BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN AN THỤY

THẾ GIỚI TRẺ THƠ TRONG TRĂNG NON CỦA R.TAGORE

Chuyên ngành: Văn học nước ngoài M số: 602230

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THUÝ

Thành Phố Hồ Chí Minh- 2007

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài:

1.1. Ấn Độ là một trong những nền văn hoá lớn của nhân loại, có ảnh hưởng rất nhiều đến

các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Văn hoá Ấn Độ mang tính triết lí

và nhân văn sâu sắc, đạt nhiều thành tựu và vươn đến những đỉnh cao rực rỡ ở nhiều thể

loại.

1.2. Một trong những đỉnh cao của văn học Phục hưng Ấn Độ là đại thi hào Rabindranath

Tagore (1861- 1941). Ông được mệnh danh là “ ngôi sao sáng của Ấn Độ phục hưng”, “

người lính canh vĩ đại” của đất nước Ấn Độ.

Sau hơn bảy mươi năm lao động miệt mài, R. Tagore đã để lại cho nhân loại một di

sản đồ sộ các tác phẩm văn học nghệ thuật phong phú và đa dạng: 52 tập thơ, 42 vở kịch,

12 tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, hơn 2000 ca khúc( trong đó có quốc ca Ấn Độ), 63

tập tiểu luận và gần 3000 nghìn bức tranh. Ông được coi là biểu tượng của văn hoá Ấn Độ.

Với những thành tựu và đóng góp cho văn học dân tộc, ông đã tạo dựng nên một thời đại

Tagore bên cạnh các khái niệm thời đại Vê-đa, thời đại sử thi... M. Gandhi tụng xưng ông là

Gurudêva – bậc Thánh sư vĩ đại, người dẫn dắt tinh thần và hướng dẫn tâm linh Ấn Độ.

Năm 1913, Tagore là người Châu Á đầu tiên được giải thưởng Nobel văn chương

cho tập Thơ Dâng ( Gitanjali). Với tập thơ này, ông được xem là một phát hiện của thơ ca

thế kỉ, là “ kì công thứ hai của tạo hoá sau Kalidasa” trong văn học Ấn, “ một biểu tượng vĩ

đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh tuý Á – Au”.

1.3. Ở Viêt Nam, bạn đọc biết đến Tagore khá sớm nhưng không nhiều như họ đã từng biết

đến V. Hugo, Balzac, W. Shakespeare hay Lỗ Tấn… Tuy nhiên, từ năm 1984, sau những cố

gắng tâm huyết của nhiều nhà Ấn Độ học Việt Nam mà tiêu biểu là các giáo sư Cao Huy

Đỉnh, Lưu Đức Trung, văn học Ấn đã chính thức được đưa vào giảng dạy trong hệ thống

các trường trung học, cao đẳng, đại học, sau đại học… Riêng ở bậc trung học cơ sở, tác

phẩm được giới thiệu giảng dạy là bài thơ Mây và sóng, trích trong tập Trăng non. Đây là

tập thơ viết cho thiếu nhi , thuộc ba nội dung chính trong sáng tạo thơ ca của Tagore. Để

khám phá giá trị nghệ thuật của mảng thơ này , chúng tôi đã chọn đề tài luận văn “ Thế giới

trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore” nhằm hai mục đích:

Thứ nhất, có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về con ngườ,i tài năng và tư

tưởng nghệ thuật của Tagore. Ông không chỉ là “nhà thơ trí tuệ muôn màu”[42, tr. 217],

“nhà thơ tình nổi tiếng”[ 45, tr. 849] mà ông còn là nhà thơ của tuổi măng non, người thầy

vĩ đại của trẻ thơ Ấn Độ.

Thứ hai, góp phần thiết thực hơn cho công việc nghiên cứu và giảng dạy thơ

Tagore.

2. Lịch sử vấn đề:

Năm 13 tuổi, với tập thơ Bông hoa rừng in trên tạp chí Bharati ( 1876), R. Tagore

đã nổi tiếng trên văn đàn Ấn Độ. Đến năm 1913, khi Thơ Dâng được trao giải Nobel thì

Tagore thật sự trở thành một hiện tượng văn học của Ấn Độ và nhiều nước trên thế giới.

Năm 1909, Tagore xuất bản tập thơ viết cho trẻ em gồm 40 bài, có tên Sisu( trẻ thơ). Năm

1915, ông tiến hành dịch tập thơ từ tiếng Bengali sang tiếng Anh đặt tên là The Cressent

Moon ( Trăng non). Tờ The Golbe đã nhận xét tập thơ là: “a revelation more profound and

more subtle than that in the Gitanjali ( một sự khám phá sâu sắc và tinh tế, huyền ảo hơn

trong Thơ Dâng)[chuyển dẫn từ 65, tr.3], còn tờ The Nation của Anh thì nhận thấy đây là

“a vision of childhood which is only paralleded in our literature by the work of William

Blake” ( một trí tưởng tượng về tuổi thơ tương tự như những tác phẩm của William Blake

trong nền văn học của chúng ta) [ chuyển dẫn từ 65, tr. 3]. Như vậy, khi Trăng non ra đời,

nó đã mở ra một phương diện khác trong tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tagore khiến cho

những nhà nghiên cứu, những độc giả hâm mộ thơ ông chú ý một cách đặc biệt đến thi

phẩm dành riêng cho trẻ thơ này. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi điểm qua một số công

trình nghiên cứu tiêu biểu về tập thơ Trăng non ở Việt Nam.

2.1. Công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu Tagore học ở Việt Nam:

Từ những năm 1961, giáo sư Cao Huy Đỉnh, một dịch giả có uy tín về thơ Tagore,

khi viết lời giới thiệu cho bản dịch Thơ Tagore đã nhận xét khái quát về tập thơ Trăng non:

“ đó là những bài thơ hết sức hồn nhiên trong sáng, những bức tranh mĩ lệ về tâm lí nhi

đồng”[17, tr.29]. Theo Cao Huy Đỉnh, chính sự trong sáng, hồn nhiên của trẻ đã giúp

Tagore biểu hiện “ những triết lí về cuộc đời” một cách sâu sắc và tinh tế. Đồng thời ông

cũng nhấn mạnh đến đặc điểm nghệ thuật “ trí tưởng tượng phong phú” của Tagore “ đã

khám phá một thế giới thần tiên và nghệ sĩ trong tâm hồn em bé”[ 17,tr. 29] .

Nhận xét của nhà nghiên cứu, dịch giả Đào Xuân Quý chú ý đến “ ngôn ngữ thích

hợp và vô cùng phong phú” mà R. Tagore đã sử dụng trong Trăng non. Ông đã chỉ ra sự

khác biệt độc đáo của Tagore và V. Hugo trong những thi phẩm viết về trẻ thơ:

“ Nhà thơ Ấn Độ đi vào thế giới của trẻ con với một tâm trạng hoàn toàn khác biệt.

Thơ về trẻ em của Tagore trong sáng, hồn nhiên và chân thực. Ông tỏ ra am hiểu tâm hồn kì

diệu của các em và để mô tả cái thế giới trẻ thơ này, Tagore đã dùng ngôn ngữ thích hợp vô

cùng phong phú. Nhưng mặt khác, nếu đọc kĩ ta sẽ thấy rằng thơ viết cho trẻ em của Tagore

cũng là loại thơ có nhiều suy nghĩ và gắn liền với thực tiễn đau buồn của đất nước Ấn Độ”

[42, tr. 211].

Trong cảm nhận của PGS. Lưu Đức Trung, Trăng non lại là những ấn tượng sâu

sắc về cách sử dụng hình ảnh và những câu chuyện kể phù hợp với các em. Theo ông, chính

những hình ảnh, những câu chuyện mang âm hưởng cổ tích đã bộc lộ rõ sự am hiểu tâm lí

trẻ thơ của Tagore. Viết về Trăng non, ông còn nhấn mạnh đến thủ pháp đối lập, tương

phản được sử dụng trong tập thơ: “Tagore muốn đem tâm hồn trong sáng, bản chất Chân –

Thiện – Mĩ đang tồn tại trong trẻ thơ đối lập với bản chất xấu xa, đê tiện đáng khinh của xã

hội đồng tiền và quyền lực chi phối”[ 59, tr.158].

Tiếp nối với những nhận định của PGS. Lưu Đức Trung, trong bài “ Chất trí tuệ,

điểm sáng thẩm mĩ trong thơ Tagore”, TS. Nguyễn Thị Bích Thuý cũng phân chia thơ

Tagore thành ba nội dung lớn: thơ triết luận, thơ tình yêu và thơ viết cho trẻ em. Với mảng

thơ trẻ em, tác giả tập trung vào tập thơ The Cressent Moon

( Trăng non) và nhận xét: “ Với Trăng non, gồm 40 bài viết về trẻ em, Tagore được coi là

V.Hugo của Ấn Độ. Tình thương, tấm lòng trìu mến nâng niu của ông đối với trẻ em thấm

đẫm trong từng chữ, từng câu”[ 50, tr.59]. Đồng thời tác giả cũng dẫn lời của nhà thơ Ailen,

W. B. Yeats nói về Trăng non để khẳng định một lần nữa ý kiến của mình: “ Khi thi sĩ

nói đến trẻ thơ, đặc tính này như một phần của chính thi sĩ thì ta không rõ có phải thi sĩ nói

đến thánh nhân hay không?”[50, tr.59].

TS. Đỗ Thu Hà trong quyển “ Tagore, văn và đời” cũng tuân thủ cách phân chia

thơ Tagore thành 3 nội dung như trên. Tác giả đã đưa ra những nhận xét khái quát nhất về

nội dung và nghệ thuật của tập Trăng non: “ Tagore đã viết những bài thơ để trả lời và lí

giải cho các em với những lời thơ dịu dàng, thơ mộng và tràn đầy tình yêu thương, trong đó,

ông sử dụng một bút pháp đặc biệt. Ông là người đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa

hiện thực và huyền ảo: để thể hiện hiện thực Tagore đã dùng những huyền thoại, những

viền giát xung quanh hiện thực của cuộc sống, đem lại cho nó một chiều sâu có tầm vũ

trụ.”[26, tr.73]

Như vậy, qua những nhận xét của những dịch giả và những nhà nghiên cứu về thơ

Tagore ở Việt Nam, chúng ta phần nào có được cái nhìn tổng quát và toàn diện về tập thơ

Trăng non ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Các tác giả đều tập trung đề cao

tính hồn nhiên, trong sáng của thế giới trẻ thơ và chú ý nhấn mạnh đến những thủ pháp nghệ

thuật cơ bản mà Tagore đã sử dụng trong cả tập thơ như một sự gợi mở, định hướng cho

những nghiên cứu chuyên sâu về tập thơ Trăng non ở bậc Đại học và sau Đại học.

2.2. Các công trình nghiên cứu tập thơ Trăng non ở các trường Đại học:

Ở các trường Đại học, tập thơ Trăng non được khai thác dưới nhiều góc độ khác

nhau:

+ Luận văn thạc sĩ “ Thế giới trẻ em trong sáng tác văn chương Tagore” của

Nguyễn Phương Liên [65] đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng nghệ thuật đã được

Tagore sử dụng trong việc xây dựng thế giới trẻ em được thể hiện trong sáng tác văn

chương của Tagore ở cả 3 thể loại: thơ, văn xuôi và kịch. Tác giả khẳng định: “ nhiệm vụ

của chúng tôi là phân tích các tác phẩm thơ, văn, kịch của Tagore viết về trẻ em, chỉ ra

những thủ pháp khác nhau mà Tagore vận dụng trong 3 phương thức sáng tác ấy để thấy

được tính đa dạng trong tài năng Tagore”[65, tr.2].

+ Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Yếu tố huyền ảo trong tập thơ Trăng non của

R.Tagore” của Trần Kim Dung [ 11] quan tâm đến tác dụng của thủ pháp huyền ảo, làm

cho thế giới trong Trăng non lung linh, huyền diệu và giàu màu sắc hơn.

+ Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Tagore với trẻ thơ qua tập Trăng non” của

Nguyễn Thị Ngọc Diệp [ 12] chủ yếu đi vào khai thác nội dung tư tưởng, tình cảm của

Tagore dành cho trẻ nhỏ được thể hiện trong cả tập thơ.

+ Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Nghệ thuật so sánh trong tập thơ Trăng non” của

Trần Thị Hoài Phương [38] tập trung tìm hiểu nghệ thuật biểu hiện trong Trăng non qua thủ

pháp so sánh để làm bật nổi sự sáng tạo độc đáo của Tagore trong việc xây dựng một thế

giới trẻ thơ hồn nhiên và kì diệu.

* Nhìn chung, các công trình này chưa đặt việc nghiên cứu tập thơ Trăng non trong

một hệ thống một cách toàn diện.

Cho đến nay ở bậc sau đại học( thạc sĩ và tiến sĩ) chưa có luận văn nào đi sâu vào

nghiên cứu Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của Tagore ở cả hai phương diện : nội dung

tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện.

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Đề tài luận văn đi sâu vào nghiên cứu nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện

trong tập thơ Trăng non

Sử dụng nguyên bản tiếng Anh tập thơ The Cressent Moon do Tagore chuyển dịch

từ tiếng Bengali . Đối chiếu với tập thơ đã được dịch sang tiếng Việt

( gồm 40 bài) của các dịch giả Cao Huy Đỉnh, Đào Xuân Quý, Lưu Đức Trung… trong tập

2, quyển R. Tagore – Tuyển tập tác phẩm [ 45]. Bên cạnh đó, tham khảo thêm bản dịch

Mảnh trăng non [46] của Phạm Hồng Dung, Phạm Bích Thủy.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các tác phẩm viết về trẻ thơ của Tagore in trong

các tập Thơ Dâng, Hái quả, Người thoáng hiện… và trong các sáng tác khác của ông.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1 Phương pháp thống kê – phân loại

Phương pháp này được sử dụng trong việc khảo sát văn bản, giúp thống kê phân loại

một cách tỉ mỉ, cụ thể, đầy đủ các hình tượng thơ, những thi pháp đặc trưng mà nhà thơ

dùng để chuyển tải ý tưởng của mình trong Trăng non.

4.2. Phương pháp phân tích

Qua việc phân tích những bài thơ tiêu biểu trong Trăng non để thấy được cái hay, cái

đẹp về nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện trong cả tập thơ.

4.3. Phương pháp đối chiếu – so sánh

Đối chiếu – so sánh cách sử dụng nghệ thuật so sánh và nhân cách hoá giữa các nhóm

đề tài trong Trăng non và giữa Trăng non với các tập thơ khác của Tagore để thấy được nét

độc đáo riêng của một tập thơ thiếu nhi.

Đối chiếu – so sánh thơ thiếu nhi của R. Tagore với thơ thiếu nhi của các nhà thơ

khác để thấy được những sáng tạo riêng của R. Tagore.

5. Cấu trúc luận văn;

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: R. Tagore với trẻ thơ

Chương 2: Vẻ đẹp toàn bích của thế giới tâm hồn trẻ thơ trong Trăng non

Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện thế giới trẻ thơ trong Trăng non.

Cuối cùng là danh mục tư liệu tham khảo.

CHƯƠNG 1

R.TAGORE VỚI TRẺ THƠ

1.1. R. Tagore – Thời thơ ấu và những ước vọng của tuổi thơ

1.1.1 Thời thơ ấu của một thiên tài

R. Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861 trong một gia đình trí thức giàu sang

tại vùng Calcutta, xứ Bengal miền Đông Ấn Độ. Gia đình ông thuộc đẳng cấp quý tộc Bà la

môn nổi tiếng và được mến phục vì đây là gia đình của những thiên tài, đã có nhiều cống

hiến cho công cuộc cải cách xã hội ở Bengal và Ấn Độ. Cha ông, Devendranath, là một lãnh

tụ của phong trào cải cách Hindu ở Ấn Độ cuối thế kỉ XIX, đồng thời là một nhà triết học

nổi danh đã dốc hết sinh lực, trí tuệ và tiền của để làm việc thiện và hoạt động văn hóa xã

hội.

Trong gia đình, R. Tagore là con trai út được yêu quý và chiều chuộng nhất.

Khi R. Tagore chào đời, cha ông đã xem đó là phúc trời nên đặt tên cho ông là

Rabindranath, có nghĩa là mặt trời với mong muốn cậu bé sẽ trở thành nhân tài mang ánh

sáng trí tuệ soi rọi sự tăm tối của đất nước Ấn Độ nghèo nàn và đau khổ .

Thuở nhỏ, R. Tagore được sống trong thế giới của các gia nhân. Trong Hồi ức

sau này, R. Tagore gọi họ là “ vương quốc đầy tớ” một cách kính trọng. Là một cậu bé thích

tự do, R. Tagore thường lang thang bắt bướm hái hoa ngoài trời và tụ tập với bọn trẻ cùng

phố chơi bi, chơi đáo. Vì thế, mọi người cai quản cậu rất nghiêm ngặt. Những giờ bị phạt

trong nhà, cậu thường phóng tầm mắt nhìn ra ngoài cửa sổ ao ước tự do hoặc tìm đến góc

nhà ngồi đọc sách. Hễ cầm được cuốn sách nào là Tagore đọc nghiến ngấu suốt ngày. Là

cậu bé nhạy cảm, Tagore thường rơi lệ khi đọc những trang sách kể về nỗi đau khổ, chia li

của người khác. Ngoài những quyển truyện cổ Ấn Độ, Tagore thường tìm đọc sách nước

ngoài viết cho thiếu nhi đã được dịch ra tiếng Bengali. Cậu thích sách của Dickens, V. Hugo

và nhất là tác phẩm Rôbinxơn Cruxô của Defoe. Hình ảnh Rôbinxơn chống chọi với bão

táp, hòa nhập với thiên nhiên trên hoang đảo khiến Tagore xúc động. Cậu bé lấy đó làm tấm

gương cho cuộc sống tự lập của mình. Cuốn sách đã kích thích trong lòng cậu ý tưởng được

ra khỏi nhà, được tự do bay nhảy. Vào khoảng thời gian ở Cancutta xảy ra nạn dịch hạch,

gia đình Tagore phải qua lánh nạn bên kia bờ sông Patma, một nhánh của con sông Hằng.

Sống trong biệt thự gần sông gần gũi với thiên nhiên tươi đẹp, cậu bé Tagore sung sướng

vô cùng. Như một con chim sổ lồng, cậu chạy nhảy khắp nơi. Chuyến đi đó là bài học đầu

tiên về thiên nhiên của cậu. Trong Hồi kí, Tagore kể lại: “ Cứ mỗi ngày khi màn đêm đã vén

lên, tôi thức dậy có cảm giác như chân trời kia đang đem đến cho tôi một bức thư báo nhiều

tin tức tốt lành khi tôi bóc nó ra. Tôi vội vàng không để chậm trễ một giây phút ngồi chễm

chệ trong chiếc kiệu chuẩn bị đi ra ngoài trời. Ngày nào cũng như ngày nào, tôi được nhìn

nước sông Hằng dâng lên hạ xuống, tàu bè xuôi ngược đôi bờ thật rộn rịp, cây ngả bóng

xuống dòng sông lấp lánh khi mặt trời lên cao. Hoàng hôn buông xuống rừng cây như ngủ

lặng trong một màu đen nhờ nhờ. Có lúc, bất chợt một cơn mưa ập tới xóa nhòa cả chân trời

rực sáng. Dòng sông trở nên âm u cuộn lên những con sóng, gió ào tới lay động cả một rừng

cây, đôi lúc có cảm giác sợ hãi”. [60, tr. 442]

Cảm giác ban đầu về thiên nhiên từ thuở ấu thơ đã gợi cho Tagore một ý niệm

: thiên nhiên nhiên cũng có linh hồn giống con người. Sự tươi thắm, kì diệu của hoa, lá của

ánh sáng mặt trời … đã thức dậy nơi tâm hồn non nớt của cậu bé Tagore một tình yêu thiên

nhiên sâu nặng. Cuộc sống bó hẹp trong khuôn viên biệt thự làm cậu cảm giác như bị cầm

tù và khi đến tuổi đến trường cậu càng chán ghét không khí buồn tẻ, ngột ngạt của lớp học

giữa bốn bức tường. Trong kí ức của Tagore trường học không lưu lại những ấn tượng tốt

đẹp: “ Cái khổ của tôi là phải học trong những nhà trường như thế. Tôi đã từng thấy vũ trụ

như đã biến mất quanh mình, chỉ được thấy những hàng ghế gỗ, những bức tường vôi trắng

xoá. Tôi cương quyết không muốn mình trở thành một đứa bé bị thầy giáo gõ đầu… May

sao tôi thoát ra được những ngôi trường chật hẹp như cái chuồng hoặc như chiếc giầy bó

chân của một người đàn bà Tàu…”[45, tr. 459].

Ba lần R.Tagore được gửi đến trường là ba lần cậu bỏ học. Cuối cùng, gia đình phải

mời gia sư lại nhà. Gyan Babu, con trai của học giả Vedantavaghish là người thầy đầu tiên

của Tagore. Biết Tagore là cậu bé thông minh không thích cách học của trường lớp nên

ông đã giảng các tác phẩm văn học nổi tiếng cho Tagore nghe trước rồi yêu cầu cậu dịch từ

tiếng Anh , tiếng Sanskrit sang tiếng Bengali. Cách học này đã lôi cuốn Tagore và truyền

cho cậu niềm say mê, yêu thích văn chương. Năm lên bảy tuổi, Tagore bắt đầu tập tễnh làm

thơ. Làm được bài nào là nhét vào túi áo bài đó. Nhiều người trong vùng rất thích thơ của

cậu. Từ nhỏ, Tagore đã nổi tiếng là cậu bé thần đồng của xứ Bengal. Mười ba tuổi, Tagore

đăng trường ca Bông hoa rừng ( Benaphul) dài 1600 câu trên tạp chí Mầm kiến thức (

Gyânanka). Tiếp sau đó, cậu sáng tác hai tập thơ Tiếng hát buổi sáng (Prabhat Sangit) và

Tiếng hát buổi chiều ( Sandya Sangit). Hai tập thơ nhỏ này đã bộc lộ tài năng và lòng yêu

đời, yêu cuộc sống của Tagore.

Cha Tagore cũng là một người thầy đắc lực trong việc nâng cao học vấn cho

Tagore. Ông luôn tôn trọng tự do của con cái. Từ năm 11 tuổi, ông đã cho Tagore theo mình

trong những chuyến du lịch dài ngày lên đỉnh Himalaya, dạy cho Tagore bài học đầu tiên về

tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống.

Thuở nhỏ, Tagore không chỉ tự trao giồi ngoại ngữ để học trong sách vở mà

còn chú trọng học những người xung quanh, những người lao động bình thường trong “

vương quốc những người đầy tớ “. Tagore rất thích nghe họ kể và ngâm vịnh sử thi

Ramayana, hát những bài ca dân gian đầy chất trữ tình, giàu lòng yêu con người. Cái “

vương quốc đầy tớ” này có ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển tâm hồn và tài năng của

Tagore. Có thể nói rằng, cuộc đời của Tagore phân nửa gắn liền với môi trường sáng tạo

của những thiên tài, phân nửa gắn liền với văn hóa truyền thống: “Bước đầu của tôi đi vào

văn học có nguồn gốc của nó trong những cuốn sách được lớp người tôi tớ yêu thích và

truyền tụng”[60, tr. 443].

Suốt quãng đời thơ ấu, Tagore chủ yếu là tự học. Ngoài sách vở thì mảnh vườn

thân thiết sau nhà là “ngôi trường” lí tưởng của cậu bé Tagore. Trong “ngôi trường” đó,

Tagore được tự do mơ mộng. Những sắc màu kì diệu của thiên nhiên đã đem đến cho cậu

những câu hỏi ngây thơ về cuộc sống, cậu ao ước khám phá tất cả bằng trí óc non nớt của

mình và từ chối những bài học gò ép nơi lớp học: “ Chúng tôi có một khu vườn nhỏ liền

tiếp với nhà chúng tôi, đối với tôi, nó là mảnh đất thần tiên, hàng ngày hiện ra không biết

bao nhiêu vẻ đẹp kì diệu...Bầu trời như đem lại cho tôi tiếng gọi bạn bè và cả trái tim tôi, cả

cơ thể tôi nữa quen uống vào cái nguồn ánh sáng và yên tĩnh tràn trề của những giờ phút

lặng lẽ đó. Tôi lo lắng không bao giờ để quên mất một buổi sáng nào, vì mỗi buổi sáng đều

quý cho tôi, còn quý hơn vàng đối với một kẻ cùng khổ… tôi được trời phú cho tính hay

kinh ngạc, nó giúp cho đứa bé có quyền được vào trong kho tàng huyền bí trong lòng cuộc

sống. Tôi lơ là với những bài học vì chúng muốn lôi tôi ra ngoài thế giới ở quanh tôi…nó

muốn cầm tù tôi trong những bức tường đá của các bài học”[ 45, 449].

Nơi trường học thiên nhiên, Tagore học được nhiều điều quan trọng. Ngoài sự yêu

thương, chỉ dẫn của gia đình, cậu còn được tự do hoà nhập với thiên nhiên. Điều đơn giản

này không phải bất cứ đứa tre nào cũng đều có được. Vì thế, sau này trưởng thành, Tagore

đã thực hiện được ước mơ xây dựng một ngôi trường mới theo lí tưởng của mình: một ngôi

trường bình yên cho trẻ thơ Ấn Độ.

1.1.2. Hướng tới một nền giáo dục của người Ấn Độ

Giáo dục trẻ bằng tình yêu thương và sự khoan dung chính là tư tưởng chủ đạo

mà Tagore muốn chuyển tới những bậc làm cha mẹ và những người chịu trách nhiệm về

việc “ trồng người”. Tư tưởng này bắt nguồn từ quan điểm giáo dục truyền thống của

người Ấn Độ và từ trái tim giàu lòng trắc ẩn của nhà thơ bởi vì “ Tình ông bà yêu cháu, già

yêu trẻ là một nét cảm động nhất của văn hoá Ấn Độ” [ 13, tr.186].

Thuở nhỏ, Tagore được nhận hưởng một nền giáo dục tốt đẹp từ người cha đáng

kính của mình. Chính phương pháp giáo dục của gia đình và truyền thống văn hoá của dân

tộc đã ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng của Tagore. Ông luôn quan niệm: giáo dục trẻ nhỏ

phải cần tình thương và sự khoan dung. Roi đòn không thể thay đổi và hoàn thiện con người

mà chỉ có tình yêu mới làm con ngưởi trở nên tốt đẹp: “ Một đứa bé sinh ra phải nuôi mình

bằng sữa mẹ, do đó nó vừa biết thứ sữa mình ăn vừa biết cả người mẹ mình nữa. Thứ đồ ăn

của bé đó vừa nuôi được cơ thể vừa nuôi được cả tâm hồn đứa bé. Con người khi buớc vào

đời cũng phải thế, nghĩa là phải lấy tình thương làm gốc, chứ không phải lấy quan hệ nhân

quả làm nguyên tắc..”[45, tr. 458]

Trong kí ức của Tagore, người cha luôn là một tấm gương lớn về nhân cách: “

Người muốn chúng tôi yêu sự thật bằng cả tấm lòng mình. Cũng như trước kia, Người để tôi

tự do leo núi thì bây giờ Người cũng để tôi tự do chọn con đường đi đến sư thật. Người

không hoảng sợ khi thấy tôi lầm đường, lạc lối, không quá băn khoăn trước việc tôi có thể

gặp khó khăn gian khổ dọc đường. Người cầm trong tay ngọn cờ chỉ đạo cứ không phải một

chiếc roi kỉ luật như ai”[ 45, tr. 424]. Ông học hỏi và thừa hưởng ở cha mình một tấm lòng

nhân đạo và ái quốc, một tình yêu thương gia đình chung thuỷ, một tâm hồn vĩ đại và một

tình yêu Con người cao cả. Phương pháp giáo dục trọng tự do cá nhân của cha đã ảnh hưởng

rất nhiều đến quan điểm giáo dục của Tagore .

Năm 40 tuổi(1901), R.Tagore thực hiện được ước mơ xây dựng một ngôi trường

do chính mình làm chủ. Khi ngôi trường Santiniketan ( chốn bình yên) ra đời, Tagore đã

thực hiện một phương pháp giáo dục khác trước mà ông từng ấp ủ: dạy cho học sinh ý thức

được hai mối quan hệ cơ bản của con người trong cuộc sống. Đó là mối quan hệ hoà đồng

giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Ông muốn học trò của ông

phải biết yêu thương, tôn trọng con người và phải biết đề cao, ngợi ca tình yêu thiên nhiên,

tình yêu cuộc sống.

Theo Tagore “ Sự giáo dục phải lấy tình thương làm đầu”[45, tr. 465]. Ông chú

trọng đến việc hoàn thiện nhân cách con người. Ông cho rằng mục đích giáo dục lớn nhất

dành cho trẻ không phải chỉ là tri thức mà điều quan trọng hơn là giáo dục các em có được

đời sống tâm hồn phong phú. Chính vì quan niệm này mà Tagore rất chú trọng đến việc dạy

văn học, nghệ thuật và âm nhạc cho trẻ nhỏ. Ông nuôi dưỡng tâm hồn trẻ bằng vần điệu của

lời thơ, tiếng hát. Và thơ về trẻ em của ông bao giờ cũng là những bài học dạy làm người.

Bốn mươi bài thơ trong Trăng non là những câu chuyện kể nhẹ nhàng về lòng can đảm, sự

chân thật, và tình yêu thương của con người và đặc biệt là tình mẫu tử thiêng liêng cao quý .

Chính ông cũng từng khẳng định giáo dục trẻ bằng tình thương mới là cách giáo dục tốt

nhất bởi vì chỉ những ai thật sự yêu thương thì người đó mới có quyền trừng phạt: “Khi tôi

trừng phạt nó. Thì nó lại càng trở nên một phần của bản thân tôi. Và khi tôi làm cho nó

khóc. Thì lòng tôi cũng khóc cùng với nó. Chỉ tôi mới có quyền rầy la và trừng phạt. Bởi vì

chỉ có ai thương. Thì người đó mới có quyền trừng phạt.” ( Quan toa)

Là một nhà thơ đồng thời là một nhà giáo dục, Tagore cho rằng trường học tốt

nhất để nuôi dưỡng tâm hồn trẻ nhỏ là trường học thiên nhiên. Tư tưởng này xuất phát từ

quan điểm giáo dục truyền thống của văn hóa Ấn Độ cổ xưa: “Thời xưa , ở Ấn Độ, con

người sinh hoạt ở đâu là trường học ở đó. Trường học không phải là một học viện, cũng

không phải là chốn tu hành khổ hạnh. Nơi đó, chính là để học cách nuôi dưỡng sinh vật, tự

nuôi sống mình bằng cách nhặt củi, hái rau quả… Cuộc sống đó gọi là trường đại học ( tiếng

Phạn là Chatuspathis)”. Như vậy, trong cách nhìn của người Ấn Độ, thiên nhiên không chỉ

là nơi con người quan sát, chiêm nghiệm cuộc đời mà còn là nơi họ học cách tự giúp mình

tồn tại bởi vì : “ giáo dục không phải chỉ học bài ở trong lớp học mà còn trong cuộc sống”

[ 45, tr.465].

Trên cở sở kế thừa và tiếp nối quan điểm giáo dục truyền thống của văn hoá dân

tộc, Tagore đã mở ra một cái nhìn mới về vấn đề giáo dục trẻ thơ theo tinh thần tự do, hoà

nhập vào vũ trụ. Theo ông, thiên nhiên là bà mẹ đời thứ hai tác động rất nhiều vào trẻ nhỏ

và là trường học lí tưởng nhất để hoàn thiện nhân cách một con người. Chính nơi trường học

thiên nhiên này, ông đã học được rất nhiều điều quan trọng, trong đó có cả tôn giáo của

riêng ông mà ông gọi là Tôn giáo Con người: “ Trong bụng mẹ, đứa trẻ được tự do lần thứ

nhất do sự sinh trưởng của nó. Thế nhưng, sau khi lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã bị xã hội can thiệp

vào, kéo ra khỏi cái công nuôi dưỡng của Tao hoá, của trời xanh, của ánh sáng, của không

khí mát lành. ..Nhà trường cửa đóng kín, nó sống chung quanh các đồ vật ngày càng nhiều.

Nó không hiểu cuộc sống đó sẽ dần dần làm cho tâm hồn tê lạnh, làm mất đi cuộc sống tự

nhiên, sinh động”[ 45, tr. 460].

Từ những quan niệm, tư tưởng về việc xây dựng một nền giáo dục mới cho Ấn

Độ, Tagore đã thể hiện sâu sắc tình yêu thương và trách nhiệm của mình đối với trẻ thơ.

Ông muốn các em phải biết yêu thương và trân trọng cuộc sống. Đó chính là lí tưởng giáo

dục cao đẹp của ông, là kinh điển của Tôn giáo Con người mà ông muốn gởi gắm và thực

hiện nơi ngôi trường Santineketan – ngôi trường của sự bình yên.

1.2. R. Tagore – Nhà thơ của thiếu nhi

1.2.1. Hoàn cảnh ra đời của tập thơ Trăng non

Nghĩ về tập thơ Trăng non, người ta thường nhớ đến những câu thơ Tagore viết

trong Những cánh chim bay lạc:

Cõi đời hôn lên hồn tôi với nỗi đau thương

Và đòi hỏi tôi đáp lại bằng lời ca, tiếng hát [45, 731]

Và thật vậy, Trăng non chính là tiếng ca được cất lên từ những nỗi đau thương.

Năm 1904 Tagore mất đứa con gái thứ hai, năm 1907 đứa con trai đầu của nhà thơ

cũng từ giã cõi đời. Cùng với cái chết của người vợ (1902) và cái chết của người cha (1905),

Tagore gần như suy sụp. Thế nhưng, kì diệu thay ông vẫn làm thơ! Chính ông đã từng nói:

“Khi tình cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra ngoài, chúng ta có thơ”. Và

Trăng non chính là thơ được cất lên từ cõi lòng Tagore nhiều đau thương mất mát. Tập thơ

ra đời năm 1909 và ban đầu có tựa đề là Sisu ( Trẻ thơ). Đến năm 1915, nó được Tagore

chuyển từ tiếng Bengali sang tiếng Anh và đổi tên là The Cressent Moon ( Trăng non) gồm

40 bài.

Trăng non là tập thơ viết về trẻ thơ , là biểu tượng cho tâm hồn bản nguyên,

thuần khiết của các em. Với Trăng non, Tagore đã tái hiện lại một thiên đường đã mất trong

mỗi chúng ta, đó là thiên đường của tuổi ấu thơ tràn ngập tình yêu thương mẫu tử.

1.2.2. Trăng non – Những cảm nhận tinh tế về trẻ thơ

Trăng non là tập thơ thể hiện sâu sắc tình thương yêu và niềm mong ước của

Tagore về một thế giới tươi đẹp dành riêng cho trẻ. Trong thế giới ấy, trẻ thơ thoát ra mọi ràng

buộc của cuộc sống đời thường và tự do đi về trong tưởng tượng. Trẻ thơ là hiện thân của nước,

của tinh khiết, vô vi và trong thế giới của trẻ mọi quyền uy, toan tính của con người đều trở nên

vô nghĩa. Với Tagore, trẻ thơ là điều kì diệu mà Thượng đế đã ban tặng con người, là sợi dây

nối kết mối giao hoà vĩnh cữu của thế giới thực tại và mộng tưởng, của mặt đất và bầu trời, của

con người và thiên nhiên, của tình yêu giữa cha và mẹ… Trong vòng tay và trái tim của mọi

người, trẻ thơ là thiên thần, là niềm vui, là buổi ban sơ của một đời người… Và trong trái tim

Tagore, trẻ là tất cả những gì ngộ nghĩnh, hồn nhiên, trong trẻo. Tagore không chỉ nhìn trẻ bằng

cái nhìn trìu mến của một người ông dành cho cháu như V.Hugo trong Nghệ thuật làm ông,

không chỉ bao bọc, chở che bằng vòng tay, tình yêu của một người mẹ như Xuân Quỳnh (Ru

con), không chỉ thì thầm về những giấc mơ như Hoàng Trung Thông (Những cánh buồm )

…mà với Tagore, Trăng non là phép cộng của tất cả những thứ tình cao quý đó. Nếu ngày

trước V.Hugo từng ngạc nhiên khi khám phá ra vị trí của trẻ trong vũ trụ: “Bé chính là bình

minh và hồn ta là cánh đồng bát ngát/ Cánh đồng đã ướp hương những loài hoa dịu mát vào

trong hơi thở của em ( Khi em bé hiện ra) thì đến Tagore ông lại cho rằng trẻ thơ là một thiên

thần , đến từ xứ sở thần tiên như một kẻ ăn mày để có thể đến xin cả kho báu tình thương của

mẹ. Dường như trong cách cảm nhận của Tagore, trẻ thơ có phần gần gũi, chân thật và đáng

yêu hơn cả. Được mệnh danh là V.Hugo của Ấn Độ, Tagore không chỉ xúc động nghẹn ngào

trước cô bé bán củi nghèo hèn: “ Em gái da sạm đen răng trắng/ Cánh tay bé nhỏ quắp sau

lưng/ Kéo lê run rẩy một bó củi/ Dịu dàng em chiếc bóng của hãi hùng” ( Em bé bán củi – V.

Huygo) mà ông còn hoá thân vào những vui buồn thơ dại để phát hiện ra ước mơ, khát vọng

của các em. Tagore còn cho rằng chỉ có nỗi buồn tủi của chúng là đáng kể nhất bởi lẽ từ khi

sinh ra trẻ đã có quyền được chơi đùa, yêu thương, được chăm sóc, nâng niu:

Nỗi buồn tủi của đám người đông đảo

Cũng không sao lớn bằng

Nỗi buồn tủi của chú bé kia

Chú không có nỗi một xu

Để mua một chiếc gậy tô màu

Đôi mắt thèm thuồng của chú

Làm cho tất cả đám người kia

Thương xót

( Người làm vườn, 1914)

Là một nhà thơ luôn đấu tranh không mệt mỏi vì tự do của con người, trong Trăng

non , Tagore mong muốn mang đến cho trẻ em một thế giới tự do tuyệt đối: tự do trong

tưởng tượng, tự do trong vui chơi, tự do bày tỏ tình cảm, ước vọng của mình. Giữa cuộc

sống bộn bề lo toan của người lớn, trẻ là sự hiền minh. Sự tự do của trẻ là mong muốn mãnh

liệt của người lớn khi họ vọng tưởng về thời ấu thơ. Đó là sự tự do tuyệt đối không bị những

vật chất tầm thường ràng buộc. Trong bài Bản hợp đồng cuối cùng, R. Tagore kể lại một

câu chuyện lí thú. Một chàng thanh niên làm thuê vừa đi vừa rao lớn : “ Nào, ai thuê tôi thì

đến thuê?”. Một ông vua “ ngồi trên xe đi tới và bảo: “ Ta muốn thuê ngươi bằng quyền lực

của ta”. Nhưng quyền lực của y có gì đáng kể và y lại ra đi “. Đến trưa “ dưới trời nóng

bỏng”, anh ta gặp một tay triệu phú, hắn nhắc túi vàng lên và bảo: “ Ta thuê ngươi bằng tiền

bạc của ta”. Nhưng anh vẫn quay lưng. Khi chiều xuống, anh gặp một cô gái đẹp và hứa sẽ

thuê anh bằng một nụ cười . Nhưng “ nụ cười của cô ta đã nhạt đi và tan thành nước mắt”,

“ cô trở về trong bóng tối một mình”. Anh đã từ chối tất cả từ quyền lực, của cải và sắc đẹp.

Cho đến khi anh gặp cậu bé, mọi việc đã hoàn toàn đổi thay:

Ánh mặt trời long lanh trên cát

Và sóng vỗ rì rào

Một cậu bé chơi với dăm vỏ ốc

Cậu ngẩng lên và dường như cậu nhận ra tôi rồi nói:

Tôi thuê anh với hai bàn tay trắng

Và từ khi bản hợp đồng được kí chơi với cậu bé

Tôi đã trở thành người tự do

( Bản hợp đồng cuối cùng)

Như vậy, sự lựa chọn cuối cùng của anh ta là tự do. Trong Trăng non, sự tự do

của trẻ thơ đồng nghĩa với một tâm hồn thuần khiết và thánh thiện. Tagore ca ngợi bản chất

này ở trẻ và cho rằng chính nó đã đem đến cho trẻ cái nhìn trong trẻo về cuộc sống và

những điều quý giá mà người lớn không thể nào có được: tự do, hạnh phúc, niềm vui và cao

hơn cả là tình yêu trong sáng dành cho mẹ:

Trên mảnh đất của vầng trăng non bé bỏng

Bé tự do không hề ràng buộc chút nào

Nhưng không phải tự nhiên mà bé không cần đến tự do

Bé biết rằng trong góc nhỏ trái tim của mẹ

Có chứa một niềm vui vô tận vô cùng

Và được ghì được ôm trong chặt trong cánh tay thân yêu của mẹ

Còn dịu dàng hơn tất thảy tự do

( Cung cách của bé )

Khi sáng tác Trăng non, Tagore đã để tâm hồn tự lan toả thành thơ. Chính tình

yêu và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ông đã giúp ông có được những cảm nhận tinh tế về

trẻ nhỏ. Nhập vai vào trẻ, Tagore đã nói lên được ước mơ khát vọng của các em. Có thể nói,

trong thơ ông trẻ thơ thật sự được tự do trong thế giới mộng tưởng của chính mình, được

ban phước lành từ bàn tay tạo hoá:

Ban phước cho trái tim bé nhỏ, cho linh hồn trong trắng

Nhờ nó mà khiến trời hôn đất

Nó yêu ánh dương, nó yêu gương mặt mẹ hiền

Nó chưa biết khinh khi cát bụi và chạy theo bạc vàng

…Hãy giữ lòng tin của nó, dẫn nó đi thẳng và cầu chúc cho nó

Có đe dọa tới đâu linh khí từ trên trời cao cũng sẽ tới

Thổi căng buồm đưa nó tới cõi bình yên

( Ban phước)

Bàn tay tạo hóa đã ban cho trẻ sự sống giữa cõi đời này nhưng tâm hồn trẻ lại lớn

lên nhờ tình yêu của mẹ. Cho nên cuộc hành trình từ thiên đường của trẻ đến trần gian cũng

chính là hành trình truy tìm Trái tim tình thương từ Mẹ. Chính mẹ và cõi đời trần thế này

mới là thiên đường thực sự mà trẻ cần tìm đến. Tạo hoá có thể ban tặng trẻ mọi thứ từ vòng

hoa rực rỡ sắc màu đến những phúc lành tràn trề bất tận nhưng điều trẻ cần lại chính là

hương thơm tình yêu từ trái tim của Mẹ: Nếu bé muốn thì ngay bây giờ bé có thể bay lên tận

trên trời. Không phải tự nhiên mà bé không chịu rời bỏ chúng ta. Bé thích đặt đầu vào trong

lòng mẹ. Và mắt bé không chịu rời xa mẹ bao giờ….Cái điều bé thích nhất là được học

những lời của mẹ nói ra. từ trên đôi môi của mẹ…Bé có hàng đống vàng đống ngọc. Thế

nhưng bé đã đến mặt đất này. Như một kẻ ăn xin….Để có thể đến xin cả kho báu tình

thương của mẹ.(Cung cách của bé).

Là những bài thơ ghi lại bản chất thánh thiện của trẻ thơ, Trăng non thể hiện sâu

sắc tấm lòng nhân đạo Tagore dành cho trẻ nhỏ. Trong cái vô cùng của vũ trụ, ông đã mang

đến cho trẻ khát vọng được hoà nhập vào mây và sóng, được gửi gắm giấc mơ của mình

trên những con thuyền giấy dưới ánh sao khuya, được thể hiện tình yêu dành cho

mẹ…Trong sắc màu hư ảo của mảnh Trăng non, trẻ là hiện thân của muôn vàn vẻ đẹp, là

buổi sớm mai của một đời người mà ai cũng một lần bước qua và không bao giờ quay trở

lại.

1.2.3. Trăng non – Tiếng thơ kì diệu của tuổi thơ

Là một tập thơ viết cho thiếu nhi Trăng non hội đủ các yếu tố mang tính đặc

trưng của một tác phẩm văn học thiếu nhi.

Khi viết Trăng non, Tagore đã thực sự sống với đời sống của lứa tuổi thiếu nhi.

Ông cảm nhận sâu sắc, trọn vẹn những đặc trưng tâm lí của các em. Bằng tình cảm chân thật

của một người cha ông đã hồi tưởng và làm sống lại kí ức những năm tháng tuổi thơ một

cách kì diệu và trong trẻo nhất.

Đọc Trăng non, độc giả được sống trong một thế giới thần tiên và nghệ sĩ, một

thế giới pha trộn giữa hư và thực, giữa sự tưởng tượng và cuộc sống thực tại phong phú.

Công trình nghiên cứu của Coócnây Trucôpxki ( 1882- 1969), nhà văn, nhà nghiên cứu văn

học Liên Xô cũ cho chúng ta thấy Trăng non thật sự là một tập thơ viết cho thiếu nhi và

viết về thiếu nhi.

Trăng non là một tập thơ giàu hình ảnh, màu sắc của hội hoạ. Nhưng những sắc

màu , hình ảnh này khác với những sắc màu, hình ảnh ngoài cuộc sống vì nó được cảm nhận

bằng trí tưởng tượng của trẻ thơ. Chỉ có các em mới nhìn thấy nơi những vật vô tri vô giác

cả một thế giới sống động, diệu kì :

Tường điện bằng bạc trắng, mái điện bằng vàng ròng

Hoàng hậu sống trong cung có bảy sân chầu và đeo một hạt ngọc quý bằng

châu báu của cả bảy nước

… Cô công chúa nằm ngủ trên bờ xa tít cách bảy biển không ai vượt nổi…

… Nàng mang vòng ở cổ tay, tay đeo ngọc trai và tóc dài chấm đất

Nàng sẽ thức giấc khi con khẽ chạm chiếc gậy thần và mỗi khi cười môi nàng

tuôn trào châu báu…

… Nhà bác phó cạo

…Ở góc hè kia ngay chỗ chậu cây cảnh

( Xứ thần tiên) Bằng sự tưởng tượng, trẻ đã thổi hồn cho sự vật và tạo ra trong thế giới của mình

một không gian kì diệu, không gian huyền thoại của những ước mơ. Nhận xét về vấn đề

này, trong quyển Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ, Xukhômxlinxki, nhà giáo dục Nga đã viết:

“ Mỗi đứa trẻ không chỉ tri giác mà còn khắc hoạ, sáng tạo và xây dựng. Sự nhìn nhận thế

giới của trẻ là một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Hình ảnh mà trẻ tri giác đồng thời xây

dựng mang trong nó sắc thái tươi sáng của cảm xúc. Trẻ trải nghiệm một niềm vui dữ dội

khi tri giác những hình ảnh của thế giới xung quanh và bằng trí tưởng tượng bổ sung vào

những hình ảnh ấy một điều gì đó”[ 63, tr.16]. Như vậy, trong sự phát triển thể chất và tinh

thần của trẻ, tưởng tượng là một yếu tố không thể nào vắng mặt. Bởi vì, trong cái nhìn của

trẻ, cuộc sống vốn chứa nhiều bí mật. Trẻ muốn khám phá nó qua sự tưởng tượng của mình.

Vì thế, mỗi câu hỏi của trẻ đều ngộ nghĩnh, hồn nhiên : “Em hỏi: “ Buổi tối khi trăng tròn,

treo lơ lửng giữa lùm cây, có ai ôm được nó không?”/ Thế là anh cười chế nhạo: “ Ngốc ơi,

mày là đứa bé, ngốc nghếch nhất trần gian/ Mặt trăng xa vời vợi/ Làm sao mà với

tới…”(Nhà thiên văn) Là “nhà lãng mạn sáng tạo” trẻ đã xây dựng nên trong thế giới của

mình một xứ xở thần tiên với “ những cánh đồng lúa chín vàng” bên bờ suối óng ánh hay

““hoa chàm vàm rụng rơi” trên lối mòn râm mát, còn những giọt sương long lanh trong ánh

bình minh là “ ngọc trai run rẩy trên đồng, ngọc trai rơi trên nội cỏ non” và sóng biển dạt

dào là “ ngọc trai trải xoè trên bờ cát”…

Có thể nói, bằng những dòng thơ lấp lánh sắc màu cổ tích, Tagore đã tạo cho các

em một thế giới diệu kì. Trong thế giới đó các em được tự do vui chơi với sự tưởng tượng

cuả mình. Đó là thế giới của trăng non, của những giấc mơ tươi đẹp, lạ kì.

Trăng non còn là một tập thơ giàu chất trữ tình ( giàu chất thơ, chất nhạc). Với

đặc điểm của thể loại thơ văn xuôi ( A prose poem), một hình thức được xem là tự do, dân

chủ nhất trong thể loại trữ tình, là loại “ thơ du dương không điệu, không vần, hơi mềm và

hơi cứng, để có thể thích ứng với những chuyển động trữ tình của tâm hồn, với làn sóng

nhấp nhô của mơ mộng, với những cảm xúc bất thường của lương tri”[ 22, tr. 578] chất thơ

trong Trăng non được “tạo nên bởi cấu tứ và suy tưởng giàu sức khơi gợi, bất ngờ, chất

triết lí thâm thuý, thơ mộng.”[27, tr.319]. Sức hấp dẫn của một bài thơ văn xuôi là ở vẻ đẹp

của tư tưởng, tình cảm, ở những rung động tinh tế của cảm xúc, những khám phá mới mẻ,

độc đáo của hình ảnh. Thơ văn xuôi giàu tính nhạc, theo Xuân Diệu, đó là “cái nhạc bên

trong của câu thơ… không thể hiện ra ở vần mà lỗ tai cảm thấy ngay” [14, tr. 619]. Giả

Bình Ao, một nhà văn hiện đại của Trung Quốc đã dùng thể loại thơ văn xuôi dưới hình

thức đối thoại để viết về tình mẫu tử: “Mẹ ơi, mẹ bảo quả táo trên cây chin đỏ là nhờ có mặt

trời. Thế thì củ cải đỏ lớn lên trong lòng đất vì sao mà nó đỏ? Mẹ ơi, mẹ bảo gà trống gáy

thì trời sáng, thế sao gà trống chết rồi mà trời vẫn sáng? Mẹ ơi, mẹ bảo con không nên hỏi

mẹ như vậy, vì làm mẹ thì không bao giờ nói sai. Vậy thì con cũng sẽ không bao giờ nói sai,

vì sau này con cũng sẽ làm mẹ”[ 64, tr. 319].

Với hình thức đối thoại của thể thơ văn xuôi ( nhưng thực chất chỉ là cuộc độc thoại

vì đối tượng trữ tình ẩn đi, chỉ còn lời nhân vật trữ tình), những bài thơ trong Trăng non

vừa thơ mộng, dịu dàng vừa ngọt ngào, êm ái như lời thì thầm yêu thương của con và mẹ:

Giá như con hoá thành một đoá hoa Chămpa

Chỉ để chơi thôi

Và mọc trên một cành cây cao nọ

Và reo cười đung đưa trong gió

Thì mẹ có nhận được con không hở mẹ?

Mẹ sẽ gọi: “ Bé ơi, con đâu rồi?”

Và con sẽ cười thầm lặng im không nói

Con sẽ len lén mở cánh rình xem lúc mẹ đang làm

( Hoa Chămpa) Cuộc đối thoại ở bài thơ trên thực ra chỉ là cuộc độc thoại của con. Đối tượng trữ

tình (mẹ) đã bị giấu đi chỉ còn lại lời của nhân vật trữ tình ( con) bộc lộ. Con đưa ra câu hỏi

giả thiết, mường tượng ra phản ứng của mẹ và bộc lộ thái độ của mình trước hành động ấy.

Dường như ân sau những câu hỏi của con là tiếng cười tinh nghịch, hồn nhiên. Con sẽ “ bất

thình lình thả mình rơi xuống đất. Và một lần nữa lại trở thành bé yêu của mẹ, và đòi mẹ kể

chuyện cho con. “ Này thằng quỷ, mày ở đâu thế? “ Mẹ ơi, con chẳng nói đâu. Đấy là điều

rồi hai mẹ con ta sẽ nói với nhau”. Sự hoá thân hoá thân của con là một trò chơi nghịch

ngợm, thông qua trò chơi ấy con đã thể hiện tình thương yêu chân thành của mình dành cho

mẹ.

Không chỉ viết về thế giới trẻ thơ, thế giới tràn ngập tình yêu của mẹ và bé,

Trăng non còn là bài học giáo dục trẻ thơ tinh tế và sâu sắc. Những bài thơ trong Trăng

non không phải là những triết lí, những mệnh đề khô cứng bởi tính chất chất giáo dục của

nó. Bốn mươi bài thơ trong Trăng non là những câu chuyện kể nhẹ nhàng về lòng can đảm,

sự chân thật, và đức hiếu thảo ở mỗi con người … Sau khi đọc tập thơ, điều đọng lại trong

tâm hồn chúng ta là hãy nâng niu và chăm sóc trẻ thơ, hãy giáo dục trẻ bằng tình yêu thương

nhân hậu. Chính sức mạnh tình thương sẽ cải hoá, hoàn thiện một con người.

Trăng non chính là món quà đặc biệt Tagore dành cho trẻ nhỏ. Bằng trái tim

của một người cha, ông đã viết nên những dòng thơ yêu thương về tình mẫu tử, về ước mơ

và khát vọng trẻ thơ… Trăng non mãi mãi là thiên đường mơ ước của mỗi chúng ta.

CHƯƠNG 2

VẺ ĐẸP TOÀN BÍCH CỦA THẾ GIỚI TÂM HỒN TRẺ THƠ

TRONG TRĂNG NON

2.1. Một thế giới thuần khiết trong thiên nhiên tươi đẹp

2.1.1. Thiên nhiên với đời sống văn học Ấn Độ

Trong đời sống văn hóa, văn học phương Đông, thiên nhiên là một tấm gương

phản chiếu tâm tư, tình cảm của con người. Nếu trong ca dao, dân ca Việt Nam, thiên nhiên

là không gian khởi đầu cho những ước thệ chung tình: cây đa, bến nước, sân đình:

Cây đa cũ, bến đò xưa

Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ

thì trong văn hóa Nhật, thiên nhiên lại bát ngát “ hương Thiền” và được nâng lên thành đạo

“ Thần đạo” ( Kami):

Trên cành khô

Cánh quạ đậu

Chiều thu

( Basho) [ 7, tr.174]

Dù tồn tại trong những không gian – văn hóa khác nhau nhưng cảm thức về

thiên nhiên, vũ trụ của con người phương Đông luôn có sự đồng điệu giống nhau. Người

phương Đông luôn hòa mình vào thiên nhiên, vào vũ trụ vĩnh tồn. Với họ, thiên nhiên

không chỉ là người bạn tri kỉ, tâm giao mà còn là duyên cớ của những xúc cảm tâm hồn. Để

nói về những cảm hứng, cảm xúc trữ tình được coi là điểm khởi đầu cho những sáng tạo thơ

văn, người Trung Quốc thường nói: “ Tức cảnh sinh tình” và trong đời sống văn hóa của họ

giữa con người và thiên nhiên luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Quan niệm Con

người vũ trụ trong

triết học cổ đại Trung Quốc: “ thiên nhân hợp nhất”, “ thiên nhân tương dữ” ( trời và người

quan hệ mật thiết với nhau), “ thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất” ( trời đất

cùng sinh ra với ta, vạn vật với ta là một) đã thể hiện rõ mối quan hệ mật thiết này: Con

người là một “ tiểu vũ trụ” trong lòng “ đại vũ trụ”. Vì thế, trong thơ Đường Trung Quốc,

con người luôn hòa mình vào thiên nhiên và đem thiên nhiên vào trong cõi lòng mình:

Hoàng hà lạc thiên tẩu Đông Hải

Vạn lí tả nhập trung hoài gian

( Lí Bạch) [23, tr. 47]

( Sông Hoàng Hà từ trời xuống chảy ra biển Đông

Muôn dặm dồn về giữa cõi lòng)

Văn hóa phương Đông không bao giờ phủ nhận tính chất hữu linh của thiên

nhiên. Cũng như con người, thiên nhiên cũng hữu linh, hữu tình, hữu tâm:

Mùa xuân ra đi

Tiếng chim thổn thức

Mắt cá lệ đầy

( Basho)[7, tr.178]

hay:

Thiên hạ thương tâm xứ

Lao lao tống khách đình

Xuân phong tri biệt khổ

Bất khiến liễu điều thanh

( Lí Bạch ) [23,tr. 49]

( Dưới trời nơi đau khổ

Chính ở Lao lao đình

Gió xuân xót li biệt

Chẳng khiến liễu xanh cành)

Trong quan niệm của người phương Đông, có một sự cảm thông kì lạ giữa con

người và thiên nhiên, đến nỗi khi con người không thể nói hết tâm tình của mình thì dùng

ngôn ngữ thiên nhiên để thể hiện:

Khứ niên kim nhật thử môn trung

Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

Nhân diện bất tri hà xứ khứ

Đào hoa y cựu tiếu đông phong

( Thôi Hộ ) [23,tr. 46]

( Năm ngoái năm nay trong cánh cửa này

Mặt người và hoa đào, màu hồng ánh lẫn vào nhau

Giờ đây mặt người không biết đã đi đâu

Chỉ còn hoa đào cười với gió đông như cũ)

Như vậy, từ trong truyền thống xa xưa của văn hóa phương Đông, thiên nhiên

đã có một sứ mệnh đối với con người. Thiên nhiên không chỉ là tấm gương phản chiếu tâm

hồn con người, mà thiên nhiên còn là một sinh linh có linh hồn và một nhân vật trữ tình

trong sáng tác thi ca ( đây là điểm khác nhau giữa phương Đông và phương Tây trong quan

niệm về thiên nhiên). Đối với các thi nhân phương Đông, thiên nhiên là cội nguồn của cảm

hứng trữ tình, là “ ngôn ngữ” kì diệu nhất giúp con người bày tỏ nỗi lòng.

Với văn hóa, văn học Ấn Độ( từ truyền thống đến hiện đại), thiên nhiên được

miêu tả như một yếu tố có nhân tính, được tôn thờ như thần, là “ Bà mẹ thiên nhiên vĩ đại”,

là biểu tượng của sự lặng im giản đơn và lòng trong trắng. Vì thế, trong đời sống văn hoá

Ấn Độ, thiên nhiên là phương tiện quan trọng để biểu cảm và thể hiện tình cảm con người.

Kinh Upanishad triết luận về cuộc sống hữu hạn và mối tương quan giữa con

người với thiên nhiên như sau: “ Đời sống của loài người là một cuộc sáng tạo, là ý nguyện

vươn tới chiến thắng sức kháng cự của chất liệu chết, là ước mong khám phá ra được tất cả

những điều bí ẩn của vật chất và bắt những sức mạnh vật chất của nó phải tuân theo ý muốn

của con người, để phục vụ cho hạnh phúc của con người”[ chuyển dẫn từ 52, tr. 49]. Triết lí

này dựa trên cơ sở triết học: con người là một bản thể của vũ trụ và sự hòa đồng giữa con

người với tự nhiên sẽ đưa con người đến sự giải thoát.

Trong thơ Ấn Độ, thiên nhiên là người bạn gắn bó khăng khít với con người, là

nhân tố giúp cho tâm hồn và tình cảm của con người luôn được trong sáng. Hòa mình vào

thiên nhiên, con người tìm thấy sự thanh thản tuyệt đối của đời sống tâm hồn. Trong bộ sử

thi Ramayana, thiên nhiên luôn được miêu tả như một nhân vật trữ tình luôn đồng cảm với

con người; giữa con người với thiên nhiên luôn có mối cảm tình sâu nặng với nhau. Ngay từ

những ngày đầu tiên đến Chitrakuta, bắt đầu cuộc sống lưu đày mười bốn năm trời, Rama

đã cảm thấy lòng yên bình, thanh thản. Mọi u buồn, hiềm khích vì bị tước đoạt quyền uy và

địa vị đều tan biến trong lòng. Chàng nói với Sita mà như nói với chính mình: “ Gianaki ơi!

Trông thấy những ngọn núi xinh đẹp này, anh không cảm thấy là mình đã mất vương quốc,

và anh đã không quá đau xót vì phải xa cách bạn bè. Đẹp làm sao những ngọn núi kia, nơi

quanh năm chim rừng trú ẩn! Cao biết bao những đỉnh núi như chọc thủng trời xanh”[2, tr.

214]. Với người Ấn Độ, thiên nhiên không chỉ là người bạn thân thiết mà còn là nơi trú ngụ,

chở che, trả lại cho con người bản chất chân -thiện -mĩ, giúp con người thoát khỏi mọi dục

vọng, khổ đau.

Các nhà thơ trữ tình Ấn Độ không chỉ coi thiên nhiên là duyên cớ của những xúc

cảm tâm hồn mà còn tìm thấy ở thiên nhiên những bí mật tiềm ẩn trong lòng đời sống. Lịch

sử phát triển của thơ ca Ấn Độ truyền thống từ Veda qua Bhasa, Kalidasa, Kabir… đến các

nhà thơ trữ tình lãng mạn những năm đầu thế kỉ XX cho thấy, cảm hứng về thiên nhiên

luôn là một dòng chảy bất tận trong tâm hồn họ. Chính điều naỳ đã góp phần làm nên bản

sắc riêng cho thơ ca Ấn:

Khi trăng chạm vào bên má/ Con mèo liếm lấy vội vàng / Tưởng chừng như giọt

sữa thơm

Khi trăng nằm trong cành lá / Con voi lộ vẻ ngỡ ngàng / Ngỡ hoa sen vàng đang

nở.

Khi trăng chiếu lên giường tình / Cô gái đưa tay nhặt lấy / Tưởng như làn áo vừa

buông.

Và trăng cứ trăng huyền ảo / Vui cho cả thế gian lầm.

( Nhật Chiêu dịch)[ 6, tr.132]

Bài thơ viết về trăng của thi sĩ Bhasa trên đây diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên với

một cảm xúc trữ tình tinh tế. Trăng và người như hoà quyện nhau trong luồng ánh sáng diệu

kì. Ra đời cách đây hơn 17 thế kỉ nhưng cho đến ngày nay, bài thơ vẫn còn lưu giữ một giá

trị vĩnh hằng. Bên cạnh Bhasa, Satakant Mahapatra, một nhà thơ hiện đại Ấn thế kỉ XX

cũng có những dòng thơ tinh tế thể hiện sự đồng điệu giữa tâm hồn con người với cảnh sắc

thiên nhiên:

Những giờ chờ đợi chậm chạp trôi qua

Đêm tan dần

Sự im lặng do em vắng mặt

Thấm vào ánh trăng thoang thoảng hương thơm

Tôi đo cái đau của tôi

Bằng rễ cây mục và hoa héo

Và tôi nghe trong mỗi cánh hoa hồng

Tiếng thở dài của muôn vàn vi huyết mạch…

(Khu vườn của tôi – Thái Bá Tân dịch)[9, tr. 73]

Có thể nói, tình yêu thiên nhiên, sự hòa hợp, bình đẳng giữa con người và thiên

nhiên là cái đẹp vĩ đại của văn hóa Ấn Độ . Trong vở kịch nổi tiếng Sơkuntơla của

Kalidasa, tác giả đã thể hiện rõ tư tưởng chủ đạo này qua lời cầu khẩn của một tu sĩ xin nhà

vua tha chết cho con hươu: “ Không bao giờ, ôi! Không bao giờ mũi tên được sinh ra để

xuyên thủng trái tim dịu dàng của một con hươu, cũng như lửa không phải sinh ra để đốt

cháy những cành hoa”.

Trong văn hóa của Ấn Độ, bản thân thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó.

Luôn gắn bó mật thiết với con người, thiên nhiên là “bà mẹ đời thứ hai” sẵn sàng chở che và

trả lại cho con người chân bản thiện.

2.1.2. Tâm hồn trẻ thơ thánh thiện được thể hiện qua các hiện tượng thiên nhiên

Trong Trăng non, thiên nhiên là tấm gương phản chiếu tâm hồn trẻ nhỏ. Nó biểu

trưng cho những gì trong sáng, tươi đẹp và tự nhiên nhất trên cõi đời này. Đọc Trăng non,

có một điều dễ nhận thấy, đó là sự phong phú, đa dạng của các hiện tượng thiên nhiên. Kết

quả khảo sát cho thấy chỉ có hai bài là không có hình ảnh thiên nhiên trên tổng số bốn mươi

bài của cả tập thơ. Phần còn lại, ba mươi tám bài (95%) đều xuất hiện hình ảnh thiên nhiên.

Đây là dấu hiệu cho thấy, thiên nhiên nhiên thực sự đã có một vị trí đặc biệt trong tư tưởng

– nghệ thuật của R. Tagore. Trong tiểu luận Nghệ thuật là gì?, Tagore viết: “ Có thể

phương Tây tin vào linh hồn của con người nhưng không thực sự tin rằng vũ trụ có linh hồn.

Thế nhưng nó lại là niềm tin tưởng của phương Đông và toàn bộ sự đóng góp của phương

Đông về mặt tinh thần cho nhân loại đều chứa đầy cái ý niệm này”[ 45, tr. 864]. Cũng cách

nhìn ấy, trong thư gởi S. Moore (1/4/1914) ông khẳng định: “ Ở phương Đông chúng tôi, sự

yên tĩn trong suốt của những đêm tối, sự chói sáng của ánh mặt trời những buổi trưa đầy

nắng hoà vào làn sương mù dịu dàng trong bầu trời xanh, bản nhạc buồn của cuộc sống

được cảm nhận nổi trôi trong cõi vô cùng, dường như đang thì thầm vào tai chúng tôi

những điều bí mật lớn lao của sự tồn tại mà không một phương tiên nào có thể biểu đạt

được” [chuyển dẫn từ 25, tr. 134]. Qua những nhận định trên của Tagore, có thể thấy, trong

Trăng non, sự phong phú đa dạng của thiên nhiên không chỉ là sự thể hiện một tâm hồn

nhạy cảm, yêu mến cảnh vật thiên nhiên mà nó còn là những cảm xúc suy tư mang đậm

chất triết lí về vũ trụ, nhân sinh của nhà thơ. Nó trở thành những hình ảnh tượng trưng , ẩn

dụ giàu biểu cảm diễn đạt được mọi cung bậc của tình cảm, tư duy.

Có thể nói, từ trong truyền thống xa xưa của văn hoá Ấn, thiên nhiên đã có một

sứ mệnh đặc biệt đối với con người. Kế tục và phát triển quan niệm truyền thống, trong thơ

Tagore, thiên nhiên hiện diện như người bạn thân thiết. Thuở nhỏ, tâm hồn tuồi thơ Tagore

đã sớm nhạy cảm với vẻ đẹp thiên nhiên: “Ngay từ lúc còn bé, tôi đã rất nhạy cảm với vẻ

đẹp của thiên nhiên, rất thích gần gũi, thân mật với cây cối, với mây và như nhập vào trong

bản nhạc các mùa trong không khí”[45, tr.444]. Ông gọi khả năng nhận cảm được vẻ đẹp

này là tài sản lớn nhất của ông: “ Thật là một diễm phúc cho tôi là khi nào cũng ý thức được

các sự kiện của thế giới quanh mình. Rằng mây là mây, hoa là hoa, thế là đủ vì chúng trực

tiếp ngỏ lời với tôi, vì tôi không thể hờ hững với chúng”[45, tr.444].

Có rất nhiều nguyên nhân để tác tạo thành thứ khả năng đặc biệt ấy ở Tagore.

Trước hết, đó là ảnh hưởng sâu sắc của người cha. Từ nhỏ, Tagore đã được lớn lên trong

môi trường rộng lớn của thiên nhiên, những buổi dã ngoại, những chuyến đi dài ngày lên

đỉnh Hymalaya cùng cha đã tác động mạnh mẽ vào tâm hồn cậu bé Tagore một tình yêu

thiên nhiên sâu đậm. Sau nữa, đó chính là tình cảm tự nhiên của Tagore đối với thiên nhiên

từ thuở thơ ấu. Câu thơ đầu tiên trong cuộc đời thi sĩ của ông là “ Trời mưa, lá rụng”. Về

thực chất đó chỉ là những từ ngữ bình thường ghi lại một hiện tượng thiên nhiên nhưng đối

với Tagore đó là chiếc chìa khoá thần kì đưa ông vào thế giới của thơ ca. thế giới của trò

chơi vần điệu… Trong Hồi kí Đời tôi ( My life), ông viết: “ Tôi nhớ lại thời thơ ấu, khi , sau

một quá trình gian khổ theo học những chữ cái Bengal, lần đầu tiên tôi ghép những chữ

thành những từ trời mưa, lá rụng. Tôi sung sướng đến run lên vì những hình ảnh mà các từ

đó gợi lên cho tôi. Những mảnh riêng lẻ vô nghĩa không còn cô độc, lẻ loi nữa và trí óc tôi

sung sướng trong cái nhìn thống nhất đó. Cũng như thế, trong buổi sáng đó ở trong làng,

những sự kiện trong đời sống bỗng hiện ra trước mắt tôi trong một khối chân lí sáng ngời.

Tất cả những vật tưởng như những ngọn sóng lang thang đã hiện ra trong trí tôi gắn liền với

biển rộng mênh mông, không biên giới. Từ thời đó, tôi có thể giữ vững lòng tin biết rằng,

trong tất cả những kinh nghiệm của tôi về thiên nhiên và con người , có cái chân lí cơ bản

cuả một hiện thực tinh thần”[ 45, tr. 448].

Tagore yêu thiên nhiên như một người tình, ông chủ trương con người cần hoà

nhập với thiên nhiên, cần xem thiên nhiên là đối tương để gần gũi và bày tỏ. Ông từng

khẳng định: “ Nhà nghệ sĩ là người tình của thiên nhiên” ( Bài 76 – Những cánh chim bay

lạc). Hầu hết các tác phẩm của Tagore đều có tiêu đề lấy từ hình ảnh thiên nhiên : Vượt

biển, Cánh thiên nga, Hái quả, Trăng non, Những cánh chim bay lạc… Đó là những hình

ảnh thiên nhiên tương trưng mang nhiều tầng ý nghĩa, chứa đựng những tình cảm, những tư

tưởng triết lí sâu xa.

Trong thơ, Tagore lí giải phạm trù cá nhân – vũ trụ ( Atman – Brahman) ; con

người – thiên nhiên trên bình diện triết học. Theo ông, giữa con người và thiên nhiên phải

có sự thống nhất hoà đồng với nhau và khi đạt đến sự thống nhất hoà đồng đó con người

sẽ thoát ra được mọi ràng buộc, đau khổ và đạt đến chân lí tuyệt đối: “ Đối với chúng tôi,

điều cần thiết là ta phải hoà đồng với thiên nhiên ấy, con người sở dĩ tư duy được là vì tư

tưởng của mình phù hợp với các sự vật. Con người sở dĩ sử dụng được các hiện tương thiên

nhiên theo ý mình, chính chỉ vì sức mạnh của mình phù hợp với sức mạnh vũ trụ”[ chuyễn

dẫn từ 52, tr. 54].

Là người đã khám phá ra sự bí ẩn của mối tương quan giữa con người và thiên

nhiên, Tagore cho rằng hoà hợp vào thiên nhiên con người sẽ ý thức sâu sắc hơn niềm vui,

nỗi đau khổ của chính mình. Với ông, Thiên nhiên không chỉ là nơi con người tìm đến để

giải thoát cuộc đời mà còn là nơi con người tìm đến với cuộc đời. Ông viết: “ Sách có ghi:

lúc nào đến tuổi 50 nên từ giã xã hội ồn ào lên rừng ở ẩn, thế nhưng thi nhân lại bảo, cuộc

sống ẩn dật trong rừng chỉ nên dành cho những mái đầu xanh. Vì rừng xanh là quê hương

của loài ong, vì rừng xanh là đất nước loài hoa, vì rừng xanh là tổ ấm loài chim. Ở đó, nơi

khuất kín đang chờ đợi tiếng thì thầm rạo rực của các cặp tình nhân, ở đó kết lại thành nụ

hôn dành riêng cho hoa malati, ánh trăng thao thức nỗi niềm, song những người thấu hiểu

niềm riêng ấy đều dưới rất nhiều tuổi 50”[ 45, tr.674].

Trong tất cả các sáng tác của Tagore đặc biệt là Trăng non, hình ảnh thiên nhiên

luôn tràn ngập. Ngay cả tựa đề tập thơ cũng gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác

thanh bình, êm ả. Tagore quan niệm: thiên nhiên là nơi con người tìm đến với cuộc đời vì

thế thiên nhiên là nơi trẻ thơ tìm thấy được niềm vui, sự ngạc nhiên thích thú, nơi chứa đựng

những ước mơ, những khát vọng hồn nhiên. Với tư cách là những biểu tượng, thiên nhiên

trong Trăng non đa dạng, huyền ảo, và chứa đựng nhiều tầng ngữ nghĩa. Khảo sát tập thơ,

chúng tôi nhận thấy hình ảnh thiên nhiên xuất hiện gần 300 lần trong cả tập thơ, chia làm 77

loại hình ảnh khác nhau và vô cùng đa dạng, phong phú. Thế giới thiên nhiên vừa có những

hình ảnh kì vĩ như: bầu trời, biển xanh, mặt trăng, mặt trời, vì sao, sa mạc… lại vừa có cả

những sinh linh bé bỏng như: đom đóm, hoa, lá, chim chóc… Với ông, trong thế giới bao la

này, tất cả mọi sự vật dù là vĩ đại hay bình thường, bé nhỏ đều có chỗ đứng của mình trong

vũ trụ với một tinh thần hoà hợp, bình đẳng. Bới lẽ: “Trong thính đường vũ trụ bao la, lá cỏ

đơn thuần nằm với ánh mặt trời và các vì sao khuya trên cùng tấm thảm” [ 45, tr.604]. Đây

chính là tư tưởng triết lí mà Tagore đã tiếp nhận và kế thừa từ trong Upanishad và trong tư

tưởng Phật giáo: “Với tất cả mọi sự, dẫu tôn quý hay ti tiện, thân hay sơ, hữu tướng hay vô

tướng , chúng ta đều phải giữ các mối quan hệ bằng tình thương bất tận, không được chút

sâu hận, không được chút sát hại” [chuyễn dẫn từ 45, 870].

Những hình ảnh thiên nhiên được Tagore sử dụng đều gần gũi với con người,

thiên nhiên Ấn Độ. Ông tuyệt nhiên không vay mượn một chất liệu ngoại lai nào. Mọi hình

ảnh thiên nhiên Ấn Độ đều trở thành hình tượng nghệ thuật trong thơ của ông. Những đoá

hoa Chămpa, những chiều mưa rả rích , những rừng sâu, núi thẳm và những câu chuyện

thần kì về chàng Rama anh dũng … đều là những hình ảnh đặc thù của đất nước Ấn Độ:

Con sẽ giong buồm đi khắp nơi

Bảy biển mười ba sông của xứ sở thần tiên

Nhưng mẹ ơi mẹ đừng sụt sùi khóc lóc

Trong xó tối cô đơn

Con cũng không dại vào rừng sâu

Biền biệt mười bốn năm trời như chàng Rama anh dũng

…Con sẽ chèo thuyền qua sông cạn Tipujơni

Và bỏ lại đằng sau sa mạc Topanta

Khi thuyền trở về trời đã sẫm tối

Va sẽ kể mẹ nghe những điều trông thấy

Con đã vượt bảy biển mười ba sông của xứ sở thần tiên

( Người lái thuyền)

Thiên nhiên trong Trăng non đa số đều là những hình ảnh tượng trưng. Có lẽ

chính vì điều này mà trong cả tập thơ rất ít xuất hiện những tính từ tác động trực tiếp đến thị

giác và thính giác của con người ( mặc dù trong tật Thơ Dâng đã có lần Tagore cho rằng

màu sắc, âm thanh, hương thơm là hiện thân của vẻ đẹp thiên nhiên). Chỉ có 7 loại tính từ

chỉ màu sắc xuất hiện 22 lần trong cả tập thơ. Trong đó tính từ màu vàng ( yellow, golden)

xuất hiện 6 lần, màu trắng (white) 5 lần, màu xám ( grey) 4 lần, màu xanh ( green, blue) 2

lần, màu đỏ ( red) 2 lần, màu đen ( black) 2 lần và màu hồng ( pink) 1 lần. Điều này cho

thấy, bằng việc sử dụng những hình ảnh thiên nhiên tượng trưng ( ít sắc màu ) Tagore đã tạo

nên một thế giới vừa hư vừa thực. Đó là thế giới của mây và sóng, của mẹ và con, của sa

mạc thần tiên và những câu chuyện thần kì. Thế giới đó tồn tại trong tâm trí trẻ thơ nên đôi

lúc nó nhoè đi trong tưởng tượng. Chẳng hạn như trong Trăng non, hoa rất ít có sắc màu cụ

thể. Nếu có nó chỉ là màu trắng tinh khôi. Hoa nhài, hoa Siuli, hoa bakala… đều là những

hình ảnh tượng trưng mang nhiều tầng ý nghĩa. Trong bài Hoa Chămpa, hoa là hiện thân

cao độ của tình mẫu tử. Bằng nghệ thuật so sánh và nhân cách hoá, Tagore đã cho đứa trẻ

biến thành hoa Chămpa dịu ngọt, quấn quýt bên mẹ bằng mùi hương của nó:

Khi tắm xong, tóc ướt xoã trên vai, mẹ đi qua bóng cây Chămpa

Để vào trong sân nhỏ cầu kinh

Mẹ sẽ nhận thấy mùi hương thơm ngát

Nhưng mẹ đâu có biết rằng

Hương thơm ấy là từ con bay đến

Cũng là hình ảnh bông hoa nhưng trong bài Những đoá nhài đầu tiên, hoa lại là

hình ảnh tượng trưng cho những kỉ niệm ấu thơ. Màu trắng ( white) xuất hiện ba lần trong

nguyên tác như xoá nhoà ranh giới giữa hư và thực, đánh thức những ước mơ, những tình

cảm thanh cao tưởng như đã lãng quên rồi trong quá khứ: “ Thế nhưng lòng tôi vẫn ngạt

ngào mùi hương kỉ niệm / của những đoá nhài tươi mát đầu tiên / mà tôi đã ôm đầy tay /

khi hãy còn thơ dại”

Trong Trăng non, vầng trăng cũng là một hình ảnh tượng trưng. Hình ảnh trăng

non ( the cressent moon) – đồng thời là tên tác phẩm xuất hiện nhiều lần trong tập thơ như

một biểu tượng của sự hồn nhiên, trong sáng, nó là hình ảnh tượng trưng cho nụ cười , hạnh

phúc, cho thế giới thần tiên của mọi trẻ thơ:

Nụ cười khẽ rung đôi môi em bé ngủ. Ai biết nụ cười từ đâu đến? Ừ, nghe nói

có tia trăng non vàng viền quanh đám mây thu tàn; đó là nơi nụ cười hé nở đầu tiên, trong

giấc mơ buổi sáng đầm sương.

( Từ đâu?)

Trên mảnh đất của vầng trăng non bé bỏng

Bé tự do không hề bị ràng buộc chút nào

( Cung cách của bé )

Với các hình ảnh: “ tia trăng non”, “ vầng trăng non bé bỏng”, “ ánh trăng đong

đưa”, “ ánh trăng lạc loài”, “ trăng rằm” trong các bài Từ đâu?, Cung cách của bé, Bờ bên

kia, Chung cuộc, Vu oan, trăng trở thành biểu tượng cho tâm hồn và thế giới trẻ thơ, cho

tình cảm yêu thương của con và mẹ: “con sẽ là mây, mẹ sẽ là trăng / Con sẽ lấy hai tay trùm

lên người mẹ/ Và mái nhà sẽ là bầu trời xanh thẳm” ( Mây và sóng).

Không bị ràng buộc , không có những thành kiến về đẳng cấp và tôn giáo, những đứa

trẻ trong thơ Tagore giống như vầng trăng trên bầu trời, bình đẳng với các vì sao, với mây

và gió, với vũ trụ vĩnh hằng. Giữa bao la đất trời, thiên nhiên là sứ giả hoà bình của trẻ:

Ngày ngày, tôi thả thuyền giấy của tôi từng chiếc xuống dòng khe chảy xiết.

Tôi viết to và đậm tên tôi và tên làng tôi trên mạn thuyền

Tôi hi vọng có người ở nơi xa lạ nào bắt được thuyền và biết rõ tôi là ai

Trên thuyền, tôi chở những nụ hoa Siuli hái ở vườn nhà và mong rằng những nụ

hoa thường nở vào buổi bình minh sẽ yên ổn cập bờ lúc đang đêm.

Tôi thả thuyền giấy rồi nhìn lên trời thấy những áng mây nhỏ đang căng buồm

trắng.

Không biết bạn chơi nào của tôi ở trên trời cũng thả thuyền trong gió để đua

với thuyền tôi

Đêm về, tôi dúi mặt vào cánh tay và mơ thấy thuyền giấy của tôi trôi miên man

dưới ánh sao khuya

Những nàng tiên thường về trong giấc ngủ, ngồi trong thuyền tôi, mang theo

nhiều lẵng mộng đầy.

( Thuyền giấy )

Hình ảnh thuyền giấy là biểu tượng cho những ước mơ của trẻ thơ về một thế giới

hoà bình, hoà hợp. Trong con thuyền đó, trẻ gởi gắm biết bao tình cảm của mình. Những

đoá hoa Siuli mang hương sắc quê nhà, những áng mây nhỏ đang căng buồm trắng, những

lẵng mộng đầy của nàng tiên giấc ngủ …đều là những hình ảnh thấm đẫm chất thơ thể hiện

cái nhìn tin yêu, trong trẻo của trẻ thơ vào cuộc sống: “ Tôi hi vọng có người ở nơi xa lạ nào

bắt được thuyền và biết rõ tôi là ai./ Trên thuyền, tôi chở những nụ hoa siuli hái ở vườn nhà

và monh rằng những nụ hoa thường nở vào buổi bình minh sẽ yên ổn cập bờ lúc đang đêm”.

Trong cuộc sống đời thường, thiên nhiên luôn gắn liền với những cảm xúc trẻ thơ.

Khi đứa trẻ thì thầm với mẹ, thiên nhiên hiền hoà và đầy ắp tình thương.

“ Con sẽ thành một luồng khí nhẹ vuốt ve mẹ, và con sẽ là làn sóng lăn tăn trong

nước mẹ tắm, hôn mẹ và hôn mẹ nữa.

Trong đêm lộng gió, khi mưa rì rào trên lá, mẹ sẽ nghe thấy con thì thầm trong

giường và tiếng con cười loé lên cùng ánh chớp qua cửa sổ ngỏ vào phòng mẹ

Nếu mẹ nằm thao thức trên giường , nghĩ đến con mẹ đêm khuya thao thức

mãi, con sẽ từ trên ngàn sao hát ru mẹ: ngủ đi, mẹ ngủ cho say”

( Chung cuộc)

Khi đứa trẻ hoà mình vào những trò chơi, thiên nhiên ồn ào, nghịch ngợm.

“ Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên

Bầu trời mênh mộng trên đầu các em không động đậy

Mà nước thì gào réo liên hồi

Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên

Cười reo nhảy múa

. …. Biển trào lên với những trận cười giòn giã

Và soi những nụ cười trên bãi cát xanh xao”

( Trên bờ biển)

Khi đứa trẻ tưởng tượng những câu chuyện thần tiên, thiên nhiên huyền diệu và bí ẩn: “ Con có thể tưởng tượng ra một ngày cũng u ám như hôm nay, chàng hoàng

tử trẻ tuổi một mình cỡi con ngựa xám qua sa mạc, đi tìm cô công chúa đang bị giam trong

toà lâu đài của tên khổng lồ bên kia dòng nước không tên”

( Đất trích) Qua trí tưởng tượng, thiên nhiên “ hai lần đẹp” hơn trong con mắt trẻ thơ. Những

sắc màu của hoa, những đường nét của lá, những vũ điệu của chim… đã gợi lên trong tâm

hồn trẻ thơ những bức tranh sinh động. Chỉ trẻ thơ mới nhìn thấy ở thiên nhiên những sự

sống diệu kì:

Người ta nói rằng bên kia bờ cao có nhiều ao nằm khuất

Ở đó, từng đàn vịt trời bay tới khi mưa lạnh, và lau sậy rậm rịt quanh bờ chỗ

le le đẻ trứng

Ở đó, loài cuốc múa tít đuôi, in dấu chân xinh trên nền đất sạch mềm

Ở đó, ban đêm cỏ lao trổ cờ trắng xoá mời ánh trăng đong đưa

( Bờ bên kia )

Giữa trẻ thơ và thiên nhiên luôn có sự hoà hợp, bình đẳng với nhau. Trong bài

Bao giờ và vì sao, Tagore đã lí giải triết lí mối quan hệ giữa trẻ và thiên nhiên ( Atman –

Bahraman) qua sự phát hiện ngỡ ngàng của mẹ: Khi mẹ hát, mẹ mới hiểu tại sao trong lá có

nhạc; Khi mẹ đặt bánh kẹo vào tay con, mẹ mới hiểu tại sao có mật trong chén hoa và cây

dâng đầy nhựa ngọt ngào; Khi mẹ mang đồ chơi nhiều màu sắc cho con, mẹ mới hiểu vì sao

cũng có nhiều màu trong nước, trong mây!

Ở mối quan hệ này , thiên nhiên đóng vai trò như một bà mẹ hào phóng ban tặng

cho trẻ những điệu nhạc, những sắc màu và hương vị ngọt ngào. Ngược lại, trẻ cũng trở

thành một phần trong lòng bà mẹ thiên nhiên ấy. Trẻ là đối tượng để thiên nhiên hướng tới

vì có trẻ mới có hoa, có nhạc, có sắc màu, hương thơm. Cách lí giải trên của Tagore mang

đậm dấu ấn triết học- tôn giáo Ấn. Nó thể hiện cái nhìn tin yêu vào thiên nhiên một cách

mãnh liệt của ông. Từ thuở ấu thơ, ông đã dành cho thiên nhiên một mối cảm tình thiết tha,

sâu đậm và khi đã đến tuổi xế chiều thiên nhiên vẫn là người tình mới lạ trong ông. Thiên

nhiên là nơi ông tìm đến với cuộc đời, nơi che chở và cất giữ bao kỉ niệm ngọt ngào của thời

thơ ấu, nơi ông tìm thấy chính mình trong tình yêu cuộc sống bao la. Ông từng nói rằng: “

Tôi yêu thiên nhiên không phải vì đường cong xinh xinh của những cánh hồng mà vì bông

hoa hồng là ngôn ngữ của tình yêu” ( My life).

Trong tập Nhớ lại, Tagore kể rằng trong thời thơ ấu của mình ông đã từng trải

qua ba lạc thú văn chương. Lạc thú thứ nhất là lần đầu ông học đánh vần, câu đầu tiên ông

thuộc là “ Mưa rào lộp độp, Lá cây hồi hộp”[45, tr. 419]. Với ông đó là dòng thơ đầu tiên

của bài thơ vũ trụ mà ông được biết. Lạc thú thứ hai là lần ông được anh trai hát cho nghe

một bài ballade, âm thanh, nhịp điệu của những lời ca ấy như cuốn lấy ông. Lạc thú thứ ba

mà ông nhớ mãi là câu hát sau đây của tuổi ấu thơ: “Giọt mưa rơi tầm tã, triều dâng ngược

dòng sông” [45,tr. 420]. Những niềm vui đầu tiên trong cuộc đời ông đều gắn liền cùng hình

ảnh thiên nhiên. Có lẽ chính vì điều này mà ở Trăng non, ông đã thể hiện sự hiểu biết tâm

hồn trẻ thơ đến vậy. Thế giới trẻ thơ được ông thể hiện qua hình ảnh thiên nhiên và trong

thiên nhiên các em đã để tâm hồn mình bay bổng. Dưới ánh mắt của các em, thiên nhiên

vừa là người mẹ thứ hai, vừa là thiên đường trần gian nhiều quyến rũ. Trong thiên đường đó

tình yêu của các em đã được thăng hoa và mọi ước mơ sẽ trở thành hiện thực.

Trên thực tế, Tagore chịu ảnh hưởng rất lớn của văn chương Châu Âu với các nhà thơ

, nhà văn tên tuổi như: Shakespeare, Bairơn, Dante…nhưng dường như cách nhìn nhận và

biểu thị thiên nhiên của văn chương phương Tây không làm thay đổi những nguyên tắc

nghệ thuật thơ đặc trưng của phương Đông, Ấn Độ trong các thi phẩm của Tagore. Thơ trữ

tình Tagore vẫn mượn thiên nhiên để bộc lộ nội tâm nhân vật trữ tình. Trong Trăng non,

Tagore dùng thiên nhiên để thể hiện thế giới tâm hồn trẻ thơ thuần khiết - một thế giới “ lí

trí lấy luật của mình làm diều đem thả và chân lí giải thoát sự kiện ra khỏi xích xiềng”[ 45,

tr.635].

2.2. Một thế giới yêu thương vô biên trong tình mẫu tử thiêng liêng

Từ xưa đến nay, tình mẫu tử vốn là chủ đề, cảm hứng thường trực trong thơ ca, đặc

biệt là thơ thiếu nhi. Đó là tình cảm thiêng liêng, sâu đậm nhất có từ đầu đến cuối trong

nhân cách con người. Xuân Quỳnh đã nói được cái vô biên của tình mẹ thương con một

cách giản dị mà thấm thía:

Dẫu con đi đến suốt đời

Vẫn không đi hết những lời mẹ ru

( Lời ru )

Còn SaitoMokichi, một nhà thơ Nhật Bản, lại thể hiện được tình cảm của con

dành cho mẹ một cách chân thành và sâu sắc:

Tôi nằm bên mẹ

Cạnh hơi thở tàn

Từ cánh đồng hoang

Vọng về tiếng ếch

Âm vang thiên đường

Đến với R. Tagore, tình mẫu tử không chỉ đơn thuần là mối quan hệ

mẹ – con sâu nặng mà còn là “ niềm hạnh phúc tràn đầy” [45, tr. 619] và “ sự dịu dàng hơn

tất thảy tự do”[ 45, tr. 619] – nó mang đậm triết lí nhân sinh của ông về con người và cuộc

sống.

2.2.1. Đứa con – Hình ảnh “ Chúa Đời” của mẹ Cách đây hàng nghìn năm, kinh Veda của người Ấn Độ cổ đã đưa ra một quan niệm

nhân văn sâu sắc:

“ Trong tất cả mọi cái đang tồn tại, trong tất cả mọi cái gì sẽ tồn tại, Con người là và

sẽ là tối cao”.

Quan niệm ấy đã được Tagore kế thừa và cụ thể trong tiểu luận triết học quan trọng

của ông The religion of man. Ông luôn khẳng định tôn giáo của ông là tôn giáo của con

người. Khi nhận xét về vấn đề này trong sáng tác của Tagore, PGS. Lưu Đức Trung có viết:

“ Con người đối với Tagore là vĩ đại, là ánh sáng thiêng liêng, là lòng khoan hồng rộng mở,

là tâm hồn thanh thản, là tình yêu, là kẻ thù kiêu ngạo và bạo tàn”[ 59, tr. 149].

Ở Ấn Độ, các tôn giáo đều xem con ngừời là sản phẩm sáng tạo cuả Thượng đế,

chịu sự quyết định của Thượng đế theo quy luật luân hồi… Đối với con người, đời sống

trần thế chỉ là ảo ảnh ( Maya). Kế thừa quan niệm đề cao con người trong quan niệm truyền

thống của văn hoá Ấn, Tagore một mặt thưà nhận sự gắn bó giữa con người và Thượng Đế,

một mặt lại xem con người là hiện thân của Thượng Đế. Thượng Đế chỉ là một khái niệm

trừu tượng, siêu hình. Với ông, đời sống trần thế của con người và tất cả những sự vật, hiện

tượng đang hiện tồn trong vũ trụ bao la này đều là những hiện thân khác nhau của Thượng

đế. Từ nhận thức trên, Tagore đã đưa ra một khái niệm mới về con người theo quan điểm

của riêng ông, đó là khái niệm Con người –Thượng Đế. Năm 1914, nữ văn sĩ người Đức

Andre Karpeles Hoegman viết thư cho Tagore. Trong thư, bà có đưa ra câu hỏi: “Ông thuộc

tôn giáo nào?”. Tagore viết thư trả lời, trao đổi về quan niệm tôn giáo của mình: “ Tôi

không thuộc tôn giáo nào cả, mà chẳng nghiêng về đức tin đặc biệt nào cả. Có điều khi

Thượng đế sinh ra tôi thì Người đã biến Người thành cuộc đời tôi rồi. Ngày ngày Người

triển khai con người tôi trong cuộc sống và nâng niu con người tôi với nhiều sinh lực và vẻ

đẹp khác nhau trong thế giới này. Chính sự kiện tôi hiện hữu đã mang trong nó lòng yêu

thương vĩnh cửu rồi”. Như vậy, về cơ bản cuộc đối thoại bằng thư năm ấy là một trong

những lí do để ông viết Tôn giáo con người ( The religion of man, 1931). Đây là tiểu luận

triết học quan trọng thể hiện cao nhất sự hiện hữu của con người ở Cái tôi ( Atman) và đồng

thời xác nhận sự liên thông sâu sắc giữa con người với thế giới tự nhiên.

Vive kanada ( 1863) , nhà hiền triết sống cùng thời với Tagore cũng gợi mở những

cách nhìn mới về Con người. Ông cho rằng : “ Chỉ có một Thượng đế có ý thức là nòi giống

chúng ta, đâu đâu cũng có bàn tay của người. Người là bao trùm hết thảy. Sự sùng bái chính

đáng nhất là sự sùng bái vạn vật quanh ta. Những thần linh mà ta thờ phụng trước hết là

đồng bào ta”[ chuyển dẫn từ 52, tr. 41]. Triết lí của Vivekananda ảnh hưởng sâu sắc đến

quan niệm Tôn giáo của con người của Tagore. Ông đã tiếp nhận các hình tượng Brahma,

Thượng Đế, Chúa… của Hindu giáo và trần thế hoá thành Con người Thượng đế. Theo

ông, Thượng đế có sẵng trong mỗi chúng ta, Thượng đế chính là bản ngã con người, là

chuẩn mực thanh cao mà con người cần vượt lên để đặt nhân cách mình vào đấy. Trong thơ

của ông, Thượng đế với Con người hoà nhập là một. Theo nhận xét của Ts. Nguyễn Thị

Bích Thuý thì “ Hình ảnh Chúa xuất hiện trong thơ Tagore với tần số cao và là kết quả của

quá trình tư duy sáng tạo đã trở thành biểu tương nghệ thuật. Chúa trời, Thượng đế đã từ

một ý niệm tôn giáo về đấng sáng tạo cao siêu đầy quyền uy quyết định số phận con người

trên trần thế trở thành vị “Chúa đời”, là chính cuộc sống đang hiện hữu và biến đổi không

ngừng, là ước mơ, là khát vọng để con người vươn tới”[50, tr. 61].

Như vậy, trong sáng tác thơ, Tagore đã đưa những ý niệm siêu hình về Thượng đế,

Chúa trời vào đời sống thực của con người và nâng lên thành những biểu tượng đậm chất

Tagore. Xét về nguồn gốc, Chuá trời, Thượng đế là những biểu tượng của văn hoá và tôn

giáo Ấn Độ cổ. Từ xưa, người Ấn Độ đã cho rằng Thượng đế tồn tại trong mỗi Atman( bản

ngã) , là mức thanh cao mà con người vươn đến để đặt nhân cách mình vào đấy và tìm đến

được Thượng đế cũng chính là đạt tới sự giải thoát cuồi cùng. Kinh sách, thần thoại Veda,

Kinh Upanishad, sử thi… đã chuyển những phạm trù tôn giáo này thành những hình ảnh

tượng trưng, biểu tượng đậm sắc màu văn hoá Ấn. Riêng với Tagore, ông đã biến những

biểu tượng tôn giáo thành biểu tượng nghệ thuật và lí giải chúng từ hai yếu tố tôn giáo, cuộc

sống.

Về cơ bản, khái niệm Con người – thần thánh của Tagore là sự kế thừa , phát triển khái

niệm Con người – Vũ trụ trong triết học Upanishad. Đó là con người tự nhiên gắn bó mật thiết

với vũ trụ. Tuy nhiên cái mới của Tagore là ở chỗ trong mối tương quan với vũ trụ ông đề cao

con người , tôn thờ con người, xem con người là hiện thân của Thượng đế và đặc biệt hơn nữa

là ông khẳng định một cách mạnh mẽ sự tồn tại của Cái tôi trong mỗi con người: “ Tôi tuyệt đối

độc đáo. Tôi là tôi, tôi vô song. Tất cả khối lượng của vũ trụ hẳn không sao đè được cái cá tính

này vốn là của tôi”.

Ở mảng thơ viết cho thiếu nhi, hình ảnh Chúa đời được Tagore sử dụng như một

biểu tượng cho trẻ thơ, cho đứa con của mẹ. Trong bài Buổi sơ khai ( The beginning), ông

đã thể hiện rõ quan niệm Con người thần thánh của mình qua hình ảnh đứa con, vị Chúa

của đời mẹ: “ When with clay I made the image of my god every morning. I made and

unmade you then”[66, tr. 15]:

Và mỗi buổi sáng khi mẹ lấy đất sét nặn ra

Hình ảnh Chúa đời của mẹ

Thì mẹ đã năn đi nặn lại con rồi

Với Tagore, sự bắt đầu ( the beginning) , nguồn gốc ( the source) của trẻ vô cùng

thiêng liêng và huyền bí . Nó là kết tinh của tình yêu, nỗi mong chờ, niềm hạnh phúc của

mẹ, là cái đẹp diệu kì của tạo hoá, thần tiên:

Con đã được nuôi dưỡng từ đời này sang đời khác

Trong lòng của vị thần linh bất tử ngự trị ở nhà ta

Khi, trong thời con gái trái tim mẹ nở xoè như một doá hoa

Con đã lượn quanh nó như một mùi hương phảng phất

Vẻ tươi mát của con

Nở trên chân tay non trẻ của mẹ

Như một ánh hồng

Trên trời cao

Trước buổi bình minh

Bằng hình thức đối thoại của thơ văn xuôi, bài thơ trên mang dáng dấp một cuộc

đối thoại triết học, lí giải về nguồn cội con người. Câu trả lời của mẹ là dòng cảm xúc tuôn

trào khi con khơi gợi vào đúng điều bí ẩn và huyền diệu nhất của cuộc đời: Con từ đâu tới,

mẹ nhặt con ở đâu? Con là hoá thân của Thượng đế, là kết tinh tình yêu của cha và mẹ và

giữa cõi đời này con đã đến để mang lại cho mẹ suối nguồn bất tận những yêu thương:

Con là đứa con cưng của Thượng đế

Là anh em sinh đôi với ánh bình minh

Con đã theo dòng nước trôi xuôi đến cuộc đời trần tục này

Và cuối cùng con đã được đặt vào trong lòng mẹ

Khi mẹ ngây nhìn khuôn mặt của con

Mẹ như bị ngập trong bao điều bí ẩn

Và con, vốn là của chung của tất cả mọi người

Đã trở thành của riêng của mẹ

Sợ mất con đi mẹ đã siết chặt con trên ngực mẹ

Không biết sự diệu kì nào

Đã chiếm lĩnh cái kho vàng trên cõi thế

Và đặt vào đôi tay mảnh khảnh của mẹ đây

Bằng những hình ảnh tượng trưng, Tagore đã gọi trẻ thơ là : đứa con cưng của

thượng đế, anh em sinh đôi với ánh bình minh, ánh hồng trên trời cao, kho vàng trên cõi

thế, nụ vui, ánh trăng non trẻ…. để lí giải những vấn đề về bản chất trẻ thơ, về tình yêu của

mẹ dành cho con và tình cảm trìu mến của con dành cho mẹ theo quan niệm triết lí của riêng

mình. Trong khi những nhà thơ khác khi sáng tác mảng thơ thiếu nhi thường bắt đầu từ

những gì rất cụ thể :

À uôm ếch nói ao chuôm

Rào rào gió nói cái vườn rộng thênh

Âu âu chó nói đêm thanh

Tẻ te gà nói sáng banh ra rồi

( Tiếng nói – Trần Đăng Khoa)

( Cắt nghĩa – Xuân Quỳnh)

Vi vu gió nói mây trôi Thào thào trời nói xa vời mặt trăng hay: Con làm bằng yêu thương Của cha và của mẹ Của bà và của ông Con làm bằng tất cả thì Tagore lại xuất phát từ một triết lí trừu tượng. Với ông, sự ra đời của một đứa trẻ là kết

tinh vẻ đẹp thiêng liêng của tạo hoá và tình mẹ:

“Giấc ngủ chập chờn trên hàng mi em bé. Ai biết giấc ngủ từ đâu đến? Ừ

nghe nói giấc ngủ đến từ làng tiên nữ, trong bóng cây rừng có đom đóm lập loè dìu dịu, có

hai nụ hoa thần kì níu cành, e lệ.

Ấy giấc ngủ từ nơi đó đến hôn hàng mi em bé.

Nụ cười khẽ rung đôi môi em bé ngủ. Ai biết nụ cười từ đâu đến?Ừ nghe nói

có tia trăng non vàng viền quanh đám mây thu tàn; đó là nơi nụ cười hé nở đầu tiên, trong

giấc mơ buổi sáng đầm sương.

Màu mát dịu phơi phới trên tay chân em bé. Ai biết màu tươi mát từ lâu ẩn

vào đâu? Ừ, thuở mẹ đang là gái xuân, màu tươi mát thấm đầy lòng mẹ trong tình yêu sâu

kín, dịu dàng, lặng lẽ.

Ấy, màu mát dịu phơi phới trên tay chân em bé.

( Từ đâu? )

Bài thơ với ba đoạn thơ văn xuôi được kết nối với nhau bằng một dòng cảm xúc

suy tưởng tìm lời giải đáp cho nguồn gốc giấc ngủ, nụ cười và sự tươi mát trên tay chân em

bé. Nguồn gốc của trẻ nhuốm màu huyền thoại vì nó được dệt nên bởi một bức tranh thiên

nhiên thơ mộng, diệu kì . Bức tranh ấy biểu trưng cho tâm hồn trong trắng, cho sự hồn nhiên

và vẻ đẹp thần tiên của một bé thơ. Thiên nhiên và con người, mẹ và con… tất cả đã thống

nhất hài hoà thành một thể. Cái vĩnh hằng trong cái hữu hạn, cái cụ thể trong cái toàn thể.

Đó là triết lí về cái duy nhất mà Tagore đã kề thừa từ Upanishad. Bài thơ không chỉ là lời

ca ngợi tình mẫu tử mà còn chứa đựng một triết lí sâu xa về sự thống nhất hoà hợp của

muôn loài trong vũ trụ. Sự tươi mát dịu dàng của con đã được giấu kín trong tâm hồn mẹ

khi mẹ còn là một cô gái trẻ. Nếu mẹ là biểu tượng cho đấng sáng tạo thì con ( vật tạo) luôn

là một phần trên thân thể mẹ. Đối với mẹ, con là máu thịt, là lẽ sống, là “ bí ẩn của tình

thương ngọt ngào và lặng lẽ” trong trái tim của mẹ. Ở bài 49 của tập Tặng phẩm của người

yêu, Tagore đã khẳng định: “ Con yêu, con hỏi, trời đâu – Thánh nhân dạy cha con mình

trời ở ngoài biên giới tử sinh, thản nhiên trước nhịp ngày đêm trôi chảy và không thuộc trái

đất này, con yêu. Nhưng thi sĩ của con lại bảo trời vẫn hằng mơ ước sinh ra trong bụi đất

phì nhiêu và niềm khát khao trời muôn đời tìm kiếm ấy là không gian cùng với thời

gian.Thân xác con thơm tho, trái tim con rạo rực ấy là chứa đầy chất trời đấy, con yêu.

Biển hân hoan dạo nhạc, ngàn hoa nghểnh cao hôn yêu con. Vì lẽ, sinh ra trời đã ở trong

con, trong cánh tay mẹ đất dịu hiền, con ạ”[ 45, tr. 680].

Như vậy, dưới một hình thức khác, hình ảnh Con người – thượng đế của Tagore

đã được tái hiện và khẳng định lại qua hình ảnh đứa con. Trong vòng tay mẹ, con bỗng trở

nên bình dị, đáng yêu. Sự trong trắng của con chính là cội nguồn đem đến sự thánh thiện

cho thế giới này:

“Họ la lối tranh giành, họ hoài nghi và tuyệt vọng, họ cãi cọ chẳng bao giờ

thôi. Con ơi, hãy để đời con đến với họ như ngọn đuốc sáng, bền vững tinh khôi, khiến họ

say mê im lời. Họ độc ác trong tham lam và ghen tị, lời họ như những con dao giấu kín

khát máu người. Con ơi hãy bước tới đứng giữa những tấm lòng quạu cọ và đoái hoài nhìn

họ với cặp mắt hiền từ như cái an bình bao dung của buổi chiều phủ trên một ngày tranh

đấu. Con ơi, hãy để họ thấy mặt con và như thế hiểu nghĩa của muôn loài; hãy để họ yêu

con và như thế họ yêu con. Con ơi, hãy đến ngự trong lòng cái vô biên. Bình minh con mở

rộng và cất cao trái tim như một bông hoa nở, và hoàng hôn con cúi đầu yên lặng làm tròn

sự thờ phương trong ngày”.

( Em bé thiên thần )

So với thế giới người lớn, thế giới trẻ thơ thuần khiết vô cùng. Được tôn xưng là

vị “Chúa đời”, con là hiện thân của những phẩm cách thanh cao mà con người cần đạt đến.

Đó là sự thánh thiện, vô tư, sự hiền minh, chân thật. Vì thế, khi mẹ âu yếm gọi con là “My

god” ( vị chúa của tôi) thì cũng có nghĩa con là tất cả cuộc đời của mẹ, con là điều thiêng

liêng và bí ẩn nhất trên cõi đời này. Tự hào về con mẹ đã để tim mình cất cao tiếng hát:

Khi mẹ hát cho con nhảy múa,

mẹ mới thực sự hiểu vì sao có nhạc trong cành lá

và vì sao nước lại gửi những bản đồng ca

cho lòng đất lắng nghe

Vâng, khi mẹ hát cho con nhảy múa

mẹ hiểu vì sao trong cái cốc của hoa có mật

và vì sao trái cây kín đáo chứa đầy vị ngọt bên trong

( Bao giờ và vì sao )

Khi mẹ hát cho con nghe, mẹ mới thực sự hiểu rằng vì sao “ có nhạc trong cành

lá”, “ vì sao nước lại gửi bản đồng ca”, và vì sao “ trong cái cốc của hoa có mật”. Chính vì

con và tình yêu mẹ dành cho con mà tới bây giờ mẹ mới nhận ra vũ trụ đang dâng tặng tình

yêu cho cuộc đời của mẹ, trong đo có con.

Tóm lại, trong Trăng non, với người mẹ, đứa con là tất cả những điều thiêng

liêng nhất. Khi so sánh và đặt con trở thành một biểu tượng ngang tầm với vũ trụ, Tagore đã

một lần nữa khẳng định quan niệm, tư tưởng con người – Thượng đế tiến bộ của mình. Mãi

mãi trong thơ ông, Con người vẫn là tất cả những gì cao đẹp nhất.

2.2.2 . Người mẹ– Thiên đường trần gian của con

Cũng như tất cả các tôn giáo khác trên thế giới, tôn giáo Ấn Độ là một cuộc hành

trình không mệt mỏi để con người tìm đến cõi Thiên đường, tìm đến với Chúa trời, Thượng

đế. Dường như mọi người dân Ấn đều hướng về Thiên đường, đều tắm gội trong dòng nước

thiêng của sông Hằng và tự nguyện sống cuộc đời khổ hạnh để mong đến được miền siêu

thoát ấy. Trong quyển Biện chứng và giải thoát, tác giả Nghiêm Xuân Hồng cũng từng

nhận xét: “ Trên đại lược , về sự sinh hoạt tinh thần, dân tộc Ấn trong suốt 4.000 năm lịch

sử, có thể coi như một dân tộc có một không hai trên thế giới. Trong tiềm thức, người dân

Ấn nào cũng say sưa với siêu hình học, với sự truy tầm tuyệt đối, với sự thể hiện Thượng

Đế. Tuy ở bên ngoài xã hội, họ cũng sinh hoạt như các xã hội khác… nhưng bên trong họ

vẫn chỉ hằng tha thiết với sự đi tìm những cảnh giới nội tâm. Phần lớn sinh hoạt của người

Ấn đều hướng về việc phụng sự tôn giáo, việc thể hiện Thượng đế trong tâm linh mỗi

người”[ 31, tr. 19].

Tagore là người Ấn nhưng ông không hoàn toàn tin vào Thượng đế cũng như

không tin có sự giải thoát nào để đến được Thiên đường: “ Tôi tin rằng hình ảnh thiên

đường phải nhìn dưới ánh sáng mặt trời và màu xanh của trái đất, trong vẻ đẹp của bộ mặt

người và sự giàu có của cuộc sống con người, cả trong những vật xem ra không đáng kể và

chưa từng có trước kia. Mọi nơi trên quả đất này, tư tưởng thiên đường đang thức tỉnh, từ đó

mà chuyển đi tiếng gọi. Nó đến bên tai ta mà ta không hề biết, tạo âm sắc cho cây thụ cầm

của đời sống, truyền khát vọng đi bằng âm nhạc vượt qua cái hữu hạn, không những bằn lời

cầu nguyện và mong ước mà bằng những ngôi đền, những ngọn lửa trong đá, trong tranh, là

những giấc mơ được biến thành vĩnh cữu, trong điệu múa, là sự suy ngẫm say mê ở cái

trung tâm tĩnh của chuyển động”[45, tr. 382].

Như vậy, với Tagore, thiên đường ( heaven) là cuộc sống trần thế với tất cả những

gì gần gũi quanh ta, là thiên nhiên tươi đẹp, là nụ cười trong sáng của bé thơ, là vòng tay

yêu thương của mẹ… Vì thế, trong Trăng non, Tagore đã khẳng định lại một lần nữa câu

trả lời thiên đường thực sự ở đâu trong việc thể hiện hài hoà mối quan hệ mẹ con qua hai

hình ảnh mang tính triết lí và sáng tạo cao. Nếu con là “Chúa đời” của mẹ thì lòng mẹ

chính là thiên đường trần gian của con. Chúa và Thiên đường không ở đâu xa mà tồn tại

ngay trong tình thương của con và mẹ. Đối với đứa trẻ, nơi nào có mẹ, nơi đó là thiên

đường. Bài thơ số 21 (Người thoáng hiện) Tagore đã thể hiện rõ ý tưởng này: Sau khi mẹ

mất, đứa con trai bảy tuổi ngây thơ hỏi cha: “ Mẹ đâu rồi, cha ơi?” thì “người cha chỉ lên

trời và đáp: Ở trên thiên đàng.” Đêm xuống, đứa trẻ giật mình thức giấc và lén ra ngoài vì

thương nhớ mẹ: “ Cậu ngước mắt lên trời/ và lặng im nhìn kĩ hồi lâu. / Đầu óc phân vân

của cậu /đã ném vào trong đêm tối bao la / cậu hỏi: Thiên đường ở đâu? / không có tiếng

trả lời. / Và những vì sao / trông như những dòng lệ chảy / của đêm đen / không hay biết gì

đâu.”[45, tr.742].

Bài thơ với hai đoạn thơ văn xuôi kết nối với nhau bằng dòng cảm xúc suy tưởng

tìm lời giải đáp cho câu hỏi thiên đường ở đâu. Mạch cảm xúc bài thơ phát triển một cách

tự nhiên dưới dạng đối thoại, một hình thức thường gặp trong các tác phẩm triết học, tôn

giáo Ấn Độ như Veda, Upanishad… Cái tôi trữ tình của nhà thơ chìm khuất sau những lời

đối thoại. Chính nhà thơ đã mượn lời nhân vật để “ném vào đêm tối bao la” câu hỏi : “ thiên

đường ở đâu?” và “ không có tiếng trả lời”. Sự im lặng tuyệt đối đồng nghĩa với câu trả lời:

thiên đường là sự hư vô, là thứ chỉ có trong tưởng tượng. Với đứa bé, chỉ nơi đâu co mẹ,

nơi đó mới thực sự có thiên đường. Nói cách khác, Tagore không tin vào sự có mặt của

thiên đường, ông chỉ biết đến một thiên đường duy nhất mà con người có khả năng tạo dựng

trên trần thế bằng tình yêu, bằng niềm hạnh phúc và cả nỗi khổ đau của chính con người:

Thiên đường sinh ra ở trong con

Trong cánh tay của bà mẹ đất bụi này

(Tặng phẩm của người yêu, 49)

Trong Trăng non, Thiên đường của trẻ được hình thành từ tình yêu của mẹ. Đi với

con đến cuối cuộc đời, mẹ là biểu tượng của sự vĩnh hằng. Ở bài Mây và sóng ta sẽ bắt gặp

một ý tưởng gần gũi như trên. Bài thơ là câu chuyện tâm tình giữa bé với mẹ. Những phút

giao cảm thần tiên của em với thiên nhiên, với mây và sóng đã được em kể lại cho mẹ bằng

sự tưởng tượng diệu kì. Mây và sóng đã rủ em vào một tuần du không hạn định nhưng sợ

mẹ buồn em lại quay về không nỡ đi xa:

Làm sao tôi có thể bỏ mẹ mà đi được?

Thế là họ cười nhảy múa rồi đi xa

Nhưng con biết một trò chơi hay hơn trò chơi ấy

Con sẽ là sóng, mẹ sẽ là một bờ biển lạ lùng

Con sẽ lăn, lăn mãi

Và vỗ vào gối mẹ cười vang

Và không một ai trên cõi đời biết nơi đâu mẹ con ta đang ở

Mở đầu bài thơ là lời mời gọi hấp dẫn của mây và sóng. Đó là những cuộc vui

chơi triền miên từ “ tinh mơ đến hết ngày”. Mây thì: “ chơi với buổi sớm mai vàng”, “ chơi

với vầng trăng bạc”; sóng thì : “ hát từ sớm mai đến tối”… Sự vẫy gọi của thiên nhiên ở

chốn cao xa đầy sức hút vì nó chạm đến đúng niềm mơ ước của trẻ thơ : Nguồn vui và sự tự

do. Bởi thế, trong câu hỏi của bé ẩn chứa một thèm muốn: “ Nhưng tôi làm sao mà lên được

với các người?”. Bé khao khát được tự do trong trí tưởng tượng của mình, được vui đùa

thoả thích nhưng trong tâm hồn bé, bé vẫn băn khoăn: “ Làm sao tôi có thể bỏ mẹ mà đi

được?”. Về với mẹ, bé tìm được trò chơi thú vị hơn nhiều trò chơi mây và sóng : trò chơi

tình mẫu tử. Sợi dây liên kết yêu thương giữa bé và mẹ đã mở ra giữa cõi đời trần thế này

một thiên đường thật sự. Hình tượng mẹ là biểu tượng của cuộc đời với tư cách là đấng sáng

tạo và con ( vật tạo) là kết tinh từ tình yêu của mẹ. Vì thế, khi con hoà nhập vào mẹ ( về với

mẹ) con sẽ tìm thấy được thiên đường.

Là thiên đường trần gian của tình mẫu tử, trong Trăng non, ranh giới giữa cái

thiêng liêng và bình dị có thể hoán đổi với nhau. Mẹ có thể tự hào giải thích tại sao bé có

mặt ở cõi đời này như một vị “Chúa đời” : “ Con là đứa con cưng của Thượng đế, là anh em

sinh đôi với ánh bình minh” ( Buổi sơ khai ), thì cũng có thể ôm bé vào lòng nâng niu, bênh

vực: “Anh muốn nói gì về nó tuỳ anh / nhưng tôi hiểu chỗ yếu của con tôi / Tôi yêu nó không

phải vì nó ngoan nó giỏi / mà là vì đứa con nhỏ của tôi”.( Người phán xử ). Chính tình yêu

thương con vô bờ của mẹ và ý thức đáp đền hiếu thảo của con đã đem đến cho Trăng non

một vẻ đẹp dịu dàng. Ở bài Người phu trạm độc ác, thấy mẹ buồn vì không nhận được thư

cha, bé cho rằng người phu trạm đã giấu đi những lá thư ấy:

Chuyện gì đã xảy ra mà trông mẹ khác mọi ngày

Phải chăng hôm nay mẹ nhận được thư cha?

Con thấy bác phu trạm mang túi thư phát cho hầu hết mọi người trong tỉnh

Riêng thư cha bác giữ đọc một mình

Con chắc bác phu trạm này là một người độc ác.

và bé đã an ủi mẹ bằng cách chính mình sẽ viết thư thay cha. Bé tự tin nghĩ rằng mình viết

sẽ rất hay vì mình yêu mẹ nhất:

Nhưng mẹ đừng buồn vì chuyện đó mẹ ơi

Ngày mai có phiên chợ ở làng bên, mẹ hãy sai chị

đi chợ mua giấy bút

Chính con sẽ viết thư cho cha, mẹ sẽ thấy

không có lấy một lỗi

… Mẹ không nghĩ rằng con có thể viết hay như cha sao!

Tình cảm của bé dành cho mẹ ngây thơ và chân thật. Nó như dòng nước mát lành xoa

dịu những lo âu, cô đơn về sau của mẹ: “ Cuộc đời của chúng ta rồi sẽ bị tách ra/ Và tình ta

sẽ rơi vào quên lãng/ Nhưng ta không điên rồ đến nỗi/ Hy vọng có thể dùng những món quà

để mua trái tim con./ Đời của con còn trẻ, Đường của con còn dài./ Và mối tình ta mang

đến cho con/ Con uống luôn một ngụm/ Rồi con bỏ chúng ta mà quay lưng đi thẳng..” (

Món quà ). Trong dòng sông trần thê, mẹ biết rằng mọi thứ sẽ cuốn đi, con sẽ lớn khôn và

rời bỏ mẹ, thế nhưng tình mẹ dành cho con vẫn không thay đổi, cho đến tận tuổi già con vẫn

là đứa con bé bỏng: “ Dòng sông vừa chảy xiết vừa ca / và đập tan hết những thứ gì ngăn

cản / Nhưng núi thì ở lại nhớ mong / với tấm lòng trìu mến”. Nhà thơ Nga Êxênin, trong bài

Thư gửi mẹ cũng có những dòng thơ cảm động như thế về lòng mẹ thương con. Đó là người

mẹ của Êxênin mà cũng là người mẹ của muôn đời, người mẹ của phương Đông và phương

Tây. Người mẹ mỏi mòn vì thương con, bất cứ nó còn nhỏ hay trưởng thành, không cần

biết nó là anh hùng hay thi sĩ.:

Người ta viết cho con rằng mẹ

Phiền muộn lo âu quá đỗi về con

Rằng mẹ thường lững thững ra đường

Khoác tấm áo choàng xưa cũ nát.

Trong bóng tối buổi chiều hôm xanh ngát

Mẹ mãi hình dung một cảnh tượng hãi hùng

Có kẻ nào vừa đâm trúng tim con

Giữa quán rượu ồn ào, loạn đả

… Chỉ mẹ là niềm vui, ánh sáng diệu kì

Chỉ mình mẹ giúp đời con vững bước

Trong lòng mẹ, đứa con bao giờ cũng nhỏ nhoi, yếu đuối. Dù còn ấu thơ hay đã

trưởng thành, dù thành công hay thất bại mẹ vẫn luôn là điểm tựa yên bình cho con tìm đến,

mẹ là ánh sáng diệu kì soi bước con đi. Giữa cõi đời này, mẹ là người duy nhất yêu con

bằng tình yêu vô điều kiện. Issa, một nhà thơ Nhật Bản, đã nhận thấy ở mẹ một tình yêu bao

la sánh tựa biển trời: “Ôi biển khơi / Khi tôi nhìn thấy biển / Mẹ tôi ơi”. Vì thế, khi băn

khoăn về chuyện tại sao con “ chọn mẹ trong muôn người , tới cửa mẹ, nắm tay mẹ và hỏi

đường”, “ vừa cười vừa nói. Lòng không chút hồ nghi” thì Tagore đã lí giải vì “ mẹ giữ lòng

tin của nó, dẫn nó đi thẳng và cầu chúc cho nó”, “ đặt tay lên đầu nó khấn rằng dù sóng

ngầm có đe doạ đến đâu, linh khí từ trên cao cũng sẽ thổi căng buồm đưa nó đi tới cõi bình

yên”(Ban phước ). Trong vòng tay của mẹ, con luôn cảm thấy bình yên. Mẹ là chốn yên

bình, là nguồn vui bất tận mà cuộc đời đã ban tặng cho con. Được sống trong vòng tay yêu

thương của mẹ, “ còn dịu dàng hơn tất thảy tự do”:

... Trên mảnh đất của vầng trăng non bé bỏng

Bé tự do không hề bị ràng buộc chút nào

Nhưng không phải tự nhiên mà bé không cần đến tự do

Bé biết rằng trong góc nhỏ trái tim của mẹ

Có chứa một niềm vui vô tận, vô cùng

Và được ghì, được ôm chặt trong cánh tay thân yêu của mẹ

Còn dịu dàng hơn tất thảy tự do

( Cung cách của bé )

Vì thế, khi con mẹ là con nghĩ về những điều thân thương và thiêng liêng nhất.

Giọng hát, mùi hương và tình yêu của mẹ là những kí ức tươi đẹp nhất trong trái tim con,

linh thiêng và bất tử:

Tôi không thể nhớ rõ mẹ tôi

Chỉ đôi khi đang giữa cuộc nô đùa

Tôi nghe một giọng nào như bay lượn trên đồ chơi của tôi

Giọng của một bài hát nào xưa kia mẹ tôi vẫn thường khe khẽ ru tôi.

Tôi không thể nào nhớ rõ mẹ tôi

Nhưng khi trong buổi sáng một mùa thu sớm

Hương hoa siuli ngào ngạt khắp bầu trời

Mùi hương trong đền của buổi lễ ban mai

Đến với tôi như mùi hương của mẹ

Tôi không thể nào nhớ rõ mẹ tôi chỉ khi từ cửa sổ phòng tôi

Tôi đưa mắt nhìn lên khoảng trong xanh của bầu trời xa thẳm

Tôi cảm thấy cái nhìn yên tĩnh của mẹ tôi đã toả khắp bầu trời.

( Bài 64, Thơ )

Tóm lại, bằng những lời thơ ngọt ngào, sâu lắng, Tagore đã xây dựng nên một thiên

đường trần gian tràn ngập tình mẫu tử thiêng liêng. Chính ở nơi đó, cõi chân phúc của con

người sẽ thật sự mở ra và nguồn vui bất tận sẽ chào đón con người.

*

Vẻ đẹp thế giới tâm hồn trẻ thơ là điểm sáng chủ đạo trong Trăng non. Vẻ đẹp

đó được chiếu rọi qua thiên nhiên tươi đẹp, qua tình mẫu tử thiêng liêng, sâu đậm. Với

Tagore, tâm hồn thánh thiện của trẻ thơ, tình yêu thương vô biên của con và mẹ là nguồn ánh sáng diệu kì hướng con người đến giá trị Chân – Thiện – Mĩ.

CHƯƠNG 3

NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN

THẾ GIỚI TRẺ THƠ TRONG TRĂNG NON

3.1 Vài nét về thi pháp thơ cổ điển của văn học Ấn Độ

Một trong những nguyên lí cơ bản của thi pháp học cổ điển Ấn Độ là thi pháp thơ cổ

điển – Alankara. Người đặt nền móng cho hướng nghiên cứu này ( từ thế kỉ II )là Bharata,

một tu sĩ Bàlamôn sùng kính và thông thái trong giáo trình kịch Natyasastra. Nhưng phải

đến khoảng thế kỉ V – VI, hướng nghiên cứu này mới thực sự được khởi đầu chính thức với

công trình Kavyalankara – Vẻ đẹp của thơ ca của Bhamaha. Đây được xem là công trình lí

luận về thơ có hệ thống đầu tiên quan trọng nhất trong kho tàng thi pháp học cổ điển Ấn Độ.

Alankara có nghĩa từ nguyên là “ sự trang sức, trang điểm”, về sau được dùng với

nghĩa là “vẻ đẹp” để chỉ tất cả những gì đóng góp cho vẻ đẹp của thơ ca. Trong nghĩa hẹp,

Alankara chỉ các biện pháp tu sức ngôn từ, trong nghĩa rộng, nó bao gồm tất cả những thủ

pháp nghệ thuật, phong cách văn chương… Ở đây, trong phạm vi đề tài luận văn, chúng tôi

chỉ tìm hiểu Alankara một cách khái quát nhất dưới góc độ là những hình thức tu sức về ngữ

nghĩa.

Khi nghiên cứu Alankara dưới góc độ những hình thức tu sức về ngữ nghĩa, các nhà

lí luận Ấn Độ đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tựu trung lại họ cho rằng so sánh

và ngoa dụ tạo nên nòng cốt thơ ca. Theo Bharata, so sánh là tài sản chính của nhà thơ.

Ông khẳng định mọi Alankara đều dựa trên nền tảng sự tương đồng và khác biệt giữa đối

tượng được so sánh và đối tượng so sánh. Để so sánh khuôn mặt người tình với vầng trăng,

văn học Ấn có thể có đến hai mươi hình thức tu từ trên nền tảng so sánh ( trong đó, ngoài

những hình thức so sánh khác nhau như: so sánh điển hình, so sánh trùng điệp, so sánh với

chính nó…còn có các hình thức ẩn dụ, ngoa dụ, minh hoa, phủ định…). Chẳng hạn như, khi

miêu tả vẻ đẹp người thiếu nữ, nhà thơ Bhartrihari ( sống vào khoảng thế kỉ V ) đã dùng

hình thức tu từ phủ định để so sánh vẻ đẹp của nàng với những hình ảnh thiên nhiên:

Gương mặt nàng đâu phải là trăng

Đôi mắt nàng không hạt sen huyền

Và cánh tay không là ngọc thạch

Nàng chỉ là xương thịt làm nên

Các nhà thơ chỉ là dối trá

Nhưng ta yêu nàng, dối trá ta tin

( Nhật Chiêu dịch) [ 6, tr. 133]

Và một nhà thơ khác, Jayadeva, sống vào khoảng cuối thế kỉ XII, cũng dùng hình thức so

sánh đơn để miêu tả vẻ đẹp của các nữ mục tử:

Ta muốn nghe em nói

Dù chỉ một đôi lời

Và khi răng hé sáng

Hoá một làn trăng soi

Thì bóng đêm tối ám

Rồi cũng sẽ tan thôi

Gương mặt em sẽ mọc

Như một vầng trăng ngà

Trong mắt ta lấp lánh

Đôi mắt nàng Radha

…Hãy cho ta được uống

Khuôn mặt em sen hồng

Trong đại dương hiện hữu

Của đời ta vô cùng

Em là viên ngọc sáng

Từ sâu thẳm mênh mông

…Hãy cho ta đuợc uống

Gương mặt em sen hồng

( Nhật Chiêu dịch)[ 6, tr. 135]

Bên cạnh hình thức tu từ so sánh, các nhà lí luận còn chú ý đặc biệt đến ngoa dụ.

Nếu Bharata cho rằng ngoa dụ chỉ là một dạng của so sánh được đẩy tới nói quá thì ngược

lại, Bhamaha khẳng định so sánh chỉ là một dạng của ngoa dụ vì hàm ẩn trong mọi so sánh

đều có khoa trương, phóng đại. Ví dụ, trong bi ca Sứ mây, thành tố ngoa dụ xuất hiện trong

hình thức so sánh, nỗi khao khát, nhớ thương người yêu cao đầy như ngọn núi:

Khát khao say đắm người yêu dấu

ngày càng chồng chất thành một núi tình [ 34, tr.197]

Như vậy, dù ý kiến có trái ngược nhau, các nhà lí luận Ấn đều coi trọng vai trò

của so sánh và ngoa dụ trong vấn đề sáng tạo thơ ca. Với ngươi Ấn, giữa con người và

thiên nhiên luôn có mối quan hệ hoà hợp, bình đẳng với nhau. Trong tư tưởng tôn giáo của

họ, thiên nhiên cũng có linh hồn. Vì thế, khi sáng tác thơ ca, họ thường so sánh thiên nhiên

cũng giống con người. Trong ý niệm của họ, biện pháp nhân hoá không hề tồn tại. Họ mặc

nhiên xem thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó, và vì thế trong thơ ca, những hình

ảnh thiên nhiên có phẩm chất, hành động, cảm nghĩ… như con người đều được xếp vào một

nhóm miêu tả khách quan như bản chất nó là như thế và nhóm khác là ngoa dụ. Sau đây là

một ví dụ về hình thức tu từ dựa trên nền tảng ngoa du và so sánh: Trong bi ca Sứ mây, khi

miêu tả đám mây Kalidasa đã dùng những hình ảnh ngoa dụ sau:

- “ Những đám mây và những đấng minh quân vĩ đại được thế gian yêu quý, tụng

ca vì đều khoan dung ban phát mưa móc, cởi bỏ sự nóng nực ngột ngạt khắp

mọi nơi”[34, tr. 161]

- “ Da người ( đám mây) tuy đen tối, nhưng linh hồn cao thượng của người

vằng vặc sáng trong”[34, tr. 197]

Và khi miêu tả nỗi nhớ thương của người vợ trẻ xa chồng, nhà thơ đã dùng hình ảnh

dòng sông mùa cạn để so sánh:

“ Và chỉ mình người thôi, đám mây mưa

như người tình hạnh phúc

Có thể làm tươi tắn lại nàng sông sầu thương do xa cách với người

Những khúc chảy quanh co là bím tóc rối bời

Cô dâu trẻ vắng chồng không thiết chải

Đợt đợt lá vàng khô trút trên dòng nước chảy

khuôn mặt nàng thêm xơ xác héo hon” [34, tr. 193]

Về mặt lí luận, trong thi pháp thơ cổ điển Ấn, ngoa dụ và so sánh là hai biện pháp

nghệ thuật được đề cao đặc biệt. Thế nhưng, khi đi vào trong các tác phẩm thơ ca cổ điển

Ấn Độ cụ thể, chúng ta có thể thấy rằng bên cạnh hai biện pháp nghệ thuật này các tác giả

còn sử dụng thêm rất nhiều những biện pháp nghệ thuật khác như ẩn dụ, tượng trưng,

tương phản… Với ý nghĩa mang lại vẻ đẹp cho thơ ca, đến tận thời hiện đại, Alankara vẫn

giữ nguyên giá trị hưũ dụng của nó. Điều này chúng ta có thể thấy rõ ở R. Tagore.. Đối với

ông , một bài thơ phải có sự hoàn chỉnh ở vẻ đẹp ngôn từ, phải làm lòng người rung động:

“thơ ca luôn tìm cách lựa chọn những từ ngữ giàu năng lực sống, những từ ngữ không chỉ

thông báo mà hoà nhập trong trái tim chúng ta, những từ ngữ không thể mang trang phục

sờn mòn, nhàu nhĩ do đã bị sử dụng thường xuyên, nhàm chán trên thị trường”[ 34, tr. 84].

Riêng ở Trăng non, bằng việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật một cách sáng tạo và độc

đáo , ông đã tạo dựng trong tập thơ hình tượng thiên nhiên - một “thiên đường kì diệu của

các giác quan”. Trong góc nhìn của ông, thiên nhiên luôn có linh hồn và song hành cùng trẻ

thơ. Ngoài tình mẹ, thiên nhiên là thiên đường thứ hai nhiều đam mê và quyến rũ.

3.2 So sánh – Trường liên tưởng độc đáo trong Trăng non

Theo Phong cách học tiếng Việt hiện đại của Hữu Đạt so sánh là “ đặt hai hay

nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra những điểm giống và

khác nhau giữa chúng”. Cần phân biệt giữa “so sánh logic” ( comparision) với “so sánh tu

từ” ( simile).

So sánh logic : là phép liên tưởng dựa trên những nét giống nhau hay gần giống

nhau giữa hai đối tượng đem so sánh, trong đó hai vế đem so sánh phải cùng loại và cùng

bản chất. Tính chất của phép so sánh này là đối chiếu sự tương đương, ngang bằng nhau

giữa hai đối tương, nó có tính chính xác cao.

Ví dụ: A học giỏi như B

So sánh tu từ: là phép liên tưởng chỉ dựa vào một nét tương đồng nào đó của hai

đối tượng đem ra so sánh, trong đó hai vế so sánh có thể khác loại, khác bản chất. Vì là so

sánh có tính chất nghệ thuật nên đôi khi nó có tính khoa trương.

Ví dụ: Tình anh như nước dâng cao

Tình em như dải lụa đào tẩm hương

( Ca dao )

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, so sánh tu từ còn được gọi là tỉ dụ. Đó là “

phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện

tượng có những dấu hiệu tương đồng nhằm làm bật nổi đặc điểm, thuộc tính của hiện tương

này qua đặc điểm, thuộc tính của hiện tương kia”[27, tr. 282]. So sánh thường có hai vế: vế

được so sánh và vế so sánh.

Trong văn học dân gian, người ta thường lấy những sự vật cụ thể hoặc những hiện

tượng tự nhiên làm chuẩn mực so sánh nhằm cụ thể hoá những hiện tượng trừu tượng.

Ví dụ: Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày

( Ca dao )

Trong văn học viết, chức năng của so sánh tu từ rất đa dạng. Có khi so sánh được

sử dụng như một phương tiện tạo hình, hoặc phương tiện biểu hiện hay kết hợp cả biểu hiện

lẫn tạo hình. Vì lẽ này nên chuẩn mực so sánh trong văn học viết rất đa dạng, bất ngờ và độc

đáo. Ví dụ: “ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” ( Xuân Diệu) .

Về mặt hình thức, so sánh tu từ có hai dạng: so sánh tu từ nổi ( nét giống nhau

biểu hiện bằng từ ngữ cụ thể) và so sánh tu từ chìm ( nét giống nhau khuyết đi, không được

phô bày, tuỳ vào sự liên tưởng của người tiếp nhận ).

Như trên đã nói, trong thi pháp thơ cổ điển Ấn Độ, so sánh được xem là tài sản

chính của nhà thơ. Điểm qua một số tác phẩm văn học Ấn từ thời văn học Veda cho đến

thời hiện đại, ta thấy phép so sánh chính là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng rất phổ

biến. Trong sử thi Ramayana, bên cạnh các biện pháp nghệ thuật khác, so sánh nổi bật lên

là một biện pháp nghệ thuật có tác dụng biểu đạt cao. Trong trích đoạn Hồ Pampa, để diễn

đạt nỗi thương nhớ của Rama dành cho Sita giữa mùa xuân , mùa kết đôi tràn đầy hạnh

phúc, Vanmiki đã sử dụng một loạt các hình ảnh so sánh gắn liền với thiên nhiên: “ Mùa

xuân, như lửa, đang thiêu đốt anh đến là khổ – hoa Ashoka đỏ là than hồng, tiếng vo ve của

đàn ong là tiếng lửa vèo vèo và lá màu đồng thau là ngọn lửa! Những ý nghĩa về nàng đang

thiêu cháy anh, gió mùa xuân không thể quạt cho anh mát dịu được”.

Có thể nói, dùng thiên nhiên làm đối tượng để so sánh với con người là một đặc điểm độc

đáo trong văn học Ấn . Với họ, sức mạnh và vẻ đẹp của tự nhiên cũng chính là sức mạnh và

vẻ đẹp lí tưởng mà con người vươn đến. Lối so sánh con người với tự nhiên không chỉ xuất

hiện trong thời cổ đại với các bộ sử thi nổi tiếng, mà đến thời cổ điển, thời cận hiện đại nó

vẫn xuất hiện với một tác dụng nghệ thuật rất cao. Trong sử thi Mahabharata, “sen” là một

hình ảnh thường được sử dụng để so sánh với vẻ đẹp hoàn thiện và lí tưởng của con người:

“ Một trăm con trai của Dhritarashatra lớn nhanh như những bụi sen trong hồ”, nàng

Draupadi có“đôi mắt như những đoá sen mùa thu”, và “ khuôn mặt nàng, khi đẫm mồ hôi

trông như những bông sen hay hoa nhài”. Đến thời cổ điển, hình ảnh “sen” lại tiếp tục đi

vào thơ ca để ca ngợi vẻ đẹp con người:

Những ngón tay kết với nhau bằng một làn da

Như hình hoa sen vươn cánh

Lúc rạng đông mới hé nửa vời

(Kakidasa – Sơkuntơla )

Và ở thời hiện đại, đến với R. Tagore, hình ảnh “sen” trở thành biểu tượng cho cái

đẹp, cho sự thanh cao của tâm hồn, cho tình yêu vĩnh cữu: “ Chỉ xin được phép nâng bàn

tay nhỏ nhắn của Người, bàn tay như những búp sen nõn nà”( Người làm vườn, bài 1).

Kế thừa nghệ thuật so sánh truyền thống của thơ ca Ấn Độ, trong các sáng tác của

mình, R. Tagore luôn lấy thiên nhiên làm đối tượng so sánh. Thiên nhiên là một chuẩn mực,

một ngữ liệu phong phú và bất tận giúp nhà thơ bộc lộ tư tưởng. Lấy chất liệu là hình ảnh

thiên nhiên trong cuộc sống đời thường Tagore đã cụ thể hoá những vấn đề trừu tượng, tinh

tế trong đời sống tinh thần Ấn Độ bằng những hình thức so sánh độc đáo:

“ Chỉ xin để tôi biến đời mình thành bình dị, thẳng ngay, như chiếc

sáo sậy để người phả đầy âm nhạc vào trong”

( Thơ Dâng, bài số 7)

“ Thân này – thuyền nhỏ mỏng manh

Xác này – Cây gậy khẳng khiu”

( Thơ Dâng, bài 1)

“Ánh sáng nô đùa trong đám lá xanh

Như một đứa bé trần truồng

May mắn không biết rằng

Con người có thể giả dối”

( Những con chim bay lạc, bài 16)

Riêng ở Trăng non, do thiên nhiên được khai thác qua ánh mắt trẻ thơ nên sự so

sánh có nhiều mới lạ. Bên cạnh đó, các dạng thức so sánh cũng phong phú hơn. Ngoài dạng

thức so sánh đơn, so sánh chuỗi còn có so sánh mở rộng với trường liên tưởng độc đáo.

Chính dạng thức so sánh này đã đem đến cho Trăng non một sắc màu kì diệu. Nó không

chỉ thể hiện cái nhìn tinh tế của Tagore về trẻ nhỏ mà nó còn khẳng định sự kế thừa truyền

thống văn học dân tộc một cách sáng tạo của nhà thơ.

Trong Trăng non dạng so sánh đơn xuất hiện tương đối nhiều. Nó là dạng so sánh

ngầm, lấy cái trừu tượng để nói cái cụ thể. Dạng so sánh này tạo ra những hình ảnh mang

tính triết lí và sáng tạo cao, gợi ra nhiều liên tưởng độc đáo cho người tiếp nhận. Ở bài

Buổi sơ khai , bằng hàng loạt những hình ảnh thiên nhiên trừu tượng mang tính triết lí cao,

người mẹ đã giải thích cho con về cội nguồn của nó:

Khi trong thời con gái, trái tim mẹ nở xoè như một đoá hoa

Con đã lượn quanh nó như mùi hương phảng phất

Vẻ tươi mát nhẹ nhàng của con

nở trên chân tay non trẻ của mẹ

như một ánh hồng

trên trời cao

trước buổi bình minh.

Con la đứa con cưng của Thương Đế

La anh em sinh đôi với ánh bình minh

Không biết sự kì diệu nào

Đã chiếm lĩnh cái kho vàng trên cõi thế

Và đặt vào đôi tay mảnh khảnh của mẹ đây”

( …When in girlhood my heart was opening its petals, you hovered as a

fragrance about it.

Your tender softness bloomed in my touthful limbs, like a glow in the sky

before the sunrise.

Heaven`s first darling, twin – born with the morning light, you have floated

down the stream of the world`s life, and at last you have stranded on my heart

As I gaze on you face, mystery overwhelms me, you who belong to all have

become mine

For fear of losing you I hold you tight to my breast. What magie has snared the

world`s treasure in these slender arms of mine?”)[ 66, tr.16]

Với nguồn gốc thần tiên, trong lòng mẹ, con là hiện thân của tất cả những gì linh

thiêng và thần thánh nhất. Bài thơ gồm mười hai câu (trong nguyên tác ), nhưng đã có đến

bảy câu dùng hình thức so sánh đơn.. Cách sử dụng hàng loạt những hình ảnh so sánh cho

một đối tượng được so sánh (con) tạo thành dạng so sánh chuỗi độc đáo trong cả bài thơ.

Dạng so sánh này xuất hiện với tần số cao trong Trăng non mang tính biểu cảm và gợi hình

rất cao. Nó diễn đạt trọn vẹn tình cảm dạt dào mẹ dành cho con hay ngược lại, của con dành

cho mẹ. Ở bài Buổi sơ khai ( The beginning), với hàng loạt những hình ảnh so sánh, người

mẹ đã thể hiện tấm lòng yêu thương và niềm tự hào, hạnh phúc vì có con trên cõi đời này:

ước mơ ( của mẹ )

vị Chúa của mẹ

niềm hy vọng, thương yêu trong đời mẹ

Con mùi hương phảng phất

ánh hồng trước buổi bình minh

con cưng của thượng đế

anh em sinh đôi với ánh bình minh

kho vàng trên cõi thế

Trong cái nhìn của mẹ, con luôn được đặt trong thế ngang bằng cùng vũ trụ, con là

ánh bình minh, là vị Chuá đời, là mùi hương phảng phất …, và con cũng là những gì thân

thuộc, bình dị trong cuộc sống chung quanh: con là một ăn mày nhỏ đáng yêu, một nụ đời

tươi xinh của mẹ ( Đám rước không ngờ ), con ngự trị ở vô biên, vĩnh hằng và cả trong

lòng mẹ nữa. Vì yêu con, mẹ nguyện bên con suốt đời, đến tận bến bờ thế giới không tên:

Con ơi, bài ca mẹ sẽ uốn điệu nhạc quanh con như vòng tay âu yếm

Bài ca mẹ sẽ mơn trớn trán con như cái hôn chúc lành

Khi con đơn độc, bài ca sẽ ngồi cạnh con thì thầm bên tai, khi con trong đám

đông người, bài ca sẽ làm rào cản con xa cách

Bài ca mẹ sẽ như đôi cánh chấp vào mộng mơ con, đưa lòng con đến tận bến bờ

không tên

No sẽ như ngôi sao chung thủy trên đầu khi đường con đêm tối mịt mù.

Với một chuỗi những so sánh liên tiếp được mở rộng trên bình diện toàn bài thơ,

Bài ca mẹ thể hiện tấm lòng yêu con vô điều kiện của mẹ. Từ một khái niệm trừu tượng (

my song), Tagore đã đưa hình ảnh bài ca mẹ trở thành một biểu tượng đẹp về tình mầu tử.

So sánh dạng A ( bài ca mẹ) như là B, C, D… vừa giúp Tagore cụ thể hoá một khái niệm

trừu tượng vừa giúp người đọc đi đến tận cùng bản chất của đối tượng . Mặt khác, với việc

sử dụng từ “like” để so sánh một cach trực tiếp đối tượng cần so sánh, Tagore đã thành

công khi thể hiện tình cảm thiêng liêng, gần gũi của mẹ dành cho con. Hơn nữa, cách thể

hiện đơn giản như thế cũng rất phù hợp với tâm lí trẻ thơ:

This song of mine will wind its music around you, my child, like the fond arms of

love

This song of mine will touch your forehead like a kiss of blessing

… My song will be like a pair of wings to your dreams, it will transport your heart to

the verge of the unknown

It will be like the faithful star overhead when dark night is over your road…[66,tr.

78]

Trong Trăng non, Tagore sử dụng khá nhiều dạng so sánh chuỗi. Em bé thiên thần

là một trong những bài thơ có dạng thức so sánh như thế, nhưng đặc biệt hơn, ở bài thơ này,

đối tượng so sánh không chỉ là một hình ảnh A mà phong phú, đa dạng hơn. Bài thơ vừa có

dạng so sánh trực tiếp ( A như B ), vừa có dạng so sánh mở rộng, sóng đôi, tương phản hai

hình ảnh Trẻ con – Người lớn. Đây là một sáng tạo độc đáo của Tagore:

Con ơi, hãy để đời con đến với họ như ngọn đuốc sáng, bền vững tinh khôi,

khiến cho họ say mê, im lời.

Họ độc ác trong tham lam và ghen tị, lời họ như những con dau giấu kín khát

máu người.

Con ơi hãy bước tới đứng giữa những tấm lòng quạu cọ và đoái nhìn họ với

cặp mắt hiền từ như cái an bình bao dung của buổi chiều phủ trên một ngày tranh đấu

Con ơi, hãy để họ thấy mặt con, và như thế hiểu nghĩa của muôn loài, hãy để họ

yêu con và như thế họ yêu thương nhau

Con ơi, hãy đến ngự trong lòng cái vô biên. Bình minh con mở rộng và cất cao

trái tim như một bông hoa nở, và hoàng hôn con cúi đầu yên lặng làm tròn sự thờ phượng

trong ngày.

Vì yêu con mà người mẹ kiêu hãnh so sánh đồng nhất con với “ ngọn đuốc sáng

tinh khôi, bền vững”. Hình ảnh của con đối lập với xã hội người lớn đố kị, tham lam. Với lối

so sánh vừa tương phản vừa trừu tượng , Tagore đã làm bật nổi tâm hồn thánh thiện của trẻ

thơ khi đưa ra hàng loạt những hình ảnh so sánh mang tính triết lí cao: Con là bình minh, là

hoàng hôn , và trái tim con cất cao như một bông hoa nở, con là tất cả những điều tốt đẹp ở

cõi đời này. Con mang niềm vui, tình yêu đến cho trần thế và với mẹ, con luôn dành trọn

những tình cảm thiết tha:

Con sẽ thành một luồng khí nhẹ vuốt ve mẹ, và con sẽ là sóng lăn tăn trong

nước mẹ tắm, hôn mẹ và hôn mẹ nữa

…Bằng những ánh trăng lạc loài (là) con sẽ lẩn vào giường mẹ, nằm trên ngực

mẹ khi mẹ ngủ

Con sẽ thành giấc mộng, và qua riềm mi mẹ hé mở, con sẽ vào sâu giấc mẹ mơ,

khi tỉnh dậy, mẹ nhìn quanh ngơ ngác, lúc đó, (con ) như con đom đóm lấp lánh con sẽ lướt

vào bóng đêm.

Đêm đến, Tết trung thu, trẻ con hàng xóm tới nhà đùa chơi, con sẽ tan vào

nhạc sáo du dương trong tim mẹ suốt ngày

( Chung cuộc )

( I shall become a delicate draught of air and caress you, and I shall be ripples

in the water when you bath, and kiss you and kiss you again.

… On the straying moonbeams I shall steal over your bed, and lie upon your

bosom while you sleep.

I shall become a dream, and through the little opening of your eyelids I shall

slip into the depths of your sleep; and when you wake up and look round startled, like a

twinkling firefly I shall flit out into the darkness.

When, on the great festival of puja, the neighbours’ children come and play

about the house, I shall melt into the music of the flute and thrrob in your heart all day.) [

66, tr.66]

Với một chuỗi những so sánh nhiều tầng bậc, đối tượng được so sánh là con trong

bài thơ trên đã thể hiện tình yêu thương chân thành của mình dành cho mẹ. Bằng những

hình ảnh so sánh đậm chất thần tiên, đứa con đã đến với mẹ theo liên tưởng riêng của nó:

qua giấc mộng, qua làn nước êm đềm cho mẹ tắm, qua nhạc sáo du dương, qua con đom

đóm diệu kì… và cao hơn cả là qua linh hồn và thân xác mẹ: “ nó ở trong đôi mắt tôi, trong

thân thể tôi, và trong linh hồn tôi”.

Trong sáng tạo thơ ca, liên tưởng là một đặc điểm quen thuộc của thủ pháp nghệ

thuật so sánh, đặc biệt là ở thể thơ văn xuôi, một thể thơ được xem là tự do nhất trong mọi

thể loại thơ ca. Dưới áp lực dồn nén của dòng cảm xúc và niềm khát khao được bộc lộ, giãi

bày, tác phẩm thơ văn xuôi vừa phát triển theo trục dọc của một bài thơ tự do vừa mở rộng

liên tưởng theo hình thể tuyến tính của văn xuôi. Câu thơ văn xuôi có được sự kết hợp hài

hoà giữa tư duy logic và tư duy hình tượng, cấu trúc câu thơ nhiều tầng bậc, hình ảnh cho

nên nó vừa là đơn vị cơ bản, vừa là tế bào làm nên sức sống cho cả bài thơ. Với những đặc

điểm đó, trong thơ văn xuôi, liên tưởng so sánh đã trở thành một thủ pháp nghệ thuật đắc

dụng và độc đáo, sau đây là một số ví dụ cụ thể :

“ Khi người, đám mây như tấm lụa đen ướt sũng, mắc hong trên đỉnh

non cao

Sườn núi lớp lớp những cây xoài lúc lỉu trái vàng chín mọng

Người như núm vú sẫm màu nghỉ ngơi trên ngực trắng của nàng trái đất

Một cảnh tượng dịu dàng khiến các đôi lứa thiên thần cũng run rẩy con tim”

( Sứ mây, Kalidasa )

hay:

“Nàng gần tôi như bông hoa gần đất lành, dịu dàng với tôi như giấc ngủ đối với tay

chân thấm mệt, rã rời. Tình yêu tôi dành cho nàng là cuộc đời tôi sống, tràn trề như dòng

sông vào dịp nước lũ mùa thu, tuôn chảy thảnh thơi”

( Bài số 4, Tặng phẩm của người yêu)

Trong Trăng non, so sánh với trường liên tưởng mở rộng là hình thức nghệ

thuật cơ bản mang lại nét độc đáo riêng cho cả tập thơ khi đi vào thể hiện sự kì diệu, tươi

đẹp của thế giới trẻ thơ. Hình thức so sánh này không chỉ mang đến cho câu thơ một khả

năng truyền cảm mà còn có khả năng gợi cảm, khơi dậy trí tưởng tượng của người tiếp

nhận:

- Hỡi cây đa tóc râu tua tủa đứng bên bờ ao, ngươi có quên đứa bé, như những

con chim làm tổ trên cành rồi bỏ ngươi hay không?

… Những người đàn bà mang bình ra ao kín nước, và cái bóng đen kếch xù của

ngươi đong đưa trên mặt ao như giấc ngủ cựa mình thức dậy.

Anh mặt trời nhảy múa trên những sóng lăn tăn như muôn ngàn con thoi tí hon

không ngừng dệt tấm thảm vàng.

( Cây đa)

( O you shaggy – headed banyan tree standing on the bank of the pond, have you

forgotten the little child, like the birds that have nested in your branches and left you?

… The women would come to fill their jar in the pond, and your huge black

shadow would wriggle on the water like sleep struggling to wake up.

Sunlight danced on the ripples like restless tiny shuttles weaving golden

tapestry. ) [ 66, tr.72]

- Khi bụi mưa sụp xuống chân trời xa, và chớp lóe lên như một cơn đau nhức

nhối, chàng có nhớ bà mẹ bất hạnh bị nhà vua ruồng bỏ đang vừa lấy tay lau nước mắt vừa

quét chuồng bò, trong khi chàng rong ruổi qua sa mạc trong câu chuyện thần tiên?

( Đất trích )

( When the haze of the rain comes down in the distant sky, and lighting starts

up like a sudden fit of pain, does he remember his unhappy mother, abandoned by the king,

seeping the cow – stall and wiping her eyes, while he rides through the desert of Tepanter in

the fairy tale?) [ 66, tr.35]

Về thực chất, những so sánh trên đây không có gì mới lạ về cấu trúc nhưng lại

luôn có khả năng mang đến một cảm giác bất ngờ, tạo nên hứng thú thẩm mỹ cho người

tiếp nhận. Sức hấp dẫn và ý nghĩa của cái được so sánh phụ thuộc nhiều vào những hình

ảnh so sánh. Chẳng hạn như khi miêu tả cảnh hoàng hôn, Tagore đã sử dụng rất nhiều

những hình ảnh so sánh với sự liên tưởng thú vị:

- Cảnh mặt trời lặn mùa thu đã đến với tôi ở khúc đường quanh, trong chỗ

hoang vu, quạnh quẽ như một cô dâu lật tấm mạng lên đón nhận người yêu.

( Những đóa nhài đầu tiên)

( Autumn sunsets have come to me at the bend of a road in the lonely waste,

like a bride raising her veil to accept her lover. ) [ 66, tr.70]

- Tôi bước một mình trên con đường vắt ngang đồng khi hoàng hôn che giấu

những ánh vàng cuối cùng như một kẻ biển lận.

( Nhà)

( I paced alone on the road across the field while the sunset was hidding its

last gold like a miser.) [ 66, tr.1]

Cũng như nhiều thi phẩm khác của Tagore, Trăng non luôn thể hiện sự phóng

túng tự do, vượt qua mọi rào cản của vần điệu. Dòng cảm xúc của nhà thơ chảy tràn lên câu

thơ một cách tự nhiên, các hình ảnh so sánh nối tiếp trùng điệp với nhau tạo nên một thế

giới trẻ thơ nhiều sắc thái. Đa số các bài thơ đều sử dụng so sánh để tổ chức lời thơ: Em bé

thiên thần, Chung cuộc, Buổi sơ khai, Đám rước không ngơ, Ngày mưa, Cây đa, Nha,

Những đóa nhài đầu tiên, Bài hát của mẹ, Chú lái buôn, Đất trích, Khuynh hướng, Cung

cách của bé… Thậm chí có bài thơ chỉ có sáu câu nhưng trong đó đã có bốn câu được xây

dựng trên hình thức so sánh:

Họ la lối tranh giành, họ hoài nghi và tuyệt vọng, họ cãi cọ chẳng bao giờ

thôi.

Con ơi, hãy để đời con đến với họ như ngọn đuốc sáng, bền vững tinh khôi,

khiến cho họ say mê, im lời.

Họ độc ác trong tham lam và ghen tị, lời họ như những con dau giấu kín khát

máu người.

Con ơi hãy bước tới đứng giữa những tấm lòng quạu cọ và đoái nhìn họ với

cặp mắt hiền từ như cái an bình bao dung của buổi chiều phủ trên một ngày tranh đấu

Con ơi, hãy để họ thấy mặt con, và như thế hiểu nghĩa của muôn loài, hãy để họ

yêu con và như thế họ yêu thương nhau

Con ơi, hãy đến ngự trong lòng cái vô biên. Bình minh con mở rộng và cất cao

trái tim như một bông hoa nở, và hoàng hôn con cúi đầu yên lặng làm tròn sự thờ phượng

trong ngày.

( Em bé thiên thần)

( They clamour and flight, they doubt and despair, they know no end to their

wranglings.

Let your life come amongst them like a flame of light, my child, unflickering

and pure, and delight them into silence.

They are cruel in their greed and their envy, their words are like hidden

knives thirsting for blood.

Go and stand amidst their scowling bearts, my child, and let your gentle eyes

fall upon them like the forgiving peace of the evening over the strife of the day.

Let them see your face, my child, and thus know the meaning of all things; let

them love you and thus love each other.

Come and take your seat in the bosom of the limitless, my child. At sunrise

open and raise your heart like a blossoming flower, and at sunset bend your head and in

silence comeplete the worship of the day.) [ 66, tr.79]

Tóm lại, bằng việc vận dụng một cách sáng tạo thủ pháp so sánh truyền thống

trong thơ ca dân tộc, Tagore đã mang đến cho Trăng non một vẻ đẹp lung linh, kì diệu.

Trường liên tưởng “ vũ trụ hóa” trong thơ ông là sự sáng tạo độc đáo. Nhờ đó mà sự vật,

hiện tượng trong Trăng non mang những sắc màu mới lạ, mở rộng các tầng nghĩa hơn so

với thơ ca truyền thống.

3.3. Nhân cách hoá – Sự huyền diệu hoá thế giới trẻ thơ

Theo Từ điển văn học, nhân cách hoá ( personify ) là khái niệm chỉ một dạng đặc

biệt của ẩn dụ, chuyển những đặc điểm của con người sang những đối tương và hiện tượng

không phải người hoặc không có đặc tính của cơ thể sống. Dựa vào chức năng của biện

pháp nhân cách hoá trong ngôn từ nghệ thuật và sáng tác văn học, có thể phân chia các loại

nhân cách hoá như sau:

+ Nhân cách hoá “ như một kiểu tu từ, gắn với khả năng nhân cách hoá như là bẩm

sinh, vốn có ở mọi sinh ngữ đồng thời cũng gắn với truyền thống từ chương, truyền thống

của lời văn diễn thuyết, ở cấp độ này, nhân cách hoá vốn có trong mọi lời nói biểu cảm, ví

dụ như: gió thổi, con tim thì thầm…”[ 64, tr. 1252]

+ nhân cách hoá là “ loại ẩn dụ gần với lối tạo ra sự song hành, đối sánh về tâm lí:

sự sống của thế giới tự nhiên xung quanh bị cuốn vào và trở nên đồng cảm với đời sống tâm

hồn của nhân vật, được gán cho những dấu hiệu giống con người”[ 64, tr. 1252]. Cơ sở của

loại nhân cách hoá này bắt nguồn từ tư duy của thần thoại và cổ tích : thông qua sự “đồng

chủng” với thế giới người để khám phá bộ mặt của thiên nhiên. Còn ở thơ ca dân gian trữ

tình và thành văn, thông qua những biểu hiện nhân cách hoá của thiên nhiên để phát hiện

diện mạo và những vận động tâm hồn của con người.

Ví dụ:

“Sốt ruột, nóng lòng vì chờ đợi, các em đã phá ngục tù thoát mình trước khi mùa

Đông ra đi. Người vô hình đứng nhìn đã bắt gặp tầm mắt các em đang đứng bên vệ đường,

ôi các em nõn nà, nhí nhảnh, hoa hồng, hoa nhài từng toán đổ ra vừa chạy vừa thở hổn hển.

Các em là người đầu tiên dẫn mình đến vùng đất tử thần, màu sắc, hương thơm nơi

các em náo động không gian. Các em cười, xô đẩy, chen, lấn, ưỡn ngực, vươn mình rồi gục

ngã, thân chất thành đống cao”.

( Bài 52, Tặng phẩm của người yêu )

+ nhân cách hoá “với tư cách là tượng trưng, gắn trực tiếp với tư tưởng chính của

tác phẩm và được tạo nên từ hệ thống những nhân cách hoá cục bộ” [64, tr. 1252]

Ví dụ:

Sương mù, cũng như tình yêu

Chơi đùa trên lòng những quả đồi

Và đem lại những vẻ đẹp huy hoàng đột ngột

( Bài 74, Những con chim bay lạc)

Trong thi pháp thơ ca cổ điển Ấn Độ, biện pháp nhân cách hoá không hề tồn tại.

Với người Ấn Độ, vốn dĩ thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó. Mang trong mình tất

cả những đặc tính người, thiên nhiên là người bạn thân thiết luôn song hành cùng con người

Ấn Độ. Thế nhưng, với Trăng non, một tác phẩm văn học thiếu nhi, nhân cách hóa lại là

một thủ pháp nghệ thuật thể hiện thành công tính thích tưởng tượng của trẻ thơ. Bằng tưởng

tượng, mọi vật trong mắt trẻ đều có linh hồn, đều diệu kì, sống động. Ở đây, chúng tôi xin

được giải mã một số hình ảnh thiên nhiên được nhân cách hóa một cách cao độ, trở thành

những hình ảnh tượng trưng nhiều ý nghĩa trong cả tập thơ.

* Hoa ( hương hoa, trường hoa)

Từ xưa đến nay, hoa có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tinh thần của con

người. Ngôn ngữ biểu tượng nói rằng: “ bông hoa thường hiện ra như một khuôn mặt hình

mẫu gốc tâm hồn, một trung tâm tinh thần [3, tr.417], ” là những đức tính của tâm hồn, bó

hoa là sự hoàn hảo của tinh thần”[ 3, tr.427].

Với thi nhân, hoa là hiện thân của vẻ đẹp thanh khiết và tao nhã nhất, là ngôn

ngữ của tình yêu.

M. Basho, thi hào vĩ đại của quần đảo hoa anh đào ( Nhật Bản), đã nhìn thấy ở

loài hoa dại nazuna nhỏ bé một vẻ đẹp giản đơn và cao nhã. Trong tâm hồn Basho, hoa là

tặng vật của tình yêu, là kết tinh kì diệu của đất trời:

Ôi đóa nazuna

Đôi mắt tôi nhìn kĩ

Bên hàng giậu nở hoa [7, tr.165]

Nhà thơ trữ tình Batu7, S. Sadi với kiệt tác Vườn hồng, lại nhìn thấy ở hoa sự

cao quý, bình an. Hoa là tình yêu và sự bất tử:

Nhiều lần ta đã vượt qua sự đau đớn

Và cười với những hoa hồng trong vườn ta [6, tr. 114]

Trong Trăng non của R. Tagore, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp trong sáng của trẻ

thơ. Ở bài Trường hoa ( The flower school) , hoa là người bạn cùng trang lứa với trẻ, cũng

biết đến trường, cũng học hành vui chơi:

Gió đông thổi tới lững thững trên dãi đất hoang trổi kèn trong rặng tre

Khi ấy, từng bầy hoa không biết từ đâu chợt nảy sinh, đến nhảy múa say mê

trong cỏ

Mẹ ạ, con nghĩ rằng thực bụng hoa cũng đi học trong lòng đất

Lớp của chúng kín cửa và bông nào muốn ra sân chơi sớm thì thầy giáo bắt đứng

một xó.

Mùa mưa tới là kì nghỉ hè của chúng

Cành chen nhau trong rừng, lá xào xạt trong gió dại, sấm vỗ tay reo mừng, và

những hoa con ùa ra với áo hồng, vàng hay trắng toát.

Mẹ có biết không, nhà chúng ở trên trời cùng với muôn sao.

Mẹ có thấy không, chúng hăm hở về trời xiết bao? Mẹ có biết tại sao chúng vội

vã thế không?

Hẳn là con cũng đoán ngay được chúng giơ tay đón ai, chúng cũng có mẹ như

con có vậy.

Bằng nghệ thuật nhân cách hoá, trẻ đã thổi hồn vào cỏ cây, hoa lá, khiến thế giới

cỏ cây cũng rộn ràng sự sống. Không chỉ một hai sinh linh mà từng bầy hoa cũng biết đến

trường, cũng học hành vui chơi như trẻ ( Mother, I really think the flower go to school

underground. They do their lesson with doors shut, and if they want to come out to play

before it is time, their master makes them stand in a corner) [66, tr. 45] . Điều kì diệu nhất

là hoa cũng có mẹ, mẹ hoa cũng đón hoa mỗi lúc tan trường, cũng yêu thương hoa chân

thành, tha thiết ( I can guess to whom they raise their arms: they have their mother as I have

my own)[ 66, tr. 46] . Ở bài thơ này , với thủ pháp nhân cách hóa, hình ảnh hoa đã trở thành

hiện thân của trẻ: hoa là trẻ thơ và trẻ thơ cũng là những bông hoa đẹp nhất. Tưởng tượng

mình là một đóa Chămpa, trẻ đã thể hiện tình thương của mình dành cho mẹ:

Giá con trở thành một đoá hoa Chămpa

Chỉ để chơi thôi

Và mọc trên một cành cây cao nọ

Và reo cười đung đưa trong gió

Và nhảy múa trên những lá non vừa mới nhú ra

Thì mẹ sẽ nhận được ra con không hở mẹ

Mẹ sẽ gọi: bé ơi, con đâu rồi?

Và con sẽ cười thầm, lặng im không nói

Con sẽ len lén mở cánh cửa rình xem mẹ đang làm…

( Hoa Chămpa )

Vừa là một hình ảnh tượng trưng, hoa Chămpa còn được nhân cách hoá như một

đứa trẻ đùa vui cùng mẹ ( Supposing I became a champa flower, just for fun, and grew on a

branch high up that tree, and shook in the wind with laughter and danced upon the newly

budded leaves, would you know me, mother?[66, tr. 29]). Bằng mùi hương dịu ngọt và cái

bóng nhỏ xíu của mình, trẻ đã đến bên mẹ trong một dung mạo mới ( When after the midday

meal you sat at the window reading Ramayana , and the tree`s shadow fell over your hair

and your lap, I should fling my wee little shadow on to the page of your book, just where

you were reading [66, tr. 29]):

Khi sau buổi cơm trưa mẹ ngồi bên cửa sổ

Đọc bộ Ramayana

Và bóng cây toả xuống tóc, xuống đầu gối mẹ

Con sẽ rủ cái bóng nhỏ xíu của con lên trang sách

Đúng vào nơi mẹ đang đọc

Nhưng mẹ có đoán ra đó là cái bóng tí hon của con không mẹ?

Như vậy, ở góc độ nhân hóa, hoa trong Trăng non mang một sinh mệnh mới, là

người bạn song hành thân thiết với trẻ thơ. Bông hoa, trường hoa, hương hoa đều là những

hình ảnh gắn liền với kí ức tuổi thơ, thể hiện cao độ tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý. Với

Tagore, trẻ thơ là những đóa hoa đẹp nhất mà Tạo hóa đã ban tặng con người.

*Biển, sông, mây, sóng

Biển, sông, mây, sóng là những hiện tượng thiên nhiên luôn có sức hấp dẫn

mạnh mẽ đối với trẻ thơ. Hình ảnh biển vô biên, sông nước, mây trời bao la luôn gợi lên

trong lòng các em niềm ước mơ khao khát về một thế giới tự do, tươi đẹp. Trong bài Trên

bờ biển ( On the seashore), Tagore đã đối lập sự hồn nhiên vô tư của trẻ em với sự tính

toán, khó nhọc của người lớn trước biển – “ bến bờ những thế giới vô biên”. Như một người

bạn song hành cùng trẻ, biển cũng vô tư trước những toan tính của con người:

Biển trào lên với những trận cười giòn giã

Và soi những nụ cười trên bãi cát xanh xao.

Những con sông đi gieo mầm chết chóc

Hát những bài ca vô nghĩa cho các em

Chẳng khác nào một người mẹ hát ru

Khi đưa đẩy chiếc nôi con nhỏ

Biển đùa chơi với bọn trẻ con

Và soi những nụ cười trên bãi cát xanh xao

( The sea surges up with laughter, and pale gleams the smile of the sea –

beach. Death- dealing waves sing meaningless ballads to the children, even like a mother

while rocking her baby`s cradle. The sea plays with children and pale gleams the smile of

the sea-beach)[ 66, tr.3]

Nụ cười của bờ biển ( the smile of the sea-beach) là hình ảnh tượng trưng cho

sự hồn nhiên, trong sáng của trẻ thơ. Hòa mình vào biển, trẻ tìm thấy được niềm vui, sự tự

do tuyệt đối. Ở bài Mây và sóng, biển còn là hình ảnh tượng trưng cho mẹ và tình mẫu tử

thiêng liêng:

Con sẽ là sóng, mẹ sẽ là một bờ biển lạ lùng

Con sẽ lăn, lăn, lăn mãi

Và vỗ vào gối mẹ cười vang

Hình ảnh nhân hóa mẹ là biển, con là sóng thể hiện thành công sự gắn bó, hòa

quyện của tình mẹ và con. Sự mời gọi hấp dẫn của bạn mây và sóng không làm em bé quên

được mẹ. Dù cho mây “ chơi với buổi sớm mai vàng”, “chơi với vầng trăng bạc” (“we play

with the golden dawn, we play with the silver moon” [ 66, tr.27]), “ sóng hát từ sớm mai đến

tối” ( “We sing from morning till night” [ 66, tr. 27]) thì em bé vẫn muốn về với mẹ:

Mẹ ơi, những người sống trên mây đang gọi con:

“ Chúng ta chơi đùa từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà

Chúng ta chơi với buổi sớm mai vàng

Chúng ta chơi với vầng trăng bạc.

… Những người sống trong sóng nước gọi con

“ Chúng ta hát từ sớm mai đến tối

Chúng ta ngao du khắp nơi này nơi nọ

Mà không biết mình đã từng qua những nơi nào”

... Con bảo: “ Buổi chiều mẹ tôi luôn muốn tôi ở nhà với mẹ

Làm sao tôi có thể bỏ mẹ mà đi được”

Thế là họ cười, múa nhảy rồi đi qua.

Là những hiện tượng thiên nhiên được nhân cách hóa, mây và sóng là hình ảnh

tượng trưng cho niềm mơ ước của con người: tự do và nguồn vui. Thế nhưng, đối với trẻ

thơ, ở đâu có mẹ ở đó mới có nguồn vui và sự tự do. Mẹ không chỉ là biển vô biên, là vũ trụ

vĩnh hằng mà mẹ còn là điểm tựa yên bình của cuộc đời con: “Dòng sông vừa chảy xiết vừa

ca/ Và đập tan hết những gì ngăn cản/ Nhưng núi thì ở lại nhớ mong/ Và nhìn theo dòng

sông với tấm lòng trìu mến” (Món quà ).

Trong Trăng non những hiện tượng thiên nhiên được nhân cách hóa đã làm bật

nổi tư tưởng triết lí của Tagore: sự hòa nhập, bình đẳng giữa con người với thiên nhiên. Với

Tagore, thiên nhiên là một sinh linh đặc biệt có linh hồn, luôn bên cạnh trẻ như một người

mẹ bao dung, vĩ đại:

Gió mừng mang đi tiếng chuông leng keng nơi vòng chân con

Mặt trời mỉm cười ngắm con tắm gội

Bầu trời canh chừng khi con ngủ say trong tay mẹ, và ban mai nhón bước

tới giường hôn mắt con. Gió mừng mang đi tiếng chuông leng keng nơi vong chân con.

Cô tiên chiêm bao đang đến với con bay qua bầu trời hoàng hôn

Bà mẹ đời ngồi bên con trong trái tim mẹ. Kẻ dạo nhạc cho các vì sao

đang đứng thổi sáo ở cửa sổ con.

( Đám rước không ngờ)

Bằng sự hào phóng của mình, thiên nhiên đã ban tặng mọi yêu thương cho trẻ.

Hòa nhập vào thiên nhiên, trẻ tìm thấy được niềm vui, sự bình yên, hạnh phúc. Trong bài

Cây đa, vì mong ước được hòa mình vào thiên nhiên tươi đẹp, đứa trẻ đã để trí tưởng tượng

của mình tự do bay bổng:

Hỡi cây đa tóc râu tua tủa đứng bên bờ ao, ngươi có quên đứa bé, như

những con chim làm tổ trên cành rồi bỏ ngươi không?

Ngươi không còn nhớ sao, nó ngồi bên cửa sổ trố mắt nhìn đám rễ lòa

xòa đâm xuống đất?

Những người đàn bà mang bình ra ao kín nước, và cái bóng đen kếch xù

của ngươi đong đưa trên mặt ao như giấc ngủ cựa mình thức dậy.

Anh mặt trời nhảy múa trên những sóng lăn tăn như muôn ngàn con thoi tí

hon không ngừng dệt tấm thảm vàng.

Đôi vịt cưỡi bóng bơi bên bờ sậy, và đứa bé ngồi im nghĩ ngợi.

Nó ao ước thành gió thổi qua cành đa lao xao, thành bóng đa theo ngày

chạy dài trên mặt nước, thành chim đậu trên cành cao tít, hay thành đôi vịt bồng bềnh giữa

bóng đám sậy lung linh.

Ở góc độ so sánh và nhân hóa, những hiện tượng thiên nhiên trong mắt trẻ thơ

vô cùng kì diệu. Hình ảnh cái bóng đen của cây đa “ đong đưa trên mặt ao như giấc ngủ cựa

mình thức dậy” ( “your huge black shadow would wriggle on the water like sleep struggling

to wake up”[ 66, tr. 72] ), hay “ ánh mặt trời nhảy múa trên những sóng lăn tăn như muôn

vàn con thoi tí hon không ngừng dệt tấm thảm vàng” ( “Sunlight danced on the ripples like

restless tiny shuttles weaving golden tapestry” [ 66, tr. 72]) đã đem đến cho người đọc

những liên tưởng bất ngờ, thú vị, thể hiện sự am hiểu tư duy, tâm lí trẻ thơ sâu sắc của

Tagore. Trí tưởng tượng phong phú của ông đã làm cho những sự vật, hiện tượng được

nhân hóa trong Trăng non mang vẻ đẹp huyền ảo đậm sắc màu cổ tích:“ Ai đã ăn cắp giấc

ngủ trên đôi mắt bé của ta?/…Ta sẽ chiếm tất cả và mang về nhà/ Ta sẽ buộc đôi cánh hắn

thật chặt/ Và sẽ đặt hắn lên bờ sông/ Và để hắn chơi trò câu cá/ với một cây sậy giữa đám

cói và lùm hoa súng/ Khi chiều xuống và chợ đã tan / Và trẻ con trong làng đã ngồi lên đùi

mẹ/ thì những con chim đêm hét vào tai hắn, những lời mỉa mai, chế giễu: “ Giờ, ngươi sẽ

ăn cắp giấc ngủ của ai nào?”(Who stole sleep from baby`s eyes? …I would plunder it all,

and carry it home. I would blind her two wings securely, set her on the bank of the river,

and then let her play at fishing with a reed among the rushes and water – lilies.When the

marketing is over in the evening, and the village sit in their mother`s laps, then the night

birds will mockingly din her ears with: “ Whose sleep will you steal now?” [66, tr.12]

Nhiều người cho rằng thơ Tagore hiểu khó do ông sử dụng rất nhiều những

hình ảnh tượng trưng. Vì thế, trong một tập thơ viết cho thiếu nhi, nhân cách hóa những sự

vật, hiện tượng cụ thể sẽ giúp cho việc hiểu tư tưởng triết lí của ông được dễ hơn. Chẳng

hạn như trong bài Bao giờ và vì sao, ý niệm cuộc sống là nguồn vui vì tất cả hương thơm,

mật ngọt, màu sắc, âm nhạc và tình yêu đất trời sinh ra là để dâng tặng con người đã được

Tagore thể hiện qua những hình ảnh thiên nhiên được nhân hóa cụ thể:

Khi mẹ mang cho con những đồ chơi nhiều màu sắc con ơi

Khi mẹ hát cho con nhảy múa

Mẹ mới hiểu vì sao có nhạc trong cành lá

Và vì sao nước lại gửi những bản đồng ca

Cho lòng đất lắng nghe

Vâng, khi mẹ đưa những của ngọt vào bàn tay ham hố của con

Mẹ hiểu vì sao trong cái cốc của hoa có mật và vì sao trái cây chứa đầy vị

ngọt bên trong.

Như đã trình bày ở phần trên, trong đời sống văn hóa Ấn Độ, vốn dĩ thiên nhiên

đã có đời sống riêng của nó. Không cần sử dụng nhân cách hóa, thiên nhiên cũng có linh

hồn. Thế nhưng, trong Trăng non, dưới góc độ của người tiếp nhận, việc sử dụng nhân cách

hóa lại là một hình thức nghệ thuật cơ bản tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho cả tập thơ. Với hình

thức là một tác phẩm văn học thiếu nhi, nhân cách hóa đã mang đến cho Trăng non một sắc

màu huyền diệu.

***

So sánh và nhân cách hóa là hai hình thức nghệ thuật cơ bản trong Trăng non

có ảnh hưởng rất lớn đến dấu ấn phong cách thơ viết cho thiếu nhi của R. Tagore. Bằng việc

vận dụng sáng tạo hai hình thức nghệ thuật này, Tagore đã đem đến cho người đọc những

cảm nhận mới mẻ về thế giới trẻ thơ, về những vấn đề triết lí : con người, cuộc sống; về sự

giải thoát tâm linh để đạt đến sự hiền minh… Với Trăng non, Tagore là nhà thơ của nhi

đồng và không ai có thể phủ nhận được tài năng của ông trong lĩnh vực này.

KẾT LUẬN

1. Trăng non là một trong số những tác phẩm văn học thiếu nhi tiêu biểu của văn

học Ấn Độ, có thể đặt ngang hàng với những tập thơ thiếu nhi nổi tiếng trên thế giới. Với

tập thơ này, Tagore không chỉ là nhà thơ triết luận, nhà thơ tư tưởng, nhà thơ trữ tình tinh tế

bậc nhất mà còn là nhà thơ của nhi đồng, người am hiểu tinh tế và yêu thương trẻ thơ sâu

sắc.

2. Qua những hình ảnh thiên nhiên tượng trưng nhiều ý nghĩa, Tagore đã thể hiện

thành công tâm hồn thuần khiết, thánh thiện của trẻ thơ, tình mẫu tử thiêng liêng, sâu đậm

theo quan niệm triết lí của riêng ông: hòa nhập vào thiên nhiên tươi đẹp, tâm hồn trẻ thơ đạt

tới sự hiền minh.

Trong Trăng non, Mẹ và thiên nhiên là những biểu tượng vĩnh hằng luôn song hành

cùng trẻ thơ. Đến với mẹ trẻ tìm được tình thương và đến với thiên nhiên trẻ có được những

niềm vui bất tận. Nếu mẹ ban cho trẻ sự sống ở cõi đời này thì thiên nhiên với những sắc

màu của nó đã đem đến cho trẻ cái nhìn mộng tưởng tươi đẹp về cuộc sống. Chính tình yêu

thương bao la của mẹ và sự diệu kì vô tận của thiên nhiên đã mở ra cho trẻ giữa cõi đời trần

thế này một thiên đường thực sự.

Hình ảnh Con người –Thượng đế của Tagore đã được tái hiện và khẳng định lại

qua hình ảnh đứa con, vị “chúa đời” của mẹ. Với Tagore, tâm hồn thuần khiết của trẻ thơ và

tình mẫu tử thiêng liêng cao quý là cội nguồn đem đến sự thánh thiện cho thế giới này.

3. So sánh và nhân cách hoá là hai hình thức nghệ thuật nổi bật trong Trăng non, thể

hiện cá tính sáng tạo độc đáo của Tagore. Ông tiếp nhận hai thủ pháp này từ thi pháp thơ ca

truyền thống Ấn Độ và đã sáng tạo nên những hình tượng thơ mới với trường liên tưởng đặc

biệt. So sánh và nhân cách hoá giúp nhà thơ chuyển tải hết tầm chiều sâu tư tưởng triết lí:

Tâm hồn trẻ thơ thánh thiện, tình mẫu tử cao quý, và quan điểm giáo dục chủ đạo. Qua

những liên tưởng so sánh và nhân cách hoá mang tầm vóc vũ trụ, tình mẫu tử đã được vũ

trụ hoá vĩnh hằng và bất tử.

Có rất nhiều dạng thức so sánh, nhân cách hoá được thể nghiệm trong Trăng non:

không chỉ là so sánh, nhân cách hoá trong phạm vi câu thơ, đoạn thơ mà còn mở rộng trên

cả bình diện toàn bài thơ. Với dạng thức này, đối tượng được so sánh, nhân cách hoá đã trở

thành những hình ảnh tượng trưng mang nhiều tầng ý nghĩa, thể hiện những tư tưởng triết lí

của nhà thơ về con người và cuộc sống.

4. Sự nghiệp thơ ca của Tagore với ba nội dung thơ: thơ triết luận, thơ trữ tình và thơ

viết cho trẻ em đã khẳng định vị trí của ông trên văn đàn thế giới. Ở nội dung nào, nhà thơ

cũng để lại dấu ấn và phong cách riêng độc đáo. Thơ ca hiện đại Ấn Độ chịu ảnh hưởng lớn

của Tagore từ tư tưởng triết lí : niềm tin vào phẩm giá con người, sự tôn thờ thiên nhiên…

cho đến hình thức thể hiện: sử dụng cách tân hình thức thơ ca truyền thống, phá bỏ những

quy ước thơ giả tạo và dùng nhiều hình thái tu từ... Với những thi phẩm của mình, R.

Tagore đã trở thành người cách tân, ngôi sao sáng trên thi đàn Phục hưng Ấn Độ: “Ông

được gọi là Leonardo da Vinci của thời Phục hưng Ấn Độ. Nhưng ông không phải là con

người chỉ biết mơ mộng, ngồi nhàn rỗi trong chiếc ghế dựa của mình mà ca hát về vẻ đẹp

thiên nhiên và bí ẩn của đời sống con người… Ông là, như Gandhi vẫn gọi rất đúng, người

lính canh vĩ đại của nhân gian mà đôi mắt đồng cảm luôn luôn theo dõi định mệnh của Ấn

Độ và thế giới” ( Tatsue Morimoto).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Lại Nguyên An (1999), Thuật ngữ văn học, nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

2. Phạm Thủy Ba ( 1987), Ramayana 3 tập, nxb Văn học, Hà Nội.

3. J. Chevalier, A. Gheerbrant ( 1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, nxb

Đà Nẵng.

4. Phan Nhật Chiêu, Hoàng Hữu Đản ( 1991), Tagore – Người tình của cuộc đời,

Nxb Hội nhà văn.

5. Nhật Chiêu ( 1991), Những ngả đường sáng tạo của R. Tagore – Tạp chí văn,

số 3.

6. Nhật Chiêu,(2002), Câu chuyện văn chương phương Đông, nxb Giáo dục

7. Nhật Chiêu, (2003), Nhật Ban trong chiếc gương soi, nxb Giáo dục.

8. Doãn Chính, Lương Minh Cừ, ( 1991), Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, nxb Đại

học và Cao đẳng chuyên nghiệp, Hà Nội.

9. Chuyên đề văn học Ấn Độ (1996), Văn học nước ngoài, số 4.

10. Xuân Diệu( 1981), 120 năm ngày sinh của R. Tagore, Báo Nhân dân ngày 8

tháng 5.

11. Trần Kim Dung (1995), Yếu tố huyền ảo trong tập thơ Trăng non của

R. Tagore ( Luận văn tốt nghiệp cử nhân), Đại học sư phạm Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Ngọc Diệp (1997), Tagore với trẻ thơ qua tập Trăng non ( Luận

văn tốt nghiệp cử nhân), Đại học sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

13. Will Durant (2003), Lịch sử văn minh Ấn Độ ( Nguyễn Hiến Lê dịch), nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

14. Xuân Diệu ( 1999), Tác phẩm văn chương và lao động nghệ thuật, nxb Giáo

dục, Hà Nội.

15. Hữu Đạt ( 1998), Phong cách học Tiếng Việt hiện đại, nxb Giáo dục.

16. Nguyễn Tấn Đắc ( 2002), Văn hóa Ấn Độ, nxb Tp. HCM.

17. Cao Huy Đỉnh ( chủ biên), (1961), Ra-vin –đơ-ra-nat Ta-go-rơ, nxb Văn hóa,

Hà Nội

18. Cao Huy Đỉnh (1995), Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa trong thơ R. Tagore, Tạp

chí văn học, số 8.

19. Cao Huy Đỉnh, Phạm Thủy Ba (1979), Sử thi Mahabharata, nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

20. X. Exênhin (1995), Thơ, nxb Văn học, Hà Nội.

21. I. Gandhi ( 1984), Tư tưởng Ấn Độ, Văn học nước ngoài

22. M. K. Gandhi ( 1997), Tự thuật, nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

23. Nguyễn Thị Bích Hải ( 1995), Thi pháp thơ Đường, nxb Thuận Hóa, Huế.

24. Nguyễn Văn Hạnh( 2000),Thiên nhiên trong Thơ Dâng,Tạp chí văn học, số 9

25. Nguyễn Văn Hạnh ( 2001), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học sư

Phạm Hà Nội.

26. Đỗ Thu Hà (2005), Tagore – Văn và người, nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

27. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ( 2006), Từ điển thuật ngữ văn

học, nxb Giáo dục, Tp. HCM.

28. V, Huygo ( 1986), Tuyển tập thơ, nxb Văn học, Hà Nội.

29. Nguyễn Hùng Hậu (1996), Nét đặc trưng của tư duy Ấn Độ, Văn học nghệ

thuật, số 4.

30. Lê Từ Hiển ( 2001), Rabindranath Tagore – Họa sĩ vẽ bụi đất và ánh sáng

mặt trời, Tạp chí văn học số 6.

31. Nghiêm Xuân Hồng ( 1966), Biện chứng và giải thoát trong tư tưởng Ấn Độ,

nxb Quan điểm, Sài Gòn.

32. Nguyễn Văn Hoa, Nguyễn Ngọc Thiện ( 1997), Tuyển tập thơ văn xuôi, nxb

Văn học, Hà Nội.

33. Nguyễn Mạnh Hiếu ( 2001), Văn học thiếu nhi, Trường Đại học Sư phạm Tp.

Hồ Chí Minh.

34. Phan Thu Hiền ( 2006), Thi pháp học cổ điển Ấn Độ, nxb Khoa học xã hội.

35. Kalidax ( 2006), Sơkuntơla ( Cao Huy Đỉnh dịch), nxb Sân khấu, Hà Nội.

36. Trần Đăng Khoa ( 1995), Góc sân và khoảng trời, nxb Giáo dục.

37. Nhiều tác giả, Mười nhà thơ thế kỉ ( 1982), ( phần “ R. Tagore”, tr. 232 -256),

nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn.

38.Trần Thị Hoài Phương ( 2006), Nghệ thuật so sánh trong tập thơ Trăng non

của Tagore(Luận văn tốt nghiệp cử nhân),Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

39. Đào Xuân Quý ( 1979), Thơ R. Tagore, nxb Văn học, Hà Nội.

40. Đào Xuân Quý ( 1980), Mấy điều suy nghĩ nhân đọc thơ Ấn Độ, Tạp chí văn

học số 5.

41. Đào Xuân Qúy ( 1981), R. Tagore, nhà thơ trí tuệ muôn màu, Báo văn nghệ

số 21.

42. Đào Xuân Quý ( 2003), Nhà thơ và cuộc sống, nxb Quân đội nhân dân, Hà

Nội.

43. Xuân Quỳnh ( 1998), Thơ và đời, Nxb Văn hóa.

44. Trần Đình Sử ( 1993), Giáo trình thi pháp học, Trường Đại học Sư phạm, Tp.

Hồ Chí Minh.

45. R. Tagore ( 2004), Tuyển tập tác phẩm 2 tập ( Lưu Đức Trung tuyển chọn và

giới thiệu), nxb Lao động, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây

46. R. Tagore ( 1997), Mảnh trăng non ( Phạm Bích Thủy, Phạm Hồng Dung

dịch), nxb Đà Nẵng.

47. R. Tagore ( 2001), Tâm tình hiến dâng ( Đỗ Khánh Hoan dịch), nxb Đà Nẵng

48. R. Tagore ( 2001), Tặng vật ( Đỗ Khánh Hoan dịch), nxb Đà Nẵng

49. Lương Duy Thứ ( chủ biên), Phan Nhật Chiêu, Phan Thu Hiền ( 2000), Đại

cương văn hóa phương Đông, nxb Giáo dục.

50. Nguyễn Thị Bích Thúy ( 1998), Chất trí tuệ – điểm sáng thẩm mĩ trong thơ R.

Tagore, Tạp chí văn học, số 4

51. Nguyễn Thị Bích Thúy ( 2001), R. Tagore và lời tụng ca tình yêu, Văn hóa

nghệ thuật.

52. Nguyễn Thị Bích Thúy ( 2002), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học sư

phạm Hà Nội.

53. Vân Thanh (1997), Gorki, người đặt nền móng cho văn học thiếu nhi, Tạp chí

văn hóa số 5.

54. Nguyễn Anh Tuyết ( 1998), Hãy trân trọng trí tưởng tượng của trẻ thơ, Tạp

chí vì trẻ thơ, số 99.

55. Lưu Đức Trung ( 1984), Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa trong thơ của R.

Tagore, Nhà thơ lớn Ấn Độ, Báo Văn nghệ Tp. HCm ngày 15 tháng 12.

56. Lưu Đức Trung ( 1986), Thơ tình yêu của R. Tagore, Báo Văn nghệ, TP.

Hồ Chí Minh.

57.Lưu Đức Trung ( 1996), Văn học Ấn Độ ở Việt Nam, Văn học nước ngoài, số 4

58. Lưu Đức Trung ( 1998), Vài nét về truyện ngắn R. Tagore, Báo Văn nghệ,

số 26.

59. Lưu Đức Trung ( 2001), Văn học Ấn Độ, nxb Giáo dục.

60. Lưu Đức Trung ( chủ biên), ( 2003), Chân dung các nhà văn thế giới, nxb

Giáo dục.

61. Lưu Đức Trung ( 2006), Kịch Tagore, Nghiên cứu văn học.

62. Cù Đình Tú ( 2002), Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt, nxb Giáo

dục.

63. V. A. Xukhômlinxki ( 1983), Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ, nxb Giáo dục.

64. Nhiều tác giả ( 2004), Từ điển Văn học ( Bộ mới), nxb Thế giới.

65. Nguyễn Phương Liên ( 2006), Thế giới trẻ em trong sáng tác văn chươn

Tagore ( Luận văn cao học), Trường Khoa học và xã hội nhân văn, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

Tiếng Anh

66. Tagore .R ( 1965), The Cressent moon, Mac Millan and co limited.

67.Tagore. R ( 1970), Song offerings, Mac Millan and co limited.

68.Tagore. R ( 1970), The Gardener, Mac Millan and co limited.

69 .Dr. Sukumar Sen, History of Bengali literature, Shalitya Akademi New Delhi.