mà thôi. Đối với những người như Bạch thì hôn nhân có cái ý nghĩa của tự
ải” [147, tr.324].
Ngôn ngữ kể chuyện trong văn Nam Cao lại thường triết lí về kiếp người, về sướng
khổ. Chất triết lí ẩn đằng sau ngôn ngữ nhận thức (miêu tả sự vật, miêu tả tâm lí nhân
vật,…). Nhân vật suy nghĩ về những tình huống mình gặp phải, nhận thức và lựa chọn
cách giải quyết tình huống và có những ý nghĩ triết lí về đời sống:
“Thiếu gì những kẻ chẳng lấy gì làm can đảm vẫn phải bán dần dần sự sống đi mà
giữ mình khỏi chết. Có lẽ chết đói là một cách chết mà chúng ta sợ nhất trong bao
nhiêu cách chết. Ta có thể liều chết mà kiếm ăn” [Quên điều độ; 7, tập 1, tr.366].
“Ta đang sợ cái chết lúc đang sống: cái chết đáng buồn của những người sống sờ
sờ ra đấy, nhưng chẳng dùng sự sống của mình vào công việc gì” [Cười; 7, tập 1,
tr.359].
“Kẻ mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh
chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình” [Đời thừa; 7, tập 1, tr.604].
“Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả
trong văn chương thì thật là đê tiện… Văn chương không cần những người thợ khéo
tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người
biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì
chưa có” [Đời thừa; 7, tập 1, tr.614]…
Ngôn ngữ triết lí đậm đặc trong tác phẩm viết về người trí thức của Nam Cao vừa
có ý nghĩa nhận thức, khái quát về cuộc sống, vừa tạo nên tính cách độc đáo và tâm
hồn sâu sắc cho nhân vật.
Tính nhận thức và triết lí của ngôn ngữ kể chuyện làm cho ngôn ngữ trong những
tác phẩm viết về nhân vật trí thức văn nghệ sĩ của Nam Cao ít nhiều mang tính đa
thanh, trong đó, ngôn ngữ người kể chuyện hòa lẫn, đan xen vào ngôn ngữ nhân vật tạo
nên kiểu đối thoại bên trong, tạo cho nhân vật một đời sống nội tâm sâu sắc và khả
năng biểu đạt cá tính một cách tự nhiên, thành thực.
Nhìn chung, ngôn ngữ triết lí trong những tác phẩm về nhân vật trí thức giai đoạn
đầu thế kỉ XX – 1945 nói chung ngày càng giản dị, tự nhiên, trong sáng, thấm đượm
chất sống của cuộc đời.
Tuy nhiên, do ngôn ngữ trong tác phẩm văn học ở mỗi giai đoạn có những đặc
điểm riêng, nên hiệu quả nhận thức triết lí cũng có đặc điểm riêng. Triết lí của Nguyễn
Tuân trước 1945 khác sau 1945. Một bên là thứ triết lí chua chát cay đắng của cái tôi
cá nhân được diễn đạt bằng giọng riết róng (Tóc chị Hoài, Chiếc lư đồng mắt cua,…),
một bên là thứ triết lí trải nghiệm của cả một cộng đồng, của cả một giới, được diễn đạt
bằng giọng say sưa, kiêu hãnh (Tờ hoa, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi,…). Triết lí trong các
tác phẩm viết về người trí thức của Nam Cao, trước và sau năm 1945 cũng có những
khác biệt như vậy: một bên là triết lí của người đi tìm kiếm chân lí, từ “mê” đến “ngộ”:
“Chao ôi! Nghệ thuật không nên là…” , “không cần phải là…”, “nghệ thuật có thể chỉ
là…” [Trăng sáng; 7, tập 1, tr.588]; một bên là triết lí của người tự thấy mình đã đứng
vững được trên một lập trường vững, khỏe nào đó: “…Cứ giữ cái nhìn ấy thì càng đi
nhiều, càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát chán nản…” [Đôi mắt; 9,
tr.385].
Ngôn ngữ kể chuyện trong tác phẩm viết về người trí thức giai đoạn 1945 – 1975
đã chuyển sang một dạng thức khác. Cũng là ngôn ngữ đời thường, nhưng do nhu cầu
phục vụ kháng chiến, xây dựng nhân vật đại chúng nên ngôn ngữ phải mang tính đại
chúng, giản dị, dễ hiểu, phù hợp với số đông. Ngôn ngữ kể chuyện giàu ý nghĩa nhận
thức về hiện thực cách mạng và cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân, chất triết lí
thiên về tư tưởng chính trị.
Những năm chiến tranh và đói khổ giúp tầng lớp trí thức nhìn thẳng vào sự thật.
Ngôn ngữ kể chuyện làm nổi bật nhận thức của họ về vai trò mới của mình đối với đất
nước. Bằng những dòng suy nghĩ miên man, họ triết lí về vai trò của cá nhân đối với
cộng đồng.
Chẳng hạn: Nhân vật “tôi” của Nam Cao thì tự nhận thức về sự nhỏ bé, cạn cợt, bất
cập của mình: “Cây bút của tôi bất lực. Nó không khạc ra lửa và đạn như cây súng. Nó
ỳ ạch chạy theo phong trào mãi mà không kịp. Các bạn tôi đều thấy na ná như tôi. Họ
thấy rằng bàn tay họ, nếu chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về. Sống đã
rồi hãy viết” [9, tr.328]. Nhân vật Cận trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh
Châu thì nhận thức và triết lí sự phát triển sâu rộng của Đảng trong tầng lớp dân nghèo:
“Trong ý thức của người nghèo đã sẵn có ý thức Đảng, cũng như cái quả có hạt. Suốt
mấy chục năm, hạt giống ươm và nảy mầm trên miếng đất ấy” [11, tr.383].
Ngôn ngữ kể chuyện trong Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi) cũng giàu ý nghĩa nhận thức
và triết lí của nhân vật về cuộc sống: “Tiếng tăm Tiền bạc! Dư luận! Những thứ vô
nghĩa như thế mà có thể phá hoại được một tình yêu, giết chết được một tâm hồn” [130,
t2, tr.114]; về nghề nghiệp: “Cái nghề văn luôn luôn ở mấp mé bên cạnh sự đánh đĩ
tâm hồn, và những người bán lương tâm và chút tài năng của họ thường vẫn đông hơn,
họ lại nói to hơn và cố vơ vét mọi thứ: tiếng tăm, tiền bạc và oai quyền, trong một lĩnh
vực mà thực ra mọi thứ ấy đều vô nghĩa! Những người cầm bút chân chính thì có thể
đếm trên đầu ngón tay” [130, t2, tr.345].
Khi xây dựng nhân vật trí thức, do bản chất đặc trưng của đối tượng, ngôn ngữ trần
thuật, kể chuyện vẫn giàu ý nghĩa nhận thức và triết lí. Tuy nhiên, nó chưa đạt đến độ
sâu sắc như giai đoạn trước, và chủ yếu được sử dụng trong việc mô tả sự dằn vặt, đấu
tranh với con người nghệ sĩ của những trí thức đi theo cách mạng.
Sau 1975, ngôn ngữ trần thuật, kể chuyện trong những tác phẩm viết về người trí
thức càng giàu ý nghĩa nhận thức và triết lí hơn. Đó là các nhận thức triết lí về dòng
chảy ồ ạt, xô bồ, hỗn tạp của cuộc sống thường nhật nhiều nỗi lo toan, nhiều mối quan
hệ chằng chéo và nội tâm phức tạp của con người. Nhà văn muốn nhận thức và giải
thích đời sống bằng trải nghiệm cá nhân qua ngôn ngữ kể chuyện (hay cũng là ngôn
ngữ nhân vật). Đó là thứ ngôn ngữ đa thanh, phức điệu, mang tinh thần của tiểu thuyết
và mang đậm hứng thú triết luận.
Văn Nguyễn Khải mang giá trị nhận thức cao và giàu chất triết lí. Nói về thái độ
của những người trẻ hôm nay đối với quá khứ, với lịch sử, ông để cho nhân vật suy
ngẫm: “Cái thanh bình, cái phì nhiêu như xưa nay vốn đã thế, luôn luôn là thế, không
có chiến tranh, không có những biến động lớn, sống lặng lẽ và khiêm nhường trong cái
hôm nay, với ngày mai, còn những ngày qua như không hề có, người chết thì đã chết
rồi, những mất mát buồn đau cũng qua rồi, những ơn nghĩa của một thời không thể
nhớ mãi, phải sống cho hôm nay thôi. Cũng như những thế hệ tới, người ta vẫn chỉ
sống với cái – hôm – nay của họ. Cái hôm qua đến là chóng quên. Cũng không phải là
một cách nghĩ hoàn toàn vô lí đâu nếu như không có những người viết sử, không có
những người viết văn hữu danh và vô danh thì một dân tộc sẽ không thể có lai lịch của
nó. Và cái gì sẽ xảy ra nếu con người chỉ sống với hôm nay mà quên hẳn cái lai lịch
của chính mình?” [58, tr.253]. Nhận thức và mổ xẻ những góc khuất của con người,
Nguyễn Khải triết lí về cái ác: “Trong thực tế, tội ác gần gũi và quen thuộc hơn ta nghĩ
về nó nhiều. Đã có rất nhiều người lương thiện phạm tội trong những hoàn cảnh không
có gì là kỳ quái. Tốt nhất là không nên biết tới tội ác, cũng không nên bình luận và
thuật kể về tội ác. Nó có khả năng thâm nhiễm và tiềm phục tận trong đáy sâu của tiềm
thức” [58, tr.434].
Chứa đựng thông tin và giá trị nhận thức, chất triết lí, ngôn ngữ kể chuyện trong Cơ
hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà) đã giúp người đọc nhận thức và suy nghĩ về thực
trạng của xã hội trong thời kì đổi mới. Nói về hàng ngũ các giám đốc đầu những năm
90: “Ba vạn chín nghìn tổng, chánh, phó giám đốc trong và ngoài quốc doanh mù và
điếc theo mọi nghĩa” [28, tr.362], về nạn buôn lậu: “Quan buôn lậu có thế hơn dân
buôn lậu. Những phi vụ xuyên dọc chiều dài đất nước có thể là của dân, nhưng muốn
xuyên ngang các quốc gia chỉ có thể là của quan” [28, tr.62], về thành phố Hải Phòng
những năm đầu đổi mới: “…dân tình ham hố kiếm tiền… Với ba vạn chín nghìn cách
làm giàu… Nhà nhà bung ra, người người bung ra… Ở các quán cà phê chỉ bàn về
“cầu” và “quả”… Cuộc sống sôi sục mùi đồng” [28, tr.203]. Bằng ngôn ngữ kể
chuyện giàu ý nghĩa nhận thức và triết lí, nhà văn đã khái quát nên một bức tranh
chung của sự nhộn nhạo, sự nhiễu nhưong của các thành phố, đô thị những năm đầu
kinh tế thị trường.
Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu, “Viết văn là đem đến cho tâm hồn con người ta
đồng thời sự yên ổn và không yên ổn, cùng một lúc vừa cởi giải, vừa gây băn khoăn
thắc mắc. Chuỗi quá trình ấy diễn ra liên tục thông qua vẻ đẹp của ngôn ngữ” [13,
tr.263]. Nhà văn sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ trong quá trình xây dựng nhân vật trong
tác phẩm của mình. Những đặc điểm chung của ngôn ngữ kể chuyện giàu ý nghĩa nhận
thức, triết lí chi phối rất lớn đến việc sáng tạo nhân vật trí thức của nhà văn. Nó không
chỉ giúp người đọc nhận thức được hiện thực cuộc sống, mà còn nhận thức được tâm
trạng, suy nghĩ của nhân vật trước cuộc đời.
3.3. Sự thể hiện những hình tượng nghệ thuật đậm chất tự truyện
Nhà văn thường có thiên hướng bộc lộ cái tôi của mình vào tác phẩm, đồng thời có
nhu cầu giãi bày, chia xẻ, cũng như mổ xẻ, khám phá con người mình. Thế nên, nhân
vật trí thức trong văn học không chỉ là những hình tượng giàu ý nghĩa nhận thức mà
còn là những hình tượng đậm chất tự truyện.
3.3.1. Sự phát triển của các thể loại tự truyện, tự thuật, hồi kí, nhật kí, tuỳ bút
Khi nghiên cứu lí luận và thi pháp tiểu thuyết, M.Bakhtin quả quyết rằng: Thể loại
(và chỉ có thể loại) là “nhân vật chính” [4, tr.28] của tiến trình văn học. Theo ông, lịch
sử văn học trước hết là lịch sử hình thành, phát triển và tương tác giữa các thể loại. Thể
loại là “khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một loại nội
dung nhất định có một loại hình thức nhất định tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại
chỉnh thể” [132, tr.4]. Khi sáng tác tác phẩm, sáng tạo nên hình tượng nhân vật, nhà
văn bao giờ cũng sáng tác theo một mô hình thể loại xác định. Mô hình thể loại này chi
phối đến việc xây dựng nhân vật trong tác phẩm và quy định hình thức thể hiện nhân
vật. Ở những thể loại khác nhau, do đặc trưng thể loại, nhân vật và hình thức thể hiện
nhân vật cũng có sự khác biệt. Do đó, xác định thể loại khi sáng tác tác phẩm, xây
dựng nhân vật thể hiện ý thức tìm tòi, thể nghiệm, sáng tạo không ngừng và tài năng
nghệ thuật của đội ngũ nhà văn.
Nhà văn - người trí thức - thường hay suy nghĩ, có nhu cầu bộc lộ tâm hồn và thế
giới nội tâm của mình, thích khám phá, mổ xẻ, phân tích những trạng thái tâm lí cũng
như những tình huống, xung đột nội tâm của mình. Xây dựng nhân vật trí thức trong
tác phẩm, ngoài việc phản ánh sự nhận thức của mình về tầng lớp mình, về đời sống,
nhà văn thường gửi gắm cái tôi của mình, lấy chính con người mình ra để khám phá.
Đặc trưng của nhân vật trí thức khiến nhà văn dễ dàng thể hiện tư tưởng, bộc lộ suy
nghĩ của cá nhân. Hay nói khác hơn, nhân vật trí thức là một dạng hóa thân của nhà
văn trong tác phẩm, cho nên, giữa nhà văn và nhân vật có mối liên hệ mật thiết, sâu sắc,
nhân vật mang đậm chất tự truyện của chủ thể sáng tạo ra nó.
Những thể loại tự truyện, tự thuật, hồi kí, nhật kí, tuỳ bút thích hợp cho nhà văn,
thông qua nhân vật, thể hiện cái tôi cá nhân, thể hiện cái nhìn, suy nghĩ chủ quan của
mình về cuộc đời và con người, từ đó khái quát thành những vấn đề quan trọng của
cuộc sống. Nhân vật trí thức lại mang dáng dấp, cá tính, tâm hồn,… của nhà văn - chủ
thể sáng tạo. Vì thế, để xây dựng nhân vật trí thức - những hình tượng đậm chất tự
truyện – nhà văn thường có xu hướng chọn những thể loại văn học này.
Tuân thủ nguyên tắc sáng tạo là sự thống nhất giữa cái tôi và cái ta, nhà văn Nam
Cao luôn có ý thức khách quan hoá toàn bộ chất liệu có tính chất tự truyện. Mua nhà,
Những truyện không muốn viết, Cười, Bài học quét nhà, Sống mòn, Cái mặt không
chơi được,… có những chất liệu gần như cuộc đời riêng của tác giả. Đọc những tác
phẩm này, người đọc có cảm giác như đang được nghe nhà văn tự thuật, tự kể lại
những sự kiện diễn ra trong đời sống của mình và trong nội tâm của mình. Nhân vật
Điền (Trăng sáng, Nước mắt), Hộ (Đời thừa), Thứ (Sống mòn), tôi (Cái mặt không
chơi được, Mua nhà, Điếu văn, Nhật kí Ở rừng, Đường vô Nam),… được khai thác
từ chính con người Nam Cao: người trí thức trung thực trong cuộc đấu tranh vật vã của
sinh tồn nhân cách.
Bạch (Thiếu quê hương), Nguyễn (Nhà Nguyễn), hay nhân vật tôi (Tùy bút I, Tùy
bút II,…) đều là bóng dáng của chính Nguyễn Tuân. Đó là kiểu nhân vật độc tấu, say
mê xê dịch - cuộc săn lùng tự do của con người. Niềm say mê của nhân vật cũng là
niềm say mê của Nguyễn Tuân: “say mê tìm hiểu chính mình và khắc họa bức chân
dung tinh thần khác người của mình trước đồng loại” [145, tr.390]. Điều đó làm nên
một Nguyễn Tuân tài hoa, kiêu bạc, khác đời.
Thể hồi kí cùng với những biến thể của nó (hồi kí tự truyện, tiểu thuyết - hồi kí,…)
được nhiều nhà văn sử dụng như một hình thức tự thuật lại những gì mình đã từng trải
qua cùng với những chiêm nghiệm sâu sắc về con người và cuộc đời cùng với sự mổ xẻ
nghiêm khắc con người trí thức của mình: Những ngày thơ ấu – Nguyên Hồng, Tự
truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Ba người khác – Tô Hoài, Thượng đế thì cười
(hồi kí tự truyện), Đi tìm cái tôi đã mất (tùy bút chính trị) – Nguyễn Khải, v.v.
Nói về việc lựa chọn thể loại này, nhà văn Tô Hoài chia sẻ: “Tôi cho viết hồi kí khó
khăn hơn cả sáng tác. Bởi đó là một cuộc đấu tranh tư tưởng để viết ra. Nó chân thành
hay dối trá, nó thanh minh hay báo công khoe khoang. Làm thế nào cho khách quan
nhất mà lại tình cảm nhất với một dụng ý về chủ đề thật rõ ràng. Đây là một cuộc mổ
xẻ toàn diện, không phải nhẹ nhàng và chỉ có hứng thú. Với tôi, ở tự truyện tôi có ý
thức dùng tôi để mổ xẻ một anh trí thức tiểu tư sản nghèo rất phổ biến ở nước ta” [Dẫn
theo 24, tr.343].
Từ nhu cầu bộc bạch những điều riêng tư, thầm kín và mổ xẻ bản thân mình nói
riêng, của tầng lớp trí thức nói chung, nhà văn có xu hướng chọn thể loại tự truyện, tự
thuật, hồi kí, nhật kí, tùy bút trong những tác phẩm viết về người trí thức.
3.3.2. Cốt truyện, tình tiết, nhân vật mang dáng dấp tự truyện
3.3.2.1. Cốt truyện mang dáng dấp tự truyện
Để thể hiện những hình tượng đậm chất tự truyện, cốt truyện trong những tác phẩm
viết về người trí thức cũng mang dáng dấp tự truyện. Đó là kiểu cốt truyện tâm lí, khắc
hoạ chiều sâu đời sống nội tâm của con người, làm nảy sinh những va đập, những khắc
khoải, những bộc bạch kiểu tự vấn trong tâm trạng nhân vật. Cốt truyện tâm lí này rất
thích hợp cho việc thể hiện không gian - thời gian tâm lí của con người cá thể. Do vậy,
nhà văn thường sử dụng loại cốt truyện này để nhân vật trí thức dễ dàng thể hiện thế
giới nội tâm. Và chính sự phát triển của tính cách, tâm lí nhân vật cũng chi phối sự phát
triển của cốt truyện.
Cốt truyện của Đời thừa (Nam Cao) khá đơn giản: xoay quanh không gian hẹp -
cảnh sống của một gia đình nhà văn nghèo. Trong không gian hẹp đó, nhân vật nhà văn
Hộ bộc lộ những suy nghĩ, những dằn vặt, những đau đớn trong đời sống và đời viết.
Cốt truyện của cuốn tiểu thuyết tự thuật Sống mòn (Nam Cao) không bao gồm
những biến cố đầy kịch tính mà chỉ là những diễn biến tình cảm suy tư của thế giới bên
trong nhân vật, khiến cho nhân vật tự phơi bày những khía cạnh phức tạp trong đời
sống nội tâm của mình: ý nghĩa của cuộc sống, tình trạng tâm hồn, cách xử thế với bạn
bè, đồng nghiệp, tình yêu và sự ghen tuông đối với vợ, tình trạng của chiến tranh,…
Tất cả các cốt truyện trên đây của Nam Cao đều xoay quanh cuộc sống của nhân
vật trí thức mà nguyên mẫu là chính cuộc đời của nhà văn. Ở đó, Nam Cao nếu không
để cho nhân vật tự kể lại, thì cũng hóa thân vào nhân vật mà kể. Vì vậy, chúng thường
đậm chất tự truyện. Đây cũng là đặc điểm chung trong cách xử lí kĩ thuật của nhiều nhà
văn khi xây dựng, thể hiện hình tượng người trí thức - văn nghệ sĩ. Chẳng hạn: Cốt
truyện Bức tranh (Nguyễn Minh Châu) là “tự truyện” của nhân vật họa sĩ. Cốt truyện
của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) là “tự truyện” của nhân vật Kiên. Ở
đó có sự đan cài giữa không gian quá khứ và không gian hiện tại. Hai khoảng không
gian này được thuật lại bằng những giấc mơ đứt quãng, chắp nối của nhân vật Kiên -
một nhà văn cấp phường. Những dòng ý thức miên man của Kiên đã tạo nên một cốt
truyện mang đậm dấu ấn tâm lí của nhân vật. Cũng như vậy, Thiên sứ, Man Nương
(Phạm Thị Hoài) là những tự truyện của nhân vật chính (bé Hoài, Man Nương) v.v.
Trong các tác phẩm hồi kí, kết cấu theo lối tự truyện như thế, cốt truyện thường ít
có sự kiện nổi bật, kịch tính, mà chủ yếu mang dáng dấp tự truyện của nhân vật – cái
tôi của nhân vật hoặc tác giả – khi nhân vật đồng thời là người kể chuyện thể hiện thế
giới bên trong của mình.
3.3.2.2. Tình tiết mang dáng dấp tự truyện
Khi xây dựng nhân vật trí thức, nhà văn thường sử dụng những tình tiết mang dáng
dấp tự truyện. Những tình tiết diễn ra trong đời sống và trong nội tâm của nhân vật. Đó
cũng là những tình tiết diễn ra trong cuộc đời và nội tâm của nhà văn.
Những tình tiết trong những tác phẩm viết về người trí thức của Nam Cao: Mua
nhà, Cái mặt không chơi được, Những truyện không muốn viết,… đều xuất phát từ
cuộc đời thực của Nam Cao. Nhà văn đã có ý thức sử dụng những tình tiết này như một
loại chất liệu để xây dựng những hình tượng đậm chất tự truyện.
Với những tác phẩm Tự truyện, hồi kí Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Ba người
khác, nhà văn Tô Hoài cũng tập trung khai thác những tình tiết có nguồn gốc từ đời
sống, đời viết và đời người của ông. Những tình tiết đó được thể hiện bằng một chiều
sâu của sự trải nghiệm của chính tác giả. Tương tự, trong Thượng đế thì cười, Đi tìm
cái tôi đã mất,… Nguyễn Khải khai thác rất nhiều sự kiện, tư liệu từ chính cuộc đời và
thời đại của ông.
Trong Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), những tình tiết mà nhân vật Kiên đối mặt
đã thể hiện được một cái nhìn mới về chiến tranh thông qua những hồi ức, những dòng
ý thức của nhân vật, khiến cho những tình tiết này mang dáng dấp tự truyện.
Sự khai thác những tình tiết mang dáng dấp tự truyện như là một chất liệu sống đã
tạo nên những hình tượng đậm chất tự truyện trong tác phẩm viết về người trí thức.
3.3.2.3. Nhân vật mang dáng dấp tự truyện
Cho nên có thể nói rằng: nhân vật trí thức là sự hình tượng hóa của nhà văn trong
tác phẩm. Với ý thức lấy bản thân đời mình ra mổ xẻ, khám phá, làm một thứ máy
kiểm nghiệm khai thác hiện thực đời sống và hiện thực tâm hồn, nhà văn sáng tạo nên
những nhân vật mang dáng dấp tự truyện. Nhân vật trí thức như là một tấm gương phản
chiếu lại hình ảnh nhà văn.
Nhà văn Nam Cao thường lấy “cái tôi” đầy ưu tư, trăn trở của mình ra để sáng tạo
nên những Hộ, Điền, Hài, Thứ,… Mỗi nhân vật thể hiện một sự vật lộn, một cuộc vượt
thoát bên trong tâm hồn ông. Điền (Trăng sáng) là cuộc đấu tranh nội tâm trên quan
điểm nghệ thuật. Hộ (Đời thừa) là cuộc vật lộn âm thầm của bi kịch vỡ mộng giữa lí
tưởng và hiện thực, với lẽ sống tình thương. Điền (Nước mắt), tôi (Cười) mổ xẻ cái lối
sống vô lí của những gia đình tiểu tư sản: đã khổ vì nghèo túng lại hay sinh sự, tạo
những mối bất hoà không đâu. Thứ (Sống mòn) khắc họa thế giới bên trong, thế giới
những dằn vặt, ao ước, trăn trở, của một lớp trí thức nghèo, bế tắc. Thế giới nhân vật trí
thức của Nam Cao là thế giới của những anh trí thức tiểu tư sản những năm 1930 –
1945.
Nhân vật Nguyễn, Bạch của Nguyễn Tuân cũng mang dáng dấp của chính tác giả
thể hiện qua sự tài hoa, nghệ sĩ và niềm đam mê xê dịch để bộc lộ tư tưởng, quan điểm
thẩm mĩ của tác giả cũng như cách ứng đối của nhà văn với hoàn cảnh “mưa Âu gió
Mỹ” đương thời.
“Nhân vật là một ý thức, là sự tự nhận thức và tự bộc lộ mình trên hành trình ý
thức: tìm kiếm và khám phá ý nghĩa của cuộc đời và của chính mình” [20, tr.683].
Chính vì thế, việc xây dựng những nhân vật mang dáng dấp tự truyện thể hiện việc nhà
văn đào xới tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mình nói riêng và của tầng lớp trí thức nói
chung, qua đó, phản chiếu qui luật và trạng thái nhân thế.
3.3.3. Điểm nhìn trần thuật mang chất tự truyện
Điểm nhìn là một phạm trù quan trọng của thi pháp học hiện đại. “Nó là vị trí mà
người kể chuyện hoặc nhà văn lựa chọn để quan sát, thâu tóm hiện thực được phản
ánh trong tác phẩm” [89, tr.300].
3.3.3.1. Điểm nhìn trần thuật trong những tác phẩm viết về người trí thức mang
chất tự truyện. Người trần thuật (nhà văn) xuất hiện trong tác phẩm dưới hình thức một
cái ‘tôi” nào đó. Người trần thuật đồng thời là nhân vật của tác phẩm, sẽ kể câu chuyện
của mình từ ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Sử dụng lối trần thuật này, tác giả được tự do
trong quan sát, bình luận theo chủ kiến của mình, đặc biệt là trong những tác phẩm viết
theo thể loại tự truyện.
3.3.3.1.1. Trong nhiều tác phẩm, xuất hiện người kể chuyện đồng thời là nhân vật
của tác phẩm, trần thuật từ ngôi thứ nhất xưng “tôi”: Một cơn giận, Sợi tóc (Thạch
Lam), Cái mặt không chơi được, Điếu văn, Mua nhà (Nam Cao), Một chuyến đi
(Nguyễn Tuân),... Nhân vật và người trần thuật có các sự kiện đời sống và trạng thái
tinh thần gần gũi, tạo nên tính đối thoại nội tại trong tác phẩm, khiến nhiều tác phẩm
văn học trong giai đoạn này mang tính đa thanh. Nhà văn có vai trò là người dẫn
chuyện, tự do thể hiện tư tưởng, tình cảm một cách tự nhiên trong những phong cách
ngôn ngữ khác nhau, in đậm dấu ấn cá nhân với những trạng thái xúc cảm. Với điểm
nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất, nhân vật mang đậm màu sắc chủ quan, có đời sống nội
tâm phong phú, có quá trình diễn biến tâm lí tinh tế, phức tạp để tăng sức thuyết phục
cho người đọc.
3.3.3.1.2. Trần thuật ở ngôi thứ nhất xuất hiện ở những tác phẩm thuộc thể loại kí:
Nhật kí Ở rừng, Đường vô Nam (Nam Cao), Hồi kí Cát bụi chân ai (Tô Hoài). Nhân
vật trong tác phẩm mang cái tôi của tác giả. Điểm nhìn của tác giả, người kể chuyện và
nhân vật là một. Tác giả là người chứng kiến, hoặc tham gia vào đời sống bên trong
của tác phẩm và nhân vật. Nhờ thế, những tác phẩm thuộc thể loại kí viết về nhân vật
trí thức văn nghệ sĩ trong giai đoạn 1945 – 1975 manh tính khách quan, chân thật.
3.3.3.1.3. Có một tỉ lệ khá lớn các tác phẩm viết về nhân vật trí thức sau 1975 được
trần thuật ở ngôi thứ nhất: Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu),
Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Một cõi nhân gian bé tí (Nguyễn Khải),... Khi ý thức cá
nhân cũng như ý thức cá tính trong nghệ thuật bừng tỉnh, nhà văn có xu hướng xác lập
dấu ấn cá tính của mình trong tác phẩm, mà điểm nhìn trần thuật là một trong những
tiêu chí rất có giá trị trong việc tạo lập dấu ấn cá tính của chủ thể nhà văn. Điểm nhìn
trần thuật từ ngôi thứ nhất đã tạo ra nhiều trường cảm nhận và để lại nhiều ám ảnh
trong lòng người đọc. Điểm nhìn trần thuật ở ngôi thứ nhất khiến một số tác phẩm
mang dáng dấp của tự truyện. Nó giúp nhà văn cắt nghĩa, lí giải hiện thực theo những
hệ quy chiếu riêng. Nó cũng giúp nhà văn phản ánh hiện thực đồng thời thể hiện sự
chiêm nghiệm, chất vấn, tự vấn,… trước hiện thực được phản ánh.
3.2.3.2. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhân vật cũng kể, cũng nói về mình ở ngôi
thứ nhất, mà, bằng cách để cho nhân vật nói về mình như nói về nhân vật đang đối
thoại hoặc như về một người thứ ba nào khác, điểm nhìn trần thuật cũng mang dáng
dấp tự truyện, vừa thể hiện ý định trực tiếp của nhân vật, vừa thể hiện ý định gián tiếp
của tác giả.
3.3.3.2.1. Trần thuật từ ngôi thứ ba là lối trần thuật phổ biến. Giữa người kể chuyện
và nhân vật luôn tồn tại một khoảng cách. Người kể chuyện nói về các sự kiện với một
sự yên tĩnh lãnh đạm, là người có tài “biết hết”. Nhà văn đứng bên ngoài, quan sát, tả,
kể lại mọi suy nghĩ, hành động của nhân vật. Thế nhưng, trong những sáng tác về nhân
vật trí thức, khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật ngày càng được thu hẹp dần.
Từ điểm nhìn bên ngoài (hướng ngoại), nhà văn di chuyển vào điểm nhìn bên trong
(hướng nội). Người trần thuật dường như nhập thân vào nhân vật. “Người trần thuật
bắt đầu nhìn thế giới theo mắt một nhân vật, thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của
người ấy” [114, tr.290]. Với điểm nhìn này, nhà văn không chỉ quan sát, tả, kể, mà còn
đi sâu khám phá tâm trạng bên trong của nhân vật với những độc thoại nội tâm, hồi
tưởng, nhận thức, suy tư, tự vấn,… và để cho nhân vật tự bộc lộ nội tâm, suy nghĩ, tính
cách của mình (Vang bóng một thời, Nguyễn, Thiếu quê hương (Nguyễn Tuân); Đôi
bạn (Nhất Linh); Đẹp (Khái Hưng); Đói, Một cơn giận, Sợi tóc (Thạch Lam); Miếng
bánh (Nguyên Hồng); Đời thừa, Trăng sáng, Sống mòn (Nam Cao);…). Điểm nhìn
hướng nội mang chất tự truyện đã gây nên hứng thú nghệ thuật ngày càng cao đối với
sự độc đáo của bản thân con người.
3.3.3.2.2. Những tác phẩm viết về nhân vật trí thức giai đoạn 1945 – 1975 chủ yếu
được trần thuật từ ngôi thứ ba. Trong đó, điểm nhìn của tác giả trùng với điểm nhìn của
người kể chuyện. Hình tượng người trần thuật hiện diện khá phổ biến trong tác phẩm,
đứng cao hơn nhân vật, cao hơn những sự kiện diễn ra trong đời sống.
Điểm nhìn đánh giá cuộc sống của nhà văn bao giờ cũng trùng với nhân vật chính
diện. Thông qua nhân vật, nhà văn khẳng định vai trò hướng dẫn người đọc, khẳng
định quyền ban phát chân lí. Do đó, nhân vật trí thức giai đoạn này luôn được quan sát,
miêu tả, trần thuật bằng điểm nhìn của một người kể chuyện toàn năng và chủ yếu là
qua lăng kính sử thi - cộng đồng.
3.3.3.2.3. Điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 đa dạng và
phong phú hơn. Tư duy tiểu thuyết chiếm ưu thắng trong ý thức nghệ thuật, kéo đối
tượng trần thuật (nhân vật) xích lại gần với người kể chuyện, đặt người kể chuyện và
đối tượng trần thuật vào cùng một đẳng cấp giá trị. Nhiều tác phẩm về nhân vật trí thức
được trần thuật từ ngôi thứ ba, nhưng khoảng cách giá trị giữa người kể chuyện ở ngôi
thứ ba và nhân vật bị xóa bỏ hoàn toàn. Người kể chuyện có thể trần thuật về đối tượng
của mình bằng thái độ thân tình, thân mật, thậm chí là suồng sã, bỗ bã: Đám cưới
không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Nỗi buồn chiến
tranh (Bảo Ninh),…
Việc xóa bỏ khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật mở đường cho văn
xuôi sau năm 1975 miêu tả đời sống hiện tại như nó đang hiện có, đang tiếp diễn với
đầy những dang dở, phù vân. Sự hòa nhập song trùng chủ thể giữa người kể chuyện và
nhân vật khiến điểm nhìn của nhà văn di chuyển vào bên trong nhân vật, từ đó, khám
phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp của nhân vật trong mối quan hệ đa dạng, đa
chiều với cuộc sống.
Nếu như ở hai giai đoạn văn học từ đầu thế kỉ XX – 1945 và từ 1945 – 1975, dù
trần thuật theo ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba, thì trong tác phẩm thường chỉ có một
điểm nhìn, chủ yếu là điểm nhìn của nhân vật chính diện hay chính là điểm nhìn của
người kể chuyện. Điểm đặc biệt của văn xuôi sau năm 1975 là, do xuất phát từ tính đối
thoại, tính đa thanh của tư duy tiểu thuyết, xuất hiện nhiều điểm nhìn trong một tác
phẩm. Nhà văn hoặc người kể chuyện thường di chuyển điểm nhìn theo nhiều chủ thể
khác nhau. “Thêm vào đó, nhu cầu chiêm nghiệm, tự vấn trước hiện thực khiến điểm
nhìn luôn có xu hướng dịch chuyển từ nhà văn và người kể chuyện đến nhân vật, từ
điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong. Với cách tổ chức tác phẩm là một hệ
điểm nhìn, nhà văn có thể khám phá, chiêm nghiệm về con người một cách đa diện
hơn” [89, tr.304]. Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà) được tổ chức qua điểm nhìn
trần thuật của bốn nhân vật: Hoàng, Tâm, Nhã, Thủy. Các điểm nhìn này “đối thoại”
nhau khiến cho nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ. Qua đó, chân dung, tính cách,
tư tưởng, nội tâm của nhân vật được khắc họa rõ nét, sâu sắc và phong phú hơn.
3.4. Những lớp bi kịch viết bằng văn xuôi
“Bi kịch là một thể của loại hình chính kịch, đối lập với thể hài kịch. Bi kịch là thể
loại nghiêm khắc đến khắc nghiệt; nó miêu tả thực tại theo lối nhấn mạnh, cô đặc các
mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dưới dạng bão hòa
và căng thẳng đến cực hạn, mang ý nghĩa tượng trưng nghệ thuật. Tác phẩm bi kịch
thường đặt độc giả trước những câu hỏi phức tạp, hóc búa, nhức nhối của cuộc sống”
[162, tr.117].
Văn xuôi Việt Nam hiện đại viết về người trí thức, dĩ nhiên không phải là bi kịch
theo ý nghĩa đầy đủ của thể loại, nhưng đó là những tác phẩm chứa đựng nhiều yếu tố
nghệ thuật của bi kịch. Hay nói đúng hơn, đó là một thứ bi kịch viết bằng văn xuôi.
Cuộc đời của người trí thức không chỉ có vinh quang mà còn có những nỗi đau, cay
đắng, mặc cảm trong số phận cá nhân. Gửi gắm trong hình tượng nhân vật trí thức là
những bi kịch cá nhân được viết bằng những dòng xám buồn, lặng lẽ của chất văn xuôi
đời thường. Sau đây, luận văn sẽ đề cập đến hai đặc điểm của những hình tượng “bi
kịch viết bằng văn xuôi” ấy: Tình huống, xung đột nội tâm thể hiện những bi kịch tinh
thần và Sự thể hiện tính cách, số phận bi kịch.
3.4.1. Tình huống, xung đột nội tâm thể hiện những bi kịch tinh thần
Để thể hiện những bi kịch tinh thần của nhân vật trí thức, nhà văn thường đặt nhân
vật trong những tình huống, xung đột nội tâm. Tình huống, xung đột nội tâm trong tác
phẩm mang tính nghệ thuật, thể hiện tính cách, bi kịch tinh thần của con người.
Nhân vật trí thức của Nam Cao thường rơi vào tình huống, xung đột nội tâm dữ dội.
Xoáy sâu vào bi kịch vỡ mộng của Đời thừa, nhà văn đã để cho nhân vật có sự xung
đột nội tâm dai dẳng, gay gắt. Từ lúc cúi xuống cuộc đời Từ, Hộ không thể “khinh
những lo lắng về mặt vật chất” [7, tập 1, tr.602] nữa. Để kiếm tiền, anh “phải cho in
nhiều cuốn văn viết vội vàng,… những bài báo để người ta đọc và quên ngay sau lúc
đọc”. Hộ đau đớn, nhục nhã vì một người có lí tưởng hoài bão cao đẹp, có lương tâm
nghề nghiệp như anh phải chấp nhận làm một kẻ “bất lương”, “đê tiện”. Anh cay đắng
nhận ra mình “là một kẻ vô ích, một người thừa”. Tấn bi kịch của Hộ không chỉ có thế,
anh còn lâm vào bi kịch của người vốn coi trọng lẽ sống tình thương nhưng lại vi phạm
vào lẽ sống đó. Nhiều lần Hộ muốn “biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”
nhưng anh không thể chọn cách thoát li vợ con. Buộc phải lựa chọn giữa nghệ thuật và
tình thương, anh đã hi sinh lẽ sống thứ nhất cho lẽ sống thứ hai. Người nghệ sĩ này đã
hi sinh lí tưởng anh hằng đeo đuổi bấy lâu, nhưng anh cứ bị giày vò, dằn vặt trong cái
nợ áo cơm và trong mặc cảm “người thừa”. Đối xử tệ bạc với vợ con, để rồi khi tỉnh
rượu, Hộ ân hận đến đau đớn. Những giọt nước mắt bật ra là sự hối hận chân thành,
cũng là biểu tượng của tình thương trong cuộc giằng xé, vật lộn đớn đau để vươn lên lẽ
sống nhân đạo.
Tự (Đám cưới không có giấy giá thú – Ma Văn Kháng) cũng diễn ra những xung
đột nội tâm căng thẳng trong cuộc đấu tranh chống lại sự tha hóa của nhân cách. Cái tôi
của anh đầy mặc cảm và sĩ diện trước khát vọng và nỗi đau thời cuộc.
Nhân vật trí thức là người có nhân cách, coi khinh mọi cách sống tầm thường, thiếu
mục đích, thiếu tình người. Thế nhưng, họ vẫn là những người bình thường với nhiều
biểu hiện: ích kỷ, nhỏ nhen, ghen tuông, sĩ diện, ảo tưởng, che đậy,… Thể hiện những
tình huống, xung đột nội tâm, nhà văn để cho nhân vật dám tự phát hiện, tự tìm sâu vào
sự thật của bản thân mình ở những mặt còn hèn kém, tự phê phán, phân tích với nhiều
sắc thái khác nhau để giữ được nhân cách của con người. Theo đó, biện pháp kĩ thuật
mà nhà văn ưa chuộng và thường sử dụng thành công là cho nhân vật độc thoại và đối
thoại nội tâm.
Độc thoại, đối thoại nội tâm là phương thức hữu hiệu để khai thác tâm lí và tâm
hồn nhân vật, làm cho nhân vật có thêm chiều sâu và sức nặng. Qua những đoạn độc
thoại nội tâm, nhân vật trí thức văn nghệ sĩ tự bộc lộ, tự xây dựng và tự điều chỉnh tính
cách trong quá trình sáng tạo của nhà văn. Dũng (Đôi bạn - Nhất Linh) miên man
những dòng độc thoại trong suy nghĩ: “Sống mà nghĩ đến mình thì bao giờ cũng buồn.
Đã bao lâu, mình không làm gì cả, nên mình không có cái gì để quên điều ấy đi” [85,
tr.306]. Hiểu được tâm trạng của Dũng qua những lời độc thoại, chúng ta mới có thể lí
giải ước mơ và hành động dấn thân của Dũng. Sử dụng triệt để thủ pháp độc thoại, đối
thoại nội tâm khi xây dựng nhân vật trí thức văn nghệ sĩ, Nam Cao đã thể hiện được
nhân vật trí thức tự nhận thức, tự ý thức. Thứ (Sống mòn) nhiều lần tự đấu tranh căng
thẳng, gay gắt trong nội tâm để đi tìm lại chính mình, để nhận ra sự mòn mỏi, gỉ mục
của cuộc đời mình. Điền (Trăng sáng, Nước mắt), Hộ (Đời thừa),… rơi vào nỗi cô
đơn, bế tắc khi lí tưởng và hiện thực không đồng nhất, nhiều lần tự đối thoại với chính
mình, tự phán xét về hành vi của mình để nghiền ngẫm về lẽ sống, thấm thía hơn thân
phận con người.
Đi sâu vào thế giới nội tâm, khám phá chiều sâu tâm linh để nhận diện chân dung
trí thức đích thực, nhà văn khơi sâu vào cõi tâm linh, miền vô thức của nhân vật, khai
thác con người ở bên trong con người. Thủ pháp độc thoại, đối thoại nội tâm được sử
dụng triệt để trong việc để cho nhân vật tự bộc lộ tâm hồn, tình cảm, tư tưởng, tính
cách. Tâm trạng Kiên (Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh) như những con sóng cuộn
trào vắt dòng lên nhau, tạo cho nhân vật một thế giới nội tâm phức tạp, rối rắm. Như
con thuyền ngược dòng quá khứ, Kiên tự tìm lại mình qua những lần độc thoại, và đối
thoại với kí ức chiến tranh. Trong đó, nhiều lần, anh phán xét lại hành vi của mình và
những người anh từng quen biết để thấm thía hơn thân phận con người trong cuộc
chiến giữa ranh giới mong manh của nhân tính. Sống với những kí ức chiến tranh, Kiên
rơi vào bi kịch lạc loài, lạc thời trong thế giới hiện tại. Còn Tự (Đám cưói không có
giấy giá thú – Ma Văn Kháng), qua những dòng độc thoại, đối thoại nội tâm, thì đau
đớn trước sự tha hóa của những người xung quanh mình, và khắc khoải đấu tranh để
giữ gìn nhân cách. Hoàng (Cơ hội của Chúa - Nguyễn Việt Hà) lại nhiều lần tự phán
xét tính cách mình. Tính cách của Hoàng còn được khái quát bởi cái nhìn của nhiều
người xung quanh. Nhân vật tự đối thoại với chính mình và đối thoại với mọi người
xung quanh. Đối thoại khiến cho nhân vật “thật” hơn, quá trình phát triển tính cách đa
dạng hơn, có mối quan hệ bình đẳng với nhà văn và người đọc. “Sự sống đích thực của
nhân cách chỉ có thể hiểu bằng cách thâm nhập vào nó dưới dạng đối thoại, một sự đối
thoại mà cá nhân tự nó sẽ bộc lộ bản thân một cách tự do để đáp lại” [Dẫn theo 77,
tr.103].
Qua độc thoại và đối thoại nội tâm, trạng thái tinh thần của nhân vật trí thức hiện
lên phong phú và phức tạp. Đó là những trạng thái tinh thần giàu kịch tính, chứa đựng
nhiều mâu thuẫn, và trong niềm khao khát giải quyết mâu thuẫn nội tâm, nhân vật trí
thức lâm vào trạng thái bi kịch, tâm hồn họ khắc khoải đau đớn không nguôi. Nhân vật
nội tâm thường tự phân tích, tự phán xét gương mặt của mình (ngoại hình, ý nghĩ, hành
vi,…). Ngôn ngữ độc thoại và đối thoại nội tâm của nhân vật rất gần với ngôn ngữ kịch,
nhất là ngôn ngữ bi kịch: giàu cảm xúc, giàu tính đối thoại, giàu triết lí, giàu tinh thần
tự phán xét, tự phản tỉnh,… và thường được diễn đạt biểu hiện bằng những đoạn văn
dày đặc câu hỏi, câu cảm, các khẳng định, bác bỏ, các phán đoán lô-gich, đặc chỉ,…
Qua đó, nhà văn khám phá ra thế giới tâm hồn sâu thẳm, đầy phức điệu của con người
và sự mênh mông, bừa bộn, hỗn tạp của cuộc sống.
3.4.2. Sự thể hiện tính cách, số phận bi kịch
Nhân vật bi kịch mang trong mình không chỉ những say mê, khát vọng lớn lao mà
còn mang cả những lầm lạc trong hành động và tư duy. Tính cách bi kịch không bao
giờ chịu khuất phục hoàn cảnh, thường bướng bỉnh vùng lên chống lại số phận, thách
thức số phận, và rất bướng bỉnh cả trong những lựa chọn quyết định của nó dù đó là
đúng đắn hay sai lầm. Nhân vật người trí thức trong văn xuôi nghệ thuật hiện đại Việt
Nam có nhiều yếu tố bi kịch xét từ phương diện này.
Khi những biến động của đời sống xã hội luôn tác động đến cuộc sống và làm thay
đổi số phận của con người, những vấn đề thế sự và nhân sinh luôn đặt ra câu hỏi và
giày vò lương tâm, trách nhiệm của mỗi con người thì nhà văn phải suy nghĩ và có thái
độ thích hợp. Nhà văn rất cần thiết mổ xẻ những tính cách, số phận cá nhân để cảnh
tỉnh và chia sẻ tình thương với con người. Nhà văn luôn quan tâm đến số phận của con
người, hướng tới việc miêu tả số phận những con người bình thường với những bi kịch
của đời họ. Khi thể hiện nhân vật trí thức, nhà văn xoáy sâu vào những trạng thái tâm lí
và những dòng độc thoại nội tâm. Số phận con người được giải quyết trong mối quan
hệ mật thiết với cộng đồng, xã hội. Đằng sau những số phận cá nhân - những vấn đề cá
thể đều mang ý nghĩa nhân sinh của thời đại.
Khai thác tính cách và mọi khả năng biến động trong đời sống nội tâm của người trí
thức, đến các lớp chiều sâu nhân cách, nhất là khi số phận cá nhân và xã hội của nhân
vật không ngang bằng nhau, nhà văn đã có ý thức chiếm lĩnh đời sống bằng phương
thức thể hiện tâm lí và độc thoại nội tâm.
Nhân vật trí thức của Nam Cao thường là những anh nhà văn, những anh giáo khổ
trường tư. Tất cả họ đều nghèo và mang gánh nặng nợ áo cơm. Chính vì vậy, họ
thường bị rơi vào bi kịch vỡ mộng vì những hoài bão, lí tưởng lớn lao, cao cả của họ
vỡ tan vì hoàn cảnh xã hội, vì thực tế cuộc sống. Nhức nhối vì những nguyện vọng
không thành, họ lại còn đau đớn về số kiếp, số phận của mình.
Ông giáo Thứ (Sống mòn) từng “thích làm một việc gì có ảnh hưởng đến xã hội
ngay” , mong muốn “những sự thay đổi lớn lao đến cho xứ sở mình”, mơ ước trở
thành “một vĩ nhân, một anh hùng vượt lên bên trên sự tầm thường để chỉ nghĩ đến
những cái gì vĩ đại thôi” [8, tr.48]. Thế nhưng, cuộc đời Thứ càng lúc càng xúi xó đi.
Y bị giam hãm vào một môi trường chật hẹp, tù túng, quẩn quanh do sức mạnh và tác
động của hoàn cảnh, của chiến tranh. Sự hủy hoại thầm lặng đang diễn ra trong con
người và cuộc sống của y. Y cũng nhiều lần tính toán nhỏ nhen, ích kỷ, có những suy
nghĩ hão huyền, có những lúc ngoại tình tư tưởng, những khi thèm khát cuộc sống đủ
đầy…, thế nhưng, vượt lên trên những thói xấu thông thường, trong Thứ diễn ra những
cuộc độc thoại nội tâm để dằn vặt và giữ gìn nhân cách, cũng như, để thức nhận tình
trạng thê thảm của bản thân: thất nghiệp, trở về quê, nghèo đói, ăn bám vợ con, sống
mòn ở cái chốn nhà quê xác xơ, tù đọng,… Từ cuộc đời một anh giáo nghèo, nhà văn
Nam Cao đã khái quát lên bức tranh xã hội trước Cách mạng tháng Tám hắt hiu, buồn
chán: cái đói, cái rét.
Tiếp nối Nam Cao, Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Sóng gầm (Nguyên Hồng) miêu tả
chuyện thất nghiệp, đói cơm rách áo và những đau đớn quằn quại trong tâm hồn người
trí thức tiểu tư sản nghèo ở thành thị. Hội (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi) lâm vào tình
cảnh có chữ cũng vô dụng khi trường Bạch Mai đóng cửa. “Hội biết làm gì để nuôi lấy
thân mình, chứ đừng nói gì đến nuôi vợ, nuôi con… Chao ôi, sao mà Hội hoá ra sống
thừa như vậy! Bao nhiêu công ăn học, bao nhiêu sách vở Hội đã đọc, bao nhiêu nghiền
ngẫm suy nghĩ của Hội, rút lại chẳng đổi lấy được bát gạo trong lúc này. Nghĩ lắm
càng nát ruột, đau đầu, thật là đắng cay, nhục nhã” [130, tập 1, tr.623]. Họa sĩ Tư (Vỡ
bờ) là người nghệ sĩ có tài và trong sạch. Tư bỏ vào công việc hội họa tất cả sức lực,
tuổi trẻ của anh. Nhưng người họa sĩ này lại chết trong nghèo khổ và bệnh tật chỉ vì
muốn bảo vệ sự trong sáng của nghệ thuật, chống lại sự tha hóa của xã hội tư sản, của
đồng tiền. Thông qua số phận nhân vật Hội, Tư, nhà văn đã đặt ra vấn đề có tầm khái
quát cao: số phận của người trí thức muốn sống đàng hoàng và sáng tạo ra một nền
nghệ thuật chân chính trong xã hội tư bản (một xã hội mà tất cả những thứ thiêng liêng
nhất của con người đều biến thành hàng hóa).
Số phận của nhân vật Tự (Đám cưới không có giấy giá thú – Ma Văn Kháng) cũng
rơi vào bi kịch vỡ mộng của “một bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một
cuốn sách hay để lầm chỗ” [65, tr.281] khi những say mê lí tưởng cao đẹp, những khát
vọng trong sáng của anh bị ném vào một môi trường xấu xa, dung tục, băng hoại về
đạo đức, nhân phẩm. Xã hội thực dụng và cơ hội đang lên cơn sốt với những đam mê,
khoái lạc, khát vọng quyền lực và làm giàu bất chính không dung nổi một con người
có nhân cách cao cả, thánh thiện như Tự.
Nhân vật trí thức hiện ra với trăm nghìn mảnh đời khác nhau, với nhiều vết thương
nhức nhối trên thân thể và trong tâm hồn. Nhà văn đi sâu vào thân phận con người, đề
cập đến khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, khát vọng tự do,… làm nổi bật khía
cạnh nhân bản của văn học. Số phận họ được miêu tả với tất cả chất người tự nhiên
trong sự tranh chấp giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái cao cả và cái thấp hèn, giữa ý
thức và vô thức. Nhân vật luôn có sự giằng xé nội tâm, tự lên án, tự kết tội, tự nhận
thức về mình. Có hàng ngàn, hàng vạn những số phận trong đời. Thể hiện thành công
những tính cách, những số phận nhân vật trí thức, nhà văn đã tạo dựng được bức tranh
xã hội của thời đại.
3.5. Nhân vật trí thức - một loại hình tượng có khả năng “trí thức hóa” cốt
cách con người Việt Nam trong đời sống và trong văn học
Nghiên cứu nhân vật của Thạch Lam, Vương Trí Nhàn có một phát hiện đáng chú
ý: nhân vật của nhà văn này có chung một nét tính cách đáng trân trọng đó là “cốt cách
trí thức”, cho dù họ là bà mẹ lao động nghèo như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), là cô gái quê
như Tâm (Cô hàng xén), hay là những cô gái giang hồ phải sống đời ô trọc, lầm lỡ như
cô Liên, cô Huệ (Tối ba mươi). [Nguồn: Vương Trí Nhàn: “Cốt cách trí thức ở ngòi
bút Thạch Lam”, Tạp chí Văn học số 5, 1990.]
Quả thật, trí thức là tinh hoa của đất nước (“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”),
phần tinh hoa trong con người trí thức văn nghệ sĩ là tiêu chuẩn tốt đẹp mà con người
nói chung cần vươn tới, trân trọng, nuôi dưỡng. Con người khi có được cốt cách trí
thức là con người trưởng thành, đáng kiêu hãnh, một nền kinh tế trí thức là một nền
kinh tế phát triển, theo kịp thời đại.
Đọc tác phẩm văn xuôi hiện đại viết về người trí thức, dĩ nhiên ta gặp các nhân vật
có cốt cách trí thức. Nhưng đáng nói hơn là khả năng “trí thức hóa” những người xung
quanh, môi trường xung quanh của người trí thức trong các tác phẩm này. “Trí thức
hóa” ở đây hiểu theo cả hai mặt: a) Cái tốt đẹp, tinh hoa ở nhân vật người trí thức tỏa
sáng, nhân lên ở những người xung quanh họ, góp phần nhân đạo hóa môi trường; b)
Cái tốt đẹp, tinh hoa bị tha hóa, mai một như là bài học chua xót hay như là những lời
cảnh tỉnh: hãy giữ gìn, nâng đỡ phần tinh hoa trong cốt cách trí thức Việt Nam.
Một ví dụ cho trường hợp thứ nhất (a): Trong mối tương quan với nhân vật ông
giáo, cái cách mà lão Hạc - một người nông dân - suy nghĩ và hành động quả thật
mang hơi hướng cốt cách của một người trí thức. Ông giáo cạnh Lão Hạc (Lão Hạc –
Nam Cao) làm cho Lão Hạc có một điểm tựa tinh thần, một người bạn tin cẩn, ngược
lại nhân cách người cha đáng kính của Lão Hạc đặt cạnh ông giáo, làm cho ông giáo
càng phải giữ gìn cốt cách trí thức hơn. Cũng như thế, tinh hoa trí thức ở nhân vật “tôi”
- ông giáo chắc chắn làm cho nhân vật người vợ, Binh Tư và dân làng Vũ Đại cũng trở
nên trí thức hơn trong cách ứng xử. Đặc biệt, bài học ứng xử ở đời: Phải “cố tìm mà
hiểu” “những người xung quanh ta” của nhân vật tôi – “ông giáo”, chắc chắn có khả
năng “trí thức hóa” con người và môi trường rất lớn.
Có thể tìm thấy nhiều ví dụ tương tự trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Trong Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), “chữ” của “người tử tù” tài hoa lẫm liệt
Huấn Cao là thứ ánh sáng vẫy gọi những người sống nhầm chỗ, chọn lầm nghề như
ngục quan, thơ lại đến với cái tài, cái dũng, cái thiên lương. Cái tài, cái dũng, cái thiên
lương của Huấn Cao đã làm cho một kẻ “mê muội” như ngục quan tỉnh ngộ ra nhiều
điều tốt đẹp.
Một số ví dụ cho trường hợp thứ hai (b): Sự tha hóa của các nhân vật trí thức của
Nam Cao và bài học từ sự phản tỉnh của họ (Hộ trong Đời thừa, Điền trong Trăng
sáng, Thứ trong Sống mòn,…); Sự tha hóa đáng tiếc của nhân vật Thuật (Đám cưới
không có giấy giá thú, Ma Văn Kháng),… còn mang lại những bài học cay đắng và
sâu sắc hơn.
Hình tượng nhân vật trí thức có khả năng “trí thức hoá” hình tượng con người Việt
Nam, làm tỏa sáng những tính tình tốt đẹp, những cốt cách của con người. Con người
Việt Nam dù ở tầng lớp nào cũng đều hiện lên trong văn học với một bản lĩnh vững
vàng và những nét đẹp tính cách, tâm hồn. Ngay cả khi đề cập đến cái xấu, cái ác của
con người, hình tượng nhân vật giúp ta nhận thức, đề phòng, cũng như biết cách tự vệ
và tiêu diệt cái xấu, cái ác. Hình tượng nhân vật trí thức còn góp phần phát triển nền
văn học: quan niệm nghệ thuật về con người, hệ thống thể loại, kĩ thuật tự sự,... Cùng
với quá trình vận động và phát triển của hình tượng nhân vật, văn học cũng vận động
và phát triển theo. Đó là sự vận động và phát triển của một nền văn học có sự nhận
thức, có ý thức, và mang tính tự vấn cao, để có thể đáp ứng được yêu cầu của thời đại
và con người, đồng thời, làm cho thời đại và con người tiến bộ, phát triển lên ở một
tầm vóc cao hơn, cả về vi mô lẫn vĩ mô.
Như vậy, trong chương này, luận văn đã tìm hiểu những hình thức, kĩ thuật thể hiện
hình tượng nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Hình thức,
nghệ thuật thể hiện này, dưới tài năng và tài hoa của người sáng tác, đã xây dựng được
hình tượng người trí thức trong văn học - những mẫu người hội đủ cả vinh quang và
cay đắng, kiêu hãnh và mặc cảm như chính nguyên mẫu ngoài cuộc đời.
KẾT LUẬN
1. Từ đầu thế kỉ XX đến nay (tính đến năm 2000), đất nước và xã hội Việt Nam trải
qua nhiều cơn biến động, ba đào: một cuộc Âu hóa làm đổi thay quan niệm cũ (XX –
1945), một hành trình đấu tranh gian khổ cho độc lập, tự do (1945 – 1975), một công
cuộc xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế (sau 1975). Trong những biến cố của đời
sống xã hội, người trí thức có một vai trò quan trọng, to lớn tương ứng với mỗi giai
đoạn phát triển của đất nước: Người khai sáng văn hóa và tiên phong trong cải cách xã
hội (Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945); Người chiến sĩ
trên mặt trận văn hóa - Người thư ký trung thành của thời đại (Giai đoạn từ Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975); Người trí thức - điểm hội tụ của trình độ
văn minh dân trí, dân chủ và phát triển đời sống xã hội (Giai đoạn sau 1975).
Văn xuôi nghệ thuật mang chức năng nhận thức, với những đặc trưng về thể loại, đi
vào khám phá hình tượng nhân vật trí thức chủ yếu ở hai phương diện: Sự nhận thức,
tự nhận thức về thiên chức xã hội và về số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp
trí thức. Từ cuộc đời đến những trang văn, qua các góc nhìn và tư duy nghệ thuật (tư
duy sử thi hay tư duy tiểu thuyết) của các thế hệ nhà văn, nhân vật trí thức được xem
xét ở các khía cạnh: Người trí thức như là chủ thể sáng tạo văn học; Người trí thức
như là đối tượng trung tâm của văn học; Người trí thức và nhiệm vụ tôn vinh chiến sĩ,
quần chúng cách mạng; Người trí thức – linh hồn của văn hóa và giá trị nhân văn, tinh
thần dân chủ.
2. Ở từng chặng đường văn học, tùy vào cái nhìn nghệ thuật (tư duy sử thi hay tư
duy tiểu thuyết), hình tượng người trí thức - những mẫu người đa tính cách - được thể
hiện nghiêng về vinh quang hay cay đắng, kiêu hãnh hoặc mặc cảm.
2.1. Qua cái nhìn sử thi của văn xuôi Việt Nam hiện đại (1945 – 1975), hình tượng
người trí thức là những mẫu người lấy vinh quang, kiêu hãnh nhấn chìm cay đắng, mặc
cảm.
Theo tiếng gọi của lí tưởng cách mạng, người trí thức văn nghệ sĩ đi theo kháng
chiến, hòa vào đời sống chung của dân tộc, nhưng vẫn còn rơi rớt những mặc cảm lạc
lõng trong quan hệ với cộng đồng của một số trí thức chưa kịp thức thời, giác ngộ. Thế
nhưng, cốt cách trí thức và thái độ thức thời chân chính đã giúp cho người trí thức
không ngừng tự vươn lên, vượt qua “cái tôi” để chiến thắng niềm mặc cảm lạc lõng đó.
Người trí thức thể hiện ước muốn “nhận đường” và “lột xác”, trở thành người thư ký
trung thành của thời đại, ghi lại một thời kỳ đau thương nhưng vĩ đại, hào hùng, xây
dựng hình tượng con người Việt Nam anh hùng, bất khuất, có tác dụng cổ vũ lớn lao,
mạnh mẽ tinh thần chiến đấu và lòng yêu nước của nhân dân ta. Người trí thức văn
nghệ sĩ đã rất tận tâm với lí tưởng nghệ thuật mới mẻ đó. Họ vươn mình trở thành
những trí thức - chiến sĩ với một niềm tin bất diệt vào độc lập, tự do. Nhân vật trí thức
kết tinh những phẩm chất cao đẹp của thời đại. Họ tìm kiếm và thể nghiệm một lẽ sống
đẹp trong cuộc đời.
2.2. Qua cái nhìn tiểu thuyết của văn xuôi Việt Nam hiện đại (trước 1945 và sau
1975), hình tượng người trí thức là những mẫu người giàu kiêu hãnh và mặc cảm trong
ý thức sâu xa về nhân cách, về bản thể.
Trí thức thường rất kiêu hãnh về bản ngã của mình. Sự kiêu hãnh đó thể hiện ở tình
yêu, lòng tôn thờ, niềm khát khao sáng tạo cái đẹp, tha thiết với hoài bão, lí tưởng cao
cả trong cuộc đời và trong nghệ thuật. Họ tìm kiếm những con đường khác nhau để đi
tìm, theo đuổi mục đích lớn nhất của cuộc đời mình. Với người trí thức, sống là phải
làm việc, phải cống hiến và sáng tạo. Cái đích mà họ khát khao vươn tới chính là cái
đẹp.
Sự kiêu hãnh đó còn thể hiện ở niềm khát khao vươn đến một thế giới tinh thần
phong phú, độc đáo, một nhân cách đẹp theo quan niệm, cảnh ngộ của mỗi người, mỗi
thời. Trí thức vốn rất đa cảm và nhạy cảm, thế giới tinh thần, đời sống nội tâm của họ
phong phú với nhiều cung bậc, lắm thanh âm, đa màu sắc: Nhân vật trí thức luôn có ý
thức “tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác” của Thạch Lam; Nhân vật trí thức tài hoa tài
tử và rất “ngông” của Nguyễn Tuân; Nhân vật trí thức khắc khoải với tấn bi kịch tinh
thần đau đớn của Nam Cao;… Trí thức luôn biết tự nhận thức, tự đấu tranh, tự vấn để
vươn đến một thế giới tinh thần độc đáo và một nhân cách toàn vẹn, đẹp đẽ.
Không phải chỉ được thể hiện ở sự kiêu hãnh về bản ngã, hình tượng người trí thức
trong văn học còn được soi chiếu trong niềm mặc cảm, cay đắng, cô đơn trong hành
trình đi tìm bản thể. Trí thức dễ rơi vào mặc cảm cô đơn, vỡ mộng. Họ cô đơn vì chịu
sự tác động của hoàn cảnh xã hội lên thân phận cá nhân (nhân vật trí thức của Nhất
Linh, Nguyễn Tuân). Họ cô đơn trong sự đối mặt với chính mình, với những cuộc đấu
tranh căng thẳng trong tâm hồn mình (nhân vật trí thức của Nam Cao, Nguyên Hồng).
Họ cô đơn vì mặc cảm con người thừa, thân phận bèo bọt và lạc loài, lạc thời (nhân vật
trí thức của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Bảo Ninh,…). Họ cô đơn trong cuộc
đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, sự huỷ hoại về nhân tính (nhân vật trí thức của Ma
Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp). Họ cô đơn trong dòng chảy trôi của cuộc sống đời
thường (Hoàng – Cơ hội của Chúa, Nguyễn Việt Hà, Kiên - Nỗi buồn chiến tranh,
Bảo Ninh),… Sự cô đơn đó xuất phát từ bi kịch vỡ mộng, và tạo nên một niềm mặc
cảm chân thành, lành mạnh, và chính đáng của những con người luôn biết ý thức sâu
sắc về bản ngã của mình.
Người trí thức trong văn học còn đối mặt với mặc cảm tha hóa của bản thân và của
tầng lớp mình. Lúc đầu chỉ là những hiện tượng tha hóa riêng lẻ (nhân vật trí thức lưu
manh của Vũ Trọng Phụng, nhân vật trí thức có những biểu hiện tha hóa nhân cách của
Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu), về sau là sự tha hóa tập
thể và nó trở thành một vấn nạn đáng báo động về sự xuống cấp, suy đồi đạo đức (đám
đông trí thức trong Đám cưới không có giấy giá thú – Ma Văn Kháng, Thiên sứ -
Phạm Thị Hoài, Cơ hội của Chúa - Nguyễn Việt Hà,…). Thế nhưng, nhân vật trí thức
của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu còn biết tự thú, tự vấn,
sám hối với niềm mặc cảm bi thiết, còn đám đông trí thức trong văn học sau 1975
không mấy người biết mặc cảm trước sự tha hóa của bản thân mình.
2.3. Trong tư tưởng và ý thức của người Việt Nam, trí thức đại diện cho trí tuệ, tâm
hồn, tinh hoa của cộng đồng. Nhưng khi tư duy sử thi nhường chỗ cho tư duy tiểu
thuyết, hình tượng người trí thức trong văn học không còn là những con người luôn vật
vã đấu tranh cho sự hoàn thiện nhân cách, mà họ được đem ra xem xét, mổ xẻ, khám
phá ở nhiều bình diện, đặc biệt là những góc khuất của tâm lí, tâm linh. Nhân vật trí
thức không còn đẹp đẽ một cách thần thánh, “vô trùng”, mà là con người “như tự nó”
với sự tồn tại của cả “cái tốt và cái xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ”
trong cùng một con người. Họ mang những nét tính cách rất “phản anh hùng” (nhân
vật trí thức của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Việt Hà).
Dưới cái nhìn sử thi hoặc cái nhìn tiểu thuyết, ở mỗi chặng đường văn học, chân
dung, tính cách, tâm hồn của nhân vật trí thức được thể hiện khá chận thực, toàn diện.
Hình tượng người trí thức - những mẫu người đa tính cách – là loại nhân vật có sự phát
triển khá nhất quán cùng với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
3. Trong chương 3, luận văn nghiên cứu hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng
nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Trước hết, viết về người trí thức
là một nhu cầu bức bách, thiết yếu và là một thách thức lớn đối với người cầm bút. Nó
đòi hỏi lòng can đảm, sự dũng cảm và thái độ “trung thực vô ngần” khi nhà văn bộc
bạch, phơi bày, mổ xẻ con người mình và tầng lớp mình.
Do đặc trưng riêng của loại hình nhân vật, người trí thức trong văn học là những
hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa nhận thức. Thông qua hình tượng nhân vật, nhà
văn thể hiện sự nhận thức, tự nhận thức về vai trò xã hội cũng như sự nhận thức, tự
nhận thức số phận cá nhân, bi kịch tinh thần của tầng lớp trí thức. Do vậy, trong tác
phẩm viết về người trí thức, nhà văn xây dựng cốt truyện, tình huống giàu ý nghĩa nhận
thức, xây dựng nhân vật giàu ý nghĩa nhận thức và sử dụng ngôn ngữ kể chuyện giàu ý
nghĩa nhận thức, triết lí.
Bên cạnh đó, hình tượng người trí thức còn đậm chất tự truyện. Vì thế, các thể
loại tự truyện, tự thuật, hồi kí, nhật kí, tùy bút rất thích hợp để nhà văn, thông qua nhân
vật, bộc lộ cái tôi, cái chủ quan. Để khắc họa hình tượng người trí thức đậm chất tự
truyện, nhà văn sáng tạo nên những cốt truyện tâm lí, những tình tiết, những nhân vật
đậm chất tự truyện và sử dụng điểm nhìn trần thuật mang chất tự truyện.
Cuộc đời của nhân vật trí thức đúng là những lớp bi kịch viết bằng văn xuôi. Tính
cách, số phận của nhân vật trí thức gần với tính cách, số phận của nhân vật bi kịch. Nhà
văn thường đặt nhân vật vào những tình huống, xung đột nội tâm và thể hiện những
tính cách, số phận bi kịch của người trí thức để khám phá ra thế giới tâm hồn sâu thẳm,
đầy phức điệu của người trí thức và sự mênh mông, bừa bộn, hỗn tạp của cuộc sống.
Khi thể hiện tính cách, số phận bi kịch của nhân vật trí thức, nhà văn xoáy sâu vào
những trạng thái tâm lí và những dòng độc thoại nội tâm.
Cốt cách, tâm hồn của nhân vật trí thức được soi sáng dựa trên mối quan hệ tương
tác với những loại nhân vật khác trong tác phẩm (công nhân, nông dân, người lính,…).
Nhưng cốt cách của nhân vật trí thức cũng tác động rất lớn đến hành vi, ngôn ngữ,
nhận thức, tâm hồn,… của những loại nhân vật khác. Nói cách khác, hình tượng nhân
vật trí thức trong văn học có khả năng “trí thức hóa” những người xung quanh, môi
trường xung quanh. Cốt cách trí thức của nhân vật người trí thức tỏa sáng, nhân lên ở
những người xung quanh họ, góp phần nhân đạo hóa môi trường. Cốt cách trí thức của
họ cũng làm cho người đọc cùng chia sẻ nỗi bất an trong lòng khi mà cái tốt đẹp, tinh
hoa bị tha hóa, mai một. Trong trường hợp này tác phẩm là bài học chua xót hay là lời
cảnh tỉnh: hãy giữ gìn, nâng đỡ phần tinh hoa trong cốt cách trí thức Việt Nam.
4. Qua sự phác họa những đặc trưng tiêu biểu trong hình tượng nhân vật trí thức
và những hình thức, kĩ thuật thể hiện hình tượng nhân vật trí thức trong văn xuôi Việt
Nam hiện đại, có thể rút ra một kết luận chung nhất:
Văn học không chỉ phản ánh hiện thực đời sống, hiện thực thời đại mà còn là,
luôn là bức tranh phản chiếu tâm thế, “não trạng” của thời đại, và, hơn ở đâu hết, hình
tượng người trí thức trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam hiện đại cho ta thấy rõ nhất,
cái tâm thế, “não trạng” ấy.
Ai đó đã nói rằng: Hãy cho biết anh chơi với ai, tôi sẽ nói cho biết anh là người
thế nào. Sẽ không hề vu vơ hay quá lời khi ta cũng nói theo cách đó: Hãy cho biết một
giai đoạn, một nền văn học viết về người trí thức như thế nào, tôi sẽ nói về đặc điểm,
trình độ phát triển của giai đoạn hoặc nền văn học ấy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh – Lê Thị Dục Tú (2001), Thạch Lam - Về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên.
4. M. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, Bộ Văn hóa
thông tin và thể thao, Trường viết văn Nguyễn Du.
5. M. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết Đôtxtôiepxki, (Lại Nguyên Ân,
Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt
Nam sau Cách mạng tháng Tám, Hà Nội.
7. Nam Cao (1987), Tuyển tập truyện ngắn, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Nam Cao (2002), Nam Cao toàn tập (2 tập) – Hà Minh Đức sưu tầm, giới thiệu, Nxb
Văn học, Hà Nội.
9. Nam Cao (2006), Sống mòn, Nxb Giáo dục.
10. Nam Cao (2003), Tuyển tập Nam Cao, Nxb Văn học.
11. Nguyễn Minh Châu (2001), Dấu chân người lính, Nxb Thanh niên.
12. Nguyễn Minh Châu (2003), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học.
13. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa học xã hội.
14. Tân Chi (1999), Thạch Lam – Văn và đời, Nxb Hà Nội.
15. Vũ Khắc Chương (2000), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Nam Cao, Nxb
Văn học, Hà Nội.
16. Đặng Anh Đào (1992), “Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết”, Tạp chí Văn học,
số 6.
17. Đặng Anh Đào (1988), “Một trường hợp đang bàn cãi”, Văn nghệ, ngày 3-9-1988.
18. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn – Con người và văn chương, Nxb Văn học.
19. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn (1930 – 1945), Nxb Văn học, Hà Nội.
20. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.
21. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học.
23. Hà Minh Đức (1991, chủ biên), Mấy vấn đề lí luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
24. Hà Minh Đức (2003), Khảo luận văn chương (tái bản lần 3), Nxb Khoa học xã hội .
25. Hà Minh Đức (2007), Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học.
26. Umberco Eco (2003), “Về một vài chức năng của văn học”, Tạp chí Văn học, số 5.
27. Văn Giá (2002), Một khoảng trời văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Nguyễn Việt Hà (2006), Cơ hội của Chúa, Nxb Hội nhà văn.
29. Nguyễn Việt Hà (2006), Khải huyền muộn, Nxb Hội nhà văn.
30. Lê Thị Đức Hạnh (2000), Nguyễn Công Hoan - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
31. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nam Cao - Một đời người, một đời văn, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - Vấn đề và suy
nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Hegel (1999), Mĩ học (Phan Ngọc dịch, tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
34. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du.
35. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
36. Hoàng Ngọc Hiến (2006), “Đọc Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà”, Cơ hội
của Chúa, Nxb Hội nhà văn.
37. Trần Văn Hiếu (2005), Ba phong cách trào phúng trong văn học Việt Nam thời kì
1930-1945: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội.
38. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội và Mũi Cà
Mau.
39. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn.
40. Lê Cẩm Hoa (2000), Nhất Linh – Con người và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.
41. Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình (1995), Những bậc thầy văn chương thế giới, Nxb
Văn học, Hà Nội.
42. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
43. Phạm Thị Hoài (1988), Thiên sứ, Tạp chí Tác phẩm văn học, Số 7.
44. Tô Hoài (1992), Cát bụi chân ai (hồi kí), Nxb Hội nhà văn.
45. Tô Hoài (2007), Ba người khác, Nxb Hội nhà văn.
46. Tô Hoài (2007), Mười năm, Nxb Hội nhà văn.
47. Đỗ Kim Hồi (1994), “Đôi mắt của Nam Cao”, Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb
Giáo dục.
48. Nguyên Hồng (2002), Truyện ngắn trước 1945, Văn học Việt Nam thế kỉ XX, quyển
2, tập 4, Nxb Văn học.
49. Nguyên Hồng (1961), Sóng gầm, Nxb Văn học.
50. Nguyên Hồng (1998), Cơn bão đã đến, Nxb Văn học.
51. Nguyễn Thị Thu Huệ (1993), Hậu thiên đường, Nxb Hội nhà văn.
52. Khái Hưng (2001), Đẹp, Văn chương Tự Lực văn đoàn, Nxb Giáo dục, tập 1, Viện
Văn học – Trung tâm KHXH – NV quốc gia.
53. Mai Hương (2000, tuyển chọn), Vũ Trọng Phụng - Một tài năng độc đáo, Nxb Văn
hóa thông tin Hà Nội.
54. Dương Thu Hương (1987), Bên kia bờ ảo vọng, Nxb Phụ nữ.
55. Dương Thu Hương (1988), Các vĩ nhân tỉnh lẻ, Nxb Thanh niên Hà Nội.
56. Dương Thu Hương (1988), Những thiên đường mù, Nxb Phụ nữ.
57. Trần Đình Hượu (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
58. Nguyễn Khải (2001), Tuyển tập tiểu thuyết (2 tập), Nxb Thanh niên.
59. Nguyễn Khải (1982), Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới.
60. Nguyễn Khải (1983), Thời gian của người, Nxb Tác phẩm mới.
61. Nguyễn Khải (1999), Vòng sóng đến vô cùng, Nxb Trẻ TP.HCM.
62. Nguyễn Khải (1989), Một cõi nhân gian bé tí, Nxb Văn nghệ TP.HCM.
63. Ma Văn Kháng (1986), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ.
64. Ma Văn Kháng (2001), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
65. Ma Văn Kháng (2003), Đám cưới không có giấy giá thú, Nxb Công an nhân dân.
66. Ma Văn Kháng (2003), Ngược dòng nước lũ, Nxb Công an nhân dân.
67. Nguyễn Hoành Khung (1997), “Đời thừa”, Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo
dục.
68. M.B. Kharapchenco (1979), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn
học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
69. M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
văn học, (nhiều người dịch), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
70. Lê Minh Khuê (1992), Viết về cái ác cũng là một cách thức tỉnh nhân tính, Nxb
Tác phẩm mới.
71. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
72. Milan Kundera (2001), Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
73. Chu Lai (1992), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội nhà văn.
74. Thạch Lam (1988), Tuyển tập, Nxb Văn học.
75. Thạch Lam (1999), Sợi tóc, Nxb Văn nghệ TP.HCM.
76. Thạch Lam (1999), Gió đầu mùa, Nxb Văn nghệ TP.HCM.
77. Tôn Phương Lan (2002), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb KHXH.
78. Phong Lê (1986), “Người trí thức kiểu Nam Cao và chiến thắng của chủ nghĩa hiện
thực”, Tạp chí văn học, số 5.
79. Phong Lê (1987), “Nam Cao – văn và đời”, Tuyển tập Nam Cao, tập 1, Nxb Văn
học.
80. Phong Lê (1997), Văn học Việt Nam trên hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
81. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt Nam hiện đại,
Nxb Giáo dục.
82. Phong Lê (2003), Nam Cao - Người kết thúc vẻ vang trào lưu văn học hiện thực,
Nxb ĐHQG Hà Nội.
83. Nhất Linh (1989), Bướm trắng, Nxb Tổng hợp An Giang.
84. Nhất Linh (2000), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học.
85. Nhất Linh (2001), Đoạn tuyệt, Văn chương Tự Lực văn đoàn, Nxb Giáo dục, tập 1,
Viện Văn học – Trung tâm KHXH – NV quốc gia.
86. Nhất Linh (2001), Đôi bạn, Văn chương Tự Lực văn đoàn, Nxb Giáo dục, tập 1,
Viện Văn học – Trung tâm KHXH – NV quốc gia.
87. Phạm Quang Long (1994), “Một đặc điểm thi pháp truyện ngắn Nam Cao”, Tạp chí
văn học, số 2.
88. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục.
89. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006, chủ biên), Văn học Việt Nam sau 1975 -
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục.
90. NguyễnVăn Lưu (1988), “Về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp”, Báo Hà Nội
mới, 28-8-1988.
91. Phương Lựu (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
92. Phương Lựu (2001), Lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, Nxb Văn học,
Hà Nội.
93. Hoàng Như Mai (1989), Trí thức và nghệ sĩ, Nxb Tổng hợp An Giang.
94. Đặng Thai Mai (1960), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX, Nxb Văn học.
95. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội.
96. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
97. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Nhà văn Việt Nam hiện đại – Chân dung và phong
cách, Nxb Văn học.
98. Tôn Thảo Miên (1998), Nguyễn Tuân - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
99. Nguyễn Thanh Minh (2005), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong sáng
tạo nghệ thuật, Nxb Văn học.
100. Lê Thành Nghị (2003), Văn học – Sáng tạo và tiếp nhận, Nxb Quân đội nhân dân.
101. Phương Ngân (2001, tuyển chọn), Nguyễn Huy Tưởng – Khát vọng một đời văn,
Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội.
102. Vương Trí Nhàn (1990), “Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam”, Tạp chí Văn
học, số 5.
103. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn.
104. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tayt truyện ngắn, Nxb Văn nghệ TP.HCM.
105. Vương Trí Nhàn (2001), Những kiếp hoa dại, Nxb Hội nhà văn.
106. Phùng Quý Nhâm (1992), Thẩm định văn học, Nxb Văn nghệ TP.HCM.
107. Phùng Quý Nhâm (1998), “Tinh thần phân tích tâm linh - một đặc trưng của chủ
nghĩa hiện thực”, Tạp chí Văn học, số 4.
108. N.I. Niculin (2007), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Văn học – Trung tâm nghiên
cứu quốc học.
109. Bảo Ninh (2006), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Văn học.
110. Nguyễn Oanh (1988), “Khởi sắc hay là sự chuyển mình của văn học”, Văn nghệ,
3-12-1988.
111. M.F. Ôpxiannhicôp (2001), Mĩ học cơ bản và nâng cao, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
112. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (2 tập), Nxb Khoa học xã hội, TP.HCM.
113. Hoàng Phê (1997), Tự điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
114. Pospelov (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.
115. Vũ Trọng Phụng (2006), Số đỏ, Nxb Văn học.
116. Vũ Trọng Phụng (2006), Giông tố, Nxb Văn học.
117. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn.
118. J.P. Sartre (1999), Văn học là gì? (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
119. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn.
120. Trần Đình Sử (2002), Đọc văn và học văn, Nxd Giáo dục, Hà Nội.
121. Trần Đình Sử (2003, chủ biên), Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb
ĐHSP Hà Nội.
122. Trần Hữu Tá (1988), “Lời tựa Bướm trắng”, Bướm trắng, Nxb An Giang.
123. Trần Hữu Tá (2001), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb TP.HCM.
124. Vũ Thăng (2001), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao, Nxb Quân đội
nhân dân.
125. Hoài Thanh, Hoài Chân (2006), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học.
126. Hoài Thanh (1978), Toàn tập, Nxb Văn học Hà Nội.
127. Ngô Thảo (2000), Văn học với đời sống - Đời sống văn học, Nxb Văn học.
128. Bùi Việt Thắng (2001), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn học.
129. Đoàn Cầm Thi (2004), “Cơ hội của Chúa - Từ nhật kí đến hậu trường văn học”,
Cơ hội của Chúa, Nxb Hội nhà văn.
130. Nguyễn Đình Thi (2001), Vỡ bờ (2 tập), Nxb Văn học.
131. Nguyễn Thành Thi (2006), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Nxb
Khoa học xã hội.
132. Nguyễn Thành Thi (2008), “Lược đồ văn học quốc ngữ Việt Nam trước 1945 nhìn
từ quá trình hình thành và tương tác thể loại”, Bình luận văn học, Nxb Văn hóa
Sài Gòn.
133. Nguyễn Huy Thiệp (2005), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Hội nhà văn.
134. Bích Thu (2004, tuyển chọn), Nam Cao - Về tác gia và tác phẩm, Nxb CAND.
135. Nguyễn Ngọc Thiện (1996, chủ biên), Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 –
1939, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
136. Trần Mạnh Tiến (2001), Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, Nxb
Giáo dục.
137. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, TP.HCM.
138. Lê Ngọc Trà (2002), Thách thức của sáng tạo – Thách thức của văn hóa, Nxb
Thanh niên, TP.HCM.
139. Hoàng Trinh, Nam Mộc, Duy Thành, Nguyễn Cương (1978), Văn học, cuộc sống
nhà văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
140. Hà Bình Trị (1991), “Chất trữ tình trong sáng tác của Nam Cao”, Báo Giáo dục và
thời đại, số 37.
141. Hà Bình Trị (1992), “Tâm lý nhân vật trong một số sáng tác của Nam Cao”, Tập
san Giáo dục phổ thông, số 3.
142. Võ Gia Trị (2001), Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học.
143. Trần Thị Thanh Trúc (2004), Số phận tinh thần của con người trong tác phẩm của
Nam Cao, Luận văn thạc sĩ ĐHSP. TPHCM.
144. Nguyễn Tuân (2002), Vang bóng một thời, Nxb Văn học.
145. Nguyễn Tuân (1998), Tùy bút viết trước 1945, Nxb Hải Phòng.
146. Nguyễn Tuân (2005), Thiếu quê hương, Nxb Văn học.
147. Lê Thị Dục Tú (2003), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự Lực văn
đoàn, Nxb Thanh niên.
148. Xuân Tùng (2000, sưu tầm), Thạch Lam và văn chương, Nxb Hải Phòng.
149. Nguyễn Huy Tưởng (1996), Sống mãi với thủ đô, Toàn tập (tập 4), Nxb Văn học.
150. Nguyễn Huy Tưởng (1997), Vũ Như Tô (Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX),
Nxb Sân khấu.
151. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
152. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX
(1900 – 1945), Nxb Đại học quốc gia TP.HCM.
153. Trần Đăng Xuyền (1998), “Nam Cao – nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo
chủ nghĩa lớn”, Tạp chí Văn học, số 6.
154. Trần Đăng Xuyền (2002), “Cá tính sáng tạo và đặc điểm tiểu thuyết hiện thực của
Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn học, số 10.
155. Trần Đăng Xuyền (2002), Nhà văn hiện thực - Đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb
Văn học, Hà Nội.
156. Phạm Hoàng Yến (1996), “Truyện ngắn Nam Cao với phương thức cấu trúc theo
số phận nhân vật”, Tạp chí Trung học phổ thông – Khoa học xã hội, số 18.
157. Peter Zinoman (2002), “Số đỏ của Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa hiện đại Việt
Nam”, Tạp chí văn học, số 6.
158. Trần Đình Vân (1965), Sống như anh, Nxb Văn học.
159. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Văn
nghệ TP.HCM.
160. Nguyễn Khắc Viện (1993), “Con đường trở thành “kẻ sĩ hiện đại””, Bàn về đạo
Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội.
161. Một số vấn đề về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy ngữ văn ở trường
THPT, Tài liệu lưu hành nội bộ, 2007.
162. Nhiều tác giả (1989), Nguyễn Huy Thiệp – Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông
Hương – Nxb Trẻ TP.HCM.
163. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học, Nxb Thế giới mới.
164. Nhiều tác giả (2002), Nhìn lại một thế kỉ văn học, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
165. Nhiều tác giả (1995), Hồi ức binh nhì, Truyện ngắn chọn lọc 1992 – 1994, Nxb
Văn học.
166. Nhiều tác giả (1994), Bến trần gian (Tập truyện ngắn chọn lọc cuộc thi tạp chí
Văn nghệ Quân đội 1992 – 1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
167. Nhiều tác giả (2001), Văn học Việt Nam 1930 – 1945 (tái bản lần 5), Nxb Giáo
dục, Hà Nội.