ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------- LÊ THANH HẢI PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức
HÀ NỘI-2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------- LÊ THANH HẢI
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI-2010
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, Thạch Lam
chỉ hiện diện chừng non mười năm, nhưng ông vẫn được xem là tác giả văn
xuôi có tầm vóc. Những sáng tác của ông khá đa dạng về thể loại: Các tập
truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa” (1937); Nắng trong vườn (1938); Sợi tóc
(1942); tiểu thuyết Ngày mới (1939); tiểu luận Theo dòng (1941); bút ký Hà
Nội băm sáu phố phường (1943); truyện viết cho thiếu nhi : Quyển sách; Hạt
ngọc…Trong số đó truyện ngắn chiếm một vị trí quan trọng. Những sáng tác
của ông không chỉ có khẳng định sự nghiệp văn học của một nhà văn mà nó
còn có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển của lịch sử văn học nói chung và
thể loại truyện ngắn nói riêng.
Nhà văn Thạch Lam có một phong cách riêng “một lối riêng” trong Tự lực
văn đoàn. Ông cũng là cây bút truyện ngắn hiện đại mà sự độc đáo của phong
cách đến nay vẫn đầy sức hấp dẫn. Phong cách độc đáo thể hiện qua nhiều yếu
tố từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Nghiên cứu phong cách nghệ thuật
truyện ngắn Thạch Lam chúng tôi muốn góp phần tìm ra cái riêng, cái độc
đáo trong phong cách nghệ thuật của nhà văn và những đóng góp của nhà văn
trong văn học Việt Nam 1930-1945.Từ đó có cơ sở để lí giải những đóng góp
có giá trị và sức sống của văn nghiệp Thạch Lam cùng vị trí xứng đáng của
ông trong nền văn học dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Thạch Lam là nhà văn “có tài nhất trong Tự lực văn đoàn” (Nhất Linh).
Ngay khi tập truyện đầu tay của ông ra đời, giới nghiên cứu phê bình đã quan
tâm chú ý. Tính đến nay đã hơn sáu mươi năm trôi qua, quá trình nghiên cứu
tìm hiểu văn chương Thạch Lam có lúc rầm rộ sôi nổi, có lúc yên ả lặng lẽ.
Các ý kiến đánh giá không khỏi khác nhau, nhưng nhìn chung là thống nhất.
1
2.1 Trước năm 1945
Ngay khi tập truyện đầu tay “ Gió lạnh đầu mùa” ra đời, Khái Hưng đã
đánh giá rất cao văn phong của Thạch Lam. Với khả năng cảm nhận tinh tế
chính xác, Khái Hưng đã chỉ ra các đặc điểm nổi bật nhất, hơn người của
Thạch Lam là sự thành thực “Đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng
rợn cả tâm hồn vì sự can đảm”, sự thành thực mà Khái Hưng từng ao ước
“nhưng không sao có được”. Ông đánh giá sự can đảm ấy tương đương với sự
can đảm ở Tolstôi. Khái Hưng là người đầu tiên nhận ra nhà văn Thạch Lam
là nhà văn của cảm giác, tư duy nghệ thuật của Thạch Lam là tư duy nghiêng
về cảm giác: “Nếu ta có thể chia ra hai dạng nhà văn: nhà văn thiên về tư
tưởng và nhà văn thiên về cảm giác, thì tôi qủa quyết đặt Thạch Lam vào
hạng dưới”.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã có công khảo sát và phân tích
một cách công phu dọc theo chiều dài sáng tác và phát hiện những nét đặc sắc
cơ bản của Thạch Lam. Ông vừa nhấn mạnh vào những phát hiện của Khái
Hưng vừa chỉ ra cụ thể hơn.Theo nhà nghiên cứu, Thạch lam có sở trường là
truyện ngắn. Ông “có một ngòi bút lặng lẽ và điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút đó
chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp, những tình cảm, những cảm giác
con con nảy nở và biểu lộ ở đủ các hạng người mà ông tả một cách tinh vi”.
Từ Gió đầu mùa đến Sợi tóc, Thạch Lam đã có một bước tiến dài về nghệ
thuật miêu tả cảm giác, nghệ thuật viết truyện ngắn. Ông nhấn mạnh “ngòi bút
Thạch Lam ghi cảm giác rất tài tình”, “cảm giác chiếm hẳn một phần quan
trọng”; “cảm giác rất nhỏ mà ảnh hưởng của nó đã rất lớn”. Nhà nghiên cứu
cũng đưa ra những nhận xét về nghệ thuật viết văn của Thạch Lam, “cái lối
viết nhẹ nhàng, kín đáo và xinh tươi trên này thật là một lối văn đặc biệt của
Thạch Lam, lối văn rất hợp với những truyện tâm tình”. Tuy nhiên ông cũng
2
tỏ ra thiếu công bằng khi chê một số truyện là “tầm thường”, “đơn giản”,
“nhạt nhẽo và rời rạc” như Nắng trong vườn, Hai đứa trẻ, Đứa con đầu
lòng, Dưới bóng hoàng lan, Bên kia sông, Người đầm, Bóng người xưa
Nhân ngày giỗ đầu của nhà văn Thạch Lam, Thế Lữ, người bạn tâm giao
của ông đã viết rất hay về “Tính cách tạo tác của Thạch Lam”. Bên cạnh
những hoài niệm về cố nhà văn, Thế Lữ khẳng định: “Không một sáng tác nào
của Thạch Lam mà không có rất nhiều Thạch Lam trong đó”; “Thạch Lam
sống hết cả từng ý văn, từng câu văn anh viết trên giấy”. Cuối cùng ông kết
luận: “Sự thực tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong lời của văn chương phức
tạp nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào
một chút lệ thầm kín của tình thương”. Như vậy theo Thế Lữ, ở Thạch Lam,
văn chính là người.
Nhìn chung trước năm 1945 những bài viết về Thạch Lam đều là những
lời tri âm, những cảm nhận tinh tế. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho
rằng Thạch Lam có một phong cách riêng trong Tự lực văn đoàn.
2.2 Từ 1945 đến năm 1986.
Sau năm 1975, những bài nghiên cứu về Thạch Lam không có nhiều.
Trong đó đáng chú ý nhất là ý kiến của Nguyễn Tuân trong bài giới thiệu
riêng về Thạch lam. Nhà văn nổi tiếng và tài hoa này đã giành cho Thạch Lam
những lời thật trân trọng. Ông rất khâm phục nghệ thuật viết truyện của Thạch
Lam. Ông cho rằng “ Thạch Lam hay đi vào khám phá những cảnh ngộ trái
nghịch mà đồng thời cũng là đi sâu vào những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc,
cảm giác”. Nhà văn đánh giá cao cách bố cục, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ
cách tả người tả việc …Ông chỉ ra một số truyện không nặng về cốt truyện mà
“nặng về biểu hiện mặt bên trong của suy nghĩ hơn là diễn tả cái bên
ngoài”.Và “ Bằng sáng tác văn học Thạch Lam đã làm cho Tiếng Việt gọn ghẽ
đi, co duỗi thêm, mềm mại và tươi đậm hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào
3
tiếng ta”. Theo Nguyễn Tuân, đây là công lao lớn nhất của Thạch Lam đối với
nền văn xuôi nước nhà. So với Vũ Ngọc Phan, ông đã có bước tiến đáng kể
khi nhìn lại và nhìn đúng giá trị văn chương ở một số truyện thuộc loại
“truyện không có chuyện”, đã bị nhà nghiên cứu chê là tầm thường nhạt nhẽo
như Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan. Tuy vậy, đôi chỗ ông cũng hơi khiên
cưỡng, cực đoan khi đánh giá những truyện như Nhà mẹ Lê, Người đầm…
Trong hai thập kỷ sáu mươi và bảy mươi, việc nghiên cứu Thạch Lam rơi
vào im lặng dè dặt. Ở miền Bắc, trong khi Tự lực văn đoàn hầu như không
được nhắc đến, có một số tác giả như Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn, Lê Thị
Đức Hạnh, Hà Minh Đức…đã có một vài bài báo đăng trên các báo và các tạp
chí chuyện ngành. Phần lớn các ý kiến chỉ dừng lại ở việc đánh giá tư tưởng,
lập trường quan điểm của nhà văn mà ít chú ý đến nghệ thuật viết văn của ông
.Tuy vậy những sáng tác của Thạch Lam vẫn được xem xét với thái độ trân
trọng (mặc dù dè dặt), thậm chí ông được xem là hiện tượng rất đặc biệt, tách
ra khỏi Tự lực văn đoàn. Nhìn chung những ý kiến đánh giá ở giai đoạn này
không có phát hiện gì mới đóng góp vào việc nghiên cứu Thạch Lam và văn
nghiệp của ông.
Ở miền Nam, trong thời gian này, giới sáng tác phê bình văn học đã đưa
ra hai tạp chí chuyên về Thạch Lam: Nguyệt san Văn số 36 (ra ngày
15.6.1965) và tạp chí Giao điểm (số ra 12.12.1971). Phần lớn bài viết ở hai
tạp chí này là những hồi kí của bạn bè và người thân viết về Thạch Lam, song
cũng có bài đi sâu vào tìm hiểu những nét đặc sắc của văn chương Thạch
Lam. Có thể kể tới các bài viết như: Thời của Thạch Lam của Dương
Nghiêm Mậu; Thạch Lam: những lời thủ thỉ của truyện ngắn của Đào
Trường Phúc; Hương thơm và nỗi u hoài của Nguyễn Nhật Duật; Thạch
Lam tiểu thuyết gia của Huỳnh Phan Anh… Đây là những bài viết đã đi thẳng
vào văn bản để tìm kiếm những nét đặc sắc, độc đáo của tác phẩm Thạch Lam,
4
nhờ vậy mà không ít những nhận xét đều có tính thuyết phục. Tuy nhiên
những bài viết này chỉ mang tính phát hiện, gợi mở một số nét độc đáo về
phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Chúng chưa có tầm vóc như một công
trình nghiên cứu thực sự.
Trong suốt hơn 40 năm giới phê bình, nghiên cứu vẫn chưa có một
chuyên luận hay một tiểu luận nào thực sự đi sâu vào xem xét, nghiên cứu về
Thạch Lam một cách đầy đủ.
2.3 Từ những năm 1986 đến nay.
Bắt đầu những năm tám mươi, hoà chung không khí đổi mới của văn học,
việc đánh giá về vai trò và vị trí của Tự lực văn đoàn và việc nghiên cứu
Thạch Lam dần trở lại sôi nổi.
Trong lời giới thiệu về Gió đầu mùa (Từ điển văn học, Tập I; 1988),
Nguyễn Phương Chi và Nguyễn Hụê Chi đã phát hiện ra những hai yếu tố
hiện thực và thi vị “đan cài xen kẽ với nhau” trong truyện ngắn Thạch Lam.
Thạch Lam “thuộc số những nhà văn có khả năng đi sâu khai thác thế giới nội
tâm nhân vật một cách tinh tế và phát hiện được trong những cái bình thường
những điều sâu xa thầm kín”. Gió đầu mùa là tập truyện ngắn đầu tiên song
cũng là tập truyện ngắn bộc lộ rõ phong cách già dặn và điêu luyện của Thạch
Lam. Cũng trong tập truyện ngắn này thì chúng ta có thể thấy một Thạch Lam
với phong cách nhẹ nhàng, rất riêng so với các nhà văn trong Tự lực văn đoàn.
Nguyễn Hoàng Khung trong mục Thạch Lam (Từ điển văn học. Tập II,
1988) đã khẳng định thêm một lần nữa khuynh hướng đi vào thế giới bên
trong của Thạch Lam. Tác giả cũng cho rằng: “Văn của ông giản dị, trong
sáng nhiều khi nhẹ mà sâu sắc thâm trầm. Dường như ông là người đầu tiên
biết khai thác chất thơ trong đời sống hàng ngày”. Về mặt phong cách nghệ
thuật nhà nghiên cứu nhận xét “ Truyện của Thạch Lam xa lạ với mọi thứ hấp
5
dẫn bề ngoài, nhiều truyện dường như không có cốt truyện, song vãn có sức
lôi cuốn riêng” [10. tr 347]
Trong Tuyển tập Thạch Lam(1988), Phong Lê viết lời giới thiệu khá dày
dặn. Đặt Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn, nhà nghiên cứu đã xem xét truyện
ngắn Thạch Lam “ở giá trị hiện thực trên một số cảnh đời, ở tình thương và
lòng trân trọng người nghèo, ở ý vị và màu sắc dân tộc, mà Thạch Lam không
nặng vì những chữ dùng to tát, hoặc những cấu trúc gáp gáp, vội vàng. Câu
chữ chỉ cần đủ cho phô diễn, và ôm sát những cảnh ngộ, những tâm trạng cần
phô diễn”. Câu văn của Thạch Lam “mềm mại, uyển chuyển, giàu hình ảnh,
nhạc điệu mà không mất đi vẻ giản dị, tinh gọn, không thừa thãi lời, chữ,
không làm duyên dáng một cách uốn éo, cầu kỳ”. Tóm lại, Phong Lê đã khẳng
định Thạch Lam có “ những đóng góp cho câu văn xuôi Tiếng Việt giữ được
vẻ đẹp riêng tươi đậm và lâu bền của nó” [17. tr 28]
Tác giả Nguyễn Hoàng Khung trong Lời giới thiệu văn xuôi lãng mạn
Việt nam 1930-1945 (1989) tiếp tục đưa ra những nhận xét xác đáng về nghệ
thuật, về phong cách giàu chất nhân bản, chất thơ của truyện ngắn Thạch Lam.
Theo ông “nhiều truyện ngắn Thạch Lam không có truyện mà man mác như
một bài thơ”; “ngòi bút giản dị tinh tế lạ thường, ngôn ngữ đặc biệt trong
sáng đầy chất thơ…”… Thạch Lam đã góp phần nâng cao trình độ truyện
ngắn Việt Nam lên một bước mới.
Trong luận án PTS của Trần Ngọc Dung (1992) với đề tài “Ba phong
cách văn học Việt Nam thời kỳ đầu những năm 1930 đến 1945: Nguyễn
Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao” cho rằng: Thạch Lam đã xây dựng
những tình huống trữ tình với nhiều cách thức khác nhau; kết câu truyện “nói
chung đơn giản”. “kết cấu dựa theo tính chất và diễn biến tâm trạng của nhân
vật”. Thạch Lam có “giọng điệu trần thuật nhỏ nhẹ, dịu dàng, chậm rãi.”.
6
“Truyện của Thạch Lam là tiếng nói trữ tình, chủ yếu diễn tả những tình cảm,
cảm xúc tinh vi, tế nhị của con người”
Các tác giả cuốn Tác giả văn học Việt Nam tập II (1993) cho rằng “ Phần
lớn truyện của Thạch Lam thuộc loại truyện không có chuyện. Mỗi truyện là
một tâm tình, một tâm trạng, nghĩa là một bài thơ trữ tình” [24.tr 118]
Năm 1995, kỉ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm năm mươi năm ngày mất
của Thạch Lam do Viện Văn học tổ chức được xuất bản với tên gọi Thạch
Lam văn chương và cái đẹp. Với hơn ba mươi bài viết của nhiều nhà nghiên
cứu có uy tín, truyện ngắn Thạch Lam được tiếp cận từ “một cái nhìn xã hội
và con người”, “văn chương và cái đẹp”, từ “thi pháp và thể loại”.
Năm 2001, cuốn Thạch Lam về tác gia và tác phẩm do hai tác giả Vũ
Tuấn Anh và Lê Dục Tú đã tuyển chọn, giới thiệu và tập hợp phần lớn các bài
nghiên cứu về Thạch Lam từ cuối những năm 1930 đến nay, cung cấp những
tài liệu cần thiết về cuộc đời và sự nghiệp của Thạch Lam. Sự xuất hiện của
tác phẩm đã chứng tỏ việc nghiên cứu Thạch Lam và những sáng tác của ông
đã có một bước tiến dài, và Thạch Lam đã được xếp vào hàng những nhà văn
lớn trong tiến trình của nền văn học Việt Nam.
Trong những năm gần đây, vận dụng lí thuyết về thi pháp học, nhiều luận
án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đã có những khám phá về những sáng tác của
Thạch Lam ở mọi phương diện. Luận án tiến sĩ của Phạm Thị Thu Hương
(1995) khẳng định ngôn ngữ của Thạch Lam tập trung diễn tả tâm trạng cảm
giác trên nhiều cấp độ. Thuộc thể loại truyện ngắn trữ tình, nên truyện của ông
có cách miêu tả hoà hợp giữa nội tâm và ngoại cảnh và kết cấu theo dòng tâm
trạng nhân vật. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thành Thi (2000) nghiên cứu khá
sâu sắc về phong cách văn xuôi nghệ thuật của Thạch Lam. Theo tác giả
những yếu tố như cốt truyện, kết cấu, tình huống, được nhà văn sáng tạo để
khắc họa nhân vật. Ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật của Thạch Lam là “ Ngôn
7
ngữ của đời sống và của tâm hồn. Nét nổi bật ở đây là tính hiện đại và sức tập
trung gợi tả cảm giác”
Luận văn thạc sĩ phải kể đến: Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, của
Nguyễn Bích Thảo; Thạch Lam từ quan niệm nghệ thuật đến sáng tác của
Nguyễn Thị Thuý; Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam của
Vũ Thị Mỹ Hạnh; Hình tựơng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Thạch
Lam của Hà Thuý Nga, Phong cách nghệ thuật Thạch Lam của Võ Thị
Hồng Thu, Quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam của Đào Thị Yến…Nhìn
chung các luận văn trên khác nhau về góc nhìn, quy mô nghiên cứu, nhưng
trực tiếp hay gián tiếp đều góp một tiếng nói có ý nghĩa cho việc nghiên cứu
phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam.
Bên cạnh đó trong những năm qua các trường Đại học tổng hợp, trường
Đại học sư phạm trong cả nước đã có nhiều giáo trình nghiên cứu, giảng dạy
cho sinh viên khoa văn.
Tóm lại việc xem xét kết quả nghiên cứu trong hơn sáu mươi năm “tìm
kiếm Thạch Lam” có thể rút ra những ý kiến đã được thống nhất như sau:
Nhà văn Thạch Lam đứng giữa ranh giới văn học hiện thực và văn học
lãng mạn. Ông có sở trường về truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn trữ tình và
có khả năng diễn tả những cảm xúc kỳ diệu trong tâm hồn con người.
Truyện ngắn của Thạch Lam ít hành động, vài trò của tất cả các yếu tố,
ngôn ngữ, cốt truyện, kết cấu, lời văn, giọng điệu, hệ thống nhân vật đã góp
phần làm nên một Thạch Lam rất riêng, đặc sắc so với Tự lực văn đoàn.
Tuy nhiên những ý kiến đó mới chỉ dừng lại ở việc nhận xét về các đặc
điểm nghệ thuật có ý nghĩa góp phần làm đầy đặn thêm nội dung. Đồng thời
cũng chưa có một đề tài nào đi sâu vào nghiên cứu phong cách nghệ thuật
truyện ngắn của Thạch Lam một cách sâu sắc và cụ thể. Chính vì vậy mà
trong luận văn này chúng tôi sẽ kế thừa và phát huy những nghiên cứu của
8
những người đi trước, đồng thời cũng tránh sự trùng lặp trong nghiên cứu
chúng tôi đã chọn đề tài : Phong cách nghệ thuật truỵên ngắn Thạch Lam,
để góp thêm một tiếng nói khiêm nhường bổ sung vào chỗ khiếm khuyết đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn này chúng tôi đặt ra những mục đích sau:
-Khảo sát toàn bộ những bài tiểu luận phê bình về Thạch Lam, để thấy được
vị trí vai trò của nhà văn trong Tự lực văn đoàn. Khảo sát toàn bộ truyện ngắn
của Thạch Lam để nghiên cứu, tìm ra những nét đặc sắc về phong cách nghệ
thuật của nhà văn. Từ đó cũng hiểu được quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà
văn, thấy được nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật qua những tác phẩm
của ông. Mặt khác luận văn cũng lí giải cho sự thành công, và sức sống của
văn nghiệp Thạch Lam cùng vị trí của ông trong tiến trình văn học Việt Nam.
-So sánh đối chiếu phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam với
phong cách nghệ thuật của các nhà văn đương thời để thấy được nét riêng biệt
trong phong cách của ông - một nhà văn với phong cách nhẹ nhàng mà thấm
đượm tình người.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu.
-Lý thuyết về phong cách nghệ thuật .
-Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam
-Khảo sát những tác phẩm truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam để thấy
được nét riêng biệt ,đặc sắc trong phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch
Lam
4.2 phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp loại hình
Phương pháp nghiên từ góc nhìn thi pháp học
Phương pháp phân tích tổng hợp
9
Phương pháp so sách đối chiếu , đây là phương pháp quan trọng nhằm
xử lí kết quả thống kê, phân loại, đi đến nhận xét đánh giá đối chiếu phong
cách nghệ thuật của Thạch Lam với các nhà văn đương thời.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 4 chương.
Chương 1 : Phong cách nghệ thuật và hành trình sáng tác của Thạch
Lam
Chương 2 : Những kiểu nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam
Chương 3 : Không gian -thời gian nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam
Chương 4 : Ngôn ngữ và giọng điệu trong tác phẩm truyện ngắn Thạch
Lam.
10
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA
THẠCH LAM
1. 1 Khái niệm phong cách nghệ thuật nhà văn
Mặc dù xuất hiện từ rất sớm nhưng đến nay, phong cách vẫn là một khái
niệm rộng và đa nghĩa. Hiện nay đang tồn tại một số lượng rất lớn định nghĩa
khác nhau về phong cách, mỗi một định nghĩa đều đem đến cho người nghiên
cứu những cách tiếp cận khác nhau.
Trong khoa nghiên cứu văn học, người ta thường dùng thuật ngữ phong
cách để xác định đặc trưng phẩm chất của các hiện tượng: tác phẩm văn học,
nhà văn, trào lưu hay trường phái văn học. Nhiều nhất là khái niệm phong
cách nghệ thuật nhà văn. Có những nhà nghiên cứu văn học tiếp cận phong
cách học từ phía ngôn ngữ học,có người lại đưa vào phong cách cả tư tưởng,
đề tài, tính cách và ngôn ngữ hay cũng có người xem, phong cách là sự thống
nhất hữu cơ của tất cả các thành tố tạo nên tác phẩm văn học.
Việc nghiên cứu phong cách nhà văn là một trong những vấn đề lí luận đã
và đang gây nhiều tranh cãi, không chỉ ở Liên Xô cũ mà còn ở nhiều nước
khác trên thế giới. Có thể kể ra một số những nhà nghiên cứu đã trở nên quen
thuộc với độc giả Việt Nam như: Khrachenko M.V; Tritrerin A.V; Timôphêep
L.I; Paxpelop G.N; Xôlôkhốp A.N…ở Việt Nam, cũng có một số nhà nghiên
cứu bàn sâu về vấn đề phong cách như: Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Đình Ky,
Phan Cự Đệ, Phan Ngọc…với nhiều công trình nghiên cứu có giá trị.
Trong thời kỳ hiện đại, dưới quan điểm của các nhà nghiên cứu văn
học, phong cách được xem như một phạm trù thẩm mỹ, một hiện tượng văn
học nghệ thuật, bao gồm trong đó tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó. Phong
cách giờ đây được nghiên cứu trong mối quan hệ với tư tưởng, với nhà văn,
11
với thời đại hay “giữa quá trình phong cách và truyền thống phong cách” giữa
“phong cách, phương pháp, cuộc sống” hay giữa “cốt truyện và phong
cách”… Phổ biến nhất, phong cách được hiểu theo 2 cách : thứ nhất, phong
cách là tính cá thể hoặc tính độc đáo; thứ hai phong cách là hệ thống các
phương tiện biểu đạt, là hình thức nghệ thuật được xem xét trong quy luật và
các nguyên tắc hài hoà. Qua các tài liệu bàn về lí thuyết phong cách, chúng
tôi thấy nổi bật lên ba vấn đề sau đây:
1 .1 Phong cách nghệ thuật nhà văn ;là sự thống nhất các đặc tính vốn có của
tất cả các tác phẩm của nhà văn đó. Trong thực tế cho thấy, phong cách vừa
có mặt thống nhất, vừa có mặt đa dạng. Phong cách là một cái gì đó rất chung
mà không trừu tượng, có thể thâu tóm tất cả nhưng lại là hình ảnh sinh động
của nhà văn, là thần thái là linh hồn của tác phẩm nhưng cũng là tâm trạng,
cách nhìn, giọng điệu, nụ cười quen thuộc của người nghệ sĩ. Cho nên, xác
định phong cách nếu chỉ sa vào phân tích những chi tiết, những yếu tố riêng rẽ
thì không hình dung được phong cách. Ngược lại, nếu tìm hiểu phong cách mà
chỉ tập trung vào một vài nét thống nhất nào đó thì cuối cùng không nói được
một điều gì về phong cách.
Vì vậy, nói đến phong cách trước hết phải nói đến tính thống nhất của nó
như một chỉnh thể nghệ thuật. Ở một nhà văn lớn, sự thống nhất về phong
cách được thấy rõ ở hàng loạt các tác phẩm. Điều đó có nghĩa là, chúng ta có
thể nhận ra phong cách của nhà văn khi đã biết từ trước qua các tác phẩm khác
của ông ta. Phong cách là sự thống nhất cuối cùng các yếu tố trong tác phẩm
từ đề tài, chủ đề, kết cấu, hình tượng, giọng điệu…
1 .2 Phong cách là khái niệm bao gồm cả hình thức nội dung và nghệ thuật.
Nói phong cách là nói phẩm chất thẩm mỹ của tác phẩm văn học, nói tới
những sáng tạo độc đáo của nhà văn theo quy luật cái đẹp trong đó có mang
dấu ấn dân tộc và thời đại. Bởi vậy phong cách trước hết thể hiện ở hình thức
12
nghệ thuật. Nhưng nếu như không nắm được tính độc đáo của nhà văn và tác
phẩm nghệ thuật thì cũng khó quan niệm được phong cách một cách sâu sắc.
Nhà văn Nguyễn Đăng Mạnh đã nói “Không tìm ra cơ sở tư tưởng của phong
cách thì không phát hiện ra quy luật nghệ thuật và tính thống nhất bên trong
của phong cách”[21, tr.76 ].
Phong cách có thể nói rõ hơn ở nội dung tư tưởng hoặc đậm nét hơn ở
hình thức nghệ thuật. Tuy nhiên, trên cơ sở thống nhất biện chứng giữa nội
dung và hình thức, một phong cách thiên về nội dung vẫn có liên quan đến
hình thức nghệ thuật và một phong cách thiên về hình thức vẫn có gốc rễ ở nội
dung. Như vậy khi nói đến phong cách phải nói đến sự thống nhất giữa hình
thức và nội dung, tư tưởng và nghệ thuật “Phong cách liên hệ hình thức với
nội dung, cái biểu đạt với cái được biểu đạt. Phòng cách là chất liệu nghệ
thuật trong đó được thể hiện tư tưởng của người nghệ sĩ. Chính ở đây bộ lộ sự
phụ thuộc của phong cách vào tư duy hình tượng, thế giới quan”(Xôkôlốp
A.N). Như vậy phong cách nghệ thuật biểu hiện cả trong nội dung và hình
thức, tạo được một chỉnh thể hoàn chỉnh và bền vững, thể hiện được cả tính
sáng tạo của nhà văn.
1 .3 Phong cách nghệ thuật tập trung trong những đặc điểm mang giá trị
phẩm chất nghệ thuật cao, được kết tinh trong sự sáng tạo của nhà văn. Nói
đến phong cách là nói đến tính độc đáo của phẩm chất thẩm mĩ - nghĩa là phải
đem lại cho người đọc một sự hưởng thụ thẩm mĩ khiến cho họ tìm thấy sự
khác biệt giữa tài năng này với tài năng khác. Đó là một sự khó khăn đối với
quá trình sáng tạo của nhà văn. Chính vì thế không phải nhà văn nào cũng có
phong cách, mặc dù xét cho cùng, nhà văn nào cũng có đặc điểm riêng. Đặc
điểm mờ nhạt thì chưa thể có ý nghĩa gì với nghệ thuật phải là chỗ độc đáo
không thể thay thể được mới làm nên phong cách của nhà văn. Chỉ cần có sự
lặp đi lặp lại trong sáng tác nghệ thuật đã được gọi là đặc điểm, nhưng phong
13
cách phải lặp đi lặp lại một cách đổi mới, phải là những sáng tạo có giá trị
bền vững, không bị phai mờ.
Mỗi một nhà văn đều có ít nhiều những đặc điểm riêng trong sáng tác,
nhưng những đặc điểm ấy phải phát triển đến một trình độ nghệ thuật nào đó
và hợp thành một chỉnh thể thống nhất, độc đáo và bền vững thì mới trở thành
phong cách. Cho nên, quá trình khẳng định phong cách của một nhà văn là
quá trình tu dưỡng nghệ thuật, quá trình nhà văn tự tìm hiểu chỗ mạnh, chỗ
yếu và bản sắc của mình. Có thể nói, phong cách là dấu hiệu trưởng thành của
một nhà văn, hơn thế nữa nó phát triển nở rộ thì đó là bằng chứng của một nền
văn học đang phát triển và trưởng thành.
Phong cách nghệ thuật độc đáo giúp cho sáng tác của người nghệ sĩ có
được bản sắc riêng. Chính cái mới lạ cái độc đáo trong phong cách nghệ thuật
giúp cho tác phẩm văn chương lay động được lòng người, tạo cho bạn đọc
hứng thú khi đọc tác phẩm. Phong cách nghệ thuật riêng độc đáo cũng là yếu
tố mới lạ kích thích bạn đọc, như cái duyên để họ bị cuốn hút bởi giọng văn,
một bút pháp, hay bị ám ảnh bởi hình tượng nghệ thuật nào đó, để rồi cái
giọng văn, hình tượng nghệ thuật đó sống mãi trong tâm hồn người đọc.
Tóm lại xung quanh khái niệm phong cách nghệ thuật nhà văn, có nhiều
vấn đề đang cần phải bàn luận. Tuy nhiên để có một khái niệm thích đáng cho
việc giải quyết vấn đề của luận văn, chúng tôi xác định nội hàm khái niệm
phong cách nghệ thuật như sau:
-Nói đến phong cách nghệ thuật của nhà văn, trước hết phải nói đến tính
thống nhất của nó được bộc lộ ở hàng loạt các tác phẩm và thể hiện ở mọi
bình diện, từ đề tài, chủ đề, kết cấu, hình tượng, giọng văn, ngôn ngữ và mọi
chi tiết khác của tác phẩm.
-Nói phong cách là nói phẩm chất thẩm mĩ của tác phẩm văn học, nói tới
những sáng tạo độc đáo của nhà văn theo quy luật của cái đẹp, điều đó được
14
lặp đi lặp lại một cách có hệ thống, tạo được một chỉnh thể hoàn chỉnh và
bền vững, thể hiện được cá tính sáng tạo của nhà văn.
- Phong cách trước hết thể hiện ở hình thức nghệ thuật của tác phẩm, nhưng
nếu không nắm được tính độc đáo của tư tưởng nhà văn và tác phẩm, ở đây
là tư tưởng - nghệ thuật thì cũng không quan niệm phong cách được một
cách sâu sắc. Như vậy phong cách là khái niệm bao gồm cả nội dung lẫn
hình thức nghệ thuật, tuy nhiên, phong cách thể hiện một cách cụ thể nhất,
rõ rệt nhất ở hình thức nghệ thuật.
1.2 Khái niệm truyện ngắn.
Với khái niệm Truyện ngắn, việc xác lập lại một khái niệm cũng là vấn
đề không dễ “Thật ra thì cho đến bây giờ cũng chưa có ai tìm ra được một
khái niệm thật chuẩn về tiểu thuyết hay truyện ngắn” [46, tr. 20 ], bởi truyện
ngắn cũng như tiểu thuyết luôn biến chuyển.
Truyện ngắn có nguồn gốc tiếng Italia, novella có nghĩa đầu tiên là “cái
tin”, “một chuyện mới lạ” (Tiếng Pháp; Nouvelle, tiếng Anh short story,
tiếng Trung Quốc; Đoản thiên tiểu thuyết). Trước đến nay có rất nhiều cách
định nghĩa khác nhau về thể loại truyện ngắn ở khắp các châu lục. Nhà thơ
Đức, Gớt, xác định Novella là “là một câu chuyện lạ đang xảy ra làm ta
kinh ngạc” [35 tr,11 ]. Nhà văn K. Pauxtôpxki (Nga) cho rằng: “Thực chất
truyện ngắn là gi? Tôi nghĩ truyện ngắn là một truyện ngắn gọn trong đó
cái không bình thường hiện ra như một cái gì đó bình thường” [35 ,tr16]. D.
Grônôpxki trong sách Đọc truyện ngắn viết “Truyện ngắn là một thể loại
muôn hình, muôn vẻ, biến đổi không cùng. Nó là một vật biến hoá như quả
chanh của Lọ Lem. Biến hoá về kiểu loại: tình cảm, trào phúng, kỳ ảo,
hướng về biến cố thật hay tưởng tượng, hiên thực hoặc phóng túng. Biến
hoá về nội dung: thay đổi vô cùng tận…Trong thế giới của truyện ngắn, cái
15
gì cũng thành biến cố, thậm chí sự thiếu vắng tình tiết, diện biến cũng gây
hiệu quả, vì nó làm cho sự chờ đợi bị hẫng hụt” [35 , tr.12 ].
Như vậy qua các tài liệu hiện hành và ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu,
phê bình và các nhà văn chúng tôi thấy truyện ngắn là một khái niệm rất khó
xác định cả về phương diện nội dung và hình thức. Lí luận về truyện ngắn
trở nên phong phú hơn nhờ ý kiến, kinh nghiệm của các nhà sáng tác từ
những Sêkhốp, Môom Môham, E.Hêminuê, An-tô-nôp.. ở nước ngoài, đến
những Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc,
Nguyễn Kiên… ở nước ta.
Tuy nhiên, qua các tài liệu viết về truyện ngắn mà chúng tôi tiếp cận
được, chúng tôi thấy ý kiến của các nhà lí luận nhất là ý kiến của các nhà
sáng tác quả là có nhiều điểm không thống nhất, đặc biệt khi so sánh truyện
ngắn và tiểu thuyết về tính chất (chứ không phải độ ngắn dài)-một vấn đề
then chốt để xác định thể loại truyện ngắn. Chẳng hạn nhiều ý kiến cho
rằng, so với tiểu thuyết, truyện ngắn thường đề cập đến những vấn đề có
tính thời sự nóng hổi và thuộc về vấn đề đời sống hàng ngày của con người,
nội dung truyện ngắn đơn giản hơn, thường chỉ có một chủ đề, ít nhân vật
hơn, cốt truyện ít phức tạp, thường chỉ là một lát cắt, một khúc, hay một
khoảnh khắc nào đó của cuộc đời nhân vật…
Mặc dù chưa đi đến thống nhất về định nghĩa nhưng phần lớn các nhà
văn và các nhà nghiên cứu đều đồng ý cho rằng, truyện ngắn là một hình
thức tự sự cỡ nhỏ, tập trung mô tả một mảnh cuộc sống, một vài biến cố
trong đời sống nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật,
một khía cạnh nào đó của xã hội. Truyện ngắn có tính quy định về dung
lượng, cốt truyện, nghệ thuật xây dựng và khắc họa tính cách nhân vật cũng
như nhiều đặc điểm khác về thời gian, không gian, biến cố, chi tiết nghệ
thuật.
16
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi không có ý
đi tìm một định nghĩa chuẩn về thể loại truyện ngắn cũng như không có
tham vọng xây dựng khung đặc điểm về thể loại văn học này. Như vậy để
khảo sát về truyện ngắn không nhất thiết phải có một định nghĩa về truyện
ngắn tương ứng với mọi trường hợp trong thực tế văn học. Điều quan trọng
là xác định đâu là những bình diện quan trọng nhất xét về thể loại truyện
ngắn mà các phong cách truyện ngắn khác nhau đều bộc lộ những đặc trưng
cơ bản. Những bình diện này, một mặt phải là chung cho các loại truyện
ngắn, hay nó là những “linh kiện” không thể thiếu của cơ chế truyện ngắn,
đồng thời là nơi mà các phong cách truyện ngắn khác thể hiện những sáng
tạo độc đáo nhất.
Do vậy, xuất phát từ việc tìm hiểu phong cách nghệ thuật nhà văn dưới
góc độ thể loại nên chúng tôi tập trung vào những bình diện cơ bản sau của
truyện ngắn để tìm hiểu về phong cách nghệ thuật nhà văn:
-Khuynh hướng tư tưởng nghệ thuật: cảm quan về thế giới và con người
-Sự sáng tạo tình huống truyện
-Kết thúc truyện, cách mở đầu, kết thúc
-Nhân vật truyện
-Nghệ thuật trần thuật
-Ngôn ngữ
Mặc dù 6 bình diện trên đây chưa bao quát được đầy đủ các vấn đề của
phong cách truyện ngắn, nhưng đó là 6 bình diện cơ bản nhất, mà trong
khuôn khổ của luận văn, cần xác định và tìm hiểu. Bên cạch đó không phải
một phong cách nhà văn nào cũng có những sáng tạo độc đáo ở cả 6 bình
diện trên. Chính vì vậy mà trong giới hạn của đề tài sẽ đi phân tích bám vào
các bình diện của phong cách nghệ thuật truyện ngắn, dựa vào đặc điểm của
mỗi tác phẩm, trong những giai đoạn sáng tác nhất định.
17
1. 3. Hành trình sáng tác của nhà văn Thạch Lam.
1. 3.1. Con người và sự nghiệp văn chương của Thạch Lam.
Thạch Lam là nhà văn đã trở nên thân thiết với bao thế hệ bạn đọc, từ
khi ra đời cho đến ngày hôm nay. Mặc dù nhà văn đã qua đời khi tuổi còn rất
trẻ. Ông mắc bệnh lao và mất khi tuổi 32 (1942) cái tuổi mà tài năng đang đến
độ chín và nổ rộ và để lại cho bạn bè niềm thương tiếc về một tài nghệ văn
chương. Dù thời gian cầm bút trong khoảng mười năm nhưng Thạch Lam đã
để lại cho đời những áng văn chương mà cho đến nay vẫn còn sự hấp dẫn với
bạn đọc. Đó là những trang truyện ngắn giàu chất trữ tình, giàu tình yêu
thương, đẹp đẽ và thấm đượm tình người.
Thạch Lam sinh ngày 7/7/1910 tại ấp Thái Hà- Hà Nội. Khi mới sinh đặt
tên là Nguyễn Tường Sáu, đến khi đi học tại trường huyện Cẩm Giàng thì khai
sinh lại là Nguyễn Tường Vinh. Năm mười lăm tuổi vì cần thêm tuổi để thi
vượt cấp ông lại khai sinh lại và lấy tên là Nguyễn Tường Lân và cái tên đó
giữ nguyên cho đến khi nhà văn qua đời. Ngoài bút hiệu Thạch Lam ông còn
một số bút danh khác như Việt Sinh, Thiện Sĩ.
Cha Thạch Lam là cụ Nguyễn Tường Nhu quê ở làng Cẩm Phổ, Hội An
(Quảng Nam). Ông nội Thạch Lam nguyên là tri huyện Cẩm Giàng (Hải
Dương), trong thời gian làm quan đã cùng một người đồng sự trở thành thông
gia. Ông Nguyễn Tường Nhu thành thân với con gái của ông Lê Quang
Thuận là bà Lê Thị Sâm, sinh hạ đựơc bảy anh em và Thạch Lam là con thứ
sáu.
Tuổi thơ Thạch Lam sống ở quê ngoại phố huyện Cẩm Giàng, Hải
Dương. Cả thời thơ ấu của ông gắn liền với phố huyện nhỏ bé này và cũng từ
những kỷ niệm này mà nhà văn đã đưa vào trang văn của mình những truyện
ngắn thành công. Và Cẩm Giàng là quê hương văn học của ông
18
Trong gia đình của Thạch Lam có bảy anh em nhưng chỉ có một chị gái
duy nhất là Nguyễn Thị Thế. Chị ở nhà lo nội trợ còn sáu anh em đều được
học hành tử tế và đỗ đạt cao. Anh cả của Thạch Lam là Nguyễn Tường Thụy
(1903) là chuyên viên cao cấp của ngành Bưu điện. Anh thứ hai là Nguyễn
Tường Cẩm (1904) là kĩ sư canh nông. Ông Cẩm là người sau nay giữ chức
quản trị cho các cơ sở văn hóa của Tự lực văn đoàn. Anh trai thứ ba là
Nguyễn Tường Tam (1905) có bút danh là Nhất Linh, là người sáng lập ra Tự
lực văn đoàn và tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay...Nguyễn Tường Long (1907)
là anh thứ tư, có bút danh là Hoàng Đạo, Tứ Ly cũng là thành viên của nhóm
Tự lực văn đoàn. người thứ năm là Nguyễn Thị Thế (1909) là mẹ của nhà văn
Thế Uyên tác giả của những hồi kí viết về gia đình Nguyễn Tường. Thạch
Lam là con thứ sáu và người em út của nhà văn là bác sĩ Nguyễn Tường Bách.
Tên của bảy anh em nhà Thạch Lam được đặt theo bộ chữ “ Thụy Cẩm
Tam Long Vinh Bách Thế”, có nghĩa là ba con rồng bằng ngọc làm đẹp vinh
hiển cho đời.
Trong số bảy anh em thì “Thạch Lam là người thông minh nhất nhà” đó
là lời nhận xét của chị gái nhà văn. Nhưng cuộc đời nhà văn lại không suôn
sẻ, luôn gặp những bất trắc, những trở ngại trong cuộc đời, từ việc công danh
cho đến gia đình. Năm lên bảy tuổi thì cha mất (khi đang làm việc tại tòa công
sứ bên Lào). Gia đình bắt đầu lâm vào cảnh khó khăn. Mẹ nhà văn đã phải
ngược xuôi đủ nghề để kiếm sống nuôi các anh em ăn học. Các anh của
Thạch Lam đi học trên Hà Nội thỉnh thoảng mới về, ở nhà chỉ có hai chị em
(nhà văn và chi gái) trông quán hàng tạp hóa cho me. Những kỉ niệm êm đềm
thời thơ ấu cùng người chị gái bên phố chợ Cẩm Giàng đã theo nhà văn vào
những câu truyện của ông sau này như: Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ...
Khi nhà văn lên mười lăm tuổi ông làm lại giấy khai sinh, tăng tuổi để
vào học trường Canh Nông (Tuyên Quang) và thi đỗ vào trường Cao Đẳng
19
tiểu học. Sau một thời gian gia đình rời khỏi phố huyện Cẩm Giàng lên Hà
Nội, ông thôi không theo học trường Canh Nông và quyết định theo học
trường Albert Sarraut để thi tú tài. Đỗ tú tài một phần, ông không học tiếp nữa
mà quay về học với các anh trai tại nhà. Có một thời gian ông theo Hoàng
Đạo vào Sài Gòn ở với người anh thứ hai là Nguyễn Tường Cẩm đang làm Sở
Canh nông. Sau đó khoảng hai năm khi Hoàng Đạo bị đổi sang Lào thì ông
lại trở ra Hà Nội. Ông sống với gia đình và chuẩn bị đi du học bên Pháp cùng
Nhất Linh, nhưng chính quyền Pháp chỉ cho Nhất Linh đi. Năm 1932, Nhất
Linh sáng lập nên Tự lực văn đoàn và kể từ đây Thạch Lam bắt đầu sự nghiệp
sáng tác văn chương của mình.
Năm ông hai mươi lăm tuổi ông lập gia đình. Vợ ông là một người con
gái quê ở Ninh Bình, bà Nguyễn Thị Sáu là một người phụ nữ hiền lành nết
na, đoan trang yêu thương chồng con, khi Thạch Lam qua đời, bà đã ở vậy và
nuôi con khôn lớn.
Thạch Lam trong con mắt của người thân là người “mắt nâu và sâu, tóc
hơi đỏ” [1. tr352]. Theo chị gái kể lại rằng: Vinh có một cái áo mà cậu rất
thích “ Trong số đó có cái áo ma ga mà bà tôi bào người ta dệt bằng tóc, mua
cho thằng cả từ mười năm rồi” Vinh rất thích lấy ra sờ đi sờ lại cái áo này rồi
hỏi: Bà ơi người ta lấy tóc của ai mà dài thế ? Vinh ưa cái áo đó lắm vì mặc
ấm mà không bẩn vì bụi dính vào chỉ đập mấy cái là sạch. Tuy quý cái áo như
thế nhưng đến mùa đông thấy con chị Lê bên hàng xóm rét run cả ngày không
dám ra đường chơi cứ chúi vào ổ rơm Vinh đã cởi ra cho nó mặc.” Khi chị Lê
mang sang trả Vinh đã nói “cháu cho nó vì thấy nó rét quá. Cháu không thích
cái áo ấy nữa vì nó làm bằng tóc, mặc ngứa lắm. Cháu đã có cái áo di lê này
là đủ ấm rồi” [1. tr 352] Vinh đã biết nói khéo để chị Lê nhận nó mà không
thấy áy náy.
20
Khi còn nhỏ Thạch Lam là người có niềm say mê khám phá sự vật, muốn
nắm bắt được những gì mà mình cảm thấy thích thú. Chị gái của nhà văn kể
lại rằng ông thích ngắm tàu chạy qua phố “Hôm nào đi học, em tôi cũng cố đi
sớm để lên cầu đứng lọt vào cột sắt đợi tàu chạy qua”. Vinh còn mê bánh xe
tàu hỏa đến mức mạo hiểm “Nó giằng tay tôi chạy vọt lên, bò tới trước bánh
xe lấy tay sờ lấy làm thú lắm. Nó vẫy tay tôi theo vào gầm toa với nó: [46 .
tr354]. Hết say xe lửa Vinh lại chuyển sang mê thỏ “suốt ngày nó ngồi ngắm
hai con thỏ bạch mắt đỏ của một người quen cho” : [1. tr 354]. Sự say mê rất
trẻ thơ đó có thể là những khởi đầu của những tình cảm với thế giới xung
quanh và tạo cho nhà văn lòng yêu mến, say mê và nâng niu cuộc sống.
Trong số những anh em trong gia đình Thạch Lam là người có cuộc sống
vất vả về vật chất. Lấy vợ xong, ông ra ở căn nhà tranh ở đầu làng Yên Phụ:
“Nhà mái tranh, cổng gỗ giữ nguyên vẻ thanh sơ, tuy rằng nếu muốn chủ nhân
lợp mái ngói, xây tường gạch”, nhưng tuyên bố “ở được nhà lá, nằm được
giường tre, ăn được rau đậu mà vẫn tìm thấy cái đẹp của mái lá, cái êm của
giường tre, cái ngon của rau đậu mới là biết sống có nghệ thuật” {46 .tr 391].
Cuộc sống của Thạch Lam nghèo nhưng thanh lịch. Ông nghèo nhất so với
mấy anh em, lương làm báo chỉ có ba mươi đồng “không bao giờ nhận sự
giúp đỡ của ai, dù của mẹ hay các anh” [ 1 .tr 356].
Trong cuộc sống đời thường Thạch Lam là một người khá ít nói, rất
điềm đạm không bao giờ to tiếng với bất cứ ai. Về quan hệ bạn bè ông ít giao
du và ít bạn. Nếp sống của Thạch Lam tuy thanh bạch, thích yên tĩnh, nhưng
căn nhà ở Hồ Tây luôn đón những người bạn bạn thân thiết đến với tác giả.
Thạch Lam nghèo nên có lần tổ chức trung thu ông viết “viết thiếp mời bạn bè
đến dự nhưng lại chữa thêm là ai tới phải mang một món ăn theo”[1. tr536]
Năm 1932 Nhất Linh thành lập Tự lực văn đoàn, từ đây Thạch Lam bắt
đầu sự nghiệp cầm bút của mình. Ông sáng tác bài cho các báo Phong Hóa,
21
Ngày Nay...với đủ các thể loại, truyện, tùy bút...Đương thời sách của Thạch
Lam bán không chạy, có thể nói là ế nhất Tự lực văn đoàn, nhưng những
truyện ngắn của ông vẫn mang một phong cách riêng, văn ông viết không
chạy theo thị hiếu thời thượng của người đọc. Đó là một lối viết tinh tế nhẹ
nhàng đậm chất thơ.
Chỉ trong một khoảng thời gian cầm bút ngắn ngủi ông đã để lại 35
truyện ngắn sau đó được tập hợp thành 3 tập truyện ngắn
1. Gió đầu mùa (Xuất bản 1937)
2. Nắng trong vườn (Xuất bản 1938)
3. Sợi tóc (Xuất bản 1942)
Ngoài ra ông còn có một tiểu thuyết Ngày mới (1939), tùy bút Hà Nội
băm sáu phố phường (1943) Theo Dòng, tiểu luận văn học (1941). Ông có
bốn tập Sách Hồng viết cho thiếu nhi với bút danh Thiện Sĩ Quyển Sách
(1940), Hạt Ngọc (1941), Hai chị em và Lên chùa.
Là người nghệ sĩ có tâm hồn lãng mạn yêu cái đẹp, hướng tới cái đẹp.
Và những sáng tác của ông chính là “sự tìm kiếm cái đẹp bị đánh mất” và
chính ông là người suốt đời “chắt chiu cái đẹp” theo ông “cái đẹp man mác
khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm tiềm tàng ở mọi vật tầm thường.
Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ không ai ngờ, tìm cái đẹp
kín đáo để che lấp của sự vật khác một bài học trông nhìn và thưởng thức”
[20. tr 39.].
Trong toàn bộ truyện ngắn của ông ta thấy cái đẹp mà ông tìm kiếm
chính là cái đẹp của cuộc sống, của tâm hồn con người. Trong văn chương của
ông ta ít gặp những nhân vật phản diện, cái xấu, cái ác...Do vậy truyện ngắn
của ông ít ngột ngạt cùng quẫn mà thường tĩnh lặng thâm trầm đậm chất thơ.
Ông luôn hướng ngòi bút của mình vào những con người lao động nghèo khổ,
22
yêu thương và thức tỉnh họ. Ở điểm này Thạch Lam có nhiều tiến bộ và khác
xa với các nhà văn trong Tự lực văn đoàn.
Sự nghiệp văn chương của Thạch Lam đã được độc giả mọi thời đại
khẳng định và đưa nó trở về đúng giá trị đích thực. Những tuyệt tác mà ông để
lại cho đời, được người đọc đón nhận bằng sự rung động trái tim, lí trí, bằng
sự đánh giá khoa học công bằng và thỏa đáng
Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam.
Khi nghiên cứu phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam,
chúng ta phải đặt những sáng tác của Thạch Lam với các nhà văn đương thời,
và đặc biệt là Tự lực văn đoàn. Tự lực văn đoàn được thành lập năm 1932 do
Nguyễn Tường Tam (anh trai của nhà văn) khởi xướng với một tôn chỉ mục
đích tạo ra những tác phẩm văn chương có giá trị. Thành phần nòng cốt của
Tự lực văn đoàn gồm: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú
Mỡ, Thế Lữ, về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu và rất nhiều những cộng tác
viên khác. Cơ quan ngôn luận của Tự lực văn đoàn là tờ báo Phong Hóa, năm
1936 báo Phong Hóa bị đóng của thì có Ngày Nay thay thế. Tự lực văn đoàn
ra đời có những đóng góp nhất định cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Trong những người đóng góp đó phải kể đến Thạch Lam, ông là người đóng
góp nhiều nhất bằng những tác phẩm văn chương có giá trị, bằng những quan
niệm nghệ thuật tiến bộ. Ông tham gia Tự lực văn đoàn vì có mối quan hệ ruột
thịt và vì ông là người có sở trường viết văn.
“Khác với hai anh thứ nhất và thứ nhì không để ý và tha thiết với văn hóa,
cũng có khác với anh thứ ba và thứ tư quá say mê cách mạng, Thạch Lam
thường ngồi riêng một góc với vài bạn văn, cách biệt với tất cả như đôi mắt
sâu và tối” [1. 370 ] Đóng góp lớn nhất của Thạch Lam là ở hoạt động sáng
tác, ông trở thành một cây bút lớn của Tự lực văn đoàn và của văn học Việt
Nam đầu thế kỉ XX
23
Mặc dù trong Tự lực văn đoàn có tôn chỉ mục đích riêng của các sáng
tác văn chương, nhưng Thạch Lam vẫn tìm cho mình một con đường đi riêng,
một phong cách riêng không lẫn với các nhà văn trong Tự lực văn đoàn. Ông
tham gia sáng tác rất nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, bút kí, phê bình
văn học. Truyện ngắn có tập Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc; tiểu
thuyết có Ngày mới; bút kí có Hà Nội băm sáu phố phường; tiểu luận phê
bình Theo dòng. Không giống với hai người anh Nhất Linh và Hoàng Đạo có
đời sống chính trị phức tạp, Thạch Lam hướng tới một xã hội công bằng và
nhiều yêu thương. Chính vì vậy mà phong cách nghệ thuật của Thạch Lam
mang một nét riêng biệt so với các nhà văn đương thời và những người anh
trong Tự lực văn đoàn. Những sáng tác của ông viết về thế giới nội tâm của
nhân vật, ông thường chú ý miêu tả những trạng thái tình cảm, những biến cố
tâm lí của nhân vật. Điều này đã làm cho truyện ngắn của Thạch Lam luôn thu
hút người đọc. Truyện Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, nó
diễn tả lại trạng thái cảm xúc của Liên trong một khoảng thời gian ngắn ngủi
buổi chiều đi dần vào đêm tối ở phố huyện tràn ngập bóng tối. Hay trong
Cuốn sách bị bỏ quên ông đã khai thác tâm trạng đối lập của con người, đối
lập giữa hiện tại và ước mơ.
Những truyện ngắn của Thạch Lam đi sâu vào khám các trạng thái tâm lí
của nhân vật, cách tiếp cận khám phá con người trên phương diện đi sâu vào
những thế giới nội tâm, tinh thần của nhân vật đã tạo nên một nét độc đáo
trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam.
Không giống với phong cách của các thành viên trong Tự lực văn đoàn,
Thạch Lam thường viết về những con người có những số phận đau khổ bất
hạnh, những lớp người sống dưới đáy xã hội. Mỗi một kiểu nhân vật ông đều
đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm, tinh thần của họ. Những nhân vật của
ông bao giờ cũng thiên về cảm xúc suy nghĩ. Ví dụ viết về người trí thức tiểu
24
tư sản Thạch Lam không lí tưởng hóa nhân vật như Khái Hưng, Nhất Linh
thích tạo ra những nhân vật lí tưởng. Nhân vật của họ thường là những người
xuất thân từ những gia đình giàu có, hoặc quan lại. Họ là những khách tình si
(Lộc -Nửa chừng xuân), hay những khách chinh phu (Tiêu sơn tráng sĩ- Khái
Hưng, Đôi bạn của Nhất Linh). Còn các nhân vật của Thạch Lam thường rơi
vào các hoàn cảnh như: đói nghèo, thất nghiệp, hoặc đang trên con đuờng tha
hóa...Đó là những truyện ngắn : Đói, Người bạn trẻ, cái chân què...Nhân vật
Sinh trong Đói đã rơi vào tình cảnh túng quẫn, vì đói qua mà Mai vợ anh phải
bán mình để lấy tiền. Khi phát hiện được điều đó quá đau đớn. Nhưng rồi cơn
đói đã không làm Sinh nhịn được khi nhìn thấy những miếng bánh ngon trước
mắt, Sinh đã phải đánh mất nhân cách của mình khi làm điều đó.
Trong khi những cây bút của Tự lực văn đoàn đi sâu vào miêu tả thế giới
của những con người nghèo khổ bằng cái nhìn ít thiện cảm, thì Thạch Lam
viết về những người nghèo khổ với nỗi lòng thương cảm. Họ là những người
chân lấm tay bùn, cả đời lam lũ nhưng vẫn vất vả. Ở kiểu nhân vật này nhà
văn như hóa thân vào nhân vật để viết nên những trang văn giàu cảm xúc
không giống với các nhà văn đương thời. Đó là mẹ Lê trong Nhà mẹ Lê, hay
cô gái nghèo đi trừ nợ trong Đứa con, là người phu xe trong Một cơn
giận...Thông qua những tác phẩm của mình người đọc thấy được thái độ trân
trọng đối với những con người nghèo khổ.
Một dạng nhân vật nữa được nhà văn tập trung miêu tả nhiều đó là những
người phụ nữ. Họ là những người mẹ, người vợ, người chị đảm đang. Ngoài ra
Thạch Lam còn phát hiện ra ở những con người lam lũ đó những vẻ đẹp trong
tâm hồn của họ. Thạch Lam miêu tả họ và đồng thời thấy được nỗi vất vả của
họ, những truyện ngắn viết về kiểu nhân vật này Thạch Lam dường như thấu
hiểu những nỗi đau của các nhân vật. Đó là mẹ Lê trong Nhà mẹ Lê, Tâm
trong Cô hàng xén, Hai cô gái giang hồ trong Tối ba mươi . Dù những nhân
25
vật đó như thế nào thì Thạch Lam vẫn dành cho họ những tình cảm nâng niu
trân trọng.
Bên cạnh những thành công về việc xây dựng riêng cho mình những
kiểu nhân vật mà một nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Thạch
Lam là thành công trong việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ văn chương điêu
luyện, trau chuốt, không cầu kì, giản dị trong sáng thuần Việt, ít sử dụng chữ
Nho. Đọc văn của Thạch Lam hôm nay ta vẫn thấy nó thật hiện đại, đó không
phải là những câu văn của quá khứ như một số sáng tác của Tự lực văn đoàn.
Thạch Lam có một lối viết giàu cảm xúc và nhạc điệu, từ ngữ dùng giản dị,
không cầu kì.
Như vậy có thể nói Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam,
mang một phong cách rất riêng, không giống với bất cứ nhà văn nào trong Tự
lực văn đoàn. Đó là một phong cách nhẹ nhàng, những trang văn giàu cảm
xúc, thấm đượm tình người. Ông có lối viết đi sâu vào khám phá thế giới tình
cảm của con người bằng giọng điệu thủ thỉ tâm tình, bằng những nỗi cảm
thông sâu sắc, bằng niềm thương và bằng tình người. Cuộc đời ông gắn bó với
sự ra đời và phát triển của Tự lực văn đoàn, bằng một khuynh hướng khác,
một cách nhìn và khám khá cuộc sống theo lối riêng mình, Thạch Lam đã xác
định được giá trị của mình với bạn đọc bằng một phong cách nghệ thuật riêng,
độc đáo.
26
Chương 2
NHỮNG KIỂU NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM .
Trong mỗi một tác phẩm văn học, thì hệ thống nhân vật cũng là một
nhân tố quan trong trong việc bộc lộ phong cách của người nghệ sĩ, đó cũng là
một yếu tố không kém phần quan trọng so với hệ thống tư tưởng của người
nghệ sĩ trong sáng tạo của mình. Đó là kết quả của sự quan sát cuộc sống một
cách tinh tế, kết hợp với trí tưởng tượng, sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Qua
nhân vật, nhà văn bộc lộ thái độ cảm xúc của mình đối với cuộc sống. Chính
vì vậy khi nghiên cứu về một tác giả văn học thì ta phải quan tâm đến hệ
thống các nhân vật trong tác phẩm của tác giả đó. Qua những nhân vật, chúng
ta sẽ thấy dấu ấn cá nhân của nhà văn trong đó.
Mỗi một nhà văn có một cách xây dựng hệ thống nhân vật của mình,
chính vì vậy mà ở mỗi nhà văn hệ thống nhân vật mang một đặc điểm khác
nhau. Cùng trong nhóm Tự lực văn đoàn, có những quan điểm sáng tác gần
gũi nhau, những nhân vật trong tác phẩm của Nhất Linh luôn mang trong
mình một lí tưởng đấu tranh thiên về hành động, trong khi đó lí tưởng của
nhân vật trong những sáng tác của Khái Hưng thì mang tính viễn vông, mơ hồ
chỉ có tác dụng an ủi con người. Chính vì vậy hình tượng nhân vật của Khái
Hưng thường mang tính lạc quan, mơ màng, sống nặng về tình cảm, còn nhân
vật của Nhất Linh là những nhât vật luôn đăm chiêu, quằn quại suy nghĩ, để
tìm ra con đường đi cho riêng mình. Một mô tuýp thường được lặp đi lặp lại
trong thơ và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là hình ảnh người khách chinh phu
đang dấn thân vào cuộc đời gió bụi, đang mải mê trong hoạt động bí mật và
một “người yêu” phương xa đang mỏi mắt chờ ở nhà. Những khách chinh phu
ấy là nhân vật Dũng trong tác phẩm Đoạn tuyệt, Phạm Thái trong Tiêu sơn
tráng sĩ. Họ lao vào hành động mà không có một mục đích nhất định. Có thể
nói, họ mang trong mình một triết lí “hành động để hành động”. Bản thân sự
27
hành động đã mang một mục đích tự tại, một ý nghĩ thoát li. Nhu cầu hành
động của họ gần như là “siêu hình”. Trong những tác phẩm của Thạch Lam
người ta không tìm thấy những nhân vật kiểu như vậy. Nhân vật trong các tác
phẩm của Thạch Lam đa phần họ đều là những người thuộc tầng lớp dưới xã
hội: Những trí thức tiểu tư sản nghèo, những bác phu, những bác ích cùng
khổ, những người phụ nữ lao động cần cù chất phác…Họ là những con người
bình dị nhỏ bé và rất thật với những ước muốn lo toan đau khổ. Vì Thạch Lam
có cuộc sống gần gũi với những người lao động nghèo khổ trong xã hội. Bản
thân cuộc sống của nhà văn cũng rất thanh bạch, ông không thích sự ồn ào,
ông không tham gia các hoạt động náo nhiệt ồn ào giống như các anh mình;
Nhất Linh, Hoàng Đạo hay Khái Hưng…Với Thạch Lam hoạt động trong tâm
linh, trong suy nghĩ là quan trọng hơn cả vì ông không phải là con người của
hành động. Chính vì vậy mà nhân vật của ông cũng là những con người thiên
về suy nghĩ, cảm xúc nội tâm. Như vậy những nhân vật của Thạch Lam cũng
mang những dấu ấn tâm hồn của nhà văn và đó là những nhân vật mang phong
cách của tác giả : tinh tế, đa cảm, tha thiết thuần hậu, giàu tinh thần chịu
đựng…Chúng ta sẽ đi tìm hiểu qua ba kiểu nhân vật chủ yếu trong hệ thống
nhân vật của Thạch Lam.
1. Kiểu nhân vật người trí thức tiểu tư sản
2. Kiểu nhân vật người dân nghèo
2. 1 . Kiểu nhân vật người trí thức tiểu tư sản.
Một trong số kiểu nhân vật chiếm vị trí nhiều trong các truyện ngắn của
Thạch Lam là những người trí thức tiểu tư sản. Điều đó cũng có nghĩa là nhà
văn đã miêu tả một lớp người gần gũi với mình, vì vậy đã góp phần tạo nên
thành công của kiểu nhân vật này.
Thạch Lam thường hướng ngòi bút của mình vào những trí thức tiểu tư
sản lớp dưới. Bởi vì sinh thời, Thạch Lam không có một đời sống sung túc
28
như các anh trai mình: Nhất Linh Làm giám đốc nhà xuất bản Đời nay , còn
Hoàng Đạo làm tham tá ngạch Tây. Theo hồi ức của bà Nguyễn Thị Thế, chị
ruột nhà văn “chú rất nghèo vì lương nhà báo chỉ có 30 đồng…vì nghèo nên
chú chỉ ước mơ mua một chiếc ghế bành ngồi mà cung không mua được. Mãi
sau một người bạn thân biết ý nên mua biếu hai chiếc”
Người trí thức tiểu tư sản trong những tác phẩm của Thạch Lam,khi chưa
va chạm với cuộc sống, cũng mang trong mình nhiều khát vọng, băn khoăn
tìm kiếm lí tưởng sống cho cuộc đời mình. Chỉ một nét thoáng qua, nhưng
người đọc cũng bắt gặp được hình ảnh đã lùi về quá khứ của một thanh niên
hăng hái đi theo tiếng gọi của lí tưởng trong Kẻ bại trận. Tuy vậy phần lớn
những ước mơ của những con người này thật bình thường, giản dị. Đối với
Trường trong Ngày mới, “ thi đỗ rồi đi làm công sở, đó là mục đích của cả
một đời”. Nhưng khi đối diện với cuộc sống khắc nghiệt, thì ngay cả những
ước mơ nhỏ bé như thế cũng trở nên xa vời. Trong hầu hết những truyện ngắn
của Thạch Lam hình ảnh người trí thức hiện lên với một “căn bệnh” đó là
nghèo. Họ nghèo vì bị thất nghiệp hoặc bị đe doạ thất nghiệp. “Sinh thở dài,
chàng nhớ lại cái ngày bị thải ở sở chàng làm, cái giọng nói quả quyết lạnh
lùng của ông chủ, cái nét mặt chán nản, thất vọng của mấy người anh em
cùng cảnh ngộ với chàng…Từ đó bắt đầu những sự thiếu thốn khổ sở, cho đến
bây giờ.” [47. tr87]. Sống trong một xã hội mà người ta có thể đứng vững và
làm nên nhờ những thủ đoạn, mưu mô, những thanh niên trí thức nghèo chỉ có
kiến thức sách vở và một tấm lòng thanh sạch thì sẽ là những người bị đào
thải trước tiên. Bào trong Người bạn trẻ, cũng mang một tâm sự u uất vì bị
nghi oan, một nỗi chán nản đến cao độ vì không sao tìm được cho mình một
công việc lương thiện. “Suốt mấy tháng nay tôi đi khắp các nơi ở Hà Nội mà
chẳng tìm được việc gì cả. Đến đâu người ta cũng từ chối” [47-tr171]. Đối với
những con người như thế, việc làm là một nhu cầu cần thiết. Đó không những
29
là cách để những con người nhỏ bé ấy tự khẳng định mình, mà còn là phương
tiện để giúp họ tồn tại trong xã hội. Khi hiểu được điều đó chúng ta mới thấy
được những chán nản, tuyệt vọng của họ, không có gì có thể an ủi nổi. Họ cố
gắng vươn lên để có một chỗ đứng trong xã hội dù là rất khiêm nhường.
Trong tác phẩm Cuốn sách bỏ quên tình cảnh không may của văn sĩ Thành
phải chăng có nét trùng hợp với nhà văn Thạch Lam. Đương thời sách của
Thạch Lam thường là những cuốn sách ế nhất Tự lực văn đoàn. Có thể nói
khi miêu tả cuộc sống của người trí thức, đặc biệt là người trí thức thất nghiệp,
Thạch Lam cũng đã gián tiếp miêu tả hoàn cảnh sa sút, bần cùng hoá của xã
hội Việt Nam những năm ba mươi. Ông không miêu tả chúng ở bình diện xã
hội rộng lớn, mà ông miêu tả chúng ở chiều sâu tác phẩm, trong từng cảnh đời
cụ thể.
Trong những năm trước Cách mạng, nạn thất nghiệp dẫn đến cảnh sống
nheo nhóc, túng thiếu của trí thức đã được khá nhiều nhà văn đương thời phản
ánh. Trong tác phẩm Mực mài nước mắt của Lan Khải đã giúp được người
đọc hình dung được khá rõ hoàn cảnh đó. Họ là những người đem trái tim ánh
sáng và những hoài bão lớn lao để hoà nhập vào một cuộc đời nhỏ nhen, tù
túng. Chính vì thế mà họ liên tiếp rơi vào những bi kịch. Bắt đàu là bi kịch của
cuộc sống, cơm áo, gạo tiền. Sau đó là sự dằn vặt về tinh thần là điều không
thể tránh khỏi.
Trong truyện ngắn Đói của Thạch Lam là một tấn bi kịch nhỏ trong số
rất nhiều những bi kịch như thế về cuộc đời nghèo đói, khổ sở. Những nhân
vật trong các tác phẩm của nhà văn phải đấu tranh, vật lộn vì miếng cơm
manh áo của những người trí thức nghèo. Nhiều lúc người đọc như đang
tưởng rằng tác giả đang viết về chính cuộc đời của tác giả , vì chỉ có những
người đã từng trải qua cơn đói khủng khiếp mới có thể miêu tả tỉ mỉ, chân
thực như thế. Trong tình cảnh cùng quẫn đến tột đỉnh thì bản năng con người
30
mới có dịp bộc lộ dễ dàng hơn, bức bách hơn. Sự thật trần trụi ấy được bộc lộ
qua triết lí “ miếng ăn”. Trước kia Sinh vẫn cho rằng “miếng ăn là một sự
không đáng kể”,nhưng lúc này chàng mới thấy “cái cần mạnh mẽ của miếng
ăn là thế nào”[47. tr 91]. Như nhân vật trong tác phẩm Lão Hạc của nhà văn
Nam Cao đã nói rằng khi người ta bị đau chân, thì khó có thể nghĩ đến điều gì
khác ngoài cái chân đau của mình. Cái đói quặn thắt ruột gan khiến Sinh khó
có thể nghĩ đến điều gì khác ngoài những ao ước tầm thường. Những nhân vật
trí thức tiểu tư sản luôn mang nặng tâm lí bi quan yếu thế trước cuộc đời
chung rộng lớn, quay trở về với cuộc đời riêng tù túng chật hẹp. Họ sa vào
những vụn vặt đời sống hàng ngày. Điều này cũng có những nét gần với
những nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao, Nguyên Hồng. Trong Sống
mòn, Thứ, San, Oanh, những con người chôn vùi cuộc đời mình ở một trường
tư nghèo nàn ở ngoại ô Hà Nội cũng sa vào những chuyện nhỏ nhặt tầm
thường mà trước đây họ từng khinh bỉ, “những bữa ăn họ cãi nhau toang
toang như họp làng”. Bữa ăn được tính toán một cách chi li, “cả hai người
mới được bốn hào, chưa đến năm hào, độ bốn hào với sáu xu gì đó”. Vì cuộc
sống khó khăn, nghèo túng đã làm cho họ trở nên bần hàn, làm cho lương tâm
họ khô héo. Nghèo khổ đã làm thui chột những hoài bão muốn vươn lên bằng
tài năng chân chính của mình và đầy họ tới hoàn cảnh sống mòn.
Những bi kịch tâm trạng do tác động của hoàn cảnh sống ở người trí
thức tiểu tư sản cũng khá rõ nét trong tác phẩm của Thạch Lam. Vì thất
nghiệp, nghèo túng, không còn lối thoát nào khác, Bào trong Người bạn trẻ đã
phải tìm đến cái chết khi chưa đầy 20 tuổi. Trước khi đến với cái chết, người
thanh niên ấy đã từng phải trải qua những giờ phút hoang mang day dứt và
tuyệt vọng. Ở trường hợp Sinh trong Đói, nhân vật không rơi vào cái chết,
nhưng tình thế thảm hại và đau xót hơn nhiều. Trước sự phản bội của người
vợ mà mình vẫn hằng tin yêu, Sinh cảm thấy “một nỗi buồn rầu chán nản vô
31
cùng...trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạ lùng như thắt lấy ruột gan”.
Nhưng mà thảm hại hơn trước sự dày vò của cái đói, Sinh đã ăn vụng trộm,
những miếng bánh, thịt ướp mà trước đó chàng đã hất đi và nguyền rủa. Ở đây
nhân vật đã đặt sự tồn tại lên trên nhân cách. Đó là những tín hiệu đầu tiên,
tuy còn rất mong manh và mang tính dự báo của quá trình tha hoá, biến đổi
nhân tính con người do tác động của hoàn cảnh. Bi kịch tâm trạng đã trở nên
khá phổ biến ở trí thức tiểu tư sản trong các tác phẩm của Thạch Lam. Những
cái tầm thường, hàng ngày, hàng giờ gặm nhấm, tàn phá tâm hồn con người.
Vì một miếng ăn, một nhu cầu vật chất tầm thường mà con người ta có thể
đánh mất lòng tự trọng và nhân phẩm. Cảm giác của Sinh sau hành động động
hèn mạt của mình, “một cái chán nản mênh mông tràn ngập cả người. Sinh
lấy hai tay ôm mặt khóc nức nở”, là biểu hiện của một bi kịch không lối thoát.
Đọc Đói ta liên tưởng đến một truyện ngắn khác của Nguyên Hồng. Truyện
Miếng bánh, ở đây có một cảnh tương tự truyện ngắn Đói. Hưng nhân vật
chính của truyện- sau khi không kiềm chế nổi lòng mình đã giấu vợ miếng
bánh, và từ đó anh sống trong tâm trạng ân hận nhục nhã đến độ “cả cổ họng
và ruột gan xoắn lại. Tâm trí Hưng nức nở. Miếng bánh nhai nhỏ ra càng như
mảnh thuỷ tinh tẩm mật cá”[48. tr 253]. Cảm giác của Nguyên Hồng tàn khốc
hơn nhưng dư vị chua chát có lẽ chưa đạt đến mức độ như của Thạch Lam.
Bởi vì bút pháp của Nguyên Hồng chưa đạt đến độ sâu lắng như Thạch Lam.
Bi kịch tâm trạng dẫn đến biến đổi tâm tính, xuất hiện ở tất cả các trí thức
tiểu tư sản trong các tác phẩm của Thạch Lam. Quanh quẩn vì miếng ăn, vì sự
chi tiêu của một gia đình, Xuân trong Ngày mới, mất cả nhân tính không thiết
gì vợ con và mẹ già. Chàng như một con thiêu thân, lao vào cuộc chơi bời để
tìm quên lãng. Bính trong Buổi sớm cũng vì chán nản mà lao đầu vào truỵ lạc
“chàng chơi mãi cho của cải hết, nhà cửa bán dần và sức khoẻ của chàng
ngày một mất đi. Một sự chua chát thấm vào tâm hồn chàng, một sự chán nản
32
cho mình và cho người khác. Có lẽ nỗi thất vọng trước sự tan vỡ những mộng
tưởng cao quý và đẹp đẽ trong đời chàng đã đẩy chàng xuống vực sâu”. Khi
những ước vọng khiêm tốn bị đổ vỡ trước thực tế phũ phàng thì những con
người ấy rơi vào bi kịch vỡ mộng. Đó là những bi kich điển hình của Văn học
phương Tây. Văn học Việt Nam trước Cách mạng, kiểu nhân vật trí thức tiểu
tư sản của Nam Cao cũng mang nhiều bi kịch, nhiều nỗi đau sâu sắc. Với kiểu
nhân vật người trí thức nghèo Thạch Lam vẫn chưa tạo được những kiểu nhân
vật như vậy mang tính điển hình cao.
Trong tác phẩm của Thạch Lam, tâm lí của những nhân vật trí thức được
miêu tả rất tỉ mỉ. Bởi lẽ đó là những nhân vật, những con người có đời sống
tâm hồn hết sức phong phú. Trong tác phẩm Một cơn giận, vì sự vô cớ cáu
giận của nhân vật Thanh mà cả gia đình nhà bác phu xe đã lâm vào cảnh vô
cùng khốn khó, điều đó khiến anh day dứt mãi không thôi “Hình như có một
cái gì đè nặng lên ngực làm cho tôi khó thở và lúc này hình ảnh anh phu xe
cũng hiển hiện ra trước mắt”[47. tr64].ở đây cho ta thấy người trí thức trong
một lúc nào đó những người trí thức vẫn loay hoay với những suy nghĩ về bản
thân mình. Và sau rất nhiều hối hận Thanh trong Một cơn giận đã tự nhủ thầm
“người ta có thể tàn ác một cách rất dễ dàng”. Cái cách nhìn sâu vào trong
tâm hồn, đúc rút những quy luật và phanh phui mọi góc cạnh của nó để người
đọc suy nghĩ và trăn trở theo nhân vật đã trở thành một đặc điểm rất riêng của
Thạch Lam. Điều đó đã giúp ông khắc hoạ thành công bộ mặt của những trí
thức tiểu tư sản, và các tác phẩm ông thường có tính tự truyện, bởi vì trong
những tác phẩm ấy mang dáng dấp của nhà văn. Những con người trí thức đó
thường vỡ mộng, cuộc sống bế tắc và họ cảm thấy thương hại chính mình.
Theo nhận xét của ông Đỗ Đức Thu- người bạn rất thân của nhà văn “Thạch
Lam là người giàu tình cảm, chỉ vì trường đời tạo cho anh cái thái độ dè dặt,
bắt anh phải sống cái đời con ốc trong một vỏ kín bưng. và cái tâm hồn phong
33
phú, cái đời tâm tưởng rồi rào ấy đã có lần cởi mở với thế nhân để rồi chịu
những thương tích nó làm giảm dần lòng tin ở người đời”[47. tr20].
Khi so sánh kiểu nhân vật này của Thạch Lam với các nhà văn khác như
Nam Cao chúng ta thấy có những điểm gần gũi, nhưng khác với các nhân vật
trong tác phẩm của Nam Cao, người trí thức tiểu tư sản trong tác phẩm của
Thạch Lam chưa có được những giằng co để vươn lên và cũng chưa bao giờ
phê phán mình một cách chân thành. Những nét tâm lí này được nhà văn
Thạch Lam khai thác, nhưng đang ở chỗ là những khoảnh khắc chứ chưa phải
là những mâu thuẫn dồn nén. Đây cũng là một đặc điểm riêng của Thạch Lam.
Từ những đặc điểm đó ta thấy Thạch Lam thường thành công với việc xây
dựng những nhân vật thoáng qua hơn là những nhân vật những suy tư, đấu
tranh sâu sắc. Chính vì vậy mà hình tượng người trí thức tiểu tư sản trong tác
phẩm của Thạch Lam còn thiếu sức mạnh về sự khái quát và nâng cao, những
nhân vật đó thường có chung một nguyên mẫu, một suy nghĩ và một kiểu tư
duy bế tắc. Và những nhân vật đó thường mang đậm dấu ấn của chính nhà
văn, phảng phất tâm hồn Thạch Lam. Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã
nhận xét “Tất cả những nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam đều có
những cái phảng phất của tâm hồn Thạch Lam”. Điều này vừa là đặc điểm
riêng, đồng thời cũng là hạn chế của Thạch Lam thể hiện rõ nét trong những
tác phẩm viết về người trí thức.
Kiểu nhân vật người dân nghèo.
2.2.1 Những người dân nghèo.
Trong những tác phẩm truyện ngắn của Thạch Lam, những truyện ngắn
viết về người dân nghèo chiếm một tỉ lệ khá lớn. Họ là những người nông dân
nghèo lam lũ vất vả, hay những con người sống kiếp lầm than nơi thành thị.
Đó là hình ảnh người mẹ nghèo xóm Đoài thôn Nhà mẹ Lê, là gia đình người
phu xe cùng khổ ở ngoại ô Hà Nội trong Một cơn giân, hay cô gái nghèo phải
34
đi ở để trả món nợ truyền kiếp trong Đứa con ...Những truyện ngắn viết về đề
tài này của Thạch Lam viết trong bối cảnh lịch sử dân tộc đang trong thời kỳ
mặt trận dân chủ 1936-1939. Những năm đó cách mạng Việt Nam đang sôi
sục khí thế đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy những tác phẩm ra đời trong thời gian
này cũng ít nhiều bị chi phối bởi bối cảnh lịch sử. Cho nên trong giai đoạn này
người nông dân đã xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học. Ngay trên tờ
báo Ngày nay cũng xuất hiện một chuyên mục “Bùn lày nước đọng“ chuyên
viết về dân quê. Từ năm 1937 Tự lực văn đoàn bắt đầu tặng giải thưởng cho
những tác phẩm giàu tính hiện thực như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Kim tiền
của Vi Huyền Đắc. Báo Ngày Nay đăng Con trâu và Sau luỹ tre của Trần
Tiêu, hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Năm 1939 bàn về đạo
làm người Hoàng Đạo có viết trong Mười điều tâm niệm : “Con người phải
sống có lí tưởng và điều có ích cho xã hội“. Tinh thần dân tộc, thái độ phê
phán bọn địa chủ quan liêu, bóc lột, sự cảm thông chân thành đối với những
nỗi khổ cực của người dân quê sau luỹ tre xanh được thể hiện trong tác phẩm
Đoạn tuyệt (1934-1935), Tối tăm, Đôi bạn của Nhất Linh...Những sự kiện
như vậy chứng tỏ rằng số phận của những người bình dân cũng là một điều
băn khoăn đối với các nhà văn chủ nghĩa lãng mạn nói chung và Tự lực văn
đoàn nói riêng. Trong số những nhà văn ấy thì Thạch Lam được người đọc
nhìn nhận khác các bạn văn của ông như: Nhất Linh, Hoàng Đạo. Bởi có lẽ
những người dân nghèo thành thị hay thôn quê xuất hiện trong tác phẩm của
ông, không phải là một sự a dua chạy theo xu thế của các nhà văn đương thời,
mà hình tượng nhân vật nay xuất hiện khá lâu trong tác phẩm của ông. Nhưng
điều quan trọng hơn là hình tượng nhân vật này trong các tác phẩm của Thạch
Lam được ông miêu tả, giới thiệu một cách cặn kẽ với một tình cảm yêu
thương chân thành. Như vậy cũng không thể quy kết các nhà văn Tự lực văn
35
đoàn là giả dối, hay là cơ hội chủ nghĩa, nhưng trong lĩnh vực này chúng ta
phải thừa nhận Thạch Lam là người thành thực hơn cả. Chính nhà văn cũng đã
từng phát biểu về vấn đề này “Ít lâu nay, những tiểu thuyết viết về dân quê khá
nhiều. Một số nhà văn, vì theo thời thượng hay vì một cái sở thích văn chương
đột ngột đã từ bỏ những nhân vật phi thường hay lãng mạn để quay đầu nhìn
về người nhà quê chân lấm tay bùn trên thửa ruộng. Người này trở nên nhân
vật chính trong tác phẩm của họ”. [49. tr 48]. Khác với họ ngày từ những sáng
tác đầu tay của mình, Thạch Lam đẫ hướng về người nghèo với một tình cảm
chân thành. Hình ảnh người dân nghèo hiện lên với những nỗi nghèo khổ thật
đa dạng. Đó là câu chuyện thương tâm của một gia đình đông con nghèo khổ.
Người mẹ của đàn con đói nghèo khổ vì không có miếng ăn phải đi ăn xin bị
nhà giàu xua chó cắn dẫn tới cái chết thương tâm Nhà mẹ Lê. Đó là cảnh
khốn cùng của gia đình người phu xe nghèo, không đủ tiền nộp phải trốn biệt
xứ để lại mẹ già, người vợ nheo nhóc và đứa con sài chết vì không có nổi một
đồng xu mua thuốc, là một tiếng kêu bi thương tha thiết “Trong cái hang tối
tăm bẩn thỉu ấy sống một đời sống khốn nạn những người gầy gò, người con
gái sống kiếp tôi đòi cũng được miêu tả thât cụ thể”. “Chị Sen cúi mình dưới
gánh nước nặng trĩu, lách cửa bước vào những bước khó nhọc và chậm chạp.
Cái đòn gánh cong xuống và rên rỉ trên vai, nước trong thùng sánh toé ra mỗi
bước đi” [50 tr 75 ]. Mặc dù phải làm việc đến kiệt sức, người con gái tội
nghiệp ấy vẫn phải thường xuyên chịu những cơn thịnh nộ của bà chủ. Ở
truyện ngắn Cô hàng xén, sau khi lấy người chồng nghèo, gánh nặng gia đình
quá lớn với gia đình đã khiến cuộc đời trở thành một sự đoạ đày đối với một
có gái vốn dĩ là xinh đẹp và đáng yêu. Quanh năm suốt tháng lam lũ, mà cái
nghèo vẫn không buông tha. Cuộc đời của những con người ấy chỉ là chuỗi
dài những vất vả lo toan dường như vượt quá sức chịu đựng của họ.
36
Trong những trang viết của mình, sự thành thực là một tiêu chí mà
Thạch Lam luôn tâm niệm trong quá trình sáng tác. Vì vậy, ông đã lên tiếng
phê phán những nhà văn lãng mạn chỉ biết lí tưởng hoá nông thôn và ca ngợi
cái thi vị của công việc đồng áng. Ông viết trong tiểu luận Theo dòng “ Một
cái tục lệ khác là vẻ nên thơ của công việc đồng áng. Nên thơ với nhà văn
đứng xem, phải. Nhưng sự thực không có công việc nào vất vả nặng nhọc
bằng. Bình minh tươi đẹp chỉ là còi hiệu bắt đầu làm việc” [49 tr 50]. Sự thật
ẩn đằng sau luỹ tre có vẻ thơ mộng ấy là những kiếp người sống đày đoạ khổ
cực trăm bề của người nông dân. Không những họ khổ vì công việc nặng nhọc
mà còn phải chịu bao nhiêu áp bức bất công trong xã hội. Những cảnh khổ sở
đớn đau ấy người đọc có thể bắt gặp đâu đó trong các tác phẩm của Thạch
Lam. Điều đáng nói ở đây là sự thành thực mà nhà văn tâm niệm không phải
chỉ thuộc vào ý nghĩ chủ quan của nhà văn, mà nó có một cơ sở thực tế vững
chắc. Đó là sự hiểu biết khá đầy đủ về đối tượng miêu tả của nhà văn. Tuy là
nhà văn trong một trường phái văn học lãng mạn, nhưng Thạch Lam lại có
điều kiện gần gũi và đồng cảm với người lao động nghèo. Bản thân nhà văn
cũng đã từng nếm trải bao nỗi cay đắng chua chát của cuộc đời người trí thức
nghèo có đầu óc những túi thì luôn trống rỗng. Như vậy có thể nói Thạch Lam
có một vốn sống, một vốn hiểu biết khá sâu sắc về người lao động nghèo. Chỉ
một nhận xét nhỏ của ông cũng chứng tỏ ông am hiểu tâm lí của những người
nông dân “Sự thực người nhà quê chỉ yêu quý ruộng đất chừng nào họ là chủ
ruộng đất ấy thôi. Và khi người nhà quê từ chối không chịu bỏ làng ra tỉnh
hay đi nơi khác kiếm ăn ấy là vì sự giàng buộc của những thói quen sinh
hoạt, những thói quen vật chất hay tinh thần hơn là lòng tha thiết với đồng
ruộng” [49 tr50]. Chính vì nhà văn là người cũng đã từng sống trong cảnh
nghèo khổ cho nên Thạch Lam mới hiểu và thông cảm cho cuộc đời của
những con người nghèo khổ. Ông hiểu và thông cảm cho cuộc sống bấp bênh
37
không có tương lai của họ. Đó chính là điểm khác biệt giữa Thạch Lam và các
nhà văn trong Tự lực văn đoàn.
Những con người nông dân suốt ngày vật lộn với miếng cơm, manh áo
hiện lên khá chân thực trong truyện ngắn Nhà mẹ Lê của Thạnh Lam. Cái đói
gõ cửa từng nhà người dân nghèo ngụ cư như bác Hiền, bác Đối và nhất là nhà
mẹ Lê. Đối với cái gia đình chưa bao giờ sung túc này thì những ngày nhịn
đói liên tục đã trở nên bình thường và thường xuyên, không lối thoát. Mặc dù
dứt ruột vì thương con vì cái đói, cái rét hành hạ, đến nỗi thịt da thâm tím lại
như thịt con trâu chết, người mẹ khốn khổ ấy vẫn không sao kiếm được việc
làm khả dĩ có thể kiếm chút ăn cho chúng cầm hơi. Có thể nói, vấn đề miếng
cơm manh áo đã xuyên suốt truyện ngắn của Thạch Lam. Cái nghèo khổ
truyền kiếp như thấm sâu vào trong cuộcc sống của những người dân lao
động. Nó như một cái nợ ám ảnh, đeo đẳng suốt cuộc đời họ, “Bác Lê tưởng
nhớ lại cả cuộc đời mình từ lúc bé đến bây giờ chỉ toàn là những ngày khổ sở
nhọc nhằn. Cái nghèo không biết tự bao giờ đã vào nhà bác. Lúc sinh ra bác
đã thấy nó rồi và từ đấy nó cứ theo liền bác mãi” [47 tr 36]. Cái chết của bác
Lê là sự vận động tất yếu của những kiếp người lầm than. Nó để lại trong lòng
người đang sống những nỗi ám ảnh, nhưng với người chết có lẽ đó là một sự
giải thoát, để thoát khỏi kiếp sống lầm than.
Như vậy trong các tác phẩm của Thạch Lam hình ảnh người nông dân
nghèo ở thành thị và nông thôn chiếm một vị trí khá quan trọng. Nhà văn có
một tình thương dành cho số phận của những con người nghèo khổ bất hạnh.
Nhân vật người dân nghèo trong tác phẩm của Thạch Lam thường là những
nhân vật chính diện, còn những kẻ nhà giàu thường mang tính cách xấu xa.
Hoặc nhân vật có tính cách địa chủ như trong truyện Đứa con, tàn bạo như cụ
Bá trong Nhà mẹ Lê, ngốc nghếch như Bân trong Sợi tóc. .. Lòng căm ghét
những kẻ giàu có nhưng xấu xa của Thạch Lam tuy âm thầm, nhưng dữ dội,
38
nó gần như là một nỗi ám ảnh. Có lần Khái Hưng đọc đến tên một người bạn
giàu sang Thạch Lam chau mày nói “ồ tôi ghét hắn ta lạ...trong cái má hắn ta
phinh phính, cái bụng hắn ta xệ xệ: [47 tr, 2]. Đây cũng có lẽ là tâm sự chung
của những người tiểu tư sản có học, có đọc, luôn suy nghĩ về nhân tình thế
thái. Họ ghét cái đầu óc trưởng giả, cái nhân cách của kẻ trọc phú, không biết
sống một cách thanh tao, thậm chí còn hết sức độc ác với những người nghèo
khổ.
Cách xây dựng kiểu nhân vật người nghèo trong tác phẩm của Thạch
Lam cũng mang một phong cách rất riêng. Họ được miêu tả bằng một số
đường nét, chi tiết đơn sơ mang tính chất chấm phá nhưng vẫn hết sức chân
thật. Cuộc đời họ không thi vị hóa như một số văn sĩ lãng mạn khác, nhưng
ông cũng không miêu tả đến tận cùng những nỗi khổ sở điêu đứng có thể làm
bi thảm thêm cuộc đời họ. Ở mảng đề tài này những tác phẩm của Thạch Lam
có nét gần gũi với những nhà văn đương thời như Nam Cao, Nguyên Hồng..
Nhưng Thạch Lam nhìn hiện thực và đánh giá nó theo con mắt của riêng ông.
Những truyện ngắn của Nguyên Hồng làm sống dậy cuộc sống lam lũ, cơ cực
bần cùng của những người lao động nghèo khổ, ở các vùng ngoại ô, ngõ hẻm
các thành phố lớn như ngoại ô Bạch Mai, ô Yên Phụ, bãi Phúc Xá, bãi Nhà
Dầu ở Hà Nội...hay xóm Chợ con (Hải Phòng)..Nhân vật của Nguyên Hồng
hiện lên với nỗi khổ cùng cực được miêu tả một cách khá tỉ mỉ. Trong những
xóm nhà lá lợp tôn chen chúc, lúp xúp với những ngọn đèn leo lét ấy đêm đêm
vẫn vang lên những tiếng vo vo của đàn muỗi và tiếng ú ớ trong giấc ngủ mệt
nhọc của những người lao động nghèo...Những ngày mùa hè luôn luôn có
tiếng ầm ầm xô xát nhau vì những chuyện nhỏ nhặt. Đọc truyện của Nam Cao
người ta bắt gặp rất nhiều những cảnh cãi vã, chửi bới, đánh chửi nhau của
những con người vốn đã khổ trăm bề. Còn tác phẩm của Thạch Lam trước cái
khổ trăm bề con người chỉ biết âm thầm chịu đựng một mình “mỗi nhà đều
39
lặng lẽ âm thầm và chịu khổ một mình, không than thở với láng giềng, hàng
xóm lời gì, ai nấy đều biết cũng nghèo khổ như nhau”[49. tr26]. Nhân vật của
Thạch Lam không bao giờ vì nghèo, vì bị đầy đọa mà trở nên điên rồ, liều
lĩnh đến đường cùng, trở thành lưu manh, trộm cắp. Đó là một nét riêng biệt
mà người đọc nhận ra sự khác biệt với các nhà văn đương thời.
Ngòi bút của Thạch Lam tỏ ra thận trọng khi khai thác các mặt tốt đẹp
của người lao động. Trong các tác phẩm của nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng,
dân quê hiện ra như một đám người ngờ nghệch, dốt nát, ngu đần sống ù ì bản
năng như những “con lợn không có tư tưởng”. Người nông thôn phần lớn là
quê mùa cục mịch như những chú Mộc trong Hồn bướm mơ tiên hay có cử
chỉ đến lố bịch như anh Vọi trong Trống mái. Thạch Lam không thể chấp
nhận cách gán ghép cho những nhân vật của mình như vậy “Những đức tính
và tật xấu mà người dân quê thực không có” [49 tr 58]. Ông nhìn thấy những
niềm vui bình dị, những ước mơ nho nhỏ, những đức tính tốt đẹp tiềm ẩn
trong họ. Cuộc sống đối với cô hàng xén vất vả quanh năm ấy là sự hi sinh vì
mọi người. Trước cái chết của Bác Lê, những con người cùng khổ đã thể hiện
tấm lòng nhân ái, đồng bào. Dù ai nấy đều túng thiếu cả, nhưng họ đã “gom
góp nhau mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng” [47 tr
30 ]. Người lính cũ của Thạch Lam lâm vào cảnh cùng quẫn, xuống đến cái
chót dốc của sự bần cùng vẫn giữ được tính khí khái hiếm có. Thái độ nâng
niu trân trọng của Thạch Lam thật khác xa với các tác giả trong cùng Tự lực
văn đoàn với ông. Một nhân vật trong Lầm than đã từng thốt lên ; “ Khốn
nạn, cái vui, cái sướng của bọn nghèo khổ thật trơ trọi thực chẳng đắt đỏ là
bao”
Mặc dù vậy, Thạch Lam chưa đi sâu vào tìm ra căn nguyên của sự nghèo
khổ, chưa đi sâu vào tìm hiểu bản chất giai cấp mà ông mới dừng lại ở chỗ
băn khoăn, cảm thương chung với số phận người nghèo. Ông đã chủ quan và
40
ảo tưởng khi cho rằng “Chỉ một chút âu yếm, một chút tình thương, cũng đủ
để an ủi những người cùng khổ ấy”. Lòng trắc ẩn của ông tuy chân thành,
nhưng mới chỉ là thứ nhân đạo trừu tượng, do đó cuộc đời tầm thường đáng
thương của người dân nghèo trong truyện ngắn của ông cứ lặng lẽ trôi đi,
trong sự an phận, chịu đựng, cái thế giới tĩnh tại ấy dường như không thay đổi.
Sự cam chịu ấy cũng là một đặc điểm thuộc về bản chất của một kiểu nhân vật
phổ biến trong các tác phẩm của ông.
2.2.2. Nhân vật người phụ nữ.
Đối với các nghệ sĩ-dù sáng tạo trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác
nhau, nhưng hình tượng người phụ nữ luôn có một sức mạnh, sự quyến rũ để
các nhà văn hướng ngòi bút của mình đến. Và họ đã trở thành đề tài sáng tác
của các thế hệ nhà văn từ cổ tới kim...Chỉ tính riêng trong văn học Việt Nam
từ 1930-1945, người phụ nữ cũng nổi lên trong văn học như một hình tượng
nghệ thuật hết sức quen thuộc và quan trọng. Ở mỗi tác giả bên cạnh những
điểm chung, hình tượng này lại mang những nét rất riêng biệt. Người phụ nữ
trong các tác phẩm của Thạch Lam đa số là những người mẹ, người chị, hiền
lành chất phác, giản dị, chịu thương chịu khó theo đúng khuôn mẫu cổ truyền.
Những con người này hoàn toàn phù hợp với khung cảnh nghệ thuật quen
thuộc trong tác phẩm của Thạch Lam: Những làng quê, ngõ huyện thanh bình
nhưng đìu hiu. Không gian ấy chính là của họ, là môi trường để họ sống và
bộc lộ tính cách và bản chất. Thạch Lam hiểu họ và cũng rất yêu vẻ đẹp tiềm
ẩn trong họ. Điều này thật khác với các nghệ sĩ lãng mạn khác, những bạn văn
của ông thời ấy. Trong tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, hình
ảnh những cô gái mới, những cô gái thành thị với nhưng suy nghĩ và hành
động cũng hết sức tân thời chiếm đa số.
Người phụ nữ thường được gọi một cách âu yếm là phái đẹp, Thạch Lam
là người chuộng cái đẹp và hết sức tinh tế trong việc nhận thức cái đẹp đó.
41
Trong cuộc sống hàng ngày từ cách ăn mặc của ông cũng mang một phong
thái riêng. Đôi khi ông mặc một bộ vét bạc màu, nhưng lại thắt một chiếc ca
vát đắt tiền. Người ta gọi đó là phong cách có điểm sáng. Phong cách đó cũng
thể hiện trong sự sáng tạo của ông. Khi miêu tả ngoại hình người phụ nữ, đặc
biệt là các cô gái trẻ, Thạch Lam không mô tả toàn bộ chân dung của họ, mà
chỉ chọn lọc để khắc họa nét ngời sáng nhất. Chính vì vậy, ông rất chú ý thể
hiện đôi mắt của các cô gái. Theo quan niệm Phương Đông, đôi mắt là cửa sổ
tâm hồn, là nơi tập trung toàn bộ tinh lực của con người. Chính vì vậy khi đọc
tác phẩm Truyện Kiều nổi tiếng của Nguyễn Du các nhà nghiên cứu cho
rằng, trong tác phẩm chỉ có nhân vật Thúy Kiều là được tác giả tập trung miêu
tả đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”, cũng chỉ có Kiều là con người giàu
tình cảm, có tấm lòng trắc ẩn nhất trong thế giới nhân vật của Nguyễn Du. Đôi
mắt của các thiếu nữ trong truyện ngắn của Thạch Lam thường không giấu
được vẻ ngây thơ chưa từng biết đến những khuất khúc của cuộc đời. Trong
truyện ngắn Nắng trong vườn, chàng trai thấy rung động cả tâm hồn khi cô
gái “đăm đăm nhìn tôi, hai mắt như cánh hoa tím ướt” [50 tr 13]. Đôi mắt
“đen lánh và thơ ngây như đôi mắt trẻ con” còn cô gái nhỏ trong Tiếng sáo
cũng gây được ấn tượng đối với độc giả. Đôi mắt trong sáng như hé cười với
cái miệng hơi hé trên hàm răng nhỏ và trắng muốt của Mai trong Bóng người
xưa cũng là một nét duyên dáng của nhân vật. Các thiếu nữ của Thạch Lam
đẹp một cách ngây thơ và kín đáo. Ngay cả những cô gái sống trong vũng bùn
trụy lạc vẫn có một vẻ đẹp riêng. Ở những cô gái làng chơi, Thạch Lam vẫn
nhìn thấy “hình như có một chút nước mắt vừa rơm rớm bờ mi nàng” [51. tr
24]. Những dáng vẻ bề ngoài mong manh ấy phần nào phản chiếu tâm hồn dịu
dàng đáng yêu, nhưng cũng hết sức yếu ớt trước cuộc đời.
Theo nhận xét của những người cùng thời, Thạch Lam một họa sĩ có tài.
Điều này đã góp phần không nhỏ vào văn nghiệp của ông. Dưới con mắt
42
người nghệ sĩ ấy, bức tranh miêu tả người phụ nữ thật giàu sức gợi cảm:
“Người cô nổi lên trên nền lá xanh như một bông hoa trong sáng sớm. Tà áo
trắng của cô theo chiều gió bay phất phới với tất cả ánh nắng, lá cây, bóng
mát cũng hình như đang tưng bừng rờn múa chung quanh người thiếu nữ tươi
tắn ấy” [51,tr14]. Đứng trước người con gái tràn đầy sức sống thanh xuân ấy,
có chàng trai nào lại không muốn trở thành thi sĩ. Nhân vật nữ trong các tác
phẩm của Thạnh Lam bao giờ cũng hiền hậu, dù đó là những người thiếu nữ
hồn nhiên nhí nhảnh hay những bà mẹ, những người bà lưng đã còng đi theo
năm tháng. Trong một số truỵên chúng ta bắt gặp hình ảnh những người bà
hiền từ âu yếm như những bà tiên trong các câu truyện cổ tích. Đó là bà của
Thanh trong Duới bóng hoàng lan bà của Tiên trong Bên kia sông, với mái
tóc bạc phơ, mồm nhai trầu bỏm bẻm và đôi mắt sáng chan chứa tình yêu
thương ân cần đối với những đứa cháu yêu quý. Những hình ảnh ấy quá đỗi
thân thuộc với chúng ta chính vì vậy mà nó dễ đi vào lòng người.
Những nhân vật nữ trong các truyện ngắn của Thạch Lam thường là
những phụ nữ nông thôn thuần hậu hoặc ít ra cũng có nguồn gốc từ nông thôn.
Ở điểm này nhà văn có sự gặp gỡ với các nhà văn hiện thực phê phán như
Ngô tất Tố, Nguyên Công Hoan. Nhưng những nhân vật này được nhìn qua
một lăng kính rất khác của Thạch Lam so với các nhà văn kể trên.
Hình tượng người mẹ được miêu tả với tất cả sự trân trọng và yêu quý.
Những người mẹ ở đây là linh hồn là trụ cột trong mỗi gia đình. Chính vì vậy
“người ta gọi mỗi gia đình bằng tên người mẹ: nhà mẹ Lê, nhà mẹ Đối, nhà
mẹ Hiền,”[47 , tr29]. Người mẹ trong Nhà mẹ Lê là một người đàn bà nhà
quê chắc chắn, thấp bé, da mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô.
Đó là hình ảnh tiêu biểu của bà mẹ nông dân Việt Nam: Khắc khổ, lam lũ.
Tuy sống một cuộc đời lam lũ thiếu thốn trong căn nhà lụp xụp trông như một
cái ổ chó, nhưng mẹ Lê vẫn có cái niềm vui giản dị của một gia đình xum họp
43
“một bữa cơm nóng giữa buổi tối giá rét, mẹ con ngồi xúm quanh nồi cơm bốc
hơi trong khi bên ngoài gió lạnh rít qua mái tranh” [47 tr31]. Không khí đầm
ấm ấy được tạo nên bởi tình cảm bao la đằm thắm của người mẹ.
Trong muôn ngàn hình ảnh của người phụ nữ lao động Việt Nam, ông đã
chọn lọc và khắc họa một hình ảnh tiêu biểu: cô hàng xén. Những ai đã từng
sinh ra và lớn lên sau lũy tre làng hẳn sẽ hiểu được điều này. Những cô hàng
xén xinh xắn, tần tảo dường như không thể thiếu trong các chợ ở vùng đồng
bằng trung du Bắc Bộ. Cô hàng xén Tâm trong truỵên ngắn cùng tên của
Thạch Lam cũng hội tụ đầy đủ nét duyên dáng như thế. Ngày lại ngày, cô
nhẫn nại đi về với gánh hàng rẻ tiền nhưng “đòn gánh cong xuống và hàng
nạng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp của bước đi” [51 ,tr 37 ]. Tâm
hồn của cô hàng xén thật trong sáng. Ước mơ của cô biểu thị một lấm lòng vị
tha cao cả, đó là ước mơ mua giấy bút để cho các em nàng ăn học, và Tâm mơ
ước đến một ngày sau này khi các em của cô sẽ thành công. Hạnh phúc của
những cô gái như thế được tìm thấy trong sự hy sinh vì người khác, đồng thời
cô cũng tự ý thức được về mình. “Cô thấy lòng ấm áp và tự kiêu, lòng người
chị chịu khó nhọc để kiếm tiền nuôi các em ăn học” [51 ,tr 35]. Phải chăng đó
là nét đẹp riêng mà Thạch Lam đã tìm thấy ở cô. Trách nhiệm với gia đình
luôn là một gánh nặng đối với những người phụ nữ yếu ớt và bé nhỏ. Thạch
Lam đã nhìn thấu suốt cuộc đời của họ khi đang còn là một thiếu nữ đến khi
trở thành một thiếu phụ “toàn những khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia
như tấm vải thô sơ”. Mặc dù vậy, bất luận trong hoàn cảnh nào, những người
phụ nữ này cũng không bị tha hóa. Khi đã có gia đình, đối với các em mình,
Tâm vẫn cứ là người chị giàu đức hi sinh như ngày nào. Nàng sẵn sàng rút đến
đồng tiền cuối cùng đưa cho em nộp học dù biết rằng đó là tiền lấy họ của
chồng và biết cơn giận dữ sẽ trút xuống đầu mình.
44
Bên cạch những người phụ nữ như Tâm, mẹ Lê- những người phụ nữ mà
bản chất tốt đẹp luôn giữ được bất chấp hoàn cảnh khắc nghiệt, ta cũng gặp
không ít những nhân vật phụ nữ trong các truyện ngắn của Thạch Lam những
người phụ nữ vì nghèo mà sa chân lỡ bước. Nhân vật Mai trong Trong bóng
tối buổi chiều, vì không thắng nổi sự cám dỗ của vật chất phù hoa đã tự biến
mình thành đồ chơi cho chủ, phản bội lại mối tình đẹp đẽ chân chính của
mình. Cô gái mộc mạc quê mùa ngày xưa đã có “nhẫn ở ngón tay và hoa tai
lấp lánh dưới mái tóc, sang trọng như các bà giàu có”[50 ,tr 93] mà không
phải bằng sự lao động chính đáng của mình. Ở truyện ngắn “Đói” khi đã bị
dồn đến bước đường cùng Mai đã không giữ được mình, nàng đã phản bội lại
chồng mình. Nhưng nói một cách công bằng hành động bán thân của nàng
cũng là vì chồng, nàng không đành nhìn chồng đang đói lả. Vì chồng mà phản
bội, đức hi sinh của người phụ nữ ở đây được đặt vào một hoàn cảnh thật trớ
trêu. Chính vì vậy mà đã tạo nên một màn bi kịch. Tuy nhiên những người
phụ nữ như thế thỉnh thoảng mới xuất hiện trong truyện ngắn của Thạch Lam
còn đại đa số các nhân vật nữ trong truyện ngắn của Thạch Lam đều là những
con người trong sáng, chân chất.
Khi đọc những truyện ngắn của Thạch Lam, chúng ta đều thấy những
nhân vật nữ trong tác phẩm đều là những con người an phận. Trước khó khăn
khổ sở họ chỉ biết than thở, thở dài. Nhìn đàn con ốm yếu mẹ Lê cảm thấy đầy
đủ sự bất lực của mình, chỉ biết khóc than cho thân phận hẩm hiu. Tâm trong
Cô hàng xén suốt đời cam chịu đi theo một lối mòn mà không biết ai đã đặt
ra cho mình . “Làm việc đối với Tâm là cái lệ chung của người ta. Cô thấy
chung quanh toàn là những đàn bà chịu khó vất vả làm ăn để nuôi chồng,
nuôi con. Không bao giờ cô có ý nghĩ cho mình, cho cuộc đời cô” [51, tr 36].
Tâm yên phận theo những nền nếp dường như là tiền định đối với người phụ
nữ, để sống một cuộc đời buồn tẻ, nhạt nhẽo u ám không có lấy một ngày thực
45
sự sung sướng. Cũng như thế trong Hai dứa trẻ “Liên thấy mình sống giữa
bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng
một vùng đất nhỏ” [50, tr 117]. Những người phụ ấy không bao giơ thoát khỏi
luy tre làng. Họ chỉ mơ hồ biết về cuộc sống khác đẹp và rực rỡ hơn. Nó chứa
đựng nhiều điều mới lạ mà họ chưa biết và có lẽ họ sẽ không bao giờ biết
được.
Trong xã hội thực dân phong kiến những người dân nghèo là những
người phải chịu nhiều áp bức bóc lột. Và người phụ nữ bao giờ cũng là những
người phải gánh chịu nhiều nỗi áp bức nhất. Người phụ nữ trong tác phẩm của
Thạch Lam là những con người luôn cam chịu, theo những khuôn mẫu có sẵn,
nó buộc phải phục tùng chồng con, gia đình như kẻ ở trong gia đình. Qua năm
tháng “dần dần Mai nhẫn nại sống bên cạnh chồng sẵn sàng cúi đầu trước
những lời chửi mắng”[50, tr98”]. Cuộc đời của Dung trong Hai lần chết, là sự
lặp lại cuộc sống bị đầy đọa của Liên trong Một đời người, tuy rằng một
người ở nông thôn, còn người kia ở thành thị. Ngày lại ngày, họ lại phải chịu
những nỗi khó nhọc, vất vả của công việc lao động và sự áp bức về tinh thần.
Kẻ hành hạ họ không phải là ai khác mà chính là những đức ông chồng vũ
phu, những bà mẹ chồng cay nghiệt. Họ là những người khổ sở những thiếu
lòng nhân ái, chính vì vậy mà khi có điều kiện họ sẵn sàng hành hạ những
người yếu thế hơn mình. Người phụ nữ như vậy khi về nhà chồng họ thường
có tính nhẫn nại cao. Dung đã cố vùng vẫy thoát khỏi cuộc sống khắc nghiệt
bằng cái chết khi mới 14 tuổi. Nhưng số phận phải khiến cô tiếp tục sống tiếp
cuộc đời khổ nhục. Cái chết nằm trong sự sống, đó chính là điều đáng sợ nhất.
“Lần này về nhà chồng, nàng thực sự là chết đuối, chết không bấu víu vào đâu
được. Chết không còn ai cứu vớt nàng ra nữa” [47 ,tr 123]. Họ cam chịu sống
vật vờ như một cái bóng, âm thầm gắn cuộc đời mình vào cuộc đời của những
người khác, thậm chí đành nhắm mắt để hạnh phúc tuột khỏi tay mình. trong
46
Một đời người khi cha mẹ của Liên ngỏ ý muốn gả cho Tích, lấy cớ rằng hai
nhà vẫn quen biết nhau, Liên không bằng lòng nhưng nàng cũng không từ
chối. Nàng nghĩ rằng mình sinh ra để chịu sự sai khiến, không dám phản
kháng bao giờ. Sau khi đã nếm cảnh bị “đầy đọa” ở nhà người Liên vẫn
không dám dứt bỏ cái đã đày đọa mình để đón nhận niềm hạnh phúc xứng
đáng “Nàng ẵm con ra tiễn Tâm ngoài ga, rồi để Tâm một mình bước lên xe
hỏa mang theo cái hi vọng cuối cùng của đời nàng” [ 47 , tr 119] Vì nhu
nhược, cam chịu và yếu hèn, Liên đã tự chặt đứt chiếc cầu nối tới bến bờ
hạnh phúc đích thực của mình. ở điểm này nhân vật phụ nữ của Thạch Lam
mang nét “cổ” hơn những tác giả cùng thời như trong những tác phẩm của
Nhất Linh, Khái Hưng. Mai trong Nửa chừng xuân là một nạn nhân của lễ
giáo phong kiến khắc nghiệt. Mai đã chống đến cùng chế độ đa thê, đã nói
thẳng vào mặt bà Án : “Nhà tôi không có mả lấy lẽ”. Và kiên quyết bảo vệ
tình yêu lí tưởng. Trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh khi không thể cam chịu
nhẫn nhịn được nữa, Loan đã nói thẳng với mẹ chồng phong kiến “Không ai
có quyền chửi tôi, không ai có quyền đánh tôi. Bà cũng là người, tôi cũng là
người không ai hơn ai kém ai”. Các nhân vật của Thạch Lam phần lớn đều
thiếu ý thức đấu tranh để đòi quyền sống, quyền được hạnh phúc. Cùng sáng
tác trong một thời kỳ, nhưng nhân vật chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất tố
đã có hành động quyết liệt đến „Tức nước vỡ bờ”. Còn nhân vật phụ nữ của
Thạch Lam thì hiền lành, cam chịu hơn nhiều. Đây cũng là một nét đặc trưng
của phòng cách Thạch Lam. Ông vốn ưa những gì mong manh và rất bình
yên, ưa những sự thầm lặng lẻ loi hơn là sự ồn ào, bạo động. Chính vì vậy mà
ông đã xây dựng trong những tác phẩm của mình những hình tượng người phụ
nữ chỉ biết cam chịu, chấp nhận hoàn cảnh và hoàn toàn xa lạ với những nhịp
sống sôi động đương thời.
47
Song song với việc miêu tả những người phụ nữ lương thiện thì trong một
số những tác phẩm của ông chúng ta thấy nổi bật lên là cuộc đời của những cô
kỹ nữ. Đây cũng là một mảng đề tài được nhiều nhà văn đương thời phản ánh.
Trong Tối ba mươi hình ảnh cô gái làng chơi xuất hiện giữa khung cảnh khá
đặc biệt. Vào thời khắc giao điểm giữa năm cũ và năm mới, nhà nhà đều quây
quần bên nhau xum họp để đón xuân với bao niềm hy vọng, thì hai cô gái vẫn
sống trong cảnh cô quạnh trong buồng chứa. Ngay cả lời chúc của người bồi
săm “ chúc hai cô sang năm mới được...được...”[51, tr 26] có cái ngập ngừng
đầy ẩn ý. Lẽ thông thường người Việt Nam thường chúc nhau năm mới làm ăn
bằng mười năm cũ, ai nỡ chúc hai cô gái tội nghiệp như thế. Nhưng biết chúc
hai cô điều gì, cái ngập ngừng đó đã tô thêm sự thực phũ phàng và đau khổ.
Hình ảnh người kĩ nữ trong truyện ngắn của Thạch Lam với giọt nước mắt
không giữ nổi chảy tràn mi mắt với sự cảm nhận nỗi tủi nhục mênh mang tràn
ngập cả người và đó là những nỗi thất vọng chán chường. Ở điểm này khác xa
với hình ảnh các cô gái giang hồ trong các tác phẩm của Khái Hưng, Nhất
Linh. Cuộc sống giang hồ có một sức hút kì lạ đối với Tuyết- người kĩ nữ
trong tác phẩm Đời mưa gió. Tuyết tìm thấy ở cuộc sống bệnh hoạn ấy một
chất men say kỳ ảo “nó là tiếng gọi của chốn xa xăm huyền bí...đến làm rung
động tâm hồn phiêu lưu của nàng”[12 ,tr 180]. Cô sẵn sàng lăn lộn với cuộc
đời vô định. Dù không được chứng kiến và trải qua cách sống ấy, độc giả vẫn
cảm nhận được mức độ chân thành trong các tác phẩm của Thạch Lam. Cuộc
sống nhơ nhớp ấy rồi sẽ dẫn đến những ngậm ngùi chua chát và nhục nhã.
Khi viết về những người con gái giang hồ Thạch Lam vẫn nhìn thấy ở họ
có những điểm sáng. Thạch Lam đã từng lên án những người mà “chẳng dám
yêu lấy một cái gì, mà cũng chẳng dám ghét lấy một cái gì tha thiết” [49,tr
46]. Lòng yêu ghét của Thạch Lam tuy kín đáo, nhưng mãnh liệt. Chỉ có lòng
yêu thương chân trọng thực sự mới khiến nhà văn nhìn nhận những con người
48
thuộc nấc thang cuối cùng của xã hội ấy như những nhân cách trong sáng.
“Trong những tâm hồn đọa lạc và phiền phức ấy vẫn sáng lên những ý nghĩ
thơm thảo”. Dù ngập ngụa trong vũng bùn tội lỗi, người con gái ấy vẫn khao
khát một cuộc sống lương thiện, trong sạch. Huệ nhớ lại hình ảnh mình “mặc
áo mới đứng trên thềm nhìn mấy bông hoa đào nở trước vườn. Tại sao nàng
lại chỉ nhớ rõ có hình ảnh ấy? Huệ không biết; nàng chỉ mang máng cảm giác
một sự gì trong mát tươi non” [51tr 34]. Cũng giống như Tám Bính của
Nguyên Hồng dù đã sống trong cảnh thừa thãi của đời một Bỉ vỏ vẫn da diết
nhớ những ngày gánh gạo đi bán chợ xa tuy vất vả nghèo nàn nhưng vô tư,
trong sạch.
Trong những tác phẩm truyện ngắn của Thạch Lam, số lượng nhân vật
không nhiều mà chỉ tập trung vào ba kiểu nhân vật tiêu biểu như đã phân tích.
Nhà văn Thạch Lam bao giờ cũng dành tình cảm đằm thắm cho những con
người nhỏ bé này. Dường như những trang sách của ông bao giờ cũng nghẹn
ngào một chút lệ thầm kín của tình thương. Khi viết về số phận những người
trí thức tiểu tư sản, những người bình dân, người phụ nữ các sáng tác của ông
đều có xu hướng đi vào hiện thực.
49
Chương 3 :
KHÔNG GIAN - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM
Nếu không gian cũng như thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, thì có
thể nói trong cuộc sống, thời gian, không gian cũng là hình thức tồn tại của
con người. Văn học và các loại hình nghệ thuật khác phản ánh cuộc sống, thì
thời gian không gian là những biểu hiện của cuộc sống nhất định sẽ được phản
ánh vào văn học để tạo nên thế giới nghệ thuật trong tác phẩm.
Do đó, thời gian và không gian nghệ thuật là những phạm trù của hình
thức nghệ thuật thể hiện phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ
thuật.
3. 1 Thời gian nghệ thuật.
3.1.1 Quan niệm về thời gian nghệ thuật
Là một hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật, nên thời gian nghệ
thuật là thời gian được cảm nhận bằng tâm lí qua các tình tiết, các biến cố có
ý nghĩa thẩm mỹ xảy ra trong thế giới nghệ thuật.
Khác với thời gian khách quan được đo bằng đồng hồ, lịch, thời gian
nghệ thuật nó lại hoạt động theo một quy luật khác. Thời gian ở đây có thể
đảo ngược quay về quá khứ, có thể bay tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén
một khoảng thời gian dài chỉ trong một chốc lát, nhưng ngược lại cũng có thể
kéo dài thời gian của một khoảnh khắc thành vô tận. Cũng có khi con người
lại cảm thấy thời gian ngưng đọng, ngừng trôi. Thời gian được đo bằng
những thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn các hình tượng đời sống
được ý thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ…tạo nên nhịp điệu tác phẩm. Khi ngòi
bút của người nghệ sĩ chảy theo diễn biến của sự kiện thì thời gian trôi nhanh
và khi nào nghệ sĩ dừng lại miêu tả chi tiết thì thời gian như ngừng lại, chậm
lại.
50
Trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật xuất hiện như một hệ quy
chiếu có tính tiêu đề được giấu kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho
thấy đặc điểm tư duy của tác giả. Thế giới nghệ thuật thể hiện từ sự cảm thấy
của con người trong thế giới. Mỗi nhà văn trong hoạt động sáng tạo có một
cách hiểu, một quan niệm về thời gian riêng trong tác phẩm của mình. Như
vậy khi tìm hiểu về thời gian trong tác phẩm nghệ thuật không phải là tìm
hiểu cách biểu thị về thời gian, mà là tìm hiểu, khám phá cách những quan
niệm về thời gian của tác giả.
3.1.2 Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam
“Trong những năm cuối cùng của đời ông, với bệnh lao ngày càng nặng,
có lẽ ông chỉ còn ham thích ngắm nhìn cuộc đời mình cùng sự sống xung
quanh mình” [53. tr 69 ] . Mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo, Thạch Lam
ý thức được cái chết đang đến với mình, ông cảm thấy yêu cuộc sống và quý
thời gian vô cùng.
Từng ngày trôi đi là mất đi số ngày hữu hạn trong cái quỹ thời gian “Ba
vạn sáu ngàn ngày” của đời người, còn thời gian khách quan thì tồn tại vĩnh
viễn như trời đất. Như vậy thì cuộc đời của con người sống trên trần gian sẽ
càng trở nên quý giá. Để có thêm nhiều thời gian, đề bù lại thời gian đã mất,
Thạch Lam đã có những cuộc hành hương tìm về dĩ vãng, với những kỷ niệm
ấu thơ. Có thể thấy rõ khuynh hướng “hồi tưởng quá khứ” trong các sáng tác
của ông. Nhà văn Thế Uyên đã nhận xét “Chất liệu văn chương Thạch Lam
chỉ gồm cuộc sống dĩ vãng và sự rung động tâm hồn tác giả”. Chính vì vậy
mà thế giới nghệ thuật của Thạch Lam được bao trùm bởi thời gian quá khứ.
Cùng thời với Thạch Lam có cả một thế hệ các nhà văn nhìn lại quá khứ
với những nỗi niềm tiếc nuối khôn nguôi: Nguyễn Tuân, Hồ Zếnh, Thanh
Tịnh, Lưu Trọng Lư…Nhưng có điều Hồ Zếnh, Lưu Trọng Lư, Thanh Tịnh là
những “đứa trẻ” đi tìm cái đẹp đã mất của thế giới không còn nữa. Còn
51
Nguyễn Tuân tìm về quá khứ tiếc nuối của một thời vang bóng đã qua, nhưng
những cái đi qua chỉ có ý nghĩa với Nguyễn Tuân khi nó thỏa mãn cái “tôi”
lập dị của mình. Thạch Lam lại khác, ông trở về quá khứ bằng cái nhìn âm
thầm lặng lẽ thâm trầm, kín đáo như con người ông vậy.
Thời niên thiếu, Thạch Lam sống ở phố huyện Cẩm Giàng(Hải Dương).
Tuổi thơ của nhà văn gắn liền với cảnh vật thiên nhiên và con người nơi phố
huyện nhỏ. Con người ai cũng có những kỉ niệm tuổi thơ, những kỉ niệm tuổi
thơ ấy nó nguyên sơ, ám ảnh chúng ta. Với nhà văn Thạch Lam, một tâm hồn
nhạy cảm thì những kỉ niệm tuổi thơ đã trở thành máu thịt, hóa vào tâm hồn
ông với bao nỗi sâu lắng tha thiết. Vì vậy nó đã chi phối không ít những sáng
tác của ông. Quá khứ trong truyện ngắn của Thạch Lam mang đậm vẻ thân
thuộc bình dị của quê hương: từ những mùi bèo dưới ao, mùi rạ ẩm ướt, cảnh
chợ chiều, chuyến tàu đêm nơi phố huyện, tới lũy tre làng…Tất cả những điều
đó ông giữ gìn, trân trọng cất trong “miền nhớ ký ức” để rồi tất cả đi vào
những trang viết của ông rất tự nhiên và giản dị, sâu lắng.
Có thế nói hình ảnh quê hương nông thôn của đồng bằng Bắc bộ in đậm
dấu ấn trong những sáng tác của Thạch Lam. Nổi bật hơn cả là hình ảnh phố
ga nhỏ, nghèo, vắng vẻ của Cẩm Giàng trong những năm đầu thế kỷ XX.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ đã in đậm dấu ấn của cái phố huyện nghèo, mà trung
tâm của bức tranh đó là hình ảnh chuyến tàu đêm. Ở truyện ngắn này, nhân
vật chính chẳng ai xa lạ, mà chính là hóa thân của Thạch Lam và người chị
gái. Hồi kí của bà Nguyễn Thị Thế khẳng định “Tôi không ngờ em Sáu có trí
nhớ dai đến như thế, như truyện em tôi tả lại chị em thức đợi chuyến tàu đêm
qua rồi mới đi ngủ. Năm đó mới có 9 tuổi, em tôi 8 tuổi mà mẹ đã giao cho
hai chị em tôi coi hàng…”
Trong truyện Nhà mẹ Lê – một truyện ngắn xuất sắc, cũng được nhà văn
Thạch Lam lấy chất liệu từ cuộc sống nghèo khổ xung quanh. Bà Nguyễn Thị
52
Thế trong hồi kí có viết “xóm chợ gần nhà tôi toàn là những người làm ruộng
quê ở Nam Hà, Phủ Lý vì lụt lội không đủ sống, nên đưa nhau về đây. Đa số
gia đình làm nghề đi kéo xe, làm mướn như bác Đối, đánh cá với tép như bác
Lê và còn nổi tiếng nghèo vì quá đông con…”
Với cuộc sống thì thời gian không ngừng trôi, hôm nay là hiện tại, ngày
mai đã là quá khứ và nhà văn phải biết nắm bắt lấy những khoảnh khắc của
thời gian một đi không trở lại đó. Nhưng với nhà văn Thạch Lam thời gian
không trôi theo dòng chảy của lịch sử mà trôi theo cảm giác của nhân vật.
Chính vì vậy, mà thời gian trong một số truyện ngắn của ông thường bị nhòe
đi không còn thời gian cụ thể nữa mà là sự đột hiện của nhiều kỷ niệm, hoài
tưởng, ký ức và dĩ vãng…
Khi khảo sát một số truyện ngắn của ông và thống kê lại ta thấy số lượng
những từ “nhớ lại”, “hồi tưởng ra”, “thoáng hiện”, “lờ mờ thấy”…xuất hiện
thường xuyên trong mỗi truyện, liền với suy tưởng của nhân vật. Đấy chính là
thời gian tâm tưởng
Thời gian thông qua kí ức nhân vật, làm sống lại quá khứ tạo sự đối lập quá
khứ với hiện tại.
Thời gian tâm tưởng được Thạch Lam sử dụng với tần số cao trong đa
phần các truyện ngắn của mình như: Người bạn cũ, Một đời người, Đói,
Người lính cũ, Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Trong bóng tối, Tối ba mươi…Ở
đây thường có sự đan xen giữa thời gian hiện tại và thời gian tâm tưởng.
Truyện ngắn Người bạn cũ kể về một anh công chức tỉnh nhỏ, cuộc đời
đầy đủ, ấm no… đến một hôm gặp lại một người đồng chí cũ, anh hồi tưởng
lại thời dĩ vãng xa xôi của mình: “kỷ niệm một thời thiếu niên hăng hái…”
Người lính cũ kể về một người sa cơ lỡ vận trong một đêm gió mưa, giá
rét ở quán nhỏ giữa đồng, hồi tưởng lại quá khứ êm đềm hạnh phúc đã qua khi
53
mình còn đi lính ở Pháp, để rồi âm thầm xót xa luyến tiếc: “Kỷ niệm sung
sướng ấy bây giờ đói với anh ta chua xót biết bao”
Nhà mẹ Lê bác Lê cho đến cuối đời, trước lúc chết trong cơn đói vật vã
với vết đau thân xác do chó nhà giàu cắn “vẫn nhớ lại cả cuộc đời mình…”
Anh chàng Diên trong Trong bóng tối buổi chiều trước nguy cơ sẽ phải
mất người yêu, đã nhớ lại những ngày sung sướng khi còn ở quê nhà nhớ lại
“những kỷ niệm của một tình yêu mộc mạc…”hay cô bé Liên trong Hai đứa
trẻ trong bóng tối mịt mùng của phố huyện nhỏ, nhớ lại Hà Nội, với những kỷ
niệm ngọt ngào thời thơ ấu “Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo …”
Đặc biệt đáng chú ý hơn cả là truyện Đói kể về anh chàng Sinh trong cơn
đói vật vã đã hồi tưởng lại quá khứ của mình: “Sinh thở dài chàng nhớ lại…”
Thạch Lam đã sử dụng thời gian hiện thực và thời gian tâm tưởng đan xen hòa
nhập với nhau tạo nên kiểu thời gian đồng hiện . Mở đầu tác phẩm là thời gian
hiện thực, Sinh bị cơn đói hành hạ, rồi nhìn căn phòng tồi tàn ẩm thấp, Sinh
nhớ lại cái ngày bị sa thải ở Sở chàng làm…Rồi tiếng guốc ở ngoài hè của vợ
kéo chàng về thực tại, nhưng rồi khi vợ về với vẻ mặt thất vọng thì quá khứ
lạo sống dậy trong chàng “hồi ấy chàng còn là một người có việc làm, có lắm
tiền…” Cứ vậy, thời gian của hiện tại và quá khứ đan xen khơi gợi làm nổi bật
tâm lí của nhân vật. Kiểu thời gian đồng hiện không chỉ khơi sâu tâm lí nhân
vật mà tạo nên sự đối lập rõ rệt giữa quá khứ- với những gì đẹp đẽ tươi sáng
đã qua và hiện tại- những gì tồi tệ, tối tăm đang tới. Ngoài ra thời gian đồng
hiện còn góp phần mở rộng không gian của truỵên tạo nên một thế giới nghệ
thuật đa dạng, phong phú, giúp nhà văn tránh được sự đơn điệu, buồn tẻ khi kể
một câu chuyện theo trình tự trước sau của thời gian. Như vậy với cách kể
chuyện theo kiểu thời gian đồng hiện là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
54
Trong truyện ngắn của Thạch Lam, nếu như thời gian của quá khứ luôn
được hồi tưởng với những kỷ niệm ngọt ngào, ấm áp, tươi sáng thì thời gian
hiện thực lại luôn đồng nghĩa với những khổ đau.
Thời gian hiện thực có mặt đa số trong các tác phẩm có tính tự truyện
như: Cô Hàng xóm, Nhà mẹ Lê, Hai lần chết, hai đứa trẻ, Một đời người…
Trong thời gian hiện thực các nhân vật luôn bị cột chặt vào hoàn cảnh,
vào cuộc mưu sinh tính toán của đời thường. Chuỗi thời gian của các nhân vật
chỉ là sự lặp lại đơn điệu, nhàm chán…Tất cả như hòa thành một màu xám xịt,
và cuộc đời, số phận của các nhân vật quá đỗi bi đát, không lối thoát.
Trong truyện Cô hàng xén kể về nhân vật Tâm suốt đời lo toan tần tảo, hy
sinh vì người khác “ngoài giang san nhà chồng phải gánh vác, Tâm lại lo sao
kiếm được đủ tiền để gửi cho các em ăn học”. Thời gian đối với Tâm đồng
nghĩa với những lo toan chồng chất “Đời nàng lại y như trước, chẳng khác gì
những ngày khó nhọc và cố sức lại kế tiếp nhau…”
Nhà mẹ Lê kể về cuộc đời nghèo khổ, cơ cực đến xót xa của gia đình
nông dân một mẹ và mười một đứa con. Hàng ngày cả gia đình phải đối chọi
với thiếu thốn, với cái đói. Miếng ăn của cả gia đình phụ thuộc vào sự may
rủi:
“ những ngày may mắn có người mướn, bác Lê dậy sớm để tối về có bát gạo
nuôi lũ con đói ở nhà. Những ngày không có ai mướn thì cả nhà phải nhịn đói.
cuộc đời của gia đình bác Lê cứ như thế mà lặng lẽ qua, ngày no rồi lại ngày
đói..” Thời gian trôi qua với cái điệp khúc đều đặn, đáng sợ, nó như đang bào
mòn cuộc sống của gia đình bác cùng những gia đình trong cái phố huyện
nghèo đó. Thời gian hiện tại ở đây chỉ giúp cho nhân vật có cảm giác mình
đang tồn tại, chứ không đưa ra một tia hi vọng nào cho nhân vật. Chính vì thế
người mẹ khốn khổ trong cơn vật lộn với cuộc sống để cứu đói cho cả gia đình
đã phải hứng chịu một kết cục bi thảm: là cái chết, để lại một đàn con không
55
biết trông cậy vào ai. Thời gian hiện tại trong truyện ngắn Thạch Lam đồng
nghĩa với cuộc sống bất hạnh của nhân vật.
Ở tác phẩm Hai đứa trẻ, thời gian hiện tại cũng là thời gian tẻ nhạt, đơn
điệu đến nhàm chán. Cảnh phố huyện hôm nay cũng như hôm qua và lặp lại ở
ngày mai: “một ngày như mọi ngày”.
Trong vòng quay khắc nghiệt của thời gian, con người phải sống mòn mỏi
và luôn chờ đợi một điều gì đó.
Qua cuộc đời của Liên( Một cuộc đời) thời gian hiện thực là thời gian
không lối thoát: “ngày nọ nối tiếp ngày kia Liên phải chịu cái đời khổ sở đau
đớn mọi ngày”. Đó là cái khổ một đời người của Liên, của Dung (Hai lần
chết) và biết bao người phụ nữ khác trong xã hội cũ.
Bên cạnh thời gian hiện thực mà Thạch Lam dùng để dẫn chuyện, trong
các truyện đi sâu vào miêu tả thế giới nội tâm của nhân vật, dường như thời
gian bị nhòe đi theo dòng cảm giác. Thời gian được ý thức như một đại lương
không xác định.
-“Một buổi sáng mùng một tết, nàng không nhớ rõ là tết năm nào, nhưng
đã lâu lắm rồi thì phải” (Tối ba mươi)
-“Nàng không nhớ rõ gì cả, ra đến sông lúc nào nàng cũng không biết”
(Hai lần chết)
-“Tâm nghĩ đến trước kia, hình như là đã lâu lắm …” (Cô hàng xén)
Sự lãng quên các yếu tố thời gian trong các trường hợp trên, nhằm kéo
dài sự vô nghĩa, chán chường của những kiếp người. Họ sống mà như không
phải sống, chỉ để tồn tại, không có ý thức.
Trong những tác phẩm truyện ngắn của Thạch Lam có nói đến thời gian
tương lai, nhưng nó chỉ là một tương lai mù mịt không chắc chắn, không rõ
rệt.
56
Ở truyện ngắn Nhà mẹ Lê nó là mốc một thời gian tương lai nhưng thời
gian đó nó lại tối tăm mù mịt, bi thảm. Cái cảm giác lo sợ đè nén tâm can của
những người hàng xóm, khi hàng ngày họ phải chứng kiến cảnh đàn con của
Bác Lê mất mẹ đói lả ngồi ở vỉa hè.
Còn truyện Cô hàng xóm thời gian lại được thể hiện qua tâm hồn của
Tâm. Một lúc nào đó thảnh thơi Tâm “mơ màng nghĩ đến sự thành công của
các em sau này: đỗ đạt rồi đi làm trên tỉnh giúp mẹ, nhà nàng lại mát mặt
như xưa…”. Mặc dù trong suy nghĩ của nhân vật như thế nhưng chúng ta
thấy thời gian tương lai ở đây cũng mờ mịt, không chắc chắn.
Truyện dưới bóng hoàng lan trong cái khung cảnh tĩnh lặng và đầy
hương thơm thì cảm giác thời gian như một sự ngưng đọng. Cái ngưng đọng
được bắt đầu từ khi nhân vật chính là Thanh từ trên tỉnh trở về thăm bà
“phong cảnh vẫn y nguyên như ngày chàng đi xa. Gian nhà vẫn tĩnh mịch và
bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ…”. Cho đến lúc Thanh ra đi “chàng bé
quá và lại đi xa…”. Thời gian ngưng đọng gây cảm giác xao động trong tâm
hồn con người.
Thời gian ngưng đọng, với Thạch Lam như là một sự tận hưởng, muốn
dừng lại thật lâu để nhìn cái đẹp trong sự bảo tồn, gìn giữ trân trọng mến yêu
của nhà văn. Theo Phong Lê “Đây là sự ngưng đọng trong thế giới biến đổi.
Nếu sự biến đổi là theo hướng lụi tàn, bi quan thì sự ngưng đọng là níu giữ
để bảo tồn những gì tốt đẹp, những gì là niềm tin và chỗ dựa cho con người”
[53. tr.66 ]
Khác với trường hợp của Thanh, Tâm (Trở về), sự ngưng đọng không thể
níu chàng ở lại với quê hương, quay về với cội nguồn của mình, song ít ra nó
cũng khiến cho lòng chàng cảm thấy cảm động. Tâm cảm nhận “Cái nhà cũ
vẫn như truớc không thay đổi…vẫn cái gian nhà mà chàng đã sống từ thuở
nhỏ…”
57
Thời gian được cảm nhận như một sự ngưng đọng là một trong những thủ
pháp hay được dùng để đạt tới sự đúc kết thời gian. Làm cho thời gian ngưng
lại ở một khoảnh khắc nhất định, đã từ lâu được nhiều tác giả sử dụng gọi là
“sùng bái khoảnh khắc”.
Theo tác giả Jean – Jacques Rousseau kể lại rằng: Ông đã sống ở Saint-
Pierre những giờ phút hạnh phúc, trong thời đó thời gian không còn tồn tại và
hiện tại dường như vĩnh viễn…
Trong truyện ngắn của Thạch Lam, thời gian nghệ thuật luôn đựơc xây
dựng theo cách cảm nhận thời gian của con người. Do đó, thời gian có lúc trôi
đi thật nhanh, nhưng có lúc dường như ngừng trôi, hoặc trôi thật chậm chạp:
“Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê! (Tản Đà). Thời gian có lúc trôi thật
nhanh. Đó là thời gian của bé Dung (Hai lần chết) chưa phải đi lấy chồng,
dẫu phải sống trong sự ghẻ lạnh của gia đình, nhưng cô vẫn thấy đó là quãng
thời gian cô được an phận, vô tư, không tính toán… Vậy mà “thấm thoắt đã
14 tuổi”… ở đây Thạch Lam đã biểu thị thời gian bằng hai chữ “thấm thoắt”.
Thời gian có lúc trôi thật chậm: nhân vật Thành ( Sợi tóc) trong khoảnh
khắc đấu tranh gay gắt với chính bản thân mình trước sự cám dỗ của đồng
tiền: lấy hay không lấy với những đồng tiền của bạn. Lúc đó Thành thấy “một
lúc bây giờ sao lâu thế”…Sự nhanh chậm của thời gian trong cuộc đời thực
cũng như trong tác phẩm văn học nhiều khi do tâm lý con người mà có.
Với những tác phẩm truyện ngắn của Thạch Lam, ông đã rất thành công
trong việc sử dụng các hình thức thời gian nghệ thuật để tổ chức tác phẩm của
mình nhằm đạt hiệu quả cao trong việc bộc lộ nội dung tác phẩm.
Truyện ngắn Thạch Lam là sự kết hợp nhịp nhàng, không gượng ép của
các lớp thời gian: Đó là thời gian quá khứ tâm lí của nhân vật, thời gian hiện
tại dẫn truyện, thời gian trong tương lai gợi mở, thời gian trong cảm giác…Từ
đó chúng ta thấy được một phong cách rất tài hoa của nhà văn Thạch Lam.
58
3. 2. Không gian nghệ thuật
3 .2 .1 Quan niệm về không gian nghệ thuật
Cùng với thời gian, không gian nghệ thuật là một yếu tố không thể thiếu
trong một tác phẩm. Không gian là môi trường hành động của nhân vật, là bối
cảnh diễn ra các sự kiện, là đối tượng miêu tả, là chất liệu nghệ thuật của các
nhà văn. Không gian ở đây có thể là một nơi chốn cụ thể của một tác phẩm,
cũng có thể là một quang cảnh chung, nó là mối quan hệ giữa các nhân vật với
thời gian.
Con người là nhân vật trung tâm được phản ánh trong các sáng tác của
người nghệ sỹ. Chính vì vậy mà con người có mối quan hệ mật thiết với thế
giới xung quanh, nơi họ sinh ra và lớn lên như: cây đa bến nước, con đò....
Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian, nên mang tính chủ
quan của nhà văn. ngoài không gian vật thể có không gian tâm tưởng. Chính
vì vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, nó không đồng nhất
với không gian địa lí.
Có thể nói rằng không gian nghệ thuật là một phương diện quan trọng của
tư duy nghệ thuật. Có thể phân tích không gian, phát hiện không gian trong
tâm tưởng, lý giải chất động tĩnh thực hư của nó thông qua việc tìm hiểu các
quan hệ khăng khít giữa nó với thời gian nghệ thuật.
3.2. 2. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam
Cùng với việc tìm hiểu về thời gian nghệ thuật, đi sâu vào khám phá
không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Thạch Lam là một bước quan
trọng cho ta thấy được thế giới và con người của nhà văn
Thạch Lam có quan niệm về sáng tác không giống với các nhà văn trong
nhóm Tự lực văn đoàn, mà giọng văn của ông luôn hướng về phía cuộc đời
thực. Chính vì vậy mà không gian làm nên chất liệu nghệ thuật cho nhà văn là
không gian hiện thực hàng ngày.
59
Qua việc khảo sát các tập truyện ngắn của Thạch Lam, chúng ta thấy ở
hầu hết các tác phẩm của ông không gian hiện thực hàng ngày luôn hiên lên
như nó vốn có. Thạch Lam không tạo cho các tác phẩm của mình một không
gian hoành tráng, hay các nhà hàng sang trọng, đến các bãi biển đông vui đầy
nắng, đầy tiếng nói cười như các tác phẩm của Nhất Linh-Khái Hưng. Mà
ngược lại trong các sáng tác của Thạch Lam không gian hiện thực vừa ngột
ngạt, vừa u tối, đằm thắm trữ tình với một vùng nông thôn quen thuộc, ở đó
với những vườn cây yên ả giản dị,…Tất cả được dựng lên với một gam màu
dịu nhẹ, với những nét vẽ chân phương song cũng không kém phần sôi động,
gợi tả.
Không gian hiện thực hàng ngày trong truyện ngắn của Thạch Lam chủ
yếu được miêu tả ở hai phương diện: không gian nông thôn gắn với việc miêu
tả hình ảnh những người nông dân nghèo nàn, cơ cực, chất phác và không
gian thành thị gắn với hình ảnh những người tiểu tư sản với cuộc sống bế tắc
và những người lao động nghèo khổ.
Tuổi thơ của nhà văn Thạch Lam gắn bó với khung cảnh ở nông thôn, phố
huyện Cẩm Giàng. Khi còn nhỏ ông thường theo lũ trẻ chơi ở chợ huyện, hay
đi xúc tép, bắt cá …chính những kỷ niệm thời thơ ấu đã làm cho nhà văn có
một vốn sống, vốn hiểu biết về cuộc sống thôn quê để từ đó ông thể hiện vào
trong những trang văn của mình. Theo nhận xét của GS Phan Cự Đệ “Thạch
Lam viết về những người dân nghèo xóm chợ đó với một niềm cảm thương
chân thành man mác…”
Mỗi một nhà văn đều đưa vào trang viết của mình với những hình ảnh
khác nhau, như Ngô Tất Tố với tác phẩm Tắt đèn với một không gian ở nông
thôn nhưng đó không yên ả mà là nơi tiếng trống, tiếng tù và, tiếng gõ mõ đốc
sưu thuế. Hay không gian nông thôn trong các sáng tác của Hoàng Đạo là
cảnh những người nông dân ăn ở mất vệ sinh. Còn không gian nông thôn
60
trong truyện ngắn của Thạch Lam là một không gian nhỏ hẹp, tĩnh lặng, u
buồn tăm tối, ở đâu cũng gặp những túp lều rách nát, những mái nhà xơ
xác…Đó là không gian gắn với cuộc đời và số phận của những con người
“nhỏ bé”, tội nghiệp, luôn lo sợ bởi cuộc sống ngày càng khó. Đó là một
không gian mà con người chỉ có thể sống một cuộc đời mòn mỏi, vật vờ, cuộc
sống không có ngày mai ( Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Cô Hàng xén…)
Trong truyện Nhà mẹ Lê, hiện lên cả một phố chợ nghèo khổ với “hai
dãy nhà lụp xụp, mái tranh xuống thấp gần đến thềm…” sống bên trong đó là
những con người “đói rét, khổ sở”, hàng ngày phải đối chọi với sự lam lũ, vất
vả để kiếm ăn. Mẹ Lê lam lũ cả ngày mà cả nhà phải nhịn đói, và cũng vì
miếng ăn, vì sự sống của cả nhà mà mẹ Lê phải nhận lấy một kết cục bi thảm.
Với nhân vật Liên và An trong Hai đứa trẻ và những người sống ở phố
huyện nơi hàng ngày có những chuyến tàu chạy qua thì số phận dẫu không bi
thảm như mẹ Lê, song cũng chẳng có gì sáng sủa hơn. Đó là cái phố huyện tồi
tàn, nghèo đói, đó là sự lặp đi lặp lại nhàm chán từ cảnh vật đến con người.
Nơi đây mỗi người một công việc, một tâm trạng khác nhau, nhưng đều gặp
gỡ, quần tụ trong một điểm chung đó là sự nghèo khổ đến tội nghiệp.
Đằng sau lũy tre làng là cả một cuộc đời vất vả lo toan của Tâm ( Cô
hàng xén). Dưới những dãy nhà lụp xụp trong phố huyện nghèo nàn hay sau
lũy tre làng… thì người đọc cũng cảm nhận được sự chật hẹp, tù túng của
không gian. Con người hàng ngày bị bó buộc trong cái không gian đó khiến
cho sự nhàm chán càng thêm nhàm chán. Đó là không gian hiện thực khép kín
mà con người không thể vùng vẫy thoát ra được, mọi hoạt động, mọi suy nghĩ
đều bị chi phối trong đó.
Bên cạnh không gian ngột ngạt, u buồn đó thì trong truyện ngắn của
Thạch Lam, không gian nông thôn còn có một mảng khác tĩnh lặng, thoáng
đãng. ở đây con nguời dường như được trút bỏ hết những lo âu của cuộc sống,
61
của sự mưu sinh đời thường. Con người thấy nhẹ nhõm tươi mát hơn. Đó là
nhân vật Thanh ( Dưới bóng hoàng lan), sau những chuỗi ngày làm việc ở
tỉnh, về thăm quê. Một không gian thoáng đãng, bình dị thơ mộng được mở ra.
ở đây cảnh vật và con người “một vườn cây râm mát với mùi hoàng làm dịu
nhẹ” đến “người bà rất đỗi yêu quý, cùng người bạn gái dễ thương vẫn chơi
với chàng từ thuở nhỏ”. Tất cả đều trở nên gần gũi, lưu luyến gắn bó với
chàng. Dẫu chỉ thu nhỏ trong không gian là vườn cây, một mái nhà giản dị
nhưng người đọc lại không có cảm giác tù túng về không gian. Phải chăng,
những khoảng không gian đó trong số những tác phẩm của Thạch Lam làm
cho người đọc cảm thấy thư thái về tâm hồn và cảm nhận cuộc sống có ý
nghĩa hơn. Tương tự như vậy không gian nông thôn trong truyện ngắn Trở về
cũng là một không gian đẹp, trong sáng và đầy ý nghĩa với Tâm. Dẫu sống
trong cảnh thành thị, sang trọng, chàng gần như đã dứt bỏ quá khứ “không bao
giờ còn nghĩ đến quê nữa”, thì trong lần trở về “bất đắc dĩ” ấy, Tâm cũng
không khỏi cảm động. Vừa đến đầu làng “một cảm giác mát lạnh trùm lên hai
vai Tâm”. Không gian bình dị hiện hữu trước mắt chàng với “cánh đồng lúa
xanh gió đưa như nổi sóng’’ với “vòm lá tre xanh trong ngõ’’ Một không gian
rất đặc trưng cho làng quê Việt Nam; yên tĩnh thanh bình và thức dậy trong
lòng người những nỗi niềm man mác.
Khác với Tâm (Trở về), nhân vật Tâm trong truyện ngắn Những ngày
mới khi nhận ra cuộc sống ở thành thị vô vị nhàm chán, chàng trở về gắn bó
với làng quê và đã tìm thấy niềm vui của con người cùng cảnh vật ở quê
hương. Giữa không gian nông thôn bình dị, thoáng đãng đó “mỗi cơn gió hay
mầm cỏ đối với chàng đều có ý nghĩa riêng’’
Chính không gian trong trẻo ấy có tác dụng không nhỏ trong việc nâng
đỡ, níu kéo tâm hồn con người, thậm chí có khi thức dậy những ước mong rất
62
đỗi giản dị nhưng không dễ thực hiện được của con người, đó là trở về với
làng quê của mình.
Huệ, Liên (Tối ba mươi) dẫu mang thân phận là những cô gái giang hồ
nhưng trong phút giao thừa-khoảnh khắc thiêng liêng của trời đất, đã hướng
tâm tưởng của mình về thời thơ ấu, chốn quê hương,làng quê thân quen.
Nhân vật Diên (Trong bóng tối buổi chiều), biết rằng mình sẽ mất
người yêu, chàng đã để cho tâm hồn trôi theo dòng kỷ niệm. Ở đấy là làng quê
thân yêu rất đỗi mộc mạc, nên thơ mà chàng và Mai đã lớn lên.
Không gian hiện thực trong truyện ngắn Thạch Lam còn được thể hiện ở
bình diện : không gian thành thị . Nếu như không gian thành thị trong các tác
phẩm của Nguyên Hồng tràn đầy những âm thanh hồn hậu, lạc quan, nhộn
nhịp của cuộc đời lao động mồ hôi và nước mắt…còn không gian thành thị
trong các tác phẩm của Thạch Lam không ồn ào, rất tĩnh lặng nhưng cũng hết
sức ngột ngạt. Nó giống như cuộc đời bất hạnh của những kiếp người gắn bó
với nó. Tất cả là nơi con người hoặc đánh mất mình hoặc kéo dài cuộc sống
vô nghĩa một cách bế tắc (Trong bóng tối buổi chiều, Tối ba mươi, Một cơn
giận, Một cuộc đời,..) Đấy là một nhà máy với những bức tường loang lổ cũ
kỹ (Trong bóng tối buổi chiều) đang phôi thai trong nó mầm mống bi kịch.
Phía sau nó là cuộc sống nhộn nhạo trái với luân thường đạo lí tiêu biểu cho
một xã hội nửa tây nửa ta. Ở đó, Mai tự đánh mất mình, còn Diên thì rơi vào
bi kịch : bất lực trước việc mất người yêu.
Hay đó là một căn phòng nhà săm ẩm ướt, tồi tàn, bẩn thỉu (Tối ba
mươi), là môi trường buộc Huệ, Liên phải trải qua chuỗi ngày cơ cực đắng
cay với số phận của những con người “dưới đáy xã hội’’. Còn nữa đó là “một
dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và
hôi hám tràn đến cả thềm nhà. Trong cái hang tối tăm và bẩn thỉu ấy, sống
một đời sống khốn nạn những người gầy gò, rách rưới như những người trong
63
một cơn mê” (Một cơn giận). Nó là không gian chứa đựng cuộc đời của anh
phu xe (Du) và những người lao động bần hàn… Nó là hiện thân cho những
tai họa vô phương cứu chữa của những con người nghèo khổ.
Có ý kiến cho rằng tính chất bó hẹp và trùng lặp của không gian truyện
ngắn Thạch Lam phản ánh cái bi kịch của xã hội mòn mỏi, tù túng, chật hẹp,
không lối thoát. Điều này cũng đúng một phần. Nhưng có lẽ đó chưa phải là
nguyên nhân đích thực. Sự trùng lặp ở một khía cạnh nào đó là sự sáng tạo
nghệ thuật của các nghệ sĩ đều giúp ta khám phá những đặc điểm lí thú về
phong cách của họ. Những hiện tượng lặp đi lặp lại trong sáng tạo nghệ thuật
của nhà văn là những gợi mở để chúng ta có thể hiểu sâu hơn về một bản sắc
nghệ thuật độc đáo. Chúng ta biết rằng Thạch Lam đã sống một thời thơ ấu ở
phố huyện Cẩm Giàng, ở xóm chợ của những người dân nghèo. Sau này ông
sống ở một căn nhà nhỏ ven Hồ Tây, ít có điều kiện đi lại mà thường chỉ ngồi
viết ở nhà. Trước nhà là một khoảng sân con, một cây liễu ngay bên hồ, cạnh
một cầu ao thô sơ, rủ lá xuống mặt nước. Trong không gian dịu dàng quyến
luyến đó gần gũi với thiên nhiên, ký ức tuổi thơ sống lại và đó cũng là căn
nguyên của việc trong các tác phẩm của Thạch Lam thường xuất hiện những
kiểu không gian bình lặng, êm đềm của những ngõ huyện đồng quê
Bên cạnh đó, cũng có khi không gian thành thị lại trở thành khát vọng
cho những con người nhỏ bé tội nghiệp đang sống mòn mỏi sau lũy tre làng.
Theo triết học Ấn Độ con người có ba trạng thái: tỉnh thức (Jagrat), mơ
mộng (Sphapna) và ngủ không mơ (Sushypti). Cuộc sống là sự liên tục từ
trạng thái này sáng trạng thái khác và giữa chúng dường như không có biên
giới có định. Trạng thái mơ mộng được người Phương Đông xem như một thế
giới khác thế giới thực tại, một không gian không gian khác không gian thực
tại. Mơ mộng là sự mở rộng không gian, đúng hơn là sự hợp nhất không gian
nội tâm và không gian vũ trụ.
64
Nhân vật Tâm (Cô hàng xóm) đã từng thèm muốn, mơ mộng không
gian tỉnh thành qua số phận may mắn của mấy cô bạn lấy chồng trên tỉnh. Đặc
biệt, Tâm nghĩ đến các em sẽ khôn lớn, đỗ đạt ra tỉnh làm việc, không phải
gắn bó với cái không gian ngột ngạt của làng quê nữa. Hay trong truyện “Hai
đứa trẻ” đêm nào cũng thức đợi tàu và qua những vùng sáng lấp lánh trên tàu,
Liên và An “mơ về Hà Nội xa xăm…Hà Nội sáng rực ánh đèn…”. Đấy là
những khát khao mơ ước thay đổi cuộc sống tù đọng giúp con người có thêm
niềm tin vào cuộc sống và giúp cho cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Qua khảo sát một số truyện ngắn của Thạch Lam ta nhận thấy không
gian hiện thực hàng ngày đều được sử dụng làm nền, phông cho nhân vật hoạt
động, đặc biệt là việc thể hiện chiều sâu tâm lí. Những nhân vật này được xây
dựng theo kiểu nhân vật “hướng nội”, Thạch Lam thường dồn nén, thu nhỏ
phạm vi không gian. Không gian dồn nén thu nhỏ nhiều lúc cũng là một dụng
ý nghệ thuật của Thạch Lam, nhà văn để cho nhân vật tự đối diện kiểm
nghiệm đánh giá được chính mình và những gì xung quanh mình một cách rõ
ràng và sâu sắc hơn trong sự bó hẹp của điều kiện sống, điều kiện thể hiện
mình. Đấy là một căn phòng tồi tàn bẩn thỉu nơi nhà săm(Tối ba mươi). Đó là
một rạp hát (Người đầm), có khi không gian lại là một toa xe (Cuốn sách bỏ
quên), hay chỉ là một túp lều nát giữa đồng (Người lính cũ)…
Khi nói đến không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Thạch Lam ta
không thể không nói đến kiểu không gian hồi tưởng của các nhân vật. Chính
không gian hồi tưởng đã góp phần vào việc mở rộng không gian trong truyện
ngắn Thạch Lam.Thông qua việc đan cài giữa không gian thực tại và không
gian hồi tưởng, ta thấy được sự đối lập giữa hai không gian mà nhân vật của
Thạch Lam đã trải qua. Mặt khác giúp cho nhân vật ý thức được sự tồn tại
chông chênh, đầy bi kịch của mình.
65
Người lính cũ trong túp lều rách nát giữa đồng không mông quạnh, với
dáng hình “gầy gò hốc hác, ngồi co ro trên cái bục đát sát vách. Quần áo bác
ta rách nát, trên vải phủ một cái bao gạo đã thủng nhiều chỗ đang phải đối
mặt với bệnh tật đói rách, manh chiếu không đủ che thân đã hồi tưởng lại
những tháng ngày hoàng kim của mình”. Từ không gian một túp lều rách nát
giữa đồng mở rộng sang một không gian khác: không gian sáng lạn của nước
Pháp “những khi khoác tay vợ đi xem chớp ảnh, trong túi có ba bốn trăm quan
vào hàng cà phê uống rượu rồi đi khiêu vũ. Những khi theo vợ về quê ở miền
nam Provence…anh ta nhắc tên tỉnh đã qua, bây giờ xã xôi mù mịt: Jouluose,
Bordeaux…Militry, Saint-Etreuil” (Người lính cũ)
Huệ, Liên ( Tối ba mươi) dẫu phải sống kiếp giang hồ, nhưng trước giờ
phút giao thừa vẫn nhớ về quá khứ “..Đã lâu lắm rồi thì phải, nàng mặc chiếc
áo mới đứng trên thềm nhà nhìn mấy bông hoa đào nở trước vườn…”. Đấy là
quá khứ đẹp đẽ, nhưng lại là “một thời đã xa”, để khi nghĩ về nó, các cô ý
thức hơn về kiếp sống sa đọa của mình.
Bên cạnh đó, trong những truyện ngắn của Thạch Lam, không gian bóng
tối cũng được thể hiện khá nhiều qua các tác phẩm. Bóng tối trở thành nỗi ám
ảnh đè nặng lên cuộc sống của những con người khốn khổ. Đấy là bóng tối
“trên con đường mấp mô chân trâu”. Con đường về nhà của Tâm (Cô hàng
xén). Đó là “bóng tối khắp nơi dồn lại quãng phố hẽm này” trùm lên cuộc đời
Huệ, Liên – hai cô gái giang hồ trong (Tối ba mươi). Cũng là khoảng tối ngập
đầu trong dãy nhà lụp xụp, thấp lè tè xiêu vẹo trong (Một cơn giận) Khoảng
tối trùm lên khắp phố huyện với ánh sáng le lói tạo nên vẻ “hiu hiu đạm đạm”
trong Hai đứa trẻ… Bóng tối được Thạch Lam sử dụng một cách đầy dụng ý.
Nó như là sự đồng nghĩa với đói, rét, cơ cực, tủi nhục… tạo thành một hiện
thực bủa vây, hành hạ con người và cũng qua đó nhà văn đã tô đậm một mảng
số phận, bi kịch của những con người nghèo khổ trong xã hội.
66
Để thực hiện thành công dụng ý nghệ thuật của mình, bên cạnh không
gian hiện thực hàng ngày, Thạch Lam còn biểu hiện một trục không gian khác
đó là “không gian hòa quyện vào thời gian”. Ở đây không gian và thời gian
không hề chia cắt. Nó như tương trợ lẫn nhau làm cho tình huống truyện càng
trở nên dồn nén. Từ đó giúp nhà văn khắc họa sâu nét tâm lí của nhân vật, tính
cách nhân vật và tập trung thể hiện chủ đề tư tưởng của mình. Trong truyện
ngắn Hai đứa trẻ ứng với cái không gian của phố huyện tù túng giam hãm con
người là “Giờ khắc của ngày tàn”. Cuộc sống tẻ nhạt của hai chị em Liên và
những người dân phố huyện bắt đầu chìm vào đêm tối: “Liên không hiểu sao,
nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”.
Không gian hòa quện vào thời gian đã trở thành một vòng tròn vô hình
khép kín, dồn chặt từng số phận khổ đau, từng kiếp sống lầm lạc của con
người. “Cái trục thời gian – không gian nghệ thuật của Thạch Lam là nơi tồn
tại một thế giới khôn cùng, quanh quẩn, ngột ngạt, từng mảnh đời vỡ vụn, có ý
nghĩa khái quát trong đó hằn sâu lên sự vấn tâm- cũng là lời đối thoại với
cuộc đời của tác phẩm- rằng liệu con người có đủ sức vùng vẫy thoát khỏi
tình trạng khốn cùng của không gian chật hẹp ấy không”? [ 54, tr 70 ]
Các kiểu không gian nghệ thuật đã góp phần vào việc phát triển tính
cách nhân vật. Với biệt tài trong lĩnh vực truyện ngắn, Thạch Lam đã sử dụng
hết sức thành công và linh hoạt các hình thức của không gian nghệ thuật, làm
cho nó thoát không gian vật chất vốn dĩ, tiến đến với không gian nhân bản
không chỉ cho nhân vật mà còn chuyển hóa sâu rộng đến lòng người.
Không chỉ với không gian nghệ thuật, mà còn cả thời gian nghệ thuật,
nhà văn Thạch Lam đã sử dụng nó hết sức nhuần nhuyễn và linh hoạt trong
quá trình sáng tạo. Thời gian và không gian chuyển động, thay đổi, có ảnh
hưởng sâu sắc tới sự thay đổi tính cách của nhân vật. Cũng chính vì thế mà thế
67
giới nghệ thuật của Thạch Lam, đã tạo được một phong cách phong phú và
thật đến bất ngờ .
68
Chương 4
NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU
TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM.
4.1 Ngôn ngữ truyện ngắn Thạch Lam
Trong tôn chỉ mục đích của Tự lực văn đoàn có đề ra yêu cầu về ngôn
ngữ “ Dùng lối văn giản dị, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam”.
Các tác giả của Tự lực văn đoàn đã là những người đi đầu trong việc thực hiện
những tôn chỉ đó. Là thành viên tích cực của Tự lực văn đoàn, Thạch Lam đã
khắc phục thứ ngôn ngữ đậm chất Hán Việt, tích cực đưa ngôn ngữ thuần Việt
vào trong các sáng tác văn chương, mang đến cho truyện ngắn của mình thứ
văn xuôi đạt đến mức độ hoàn hảo, “làm cho tiếng Viêt Nam gon ghẽ đi co
duỗi thêm, mềm mại và tươi đậm hơn”[37 ,tr 60]. Nếu như Tự lực văn đoàn
được đánh giá là có công đóng góp cho sự phát triển của ngôn ngữ văn xuôi
tiếng Việt theo hướng hiện đại thì Thạch Lam cũng có công rất lớn. Cho đến
nay những công lao đóng góp đó vẫn mang nhiều ý nghĩa.
4.1.1 Ngôn ngữ gợi tả cảm xúc, cảm giác.
Thế giới cảm giác cảm xúc trong truyện ngắn của Thạch Lam rất phong
phú: vừa có cảm giác hướng ngoại vừa có cảm giác hướng nội, có những cảm
giác mạnh nhưng cũng có những cảm giác mơ hồ mong manh. Khai thác từ
vốn từ dân tộc, nhà văn đã tìm được cách thức diễn tả được hết các cung bậc
tình cảm.
Tập trung diễn tả cảm xúc trong tâm hồn con người là hứng thú nghệ
thuật và cũng là đóng góp của Thạch Lam. Nhân vật của ông chủ yếu cảm
nhận thế giới xung quanh, giao hòa với người khác bằng cảm giác, nhờ có
cảm giác ấy mà con người có khả năng tự lắng lọc tâm hồn mình. Để vươn tới
được chiều sâu cảm giác, cảm xúc, các nhà văn đã sử dụng khá nhiều các tính
từ, động từ miêu tả trạng thái trong kho từ vựng của Tiếng Việt.
69
Trong văn Thạch Lam có nhiều loại cảm giác khác nhau đều được diễn
tả thật tinh tế. Đó là cảm giác của mặt đất khô rắn làm “đau đớn bàn chân non
nớt” của Tân trong Trở về. Nỗi đau đớn tột cùng khi bị mất đi một cái chân
của mình trong Cái chân què được diễn tả rất giản dị bằng thứ ngôn ngữ rất
quen thuộc “ Toát mồ hôi trán, quả tim đập mạnh”. Để lột tả cơn giận dữ khi
biết vợ ngoại tình của Sinh (Đói), nhà văn dùng những từ ngữ mang sắc thái
mạnh: “Cơn giận dữ nổi lên mãnh liệt trong lòng”; “cái giận như sôi nổi bồng
bột trong lòng”. Trong Cuốn sách bỏ quên kể về một nỗi buồn của một nhà
văn bị vỡ mộng văn chương, Thạch Lam dùng những từ ngữ giàu khả năng
gợi vào chiều sâu cảm xúc “tuy trời không mưa nhưng Thành tựa thấy trong
lòng mưa bụi , buồn rầu và chán nản, một mối buồn không sâu sắc nhưng êm
đềm làm tê liệt cả tâm hồn”. Đó là nỗi buồn nhẹ như mưa bụi nhưng thấm sâu,
đủ làm nguội đi ước mơ cháy bỏng về nghiệp văn chương. Sự ân hận của
Thanh trong “Một cơn giận” thật dai dẳng không làm cho tâm hồn anh được
bình yên. Nó như “ một cái gì đè nặng lên ngực”, làm cho anh “khó thở”
“trong lòng nôn nao” “cảm giác ngẹn ngào chẹn lấy cổ”. Bao nhiêu nỗi uất
ức tủi cực đã đẩy Dung trong Hai lần chết xuống dòng nước lạnh. Trong cơn
đau đớn nàng vẫn cảm thấy rõ “ trí nàng sắc lại khi nước lạnh ập vào mặt,
nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màng đen tối che lấp
cả”. Những từ ngữ sắc mạnh vừa diễn tả nỗi đau thân xác, vừa diễn tả nỗi đau
trong tâm hồn. Đây là cái “rung động” đầy khát khao của bà Cả trong Đứa
con, “một tiếng thở dài sẽ thoát ra môi rồi đôi mắt ráo của bà bỗng mờ đi như
ướt lệ” khi nhìn đứa bé đang rúc đầu vào đôi vú mẹ căng sữa.
Diễn tả cảm xúc vui buồn, đau thương hạnh phúc không phải là điều mới
lạ trong văn chương. Thạch Lam không ưa tô đậm, đẩy cao cảm xúc đến tuyệt
đỉnh mà tìm kiếm lối viết giản dị, cốt yếu nói đúng cảm giác thực. Vì vậy mà
nhà văn không sáng tạo những biểu tượng mới lạ, những từ mới, nghĩa mới.
70
Ông hay sử dụng lại những biểu tượng, quán ngữ thông thường quen thuộc
như : trái tim, qủa tim, tâm hồn, từ đầu đến chân, đứt từng khúc ruột…Những
biểu tượng quán ngữ này mỗi lần đựơc sử dụng lại được sống thêm một màu
sắc cảm giác mới. Chẳng hạn trong truyện Đói trái tim được dùng với nhiều ý
nghĩa cảm xúc khác nhau. Khi thì đầy ắp tình thương vợ “một mối tình thương
tràn ngập vào tim chàng như một làn sóng”. Khi thì bị bóp nghẹt tan nát vì
phát hiện ra vợ ngoại tình “ Một cái sức nặng đè lấy quả tim làm cho chàng
ngừng thở. Hình như trong một giây phút bao nhiêu cái hi vọng sung sướng
của đời chàng tan đi mất”. Khí thì nhỏ bé chặt chội vì không chứa nổi nỗi đau
“Bao nhiêu đau đớn trong tâm can Sinh thổn thức nghẹn ngào. Quả tim không
đủ chứa nỗi đau, Sinh gục mặt xuống bàn”.
Một trong những sáng tạo và đóng góp của Thạch Lam là diễn tả cảm
giác mơ hồ mong manh, và cũng chỉ đến Thạch Lam thì cảm giác này mới
được chú ý diễn tả. Ông có cả một vốn từ vựng phong phú để diễn tả những
cảm giác này như: Băn khuăn, nao nao, bàng hoàng,nghẹn ngào, thấm thía,
khoan khoái, ngậm ngùi, nóng nảy, hồi hộp, bứt rứt, nhẹ nhõm, bâng khuâng,
man mác…Đọc văn Thạch Lam, ta có được những khám phá bất ngờ về
những cảm giác mong manh này.
Trong Dưới bóng hoàng lan, nhà văn rất chú ý diễn tả cảm giác thư thái
êm đềm của đứa cháu sau hai năm đi xa trở về ngội nhà tuổi thơ, được vương
vấn cảm xúc yêu thương ngọt dịu “Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát
như vừa tắm ở suối”; Thanh thấy lòng thư thái và vui sướng “Thanh thấy quả
tim đập rộn ràng”.
Tân trong Đứa con đầu lòng tự ngỡ ngàng với chính mình vì không tìm
thấy được cái sợi dây tình cảm máu thịt với con thơ. Khi thì chàng “tò mò
ngắm nhìn cái đầu phủ tóc đen và mượt”, lúc thì tự thú với lòng mình “Tân
không thấy cảm động như chàng tưởng và cũng không thấy có tình cảm gì đối
71
với đứa con mới đẻ”, “không nhận thấy rõ rệt có cái liên lạc gì với đứa trẻ”.
Bằng ngôn từ rất giản dị, nhà văn đã để cho nhân vật tự thú nhận với lòng
mình một cách thực nhất.
Những cảm giác mơ hồ, mong manh ta thường bắt gặp trong cuộc sống
hàng ngày nhưng lại rất khó cắt nghĩa. Đọc truyện ngắn của Thạch Lam ta
cùng nhân vật trải qua những cảm giác đó. Có khi là cảm giác “chán nản buồn
bực” vô cớ, tự nhiên “thấy khó chịu và gắt gỏng, không muốn làm việc gì”.
Tiết trời “ảm đạm và rét mướt khiến cho cái cảm giác đó rõ rệt hơn” trong
Một cơn giận. Có khi là nỗi ngượng ngùng rất thiếu nữ của một cô gái tự lấy
sáp bôi lên môi mình và ngắm mình trong chiếc gương nhỏ “cô hơi thẹn thấy
bóng mình trong đó, với đôi môi đỏ như sẫm màu” trong Cô hàng xén. Đặc
biệt nhất là cảm giác mơ hồ không hiểu của Liên trong Hai đứa trẻ “Liên
không hiểu tại sao, nhưng chị thấy lòng man mác buồn trước cái giờ khắc của
ngày tàn”. “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết” như
ngọn đèn con chỉ chiếu sáng một vùng hẹp. Những cảm giác hư thực ấy không
thể xác định rõ ràng nhưng chan chứa niềm khát khao hướng về một thế giới
đầy ánh sáng và niềm vui.
Khi diễn tả cảm giác, tâm trạng mơ hồ, Thạch Lam hay dùng những từ
ngữ mang ý nghĩa nước đôi, nước ba như: hay, hình như, thật ra, có lẽ ..chằng
hạn như: “Sau độ ấy, tính nết nàng như thay đổi hẳn hay bây giờ nàng mới
bộc lộ cái tính nết thật của nàng ra” (Tình xưa); “Tôi có một người anh họ
rất giàu và rất ngốc( có lẽ mình cho là ngốc, bởi vì hắn không sử sự như
mình; nhưng thât ra biết đâu cách ăn ở của anh ta lại khôn ngoan hơn, bởi vì
anh ta giàu và sung sướng)” (Sợi tóc).
Diễn tả cảm giác mơ hồ mong manh, nhà văn đã bộc lộ tâm hồn tinh tế
của mình. Ông biết lắng nghe những rung động thầm kín của tâm hồn con
người. Tinh tế hơn nhà văn biết lựa chọn ngôn ngữ nhuần nhị, không cầu kì để
72
diễn tả những cảm giác mơ hồ của con người. Chắc chắn rằng những cảm
nhận tinh tế đó sẽ tìm được điểm gặp gỡ với tâm hồn bạn đọc qua nhiều thế hệ
bạn đọc.
Để diễn tả cảm giác, Thạch Lam thường xuyên sử dụng những động từ
chỉ trạng thái. Đó là những động từ chỉ trạng thái như: yêu ghét, mê, thích,
cảm thấy...Khảo sát truyện của Thạch Lam ta thấy những từ sau xuất hiện trở
đi trở lại nhiều lần : thoáng thấy, bỗng thấy, đột nhiên thoáng thấy, tự nhiên
thấy, hình như thấy, không nhận thấy rõ rệt, bỗng cảm thấy, nhớ mang máng,
thoáng nghĩ, ...Chúng giúp nhà văn diễn tả cảm giác mong manh, như không
rõ nét trong nội tâm nhân vật.
Trong những từ chỉ trạng thái, từ “thấy‟ được sử dụng nhiều nhất. Nó
như một từ khóa, một thứ mật mã nghệ thuật. Kết quả thống kê cho thấy tần
số sử dụng từ “thấy” rất cao. Trong Đứa con đầu lòng có 25 lần dùng từ
“thấy”. Một đời người có 10 lần; Gió lạnh đầu mùa 18 lần..Từ “thấy” được
sử dụng với nhiều cấp độ khác nhau, thể hiện ấn tượng tinh vi, sâu sắc của
nhân vật. Từ “thấy” được dùng với nghĩa “cảm thấy’, “nhận thấy”, “nhận ra”
một điều gì đó mơ hồ sâu kín trong tâm hồn con người ví dụ: “cảm thấy cái
đầm ấm của gia đình” (Cô hàng xén), “thấy lãnh đạm vô lí” (Đứa con đầu
lòng), “Thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát” (Dưới bóng hoang lan)...
Bên cạnh đó nhà văn cũng hay sử dụng những từ chỉ trạng thái hoài niệm
suy tưởng như: nhớ, nhớ đến, nhớ lại, tưởng lại, tưởng nhớ..Ví dụ như: Trong
lúc mê sảng bác Lê “tưởng nhớ lại cuộc đời mình từ lúc còn bé đến giờ, chỉ
toàn những ngày nhọc nhằn, khổ sở” (Nhà mẹ Lê); “Tân nhớ lại cái đất ấy đã
làm đau bàn chân non nớt của chàng khi còn nhỏ ngày ngày cắp sách đi
học”(Trở về); “Nàng tưởng rằng mình sinh ra chỉ để chịu sai khiến mà thôi,
không dám phảm kháng bao giờ” (Một đời người)...Những động từ chỉ trạng
thái hoài niệm được dùng rất phù hợp trong từng hoàn cảnh. Chúng gợi mở
73
những dòng suy tưởng của nhân vật, giúp tác giả diễn tả những cảm giác đột
khởi trong tâm hồn nhân vật.
Thế giới cảm giác, cảm xúc của tâm hồn vốn rất phong phú. Nó đòi hỏi
nhà văn phải nỗ lực tìm kiếm cách thể hiện. Một trong những yếu tố dẫn tới
thành công đó là việc lựa chọn ngôn ngữ. Lựa chọn ngôn ngữ giản dị diễn tả
cảm xúc phù hợp với tâm trạng nhân vật sẽ gợi được sự đồng vọng của người
đọc.
Trong hệ thống ngôn ngữ trong các tác phẩm truyện ngắn của Thạch Lam
chúng ta thấy xuất hiện nhiều những tính từ diễn tả cảm giác của nhân vật về
thế giới xung quanh. Đó là những tính từ vừa miêu tả ngoại cảnh, âm thanh,
vừa miêu tả tâm trạng của nhân vật.
Trong những sáng tác của Thạch Lam không có âm thanh sôi nổi, ồn ã
mang nhịp sống xô bồ gấp gáp mà là những âm thanh rất nhẹ, rất mảnh. Âm
thanh của cuộc sống, của tự nhiên cũng có khả năng khơi gợi chiều sâu cảm
xúc. Nhân vật của ông có khả năng lắng nghe âm thanh rất tinh tế, bởi họ lắng
nghe bằng cảm giác. Ví dụ như tiếng ếch nhái kêu ran “văng vẳng”, tiếng
muối kêu “vo vo” gợi cho Liên nỗi buồn man mác trước giờ khắc ngày tàn.
Tiếng đàn bầu „bần bật trong yên lặng” của bác Xẩm làm não nùng thêm
không gian yên lặng của không gian đầy bóng tối. Những cách hoa bàng rụng
xuống vai Liên “khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một” làm tâm hồn cô “kéo dài
ra theo gió xa xôi” gọi niềm hoài vọng quá vãng” (Hai đứa trẻ). Trong một
đêm mưa gió rét hai đứa nằm trong chăn ấm bỗng lặng người đi vì “qua tiếng
gió, tiếng mưa ở ngoài ...nghe thấy tiếng chiêm chiếm như tiếng chim kêu”.
Họ thao thức trăn trở với sự tưởng tượng “có một con chim ướt át lông xù ra
vì rét, đến chỗ cửa sổ đòi vào vì nó thấy ánh sáng trong phòng ấm áp” (Tiếng
chim kêu). Hay tiếng “lá tre khô và tiếng xao xác” mà Tâm cảm nhận được
khi chân cô dẫm lên lá tre gợi bao thân quen, làm ấm lòng sau một chặng
74
đường dài với gánh hàng nặng. Những âm thanh đó được thâu nhận bằng
những tâm hồn nhạy cảm với từng tín hiệu cuộc sống. Chúng góp phần làm
nên một không gian nghệ thuật giàu chất thơ. Những tính từ được dùng trong
những trường hợp này là những từ láy tượng thanh vừa gợi âm thanh, vừa gợi
cảm xúc như: Chiêm chiếm, xao xác, vo ve, bần bật, rì rào, khe khẽ, tanh
tách... Đây là những từ láy thuần Việt mang vẻ đẹp giản dị của ngôn ngữ dân
tộc.
Những nhân vật của Thạch Lam có cách cảm nhận màu sắc, đường nét
cũng rất tinh tế. Họ ưa trải lòng với những gam màu nhẹ, gợi vẻ đẹp tươi non
mát mẻ, ưa ngắm nhìn những đường nét thanh thoát mềm mại. Đây là cách
cảm nhận khá truyền thống, khác với những gam màu sáng chói những đường
nét gân guốc bắt đầu xuất hiện trong văn chương đương thời. Nhân vật Thanh
trong “Dưới bóng hoàng lan” xốn xang với hình ảnh tươi tắn: “thiếu nữ
xinh xắn trong tà áo trắng mai tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ” “lá rau tươi
xanh ngắt trên bàn tay trắng hồng nhỏ nhắn” “giàn thiên lí pha xanh một bên
tà áo trắng”. Còn đây là vẻ đẹp thanh thoát của những cô gái trẻ trung hài hòa
với thiên nhiên, làm rung động trái tim trai trẻ: “Người cô nổi lên trên nền lá
xanh như một bông hoa trong sáng sớm. Tà áo trắng của cô theo chiều gió
bay phất pho với tất cả ánh nắng, lá cây bống mát cũng hình như đang tưng
bừng dồn múa chung quanh người thiếu nữ tươi tắn ấy” (Nắng trong vườn).
Tình cảm yêu mến được dồn vào từng câu chữ, đặc biệt là những tính từ rất
gợi cảm. Đây là bức họa được tạo nên bởi gam màu sáng dịu, những nét vẽ
mềm mại làm rung động tâm hồn con người.
Cũng có khi nhà văn tạo nên bức tranh với gam màu tương phản, đường
nét ấn tượng: “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng
như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cất hình rõ rệt trên
nền trời của thời khắc chuyển giao giữa ngày và đêm”. Lời văn với những
75
tính từ tương phản về màu sắc làm cho các đường nét, hình ảnh tự hắt chiếu
nhau làm nên bức tranh hoàng hôn ở làng quê có điểm có diện, có xa có gần,
có sáng có tối nhưng rất hài hòa.
Ngay cả những sự vật bé nhỏ hàng ngày Thạch Lam cũng rất chú ý tạo cảm
giác màu sắc đường nét. Dù đang tức tối chán nản ghê gớm Sinh (Đói) vẫn
nhìn thấy miếng bánh vợ mua bằng những đồng tiền nhơ bẩn có màu sắc hấp
dẫn “mấy miếng thịt hồng hào, mỡ trắng và đỏ như thủy tinh, mấy khoanh giò
nạc mịn màng, mấy cái bánh tây vàng đỏ”. Bị cảm giác thân xác đói khát
hành hạ dữ dội, cộng với thức ăn ngon hấp dẫn ngay trước mặt kích thích
mạnh mẽ vào khướu giác, vị giác tất yếu đánh gục lòng tự trọng của anh.
Trong Tối ba mươi nhìn căn phòng với những đồ đạc cũ nát, bẩn thỉu là tự
nhìn thấy cuộc đời trơ trọi của mình.
Đọc văn Thạch Lam người đọc sẽ rất ấn tượng với nghệ thuật diễn tả
cảm giác mùi vị đầy sáng tạo. Vốn ngôn ngữ được chắt lọc qua tâm hồn yêu
cuộc sống của nhà văn được bộc lộ ở khả năng vừa miêu tả chuẩn xác cảm
giác hương vị vừa diễn tả được cảm xúc tâm trạng của nhân vật qua những
cảm nhận khướu giác đặc biệt. Ông đã góp phần làm cho văn chương ấn
tượng sâu sắc về làng quê. Đó là thứ hương vị rất mộc mạc đời thường mà đã
mấy ai lưu tâm: “Trên mặt đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị lá nhãn và cả
bã mía. Một mùa âm ấm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen
thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất của quê hương
này”.(Hai đứa trẻ). Mùi vị của quê hương lam lũ có sức lay động vào chiều
sâu tâm hồn, làm cho kẻ mất gốc phải bồi hồi nhớ lại tuổi thơ “Một cái mùi
âm ấm bốc lên, cái mùi đặc biệt, hình như là mùi đất, mùi rác đốt. Tân nhớ
mãi rõ rệt những ngày còn trẻ” (Trở về). Hương vị của làng quê thân thuộc
làm cho Tâm ấm lòng sau một ngày bươn trải vất vả “mùi bèo ở dưới ao và
mùi rạ ướt đưa lên âm ẩm”, “mùi phân trâu nồng nặc sặc ngay vào cổ”, “mùi
76
rác và cỏ ướt thoang thoảng bốc lên, mùi quen thuộc của quê hương và đất
màu khiến Tâm thấy dễ chịu và thêm can đảm” (Cô hàng xén).
Khi miêu tả mùi đất quê, Thạch Lam có sử dụng tính từ chỉ mùi vị kết
hợp với động từ chỉ trạng thái gợi cảm giác nhẹ, êm dịu, mỏng mảnh. Đặc biệt
nhà văn đã tính từ hóa danh từ, biến danh từ vốn để gọi tên sự vật thành những
tính từ chỉ cảm giác như: mùi bèo, mùi rạ ướt, mùi rơm rác, mùi phân trâu,
mùi ẩm, mùi rác đốt...Với việc tính từ hóa các danh từ như vậy sẽ làm cho
ngôn ngữ trong truyện ngắn của Thạch Lam trở nên gần gũi, tạo cảm giác về
mùi quê hương vốn rất quen thuộc nnhưng không ai để ý, tạo sự quyến rũ và
rất riêng trong ngôn ngữ của nhà văn.
Khi miêu tả tình yêu của các đôi nam nữ, Thạch Lam hay để cho họ gặp
nhau trong những không gian thơ mộng và đầy hương hoa. Hương hoa ngọt
ngào quyến rũ vừa gợi cảm giác thơ mộng, vừa gợi sự trong trẻo của tình yêu.
Tình yêu giữa Bình và Lan (Tình xưa) chớm nở giữa không gian vương vấn
“mùi hoa thơm nhẹ và sắc của hoa hoàng lan thoang thoảng ở ngoài”. Thanh
(Dưới bóng hoàng lan) với cô bạn gái từ thuở nhỏ nhận ra những rung động
của trái tim non trẻ trong không gian thoang thoảng hoa hoàng lan “Có lúc
gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng như có giắt hoa hoàng lan.
Nhưng hoa chưa rụng, vẫn còn tươi xanh trên cành...mùi hoàng lan thoang
thoảng bay trong gió ngát”. Những búp non xanh như mối tình còn e ấp chưâ
chín hẳn, mùi hoa thoang thoảng giăng mắc trong không gian rất phù hợp với
“có cái gì dịu ngọt chăng tơ đâua đây, khiến chàng vướng phải”. Mối tình
dưới ánh trăng của Tuấn và Mai (Đêm trăng sáng) nồng nàn hương hoa “Gió
thơm nhẹ và thoang thoảng tới bông hồng nhung đẫm tan vào đêm tối...cánh
hồng nhung đen thẫm...đẫm hương nồng và ân ái”. Hương thơm tinh khôi đó
càng tôn lên vẻ lãng mạn thơ mộng của tình yêu.
77
Bóng tối là hình ảnh thiên nhiên thường gặp nhất trong các truyện ngắn
của Thạch Lam, có giá trị như một gam màu chủ đạo. Có tới 14/23 truyện
ngắn xuất hiện hình ảnh bóng tối. Đó thường là sự sống trong cái vẻ lay lắt tàn
lụi. Truyện ngắn Hai đứa trẻ là là một ví dụ về nghệ thuật tả bóng tối sinh
động, gợi cảm với nhiều tính từ khác nhau về mức độ phẩm chất về sắc thái
biểu đạt, không lặp lại. Khi hoàng hôn xuống “trong cửa hàng hơi tối”, “đôi
mắt chị bóng tốii ngập đầy”. Với hai tính từ “hơi tối” và “ngập đầy” đã tạo
cho người đọc ấn tượng về cảm giác ngày đã tàn và bóng đêm sắp ập tràn đến.
Khi trời bắt đầu về đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và gió thoảng mát
“Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”. Đêm càng khuya,
bóng tối càng sâu rộng: “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường
qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Tính từ miêu tả
theo hướng gia tăng tính chất gam màu, từ hơi tối, ngập đầy, đến chứa đầy,
thăm thẳm, sẫm đen. Chúng gợi bước đi từ chập tối đến nửa đêm. Đêm tối
thăm thẳm mênh mông, yên tĩnh và thân thuộc.
Trong truyện Tối ba mươi kể về nỗi nhục của cô gái nhà săm, bóng tối
gắn với cái lạnh tê tái. “Mưa vẫn bay tả tơi hình như bóng tối ở khắp nơi dồn
lại quang đãng phố hẹp này. Trên hè ướt át và nhớp nháp nháp bùn, không
một bóng người qua lại. Cái vắng lạnh như mênh mông ra tận đâu đâu ở khắp
cả các phố Hà Nội đêm nay”. Câu văn có sự kết hợp hài hòa giữa tính từ chỉ
bóng tối và tính từ chỉ cảm giác ướt lạnh. Bóng tối thiên nhiên thành bóng tối
tâm trạng, cảm giác. Đó là cảm giác “tả tơi, ướt át, nhớp nháp, vắng lạnh” hòa
quện vào nhau trong cái tối tăm của trời đất. Bóng tối buốt lạnh như chà xát
thêm vào bao nỗi đau tê tái của hai cô gái tội nghiệp.
Ở Người lính cũ, là bóng cây dày đen, đặc quánh. Trong đêm khuya,
“trời rét như cắt ruột mà gió lại thổi mạnh”. “Vừng thẫm đen của một cây
nhãn, nổi lên nền trời đen nhạt hơn”. “Trong quán tối như mực” “Chung
78
quanh chúng tôi cái đen tối của đêm khuya dầy dằng dặc”. Sự kết hợp giữa
những tính từ chỉ đêm đen và giá rét cùng với những thành ngữ “tối đen như
mực”, rét như cắt ruột” tô đậm cảm giác về màn đêm mênh mông sâu thẳm
lạnh lẽo bao trùm lên cuộc đời có lúc thăng hoa có lúc ngập chìm trong đêm
tối.
Có thể nói, với hệ thống ngôn ngữ diễn tả những cảm giác hướng ngoại,
Thạch Lam đã mở cánh cửa đi vào thế giới tâm hồn nhân vật góp phần soi
chiếu và lí giải những uẩn khúc, những biến đổi tinh vi trong tâm hồn nhân
vật. Nhà văn rất chú ý lựa chọn những tính từ chỉ âm thanh, màu sắc, đường
nét, mùi vị…khai thác triệt để khả năng gợi tả của lớp ngôn ngữ thuần Việt
vào văn chương thay thế cho lớp từ Hán Việt vốn đã có sức ảnh hưởng lâu
nay.
4.1.2 Những sáng tạo về mặt từ vựng.
Từ ngữ có ý nghĩa thẩm mĩ cao khi chúng được tổ chức, kết hợp một
cách sáng tạo thể hiện một nội dung đã xác định. Thạch Lam hay tạo nên
những kết hợp từ có khả năng khơi gợi cảm xúc, liên tưởng.
Qua những cách đặt tên cho những truyện ngắn của mình cũng là một
sáng tạo mang tính thẩm mỹ như: Trong bóng tối buổi chiều, Gió lạnh đầu
mùa, Hai lần chết, Nắng trong vườn, Bóng người xưa, Tình xưa…đều có
khả năng gợi được những ấn tượng về không khí chung của truyện. Tên đầu
đề có giá trị như một nốt nhạc dạo đầu đưa người đọc đến với những giai điệu
trầm lắng mơ hồ của tác phẩm.
Trong ngôn ngữ văn chương của Thạch Lam còn có nhiều kết hợp gợi
lên nhiều sự liên tưởng thay thế. Ví dụ “Căn nhà với thửa vườn này đối với
chàng như một nơi mát mẻ và hiền lành…”(Dưới bóng hoàng lan). Việc kết
hợp giữa tính từ chỉ cảm giác và tính từ chỉ phẩm chất, làm cho tổ hợp từ có
thêm một nét nghĩa mới rất ấn tượng. Đó là ấn tượng về không gian, về ngôi
79
nhà rất bình yên, chan chứa tình yêu thương. Kể về cô hàng xén nhà văn viết :
“Chiếc đòn gánh càng cong xuống và rền rỉ” (Cô hàng xén). Trong câu văn
có sự sáng tạo kết hợp giữa từ tượng hình và tượng thanh tạo nên một ẩn dụ về
nỗi vất vả chồng chất lên đôi vai người phụ nữ đi lấy chồng, vừa lo việc nhà
chồng, vừa lo nuôi các em ăn học. Trong Tối ba mươi, nhà văn diễn tả cảm
giác tủi nhục bơ vơ của hai cô gái bán hoa bằng việc kết hợp những tính từ chỉ
nội tâm và tính từ chỉ ngoại cảnh quen thuộc. “Vẻ lạnh lẽo của căn phòng bao
bọc lấy Liên, khiến cái vui mong manh sắp tắt”, “Liên nghĩ đến sự trơ trọi
của đời mình”, “những thất vọng chán chường’, “Mưa bụi vẫn bay tơi
tả…trên hè phố ướt át và nhớp nháp bùn”. Nhưng khi đọc kĩ những từ ngữ
quen thuộc đó lại mang một lớp nghĩa mới. Chúng không chỉ diễn tả tâm trạng
mà còn tạo ấn tượng về số phân nhân vật. Đó là thân phận lạc loài, tả tơi, trơ
trọi giữa cuộc đời. Những từ ngữ gợi cảm đó cứa sâu vào lòng người nỗi khắc
khoải, trăn trở về số phận trớ trêu của những con người dưới đáy xã hội.
Trong những truyện ngắn của mình, Thạch Lam cũng hay sử dụng những
ẩn dụ khá tài hoa. Chúng có thể gọi tên được những trạng thái cảm xúc mơ hồ
mà nếu chỉ dùng tính từ, động từ chỉ trạng thái đơn thuần không thể diễn tả
nổi. Ví dụ chỉ cần một ẩn dụ từ vựng trong câu: “Có cái gì dịu ngọt dăng tơ
đâu đây khiến chàng vướng phải” (Dưới bóng hoàng lan) đã diễn tả rất tinh
tế trạng thái cảm xúc mong manh như hương hoa trong tâm hồn trai trẻ của
Thanh vừa chớm nở cảm xúc yêu thương. Con có nhiều ẩn dụ trở thành những
biểu tượng có giá trị như: “những vật tốt đẹp bày trong tủ kính các cửa hàng”
(Một cuộc đời); “ngọn đèn con của chị Tý và bóng tối” (Hai đứa trẻ); cái chết
lần thứ hai của Dung(Hai lần chết); “sợi tóc chia địa giới” giữa hiền lương và
tội lỗi (Sợi tóc)
Nhà văn cũng hay dùng những so sánh vốn là quen thuộc như “cằn cỗi
héo hắt lại như một cái cây khô” (Đứa con), “đau đớn uất ức như đứt từng
80
khúc ruột” (Một đời người) .. Thạch Lam có những lối so sánh khá lạ, mang ý
nghĩa hoàn toàn mới mẻ. Ví dụ như để diễn tả những cảm giác êm đềm hạnh
phúc của người cho khi nhận ra những tình cảm mới mẻ của, ngọt ngào mà
đứa con mới đẻ mang lại, nhà văn sử dụng một cách so sánh rất mới: “lòng
rung động khẽ như cánh bướm non” (Đứa con đầu lòng). Trong truyện ngắn
“Cô hàng xén”, cuộc đời thầm lặng, vất vả của Tâm đuợc nhà văn ví bằng
những hình ảnh mộc mạc: “Cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ cho đến tuổi già,
toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ”. Cảm giác
về một cuộc đời như tấm vải thô sơ được rệt nên từ những lo toan khó nhọc đó
làm cho câu chuyện không khép lại ở đó mà tiếp tục gieo vào lòng người
những nỗi ám ảnh. Diễn tả cảm giác cô đơn giữa thành phố xa lạ của nhà văn
trẻ tác giả dùng so sánh “ Tâm hồn Thành trơ trọi như một cánh đồng thấp mà
lúa đã gặt rồi” (Trong bóng tối buổi chiều). Hình ảnh so sánh tự cho thấy vẻ
chân chất của chàng trai tuy ôm mộng lập nghiệp thành danh nơi thành phố,
nhưng chất thôn quê đã thấm vào tận đáy tâm hồn. Anh chỉ có thể tìm thấy sự
bình yên nơi quê nhà của mình.
Đọc những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, người đọc thú vị với
những ví von độc đáo chứng đựng sự liên tưởng bất ngờ thú vị: “Quan ngắm
một lúc, hai con mắt sáng quắc như hai ngọn đèn giời” ( Thật là phúc). Có so
sánh để “đá móc” một sự vật, một hiện tượng khác: “Mĩ thuật nhất là cái
ngực đầy như cái ví của nhà tư sản, chứ không phải cái óc của ông Nghị ngay
cả trước ngày họp hội đồng” (Samandji). Có so sánh bất ngờ thú vị “Xe thứ
bẩy thì một cô xấu nhưng tân thời, mặt phấn, má hồng, môi đỏ, rẽ lệch, chiếc
áo căng lườn, trông anh ách như một bài thơ thất luật”. Nhìn chung những so
sánh này đều dùng cái cụ thể này làm chuẩn so với một cái cụ thể khác. Đọc
văn Hồ DZếnh người đọc nhớ những so sánh mà tâm trạng buồn thương được
dùng làm chuẩn để so với vật vô tri vô giác. Tiếng xay lúa ồ ồ “như những
81
nhịp đời thương nhớ âm vọng trong thời khắc và lòng người:” (Người chị dâu
tôi). Mấy điểm đèn hạt dầu run trên sông “như những con mắt buồn từ kiếp
trước” (Ngày gặp gỡ). Thạch Lam lại ưa dùng chuẩn so sánh là cảm giác để
so sánh với một cảm giác khác, tức là dùng loại cảm giác này so sánh với loại
cảm giác kia. Các thứ hàng “sạch sẽ và ngăn nắp như công việc, như ý nghĩ
của cô hàng xén”. Dáng đi của chị Sen “chậm chạp và khó nhọc như đang
còn gánh nước nặng ở trên vai” (Đứa con). Tâm hồn “nhẹ nhõm và tươi mát
như vừa tắm ở suối” (Dưới bóng hoang lan)…
Phong cách ngôn ngữ của nhà văn trước hết biểu hiện ở cách khai thác
sử dụng vốn từ. Văn Nam Cao xuất hiện nhiều những từ ngữ chỉ sự quá mức
như: lại còn, rất, suốt đời, suốt ngày,lắm lúc, càng, càng ngày, toàn
những…thể hiện cái nhìn hiện thực buồn thảm, cùng cực nỗi đau trong tâm
hồn ông. Nguyễn Công Hoan lại thành công với vốn từ vựng mang đậm phong
cách khẩu ngữ tự nhiên với tiếng nhại, tiếng mỉa, tiếng pha trò. Thạch Lam tạo
dấu ấn về lớp ngôn ngữ nhuần nhị, tinh tế, giàu sức biểu cảm. Đọc văn Thạch
Lam ta không bắt gặp những kiểu sáng tạo mới độc đáo, những lối dùng từ bất
ngờ, khó theo dõi. Qua những ngữ liệu đã dẫn dưới đây có thể nói Thạch Lam
đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, biết phát huy hết khả năng
gợi cảm của từ loại Tiếng Việt, biết sắp xếp ngôn ngữ để tự nó hắt sáng lên
những ấn tượng cảm giác tinh vi. Sự thành công đó giúp người đọc hình dung
được cuộc sống không chỉ ở cái bề mặt mà cả ở chiều sâu, không chỉ ở cái
nhìn thấy được mà cả cái khó nhìn thấy. Đó cũng là yếu tố để ngôn ngữ truyện
ngắn của Thạch Lam không bị người đọc lãng quên như một số trang văn của
Tự lực văn đoàn.
Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn của nhân vật, là “lời
phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí
nội tâm, mô phỏng hoạt động, cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng
82
chảy trực tiếp của nó” [4, tr 106]. Đọc thoại nội tâm là thủ pháp nghệ thuật
độc đáo để nắm bắt con người bên trong.
Nhân vật của Thạch Lam ít hành động, thiên về đời sống nội tâm, giàu
cảm xúc, cảm giác do đó ông đã sử dụng hình thức độc thoại nội tâm để bộc lộ
một cách sâu kín những cảm xúc, những ý nghĩ của nhân vật. Qua khảo sát
các truyện ngắn của Thạch Lam cho thấy có 15/23 truyện ngắn của Thạch
Lam có độc thoại nội tâm. Dùng độc thoại nội tâm nhà văn tạo cho người đọc
cơ hội nhập vào dòng suy nghĩ của nhân vật. Độc thoại nội tâm chủ yếu được
cấu tạo theo cách dùng lời tự nhiên mô phỏng ý thức của con người. Qua đó ta
thấy nhân vật của Thạch Lam tự đối diện với chính mình, tự lặn sâu vào tầng
ngầm vô thức của mình. Nhiều truyện của ông hầu như vắng bóng ngôn ngữ
đối thoại, có truyện từ đầu đến cuối chỉ là những dòng độc thoại nội tâm day
dứt như Cuốn sách bỏ quên, Người đầm.
Truyện ngắn của Thạch Lam chúng ta thấy độc thoại nội tâm được tổ
chức dưới dạng lời nói nửa trực tiếp và một vài trường hợp tổ chức dưới dạng
lời nói trực tiếp.
Thạch Lam thường tổ chức ngôn ngữ độc thoại nội tâm hòa cùng với lời
của tác giả hay lời người kể chuyện tạo thành lời nói nửa trực tiếp. Lời nói bề
ngoài thuộc về tác giả nhưng nội dung lại thuộc về nhân vật. Nhà văn có thói
quen nhập vai nhân vật, từ điểm nhìn của nhân vật để phân tích, miêu tả tâm
lí. Do đó dùng độc thoại nội tâm dạng nửa trực tiếp có khả năng tự diễn tả
được chiều sâu tâm trạng nhân vật. Ví dụ đây là bao nỗi đau đớn tức tưởi của
Sinh khi biết vợ bán thân : “Tại sao Mai trước kia đã từng bao phen khổ sở
cùng chàng, đến bây giờ lại đem thân bán đi để lấy một vài đồng bạc; tại sao
Mai lại làm sự khốn nạn ấy như bây giờ…” (Đói). Còn đây là tâm trạng ân
hận ăn năn của Thanh sau khi từ chối ánh mắt van xin cầu khẩn của người phu
xe “Tôi rùng mình nghĩ đến số phận của anh xe khốn nạn. Ba đồng bạc phạt !
83
Anh ta sẽ phải trả cái xe để nộp phạt; những ba đồng bạc nợ ấy, bao giờ anh
ta trả xong, sau những ngày nhịn đói, bị cai xe hành hạ, đánh đập vì thù hằn”
(Một cơn giận).
Độc thoại nội tâm dạng lời nửa trực tiếp cho phép nhà văn miêu tả dòng
suy nghĩ, ý thức của nhân vật một cách tự nhiên giống như những gì nó đang
hình thành. Tác giả hòa đồng cùng nhân vật, sống cùng nhân vật, nói bằng
tiếng nói của nhân vật. Độc thoại nội tâm dạng nửa trực tiếp có thể biểu đạt
một cảm xúc, một ý định hoặc diễn tả cả một quá trình đấu tranh nội tâm (Sợi
tóc, Một đời người, hai lần chết, Đứa con đầu lòng, Trở về…) Dùng độc
thoại nội tâm dạng lời nửa trực tiếp là điểm gặp gỡ giữa Thạch Lam và Nam
Cao. Tuy nhiên trình độ nghệ thuật của ông chưa vươn tới tầm cao để độc
thoại nội tâm gắn với kiểu nhân vật tư tưởng, vốn là yếu tố quan trọng tạo nên
đặc sắc của một phong cách truyện ngắn, và tạo sức hấp dẫn như Nam Cao.
Đôi chỗ nhà văn thiên về kể tâm trạng nhiều hơn là để cho nhân vật tự bộc lộ
bằng tiếng nói bên trong của mình. Việc sử dụng độc thoại nội tâm để miêu tả
nội tâm nhân vật là một đóng góp đáng kể của Thạch Lam trên con đường
hiện đại hóa văn xuôi Việt Nam ở chặng đầu.
Việc sử dụng ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm truyện ngắn của Thạch
Lam có những đặc điểm sau. Ngôn ngữ đối thoại trong truỵên ngắn Thạch
Lam không nhiều, ít có giá trị độc lập và thiên về bộc lộ nội dung cảm xúc.
Trong ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan lời đối thoại chiếm
một tỉ lệ rất cao. Ông rất tài dựng các đoạn đối thoại giữa các nhân vật. Lời
đối thoại có tính hành động cao, ngôn ngữ đối thoại gần với ngôn ngữ kịch. ở
các truyện như: Tinh thần thể dục, Oằn tà roằn, Ngựa người và người ngựa,
Thanh dạ…‟ Nếu lược bỏ lời trần thuật đi ghép các lượt lời trao đáp giữa các
nhân vật, người ta vẫn có một câu chuyện đang vận động và phát triển.
84
Nam Cao cũng có một số truyện có lời thoại giàu tính hành động, tính sự
kiện. Ví dụ như cuộc thoại giữa Hàn và Tơ trong Một chuyện xú vơ nia cuộc
đối thọai giữa bốn nhân vật trong Nhỏ nhen ….
Ngôn ngữ của Thạch Lam khá vắng bóng và ít có giá trị độc lập so với
lời trần thuật. Thông thường để có lời thoại, nhà văn tổ chức trước khá nhiều
lời trần thuật để tạo hoàn cảnh cho tiếng nói của nhân vật cất lên. Ví dụ trong
Nhà mẹ Lê sau gần ba trang kể về hoàn cảnh nghèo khó, đàn con đông đúc cả
thảy 11 đứa, nhà văn mới cho lời đối thoại đầu tiên xuất hiện:
Bác Đối, kéo xe, người vui tính nhất xóm, không lần nào đi qua nhà bác Lê
mà không bảo:
- Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại các con không quên mất.
Bác Lê bao giờ cũng trả lời một câu:
- Mất bớt đi cho nó đỡ tội !
Nhưng mọi người đều biết bác quý con lắm.
Lời đối thoại ngắn được nhân vật dùng theo cách nói ngược, nói vui. Nếu
tách bỏ lời dẫn trước và sau lời đối thoại trên thì chúng không đủ sức diễn tả
tình thương con của bác Lê, thậm chí có thể hiểu sai ý nhân vật.
Trong Hai lần chết , với ngót ba trang kể về những ngày thơ ấu của Dung
chỉ có hai lần xuất hiện tiếng nói của nhân vật – tiếng nói của người mẹ
- Con này sau đến hỏng mất thôi !
- May cho con nặc nô ấy làm gì. Để nó làm rách ra à.
Lời của người mẹ nói lên bao nỗi thua thiệt của Dung từ tấm bé. Nó
chứng minh, phụ họa thêm cho những thiệt thòi của Dung mà người dẫn đang
kể. Nếu tách ỏ hai lời thoại đó thì nội dung tự sự không thay đổi có chăng chỉ
giảm đi sức lay động lòng người trước những bất hạnh của nhân vật.
Nhân vật của Thạch Lam ít đối thoại. Ngay cả khi đối thoại, lời thoại
cũng rất ngắn và cũng chỉ có vài lượt lời. Trong một vài trường hợp, lời đối
85
thoại nếu chuyển thành lời nói gián tiếp, hòa vào tác giả thì cũng không
phương hại gì. Ví dụ lời than của mẹ Lê trước khi chết: “Trời ơi! Sao tôi khổ
thế này” (Nhà mẹ Lê) hay lời cô đỡ mời Tâm vào thăm con “ Mời ông vào
xong cả rồi” (Đứa con đầu lòng)
Ngôn ngữ đối thoại có chức năng đưa đẩy câu chuyện phát triển và giúp
bộc lộ nội tâm nhân vật. Nhưng lời đối thoại của truỵên ngắn Thạch Lam thiên
về bộc lộ nội tâm, cảm xúc nhân vật. Qua ngôn ngữ đối thoại Thạch Lam cho
chúng ta cơ hội đầy đủ để nhận ra từng nhân vật như: giọng ân cần mừng rỡ
của người mẹ già khi thấy đứa con xa trở về nhà, giọng trống không vô cảm
của đứa con đối với mẹ (Ngày về); giọng nhẫn nhịn cam phận không oán trách
của mẹ Lê khi bị nhà giàu xua chó ra cắn (Nhà mẹ Lê); giọng chán chường
cùng cực của những cô gái trong (Tối ba mươi); giọng chùng chình, dùng
dằng vì mải suy tính của nhân vật Thành (Sợi tóc)…
Văn là người- nó giống như con người lịch thiệp nho nhã tài hoa Thạch
Lam, văn chương của ông hết sức tế nhị, có chừng mực, trang nhã, chính xác
ngắn gọn và tươi đẹp…Là một cái gì bàng bạc nhẹ nhàng. Nó không hề là
những luận đề lớn lao, những tư tưởng kỳ lạ, mà vẫn có sức lôi cuốn người
đọc bởi ngôn ngữ trong sáng giản dị và giọng văn nhẹ nhàng uyển chuyển.
Bằng sự tài tình trong việc sử dụng ngôn ngữ, Thạch Lam đã đóng góp
cho ngôn ngữ văn học dân tộc những giá trị biểu cảm nghệ thuật mới làm giàu
có, phong phú thêm ngôn ngữ văn học Tiếng Việt. Mặc dù là thành viên của
Tự lực văn đoàn, nhưng Thạch Lam đã tìm thấy và xây dựng cho mình một
tiếng nói riêng, một thứ ngôn ngữ của chính mình. Bằng những lời văn giản dị
trong sáng giàu chất thơ ông đã đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam đầu thế
kỷ XX trở nên lung linh sống động . Thạch Lam còn có những đóng góp cho
sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc và còn là sợi dây bền chặt nối ông với độc
giả hôm nay và mai sau.
86
4.2 Giọng điệu trong truyện ngắn Thạch Lam.
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của văn học, là một yếu tố quan
trọng để tạo nên phong cách nghệ thuật của nhà văn . Theo Từ điển thuật ngữ
văn học giọng điệu là: “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của
nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả trong lời văn quy định cách xưng hô,
gọi tên,dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, thân sơ, thành kính
hay suồng sã, ca ngợi hay châm biếm…” [4 tr, 111]. “Giọng điệu một phần
nào đó phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng miêu tả cũng như cách cảm
nhận về chúng của nhà văn. Song về cơ bản, giọng điệu bộc lộ tình cảm chủ
quan của nhà văn, thái độ và cách đánh giá của nhà văn đối với con người và
những hiện tượng được miêu tả” [30 .tr 223]. Thái độ, tình cảm đó bộc lộ qua
nhiều yếu tố, nhiều phương diện khác nhau của ngôn ngữ nghệ thuật.
Mỗi nhà văn đều có một giọng điệu khắc nhau. Giọng điệu của Ngô Tất
Tố là giọng điệu cẩn trọng, khách quan mực thước. Nguyễn Công Hoan là
giọng điệu suồng sã giễu cợt, châm biếm cay cú. Vũ Trọng Phụng là giọng
điệu đả phá phẫn uất. Nam Cao là giọng điệu khách quan lạnh lùng thấm
đượm nỗi buồn thương chua xót, chất triết lí sâu sa. Người đọc có thể thấy
giọng điệu thiết tha sôi nổi ở Nguyên Hồng và giọng điệu kiêu bạc ngông
nghênh ở Nguyễn Tuân.
Văn học giai đoạn 1930-1945 được tạo nên bởi những cây bút xuất sắc và
có bản lĩnh, cá tính sáng tạo khác nhau. Mỗi nhà văn góp vào nền văn học
chung ấy một phong cách riêng. Thạch Lam với giọng điệu nhẹ nhàng kín
đáo,trầm tĩnh thiên về chất trữ tình sâu lắng, không bị pha trộn hay hòa tan đã
đóng góp không nhỏ vào sự phát tiển của nền văn học Việt Nam 1930-1945.
4.2. 1 Giọng thủ thỉ tâm tình
Nhà văn Thạch Lam có lối kể chuyện rất đặc biệt. Ông không kể chuyện
bằng những lời đao to búa lớn mà bằng những lời tâm tình thủ thỉ của con
87
người đã từng chiêm nghiệm thấu hiểu. Qua những truyện ngắn của mình,
Thạch Lam thủ thỉ với người đọc về những lẽ thiệt hơn, về những câu chuyện
vẫn gặp đâu đây ngoài cuộc đời bằng “giọng văn nhẹ nhàng gần như thì thầm
với độc giả nhưng là tiếng nói thầm mà âm vực lan rộng đến cả thế giới đều
nghe thấy” [38,tr 435]. Vì vậy giọng điệu chủ đạo trong văn của ông là giọng
thủ thỉ tâm tình.
Cùng viết về ước mơ nghề nghiệp, cuộc sống của những người đeo đuổi
nghiệp văn chương, nhưng cách khai thác đề tài cũng như giọng điệu của Nam
Cao và Thạch Lam lại khác nhau. Đời thừa của Nam Cao được kể bằng giọng
điệu buồn đau chua chát. Nhà văn có tài có ước mơ chân chính, có nhân cách
nhưng đành phải bán rẻ ngòi bút cho thứ văn chương vô bổ để đổi lấy đồng
tiền bát gạo. Giọng điệu buồn đau chua chát có lúc chuyển sang mỉa mai giễu
cợt thẫm đẫm nỗi cay đắng, bất lực khi những ước mơ cao đẹp chỉ được bộc
bạch trong cơn bốc đồng chếch choáng men say của nhân vật chính. Giọng
nghẹn ngào ấm ức hòa trong nước mắt khi nhân vật thấu rõ sự tha hóa của
ngòi bút và nhân cách không gì cứu vãn được. Giọng buồn đau chua chát đó
bắt đầu từ cái nhìn của nhà văn hiện thực luôn thấu rõ những mâu thuẫn và
những bấp bênh trong cuộc sống đã bóp nghẹt những ước mơ hoài bão của họ.
Trong Cuốn sách bỏ quên Thạch Lam dùng những lời thủ thỉ tâm tình đượm
mùi thất vọng bẽ bàng kể về những ước mơ viễn vông khi va đập với hiện
thực cuộc đời của chàng trai trẻ mới vào nghề văn. Giọng tâm tình bộc lộ
trong lời kể và những suy nghĩ kín đáo của nhân vật. Giấc mộng đẹp đẽ về văn
chương được chắp cánh thành ước mơ khiến chàng trai trẻ được sống trong
ánh hào quang của mộng tưởng: “Trong đêm không ngủ ở quê nhà, chàng vẫn
mơ tưởng một sự thành công rực rỡ xứng đáng với tài năng”. Tưởng tượng
cũng đủ làm Thành ấm lòng, “sung sướng như nhấp chen rượu mạnh mà hơi
men làm say sưa dần dần”. Chưa từng nếm trải những thử thách nghiệt ngã
88
mà cuộc đời dành cho nghiệp bút văn, khi cuốn sách đầu tay bị ế ẩm, Thành
có cảm giác bị “hụt chân chết ngập trong mối buồn thương thấm thía vô hạn
cho chính mình”. Giọng thủ thỉ tâm tình chứa đựng nỗi buồn ngao ngán thất
vọng khi “Tất cả những mơ ước thiết tha của tuổi trẻ, của tâm hồn nghệ sĩ,
những mộng đẹp xây lên lúc say văn, tất cả đều tan trong gió lạnh”. Lời văn
nhẹ nhàng trầm lắng tâm tình cùng bạn đọc những điều suy nghĩ sâu kín. Thật
ra sách bán không chạy chưa chứng tỏ rằng chàng không có nhiều tài. “Nhiều
nhà văn nổi tiếng khắp hoàn cầu lúc đầu chẳng bị thiên hạ bỏ quên… Sự lãnh
đạm của công chúng nhiều khi là dấu hiệu của một tài năng xuất chúng,
không được người ta am hiểu, vì vượt ra ngoài khuôn sáo thường”. Trong
những trường hợp như thế, người ta hay tìm cho mình một phương thuốc giảm
đau tinh thần. Với Thành, anh tự biện minh cho sự thất bại của mình bằng
những lời khuyên của nhà văn đi trước: “Người nghệ sĩ không cần đến sự
hoan nghênh của công chúng, bởi tự mình đã được hưởng cái thú thần tiên
của sáng tác, được hoan nghênh nhiều khi chỉ làm hại cho người nghệ sĩ, vì
khiến cho nghệ sĩ tự mãn và nô lệ cái sở thích của bạn đọc”. Cảm nhận được
giọng điệu cơ bản của tác phẩm, người đọc sẽ vừa có nụ cười trìu mến trước
những mơ ước háo hức của chàng trai trẻ, và cảm thông với nỗi thất vọng của
chàng trai trẻ lần đầu bước vào nghề văn với nỗi thất vọng chán chường. Với
lời văn thủ thỉ tâm tình, Thạch Lam muốn gửi tới bạn đọc những tâm sự tri âm
về ước mơ nghề nghiệp về công chúng, về nghiệp văn.
Trong tác phẩm Sợi tóc là lời bộc bạch tâm tình về một lần suýt sa ngã
của nhân vật. Giọng thủ thỉ tâm tình nằm ngay trong lời tự thú của nhân vật về
tất cả những gì tối diễn ra tối hôm đó. Đầu tiên là thái độ không mấy thiện ý
với người anh họ lắm tiền, là sự so sánh ngầm một cách ẩn ý về sự tấm tức:
“người anh họ rất giàu có và rất ngốc” còn “tôi là người sành sỏi, thạo đời và
nhất là thạo các ngón ăn chơi”. Nó ẩn sau trong cảm giác thèm muốn khi nhìn
89
thấy cái ví da lớn, phồng chặt, cách đếm tiền thong thả và cẩn thận của Bân,
gờn gợn trong suy bì “sao một thằng ngốc như hắn[..]lại có nhiều tiền thế,
còn mình…”, sâu lắng trong cảm giác chán nản uể oải “đi chơi với một anh có
nhiều tiền mà mình lại khinh là ngốc, không thú vị mấy”. Giọng thủ thỉ tâm
tình chủ yếu hiện lên qua lời tự thú của nhân vật về những giông bão trong
lòng Thành khi anh vô tình có chiếc ví căng phồng trong tay. Những tờ giấy
bạc cứ hiện ra trước mắt làm cho anh thấy run rẩy, hành động như máy, ám
ảnh đứng ngồi không yên suốt mấy tiếng đồng hồ. Thành vạch ra cả kế hoạch,
cách thức lấy tiền, cách nói dối khéo léo. “Băn khoăn bứt rứt, và thời giờ
qua…tôi cảm thấy đi qua tâm hồn tôi từ bên này sang bên kia.Như thế không
biết bao nhiêu lần…”. Ý định ăn cắp đến bất ngờ, nhưng hành động trả lại tiền
còn bất ngờ hơn, khiến cho nhân vật vừa thành thản vì không phạm tội, vừa
tiếc nuối vì không thể có được số tiền to lớn mà anh chỉ có trong mơ. Hai cảm
giác đan cài vào nhau khiến cho tâm hồn “thêm một vẻ rờn rợn và sâu sắc”.
Lời văn thủ thỉ tâm tình đã giúp người đọc hiểu được những điều sâu kín trong
lòng nhân vật.
Trong tác phẩm Cái chân què, tuy viết về con người lấy đồng tiền làm
mục đích sống duy nhất đã phải trả giá, Thạch Lam không hề có giọng mỉa
mai, giễu cợt như thường gặp ở một số tác giả viết cùng đề tài. Nhà văn chỉ
tâm tình cùng người đọc về từng bước đi của nhân vật để tự rút ra bài học
“Cuộc đời có nhiều cái chế giễu đắng cay và đau đớn làm cho chúng ta đột
nhiên hiểu cái ý nghĩa chua chát và sâu xa”. Ở truyện Đói, giọng văn thủ thỉ
tâm tình mang màu sắc sẻ chia, thông cảm với nỗi nhục đau xót khi con người
không chiến thắng nổi nhu cầu mãnh liệt của bản năng. Với Thạch Lam đây
không phải là sự tha hóa về nhân cách con người. Trong suốt cả truyện, ông
đã phân tích tâm trạng đau đớn dằn vặt của nhân vật trước sự xô đẩy của cái
90
nghèo. Trong chốc lát hành động theo nhu cầu bản năng vừa đáng giận vừa
đáng thương.
Giọng điệu thủ thỉ tâm tình là giọng điệu chủ đạo trong nhiều tác phẩm
của Thach Lam. Trong Một đời người, giọng thủ thủ tâm tình thấm đẫm nỗi
nghẹn ngào. Với Người bạn trẻ giọng thủ thỉ chan chứa yêu thương quí trọng.
Ở Một cơn giân, Người lính cũ, Tình xưa... là giọng thủ thỉ tâm tình chan
chứa cảm xúc đồng điệu chia sẻ. Giọng tâm tình thủ thỉ ở mỗi truyện khác
nhau nhưng đều có chung sắc thái trữ tình sâu lắng bởi tác giả cố gắng khám
phá cảm xúc của nhân vật.
4.2. 2 Giọng buồn thương ngậm ngùi.
Những nhà văn có trái tim nhân đạo lớn thường hướng ngòi bút của mình
vào những con người nhỏ bé. Trong những trang viết của họ thường có chung
điệu buồn trước những số phận, những con người nhỏ bé bất hạnh. Thế nhưng
trong cùng một thời kỳ, viết về một kiểu nhân vật nhưng không phải nhà văn
nào cũng giống nhau, mỗi nhà văn mang lại cho mình một phong cách, một
dấu ấn riêng. Nhà văn Nguyên Hồng thường có giọng điệu thiết tha, thống
thiết tràn đầy cảm xúc. Giọng điệu đó được viết qua những trang văn được
viết bằng máu và nước mắt. Còn nhà văn Nam Cao có giọng điệu chủ đạo là
điệu buồn thương da diết kết hợp với triết lí sâu xa. Giọng điệu đó thể hiện
tấm lòng nhà văn không chỉ xót thương cho những kiếp người dưới đáy xã
hội...Trái tim nhân đạo của Thạch Lam lại tìm cho mình một hướng đi riêng.
Cũng là tiếng nói đầy buồn thương trước những thân phận nhỏ bé của xã hội,
Thạch lam không đẩy thành cao trào như Nguyên Hồng hay dùng lí lẽ như
Nam Cao. Giọng buồn thương đó mang âm sắc điềm đạm, dịu dàng,nhỏ nhẹ,
thể hiện thái độ nâng niu trân trọng vô cùng với tất cả những gì làm nên bình
dị hàng ngày.
91
Giọng buồn thương ngậm ngùi có ở những tác phẩm mang đậm nét hiện
thực như Nhà mẹ Lê, Một đời người, Hai lần chết, Người bạn trẻ, Người
lính cũ, Cái chân què...Ở những truyện này, nhân vật thường bị đặt vào
những hoàn cảnh khó khăn trở ngại, đói nghèo dường như lúc nào cũng đeo
đẳng vào số phận của họ và đẩy họ tới tình huống tuyệt vọng. Với giọng điệu
đó, Thạch Lam truyền tới người đọc niềm cảm thương sâu sắc trước những
cảnh đời bất hạnh, cùng niềm tin yêu vào những con người nhỏ bé.
Nhà mẹ Lê là một câu chuyện thương tâm được kể bằng giọng điệu buồn
thương ngậm ngùi. Giọng điệu đó cất lên ngay từ những trang đầu của câu
chuyện với nỗi ngậm ngùi chua xót. “Người phố chợ là bảy tám gia đình
nghèo khổ không biết quê quán ở đâu, mà người dân trong huyện vẫn gọi một
cách khinh bỉ: kẻ ngụ cư”. Những con người nghèo khổ phải rời quê hương
bản quán đi kiếm sống bằng đủ nghề. Giọng buồn thương ngậm ngùi tủi cực,
thấm trong lời văn kể về gia đình mẹ Lê “ Mùa rét trải ổ rơm đầy nhà, mẹ con
cùng nằm ngủ trên đó trông như cái ổ chó mẹ chó con lúc nhúc: Những ngày
đói rét, “ mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún, thằng Hi mà con chị nó bế,
chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng
nó thâm tím lại vì rét như con trâu chết”. Những hồi ức chập chờn trong cơn
mê sảng của nhà mẹ Lê buồn da diết. Cả một đời đằng đẵng chỉ có những
ngày khổ sở nhọc nhằn. Nó như một định mệnh gắn liền với những người
nghèo khổ. Đến niềm vui cũng rất cỏn con tội nghiệp, không thoát ra khỏi
được miếng ăn cái đói. Đó là nắm gạo cho con, bữa cơm nóng mùa rét, hay
đơn giản lầ mỗi ngày có người mướn làm cho dù công rẻ mạt cũng được.
Giọng buồn thương khi kể về cái chết thê thảm của mẹ Lê, những câu văn như
dài ra, như chậm lại làm cho cái chết càng trở nên thương tâm hơn bao giờ
hết.
92
Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ là niềm cảm thương sâu sắc trước những
mảnh đời thầm lặng như những cái bóng bị lu mờ, bị chôn vùi trong những
kiếp sống vô danh vô nghĩa. Nỗi buồn như ngưng đọng lại ngay cả phố huyện
chiều hôm. Nỗi buồn lan tỏa vào trong bóng tối, lẩn trong những quầng sáng,
hột sáng mong manh. Ngọn đèn của hàng nước Tý, gánh phở bác Siêu, tiếng
đàn bầu bác Xẩm...Cả phố huyện tiêu điều xơ xác đã tạo nên một bản nhạc
buồn. Nó làm mòn đi những mơ ước đợi chờ của con người. Giọng buồn
thương thấm vào hồi ức của Liên về một Hà Nội xa xăm. Giữa giọng điệu
buồn thương là hình ảnh náo nức của một Hà Nội với những đoàn tàu rực
sáng. Đây là một đoạn văn ngắn tươi vui hiếm có trong những trang viết của
Thạch Lam. Một loạt những động từ mạnh, tính từ sáng được sử dụng rất có
giá trị “ Hai chị em Liên nghe tiếng rồn rập tiếng xe rít mạnh vào ghi. Một làn
khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe
khẽ”... “tiếng còi tàu rít lên và tàu rầm rộ đi tới.. đoàn xe vụt qua, các toa đèn
sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Liên thoáng trông thấy những toa
hàng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh”. Giọng điệu
rộn ràng đó không làm đủ ấm sáng cả điều buồn, tẻ nhạt trong câu truyện. Với
hình ảnh ánh sáng đó đối lập với thế giơí tối tăm làm cho người đọc càng
thấm thía cái cuộc sống như bị giam cầm của những mảnh đời lặng lẽ, tăm tối
không sao thoát ra được
Trong tác phẩm Người bạn trẻ kể về số phận bi thương của một thanh
niên mới vào đời mà đã cùng đường với giọng buồn thê lương. Lời văn lắng
đọng bao nỗi xót xa về sự bất công ở đời. Bào bị đuổi học, không kiếm nổi
việc làm, lại không tìm được sự che chở bao dung của gia đình. Vốn hồng hào
nõn nà xinh như con gái, nhưng ốm đau, đói khát biến anh thành kẻ tiều tụy
xơ xác. Niềm thương cảm xót xa chan chứa trong những câu văn khi miêu tả
anh của tác giả. Bào phải nghẹn ngào ấm ức thốt lên “ Người ta thật vô lí quá”
93
sau mấy tháng trời lang thang khắp Hà Nội mà không tìm được việc làm.
Giọng bàng hoàng đau đớn khi Bào phải tự tử để không phải là gánh nặng cho
gia đình, để thoát khỏi cảnh khổ của kiếp người . Ở điểm này giọng điệu của
tác giả có phần hơi giống nhà văn Nam Cao trong truyện ngắn Điếu văn. Tuy
Thạch Lam không đi sâu vào miêu tả những đau đớn bên trong tậm hồn như
Nam Cao, mà chủ yếu dừng lại ở việc kể lại những nỗi đớn đau bất hạnh của
nhân vật.
Cùng chung giọng buồn thương nhưng ở mỗi tác phẩm lại có sự thể hiện
khác nhau. Đó là giọng chán nản tủi hổ khi con người phải ăn vụng miếng
bánh, miếng thịt đáng nguyền rủa trong Đói. Giọng bi thương trước số phận
của người phu xe vì cố vào phố kiếm thêm mấy xu mà bị phạt đến nỗi phải bỏ
nhà mà đi kéo theo cái chết tội nghiệp của đứa con (Một cơn giận). Giọng
buồn thương pha lẫn cảm phục trước tấm lòng hi sinh vì gia đình của Tâm
trong Cô hàng xén. Giọng đau xót nghẹn ngào trước nhân vật Dung khổ từ
tấm bé cho đến khi lấy chồng, muốn chết để thoát khỏi cảnh khổ nhưng không
xong. Giọng chán chường của hai cô gái làng chơi trong Tối ba mươi.
Qua những tác phẩm của Thạch Lam chúng ta thấy được trái tim nhân hậu
của nhà văn qua từng nhân vật. Nhà văn không giống những nhà văn hiện thực
phê phán đương thời tha thiết yêu thương bênh vực con người nhỏ bé. Thạch
Lam luôn truyền cho người đọc những tình cảm tha thiết yêu thương những
con người nhỏ bé, nâng niu những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống và niềm tin
vào con người. Trong tác phẩm Hai đứa trẻ đó là niềm khát khao chờ đợi một
thế giới đầy ánh sáng và âm thanh. Ở Người lính cũ là khí khái đàng hoàng
của một người lính, dù lâm vào cảnh túng quẫn, rơi xuống tận đáy của sự bần
cùng. Trong Một đời người, Cô hàng xén, Hai lần chất, Tối ba mươi là vẻ
đẹp tâm hồn của người thiếu nữ... Cách nhìn cuộc sống như vậy làm cho
truyện của Thạch Lam có giọng điệu buồn man mác hòa vào giọng điệu buồn
94
thương. Những nhân vật của Thạch Lam dường như chúng ta vẫn bắt gặp đâu
đó ngoài cuộc đời, chính vì vậy mà giọng điệu của Thạch Lam hướng tới nỗi
đau chung của con người.
4.2. 3 Giọng trầm tĩnh khoan hòa.
Đây là một giọng điệu hầu hết có trong các truyện ngắn của Thạch Lam.
Đó là thái độ điềm tĩnh nhẹ nhàng khi kể chuyện. Giọng điệu trầm tĩnh khoan
hòa kết hợp với trữ tình sâu lắng đã tạo nên sức hấp dẫn cho ngôn ngữ nghệ
thuật của Thạch Lam. Giọng điệu đó được thể hiện dưới nhiều cách thức khác
nhau, như cách đặt tên các nhân vật của mình. Điều này không giống với Nam
Cao, ông thường đặt cho nhân vật của mình những cái tên khá lạnh lùng.
Thông thường nhà văn thường gọi với đại từ chỉ ngôi thứ 3 như hắn, y,
thị...Ngay cả những nhân vật có tên những cũng thường bị thay thế như vậy.
Cách gọi tên như vậy tưởng chừng như là tàn nhẫn, nhưng là sự cảm thông
bên trong trước nỗi đau của họ. Với Thạch Lam ông không hề che dấu thái độ
với nhân vật, hơn nữa trong những sáng tác của ông không có những nhân vật
phản diện nên thái độ của nhà văn với các nhân vật là khá rõ ràng. Ông
thường gọi tên nhân vật một cách trực tiếp như Tân, Tâm, Loan...hoặc chàng
nàng..Đây cũng là những đại từ thứ ba những chứa đựng những yêu thương
trìu mến.
Trong những câu chuyện có kết cấu hồi tưởng, người kể chuyện là nhân
vật tôi giọng trầm tĩnh khoan hòa thể hiện khá rõ nét. Đó là những truỵên như
Một cơn giân, Tiếng chim kêu, Tình xưa, Sợi tóc. Giọng điệu trầm tĩnh
khoan hòa thể hiện qua giọng điệu của người kể chuyện luôn tin rằng “Tôi là
người, không có gì thuộc về con người xa lạ với tôi” (ngạn ngữ). Giọng trầm
tĩnh khoan thể hiện thái độ của nhà văn với các hành động của nhân vật.
Trong truyện ngắn Tình xưa giọng trầm tĩnh kết hợp hài hòa với trữ tình
sâu lắng. Giọng vui vẻ hân hoan khi kể về sự xuất hiện của cô gái xinh đẹp
95
giữa lớp học toàn những cậu con trai. Bọn học trò thầm bàn tán chỉ tay về phía
cô. Ngay cả thầy giáo cũng có vẻ ngượng nghịu. Đám học trò xôn xao, những
bức thư tình gửi đi như bươm bướm. Nhà văn tỏ ra thông cảm với những niềm
vui như gió nhẹ thoáng qua của tuổi mới lớn, khi những chàng trai bắt đầu để
ý đến các cô thiếu nữ. Giọng kiêu hãnh của chàng trai khi nhận được sự để ý
của cô gái. Giong trìu mến kể về niềm vui sướng của cô gái đang yêu. Tình
yêu cũng làm cho cô gái trẻ hân hoan thay đổi lạ kì. Rồi giọng buồn rầu khi
mối tình tan vỡ, cô gái âm thầm đau khổ, còn chàng trai thì vẫn thản nhiên vui
vẻ, say sưa với bao nỗi quan tâm hấp dẫn ngoài tình yêu. Nhiều năm trôi đi
chàng trai nông nổi ngày nào đã trưởng thành, biết ân hận về câu chuyện tình
đơn bạc ngày xưa. Nhà văn không đánh giá nhân vật theo tiêu chuẩn đạo đức
mà đó là một giọng trầm tĩnh hoà vào đó là lấp lánh nụ cười bao dung cho
những nông nổi của tuổi mới lớn.
Khi kể về những người dân nghèo thành thị, những nhân vật bất hạnh
mòn mỏi, Thạch Lam luôn có thái độ khoan hòa trầm tĩnh vơi thái độ trìu
mến. Cuộc đời mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), cô Tâm (Cô hàng xén), cô Liên ( Một đời
người), cô Dung( Hai lần chết), Liên, An (Hai đứa trẻ), Huệ (Tối ba
mươi)...có lẽ rất nhiều chuyện đau buồn tủi cực, nhiều gió rét mưa phùn trong
những đêm mùa đông như bóng tối đêm ba mươi. Những câu chuyện về họ
thường được kể với giọng lâm li, u uất. Khi kể về nỗi buôn đau vẫn ánh lên
một chút ít niềm vui.
Khi kể về đời người phụ nữ đau khổ có thể lấy Dì Hảo của Nam Cao và
Xuất giá tòng phu của Nguyễn Công Hoan để so sánh với sáng tác của Thạch
Lam. Trong Dì Hảo kể về cuộc đời bất hạnh của Dì Hảo đồng thời cũng bộc
lộ sâu sắc tình cảm của nhà văn đối với số phận nhỏ bé tủi nhục. Giọng điệu
chủ đạo của truyện là buồn thương da diết đầy tiếc nuối. Trong Xuất giá tòng
phu kể về nỗi tủi nhục của người phụ nữ bị chồng ép mang thân làm quà cho
96
các quan trên mong đựơc thăng tiến. Tình thương xót của nhà văn được thể
hiện qua ngôn ngữ chua cay. Ở Một đời người, Thạch Lam cũng kể về cuộc
đời bất hạnh của Liên với bao nỗi cay đắng vì chồng vũ phu, mẹ chồng ác
nghiệt. Giọng điệu buồn thương lan tỏa khắp câu truyện nhưng không da diết
bằng Dì Hảo của Nam Cao, không chua cay như Xuất giá tòng phu của
Nguyễn Công Hoan. Điệu buồn được bộc lộ một cách trầm tĩnh khoan hòa.
Những nhân vật trong các tác phẩm của Thạch Lam thường không chua cay
với những nỗi khổ, họ xem nỗi khổ đó như là một định mệnh, họ chấp nhận.
Trong nỗi khổ triền miên, ngày qua ngày Liên vẫn có được niềm vui để sống...
Khi cần thái độ khinh bạc yêu ghét, nhà văn vẫn có được giọng điệu trầm
tĩnh khoan hòa trữ tình sâu lắng. Thái độ yêu ghét được thể hiện rất điềm tĩnh,
không lạnh lùng khách quan, không bồng bột qua khích. Tình cảm yêu mến
những người phụ nữ tần tảo, cứng cỏi như Tâm ( Cô hàng xén) được ẩn dấu
trong lời kể nhẹ nhàng sâu lắng, khắc họa đậm nét đức tính nhẫn nại, hi sinh
của nhân vật mà không một lời kêu ca. Trong Trở về ông kể về một gã công
chức mất gốc, hờ hững với mẹ già bằng thái độ lạnh lùng bình thản. Sau sáu
năm xa cách, người con giàu có mới ghé về thăm mẹ già ở vùng quê nghèo
khó. Nhà văn vẫn dành cho nhân vật một không gian yên tĩnh mát mẻ ở vùng
quê. Nhân vật được đón nhận những tình cảm yêu thương gần gũi của những
con người quê hương. Giọng văn nhẹ nhàng điềm tĩnh, không hề có một chút
thái độ thể hiện sự căm ghét, khinh bỉ “Ra đến ngoài, Tâm nhẹ hẳn cả mình.
Chàng tự cho là đã làm xong bổn phận”. Nhưng đằng sau giọng trầm tĩnh
khoan hòa ấy “giấu một tính tình khinh bỉ, một cảm tưởng chua chát không
biết đến chừng nào” [7 , tr 279]. Như vậy dù phê phán hay ngợi ca thì thái độ
của Thạch Lam cũng vẫn mực thước theo lối của mình. Chất trữ tình được
thông qua cảm giác, cảm xúc, cảm tưởng của nhân vật.
4.2. 4 Sự kết hợp các kiểu giọng điệu.
97
Trong truyện ngắn của Thạch Lam, hiện tượng tác phẩm chỉ có một kiểu
giọng điệu chỉ có một vài truyện. Ví dụ trong Đứa con đầu lòng, Tiếng chim
kêu, Dưới bóng hoàng lan là giọng thủ thỉ tâm tình, “Người lính” là giọng
buồn thương ngậm ngùi. Thông thường trong truyện ngắn của ông xuất hiện
nhiều hơn một giọng điệu. Ở một số truyện thủ thỉ tâm tình thường kết hợp
với giọng điệu buồn thương man mác, như trong Trong bóng tối buổi chiều,
Cuốn sách bỏ quên,. Có truyện kết hợp giữa giọng thủ thỉ tâm tình với giọng
khoan hòa như Trở về, Người đầm, Người bạn cũ. Phần nhiều truyện của
Thạch Lam kết hợp cả ba giọng điệu. Có thể kể ra một số tác phẩm: “Hai đứa
trẻ, Tối ba mươi, Cô hàng xén, Một đời người, Trong bóng tối buổi chiều,
Hai lần chết, Người bạn cũ, Nhà mẹ Lê... Sự kết hợp cả ba giọng điệu đó
làm cho truyện ngắn của Thạch Lam vừa thể hiện được chiều sâu nội dung tác
phẩm, vừa tạo được sắc thái rất riêng, chất trữ tình sâu lắng.
Trong truyện Đứa con tiêu biểu cho sự kết hợp cả ba giọng điệu. Với
giọng thủ thỉ tâm tình kể về hai người đàn bà với hai nỗi đau khác nhau, hai
niềm hạnh phúc khác nhau. Chị Sen mang thân phận người ở trừ nợ, suốt ngày
đầu tắt mặt tối luôn chịu đựng những oan ức. Nhưng trời ban cho chị được
làm mẹ đứa con kháu khỉnh bụ bẫm. Bà cả, là chủ nợ giàu có nhưng keo kiệt
và ác lại không có nổi lấy mụn con. Tiền của không thay thế được hạnh phúc
làm mẹ. Nhà văn tâm tình với mọi người về nỗi éo le của cuộc đời, hạnh phúc
của người này là nỗi bất hạnh của người khác. Hòa chung vào giọng thủ thỉ
tâm tình là giọng buồn thương ngậm ngùi của chị Sen. Suốt ngày làm vất vả
lại còn bị chửi mắng, đòn roi. Giọng buồn thương ngậm ngùi chan chứa trong
những tiếng thở than “Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu khổ thế
này”. Khi lại là nỗi nhịn nhục thầm kín không dám nói thành lời. Khi miêu tả
nhân vật bà Cả nhà văn vẫn dành cho những tình cảm, sự sẻ chia đối với
người phụ nữ khát khao được làm mẹ. Đã biến bà Cả từ một con người cay
98
nghiệt, sang một con người sởi lởi dễ dãi với những người xung quanh.
Truyện mang lại suy ngẫm hãy biết thông cảm với những nỗi bất hạnh của
những người xung quanh, dù họ là ai. Sự kết hợp các giọng điệu thể hiện khả
năng đồng cảm thấu hiểu sâu sắc đối với những nỗi buồn đau trong cuộc đời
của nhà văn, sức cảm thông lạ lùng trước những bất hạnh của con người.
Giọng điệu đó có khả năng lan truyền tới bạn đọc, đấy là sự cảm thông, niềm
yêu thương, niềm tin tưởng vào con người.
Nói tóm lại, nhà văn có tài là nhà văn phải tạo được cho mình một giọng
điệu riêng. Giọng điệu trong phong cách nghệ thuật Thạch Lam không trộn
lẫn với các nhà văn hiện thực đương thời, không buồn đau, ướt át như những
cây bút lãng mạn đương thời. So với những nhà văn được coi là cùng dòng
truyện ngắn trữ tình, giọng điệu của ông có nét khác biệt. Đó là giọng thủ thỉ
nhẹ nhàng điềm tĩnh dù kể chuyện đời hay chuyện người.
Các kiểu giọng điệu trong truyện ngắn của Thạch Lam được kết hợp một
cách hài hòa. Lúc thì thủ thỉ, tâm tình, lúc thì buồn thương ngậm ngùi, lúc thì
trầm tĩnh khoan hòa nhưng chất trữ tình sâu lắng. Giọng điệu đó đã tạo nên
một phong cách riêng cho Thạch Lam.
Mặc dù vậy giọng điệu trong truyện ngắn Thạch Lam vẫn có những hạn
chế đó là khi đọc truyện ngắn của ông ta thấy thiếu vắng một cái gì đó gấp
gáp, một sắc thái đa thanh. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình, kết hợp với giọng điệu
buồn thương, và giọng điệu trầm tĩnh khoan hòa đã tạo nên một nét riêng cho
phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam.
99
PHẦN KẾT LUẬN
Sự nghiệp cầm bút của Thạch Lam tuy ngắn ngủi, nhưng ông cũng đã để
lại cho nền văn học nước nhà những dấu ấn riêng. Ông không theo đuổi những
mục đích lớn lao, ông lẳng lặng góp cho đời những câu chuyện bình dị, xinh
xăn khiến cho bao thế hệ bạn đọc phải nhớ mãi. Những thành công đó của
Thạch Lam được xây dựng nên từ nhiều yếu tố
Truyện ngắn của Thạch Lam viết về những con người bé nhỏ. Ông quan
tâm đến những số phận bất hạnh của họ. Ở điểm này văn chương của Thạch
Lam có những nét tương đồng với các nhà văn hiện thực đương thời. Ông là
nhà văn lãng mạn, trong nhóm Tự lực văn đoàn, nhưng Thạch Lam không đi
theo con đường văn nghiệp mà các nhà văn trong nhóm đã lựa chọn. Mà ông
chủ yếu đi sâu vào phát hiện và mô tả những vẻ đẹp tiềm tàng khuất lấp trong
tâm hồn con người, nhất là vẻ đẹp của những tâm hồn bình dị đời thường. Khi
đọc truyện ngắn Thạch Lam chúng ta dễ dàng nhận ra đóng góp lớn nhất của
ông là đi sâu vào miêu tả đời sống nội tâm của con người. Con người được
ông miêu tả theo cái nhìn của đời thường với bao tâm trạng cảm giác, cảm xúc
khác nhau. Ông quan tâm đến hiện thực đời sống, chú trọng diễn tả những
cảm xúc của tâm hồn, những khoảnh khắc rất đời thường của những con
người bình dị trong xã hội. Những nhân vật của ông chủ yếu là những con
người nghèo khổ, bế tắc. Về điểm này tuy khả năng phân tích tâm lí nhân vật
của ông chưa bằng các nhà văn như Nam Cao, nhưng rõ ràng những đóng góp
của ông cho nền văn học nước nhà là không nhỏ.
100
Là người yêu sự sống, thiết tha với cái đẹp, sáng tác nào của ông cũng
nhằm hướng tới cái đẹp và tìm tòi cái đẹp. Đó là cái đẹp của tình người, lòng
trắc ẩn vị tha, ở thiên nhiên trong lành gần gũi với tâm hồn Việt. Ông là một
người nghệ sĩ chân chính yêu quê hương đất nước, tình yêu ấy được thể hiện
trong các trang truyện đây hương vị dân tộc. Từ mùi quen của đất, mùi bèo
dưới ao, mùi phân trâu nồng ấm...
Phần lớn truyện ngắn của Thạch Lam không tập trung vào những đề tài xã
hội. Ông chỉ quan tâm đến những trạng thái tâm lí của thế giới tâm hồn con
người. Ông quan tâm đến đời sống nội tâm, đến những rung động, cảm giác
của họ. Thế giơi nhân vật của Thạch Lam hiện lên không đa sắc màu như
những nhà văn hiện thực đương thời, không ồn ào, mà chủ yếu là lặng lẽ, âm
thầm. Đó là những người trí thức tiểu tư sản nghèo khổ, đó là những người
nông dân nghèo khổ bần cùng, nhưng không tha hóa, hay những người phụ nữ
nông thôn Việt Nam mang một vẻ tần tảo chịu thương chịu khó và luôn phải
chịu những cảnh đời bất hạnh.
Như vậy qua việc đi tìm hiểu phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch
Lam chúng ta thấy được những đóng góp của ông trong nền văn học 1930-
1945 nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Từ đó chúng ta thấy được
một Thạch Lam với một phong cách rất riêng, không giống với các nhà văn
đương thời và các nhà văn trong Tự lực văn đoàn. Những đóng góp về phong
cách nghệ thuật chủ yếu trên những phương diện.
Thạch Lam có một phong cách viết văn nhẹ nhàng, thấm đượm tình người.
Những trang văn của ông đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm của nhân vật,
tìm hiểu, khắc họa những tâm trạng, cảm xúc, xúc cảm của các nhân vật. Đó
là những đóng góp trong việc xây dựng các kiểu nhân vật trong những truyện
ngắn. Đó là những người trí thức nghèo, luôn phải đấu tranh với cuộc sống
hàng ngày đó là bát cơm manh áo, đó là những bon chen, những phút yếu lòng
101
sa ngã đánh mất danh dự phẩm chất của con người. Đó là những người dân
nghèo khổ ở các vùng quê hay những phố huyện. Họ là những con người
dường như khi sinh ra đã phải chấp nhận những số phận nghèo khổ. Họ vất
vả, đói khổ, có khi dẫn tới những cái chết thương tâm. Một kiểu nhân vật nữa
chúng ta thấy xuất hiện nhiều trong các truyện ngắn của Thạch Lam và các
nhà văn đương thơì đó là những nhân vật người phụ nữ bất hạnh. Dù hiện lên
trong những hoàn cảnh nào thì những người phụ nữ vẫn mang đầy đủ diện
mạo của người phụ nữ Việt Nam, tần tảo, chịu thương, chịu khó, lam lũ kiếm
sống và phải chịu bao nỗi vất vả đắng cay của cuộc đời. Ở kiểu nhân vật này
Thạch Lam thường hướng ngòi bút xót thương, thông cảm với với cuộc đời
của họ. Những trang văn của Thạch Lam miêu tả về họ không “tàn nhẫn’ như
Nam Cao, mà là ông đi vào việc khám phá những vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm
hồn họ. Dù miêu tả những con người dưới đáy xã hội nhưng Thạch Lam
không gay gắt, mà chủ yếu dùng giọng điệu xót thương thông cảm.
Một trong những đóng góp của Thạch Lam về phương diện ngôn ngữ
và giọng điệu. Ngôn ngữ trong truyện ngắn Thạch Lam là hệ thống từ ngữ tập
trung miêu tả cảm giác hướng nội và hướng ngoại. Trong truyện ngắn của
mình Thạch Lam không sử dụng nhiều ngôn ngữ đối thoại mà chủ yếu là sử
dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Ngôn ngữ của Thạch Lam là ngôn ngữ giàu
chất thơ, ngôn ngữ của cảm giác nội tâm. Ông thành công khi lựa chọn trong
vốn từ Tiếng Việt những từ ngữ mang vẻ đẹp giản dị, gợi cảm diễn tả thật sát
với tâm trạng nhân vật. Đặc biệt nhà văn sử dụng những tính từ, động từ trạng
thái có khả năng gợi được những sắc thái âm điệu tình cảm khác nhau, các lối
so sánh ẩn dụ... làm cho ngôn ngữ trở thành tiếng vọng của tâm hôn. Đây là
một điểm khác với các nhà văn cùng thời. Thạch Lam chủ yếu miêu tả diễn
biến tâm lí, tâm trạng, cảm xúc của nhân vật bằng cách kể truyện. Cũng có khi
ngôn ngữ kể chuyện là ngôn ngữ của nhà văn, vì vậy mà chuyện của ông chủ
102
yếu mang đậm ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Giọng điệu trong truyện ngắn
Thạch Lam là giọng điệu thủ thỉ tâm tình, giọng điệu buồn thương và giọng
điệu khoan hòa trầm tĩnh. Điều này cũng phù hợp với đặc điểm của truyện
ngắn Thạch Lam. Giọng điệu đó có sức sống bền lâu khi nó kết hợp với cảm
hứng khám phá hiện thực của tâm hồn.
Tuy nhiên chưa thể nói rằng mọi yếu tố trong phong cách nghệ thuật của
truyện ngắn Thạch Lam đều hoàn hảo, đâu đó vẫn có những khiếm khuyết. Nó
vừa là mặt trái của quá trình chăm chú phát hiện, phô diễn vẻ đẹp và chất thơ
trong tâm hồn bình dị, vừa là những thử nghiệm đầu tiên trên bước đường văn
xuôi nghệ thuật hiện đại.
Đã hơn sáu mươi năm trôi qua, Thạch Lam đã đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng
những trang văn của ông vẫn còn đó, vẫn đậm tình người, vẫn đặt ra cho
người đọc nhiều thế hệ những khám phá. Và phong cách nghệ thuật truyện
ngắn Thạch Lam vẫn là một đề tài để độc giả nghiên cứu, tìm hiểu và trải
nghiệm. Để một lần nữa chúng ta đánh giá đúng vai trò, vị trí của Thạch Lam
trong nền văn học dân tộc.
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 . Vũ Tuấn Anh - Lê Dục Tú (tuyển chọn và giới thiệu) Thạch Lam về tác
gia và tác phẩm
2 . Tân Chi (tuyển soạn) Thạch Lam văn và đời. Nxb Hà Hội 1999
3 . Phan Cự Đệ - Văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 Nxb Giáo dục
1997
4 . Lê Bá Hán (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi- Từ điển thuật
ngữ văn học. NXB Đại học QG Hà Nội, 1997.
5. Lê Thị Đức Hạnh - Mấy ý kiến đánh giá Thạch Lam, Tạp chí Văn học số
4/1965
6. Đỗ Kim Hồi - Thạch Lam - Đôi điều cảm nhận, Đặc san Văn học và tuổi
trẻ, số 12/2001
7. Khái Hưng- Một quan niệm về văn chương (Tựa Gió đầu mùa) in trong
Thạch Lam về tác gia và tác phẩm Nxb Giáo dục 2001.
8. Đỗ Đức Hiểu - Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn Hà Nội, 2000
9. Nguyễn Thái Hòa - Mấy vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Hà
Nội 2000.
10. Nguyễn Hoàng Khung - Thạch Lam Từ điển Văn học tập II NXB Khoa
học xã hội, năm 1988
11. Trịnh Hồ Khoa - Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho văn xuôi
hiện đại Việt Nam Nxb Văn học 1996
12. Nhất Linh - Khái Hưng -Đời mưa gió
13. Thạch Lam - Tuyển tập Thạch Lam (Phong Lê tuyển chọn và giới thiệu)
Nxb Văn học, Hà Nội 2001
14. Phong Lê - Lời giới thiệu truyện ngắn Thạch Lam. Nxb Văn học, Hà
Nội 2001
104
15. Phong Lê - Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn. Thạch Lam về tác gia tác
phẩm . Nxb Giáo dục Hà Nội 2001
16. Thế Lữ- Tính cách tạo tác của Thạch Lam. Thạch Lam về tác gia và tác
phẩm. Nxb Giáo dục Hà Nội 2001.
17. Phong Lê - Giới thiệu tuyển tập Thạch Lam NXB Văn học, Hà Nội 2001
18. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà- Lí luận văn học, tập I Nxb
Giáo dục 1986
19. Thạch Lam tuyển tập- Nxb Văn học H-1998
20. Thạch Lam Theo dòng NXB Giáo dục, Hà Nội, 1941
21. Nguyễn Đăng Mạnh - Mấy vấn đề phương pháp tìm hiểu thơ Chủ Tịch
Hồ Chí Minh.
22. Tôn Thảo Miên- Truyện ngắn Thạch Lam- Tác phẩm và dư luận Nxb
Văb học 2002
23. Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà văn tư tưởng và phong cách Nxb ĐHQG Hà
Nội, 2001
24. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn An, Tác giả Văn học
Việt Nam Nxb Giáo dục, Hà Nội 1993
25. Nguyễn Đăng Mạnh- Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn
,Nxb Giáo dục, 1986.
26. Vương Trí Nhàn- Sổ tay truyện ngắn Việt Nam Nxb Tác phẩm mới 1980
27. Vương Trí Nhàn- Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam, Tạp chí Văn
học số 5/1990
28. Nguyễn Xuân Sanh - Thạch Lam, những đức tính sáng tạo. Thạch Lam
về tác gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục 2001.
29. Trần Đình Sử - Văn học và thời gian, Nxb Văn học, Hà Nội 2001
30. Trần Đăng Suyền - Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb KHXH, Hà Nội,
2002.
105
31. Trần Đình Sử- Văn học và thời gian. Nxb Văn học, Hà Nội 2001
32. Lê Dục Tú - Miêu tả nội tâm trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Tạp chí
Văn học số 8/1974
33. Đinh Quang Tốn - Thạch Lam, với quê hương sáng tác. Thạch Lam tác
gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục, Hà Nội 2001
34. Nguyễn Tuân-Thạch Lam. Thạch Lam về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo
dục 2001.
35. Bùi Việt Thắng -Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể
loại . Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội 2001.
36. Nguyễn Tuân- Đọc lại Thạch Lam, báo Văn số 28 ra ngày 15/11/1957
37. Nguyễn Tuân - Thạch Lam về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà
Nội, 2001.
38. Hoàng Tiến - Đôi điều tôi học được ở Thạch Lam, Thạch Lam tác gia và
tác phẩm. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001
39. Nguyễn Bích Thảo- Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam.
40. Bùi Việt Thắng - Chắt chiu cái đẹp. Thạch Lam về tác gia tác phẩm.
Nxb Hà Nội 2001.
41. Nguyễn Thành Thi- Thạch Lam, từ quan niệm về cái đẹp đến những
trang văn Hà nội băn sáu phố phường. Tạp chí văn học số 10. 2000.
42. Hoàng Tiến - Đôi điều tôi học được ở Thạch Lam, Thạch Lam về tác gia
và tác phẩm. Nxb Giáo dục, Hà Nội 2001.
43. Xuân Tùng - Thạch Lam và văn chương, Nxb Hải Phòng, 2000
44. Bích Thu- Thạch Lam và kiểu nhân vật tự thức tỉnh. Thạch Lam về tác
gia tác phẩm. Nxb Giáo dục, Hà Nội 2001.
45. Trần Mạnh Thường )tuyển chọn) Thạch Lam truyện ngắn, Nxb Nhà văn
1999
46. Truyện ngắn Nam Phong - Nhà xuất bản KHXH-Viện Văn học 1999
106
47. Tập truyện ngắn Gió đầu mùa Nxb Đời nay 1937
48. Tuyển tập truyện ngắn Nguyên Hồng, Nhà xuất bản KHXH,
49. Tiểu luận văn học Theo Dòng xuất bản Đời Nay năm 1941
50. Tuyển tập truyện ngắn Nắng trong vườn, Nxb Đời Nay 1938
51. Tuyển tập truyện ngắn Sợi tóc NXB Đời Nay 1942
52. Phan Trọng Thưởng - Cuối thế kỉ nhìn lại việc nghiên cứu đánh giá văn
chương Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn học số 2 2000
53. Giao điểm (số 1) - xuất bản do biên lai chính thức số 27 BTT/NBC/HCBC
Sài Gòn năm 1972
54.Phạm Phú Phong - Mấy vấn đề thi pháp truyện ngắn Thạch Lam-Tạp chí
Sông Hương số 5/1992
55. Nhiều tác giả - Từ điển Văn học tập I,II Nxb, KHXH, Hà Nội 1983-1984
56. Nhiều tác giả - Văn học Việt Nam, 1900-1930. Nxb Giáo dục, Hà Nội
1982.
57. Nhiểu tác giả - Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945 . nxb KHXH, Hà
Nội, 1989
58. Hoàng Trần Vũ - Thạnh Lam của cái đẹp Nxb VHTT 2000
59. Tuyển tập Nam Cao Nxb Văn học 1999
60. Nhiều tác giả - Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1920-1945, tập V quyển III
Nxb Văn học, Hà Nội 1995
107