BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN AN THỤY
THẾ GIỚI TRẺ THƠ TRONG TRĂNG NON CỦA R.TAGORE
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài M số: 602230
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THUÝ
Thành Phố Hồ Chí Minh- 2007
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Ấn Độ là một trong những nền văn hoá lớn của nhân loại, có ảnh hưởng rất nhiều đến
các nước khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Văn hoá Ấn Độ mang tính triết lí
và nhân văn sâu sắc, đạt nhiều thành tựu và vươn đến những đỉnh cao rực rỡ ở nhiều thể
loại.
1.2. Một trong những đỉnh cao của văn học Phục hưng Ấn Độ là đại thi hào Rabindranath
Tagore (1861- 1941). Ông được mệnh danh là “ ngôi sao sáng của Ấn Độ phục hưng”, “
người lính canh vĩ đại” của đất nước Ấn Độ.
Sau hơn bảy mươi năm lao động miệt mài, R. Tagore đã để lại cho nhân loại một di
sản đồ sộ các tác phẩm văn học nghệ thuật phong phú và đa dạng: 52 tập thơ, 42 vở kịch,
12 tiểu thuyết, hàng trăm truyện ngắn, hơn 2000 ca khúc( trong đó có quốc ca Ấn Độ), 63
tập tiểu luận và gần 3000 nghìn bức tranh. Ông được coi là biểu tượng của văn hoá Ấn Độ.
Với những thành tựu và đóng góp cho văn học dân tộc, ông đã tạo dựng nên một thời đại
Tagore bên cạnh các khái niệm thời đại Vê-đa, thời đại sử thi... M. Gandhi tụng xưng ông là
Gurudêva – bậc Thánh sư vĩ đại, người dẫn dắt tinh thần và hướng dẫn tâm linh Ấn Độ.
Năm 1913, Tagore là người Châu Á đầu tiên được giải thưởng Nobel văn chương
cho tập Thơ Dâng ( Gitanjali). Với tập thơ này, ông được xem là một phát hiện của thơ ca
thế kỉ, là “ kì công thứ hai của tạo hoá sau Kalidasa” trong văn học Ấn, “ một biểu tượng vĩ
đại phối hợp trong mình hai nguồn tinh tuý Á – Au”.
1.3. Ở Viêt Nam, bạn đọc biết đến Tagore khá sớm nhưng không nhiều như họ đã từng biết
đến V. Hugo, Balzac, W. Shakespeare hay Lỗ Tấn… Tuy nhiên, từ năm 1984, sau những cố
gắng tâm huyết của nhiều nhà Ấn Độ học Việt Nam mà tiêu biểu là các giáo sư Cao Huy
Đỉnh, Lưu Đức Trung, văn học Ấn đã chính thức được đưa vào giảng dạy trong hệ thống
các trường trung học, cao đẳng, đại học, sau đại học… Riêng ở bậc trung học cơ sở, tác
phẩm được giới thiệu giảng dạy là bài thơ Mây và sóng, trích trong tập Trăng non. Đây là
tập thơ viết cho thiếu nhi , thuộc ba nội dung chính trong sáng tạo thơ ca của Tagore. Để
khám phá giá trị nghệ thuật của mảng thơ này , chúng tôi đã chọn đề tài luận văn “ Thế giới
trẻ thơ trong Trăng non của R.Tagore” nhằm hai mục đích:
Thứ nhất, có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về con ngườ,i tài năng và tư
tưởng nghệ thuật của Tagore. Ông không chỉ là “nhà thơ trí tuệ muôn màu”[42, tr. 217],
“nhà thơ tình nổi tiếng”[ 45, tr. 849] mà ông còn là nhà thơ của tuổi măng non, người thầy
vĩ đại của trẻ thơ Ấn Độ.
Thứ hai, góp phần thiết thực hơn cho công việc nghiên cứu và giảng dạy thơ
Tagore.
2. Lịch sử vấn đề:
Năm 13 tuổi, với tập thơ Bông hoa rừng in trên tạp chí Bharati ( 1876), R. Tagore
đã nổi tiếng trên văn đàn Ấn Độ. Đến năm 1913, khi Thơ Dâng được trao giải Nobel thì
Tagore thật sự trở thành một hiện tượng văn học của Ấn Độ và nhiều nước trên thế giới.
Năm 1909, Tagore xuất bản tập thơ viết cho trẻ em gồm 40 bài, có tên Sisu( trẻ thơ). Năm
1915, ông tiến hành dịch tập thơ từ tiếng Bengali sang tiếng Anh đặt tên là The Cressent
Moon ( Trăng non). Tờ The Golbe đã nhận xét tập thơ là: “a revelation more profound and
more subtle than that in the Gitanjali ( một sự khám phá sâu sắc và tinh tế, huyền ảo hơn
trong Thơ Dâng)[chuyển dẫn từ 65, tr.3], còn tờ The Nation của Anh thì nhận thấy đây là
“a vision of childhood which is only paralleded in our literature by the work of William
Blake” ( một trí tưởng tượng về tuổi thơ tương tự như những tác phẩm của William Blake
trong nền văn học của chúng ta) [ chuyển dẫn từ 65, tr. 3]. Như vậy, khi Trăng non ra đời,
nó đã mở ra một phương diện khác trong tài năng sáng tạo nghệ thuật của Tagore khiến cho
những nhà nghiên cứu, những độc giả hâm mộ thơ ông chú ý một cách đặc biệt đến thi
phẩm dành riêng cho trẻ thơ này. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi điểm qua một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu về tập thơ Trăng non ở Việt Nam.
2.1. Công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu Tagore học ở Việt Nam:
Từ những năm 1961, giáo sư Cao Huy Đỉnh, một dịch giả có uy tín về thơ Tagore,
khi viết lời giới thiệu cho bản dịch Thơ Tagore đã nhận xét khái quát về tập thơ Trăng non:
“ đó là những bài thơ hết sức hồn nhiên trong sáng, những bức tranh mĩ lệ về tâm lí nhi
đồng”[17, tr.29]. Theo Cao Huy Đỉnh, chính sự trong sáng, hồn nhiên của trẻ đã giúp
Tagore biểu hiện “ những triết lí về cuộc đời” một cách sâu sắc và tinh tế. Đồng thời ông
cũng nhấn mạnh đến đặc điểm nghệ thuật “ trí tưởng tượng phong phú” của Tagore “ đã
khám phá một thế giới thần tiên và nghệ sĩ trong tâm hồn em bé”[ 17,tr. 29] .
Nhận xét của nhà nghiên cứu, dịch giả Đào Xuân Quý chú ý đến “ ngôn ngữ thích
hợp và vô cùng phong phú” mà R. Tagore đã sử dụng trong Trăng non. Ông đã chỉ ra sự
khác biệt độc đáo của Tagore và V. Hugo trong những thi phẩm viết về trẻ thơ:
“ Nhà thơ Ấn Độ đi vào thế giới của trẻ con với một tâm trạng hoàn toàn khác biệt.
Thơ về trẻ em của Tagore trong sáng, hồn nhiên và chân thực. Ông tỏ ra am hiểu tâm hồn kì
diệu của các em và để mô tả cái thế giới trẻ thơ này, Tagore đã dùng ngôn ngữ thích hợp vô
cùng phong phú. Nhưng mặt khác, nếu đọc kĩ ta sẽ thấy rằng thơ viết cho trẻ em của Tagore
cũng là loại thơ có nhiều suy nghĩ và gắn liền với thực tiễn đau buồn của đất nước Ấn Độ”
[42, tr. 211].
Trong cảm nhận của PGS. Lưu Đức Trung, Trăng non lại là những ấn tượng sâu
sắc về cách sử dụng hình ảnh và những câu chuyện kể phù hợp với các em. Theo ông, chính
những hình ảnh, những câu chuyện mang âm hưởng cổ tích đã bộc lộ rõ sự am hiểu tâm lí
trẻ thơ của Tagore. Viết về Trăng non, ông còn nhấn mạnh đến thủ pháp đối lập, tương
phản được sử dụng trong tập thơ: “Tagore muốn đem tâm hồn trong sáng, bản chất Chân –
Thiện – Mĩ đang tồn tại trong trẻ thơ đối lập với bản chất xấu xa, đê tiện đáng khinh của xã
hội đồng tiền và quyền lực chi phối”[ 59, tr.158].
Tiếp nối với những nhận định của PGS. Lưu Đức Trung, trong bài “ Chất trí tuệ,
điểm sáng thẩm mĩ trong thơ Tagore”, TS. Nguyễn Thị Bích Thuý cũng phân chia thơ
Tagore thành ba nội dung lớn: thơ triết luận, thơ tình yêu và thơ viết cho trẻ em. Với mảng
thơ trẻ em, tác giả tập trung vào tập thơ The Cressent Moon
( Trăng non) và nhận xét: “ Với Trăng non, gồm 40 bài viết về trẻ em, Tagore được coi là
V.Hugo của Ấn Độ. Tình thương, tấm lòng trìu mến nâng niu của ông đối với trẻ em thấm
đẫm trong từng chữ, từng câu”[ 50, tr.59]. Đồng thời tác giả cũng dẫn lời của nhà thơ Ailen,
W. B. Yeats nói về Trăng non để khẳng định một lần nữa ý kiến của mình: “ Khi thi sĩ
nói đến trẻ thơ, đặc tính này như một phần của chính thi sĩ thì ta không rõ có phải thi sĩ nói
đến thánh nhân hay không?”[50, tr.59].
TS. Đỗ Thu Hà trong quyển “ Tagore, văn và đời” cũng tuân thủ cách phân chia
thơ Tagore thành 3 nội dung như trên. Tác giả đã đưa ra những nhận xét khái quát nhất về
nội dung và nghệ thuật của tập Trăng non: “ Tagore đã viết những bài thơ để trả lời và lí
giải cho các em với những lời thơ dịu dàng, thơ mộng và tràn đầy tình yêu thương, trong đó,
ông sử dụng một bút pháp đặc biệt. Ông là người đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa
hiện thực và huyền ảo: để thể hiện hiện thực Tagore đã dùng những huyền thoại, những
viền giát xung quanh hiện thực của cuộc sống, đem lại cho nó một chiều sâu có tầm vũ
trụ.”[26, tr.73]
Như vậy, qua những nhận xét của những dịch giả và những nhà nghiên cứu về thơ
Tagore ở Việt Nam, chúng ta phần nào có được cái nhìn tổng quát và toàn diện về tập thơ
Trăng non ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Các tác giả đều tập trung đề cao
tính hồn nhiên, trong sáng của thế giới trẻ thơ và chú ý nhấn mạnh đến những thủ pháp nghệ
thuật cơ bản mà Tagore đã sử dụng trong cả tập thơ như một sự gợi mở, định hướng cho
những nghiên cứu chuyên sâu về tập thơ Trăng non ở bậc Đại học và sau Đại học.
2.2. Các công trình nghiên cứu tập thơ Trăng non ở các trường Đại học:
Ở các trường Đại học, tập thơ Trăng non được khai thác dưới nhiều góc độ khác
nhau:
+ Luận văn thạc sĩ “ Thế giới trẻ em trong sáng tác văn chương Tagore” của
Nguyễn Phương Liên [65] đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng nghệ thuật đã được
Tagore sử dụng trong việc xây dựng thế giới trẻ em được thể hiện trong sáng tác văn
chương của Tagore ở cả 3 thể loại: thơ, văn xuôi và kịch. Tác giả khẳng định: “ nhiệm vụ
của chúng tôi là phân tích các tác phẩm thơ, văn, kịch của Tagore viết về trẻ em, chỉ ra
những thủ pháp khác nhau mà Tagore vận dụng trong 3 phương thức sáng tác ấy để thấy
được tính đa dạng trong tài năng Tagore”[65, tr.2].
+ Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Yếu tố huyền ảo trong tập thơ Trăng non của
R.Tagore” của Trần Kim Dung [ 11] quan tâm đến tác dụng của thủ pháp huyền ảo, làm
cho thế giới trong Trăng non lung linh, huyền diệu và giàu màu sắc hơn.
+ Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Tagore với trẻ thơ qua tập Trăng non” của
Nguyễn Thị Ngọc Diệp [ 12] chủ yếu đi vào khai thác nội dung tư tưởng, tình cảm của
Tagore dành cho trẻ nhỏ được thể hiện trong cả tập thơ.
+ Luận văn tốt nghiệp cử nhân “ Nghệ thuật so sánh trong tập thơ Trăng non” của
Trần Thị Hoài Phương [38] tập trung tìm hiểu nghệ thuật biểu hiện trong Trăng non qua thủ
pháp so sánh để làm bật nổi sự sáng tạo độc đáo của Tagore trong việc xây dựng một thế
giới trẻ thơ hồn nhiên và kì diệu.
* Nhìn chung, các công trình này chưa đặt việc nghiên cứu tập thơ Trăng non trong
một hệ thống một cách toàn diện.
Cho đến nay ở bậc sau đại học( thạc sĩ và tiến sĩ) chưa có luận văn nào đi sâu vào
nghiên cứu Thế giới trẻ thơ trong Trăng non của Tagore ở cả hai phương diện : nội dung
tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đề tài luận văn đi sâu vào nghiên cứu nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện
trong tập thơ Trăng non
Sử dụng nguyên bản tiếng Anh tập thơ The Cressent Moon do Tagore chuyển dịch
từ tiếng Bengali . Đối chiếu với tập thơ đã được dịch sang tiếng Việt
( gồm 40 bài) của các dịch giả Cao Huy Đỉnh, Đào Xuân Quý, Lưu Đức Trung… trong tập
2, quyển R. Tagore – Tuyển tập tác phẩm [ 45]. Bên cạnh đó, tham khảo thêm bản dịch
Mảnh trăng non [46] của Phạm Hồng Dung, Phạm Bích Thủy.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các tác phẩm viết về trẻ thơ của Tagore in trong
các tập Thơ Dâng, Hái quả, Người thoáng hiện… và trong các sáng tác khác của ông.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp thống kê – phân loại
Phương pháp này được sử dụng trong việc khảo sát văn bản, giúp thống kê phân loại
một cách tỉ mỉ, cụ thể, đầy đủ các hình tượng thơ, những thi pháp đặc trưng mà nhà thơ
dùng để chuyển tải ý tưởng của mình trong Trăng non.
4.2. Phương pháp phân tích
Qua việc phân tích những bài thơ tiêu biểu trong Trăng non để thấy được cái hay, cái
đẹp về nội dung tư tưởng và nghệ thuật biểu hiện trong cả tập thơ.
4.3. Phương pháp đối chiếu – so sánh
Đối chiếu – so sánh cách sử dụng nghệ thuật so sánh và nhân cách hoá giữa các nhóm
đề tài trong Trăng non và giữa Trăng non với các tập thơ khác của Tagore để thấy được nét
độc đáo riêng của một tập thơ thiếu nhi.
Đối chiếu – so sánh thơ thiếu nhi của R. Tagore với thơ thiếu nhi của các nhà thơ
khác để thấy được những sáng tạo riêng của R. Tagore.
5. Cấu trúc luận văn;
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: R. Tagore với trẻ thơ
Chương 2: Vẻ đẹp toàn bích của thế giới tâm hồn trẻ thơ trong Trăng non
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện thế giới trẻ thơ trong Trăng non.
Cuối cùng là danh mục tư liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1
R.TAGORE VỚI TRẺ THƠ
1.1. R. Tagore – Thời thơ ấu và những ước vọng của tuổi thơ
1.1.1 Thời thơ ấu của một thiên tài
R. Tagore sinh ngày 7 tháng 5 năm 1861 trong một gia đình trí thức giàu sang
tại vùng Calcutta, xứ Bengal miền Đông Ấn Độ. Gia đình ông thuộc đẳng cấp quý tộc Bà la
môn nổi tiếng và được mến phục vì đây là gia đình của những thiên tài, đã có nhiều cống
hiến cho công cuộc cải cách xã hội ở Bengal và Ấn Độ. Cha ông, Devendranath, là một lãnh
tụ của phong trào cải cách Hindu ở Ấn Độ cuối thế kỉ XIX, đồng thời là một nhà triết học
nổi danh đã dốc hết sinh lực, trí tuệ và tiền của để làm việc thiện và hoạt động văn hóa xã
hội.
Trong gia đình, R. Tagore là con trai út được yêu quý và chiều chuộng nhất.
Khi R. Tagore chào đời, cha ông đã xem đó là phúc trời nên đặt tên cho ông là
Rabindranath, có nghĩa là mặt trời với mong muốn cậu bé sẽ trở thành nhân tài mang ánh
sáng trí tuệ soi rọi sự tăm tối của đất nước Ấn Độ nghèo nàn và đau khổ .
Thuở nhỏ, R. Tagore được sống trong thế giới của các gia nhân. Trong Hồi ức
sau này, R. Tagore gọi họ là “ vương quốc đầy tớ” một cách kính trọng. Là một cậu bé thích
tự do, R. Tagore thường lang thang bắt bướm hái hoa ngoài trời và tụ tập với bọn trẻ cùng
phố chơi bi, chơi đáo. Vì thế, mọi người cai quản cậu rất nghiêm ngặt. Những giờ bị phạt
trong nhà, cậu thường phóng tầm mắt nhìn ra ngoài cửa sổ ao ước tự do hoặc tìm đến góc
nhà ngồi đọc sách. Hễ cầm được cuốn sách nào là Tagore đọc nghiến ngấu suốt ngày. Là
cậu bé nhạy cảm, Tagore thường rơi lệ khi đọc những trang sách kể về nỗi đau khổ, chia li
của người khác. Ngoài những quyển truyện cổ Ấn Độ, Tagore thường tìm đọc sách nước
ngoài viết cho thiếu nhi đã được dịch ra tiếng Bengali. Cậu thích sách của Dickens, V. Hugo
và nhất là tác phẩm Rôbinxơn Cruxô của Defoe. Hình ảnh Rôbinxơn chống chọi với bão
táp, hòa nhập với thiên nhiên trên hoang đảo khiến Tagore xúc động. Cậu bé lấy đó làm tấm
gương cho cuộc sống tự lập của mình. Cuốn sách đã kích thích trong lòng cậu ý tưởng được
ra khỏi nhà, được tự do bay nhảy. Vào khoảng thời gian ở Cancutta xảy ra nạn dịch hạch,
gia đình Tagore phải qua lánh nạn bên kia bờ sông Patma, một nhánh của con sông Hằng.
Sống trong biệt thự gần sông gần gũi với thiên nhiên tươi đẹp, cậu bé Tagore sung sướng
vô cùng. Như một con chim sổ lồng, cậu chạy nhảy khắp nơi. Chuyến đi đó là bài học đầu
tiên về thiên nhiên của cậu. Trong Hồi kí, Tagore kể lại: “ Cứ mỗi ngày khi màn đêm đã vén
lên, tôi thức dậy có cảm giác như chân trời kia đang đem đến cho tôi một bức thư báo nhiều
tin tức tốt lành khi tôi bóc nó ra. Tôi vội vàng không để chậm trễ một giây phút ngồi chễm
chệ trong chiếc kiệu chuẩn bị đi ra ngoài trời. Ngày nào cũng như ngày nào, tôi được nhìn
nước sông Hằng dâng lên hạ xuống, tàu bè xuôi ngược đôi bờ thật rộn rịp, cây ngả bóng
xuống dòng sông lấp lánh khi mặt trời lên cao. Hoàng hôn buông xuống rừng cây như ngủ
lặng trong một màu đen nhờ nhờ. Có lúc, bất chợt một cơn mưa ập tới xóa nhòa cả chân trời
rực sáng. Dòng sông trở nên âm u cuộn lên những con sóng, gió ào tới lay động cả một rừng
cây, đôi lúc có cảm giác sợ hãi”. [60, tr. 442]
Cảm giác ban đầu về thiên nhiên từ thuở ấu thơ đã gợi cho Tagore một ý niệm
: thiên nhiên nhiên cũng có linh hồn giống con người. Sự tươi thắm, kì diệu của hoa, lá của
ánh sáng mặt trời … đã thức dậy nơi tâm hồn non nớt của cậu bé Tagore một tình yêu thiên
nhiên sâu nặng. Cuộc sống bó hẹp trong khuôn viên biệt thự làm cậu cảm giác như bị cầm
tù và khi đến tuổi đến trường cậu càng chán ghét không khí buồn tẻ, ngột ngạt của lớp học
giữa bốn bức tường. Trong kí ức của Tagore trường học không lưu lại những ấn tượng tốt
đẹp: “ Cái khổ của tôi là phải học trong những nhà trường như thế. Tôi đã từng thấy vũ trụ
như đã biến mất quanh mình, chỉ được thấy những hàng ghế gỗ, những bức tường vôi trắng
xoá. Tôi cương quyết không muốn mình trở thành một đứa bé bị thầy giáo gõ đầu… May
sao tôi thoát ra được những ngôi trường chật hẹp như cái chuồng hoặc như chiếc giầy bó
chân của một người đàn bà Tàu…”[45, tr. 459].
Ba lần R.Tagore được gửi đến trường là ba lần cậu bỏ học. Cuối cùng, gia đình phải
mời gia sư lại nhà. Gyan Babu, con trai của học giả Vedantavaghish là người thầy đầu tiên
của Tagore. Biết Tagore là cậu bé thông minh không thích cách học của trường lớp nên
ông đã giảng các tác phẩm văn học nổi tiếng cho Tagore nghe trước rồi yêu cầu cậu dịch từ
tiếng Anh , tiếng Sanskrit sang tiếng Bengali. Cách học này đã lôi cuốn Tagore và truyền
cho cậu niềm say mê, yêu thích văn chương. Năm lên bảy tuổi, Tagore bắt đầu tập tễnh làm
thơ. Làm được bài nào là nhét vào túi áo bài đó. Nhiều người trong vùng rất thích thơ của
cậu. Từ nhỏ, Tagore đã nổi tiếng là cậu bé thần đồng của xứ Bengal. Mười ba tuổi, Tagore
đăng trường ca Bông hoa rừng ( Benaphul) dài 1600 câu trên tạp chí Mầm kiến thức (
Gyânanka). Tiếp sau đó, cậu sáng tác hai tập thơ Tiếng hát buổi sáng (Prabhat Sangit) và
Tiếng hát buổi chiều ( Sandya Sangit). Hai tập thơ nhỏ này đã bộc lộ tài năng và lòng yêu
đời, yêu cuộc sống của Tagore.
Cha Tagore cũng là một người thầy đắc lực trong việc nâng cao học vấn cho
Tagore. Ông luôn tôn trọng tự do của con cái. Từ năm 11 tuổi, ông đã cho Tagore theo mình
trong những chuyến du lịch dài ngày lên đỉnh Himalaya, dạy cho Tagore bài học đầu tiên về
tình yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống.
Thuở nhỏ, Tagore không chỉ tự trao giồi ngoại ngữ để học trong sách vở mà
còn chú trọng học những người xung quanh, những người lao động bình thường trong “
vương quốc những người đầy tớ “. Tagore rất thích nghe họ kể và ngâm vịnh sử thi
Ramayana, hát những bài ca dân gian đầy chất trữ tình, giàu lòng yêu con người. Cái “
vương quốc đầy tớ” này có ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển tâm hồn và tài năng của
Tagore. Có thể nói rằng, cuộc đời của Tagore phân nửa gắn liền với môi trường sáng tạo
của những thiên tài, phân nửa gắn liền với văn hóa truyền thống: “Bước đầu của tôi đi vào
văn học có nguồn gốc của nó trong những cuốn sách được lớp người tôi tớ yêu thích và
truyền tụng”[60, tr. 443].
Suốt quãng đời thơ ấu, Tagore chủ yếu là tự học. Ngoài sách vở thì mảnh vườn
thân thiết sau nhà là “ngôi trường” lí tưởng của cậu bé Tagore. Trong “ngôi trường” đó,
Tagore được tự do mơ mộng. Những sắc màu kì diệu của thiên nhiên đã đem đến cho cậu
những câu hỏi ngây thơ về cuộc sống, cậu ao ước khám phá tất cả bằng trí óc non nớt của
mình và từ chối những bài học gò ép nơi lớp học: “ Chúng tôi có một khu vườn nhỏ liền
tiếp với nhà chúng tôi, đối với tôi, nó là mảnh đất thần tiên, hàng ngày hiện ra không biết
bao nhiêu vẻ đẹp kì diệu...Bầu trời như đem lại cho tôi tiếng gọi bạn bè và cả trái tim tôi, cả
cơ thể tôi nữa quen uống vào cái nguồn ánh sáng và yên tĩnh tràn trề của những giờ phút
lặng lẽ đó. Tôi lo lắng không bao giờ để quên mất một buổi sáng nào, vì mỗi buổi sáng đều
quý cho tôi, còn quý hơn vàng đối với một kẻ cùng khổ… tôi được trời phú cho tính hay
kinh ngạc, nó giúp cho đứa bé có quyền được vào trong kho tàng huyền bí trong lòng cuộc
sống. Tôi lơ là với những bài học vì chúng muốn lôi tôi ra ngoài thế giới ở quanh tôi…nó
muốn cầm tù tôi trong những bức tường đá của các bài học”[ 45, 449].
Nơi trường học thiên nhiên, Tagore học được nhiều điều quan trọng. Ngoài sự yêu
thương, chỉ dẫn của gia đình, cậu còn được tự do hoà nhập với thiên nhiên. Điều đơn giản
này không phải bất cứ đứa tre nào cũng đều có được. Vì thế, sau này trưởng thành, Tagore
đã thực hiện được ước mơ xây dựng một ngôi trường mới theo lí tưởng của mình: một ngôi
trường bình yên cho trẻ thơ Ấn Độ.
1.1.2. Hướng tới một nền giáo dục của người Ấn Độ
Giáo dục trẻ bằng tình yêu thương và sự khoan dung chính là tư tưởng chủ đạo
mà Tagore muốn chuyển tới những bậc làm cha mẹ và những người chịu trách nhiệm về
việc “ trồng người”. Tư tưởng này bắt nguồn từ quan điểm giáo dục truyền thống của
người Ấn Độ và từ trái tim giàu lòng trắc ẩn của nhà thơ bởi vì “ Tình ông bà yêu cháu, già
yêu trẻ là một nét cảm động nhất của văn hoá Ấn Độ” [ 13, tr.186].
Thuở nhỏ, Tagore được nhận hưởng một nền giáo dục tốt đẹp từ người cha đáng
kính của mình. Chính phương pháp giáo dục của gia đình và truyền thống văn hoá của dân
tộc đã ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng của Tagore. Ông luôn quan niệm: giáo dục trẻ nhỏ
phải cần tình thương và sự khoan dung. Roi đòn không thể thay đổi và hoàn thiện con người
mà chỉ có tình yêu mới làm con ngưởi trở nên tốt đẹp: “ Một đứa bé sinh ra phải nuôi mình
bằng sữa mẹ, do đó nó vừa biết thứ sữa mình ăn vừa biết cả người mẹ mình nữa. Thứ đồ ăn
của bé đó vừa nuôi được cơ thể vừa nuôi được cả tâm hồn đứa bé. Con người khi buớc vào
đời cũng phải thế, nghĩa là phải lấy tình thương làm gốc, chứ không phải lấy quan hệ nhân
quả làm nguyên tắc..”[45, tr. 458]
Trong kí ức của Tagore, người cha luôn là một tấm gương lớn về nhân cách: “
Người muốn chúng tôi yêu sự thật bằng cả tấm lòng mình. Cũng như trước kia, Người để tôi
tự do leo núi thì bây giờ Người cũng để tôi tự do chọn con đường đi đến sư thật. Người
không hoảng sợ khi thấy tôi lầm đường, lạc lối, không quá băn khoăn trước việc tôi có thể
gặp khó khăn gian khổ dọc đường. Người cầm trong tay ngọn cờ chỉ đạo cứ không phải một
chiếc roi kỉ luật như ai”[ 45, tr. 424]. Ông học hỏi và thừa hưởng ở cha mình một tấm lòng
nhân đạo và ái quốc, một tình yêu thương gia đình chung thuỷ, một tâm hồn vĩ đại và một
tình yêu Con người cao cả. Phương pháp giáo dục trọng tự do cá nhân của cha đã ảnh hưởng
rất nhiều đến quan điểm giáo dục của Tagore .
Năm 40 tuổi(1901), R.Tagore thực hiện được ước mơ xây dựng một ngôi trường
do chính mình làm chủ. Khi ngôi trường Santiniketan ( chốn bình yên) ra đời, Tagore đã
thực hiện một phương pháp giáo dục khác trước mà ông từng ấp ủ: dạy cho học sinh ý thức
được hai mối quan hệ cơ bản của con người trong cuộc sống. Đó là mối quan hệ hoà đồng
giữa con người với con người và giữa con người với thiên nhiên. Ông muốn học trò của ông
phải biết yêu thương, tôn trọng con người và phải biết đề cao, ngợi ca tình yêu thiên nhiên,
tình yêu cuộc sống.
Theo Tagore “ Sự giáo dục phải lấy tình thương làm đầu”[45, tr. 465]. Ông chú
trọng đến việc hoàn thiện nhân cách con người. Ông cho rằng mục đích giáo dục lớn nhất
dành cho trẻ không phải chỉ là tri thức mà điều quan trọng hơn là giáo dục các em có được
đời sống tâm hồn phong phú. Chính vì quan niệm này mà Tagore rất chú trọng đến việc dạy
văn học, nghệ thuật và âm nhạc cho trẻ nhỏ. Ông nuôi dưỡng tâm hồn trẻ bằng vần điệu của
lời thơ, tiếng hát. Và thơ về trẻ em của ông bao giờ cũng là những bài học dạy làm người.
Bốn mươi bài thơ trong Trăng non là những câu chuyện kể nhẹ nhàng về lòng can đảm, sự
chân thật, và tình yêu thương của con người và đặc biệt là tình mẫu tử thiêng liêng cao quý .
Chính ông cũng từng khẳng định giáo dục trẻ bằng tình thương mới là cách giáo dục tốt
nhất bởi vì chỉ những ai thật sự yêu thương thì người đó mới có quyền trừng phạt: “Khi tôi
trừng phạt nó. Thì nó lại càng trở nên một phần của bản thân tôi. Và khi tôi làm cho nó
khóc. Thì lòng tôi cũng khóc cùng với nó. Chỉ tôi mới có quyền rầy la và trừng phạt. Bởi vì
chỉ có ai thương. Thì người đó mới có quyền trừng phạt.” ( Quan toa)
Là một nhà thơ đồng thời là một nhà giáo dục, Tagore cho rằng trường học tốt
nhất để nuôi dưỡng tâm hồn trẻ nhỏ là trường học thiên nhiên. Tư tưởng này xuất phát từ
quan điểm giáo dục truyền thống của văn hóa Ấn Độ cổ xưa: “Thời xưa , ở Ấn Độ, con
người sinh hoạt ở đâu là trường học ở đó. Trường học không phải là một học viện, cũng
không phải là chốn tu hành khổ hạnh. Nơi đó, chính là để học cách nuôi dưỡng sinh vật, tự
nuôi sống mình bằng cách nhặt củi, hái rau quả… Cuộc sống đó gọi là trường đại học ( tiếng
Phạn là Chatuspathis)”. Như vậy, trong cách nhìn của người Ấn Độ, thiên nhiên không chỉ
là nơi con người quan sát, chiêm nghiệm cuộc đời mà còn là nơi họ học cách tự giúp mình
tồn tại bởi vì : “ giáo dục không phải chỉ học bài ở trong lớp học mà còn trong cuộc sống”
[ 45, tr.465].
Trên cở sở kế thừa và tiếp nối quan điểm giáo dục truyền thống của văn hoá dân
tộc, Tagore đã mở ra một cái nhìn mới về vấn đề giáo dục trẻ thơ theo tinh thần tự do, hoà
nhập vào vũ trụ. Theo ông, thiên nhiên là bà mẹ đời thứ hai tác động rất nhiều vào trẻ nhỏ
và là trường học lí tưởng nhất để hoàn thiện nhân cách một con người. Chính nơi trường học
thiên nhiên này, ông đã học được rất nhiều điều quan trọng, trong đó có cả tôn giáo của
riêng ông mà ông gọi là Tôn giáo Con người: “ Trong bụng mẹ, đứa trẻ được tự do lần thứ
nhất do sự sinh trưởng của nó. Thế nhưng, sau khi lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã bị xã hội can thiệp
vào, kéo ra khỏi cái công nuôi dưỡng của Tao hoá, của trời xanh, của ánh sáng, của không
khí mát lành. ..Nhà trường cửa đóng kín, nó sống chung quanh các đồ vật ngày càng nhiều.
Nó không hiểu cuộc sống đó sẽ dần dần làm cho tâm hồn tê lạnh, làm mất đi cuộc sống tự
nhiên, sinh động”[ 45, tr. 460].
Từ những quan niệm, tư tưởng về việc xây dựng một nền giáo dục mới cho Ấn
Độ, Tagore đã thể hiện sâu sắc tình yêu thương và trách nhiệm của mình đối với trẻ thơ.
Ông muốn các em phải biết yêu thương và trân trọng cuộc sống. Đó chính là lí tưởng giáo
dục cao đẹp của ông, là kinh điển của Tôn giáo Con người mà ông muốn gởi gắm và thực
hiện nơi ngôi trường Santineketan – ngôi trường của sự bình yên.
1.2. R. Tagore – Nhà thơ của thiếu nhi
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời của tập thơ Trăng non
Nghĩ về tập thơ Trăng non, người ta thường nhớ đến những câu thơ Tagore viết
trong Những cánh chim bay lạc:
Cõi đời hôn lên hồn tôi với nỗi đau thương
Và đòi hỏi tôi đáp lại bằng lời ca, tiếng hát [45, 731]
Và thật vậy, Trăng non chính là tiếng ca được cất lên từ những nỗi đau thương.
Năm 1904 Tagore mất đứa con gái thứ hai, năm 1907 đứa con trai đầu của nhà thơ
cũng từ giã cõi đời. Cùng với cái chết của người vợ (1902) và cái chết của người cha (1905),
Tagore gần như suy sụp. Thế nhưng, kì diệu thay ông vẫn làm thơ! Chính ông đã từng nói:
“Khi tình cảm tự tìm cho mình một hình thức để bộc lộ ra ngoài, chúng ta có thơ”. Và
Trăng non chính là thơ được cất lên từ cõi lòng Tagore nhiều đau thương mất mát. Tập thơ
ra đời năm 1909 và ban đầu có tựa đề là Sisu ( Trẻ thơ). Đến năm 1915, nó được Tagore
chuyển từ tiếng Bengali sang tiếng Anh và đổi tên là The Cressent Moon ( Trăng non) gồm
40 bài.
Trăng non là tập thơ viết về trẻ thơ , là biểu tượng cho tâm hồn bản nguyên,
thuần khiết của các em. Với Trăng non, Tagore đã tái hiện lại một thiên đường đã mất trong
mỗi chúng ta, đó là thiên đường của tuổi ấu thơ tràn ngập tình yêu thương mẫu tử.
1.2.2. Trăng non – Những cảm nhận tinh tế về trẻ thơ
Trăng non là tập thơ thể hiện sâu sắc tình thương yêu và niềm mong ước của
Tagore về một thế giới tươi đẹp dành riêng cho trẻ. Trong thế giới ấy, trẻ thơ thoát ra mọi ràng
buộc của cuộc sống đời thường và tự do đi về trong tưởng tượng. Trẻ thơ là hiện thân của nước,
của tinh khiết, vô vi và trong thế giới của trẻ mọi quyền uy, toan tính của con người đều trở nên
vô nghĩa. Với Tagore, trẻ thơ là điều kì diệu mà Thượng đế đã ban tặng con người, là sợi dây
nối kết mối giao hoà vĩnh cữu của thế giới thực tại và mộng tưởng, của mặt đất và bầu trời, của
con người và thiên nhiên, của tình yêu giữa cha và mẹ… Trong vòng tay và trái tim của mọi
người, trẻ thơ là thiên thần, là niềm vui, là buổi ban sơ của một đời người… Và trong trái tim
Tagore, trẻ là tất cả những gì ngộ nghĩnh, hồn nhiên, trong trẻo. Tagore không chỉ nhìn trẻ bằng
cái nhìn trìu mến của một người ông dành cho cháu như V.Hugo trong Nghệ thuật làm ông,
không chỉ bao bọc, chở che bằng vòng tay, tình yêu của một người mẹ như Xuân Quỳnh (Ru
con), không chỉ thì thầm về những giấc mơ như Hoàng Trung Thông (Những cánh buồm )
…mà với Tagore, Trăng non là phép cộng của tất cả những thứ tình cao quý đó. Nếu ngày
trước V.Hugo từng ngạc nhiên khi khám phá ra vị trí của trẻ trong vũ trụ: “Bé chính là bình
minh và hồn ta là cánh đồng bát ngát/ Cánh đồng đã ướp hương những loài hoa dịu mát vào
trong hơi thở của em ( Khi em bé hiện ra) thì đến Tagore ông lại cho rằng trẻ thơ là một thiên
thần , đến từ xứ sở thần tiên như một kẻ ăn mày để có thể đến xin cả kho báu tình thương của
mẹ. Dường như trong cách cảm nhận của Tagore, trẻ thơ có phần gần gũi, chân thật và đáng
yêu hơn cả. Được mệnh danh là V.Hugo của Ấn Độ, Tagore không chỉ xúc động nghẹn ngào
trước cô bé bán củi nghèo hèn: “ Em gái da sạm đen răng trắng/ Cánh tay bé nhỏ quắp sau
lưng/ Kéo lê run rẩy một bó củi/ Dịu dàng em chiếc bóng của hãi hùng” ( Em bé bán củi – V.
Huygo) mà ông còn hoá thân vào những vui buồn thơ dại để phát hiện ra ước mơ, khát vọng
của các em. Tagore còn cho rằng chỉ có nỗi buồn tủi của chúng là đáng kể nhất bởi lẽ từ khi
sinh ra trẻ đã có quyền được chơi đùa, yêu thương, được chăm sóc, nâng niu:
Nỗi buồn tủi của đám người đông đảo
Cũng không sao lớn bằng
Nỗi buồn tủi của chú bé kia
Chú không có nỗi một xu
Để mua một chiếc gậy tô màu
Đôi mắt thèm thuồng của chú
Làm cho tất cả đám người kia
Thương xót
( Người làm vườn, 1914)
Là một nhà thơ luôn đấu tranh không mệt mỏi vì tự do của con người, trong Trăng
non , Tagore mong muốn mang đến cho trẻ em một thế giới tự do tuyệt đối: tự do trong
tưởng tượng, tự do trong vui chơi, tự do bày tỏ tình cảm, ước vọng của mình. Giữa cuộc
sống bộn bề lo toan của người lớn, trẻ là sự hiền minh. Sự tự do của trẻ là mong muốn mãnh
liệt của người lớn khi họ vọng tưởng về thời ấu thơ. Đó là sự tự do tuyệt đối không bị những
vật chất tầm thường ràng buộc. Trong bài Bản hợp đồng cuối cùng, R. Tagore kể lại một
câu chuyện lí thú. Một chàng thanh niên làm thuê vừa đi vừa rao lớn : “ Nào, ai thuê tôi thì
đến thuê?”. Một ông vua “ ngồi trên xe đi tới và bảo: “ Ta muốn thuê ngươi bằng quyền lực
của ta”. Nhưng quyền lực của y có gì đáng kể và y lại ra đi “. Đến trưa “ dưới trời nóng
bỏng”, anh ta gặp một tay triệu phú, hắn nhắc túi vàng lên và bảo: “ Ta thuê ngươi bằng tiền
bạc của ta”. Nhưng anh vẫn quay lưng. Khi chiều xuống, anh gặp một cô gái đẹp và hứa sẽ
thuê anh bằng một nụ cười . Nhưng “ nụ cười của cô ta đã nhạt đi và tan thành nước mắt”,
“ cô trở về trong bóng tối một mình”. Anh đã từ chối tất cả từ quyền lực, của cải và sắc đẹp.
Cho đến khi anh gặp cậu bé, mọi việc đã hoàn toàn đổi thay:
Ánh mặt trời long lanh trên cát
Và sóng vỗ rì rào
Một cậu bé chơi với dăm vỏ ốc
Cậu ngẩng lên và dường như cậu nhận ra tôi rồi nói:
Tôi thuê anh với hai bàn tay trắng
Và từ khi bản hợp đồng được kí chơi với cậu bé
Tôi đã trở thành người tự do
( Bản hợp đồng cuối cùng)
Như vậy, sự lựa chọn cuối cùng của anh ta là tự do. Trong Trăng non, sự tự do
của trẻ thơ đồng nghĩa với một tâm hồn thuần khiết và thánh thiện. Tagore ca ngợi bản chất
này ở trẻ và cho rằng chính nó đã đem đến cho trẻ cái nhìn trong trẻo về cuộc sống và
những điều quý giá mà người lớn không thể nào có được: tự do, hạnh phúc, niềm vui và cao
hơn cả là tình yêu trong sáng dành cho mẹ:
Trên mảnh đất của vầng trăng non bé bỏng
Bé tự do không hề ràng buộc chút nào
Nhưng không phải tự nhiên mà bé không cần đến tự do
Bé biết rằng trong góc nhỏ trái tim của mẹ
Có chứa một niềm vui vô tận vô cùng
Và được ghì được ôm trong chặt trong cánh tay thân yêu của mẹ
Còn dịu dàng hơn tất thảy tự do
( Cung cách của bé )
Khi sáng tác Trăng non, Tagore đã để tâm hồn tự lan toả thành thơ. Chính tình
yêu và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ông đã giúp ông có được những cảm nhận tinh tế về
trẻ nhỏ. Nhập vai vào trẻ, Tagore đã nói lên được ước mơ khát vọng của các em. Có thể nói,
trong thơ ông trẻ thơ thật sự được tự do trong thế giới mộng tưởng của chính mình, được
ban phước lành từ bàn tay tạo hoá:
Ban phước cho trái tim bé nhỏ, cho linh hồn trong trắng
Nhờ nó mà khiến trời hôn đất
Nó yêu ánh dương, nó yêu gương mặt mẹ hiền
Nó chưa biết khinh khi cát bụi và chạy theo bạc vàng
…Hãy giữ lòng tin của nó, dẫn nó đi thẳng và cầu chúc cho nó
Có đe dọa tới đâu linh khí từ trên trời cao cũng sẽ tới
Thổi căng buồm đưa nó tới cõi bình yên
( Ban phước)
Bàn tay tạo hóa đã ban cho trẻ sự sống giữa cõi đời này nhưng tâm hồn trẻ lại lớn
lên nhờ tình yêu của mẹ. Cho nên cuộc hành trình từ thiên đường của trẻ đến trần gian cũng
chính là hành trình truy tìm Trái tim tình thương từ Mẹ. Chính mẹ và cõi đời trần thế này
mới là thiên đường thực sự mà trẻ cần tìm đến. Tạo hoá có thể ban tặng trẻ mọi thứ từ vòng
hoa rực rỡ sắc màu đến những phúc lành tràn trề bất tận nhưng điều trẻ cần lại chính là
hương thơm tình yêu từ trái tim của Mẹ: Nếu bé muốn thì ngay bây giờ bé có thể bay lên tận
trên trời. Không phải tự nhiên mà bé không chịu rời bỏ chúng ta. Bé thích đặt đầu vào trong
lòng mẹ. Và mắt bé không chịu rời xa mẹ bao giờ….Cái điều bé thích nhất là được học
những lời của mẹ nói ra. từ trên đôi môi của mẹ…Bé có hàng đống vàng đống ngọc. Thế
nhưng bé đã đến mặt đất này. Như một kẻ ăn xin….Để có thể đến xin cả kho báu tình
thương của mẹ.(Cung cách của bé).
Là những bài thơ ghi lại bản chất thánh thiện của trẻ thơ, Trăng non thể hiện sâu
sắc tấm lòng nhân đạo Tagore dành cho trẻ nhỏ. Trong cái vô cùng của vũ trụ, ông đã mang
đến cho trẻ khát vọng được hoà nhập vào mây và sóng, được gửi gắm giấc mơ của mình
trên những con thuyền giấy dưới ánh sao khuya, được thể hiện tình yêu dành cho
mẹ…Trong sắc màu hư ảo của mảnh Trăng non, trẻ là hiện thân của muôn vàn vẻ đẹp, là
buổi sớm mai của một đời người mà ai cũng một lần bước qua và không bao giờ quay trở
lại.
1.2.3. Trăng non – Tiếng thơ kì diệu của tuổi thơ
Là một tập thơ viết cho thiếu nhi Trăng non hội đủ các yếu tố mang tính đặc
trưng của một tác phẩm văn học thiếu nhi.
Khi viết Trăng non, Tagore đã thực sự sống với đời sống của lứa tuổi thiếu nhi.
Ông cảm nhận sâu sắc, trọn vẹn những đặc trưng tâm lí của các em. Bằng tình cảm chân thật
của một người cha ông đã hồi tưởng và làm sống lại kí ức những năm tháng tuổi thơ một
cách kì diệu và trong trẻo nhất.
Đọc Trăng non, độc giả được sống trong một thế giới thần tiên và nghệ sĩ, một
thế giới pha trộn giữa hư và thực, giữa sự tưởng tượng và cuộc sống thực tại phong phú.
Công trình nghiên cứu của Coócnây Trucôpxki ( 1882- 1969), nhà văn, nhà nghiên cứu văn
học Liên Xô cũ cho chúng ta thấy Trăng non thật sự là một tập thơ viết cho thiếu nhi và
viết về thiếu nhi.
Trăng non là một tập thơ giàu hình ảnh, màu sắc của hội hoạ. Nhưng những sắc
màu , hình ảnh này khác với những sắc màu, hình ảnh ngoài cuộc sống vì nó được cảm nhận
bằng trí tưởng tượng của trẻ thơ. Chỉ có các em mới nhìn thấy nơi những vật vô tri vô giác
cả một thế giới sống động, diệu kì :
Tường điện bằng bạc trắng, mái điện bằng vàng ròng
Hoàng hậu sống trong cung có bảy sân chầu và đeo một hạt ngọc quý bằng
châu báu của cả bảy nước
… Cô công chúa nằm ngủ trên bờ xa tít cách bảy biển không ai vượt nổi…
… Nàng mang vòng ở cổ tay, tay đeo ngọc trai và tóc dài chấm đất
Nàng sẽ thức giấc khi con khẽ chạm chiếc gậy thần và mỗi khi cười môi nàng
tuôn trào châu báu…
… Nhà bác phó cạo
…Ở góc hè kia ngay chỗ chậu cây cảnh
( Xứ thần tiên) Bằng sự tưởng tượng, trẻ đã thổi hồn cho sự vật và tạo ra trong thế giới của mình
một không gian kì diệu, không gian huyền thoại của những ước mơ. Nhận xét về vấn đề
này, trong quyển Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ, Xukhômxlinxki, nhà giáo dục Nga đã viết:
“ Mỗi đứa trẻ không chỉ tri giác mà còn khắc hoạ, sáng tạo và xây dựng. Sự nhìn nhận thế
giới của trẻ là một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Hình ảnh mà trẻ tri giác đồng thời xây
dựng mang trong nó sắc thái tươi sáng của cảm xúc. Trẻ trải nghiệm một niềm vui dữ dội
khi tri giác những hình ảnh của thế giới xung quanh và bằng trí tưởng tượng bổ sung vào
những hình ảnh ấy một điều gì đó”[ 63, tr.16]. Như vậy, trong sự phát triển thể chất và tinh
thần của trẻ, tưởng tượng là một yếu tố không thể nào vắng mặt. Bởi vì, trong cái nhìn của
trẻ, cuộc sống vốn chứa nhiều bí mật. Trẻ muốn khám phá nó qua sự tưởng tượng của mình.
Vì thế, mỗi câu hỏi của trẻ đều ngộ nghĩnh, hồn nhiên : “Em hỏi: “ Buổi tối khi trăng tròn,
treo lơ lửng giữa lùm cây, có ai ôm được nó không?”/ Thế là anh cười chế nhạo: “ Ngốc ơi,
mày là đứa bé, ngốc nghếch nhất trần gian/ Mặt trăng xa vời vợi/ Làm sao mà với
tới…”(Nhà thiên văn) Là “nhà lãng mạn sáng tạo” trẻ đã xây dựng nên trong thế giới của
mình một xứ xở thần tiên với “ những cánh đồng lúa chín vàng” bên bờ suối óng ánh hay
““hoa chàm vàm rụng rơi” trên lối mòn râm mát, còn những giọt sương long lanh trong ánh
bình minh là “ ngọc trai run rẩy trên đồng, ngọc trai rơi trên nội cỏ non” và sóng biển dạt
dào là “ ngọc trai trải xoè trên bờ cát”…
Có thể nói, bằng những dòng thơ lấp lánh sắc màu cổ tích, Tagore đã tạo cho các
em một thế giới diệu kì. Trong thế giới đó các em được tự do vui chơi với sự tưởng tượng
cuả mình. Đó là thế giới của trăng non, của những giấc mơ tươi đẹp, lạ kì.
Trăng non còn là một tập thơ giàu chất trữ tình ( giàu chất thơ, chất nhạc). Với
đặc điểm của thể loại thơ văn xuôi ( A prose poem), một hình thức được xem là tự do, dân
chủ nhất trong thể loại trữ tình, là loại “ thơ du dương không điệu, không vần, hơi mềm và
hơi cứng, để có thể thích ứng với những chuyển động trữ tình của tâm hồn, với làn sóng
nhấp nhô của mơ mộng, với những cảm xúc bất thường của lương tri”[ 22, tr. 578] chất thơ
trong Trăng non được “tạo nên bởi cấu tứ và suy tưởng giàu sức khơi gợi, bất ngờ, chất
triết lí thâm thuý, thơ mộng.”[27, tr.319]. Sức hấp dẫn của một bài thơ văn xuôi là ở vẻ đẹp
của tư tưởng, tình cảm, ở những rung động tinh tế của cảm xúc, những khám phá mới mẻ,
độc đáo của hình ảnh. Thơ văn xuôi giàu tính nhạc, theo Xuân Diệu, đó là “cái nhạc bên
trong của câu thơ… không thể hiện ra ở vần mà lỗ tai cảm thấy ngay” [14, tr. 619]. Giả
Bình Ao, một nhà văn hiện đại của Trung Quốc đã dùng thể loại thơ văn xuôi dưới hình
thức đối thoại để viết về tình mẫu tử: “Mẹ ơi, mẹ bảo quả táo trên cây chin đỏ là nhờ có mặt
trời. Thế thì củ cải đỏ lớn lên trong lòng đất vì sao mà nó đỏ? Mẹ ơi, mẹ bảo gà trống gáy
thì trời sáng, thế sao gà trống chết rồi mà trời vẫn sáng? Mẹ ơi, mẹ bảo con không nên hỏi
mẹ như vậy, vì làm mẹ thì không bao giờ nói sai. Vậy thì con cũng sẽ không bao giờ nói sai,
vì sau này con cũng sẽ làm mẹ”[ 64, tr. 319].
Với hình thức đối thoại của thể thơ văn xuôi ( nhưng thực chất chỉ là cuộc độc thoại
vì đối tượng trữ tình ẩn đi, chỉ còn lời nhân vật trữ tình), những bài thơ trong Trăng non
vừa thơ mộng, dịu dàng vừa ngọt ngào, êm ái như lời thì thầm yêu thương của con và mẹ:
Giá như con hoá thành một đoá hoa Chămpa
Chỉ để chơi thôi
Và mọc trên một cành cây cao nọ
Và reo cười đung đưa trong gió
Thì mẹ có nhận được con không hở mẹ?
Mẹ sẽ gọi: “ Bé ơi, con đâu rồi?”
Và con sẽ cười thầm lặng im không nói
Con sẽ len lén mở cánh rình xem lúc mẹ đang làm
( Hoa Chămpa) Cuộc đối thoại ở bài thơ trên thực ra chỉ là cuộc độc thoại của con. Đối tượng trữ
tình (mẹ) đã bị giấu đi chỉ còn lại lời của nhân vật trữ tình ( con) bộc lộ. Con đưa ra câu hỏi
giả thiết, mường tượng ra phản ứng của mẹ và bộc lộ thái độ của mình trước hành động ấy.
Dường như ân sau những câu hỏi của con là tiếng cười tinh nghịch, hồn nhiên. Con sẽ “ bất
thình lình thả mình rơi xuống đất. Và một lần nữa lại trở thành bé yêu của mẹ, và đòi mẹ kể
chuyện cho con. “ Này thằng quỷ, mày ở đâu thế? “ Mẹ ơi, con chẳng nói đâu. Đấy là điều
rồi hai mẹ con ta sẽ nói với nhau”. Sự hoá thân hoá thân của con là một trò chơi nghịch
ngợm, thông qua trò chơi ấy con đã thể hiện tình thương yêu chân thành của mình dành cho
mẹ.
Không chỉ viết về thế giới trẻ thơ, thế giới tràn ngập tình yêu của mẹ và bé,
Trăng non còn là bài học giáo dục trẻ thơ tinh tế và sâu sắc. Những bài thơ trong Trăng
non không phải là những triết lí, những mệnh đề khô cứng bởi tính chất chất giáo dục của
nó. Bốn mươi bài thơ trong Trăng non là những câu chuyện kể nhẹ nhàng về lòng can đảm,
sự chân thật, và đức hiếu thảo ở mỗi con người … Sau khi đọc tập thơ, điều đọng lại trong
tâm hồn chúng ta là hãy nâng niu và chăm sóc trẻ thơ, hãy giáo dục trẻ bằng tình yêu thương
nhân hậu. Chính sức mạnh tình thương sẽ cải hoá, hoàn thiện một con người.
Trăng non chính là món quà đặc biệt Tagore dành cho trẻ nhỏ. Bằng trái tim
của một người cha, ông đã viết nên những dòng thơ yêu thương về tình mẫu tử, về ước mơ
và khát vọng trẻ thơ… Trăng non mãi mãi là thiên đường mơ ước của mỗi chúng ta.
CHƯƠNG 2
VẺ ĐẸP TOÀN BÍCH CỦA THẾ GIỚI TÂM HỒN TRẺ THƠ
TRONG TRĂNG NON
2.1. Một thế giới thuần khiết trong thiên nhiên tươi đẹp
2.1.1. Thiên nhiên với đời sống văn học Ấn Độ
Trong đời sống văn hóa, văn học phương Đông, thiên nhiên là một tấm gương
phản chiếu tâm tư, tình cảm của con người. Nếu trong ca dao, dân ca Việt Nam, thiên nhiên
là không gian khởi đầu cho những ước thệ chung tình: cây đa, bến nước, sân đình:
Cây đa cũ, bến đò xưa
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ
thì trong văn hóa Nhật, thiên nhiên lại bát ngát “ hương Thiền” và được nâng lên thành đạo
“ Thần đạo” ( Kami):
Trên cành khô
Cánh quạ đậu
Chiều thu
( Basho) [ 7, tr.174]
Dù tồn tại trong những không gian – văn hóa khác nhau nhưng cảm thức về
thiên nhiên, vũ trụ của con người phương Đông luôn có sự đồng điệu giống nhau. Người
phương Đông luôn hòa mình vào thiên nhiên, vào vũ trụ vĩnh tồn. Với họ, thiên nhiên
không chỉ là người bạn tri kỉ, tâm giao mà còn là duyên cớ của những xúc cảm tâm hồn. Để
nói về những cảm hứng, cảm xúc trữ tình được coi là điểm khởi đầu cho những sáng tạo thơ
văn, người Trung Quốc thường nói: “ Tức cảnh sinh tình” và trong đời sống văn hóa của họ
giữa con người và thiên nhiên luôn có mối quan hệ gắn bó với nhau. Quan niệm Con
người vũ trụ trong
triết học cổ đại Trung Quốc: “ thiên nhân hợp nhất”, “ thiên nhân tương dữ” ( trời và người
quan hệ mật thiết với nhau), “ thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất” ( trời đất
cùng sinh ra với ta, vạn vật với ta là một) đã thể hiện rõ mối quan hệ mật thiết này: Con
người là một “ tiểu vũ trụ” trong lòng “ đại vũ trụ”. Vì thế, trong thơ Đường Trung Quốc,
con người luôn hòa mình vào thiên nhiên và đem thiên nhiên vào trong cõi lòng mình:
Hoàng hà lạc thiên tẩu Đông Hải
Vạn lí tả nhập trung hoài gian
( Lí Bạch) [23, tr. 47]
( Sông Hoàng Hà từ trời xuống chảy ra biển Đông
Muôn dặm dồn về giữa cõi lòng)
Văn hóa phương Đông không bao giờ phủ nhận tính chất hữu linh của thiên
nhiên. Cũng như con người, thiên nhiên cũng hữu linh, hữu tình, hữu tâm:
Mùa xuân ra đi
Tiếng chim thổn thức
Mắt cá lệ đầy
( Basho)[7, tr.178]
hay:
Thiên hạ thương tâm xứ
Lao lao tống khách đình
Xuân phong tri biệt khổ
Bất khiến liễu điều thanh
( Lí Bạch ) [23,tr. 49]
( Dưới trời nơi đau khổ
Chính ở Lao lao đình
Gió xuân xót li biệt
Chẳng khiến liễu xanh cành)
Trong quan niệm của người phương Đông, có một sự cảm thông kì lạ giữa con
người và thiên nhiên, đến nỗi khi con người không thể nói hết tâm tình của mình thì dùng
ngôn ngữ thiên nhiên để thể hiện:
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
( Thôi Hộ ) [23,tr. 46]
( Năm ngoái năm nay trong cánh cửa này
Mặt người và hoa đào, màu hồng ánh lẫn vào nhau
Giờ đây mặt người không biết đã đi đâu
Chỉ còn hoa đào cười với gió đông như cũ)
Như vậy, từ trong truyền thống xa xưa của văn hóa phương Đông, thiên nhiên
đã có một sứ mệnh đối với con người. Thiên nhiên không chỉ là tấm gương phản chiếu tâm
hồn con người, mà thiên nhiên còn là một sinh linh có linh hồn và một nhân vật trữ tình
trong sáng tác thi ca ( đây là điểm khác nhau giữa phương Đông và phương Tây trong quan
niệm về thiên nhiên). Đối với các thi nhân phương Đông, thiên nhiên là cội nguồn của cảm
hứng trữ tình, là “ ngôn ngữ” kì diệu nhất giúp con người bày tỏ nỗi lòng.
Với văn hóa, văn học Ấn Độ( từ truyền thống đến hiện đại), thiên nhiên được
miêu tả như một yếu tố có nhân tính, được tôn thờ như thần, là “ Bà mẹ thiên nhiên vĩ đại”,
là biểu tượng của sự lặng im giản đơn và lòng trong trắng. Vì thế, trong đời sống văn hoá
Ấn Độ, thiên nhiên là phương tiện quan trọng để biểu cảm và thể hiện tình cảm con người.
Kinh Upanishad triết luận về cuộc sống hữu hạn và mối tương quan giữa con
người với thiên nhiên như sau: “ Đời sống của loài người là một cuộc sáng tạo, là ý nguyện
vươn tới chiến thắng sức kháng cự của chất liệu chết, là ước mong khám phá ra được tất cả
những điều bí ẩn của vật chất và bắt những sức mạnh vật chất của nó phải tuân theo ý muốn
của con người, để phục vụ cho hạnh phúc của con người”[ chuyển dẫn từ 52, tr. 49]. Triết lí
này dựa trên cơ sở triết học: con người là một bản thể của vũ trụ và sự hòa đồng giữa con
người với tự nhiên sẽ đưa con người đến sự giải thoát.
Trong thơ Ấn Độ, thiên nhiên là người bạn gắn bó khăng khít với con người, là
nhân tố giúp cho tâm hồn và tình cảm của con người luôn được trong sáng. Hòa mình vào
thiên nhiên, con người tìm thấy sự thanh thản tuyệt đối của đời sống tâm hồn. Trong bộ sử
thi Ramayana, thiên nhiên luôn được miêu tả như một nhân vật trữ tình luôn đồng cảm với
con người; giữa con người với thiên nhiên luôn có mối cảm tình sâu nặng với nhau. Ngay từ
những ngày đầu tiên đến Chitrakuta, bắt đầu cuộc sống lưu đày mười bốn năm trời, Rama
đã cảm thấy lòng yên bình, thanh thản. Mọi u buồn, hiềm khích vì bị tước đoạt quyền uy và
địa vị đều tan biến trong lòng. Chàng nói với Sita mà như nói với chính mình: “ Gianaki ơi!
Trông thấy những ngọn núi xinh đẹp này, anh không cảm thấy là mình đã mất vương quốc,
và anh đã không quá đau xót vì phải xa cách bạn bè. Đẹp làm sao những ngọn núi kia, nơi
quanh năm chim rừng trú ẩn! Cao biết bao những đỉnh núi như chọc thủng trời xanh”[2, tr.
214]. Với người Ấn Độ, thiên nhiên không chỉ là người bạn thân thiết mà còn là nơi trú ngụ,
chở che, trả lại cho con người bản chất chân -thiện -mĩ, giúp con người thoát khỏi mọi dục
vọng, khổ đau.
Các nhà thơ trữ tình Ấn Độ không chỉ coi thiên nhiên là duyên cớ của những xúc
cảm tâm hồn mà còn tìm thấy ở thiên nhiên những bí mật tiềm ẩn trong lòng đời sống. Lịch
sử phát triển của thơ ca Ấn Độ truyền thống từ Veda qua Bhasa, Kalidasa, Kabir… đến các
nhà thơ trữ tình lãng mạn những năm đầu thế kỉ XX cho thấy, cảm hứng về thiên nhiên
luôn là một dòng chảy bất tận trong tâm hồn họ. Chính điều naỳ đã góp phần làm nên bản
sắc riêng cho thơ ca Ấn:
Khi trăng chạm vào bên má/ Con mèo liếm lấy vội vàng / Tưởng chừng như giọt
sữa thơm
Khi trăng nằm trong cành lá / Con voi lộ vẻ ngỡ ngàng / Ngỡ hoa sen vàng đang
nở.
Khi trăng chiếu lên giường tình / Cô gái đưa tay nhặt lấy / Tưởng như làn áo vừa
buông.
Và trăng cứ trăng huyền ảo / Vui cho cả thế gian lầm.
( Nhật Chiêu dịch)[ 6, tr.132]
Bài thơ viết về trăng của thi sĩ Bhasa trên đây diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên với
một cảm xúc trữ tình tinh tế. Trăng và người như hoà quyện nhau trong luồng ánh sáng diệu
kì. Ra đời cách đây hơn 17 thế kỉ nhưng cho đến ngày nay, bài thơ vẫn còn lưu giữ một giá
trị vĩnh hằng. Bên cạnh Bhasa, Satakant Mahapatra, một nhà thơ hiện đại Ấn thế kỉ XX
cũng có những dòng thơ tinh tế thể hiện sự đồng điệu giữa tâm hồn con người với cảnh sắc
thiên nhiên:
Những giờ chờ đợi chậm chạp trôi qua
Đêm tan dần
Sự im lặng do em vắng mặt
Thấm vào ánh trăng thoang thoảng hương thơm
Tôi đo cái đau của tôi
Bằng rễ cây mục và hoa héo
Và tôi nghe trong mỗi cánh hoa hồng
Tiếng thở dài của muôn vàn vi huyết mạch…
(Khu vườn của tôi – Thái Bá Tân dịch)[9, tr. 73]
Có thể nói, tình yêu thiên nhiên, sự hòa hợp, bình đẳng giữa con người và thiên
nhiên là cái đẹp vĩ đại của văn hóa Ấn Độ . Trong vở kịch nổi tiếng Sơkuntơla của
Kalidasa, tác giả đã thể hiện rõ tư tưởng chủ đạo này qua lời cầu khẩn của một tu sĩ xin nhà
vua tha chết cho con hươu: “ Không bao giờ, ôi! Không bao giờ mũi tên được sinh ra để
xuyên thủng trái tim dịu dàng của một con hươu, cũng như lửa không phải sinh ra để đốt
cháy những cành hoa”.
Trong văn hóa của Ấn Độ, bản thân thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó.
Luôn gắn bó mật thiết với con người, thiên nhiên là “bà mẹ đời thứ hai” sẵn sàng chở che và
trả lại cho con người chân bản thiện.
2.1.2. Tâm hồn trẻ thơ thánh thiện được thể hiện qua các hiện tượng thiên nhiên
Trong Trăng non, thiên nhiên là tấm gương phản chiếu tâm hồn trẻ nhỏ. Nó biểu
trưng cho những gì trong sáng, tươi đẹp và tự nhiên nhất trên cõi đời này. Đọc Trăng non,
có một điều dễ nhận thấy, đó là sự phong phú, đa dạng của các hiện tượng thiên nhiên. Kết
quả khảo sát cho thấy chỉ có hai bài là không có hình ảnh thiên nhiên trên tổng số bốn mươi
bài của cả tập thơ. Phần còn lại, ba mươi tám bài (95%) đều xuất hiện hình ảnh thiên nhiên.
Đây là dấu hiệu cho thấy, thiên nhiên nhiên thực sự đã có một vị trí đặc biệt trong tư tưởng
– nghệ thuật của R. Tagore. Trong tiểu luận Nghệ thuật là gì?, Tagore viết: “ Có thể
phương Tây tin vào linh hồn của con người nhưng không thực sự tin rằng vũ trụ có linh hồn.
Thế nhưng nó lại là niềm tin tưởng của phương Đông và toàn bộ sự đóng góp của phương
Đông về mặt tinh thần cho nhân loại đều chứa đầy cái ý niệm này”[ 45, tr. 864]. Cũng cách
nhìn ấy, trong thư gởi S. Moore (1/4/1914) ông khẳng định: “ Ở phương Đông chúng tôi, sự
yên tĩn trong suốt của những đêm tối, sự chói sáng của ánh mặt trời những buổi trưa đầy
nắng hoà vào làn sương mù dịu dàng trong bầu trời xanh, bản nhạc buồn của cuộc sống
được cảm nhận nổi trôi trong cõi vô cùng, dường như đang thì thầm vào tai chúng tôi
những điều bí mật lớn lao của sự tồn tại mà không một phương tiên nào có thể biểu đạt
được” [chuyển dẫn từ 25, tr. 134]. Qua những nhận định trên của Tagore, có thể thấy, trong
Trăng non, sự phong phú đa dạng của thiên nhiên không chỉ là sự thể hiện một tâm hồn
nhạy cảm, yêu mến cảnh vật thiên nhiên mà nó còn là những cảm xúc suy tư mang đậm
chất triết lí về vũ trụ, nhân sinh của nhà thơ. Nó trở thành những hình ảnh tượng trưng , ẩn
dụ giàu biểu cảm diễn đạt được mọi cung bậc của tình cảm, tư duy.
Có thể nói, từ trong truyền thống xa xưa của văn hoá Ấn, thiên nhiên đã có một
sứ mệnh đặc biệt đối với con người. Kế tục và phát triển quan niệm truyền thống, trong thơ
Tagore, thiên nhiên hiện diện như người bạn thân thiết. Thuở nhỏ, tâm hồn tuồi thơ Tagore
đã sớm nhạy cảm với vẻ đẹp thiên nhiên: “Ngay từ lúc còn bé, tôi đã rất nhạy cảm với vẻ
đẹp của thiên nhiên, rất thích gần gũi, thân mật với cây cối, với mây và như nhập vào trong
bản nhạc các mùa trong không khí”[45, tr.444]. Ông gọi khả năng nhận cảm được vẻ đẹp
này là tài sản lớn nhất của ông: “ Thật là một diễm phúc cho tôi là khi nào cũng ý thức được
các sự kiện của thế giới quanh mình. Rằng mây là mây, hoa là hoa, thế là đủ vì chúng trực
tiếp ngỏ lời với tôi, vì tôi không thể hờ hững với chúng”[45, tr.444].
Có rất nhiều nguyên nhân để tác tạo thành thứ khả năng đặc biệt ấy ở Tagore.
Trước hết, đó là ảnh hưởng sâu sắc của người cha. Từ nhỏ, Tagore đã được lớn lên trong
môi trường rộng lớn của thiên nhiên, những buổi dã ngoại, những chuyến đi dài ngày lên
đỉnh Hymalaya cùng cha đã tác động mạnh mẽ vào tâm hồn cậu bé Tagore một tình yêu
thiên nhiên sâu đậm. Sau nữa, đó chính là tình cảm tự nhiên của Tagore đối với thiên nhiên
từ thuở thơ ấu. Câu thơ đầu tiên trong cuộc đời thi sĩ của ông là “ Trời mưa, lá rụng”. Về
thực chất đó chỉ là những từ ngữ bình thường ghi lại một hiện tượng thiên nhiên nhưng đối
với Tagore đó là chiếc chìa khoá thần kì đưa ông vào thế giới của thơ ca. thế giới của trò
chơi vần điệu… Trong Hồi kí Đời tôi ( My life), ông viết: “ Tôi nhớ lại thời thơ ấu, khi , sau
một quá trình gian khổ theo học những chữ cái Bengal, lần đầu tiên tôi ghép những chữ
thành những từ trời mưa, lá rụng. Tôi sung sướng đến run lên vì những hình ảnh mà các từ
đó gợi lên cho tôi. Những mảnh riêng lẻ vô nghĩa không còn cô độc, lẻ loi nữa và trí óc tôi
sung sướng trong cái nhìn thống nhất đó. Cũng như thế, trong buổi sáng đó ở trong làng,
những sự kiện trong đời sống bỗng hiện ra trước mắt tôi trong một khối chân lí sáng ngời.
Tất cả những vật tưởng như những ngọn sóng lang thang đã hiện ra trong trí tôi gắn liền với
biển rộng mênh mông, không biên giới. Từ thời đó, tôi có thể giữ vững lòng tin biết rằng,
trong tất cả những kinh nghiệm của tôi về thiên nhiên và con người , có cái chân lí cơ bản
cuả một hiện thực tinh thần”[ 45, tr. 448].
Tagore yêu thiên nhiên như một người tình, ông chủ trương con người cần hoà
nhập với thiên nhiên, cần xem thiên nhiên là đối tương để gần gũi và bày tỏ. Ông từng
khẳng định: “ Nhà nghệ sĩ là người tình của thiên nhiên” ( Bài 76 – Những cánh chim bay
lạc). Hầu hết các tác phẩm của Tagore đều có tiêu đề lấy từ hình ảnh thiên nhiên : Vượt
biển, Cánh thiên nga, Hái quả, Trăng non, Những cánh chim bay lạc… Đó là những hình
ảnh thiên nhiên tương trưng mang nhiều tầng ý nghĩa, chứa đựng những tình cảm, những tư
tưởng triết lí sâu xa.
Trong thơ, Tagore lí giải phạm trù cá nhân – vũ trụ ( Atman – Brahman) ; con
người – thiên nhiên trên bình diện triết học. Theo ông, giữa con người và thiên nhiên phải
có sự thống nhất hoà đồng với nhau và khi đạt đến sự thống nhất hoà đồng đó con người
sẽ thoát ra được mọi ràng buộc, đau khổ và đạt đến chân lí tuyệt đối: “ Đối với chúng tôi,
điều cần thiết là ta phải hoà đồng với thiên nhiên ấy, con người sở dĩ tư duy được là vì tư
tưởng của mình phù hợp với các sự vật. Con người sở dĩ sử dụng được các hiện tương thiên
nhiên theo ý mình, chính chỉ vì sức mạnh của mình phù hợp với sức mạnh vũ trụ”[ chuyễn
dẫn từ 52, tr. 54].
Là người đã khám phá ra sự bí ẩn của mối tương quan giữa con người và thiên
nhiên, Tagore cho rằng hoà hợp vào thiên nhiên con người sẽ ý thức sâu sắc hơn niềm vui,
nỗi đau khổ của chính mình. Với ông, Thiên nhiên không chỉ là nơi con người tìm đến để
giải thoát cuộc đời mà còn là nơi con người tìm đến với cuộc đời. Ông viết: “ Sách có ghi:
lúc nào đến tuổi 50 nên từ giã xã hội ồn ào lên rừng ở ẩn, thế nhưng thi nhân lại bảo, cuộc
sống ẩn dật trong rừng chỉ nên dành cho những mái đầu xanh. Vì rừng xanh là quê hương
của loài ong, vì rừng xanh là đất nước loài hoa, vì rừng xanh là tổ ấm loài chim. Ở đó, nơi
khuất kín đang chờ đợi tiếng thì thầm rạo rực của các cặp tình nhân, ở đó kết lại thành nụ
hôn dành riêng cho hoa malati, ánh trăng thao thức nỗi niềm, song những người thấu hiểu
niềm riêng ấy đều dưới rất nhiều tuổi 50”[ 45, tr.674].
Trong tất cả các sáng tác của Tagore đặc biệt là Trăng non, hình ảnh thiên nhiên
luôn tràn ngập. Ngay cả tựa đề tập thơ cũng gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác
thanh bình, êm ả. Tagore quan niệm: thiên nhiên là nơi con người tìm đến với cuộc đời vì
thế thiên nhiên là nơi trẻ thơ tìm thấy được niềm vui, sự ngạc nhiên thích thú, nơi chứa đựng
những ước mơ, những khát vọng hồn nhiên. Với tư cách là những biểu tượng, thiên nhiên
trong Trăng non đa dạng, huyền ảo, và chứa đựng nhiều tầng ngữ nghĩa. Khảo sát tập thơ,
chúng tôi nhận thấy hình ảnh thiên nhiên xuất hiện gần 300 lần trong cả tập thơ, chia làm 77
loại hình ảnh khác nhau và vô cùng đa dạng, phong phú. Thế giới thiên nhiên vừa có những
hình ảnh kì vĩ như: bầu trời, biển xanh, mặt trăng, mặt trời, vì sao, sa mạc… lại vừa có cả
những sinh linh bé bỏng như: đom đóm, hoa, lá, chim chóc… Với ông, trong thế giới bao la
này, tất cả mọi sự vật dù là vĩ đại hay bình thường, bé nhỏ đều có chỗ đứng của mình trong
vũ trụ với một tinh thần hoà hợp, bình đẳng. Bới lẽ: “Trong thính đường vũ trụ bao la, lá cỏ
đơn thuần nằm với ánh mặt trời và các vì sao khuya trên cùng tấm thảm” [ 45, tr.604]. Đây
chính là tư tưởng triết lí mà Tagore đã tiếp nhận và kế thừa từ trong Upanishad và trong tư
tưởng Phật giáo: “Với tất cả mọi sự, dẫu tôn quý hay ti tiện, thân hay sơ, hữu tướng hay vô
tướng , chúng ta đều phải giữ các mối quan hệ bằng tình thương bất tận, không được chút
sâu hận, không được chút sát hại” [chuyễn dẫn từ 45, 870].
Những hình ảnh thiên nhiên được Tagore sử dụng đều gần gũi với con người,
thiên nhiên Ấn Độ. Ông tuyệt nhiên không vay mượn một chất liệu ngoại lai nào. Mọi hình
ảnh thiên nhiên Ấn Độ đều trở thành hình tượng nghệ thuật trong thơ của ông. Những đoá
hoa Chămpa, những chiều mưa rả rích , những rừng sâu, núi thẳm và những câu chuyện
thần kì về chàng Rama anh dũng … đều là những hình ảnh đặc thù của đất nước Ấn Độ:
Con sẽ giong buồm đi khắp nơi
Bảy biển mười ba sông của xứ sở thần tiên
Nhưng mẹ ơi mẹ đừng sụt sùi khóc lóc
Trong xó tối cô đơn
Con cũng không dại vào rừng sâu
Biền biệt mười bốn năm trời như chàng Rama anh dũng
…Con sẽ chèo thuyền qua sông cạn Tipujơni
Và bỏ lại đằng sau sa mạc Topanta
Khi thuyền trở về trời đã sẫm tối
Va sẽ kể mẹ nghe những điều trông thấy
Con đã vượt bảy biển mười ba sông của xứ sở thần tiên
( Người lái thuyền)
Thiên nhiên trong Trăng non đa số đều là những hình ảnh tượng trưng. Có lẽ
chính vì điều này mà trong cả tập thơ rất ít xuất hiện những tính từ tác động trực tiếp đến thị
giác và thính giác của con người ( mặc dù trong tật Thơ Dâng đã có lần Tagore cho rằng
màu sắc, âm thanh, hương thơm là hiện thân của vẻ đẹp thiên nhiên). Chỉ có 7 loại tính từ
chỉ màu sắc xuất hiện 22 lần trong cả tập thơ. Trong đó tính từ màu vàng ( yellow, golden)
xuất hiện 6 lần, màu trắng (white) 5 lần, màu xám ( grey) 4 lần, màu xanh ( green, blue) 2
lần, màu đỏ ( red) 2 lần, màu đen ( black) 2 lần và màu hồng ( pink) 1 lần. Điều này cho
thấy, bằng việc sử dụng những hình ảnh thiên nhiên tượng trưng ( ít sắc màu ) Tagore đã tạo
nên một thế giới vừa hư vừa thực. Đó là thế giới của mây và sóng, của mẹ và con, của sa
mạc thần tiên và những câu chuyện thần kì. Thế giới đó tồn tại trong tâm trí trẻ thơ nên đôi
lúc nó nhoè đi trong tưởng tượng. Chẳng hạn như trong Trăng non, hoa rất ít có sắc màu cụ
thể. Nếu có nó chỉ là màu trắng tinh khôi. Hoa nhài, hoa Siuli, hoa bakala… đều là những
hình ảnh tượng trưng mang nhiều tầng ý nghĩa. Trong bài Hoa Chămpa, hoa là hiện thân
cao độ của tình mẫu tử. Bằng nghệ thuật so sánh và nhân cách hoá, Tagore đã cho đứa trẻ
biến thành hoa Chămpa dịu ngọt, quấn quýt bên mẹ bằng mùi hương của nó:
Khi tắm xong, tóc ướt xoã trên vai, mẹ đi qua bóng cây Chămpa
Để vào trong sân nhỏ cầu kinh
Mẹ sẽ nhận thấy mùi hương thơm ngát
Nhưng mẹ đâu có biết rằng
Hương thơm ấy là từ con bay đến
Cũng là hình ảnh bông hoa nhưng trong bài Những đoá nhài đầu tiên, hoa lại là
hình ảnh tượng trưng cho những kỉ niệm ấu thơ. Màu trắng ( white) xuất hiện ba lần trong
nguyên tác như xoá nhoà ranh giới giữa hư và thực, đánh thức những ước mơ, những tình
cảm thanh cao tưởng như đã lãng quên rồi trong quá khứ: “ Thế nhưng lòng tôi vẫn ngạt
ngào mùi hương kỉ niệm / của những đoá nhài tươi mát đầu tiên / mà tôi đã ôm đầy tay /
khi hãy còn thơ dại”
Trong Trăng non, vầng trăng cũng là một hình ảnh tượng trưng. Hình ảnh trăng
non ( the cressent moon) – đồng thời là tên tác phẩm xuất hiện nhiều lần trong tập thơ như
một biểu tượng của sự hồn nhiên, trong sáng, nó là hình ảnh tượng trưng cho nụ cười , hạnh
phúc, cho thế giới thần tiên của mọi trẻ thơ:
Nụ cười khẽ rung đôi môi em bé ngủ. Ai biết nụ cười từ đâu đến? Ừ, nghe nói
có tia trăng non vàng viền quanh đám mây thu tàn; đó là nơi nụ cười hé nở đầu tiên, trong
giấc mơ buổi sáng đầm sương.
( Từ đâu?)
Trên mảnh đất của vầng trăng non bé bỏng
Bé tự do không hề bị ràng buộc chút nào
( Cung cách của bé )
Với các hình ảnh: “ tia trăng non”, “ vầng trăng non bé bỏng”, “ ánh trăng đong
đưa”, “ ánh trăng lạc loài”, “ trăng rằm” trong các bài Từ đâu?, Cung cách của bé, Bờ bên
kia, Chung cuộc, Vu oan, trăng trở thành biểu tượng cho tâm hồn và thế giới trẻ thơ, cho
tình cảm yêu thương của con và mẹ: “con sẽ là mây, mẹ sẽ là trăng / Con sẽ lấy hai tay trùm
lên người mẹ/ Và mái nhà sẽ là bầu trời xanh thẳm” ( Mây và sóng).
Không bị ràng buộc , không có những thành kiến về đẳng cấp và tôn giáo, những đứa
trẻ trong thơ Tagore giống như vầng trăng trên bầu trời, bình đẳng với các vì sao, với mây
và gió, với vũ trụ vĩnh hằng. Giữa bao la đất trời, thiên nhiên là sứ giả hoà bình của trẻ:
Ngày ngày, tôi thả thuyền giấy của tôi từng chiếc xuống dòng khe chảy xiết.
Tôi viết to và đậm tên tôi và tên làng tôi trên mạn thuyền
Tôi hi vọng có người ở nơi xa lạ nào bắt được thuyền và biết rõ tôi là ai
Trên thuyền, tôi chở những nụ hoa Siuli hái ở vườn nhà và mong rằng những nụ
hoa thường nở vào buổi bình minh sẽ yên ổn cập bờ lúc đang đêm.
Tôi thả thuyền giấy rồi nhìn lên trời thấy những áng mây nhỏ đang căng buồm
trắng.
Không biết bạn chơi nào của tôi ở trên trời cũng thả thuyền trong gió để đua
với thuyền tôi
Đêm về, tôi dúi mặt vào cánh tay và mơ thấy thuyền giấy của tôi trôi miên man
dưới ánh sao khuya
Những nàng tiên thường về trong giấc ngủ, ngồi trong thuyền tôi, mang theo
nhiều lẵng mộng đầy.
( Thuyền giấy )
Hình ảnh thuyền giấy là biểu tượng cho những ước mơ của trẻ thơ về một thế giới
hoà bình, hoà hợp. Trong con thuyền đó, trẻ gởi gắm biết bao tình cảm của mình. Những
đoá hoa Siuli mang hương sắc quê nhà, những áng mây nhỏ đang căng buồm trắng, những
lẵng mộng đầy của nàng tiên giấc ngủ …đều là những hình ảnh thấm đẫm chất thơ thể hiện
cái nhìn tin yêu, trong trẻo của trẻ thơ vào cuộc sống: “ Tôi hi vọng có người ở nơi xa lạ nào
bắt được thuyền và biết rõ tôi là ai./ Trên thuyền, tôi chở những nụ hoa siuli hái ở vườn nhà
và monh rằng những nụ hoa thường nở vào buổi bình minh sẽ yên ổn cập bờ lúc đang đêm”.
Trong cuộc sống đời thường, thiên nhiên luôn gắn liền với những cảm xúc trẻ thơ.
Khi đứa trẻ thì thầm với mẹ, thiên nhiên hiền hoà và đầy ắp tình thương.
“ Con sẽ thành một luồng khí nhẹ vuốt ve mẹ, và con sẽ là làn sóng lăn tăn trong
nước mẹ tắm, hôn mẹ và hôn mẹ nữa.
Trong đêm lộng gió, khi mưa rì rào trên lá, mẹ sẽ nghe thấy con thì thầm trong
giường và tiếng con cười loé lên cùng ánh chớp qua cửa sổ ngỏ vào phòng mẹ
Nếu mẹ nằm thao thức trên giường , nghĩ đến con mẹ đêm khuya thao thức
mãi, con sẽ từ trên ngàn sao hát ru mẹ: ngủ đi, mẹ ngủ cho say”
( Chung cuộc)
Khi đứa trẻ hoà mình vào những trò chơi, thiên nhiên ồn ào, nghịch ngợm.
“ Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên
Bầu trời mênh mộng trên đầu các em không động đậy
Mà nước thì gào réo liên hồi
Bọn trẻ gặp nhau trên bến bờ những thế giới vô biên
Cười reo nhảy múa
. …. Biển trào lên với những trận cười giòn giã
Và soi những nụ cười trên bãi cát xanh xao”
( Trên bờ biển)
Khi đứa trẻ tưởng tượng những câu chuyện thần tiên, thiên nhiên huyền diệu và bí ẩn: “ Con có thể tưởng tượng ra một ngày cũng u ám như hôm nay, chàng hoàng
tử trẻ tuổi một mình cỡi con ngựa xám qua sa mạc, đi tìm cô công chúa đang bị giam trong
toà lâu đài của tên khổng lồ bên kia dòng nước không tên”
( Đất trích) Qua trí tưởng tượng, thiên nhiên “ hai lần đẹp” hơn trong con mắt trẻ thơ. Những
sắc màu của hoa, những đường nét của lá, những vũ điệu của chim… đã gợi lên trong tâm
hồn trẻ thơ những bức tranh sinh động. Chỉ trẻ thơ mới nhìn thấy ở thiên nhiên những sự
sống diệu kì:
Người ta nói rằng bên kia bờ cao có nhiều ao nằm khuất
Ở đó, từng đàn vịt trời bay tới khi mưa lạnh, và lau sậy rậm rịt quanh bờ chỗ
le le đẻ trứng
Ở đó, loài cuốc múa tít đuôi, in dấu chân xinh trên nền đất sạch mềm
Ở đó, ban đêm cỏ lao trổ cờ trắng xoá mời ánh trăng đong đưa
( Bờ bên kia )
Giữa trẻ thơ và thiên nhiên luôn có sự hoà hợp, bình đẳng với nhau. Trong bài
Bao giờ và vì sao, Tagore đã lí giải triết lí mối quan hệ giữa trẻ và thiên nhiên ( Atman –
Bahraman) qua sự phát hiện ngỡ ngàng của mẹ: Khi mẹ hát, mẹ mới hiểu tại sao trong lá có
nhạc; Khi mẹ đặt bánh kẹo vào tay con, mẹ mới hiểu tại sao có mật trong chén hoa và cây
dâng đầy nhựa ngọt ngào; Khi mẹ mang đồ chơi nhiều màu sắc cho con, mẹ mới hiểu vì sao
cũng có nhiều màu trong nước, trong mây!
Ở mối quan hệ này , thiên nhiên đóng vai trò như một bà mẹ hào phóng ban tặng
cho trẻ những điệu nhạc, những sắc màu và hương vị ngọt ngào. Ngược lại, trẻ cũng trở
thành một phần trong lòng bà mẹ thiên nhiên ấy. Trẻ là đối tượng để thiên nhiên hướng tới
vì có trẻ mới có hoa, có nhạc, có sắc màu, hương thơm. Cách lí giải trên của Tagore mang
đậm dấu ấn triết học- tôn giáo Ấn. Nó thể hiện cái nhìn tin yêu vào thiên nhiên một cách
mãnh liệt của ông. Từ thuở ấu thơ, ông đã dành cho thiên nhiên một mối cảm tình thiết tha,
sâu đậm và khi đã đến tuổi xế chiều thiên nhiên vẫn là người tình mới lạ trong ông. Thiên
nhiên là nơi ông tìm đến với cuộc đời, nơi che chở và cất giữ bao kỉ niệm ngọt ngào của thời
thơ ấu, nơi ông tìm thấy chính mình trong tình yêu cuộc sống bao la. Ông từng nói rằng: “
Tôi yêu thiên nhiên không phải vì đường cong xinh xinh của những cánh hồng mà vì bông
hoa hồng là ngôn ngữ của tình yêu” ( My life).
Trong tập Nhớ lại, Tagore kể rằng trong thời thơ ấu của mình ông đã từng trải
qua ba lạc thú văn chương. Lạc thú thứ nhất là lần đầu ông học đánh vần, câu đầu tiên ông
thuộc là “ Mưa rào lộp độp, Lá cây hồi hộp”[45, tr. 419]. Với ông đó là dòng thơ đầu tiên
của bài thơ vũ trụ mà ông được biết. Lạc thú thứ hai là lần ông được anh trai hát cho nghe
một bài ballade, âm thanh, nhịp điệu của những lời ca ấy như cuốn lấy ông. Lạc thú thứ ba
mà ông nhớ mãi là câu hát sau đây của tuổi ấu thơ: “Giọt mưa rơi tầm tã, triều dâng ngược
dòng sông” [45,tr. 420]. Những niềm vui đầu tiên trong cuộc đời ông đều gắn liền cùng hình
ảnh thiên nhiên. Có lẽ chính vì điều này mà ở Trăng non, ông đã thể hiện sự hiểu biết tâm
hồn trẻ thơ đến vậy. Thế giới trẻ thơ được ông thể hiện qua hình ảnh thiên nhiên và trong
thiên nhiên các em đã để tâm hồn mình bay bổng. Dưới ánh mắt của các em, thiên nhiên
vừa là người mẹ thứ hai, vừa là thiên đường trần gian nhiều quyến rũ. Trong thiên đường đó
tình yêu của các em đã được thăng hoa và mọi ước mơ sẽ trở thành hiện thực.
Trên thực tế, Tagore chịu ảnh hưởng rất lớn của văn chương Châu Âu với các nhà thơ
, nhà văn tên tuổi như: Shakespeare, Bairơn, Dante…nhưng dường như cách nhìn nhận và
biểu thị thiên nhiên của văn chương phương Tây không làm thay đổi những nguyên tắc
nghệ thuật thơ đặc trưng của phương Đông, Ấn Độ trong các thi phẩm của Tagore. Thơ trữ
tình Tagore vẫn mượn thiên nhiên để bộc lộ nội tâm nhân vật trữ tình. Trong Trăng non,
Tagore dùng thiên nhiên để thể hiện thế giới tâm hồn trẻ thơ thuần khiết - một thế giới “ lí
trí lấy luật của mình làm diều đem thả và chân lí giải thoát sự kiện ra khỏi xích xiềng”[ 45,
tr.635].
2.2. Một thế giới yêu thương vô biên trong tình mẫu tử thiêng liêng
Từ xưa đến nay, tình mẫu tử vốn là chủ đề, cảm hứng thường trực trong thơ ca, đặc
biệt là thơ thiếu nhi. Đó là tình cảm thiêng liêng, sâu đậm nhất có từ đầu đến cuối trong
nhân cách con người. Xuân Quỳnh đã nói được cái vô biên của tình mẹ thương con một
cách giản dị mà thấm thía:
Dẫu con đi đến suốt đời
Vẫn không đi hết những lời mẹ ru
( Lời ru )
Còn SaitoMokichi, một nhà thơ Nhật Bản, lại thể hiện được tình cảm của con
dành cho mẹ một cách chân thành và sâu sắc:
Tôi nằm bên mẹ
Cạnh hơi thở tàn
Từ cánh đồng hoang
Vọng về tiếng ếch
Âm vang thiên đường
Đến với R. Tagore, tình mẫu tử không chỉ đơn thuần là mối quan hệ
mẹ – con sâu nặng mà còn là “ niềm hạnh phúc tràn đầy” [45, tr. 619] và “ sự dịu dàng hơn
tất thảy tự do”[ 45, tr. 619] – nó mang đậm triết lí nhân sinh của ông về con người và cuộc
sống.
2.2.1. Đứa con – Hình ảnh “ Chúa Đời” của mẹ Cách đây hàng nghìn năm, kinh Veda của người Ấn Độ cổ đã đưa ra một quan niệm
nhân văn sâu sắc:
“ Trong tất cả mọi cái đang tồn tại, trong tất cả mọi cái gì sẽ tồn tại, Con người là và
sẽ là tối cao”.
Quan niệm ấy đã được Tagore kế thừa và cụ thể trong tiểu luận triết học quan trọng
của ông The religion of man. Ông luôn khẳng định tôn giáo của ông là tôn giáo của con
người. Khi nhận xét về vấn đề này trong sáng tác của Tagore, PGS. Lưu Đức Trung có viết:
“ Con người đối với Tagore là vĩ đại, là ánh sáng thiêng liêng, là lòng khoan hồng rộng mở,
là tâm hồn thanh thản, là tình yêu, là kẻ thù kiêu ngạo và bạo tàn”[ 59, tr. 149].
Ở Ấn Độ, các tôn giáo đều xem con ngừời là sản phẩm sáng tạo cuả Thượng đế,
chịu sự quyết định của Thượng đế theo quy luật luân hồi… Đối với con người, đời sống
trần thế chỉ là ảo ảnh ( Maya). Kế thừa quan niệm đề cao con người trong quan niệm truyền
thống của văn hoá Ấn, Tagore một mặt thưà nhận sự gắn bó giữa con người và Thượng Đế,
một mặt lại xem con người là hiện thân của Thượng Đế. Thượng Đế chỉ là một khái niệm
trừu tượng, siêu hình. Với ông, đời sống trần thế của con người và tất cả những sự vật, hiện
tượng đang hiện tồn trong vũ trụ bao la này đều là những hiện thân khác nhau của Thượng
đế. Từ nhận thức trên, Tagore đã đưa ra một khái niệm mới về con người theo quan điểm
của riêng ông, đó là khái niệm Con người –Thượng Đế. Năm 1914, nữ văn sĩ người Đức
Andre Karpeles Hoegman viết thư cho Tagore. Trong thư, bà có đưa ra câu hỏi: “Ông thuộc
tôn giáo nào?”. Tagore viết thư trả lời, trao đổi về quan niệm tôn giáo của mình: “ Tôi
không thuộc tôn giáo nào cả, mà chẳng nghiêng về đức tin đặc biệt nào cả. Có điều khi
Thượng đế sinh ra tôi thì Người đã biến Người thành cuộc đời tôi rồi. Ngày ngày Người
triển khai con người tôi trong cuộc sống và nâng niu con người tôi với nhiều sinh lực và vẻ
đẹp khác nhau trong thế giới này. Chính sự kiện tôi hiện hữu đã mang trong nó lòng yêu
thương vĩnh cửu rồi”. Như vậy, về cơ bản cuộc đối thoại bằng thư năm ấy là một trong
những lí do để ông viết Tôn giáo con người ( The religion of man, 1931). Đây là tiểu luận
triết học quan trọng thể hiện cao nhất sự hiện hữu của con người ở Cái tôi ( Atman) và đồng
thời xác nhận sự liên thông sâu sắc giữa con người với thế giới tự nhiên.
Vive kanada ( 1863) , nhà hiền triết sống cùng thời với Tagore cũng gợi mở những
cách nhìn mới về Con người. Ông cho rằng : “ Chỉ có một Thượng đế có ý thức là nòi giống
chúng ta, đâu đâu cũng có bàn tay của người. Người là bao trùm hết thảy. Sự sùng bái chính
đáng nhất là sự sùng bái vạn vật quanh ta. Những thần linh mà ta thờ phụng trước hết là
đồng bào ta”[ chuyển dẫn từ 52, tr. 41]. Triết lí của Vivekananda ảnh hưởng sâu sắc đến
quan niệm Tôn giáo của con người của Tagore. Ông đã tiếp nhận các hình tượng Brahma,
Thượng Đế, Chúa… của Hindu giáo và trần thế hoá thành Con người Thượng đế. Theo
ông, Thượng đế có sẵng trong mỗi chúng ta, Thượng đế chính là bản ngã con người, là
chuẩn mực thanh cao mà con người cần vượt lên để đặt nhân cách mình vào đấy. Trong thơ
của ông, Thượng đế với Con người hoà nhập là một. Theo nhận xét của Ts. Nguyễn Thị
Bích Thuý thì “ Hình ảnh Chúa xuất hiện trong thơ Tagore với tần số cao và là kết quả của
quá trình tư duy sáng tạo đã trở thành biểu tương nghệ thuật. Chúa trời, Thượng đế đã từ
một ý niệm tôn giáo về đấng sáng tạo cao siêu đầy quyền uy quyết định số phận con người
trên trần thế trở thành vị “Chúa đời”, là chính cuộc sống đang hiện hữu và biến đổi không
ngừng, là ước mơ, là khát vọng để con người vươn tới”[50, tr. 61].
Như vậy, trong sáng tác thơ, Tagore đã đưa những ý niệm siêu hình về Thượng đế,
Chúa trời vào đời sống thực của con người và nâng lên thành những biểu tượng đậm chất
Tagore. Xét về nguồn gốc, Chuá trời, Thượng đế là những biểu tượng của văn hoá và tôn
giáo Ấn Độ cổ. Từ xưa, người Ấn Độ đã cho rằng Thượng đế tồn tại trong mỗi Atman( bản
ngã) , là mức thanh cao mà con người vươn đến để đặt nhân cách mình vào đấy và tìm đến
được Thượng đế cũng chính là đạt tới sự giải thoát cuồi cùng. Kinh sách, thần thoại Veda,
Kinh Upanishad, sử thi… đã chuyển những phạm trù tôn giáo này thành những hình ảnh
tượng trưng, biểu tượng đậm sắc màu văn hoá Ấn. Riêng với Tagore, ông đã biến những
biểu tượng tôn giáo thành biểu tượng nghệ thuật và lí giải chúng từ hai yếu tố tôn giáo, cuộc
sống.
Về cơ bản, khái niệm Con người – thần thánh của Tagore là sự kế thừa , phát triển khái
niệm Con người – Vũ trụ trong triết học Upanishad. Đó là con người tự nhiên gắn bó mật thiết
với vũ trụ. Tuy nhiên cái mới của Tagore là ở chỗ trong mối tương quan với vũ trụ ông đề cao
con người , tôn thờ con người, xem con người là hiện thân của Thượng đế và đặc biệt hơn nữa
là ông khẳng định một cách mạnh mẽ sự tồn tại của Cái tôi trong mỗi con người: “ Tôi tuyệt đối
độc đáo. Tôi là tôi, tôi vô song. Tất cả khối lượng của vũ trụ hẳn không sao đè được cái cá tính
này vốn là của tôi”.
Ở mảng thơ viết cho thiếu nhi, hình ảnh Chúa đời được Tagore sử dụng như một
biểu tượng cho trẻ thơ, cho đứa con của mẹ. Trong bài Buổi sơ khai ( The beginning), ông
đã thể hiện rõ quan niệm Con người thần thánh của mình qua hình ảnh đứa con, vị Chúa
của đời mẹ: “ When with clay I made the image of my god every morning. I made and
unmade you then”[66, tr. 15]:
Và mỗi buổi sáng khi mẹ lấy đất sét nặn ra
Hình ảnh Chúa đời của mẹ
Thì mẹ đã năn đi nặn lại con rồi
Với Tagore, sự bắt đầu ( the beginning) , nguồn gốc ( the source) của trẻ vô cùng
thiêng liêng và huyền bí . Nó là kết tinh của tình yêu, nỗi mong chờ, niềm hạnh phúc của
mẹ, là cái đẹp diệu kì của tạo hoá, thần tiên:
Con đã được nuôi dưỡng từ đời này sang đời khác
Trong lòng của vị thần linh bất tử ngự trị ở nhà ta
Khi, trong thời con gái trái tim mẹ nở xoè như một doá hoa
Con đã lượn quanh nó như một mùi hương phảng phất
Vẻ tươi mát của con
Nở trên chân tay non trẻ của mẹ
Như một ánh hồng
Trên trời cao
Trước buổi bình minh
Bằng hình thức đối thoại của thơ văn xuôi, bài thơ trên mang dáng dấp một cuộc
đối thoại triết học, lí giải về nguồn cội con người. Câu trả lời của mẹ là dòng cảm xúc tuôn
trào khi con khơi gợi vào đúng điều bí ẩn và huyền diệu nhất của cuộc đời: Con từ đâu tới,
mẹ nhặt con ở đâu? Con là hoá thân của Thượng đế, là kết tinh tình yêu của cha và mẹ và
giữa cõi đời này con đã đến để mang lại cho mẹ suối nguồn bất tận những yêu thương:
Con là đứa con cưng của Thượng đế
Là anh em sinh đôi với ánh bình minh
Con đã theo dòng nước trôi xuôi đến cuộc đời trần tục này
Và cuối cùng con đã được đặt vào trong lòng mẹ
Khi mẹ ngây nhìn khuôn mặt của con
Mẹ như bị ngập trong bao điều bí ẩn
Và con, vốn là của chung của tất cả mọi người
Đã trở thành của riêng của mẹ
Sợ mất con đi mẹ đã siết chặt con trên ngực mẹ
Không biết sự diệu kì nào
Đã chiếm lĩnh cái kho vàng trên cõi thế
Và đặt vào đôi tay mảnh khảnh của mẹ đây
Bằng những hình ảnh tượng trưng, Tagore đã gọi trẻ thơ là : đứa con cưng của
thượng đế, anh em sinh đôi với ánh bình minh, ánh hồng trên trời cao, kho vàng trên cõi
thế, nụ vui, ánh trăng non trẻ…. để lí giải những vấn đề về bản chất trẻ thơ, về tình yêu của
mẹ dành cho con và tình cảm trìu mến của con dành cho mẹ theo quan niệm triết lí của riêng
mình. Trong khi những nhà thơ khác khi sáng tác mảng thơ thiếu nhi thường bắt đầu từ
những gì rất cụ thể :
À uôm ếch nói ao chuôm
Rào rào gió nói cái vườn rộng thênh
Âu âu chó nói đêm thanh
Tẻ te gà nói sáng banh ra rồi
( Tiếng nói – Trần Đăng Khoa)
( Cắt nghĩa – Xuân Quỳnh)
Vi vu gió nói mây trôi Thào thào trời nói xa vời mặt trăng hay: Con làm bằng yêu thương Của cha và của mẹ Của bà và của ông Con làm bằng tất cả thì Tagore lại xuất phát từ một triết lí trừu tượng. Với ông, sự ra đời của một đứa trẻ là kết
tinh vẻ đẹp thiêng liêng của tạo hoá và tình mẹ:
“Giấc ngủ chập chờn trên hàng mi em bé. Ai biết giấc ngủ từ đâu đến? Ừ
nghe nói giấc ngủ đến từ làng tiên nữ, trong bóng cây rừng có đom đóm lập loè dìu dịu, có
hai nụ hoa thần kì níu cành, e lệ.
Ấy giấc ngủ từ nơi đó đến hôn hàng mi em bé.
Nụ cười khẽ rung đôi môi em bé ngủ. Ai biết nụ cười từ đâu đến?Ừ nghe nói
có tia trăng non vàng viền quanh đám mây thu tàn; đó là nơi nụ cười hé nở đầu tiên, trong
giấc mơ buổi sáng đầm sương.
Màu mát dịu phơi phới trên tay chân em bé. Ai biết màu tươi mát từ lâu ẩn
vào đâu? Ừ, thuở mẹ đang là gái xuân, màu tươi mát thấm đầy lòng mẹ trong tình yêu sâu
kín, dịu dàng, lặng lẽ.
Ấy, màu mát dịu phơi phới trên tay chân em bé.
( Từ đâu? )
Bài thơ với ba đoạn thơ văn xuôi được kết nối với nhau bằng một dòng cảm xúc
suy tưởng tìm lời giải đáp cho nguồn gốc giấc ngủ, nụ cười và sự tươi mát trên tay chân em
bé. Nguồn gốc của trẻ nhuốm màu huyền thoại vì nó được dệt nên bởi một bức tranh thiên
nhiên thơ mộng, diệu kì . Bức tranh ấy biểu trưng cho tâm hồn trong trắng, cho sự hồn nhiên
và vẻ đẹp thần tiên của một bé thơ. Thiên nhiên và con người, mẹ và con… tất cả đã thống
nhất hài hoà thành một thể. Cái vĩnh hằng trong cái hữu hạn, cái cụ thể trong cái toàn thể.
Đó là triết lí về cái duy nhất mà Tagore đã kề thừa từ Upanishad. Bài thơ không chỉ là lời
ca ngợi tình mẫu tử mà còn chứa đựng một triết lí sâu xa về sự thống nhất hoà hợp của
muôn loài trong vũ trụ. Sự tươi mát dịu dàng của con đã được giấu kín trong tâm hồn mẹ
khi mẹ còn là một cô gái trẻ. Nếu mẹ là biểu tượng cho đấng sáng tạo thì con ( vật tạo) luôn
là một phần trên thân thể mẹ. Đối với mẹ, con là máu thịt, là lẽ sống, là “ bí ẩn của tình
thương ngọt ngào và lặng lẽ” trong trái tim của mẹ. Ở bài 49 của tập Tặng phẩm của người
yêu, Tagore đã khẳng định: “ Con yêu, con hỏi, trời đâu – Thánh nhân dạy cha con mình
trời ở ngoài biên giới tử sinh, thản nhiên trước nhịp ngày đêm trôi chảy và không thuộc trái
đất này, con yêu. Nhưng thi sĩ của con lại bảo trời vẫn hằng mơ ước sinh ra trong bụi đất
phì nhiêu và niềm khát khao trời muôn đời tìm kiếm ấy là không gian cùng với thời
gian.Thân xác con thơm tho, trái tim con rạo rực ấy là chứa đầy chất trời đấy, con yêu.
Biển hân hoan dạo nhạc, ngàn hoa nghểnh cao hôn yêu con. Vì lẽ, sinh ra trời đã ở trong
con, trong cánh tay mẹ đất dịu hiền, con ạ”[ 45, tr. 680].
Như vậy, dưới một hình thức khác, hình ảnh Con người – thượng đế của Tagore
đã được tái hiện và khẳng định lại qua hình ảnh đứa con. Trong vòng tay mẹ, con bỗng trở
nên bình dị, đáng yêu. Sự trong trắng của con chính là cội nguồn đem đến sự thánh thiện
cho thế giới này:
“Họ la lối tranh giành, họ hoài nghi và tuyệt vọng, họ cãi cọ chẳng bao giờ
thôi. Con ơi, hãy để đời con đến với họ như ngọn đuốc sáng, bền vững tinh khôi, khiến họ
say mê im lời. Họ độc ác trong tham lam và ghen tị, lời họ như những con dao giấu kín
khát máu người. Con ơi hãy bước tới đứng giữa những tấm lòng quạu cọ và đoái hoài nhìn
họ với cặp mắt hiền từ như cái an bình bao dung của buổi chiều phủ trên một ngày tranh
đấu. Con ơi, hãy để họ thấy mặt con và như thế hiểu nghĩa của muôn loài; hãy để họ yêu
con và như thế họ yêu con. Con ơi, hãy đến ngự trong lòng cái vô biên. Bình minh con mở
rộng và cất cao trái tim như một bông hoa nở, và hoàng hôn con cúi đầu yên lặng làm tròn
sự thờ phương trong ngày”.
( Em bé thiên thần )
So với thế giới người lớn, thế giới trẻ thơ thuần khiết vô cùng. Được tôn xưng là
vị “Chúa đời”, con là hiện thân của những phẩm cách thanh cao mà con người cần đạt đến.
Đó là sự thánh thiện, vô tư, sự hiền minh, chân thật. Vì thế, khi mẹ âu yếm gọi con là “My
god” ( vị chúa của tôi) thì cũng có nghĩa con là tất cả cuộc đời của mẹ, con là điều thiêng
liêng và bí ẩn nhất trên cõi đời này. Tự hào về con mẹ đã để tim mình cất cao tiếng hát:
Khi mẹ hát cho con nhảy múa,
mẹ mới thực sự hiểu vì sao có nhạc trong cành lá
và vì sao nước lại gửi những bản đồng ca
cho lòng đất lắng nghe
Vâng, khi mẹ hát cho con nhảy múa
mẹ hiểu vì sao trong cái cốc của hoa có mật
và vì sao trái cây kín đáo chứa đầy vị ngọt bên trong
( Bao giờ và vì sao )
Khi mẹ hát cho con nghe, mẹ mới thực sự hiểu rằng vì sao “ có nhạc trong cành
lá”, “ vì sao nước lại gửi bản đồng ca”, và vì sao “ trong cái cốc của hoa có mật”. Chính vì
con và tình yêu mẹ dành cho con mà tới bây giờ mẹ mới nhận ra vũ trụ đang dâng tặng tình
yêu cho cuộc đời của mẹ, trong đo có con.
Tóm lại, trong Trăng non, với người mẹ, đứa con là tất cả những điều thiêng
liêng nhất. Khi so sánh và đặt con trở thành một biểu tượng ngang tầm với vũ trụ, Tagore đã
một lần nữa khẳng định quan niệm, tư tưởng con người – Thượng đế tiến bộ của mình. Mãi
mãi trong thơ ông, Con người vẫn là tất cả những gì cao đẹp nhất.
2.2.2 . Người mẹ– Thiên đường trần gian của con
Cũng như tất cả các tôn giáo khác trên thế giới, tôn giáo Ấn Độ là một cuộc hành
trình không mệt mỏi để con người tìm đến cõi Thiên đường, tìm đến với Chúa trời, Thượng
đế. Dường như mọi người dân Ấn đều hướng về Thiên đường, đều tắm gội trong dòng nước
thiêng của sông Hằng và tự nguyện sống cuộc đời khổ hạnh để mong đến được miền siêu
thoát ấy. Trong quyển Biện chứng và giải thoát, tác giả Nghiêm Xuân Hồng cũng từng
nhận xét: “ Trên đại lược , về sự sinh hoạt tinh thần, dân tộc Ấn trong suốt 4.000 năm lịch
sử, có thể coi như một dân tộc có một không hai trên thế giới. Trong tiềm thức, người dân
Ấn nào cũng say sưa với siêu hình học, với sự truy tầm tuyệt đối, với sự thể hiện Thượng
Đế. Tuy ở bên ngoài xã hội, họ cũng sinh hoạt như các xã hội khác… nhưng bên trong họ
vẫn chỉ hằng tha thiết với sự đi tìm những cảnh giới nội tâm. Phần lớn sinh hoạt của người
Ấn đều hướng về việc phụng sự tôn giáo, việc thể hiện Thượng đế trong tâm linh mỗi
người”[ 31, tr. 19].
Tagore là người Ấn nhưng ông không hoàn toàn tin vào Thượng đế cũng như
không tin có sự giải thoát nào để đến được Thiên đường: “ Tôi tin rằng hình ảnh thiên
đường phải nhìn dưới ánh sáng mặt trời và màu xanh của trái đất, trong vẻ đẹp của bộ mặt
người và sự giàu có của cuộc sống con người, cả trong những vật xem ra không đáng kể và
chưa từng có trước kia. Mọi nơi trên quả đất này, tư tưởng thiên đường đang thức tỉnh, từ đó
mà chuyển đi tiếng gọi. Nó đến bên tai ta mà ta không hề biết, tạo âm sắc cho cây thụ cầm
của đời sống, truyền khát vọng đi bằng âm nhạc vượt qua cái hữu hạn, không những bằn lời
cầu nguyện và mong ước mà bằng những ngôi đền, những ngọn lửa trong đá, trong tranh, là
những giấc mơ được biến thành vĩnh cữu, trong điệu múa, là sự suy ngẫm say mê ở cái
trung tâm tĩnh của chuyển động”[45, tr. 382].
Như vậy, với Tagore, thiên đường ( heaven) là cuộc sống trần thế với tất cả những
gì gần gũi quanh ta, là thiên nhiên tươi đẹp, là nụ cười trong sáng của bé thơ, là vòng tay
yêu thương của mẹ… Vì thế, trong Trăng non, Tagore đã khẳng định lại một lần nữa câu
trả lời thiên đường thực sự ở đâu trong việc thể hiện hài hoà mối quan hệ mẹ con qua hai
hình ảnh mang tính triết lí và sáng tạo cao. Nếu con là “Chúa đời” của mẹ thì lòng mẹ
chính là thiên đường trần gian của con. Chúa và Thiên đường không ở đâu xa mà tồn tại
ngay trong tình thương của con và mẹ. Đối với đứa trẻ, nơi nào có mẹ, nơi đó là thiên
đường. Bài thơ số 21 (Người thoáng hiện) Tagore đã thể hiện rõ ý tưởng này: Sau khi mẹ
mất, đứa con trai bảy tuổi ngây thơ hỏi cha: “ Mẹ đâu rồi, cha ơi?” thì “người cha chỉ lên
trời và đáp: Ở trên thiên đàng.” Đêm xuống, đứa trẻ giật mình thức giấc và lén ra ngoài vì
thương nhớ mẹ: “ Cậu ngước mắt lên trời/ và lặng im nhìn kĩ hồi lâu. / Đầu óc phân vân
của cậu /đã ném vào trong đêm tối bao la / cậu hỏi: Thiên đường ở đâu? / không có tiếng
trả lời. / Và những vì sao / trông như những dòng lệ chảy / của đêm đen / không hay biết gì
đâu.”[45, tr.742].
Bài thơ với hai đoạn thơ văn xuôi kết nối với nhau bằng dòng cảm xúc suy tưởng
tìm lời giải đáp cho câu hỏi thiên đường ở đâu. Mạch cảm xúc bài thơ phát triển một cách
tự nhiên dưới dạng đối thoại, một hình thức thường gặp trong các tác phẩm triết học, tôn
giáo Ấn Độ như Veda, Upanishad… Cái tôi trữ tình của nhà thơ chìm khuất sau những lời
đối thoại. Chính nhà thơ đã mượn lời nhân vật để “ném vào đêm tối bao la” câu hỏi : “ thiên
đường ở đâu?” và “ không có tiếng trả lời”. Sự im lặng tuyệt đối đồng nghĩa với câu trả lời:
thiên đường là sự hư vô, là thứ chỉ có trong tưởng tượng. Với đứa bé, chỉ nơi đâu co mẹ,
nơi đó mới thực sự có thiên đường. Nói cách khác, Tagore không tin vào sự có mặt của
thiên đường, ông chỉ biết đến một thiên đường duy nhất mà con người có khả năng tạo dựng
trên trần thế bằng tình yêu, bằng niềm hạnh phúc và cả nỗi khổ đau của chính con người:
Thiên đường sinh ra ở trong con
Trong cánh tay của bà mẹ đất bụi này
(Tặng phẩm của người yêu, 49)
Trong Trăng non, Thiên đường của trẻ được hình thành từ tình yêu của mẹ. Đi với
con đến cuối cuộc đời, mẹ là biểu tượng của sự vĩnh hằng. Ở bài Mây và sóng ta sẽ bắt gặp
một ý tưởng gần gũi như trên. Bài thơ là câu chuyện tâm tình giữa bé với mẹ. Những phút
giao cảm thần tiên của em với thiên nhiên, với mây và sóng đã được em kể lại cho mẹ bằng
sự tưởng tượng diệu kì. Mây và sóng đã rủ em vào một tuần du không hạn định nhưng sợ
mẹ buồn em lại quay về không nỡ đi xa:
Làm sao tôi có thể bỏ mẹ mà đi được?
Thế là họ cười nhảy múa rồi đi xa
Nhưng con biết một trò chơi hay hơn trò chơi ấy
Con sẽ là sóng, mẹ sẽ là một bờ biển lạ lùng
Con sẽ lăn, lăn mãi
Và vỗ vào gối mẹ cười vang
Và không một ai trên cõi đời biết nơi đâu mẹ con ta đang ở
Mở đầu bài thơ là lời mời gọi hấp dẫn của mây và sóng. Đó là những cuộc vui
chơi triền miên từ “ tinh mơ đến hết ngày”. Mây thì: “ chơi với buổi sớm mai vàng”, “ chơi
với vầng trăng bạc”; sóng thì : “ hát từ sớm mai đến tối”… Sự vẫy gọi của thiên nhiên ở
chốn cao xa đầy sức hút vì nó chạm đến đúng niềm mơ ước của trẻ thơ : Nguồn vui và sự tự
do. Bởi thế, trong câu hỏi của bé ẩn chứa một thèm muốn: “ Nhưng tôi làm sao mà lên được
với các người?”. Bé khao khát được tự do trong trí tưởng tượng của mình, được vui đùa
thoả thích nhưng trong tâm hồn bé, bé vẫn băn khoăn: “ Làm sao tôi có thể bỏ mẹ mà đi
được?”. Về với mẹ, bé tìm được trò chơi thú vị hơn nhiều trò chơi mây và sóng : trò chơi
tình mẫu tử. Sợi dây liên kết yêu thương giữa bé và mẹ đã mở ra giữa cõi đời trần thế này
một thiên đường thật sự. Hình tượng mẹ là biểu tượng của cuộc đời với tư cách là đấng sáng
tạo và con ( vật tạo) là kết tinh từ tình yêu của mẹ. Vì thế, khi con hoà nhập vào mẹ ( về với
mẹ) con sẽ tìm thấy được thiên đường.
Là thiên đường trần gian của tình mẫu tử, trong Trăng non, ranh giới giữa cái
thiêng liêng và bình dị có thể hoán đổi với nhau. Mẹ có thể tự hào giải thích tại sao bé có
mặt ở cõi đời này như một vị “Chúa đời” : “ Con là đứa con cưng của Thượng đế, là anh em
sinh đôi với ánh bình minh” ( Buổi sơ khai ), thì cũng có thể ôm bé vào lòng nâng niu, bênh
vực: “Anh muốn nói gì về nó tuỳ anh / nhưng tôi hiểu chỗ yếu của con tôi / Tôi yêu nó không
phải vì nó ngoan nó giỏi / mà là vì đứa con nhỏ của tôi”.( Người phán xử ). Chính tình yêu
thương con vô bờ của mẹ và ý thức đáp đền hiếu thảo của con đã đem đến cho Trăng non
một vẻ đẹp dịu dàng. Ở bài Người phu trạm độc ác, thấy mẹ buồn vì không nhận được thư
cha, bé cho rằng người phu trạm đã giấu đi những lá thư ấy:
Chuyện gì đã xảy ra mà trông mẹ khác mọi ngày
Phải chăng hôm nay mẹ nhận được thư cha?
Con thấy bác phu trạm mang túi thư phát cho hầu hết mọi người trong tỉnh
Riêng thư cha bác giữ đọc một mình
Con chắc bác phu trạm này là một người độc ác.
và bé đã an ủi mẹ bằng cách chính mình sẽ viết thư thay cha. Bé tự tin nghĩ rằng mình viết
sẽ rất hay vì mình yêu mẹ nhất:
Nhưng mẹ đừng buồn vì chuyện đó mẹ ơi
Ngày mai có phiên chợ ở làng bên, mẹ hãy sai chị
đi chợ mua giấy bút
Chính con sẽ viết thư cho cha, mẹ sẽ thấy
không có lấy một lỗi
… Mẹ không nghĩ rằng con có thể viết hay như cha sao!
Tình cảm của bé dành cho mẹ ngây thơ và chân thật. Nó như dòng nước mát lành xoa
dịu những lo âu, cô đơn về sau của mẹ: “ Cuộc đời của chúng ta rồi sẽ bị tách ra/ Và tình ta
sẽ rơi vào quên lãng/ Nhưng ta không điên rồ đến nỗi/ Hy vọng có thể dùng những món quà
để mua trái tim con./ Đời của con còn trẻ, Đường của con còn dài./ Và mối tình ta mang
đến cho con/ Con uống luôn một ngụm/ Rồi con bỏ chúng ta mà quay lưng đi thẳng..” (
Món quà ). Trong dòng sông trần thê, mẹ biết rằng mọi thứ sẽ cuốn đi, con sẽ lớn khôn và
rời bỏ mẹ, thế nhưng tình mẹ dành cho con vẫn không thay đổi, cho đến tận tuổi già con vẫn
là đứa con bé bỏng: “ Dòng sông vừa chảy xiết vừa ca / và đập tan hết những thứ gì ngăn
cản / Nhưng núi thì ở lại nhớ mong / với tấm lòng trìu mến”. Nhà thơ Nga Êxênin, trong bài
Thư gửi mẹ cũng có những dòng thơ cảm động như thế về lòng mẹ thương con. Đó là người
mẹ của Êxênin mà cũng là người mẹ của muôn đời, người mẹ của phương Đông và phương
Tây. Người mẹ mỏi mòn vì thương con, bất cứ nó còn nhỏ hay trưởng thành, không cần
biết nó là anh hùng hay thi sĩ.:
Người ta viết cho con rằng mẹ
Phiền muộn lo âu quá đỗi về con
Rằng mẹ thường lững thững ra đường
Khoác tấm áo choàng xưa cũ nát.
Trong bóng tối buổi chiều hôm xanh ngát
Mẹ mãi hình dung một cảnh tượng hãi hùng
Có kẻ nào vừa đâm trúng tim con
Giữa quán rượu ồn ào, loạn đả
… Chỉ mẹ là niềm vui, ánh sáng diệu kì
Chỉ mình mẹ giúp đời con vững bước
Trong lòng mẹ, đứa con bao giờ cũng nhỏ nhoi, yếu đuối. Dù còn ấu thơ hay đã
trưởng thành, dù thành công hay thất bại mẹ vẫn luôn là điểm tựa yên bình cho con tìm đến,
mẹ là ánh sáng diệu kì soi bước con đi. Giữa cõi đời này, mẹ là người duy nhất yêu con
bằng tình yêu vô điều kiện. Issa, một nhà thơ Nhật Bản, đã nhận thấy ở mẹ một tình yêu bao
la sánh tựa biển trời: “Ôi biển khơi / Khi tôi nhìn thấy biển / Mẹ tôi ơi”. Vì thế, khi băn
khoăn về chuyện tại sao con “ chọn mẹ trong muôn người , tới cửa mẹ, nắm tay mẹ và hỏi
đường”, “ vừa cười vừa nói. Lòng không chút hồ nghi” thì Tagore đã lí giải vì “ mẹ giữ lòng
tin của nó, dẫn nó đi thẳng và cầu chúc cho nó”, “ đặt tay lên đầu nó khấn rằng dù sóng
ngầm có đe doạ đến đâu, linh khí từ trên cao cũng sẽ thổi căng buồm đưa nó đi tới cõi bình
yên”(Ban phước ). Trong vòng tay của mẹ, con luôn cảm thấy bình yên. Mẹ là chốn yên
bình, là nguồn vui bất tận mà cuộc đời đã ban tặng cho con. Được sống trong vòng tay yêu
thương của mẹ, “ còn dịu dàng hơn tất thảy tự do”:
... Trên mảnh đất của vầng trăng non bé bỏng
Bé tự do không hề bị ràng buộc chút nào
Nhưng không phải tự nhiên mà bé không cần đến tự do
Bé biết rằng trong góc nhỏ trái tim của mẹ
Có chứa một niềm vui vô tận, vô cùng
Và được ghì, được ôm chặt trong cánh tay thân yêu của mẹ
Còn dịu dàng hơn tất thảy tự do
( Cung cách của bé )
Vì thế, khi con mẹ là con nghĩ về những điều thân thương và thiêng liêng nhất.
Giọng hát, mùi hương và tình yêu của mẹ là những kí ức tươi đẹp nhất trong trái tim con,
linh thiêng và bất tử:
Tôi không thể nhớ rõ mẹ tôi
Chỉ đôi khi đang giữa cuộc nô đùa
Tôi nghe một giọng nào như bay lượn trên đồ chơi của tôi
Giọng của một bài hát nào xưa kia mẹ tôi vẫn thường khe khẽ ru tôi.
Tôi không thể nào nhớ rõ mẹ tôi
Nhưng khi trong buổi sáng một mùa thu sớm
Hương hoa siuli ngào ngạt khắp bầu trời
Mùi hương trong đền của buổi lễ ban mai
Đến với tôi như mùi hương của mẹ
Tôi không thể nào nhớ rõ mẹ tôi chỉ khi từ cửa sổ phòng tôi
Tôi đưa mắt nhìn lên khoảng trong xanh của bầu trời xa thẳm
Tôi cảm thấy cái nhìn yên tĩnh của mẹ tôi đã toả khắp bầu trời.
( Bài 64, Thơ )
Tóm lại, bằng những lời thơ ngọt ngào, sâu lắng, Tagore đã xây dựng nên một thiên
đường trần gian tràn ngập tình mẫu tử thiêng liêng. Chính ở nơi đó, cõi chân phúc của con
người sẽ thật sự mở ra và nguồn vui bất tận sẽ chào đón con người.
*
Vẻ đẹp thế giới tâm hồn trẻ thơ là điểm sáng chủ đạo trong Trăng non. Vẻ đẹp
đó được chiếu rọi qua thiên nhiên tươi đẹp, qua tình mẫu tử thiêng liêng, sâu đậm. Với
Tagore, tâm hồn thánh thiện của trẻ thơ, tình yêu thương vô biên của con và mẹ là nguồn ánh sáng diệu kì hướng con người đến giá trị Chân – Thiện – Mĩ.
CHƯƠNG 3
NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
THẾ GIỚI TRẺ THƠ TRONG TRĂNG NON
3.1 Vài nét về thi pháp thơ cổ điển của văn học Ấn Độ
Một trong những nguyên lí cơ bản của thi pháp học cổ điển Ấn Độ là thi pháp thơ cổ
điển – Alankara. Người đặt nền móng cho hướng nghiên cứu này ( từ thế kỉ II )là Bharata,
một tu sĩ Bàlamôn sùng kính và thông thái trong giáo trình kịch Natyasastra. Nhưng phải
đến khoảng thế kỉ V – VI, hướng nghiên cứu này mới thực sự được khởi đầu chính thức với
công trình Kavyalankara – Vẻ đẹp của thơ ca của Bhamaha. Đây được xem là công trình lí
luận về thơ có hệ thống đầu tiên quan trọng nhất trong kho tàng thi pháp học cổ điển Ấn Độ.
Alankara có nghĩa từ nguyên là “ sự trang sức, trang điểm”, về sau được dùng với
nghĩa là “vẻ đẹp” để chỉ tất cả những gì đóng góp cho vẻ đẹp của thơ ca. Trong nghĩa hẹp,
Alankara chỉ các biện pháp tu sức ngôn từ, trong nghĩa rộng, nó bao gồm tất cả những thủ
pháp nghệ thuật, phong cách văn chương… Ở đây, trong phạm vi đề tài luận văn, chúng tôi
chỉ tìm hiểu Alankara một cách khái quát nhất dưới góc độ là những hình thức tu sức về ngữ
nghĩa.
Khi nghiên cứu Alankara dưới góc độ những hình thức tu sức về ngữ nghĩa, các nhà
lí luận Ấn Độ đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tựu trung lại họ cho rằng so sánh
và ngoa dụ tạo nên nòng cốt thơ ca. Theo Bharata, so sánh là tài sản chính của nhà thơ.
Ông khẳng định mọi Alankara đều dựa trên nền tảng sự tương đồng và khác biệt giữa đối
tượng được so sánh và đối tượng so sánh. Để so sánh khuôn mặt người tình với vầng trăng,
văn học Ấn có thể có đến hai mươi hình thức tu từ trên nền tảng so sánh ( trong đó, ngoài
những hình thức so sánh khác nhau như: so sánh điển hình, so sánh trùng điệp, so sánh với
chính nó…còn có các hình thức ẩn dụ, ngoa dụ, minh hoa, phủ định…). Chẳng hạn như, khi
miêu tả vẻ đẹp người thiếu nữ, nhà thơ Bhartrihari ( sống vào khoảng thế kỉ V ) đã dùng
hình thức tu từ phủ định để so sánh vẻ đẹp của nàng với những hình ảnh thiên nhiên:
Gương mặt nàng đâu phải là trăng
Đôi mắt nàng không hạt sen huyền
Và cánh tay không là ngọc thạch
Nàng chỉ là xương thịt làm nên
Các nhà thơ chỉ là dối trá
Nhưng ta yêu nàng, dối trá ta tin
( Nhật Chiêu dịch) [ 6, tr. 133]
Và một nhà thơ khác, Jayadeva, sống vào khoảng cuối thế kỉ XII, cũng dùng hình thức so
sánh đơn để miêu tả vẻ đẹp của các nữ mục tử:
Ta muốn nghe em nói
Dù chỉ một đôi lời
Và khi răng hé sáng
Hoá một làn trăng soi
Thì bóng đêm tối ám
Rồi cũng sẽ tan thôi
Gương mặt em sẽ mọc
Như một vầng trăng ngà
Trong mắt ta lấp lánh
Đôi mắt nàng Radha
…Hãy cho ta được uống
Khuôn mặt em sen hồng
Trong đại dương hiện hữu
Của đời ta vô cùng
Em là viên ngọc sáng
Từ sâu thẳm mênh mông
…Hãy cho ta đuợc uống
Gương mặt em sen hồng
( Nhật Chiêu dịch)[ 6, tr. 135]
Bên cạnh hình thức tu từ so sánh, các nhà lí luận còn chú ý đặc biệt đến ngoa dụ.
Nếu Bharata cho rằng ngoa dụ chỉ là một dạng của so sánh được đẩy tới nói quá thì ngược
lại, Bhamaha khẳng định so sánh chỉ là một dạng của ngoa dụ vì hàm ẩn trong mọi so sánh
đều có khoa trương, phóng đại. Ví dụ, trong bi ca Sứ mây, thành tố ngoa dụ xuất hiện trong
hình thức so sánh, nỗi khao khát, nhớ thương người yêu cao đầy như ngọn núi:
Khát khao say đắm người yêu dấu
ngày càng chồng chất thành một núi tình [ 34, tr.197]
Như vậy, dù ý kiến có trái ngược nhau, các nhà lí luận Ấn đều coi trọng vai trò
của so sánh và ngoa dụ trong vấn đề sáng tạo thơ ca. Với ngươi Ấn, giữa con người và
thiên nhiên luôn có mối quan hệ hoà hợp, bình đẳng với nhau. Trong tư tưởng tôn giáo của
họ, thiên nhiên cũng có linh hồn. Vì thế, khi sáng tác thơ ca, họ thường so sánh thiên nhiên
cũng giống con người. Trong ý niệm của họ, biện pháp nhân hoá không hề tồn tại. Họ mặc
nhiên xem thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó, và vì thế trong thơ ca, những hình
ảnh thiên nhiên có phẩm chất, hành động, cảm nghĩ… như con người đều được xếp vào một
nhóm miêu tả khách quan như bản chất nó là như thế và nhóm khác là ngoa dụ. Sau đây là
một ví dụ về hình thức tu từ dựa trên nền tảng ngoa du và so sánh: Trong bi ca Sứ mây, khi
miêu tả đám mây Kalidasa đã dùng những hình ảnh ngoa dụ sau:
- “ Những đám mây và những đấng minh quân vĩ đại được thế gian yêu quý, tụng
ca vì đều khoan dung ban phát mưa móc, cởi bỏ sự nóng nực ngột ngạt khắp
mọi nơi”[34, tr. 161]
- “ Da người ( đám mây) tuy đen tối, nhưng linh hồn cao thượng của người
vằng vặc sáng trong”[34, tr. 197]
Và khi miêu tả nỗi nhớ thương của người vợ trẻ xa chồng, nhà thơ đã dùng hình ảnh
dòng sông mùa cạn để so sánh:
“ Và chỉ mình người thôi, đám mây mưa
như người tình hạnh phúc
Có thể làm tươi tắn lại nàng sông sầu thương do xa cách với người
Những khúc chảy quanh co là bím tóc rối bời
Cô dâu trẻ vắng chồng không thiết chải
Đợt đợt lá vàng khô trút trên dòng nước chảy
khuôn mặt nàng thêm xơ xác héo hon” [34, tr. 193]
Về mặt lí luận, trong thi pháp thơ cổ điển Ấn, ngoa dụ và so sánh là hai biện pháp
nghệ thuật được đề cao đặc biệt. Thế nhưng, khi đi vào trong các tác phẩm thơ ca cổ điển
Ấn Độ cụ thể, chúng ta có thể thấy rằng bên cạnh hai biện pháp nghệ thuật này các tác giả
còn sử dụng thêm rất nhiều những biện pháp nghệ thuật khác như ẩn dụ, tượng trưng,
tương phản… Với ý nghĩa mang lại vẻ đẹp cho thơ ca, đến tận thời hiện đại, Alankara vẫn
giữ nguyên giá trị hưũ dụng của nó. Điều này chúng ta có thể thấy rõ ở R. Tagore.. Đối với
ông , một bài thơ phải có sự hoàn chỉnh ở vẻ đẹp ngôn từ, phải làm lòng người rung động:
“thơ ca luôn tìm cách lựa chọn những từ ngữ giàu năng lực sống, những từ ngữ không chỉ
thông báo mà hoà nhập trong trái tim chúng ta, những từ ngữ không thể mang trang phục
sờn mòn, nhàu nhĩ do đã bị sử dụng thường xuyên, nhàm chán trên thị trường”[ 34, tr. 84].
Riêng ở Trăng non, bằng việc sử dụng những thủ pháp nghệ thuật một cách sáng tạo và độc
đáo , ông đã tạo dựng trong tập thơ hình tượng thiên nhiên - một “thiên đường kì diệu của
các giác quan”. Trong góc nhìn của ông, thiên nhiên luôn có linh hồn và song hành cùng trẻ
thơ. Ngoài tình mẹ, thiên nhiên là thiên đường thứ hai nhiều đam mê và quyến rũ.
3.2 So sánh – Trường liên tưởng độc đáo trong Trăng non
Theo Phong cách học tiếng Việt hiện đại của Hữu Đạt so sánh là “ đặt hai hay
nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra những điểm giống và
khác nhau giữa chúng”. Cần phân biệt giữa “so sánh logic” ( comparision) với “so sánh tu
từ” ( simile).
So sánh logic : là phép liên tưởng dựa trên những nét giống nhau hay gần giống
nhau giữa hai đối tượng đem so sánh, trong đó hai vế đem so sánh phải cùng loại và cùng
bản chất. Tính chất của phép so sánh này là đối chiếu sự tương đương, ngang bằng nhau
giữa hai đối tương, nó có tính chính xác cao.
Ví dụ: A học giỏi như B
So sánh tu từ: là phép liên tưởng chỉ dựa vào một nét tương đồng nào đó của hai
đối tượng đem ra so sánh, trong đó hai vế so sánh có thể khác loại, khác bản chất. Vì là so
sánh có tính chất nghệ thuật nên đôi khi nó có tính khoa trương.
Ví dụ: Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương
( Ca dao )
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, so sánh tu từ còn được gọi là tỉ dụ. Đó là “
phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện
tượng có những dấu hiệu tương đồng nhằm làm bật nổi đặc điểm, thuộc tính của hiện tương
này qua đặc điểm, thuộc tính của hiện tương kia”[27, tr. 282]. So sánh thường có hai vế: vế
được so sánh và vế so sánh.
Trong văn học dân gian, người ta thường lấy những sự vật cụ thể hoặc những hiện
tượng tự nhiên làm chuẩn mực so sánh nhằm cụ thể hoá những hiện tượng trừu tượng.
Ví dụ: Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày
( Ca dao )
Trong văn học viết, chức năng của so sánh tu từ rất đa dạng. Có khi so sánh được
sử dụng như một phương tiện tạo hình, hoặc phương tiện biểu hiện hay kết hợp cả biểu hiện
lẫn tạo hình. Vì lẽ này nên chuẩn mực so sánh trong văn học viết rất đa dạng, bất ngờ và độc
đáo. Ví dụ: “ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” ( Xuân Diệu) .
Về mặt hình thức, so sánh tu từ có hai dạng: so sánh tu từ nổi ( nét giống nhau
biểu hiện bằng từ ngữ cụ thể) và so sánh tu từ chìm ( nét giống nhau khuyết đi, không được
phô bày, tuỳ vào sự liên tưởng của người tiếp nhận ).
Như trên đã nói, trong thi pháp thơ cổ điển Ấn Độ, so sánh được xem là tài sản
chính của nhà thơ. Điểm qua một số tác phẩm văn học Ấn từ thời văn học Veda cho đến
thời hiện đại, ta thấy phép so sánh chính là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng rất phổ
biến. Trong sử thi Ramayana, bên cạnh các biện pháp nghệ thuật khác, so sánh nổi bật lên
là một biện pháp nghệ thuật có tác dụng biểu đạt cao. Trong trích đoạn Hồ Pampa, để diễn
đạt nỗi thương nhớ của Rama dành cho Sita giữa mùa xuân , mùa kết đôi tràn đầy hạnh
phúc, Vanmiki đã sử dụng một loạt các hình ảnh so sánh gắn liền với thiên nhiên: “ Mùa
xuân, như lửa, đang thiêu đốt anh đến là khổ – hoa Ashoka đỏ là than hồng, tiếng vo ve của
đàn ong là tiếng lửa vèo vèo và lá màu đồng thau là ngọn lửa! Những ý nghĩa về nàng đang
thiêu cháy anh, gió mùa xuân không thể quạt cho anh mát dịu được”.
Có thể nói, dùng thiên nhiên làm đối tượng để so sánh với con người là một đặc điểm độc
đáo trong văn học Ấn . Với họ, sức mạnh và vẻ đẹp của tự nhiên cũng chính là sức mạnh và
vẻ đẹp lí tưởng mà con người vươn đến. Lối so sánh con người với tự nhiên không chỉ xuất
hiện trong thời cổ đại với các bộ sử thi nổi tiếng, mà đến thời cổ điển, thời cận hiện đại nó
vẫn xuất hiện với một tác dụng nghệ thuật rất cao. Trong sử thi Mahabharata, “sen” là một
hình ảnh thường được sử dụng để so sánh với vẻ đẹp hoàn thiện và lí tưởng của con người:
“ Một trăm con trai của Dhritarashatra lớn nhanh như những bụi sen trong hồ”, nàng
Draupadi có“đôi mắt như những đoá sen mùa thu”, và “ khuôn mặt nàng, khi đẫm mồ hôi
trông như những bông sen hay hoa nhài”. Đến thời cổ điển, hình ảnh “sen” lại tiếp tục đi
vào thơ ca để ca ngợi vẻ đẹp con người:
Những ngón tay kết với nhau bằng một làn da
Như hình hoa sen vươn cánh
Lúc rạng đông mới hé nửa vời
(Kakidasa – Sơkuntơla )
Và ở thời hiện đại, đến với R. Tagore, hình ảnh “sen” trở thành biểu tượng cho cái
đẹp, cho sự thanh cao của tâm hồn, cho tình yêu vĩnh cữu: “ Chỉ xin được phép nâng bàn
tay nhỏ nhắn của Người, bàn tay như những búp sen nõn nà”( Người làm vườn, bài 1).
Kế thừa nghệ thuật so sánh truyền thống của thơ ca Ấn Độ, trong các sáng tác của
mình, R. Tagore luôn lấy thiên nhiên làm đối tượng so sánh. Thiên nhiên là một chuẩn mực,
một ngữ liệu phong phú và bất tận giúp nhà thơ bộc lộ tư tưởng. Lấy chất liệu là hình ảnh
thiên nhiên trong cuộc sống đời thường Tagore đã cụ thể hoá những vấn đề trừu tượng, tinh
tế trong đời sống tinh thần Ấn Độ bằng những hình thức so sánh độc đáo:
“ Chỉ xin để tôi biến đời mình thành bình dị, thẳng ngay, như chiếc
sáo sậy để người phả đầy âm nhạc vào trong”
( Thơ Dâng, bài số 7)
“ Thân này – thuyền nhỏ mỏng manh
Xác này – Cây gậy khẳng khiu”
( Thơ Dâng, bài 1)
“Ánh sáng nô đùa trong đám lá xanh
Như một đứa bé trần truồng
May mắn không biết rằng
Con người có thể giả dối”
( Những con chim bay lạc, bài 16)
Riêng ở Trăng non, do thiên nhiên được khai thác qua ánh mắt trẻ thơ nên sự so
sánh có nhiều mới lạ. Bên cạnh đó, các dạng thức so sánh cũng phong phú hơn. Ngoài dạng
thức so sánh đơn, so sánh chuỗi còn có so sánh mở rộng với trường liên tưởng độc đáo.
Chính dạng thức so sánh này đã đem đến cho Trăng non một sắc màu kì diệu. Nó không
chỉ thể hiện cái nhìn tinh tế của Tagore về trẻ nhỏ mà nó còn khẳng định sự kế thừa truyền
thống văn học dân tộc một cách sáng tạo của nhà thơ.
Trong Trăng non dạng so sánh đơn xuất hiện tương đối nhiều. Nó là dạng so sánh
ngầm, lấy cái trừu tượng để nói cái cụ thể. Dạng so sánh này tạo ra những hình ảnh mang
tính triết lí và sáng tạo cao, gợi ra nhiều liên tưởng độc đáo cho người tiếp nhận. Ở bài
Buổi sơ khai , bằng hàng loạt những hình ảnh thiên nhiên trừu tượng mang tính triết lí cao,
người mẹ đã giải thích cho con về cội nguồn của nó:
Khi trong thời con gái, trái tim mẹ nở xoè như một đoá hoa
Con đã lượn quanh nó như mùi hương phảng phất
Vẻ tươi mát nhẹ nhàng của con
nở trên chân tay non trẻ của mẹ
như một ánh hồng
trên trời cao
trước buổi bình minh.
Con la đứa con cưng của Thương Đế
La anh em sinh đôi với ánh bình minh
Không biết sự kì diệu nào
Đã chiếm lĩnh cái kho vàng trên cõi thế
Và đặt vào đôi tay mảnh khảnh của mẹ đây”
( …When in girlhood my heart was opening its petals, you hovered as a
fragrance about it.
Your tender softness bloomed in my touthful limbs, like a glow in the sky
before the sunrise.
Heaven`s first darling, twin – born with the morning light, you have floated
down the stream of the world`s life, and at last you have stranded on my heart
As I gaze on you face, mystery overwhelms me, you who belong to all have
become mine
For fear of losing you I hold you tight to my breast. What magie has snared the
world`s treasure in these slender arms of mine?”)[ 66, tr.16]
Với nguồn gốc thần tiên, trong lòng mẹ, con là hiện thân của tất cả những gì linh
thiêng và thần thánh nhất. Bài thơ gồm mười hai câu (trong nguyên tác ), nhưng đã có đến
bảy câu dùng hình thức so sánh đơn.. Cách sử dụng hàng loạt những hình ảnh so sánh cho
một đối tượng được so sánh (con) tạo thành dạng so sánh chuỗi độc đáo trong cả bài thơ.
Dạng so sánh này xuất hiện với tần số cao trong Trăng non mang tính biểu cảm và gợi hình
rất cao. Nó diễn đạt trọn vẹn tình cảm dạt dào mẹ dành cho con hay ngược lại, của con dành
cho mẹ. Ở bài Buổi sơ khai ( The beginning), với hàng loạt những hình ảnh so sánh, người
mẹ đã thể hiện tấm lòng yêu thương và niềm tự hào, hạnh phúc vì có con trên cõi đời này:
ước mơ ( của mẹ )
vị Chúa của mẹ
niềm hy vọng, thương yêu trong đời mẹ
Con mùi hương phảng phất
ánh hồng trước buổi bình minh
con cưng của thượng đế
anh em sinh đôi với ánh bình minh
kho vàng trên cõi thế
Trong cái nhìn của mẹ, con luôn được đặt trong thế ngang bằng cùng vũ trụ, con là
ánh bình minh, là vị Chuá đời, là mùi hương phảng phất …, và con cũng là những gì thân
thuộc, bình dị trong cuộc sống chung quanh: con là một ăn mày nhỏ đáng yêu, một nụ đời
tươi xinh của mẹ ( Đám rước không ngờ ), con ngự trị ở vô biên, vĩnh hằng và cả trong
lòng mẹ nữa. Vì yêu con, mẹ nguyện bên con suốt đời, đến tận bến bờ thế giới không tên:
Con ơi, bài ca mẹ sẽ uốn điệu nhạc quanh con như vòng tay âu yếm
Bài ca mẹ sẽ mơn trớn trán con như cái hôn chúc lành
Khi con đơn độc, bài ca sẽ ngồi cạnh con thì thầm bên tai, khi con trong đám
đông người, bài ca sẽ làm rào cản con xa cách
Bài ca mẹ sẽ như đôi cánh chấp vào mộng mơ con, đưa lòng con đến tận bến bờ
không tên
No sẽ như ngôi sao chung thủy trên đầu khi đường con đêm tối mịt mù.
Với một chuỗi những so sánh liên tiếp được mở rộng trên bình diện toàn bài thơ,
Bài ca mẹ thể hiện tấm lòng yêu con vô điều kiện của mẹ. Từ một khái niệm trừu tượng (
my song), Tagore đã đưa hình ảnh bài ca mẹ trở thành một biểu tượng đẹp về tình mầu tử.
So sánh dạng A ( bài ca mẹ) như là B, C, D… vừa giúp Tagore cụ thể hoá một khái niệm
trừu tượng vừa giúp người đọc đi đến tận cùng bản chất của đối tượng . Mặt khác, với việc
sử dụng từ “like” để so sánh một cach trực tiếp đối tượng cần so sánh, Tagore đã thành
công khi thể hiện tình cảm thiêng liêng, gần gũi của mẹ dành cho con. Hơn nữa, cách thể
hiện đơn giản như thế cũng rất phù hợp với tâm lí trẻ thơ:
This song of mine will wind its music around you, my child, like the fond arms of
love
This song of mine will touch your forehead like a kiss of blessing
… My song will be like a pair of wings to your dreams, it will transport your heart to
the verge of the unknown
It will be like the faithful star overhead when dark night is over your road…[66,tr.
78]
Trong Trăng non, Tagore sử dụng khá nhiều dạng so sánh chuỗi. Em bé thiên thần
là một trong những bài thơ có dạng thức so sánh như thế, nhưng đặc biệt hơn, ở bài thơ này,
đối tượng so sánh không chỉ là một hình ảnh A mà phong phú, đa dạng hơn. Bài thơ vừa có
dạng so sánh trực tiếp ( A như B ), vừa có dạng so sánh mở rộng, sóng đôi, tương phản hai
hình ảnh Trẻ con – Người lớn. Đây là một sáng tạo độc đáo của Tagore:
Con ơi, hãy để đời con đến với họ như ngọn đuốc sáng, bền vững tinh khôi,
khiến cho họ say mê, im lời.
Họ độc ác trong tham lam và ghen tị, lời họ như những con dau giấu kín khát
máu người.
Con ơi hãy bước tới đứng giữa những tấm lòng quạu cọ và đoái nhìn họ với
cặp mắt hiền từ như cái an bình bao dung của buổi chiều phủ trên một ngày tranh đấu
Con ơi, hãy để họ thấy mặt con, và như thế hiểu nghĩa của muôn loài, hãy để họ
yêu con và như thế họ yêu thương nhau
Con ơi, hãy đến ngự trong lòng cái vô biên. Bình minh con mở rộng và cất cao
trái tim như một bông hoa nở, và hoàng hôn con cúi đầu yên lặng làm tròn sự thờ phượng
trong ngày.
Vì yêu con mà người mẹ kiêu hãnh so sánh đồng nhất con với “ ngọn đuốc sáng
tinh khôi, bền vững”. Hình ảnh của con đối lập với xã hội người lớn đố kị, tham lam. Với lối
so sánh vừa tương phản vừa trừu tượng , Tagore đã làm bật nổi tâm hồn thánh thiện của trẻ
thơ khi đưa ra hàng loạt những hình ảnh so sánh mang tính triết lí cao: Con là bình minh, là
hoàng hôn , và trái tim con cất cao như một bông hoa nở, con là tất cả những điều tốt đẹp ở
cõi đời này. Con mang niềm vui, tình yêu đến cho trần thế và với mẹ, con luôn dành trọn
những tình cảm thiết tha:
Con sẽ thành một luồng khí nhẹ vuốt ve mẹ, và con sẽ là sóng lăn tăn trong
nước mẹ tắm, hôn mẹ và hôn mẹ nữa
…Bằng những ánh trăng lạc loài (là) con sẽ lẩn vào giường mẹ, nằm trên ngực
mẹ khi mẹ ngủ
Con sẽ thành giấc mộng, và qua riềm mi mẹ hé mở, con sẽ vào sâu giấc mẹ mơ,
khi tỉnh dậy, mẹ nhìn quanh ngơ ngác, lúc đó, (con ) như con đom đóm lấp lánh con sẽ lướt
vào bóng đêm.
Đêm đến, Tết trung thu, trẻ con hàng xóm tới nhà đùa chơi, con sẽ tan vào
nhạc sáo du dương trong tim mẹ suốt ngày
( Chung cuộc )
( I shall become a delicate draught of air and caress you, and I shall be ripples
in the water when you bath, and kiss you and kiss you again.
… On the straying moonbeams I shall steal over your bed, and lie upon your
bosom while you sleep.
I shall become a dream, and through the little opening of your eyelids I shall
slip into the depths of your sleep; and when you wake up and look round startled, like a
twinkling firefly I shall flit out into the darkness.
When, on the great festival of puja, the neighbours’ children come and play
about the house, I shall melt into the music of the flute and thrrob in your heart all day.) [
66, tr.66]
Với một chuỗi những so sánh nhiều tầng bậc, đối tượng được so sánh là con trong
bài thơ trên đã thể hiện tình yêu thương chân thành của mình dành cho mẹ. Bằng những
hình ảnh so sánh đậm chất thần tiên, đứa con đã đến với mẹ theo liên tưởng riêng của nó:
qua giấc mộng, qua làn nước êm đềm cho mẹ tắm, qua nhạc sáo du dương, qua con đom
đóm diệu kì… và cao hơn cả là qua linh hồn và thân xác mẹ: “ nó ở trong đôi mắt tôi, trong
thân thể tôi, và trong linh hồn tôi”.
Trong sáng tạo thơ ca, liên tưởng là một đặc điểm quen thuộc của thủ pháp nghệ
thuật so sánh, đặc biệt là ở thể thơ văn xuôi, một thể thơ được xem là tự do nhất trong mọi
thể loại thơ ca. Dưới áp lực dồn nén của dòng cảm xúc và niềm khát khao được bộc lộ, giãi
bày, tác phẩm thơ văn xuôi vừa phát triển theo trục dọc của một bài thơ tự do vừa mở rộng
liên tưởng theo hình thể tuyến tính của văn xuôi. Câu thơ văn xuôi có được sự kết hợp hài
hoà giữa tư duy logic và tư duy hình tượng, cấu trúc câu thơ nhiều tầng bậc, hình ảnh cho
nên nó vừa là đơn vị cơ bản, vừa là tế bào làm nên sức sống cho cả bài thơ. Với những đặc
điểm đó, trong thơ văn xuôi, liên tưởng so sánh đã trở thành một thủ pháp nghệ thuật đắc
dụng và độc đáo, sau đây là một số ví dụ cụ thể :
“ Khi người, đám mây như tấm lụa đen ướt sũng, mắc hong trên đỉnh
non cao
Sườn núi lớp lớp những cây xoài lúc lỉu trái vàng chín mọng
Người như núm vú sẫm màu nghỉ ngơi trên ngực trắng của nàng trái đất
Một cảnh tượng dịu dàng khiến các đôi lứa thiên thần cũng run rẩy con tim”
( Sứ mây, Kalidasa )
hay:
“Nàng gần tôi như bông hoa gần đất lành, dịu dàng với tôi như giấc ngủ đối với tay
chân thấm mệt, rã rời. Tình yêu tôi dành cho nàng là cuộc đời tôi sống, tràn trề như dòng
sông vào dịp nước lũ mùa thu, tuôn chảy thảnh thơi”
( Bài số 4, Tặng phẩm của người yêu)
Trong Trăng non, so sánh với trường liên tưởng mở rộng là hình thức nghệ
thuật cơ bản mang lại nét độc đáo riêng cho cả tập thơ khi đi vào thể hiện sự kì diệu, tươi
đẹp của thế giới trẻ thơ. Hình thức so sánh này không chỉ mang đến cho câu thơ một khả
năng truyền cảm mà còn có khả năng gợi cảm, khơi dậy trí tưởng tượng của người tiếp
nhận:
- Hỡi cây đa tóc râu tua tủa đứng bên bờ ao, ngươi có quên đứa bé, như những
con chim làm tổ trên cành rồi bỏ ngươi hay không?
… Những người đàn bà mang bình ra ao kín nước, và cái bóng đen kếch xù của
ngươi đong đưa trên mặt ao như giấc ngủ cựa mình thức dậy.
Anh mặt trời nhảy múa trên những sóng lăn tăn như muôn ngàn con thoi tí hon
không ngừng dệt tấm thảm vàng.
( Cây đa)
( O you shaggy – headed banyan tree standing on the bank of the pond, have you
forgotten the little child, like the birds that have nested in your branches and left you?
… The women would come to fill their jar in the pond, and your huge black
shadow would wriggle on the water like sleep struggling to wake up.
Sunlight danced on the ripples like restless tiny shuttles weaving golden
tapestry. ) [ 66, tr.72]
- Khi bụi mưa sụp xuống chân trời xa, và chớp lóe lên như một cơn đau nhức
nhối, chàng có nhớ bà mẹ bất hạnh bị nhà vua ruồng bỏ đang vừa lấy tay lau nước mắt vừa
quét chuồng bò, trong khi chàng rong ruổi qua sa mạc trong câu chuyện thần tiên?
( Đất trích )
( When the haze of the rain comes down in the distant sky, and lighting starts
up like a sudden fit of pain, does he remember his unhappy mother, abandoned by the king,
seeping the cow – stall and wiping her eyes, while he rides through the desert of Tepanter in
the fairy tale?) [ 66, tr.35]
Về thực chất, những so sánh trên đây không có gì mới lạ về cấu trúc nhưng lại
luôn có khả năng mang đến một cảm giác bất ngờ, tạo nên hứng thú thẩm mỹ cho người
tiếp nhận. Sức hấp dẫn và ý nghĩa của cái được so sánh phụ thuộc nhiều vào những hình
ảnh so sánh. Chẳng hạn như khi miêu tả cảnh hoàng hôn, Tagore đã sử dụng rất nhiều
những hình ảnh so sánh với sự liên tưởng thú vị:
- Cảnh mặt trời lặn mùa thu đã đến với tôi ở khúc đường quanh, trong chỗ
hoang vu, quạnh quẽ như một cô dâu lật tấm mạng lên đón nhận người yêu.
( Những đóa nhài đầu tiên)
( Autumn sunsets have come to me at the bend of a road in the lonely waste,
like a bride raising her veil to accept her lover. ) [ 66, tr.70]
- Tôi bước một mình trên con đường vắt ngang đồng khi hoàng hôn che giấu
những ánh vàng cuối cùng như một kẻ biển lận.
( Nhà)
( I paced alone on the road across the field while the sunset was hidding its
last gold like a miser.) [ 66, tr.1]
Cũng như nhiều thi phẩm khác của Tagore, Trăng non luôn thể hiện sự phóng
túng tự do, vượt qua mọi rào cản của vần điệu. Dòng cảm xúc của nhà thơ chảy tràn lên câu
thơ một cách tự nhiên, các hình ảnh so sánh nối tiếp trùng điệp với nhau tạo nên một thế
giới trẻ thơ nhiều sắc thái. Đa số các bài thơ đều sử dụng so sánh để tổ chức lời thơ: Em bé
thiên thần, Chung cuộc, Buổi sơ khai, Đám rước không ngơ, Ngày mưa, Cây đa, Nha,
Những đóa nhài đầu tiên, Bài hát của mẹ, Chú lái buôn, Đất trích, Khuynh hướng, Cung
cách của bé… Thậm chí có bài thơ chỉ có sáu câu nhưng trong đó đã có bốn câu được xây
dựng trên hình thức so sánh:
Họ la lối tranh giành, họ hoài nghi và tuyệt vọng, họ cãi cọ chẳng bao giờ
thôi.
Con ơi, hãy để đời con đến với họ như ngọn đuốc sáng, bền vững tinh khôi,
khiến cho họ say mê, im lời.
Họ độc ác trong tham lam và ghen tị, lời họ như những con dau giấu kín khát
máu người.
Con ơi hãy bước tới đứng giữa những tấm lòng quạu cọ và đoái nhìn họ với
cặp mắt hiền từ như cái an bình bao dung của buổi chiều phủ trên một ngày tranh đấu
Con ơi, hãy để họ thấy mặt con, và như thế hiểu nghĩa của muôn loài, hãy để họ
yêu con và như thế họ yêu thương nhau
Con ơi, hãy đến ngự trong lòng cái vô biên. Bình minh con mở rộng và cất cao
trái tim như một bông hoa nở, và hoàng hôn con cúi đầu yên lặng làm tròn sự thờ phượng
trong ngày.
( Em bé thiên thần)
( They clamour and flight, they doubt and despair, they know no end to their
wranglings.
Let your life come amongst them like a flame of light, my child, unflickering
and pure, and delight them into silence.
They are cruel in their greed and their envy, their words are like hidden
knives thirsting for blood.
Go and stand amidst their scowling bearts, my child, and let your gentle eyes
fall upon them like the forgiving peace of the evening over the strife of the day.
Let them see your face, my child, and thus know the meaning of all things; let
them love you and thus love each other.
Come and take your seat in the bosom of the limitless, my child. At sunrise
open and raise your heart like a blossoming flower, and at sunset bend your head and in
silence comeplete the worship of the day.) [ 66, tr.79]
Tóm lại, bằng việc vận dụng một cách sáng tạo thủ pháp so sánh truyền thống
trong thơ ca dân tộc, Tagore đã mang đến cho Trăng non một vẻ đẹp lung linh, kì diệu.
Trường liên tưởng “ vũ trụ hóa” trong thơ ông là sự sáng tạo độc đáo. Nhờ đó mà sự vật,
hiện tượng trong Trăng non mang những sắc màu mới lạ, mở rộng các tầng nghĩa hơn so
với thơ ca truyền thống.
3.3. Nhân cách hoá – Sự huyền diệu hoá thế giới trẻ thơ
Theo Từ điển văn học, nhân cách hoá ( personify ) là khái niệm chỉ một dạng đặc
biệt của ẩn dụ, chuyển những đặc điểm của con người sang những đối tương và hiện tượng
không phải người hoặc không có đặc tính của cơ thể sống. Dựa vào chức năng của biện
pháp nhân cách hoá trong ngôn từ nghệ thuật và sáng tác văn học, có thể phân chia các loại
nhân cách hoá như sau:
+ Nhân cách hoá “ như một kiểu tu từ, gắn với khả năng nhân cách hoá như là bẩm
sinh, vốn có ở mọi sinh ngữ đồng thời cũng gắn với truyền thống từ chương, truyền thống
của lời văn diễn thuyết, ở cấp độ này, nhân cách hoá vốn có trong mọi lời nói biểu cảm, ví
dụ như: gió thổi, con tim thì thầm…”[ 64, tr. 1252]
+ nhân cách hoá là “ loại ẩn dụ gần với lối tạo ra sự song hành, đối sánh về tâm lí:
sự sống của thế giới tự nhiên xung quanh bị cuốn vào và trở nên đồng cảm với đời sống tâm
hồn của nhân vật, được gán cho những dấu hiệu giống con người”[ 64, tr. 1252]. Cơ sở của
loại nhân cách hoá này bắt nguồn từ tư duy của thần thoại và cổ tích : thông qua sự “đồng
chủng” với thế giới người để khám phá bộ mặt của thiên nhiên. Còn ở thơ ca dân gian trữ
tình và thành văn, thông qua những biểu hiện nhân cách hoá của thiên nhiên để phát hiện
diện mạo và những vận động tâm hồn của con người.
Ví dụ:
“Sốt ruột, nóng lòng vì chờ đợi, các em đã phá ngục tù thoát mình trước khi mùa
Đông ra đi. Người vô hình đứng nhìn đã bắt gặp tầm mắt các em đang đứng bên vệ đường,
ôi các em nõn nà, nhí nhảnh, hoa hồng, hoa nhài từng toán đổ ra vừa chạy vừa thở hổn hển.
Các em là người đầu tiên dẫn mình đến vùng đất tử thần, màu sắc, hương thơm nơi
các em náo động không gian. Các em cười, xô đẩy, chen, lấn, ưỡn ngực, vươn mình rồi gục
ngã, thân chất thành đống cao”.
( Bài 52, Tặng phẩm của người yêu )
+ nhân cách hoá “với tư cách là tượng trưng, gắn trực tiếp với tư tưởng chính của
tác phẩm và được tạo nên từ hệ thống những nhân cách hoá cục bộ” [64, tr. 1252]
Ví dụ:
Sương mù, cũng như tình yêu
Chơi đùa trên lòng những quả đồi
Và đem lại những vẻ đẹp huy hoàng đột ngột
( Bài 74, Những con chim bay lạc)
Trong thi pháp thơ ca cổ điển Ấn Độ, biện pháp nhân cách hoá không hề tồn tại.
Với người Ấn Độ, vốn dĩ thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó. Mang trong mình tất
cả những đặc tính người, thiên nhiên là người bạn thân thiết luôn song hành cùng con người
Ấn Độ. Thế nhưng, với Trăng non, một tác phẩm văn học thiếu nhi, nhân cách hóa lại là
một thủ pháp nghệ thuật thể hiện thành công tính thích tưởng tượng của trẻ thơ. Bằng tưởng
tượng, mọi vật trong mắt trẻ đều có linh hồn, đều diệu kì, sống động. Ở đây, chúng tôi xin
được giải mã một số hình ảnh thiên nhiên được nhân cách hóa một cách cao độ, trở thành
những hình ảnh tượng trưng nhiều ý nghĩa trong cả tập thơ.
* Hoa ( hương hoa, trường hoa)
Từ xưa đến nay, hoa có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống tinh thần của con
người. Ngôn ngữ biểu tượng nói rằng: “ bông hoa thường hiện ra như một khuôn mặt hình
mẫu gốc tâm hồn, một trung tâm tinh thần [3, tr.417], ” là những đức tính của tâm hồn, bó
hoa là sự hoàn hảo của tinh thần”[ 3, tr.427].
Với thi nhân, hoa là hiện thân của vẻ đẹp thanh khiết và tao nhã nhất, là ngôn
ngữ của tình yêu.
M. Basho, thi hào vĩ đại của quần đảo hoa anh đào ( Nhật Bản), đã nhìn thấy ở
loài hoa dại nazuna nhỏ bé một vẻ đẹp giản đơn và cao nhã. Trong tâm hồn Basho, hoa là
tặng vật của tình yêu, là kết tinh kì diệu của đất trời:
Ôi đóa nazuna
Đôi mắt tôi nhìn kĩ
Bên hàng giậu nở hoa [7, tr.165]
Nhà thơ trữ tình Batu7, S. Sadi với kiệt tác Vườn hồng, lại nhìn thấy ở hoa sự
cao quý, bình an. Hoa là tình yêu và sự bất tử:
Nhiều lần ta đã vượt qua sự đau đớn
Và cười với những hoa hồng trong vườn ta [6, tr. 114]
Trong Trăng non của R. Tagore, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp trong sáng của trẻ
thơ. Ở bài Trường hoa ( The flower school) , hoa là người bạn cùng trang lứa với trẻ, cũng
biết đến trường, cũng học hành vui chơi:
Gió đông thổi tới lững thững trên dãi đất hoang trổi kèn trong rặng tre
Khi ấy, từng bầy hoa không biết từ đâu chợt nảy sinh, đến nhảy múa say mê
trong cỏ
Mẹ ạ, con nghĩ rằng thực bụng hoa cũng đi học trong lòng đất
Lớp của chúng kín cửa và bông nào muốn ra sân chơi sớm thì thầy giáo bắt đứng
một xó.
Mùa mưa tới là kì nghỉ hè của chúng
Cành chen nhau trong rừng, lá xào xạt trong gió dại, sấm vỗ tay reo mừng, và
những hoa con ùa ra với áo hồng, vàng hay trắng toát.
Mẹ có biết không, nhà chúng ở trên trời cùng với muôn sao.
Mẹ có thấy không, chúng hăm hở về trời xiết bao? Mẹ có biết tại sao chúng vội
vã thế không?
Hẳn là con cũng đoán ngay được chúng giơ tay đón ai, chúng cũng có mẹ như
con có vậy.
Bằng nghệ thuật nhân cách hoá, trẻ đã thổi hồn vào cỏ cây, hoa lá, khiến thế giới
cỏ cây cũng rộn ràng sự sống. Không chỉ một hai sinh linh mà từng bầy hoa cũng biết đến
trường, cũng học hành vui chơi như trẻ ( Mother, I really think the flower go to school
underground. They do their lesson with doors shut, and if they want to come out to play
before it is time, their master makes them stand in a corner) [66, tr. 45] . Điều kì diệu nhất
là hoa cũng có mẹ, mẹ hoa cũng đón hoa mỗi lúc tan trường, cũng yêu thương hoa chân
thành, tha thiết ( I can guess to whom they raise their arms: they have their mother as I have
my own)[ 66, tr. 46] . Ở bài thơ này , với thủ pháp nhân cách hóa, hình ảnh hoa đã trở thành
hiện thân của trẻ: hoa là trẻ thơ và trẻ thơ cũng là những bông hoa đẹp nhất. Tưởng tượng
mình là một đóa Chămpa, trẻ đã thể hiện tình thương của mình dành cho mẹ:
Giá con trở thành một đoá hoa Chămpa
Chỉ để chơi thôi
Và mọc trên một cành cây cao nọ
Và reo cười đung đưa trong gió
Và nhảy múa trên những lá non vừa mới nhú ra
Thì mẹ sẽ nhận được ra con không hở mẹ
Mẹ sẽ gọi: bé ơi, con đâu rồi?
Và con sẽ cười thầm, lặng im không nói
Con sẽ len lén mở cánh cửa rình xem mẹ đang làm…
( Hoa Chămpa )
Vừa là một hình ảnh tượng trưng, hoa Chămpa còn được nhân cách hoá như một
đứa trẻ đùa vui cùng mẹ ( Supposing I became a champa flower, just for fun, and grew on a
branch high up that tree, and shook in the wind with laughter and danced upon the newly
budded leaves, would you know me, mother?[66, tr. 29]). Bằng mùi hương dịu ngọt và cái
bóng nhỏ xíu của mình, trẻ đã đến bên mẹ trong một dung mạo mới ( When after the midday
meal you sat at the window reading Ramayana , and the tree`s shadow fell over your hair
and your lap, I should fling my wee little shadow on to the page of your book, just where
you were reading [66, tr. 29]):
Khi sau buổi cơm trưa mẹ ngồi bên cửa sổ
Đọc bộ Ramayana
Và bóng cây toả xuống tóc, xuống đầu gối mẹ
Con sẽ rủ cái bóng nhỏ xíu của con lên trang sách
Đúng vào nơi mẹ đang đọc
Nhưng mẹ có đoán ra đó là cái bóng tí hon của con không mẹ?
Như vậy, ở góc độ nhân hóa, hoa trong Trăng non mang một sinh mệnh mới, là
người bạn song hành thân thiết với trẻ thơ. Bông hoa, trường hoa, hương hoa đều là những
hình ảnh gắn liền với kí ức tuổi thơ, thể hiện cao độ tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý. Với
Tagore, trẻ thơ là những đóa hoa đẹp nhất mà Tạo hóa đã ban tặng con người.
*Biển, sông, mây, sóng
Biển, sông, mây, sóng là những hiện tượng thiên nhiên luôn có sức hấp dẫn
mạnh mẽ đối với trẻ thơ. Hình ảnh biển vô biên, sông nước, mây trời bao la luôn gợi lên
trong lòng các em niềm ước mơ khao khát về một thế giới tự do, tươi đẹp. Trong bài Trên
bờ biển ( On the seashore), Tagore đã đối lập sự hồn nhiên vô tư của trẻ em với sự tính
toán, khó nhọc của người lớn trước biển – “ bến bờ những thế giới vô biên”. Như một người
bạn song hành cùng trẻ, biển cũng vô tư trước những toan tính của con người:
Biển trào lên với những trận cười giòn giã
Và soi những nụ cười trên bãi cát xanh xao.
Những con sông đi gieo mầm chết chóc
Hát những bài ca vô nghĩa cho các em
Chẳng khác nào một người mẹ hát ru
Khi đưa đẩy chiếc nôi con nhỏ
Biển đùa chơi với bọn trẻ con
Và soi những nụ cười trên bãi cát xanh xao
( The sea surges up with laughter, and pale gleams the smile of the sea –
beach. Death- dealing waves sing meaningless ballads to the children, even like a mother
while rocking her baby`s cradle. The sea plays with children and pale gleams the smile of
the sea-beach)[ 66, tr.3]
Nụ cười của bờ biển ( the smile of the sea-beach) là hình ảnh tượng trưng cho
sự hồn nhiên, trong sáng của trẻ thơ. Hòa mình vào biển, trẻ tìm thấy được niềm vui, sự tự
do tuyệt đối. Ở bài Mây và sóng, biển còn là hình ảnh tượng trưng cho mẹ và tình mẫu tử
thiêng liêng:
Con sẽ là sóng, mẹ sẽ là một bờ biển lạ lùng
Con sẽ lăn, lăn, lăn mãi
Và vỗ vào gối mẹ cười vang
Hình ảnh nhân hóa mẹ là biển, con là sóng thể hiện thành công sự gắn bó, hòa
quyện của tình mẹ và con. Sự mời gọi hấp dẫn của bạn mây và sóng không làm em bé quên
được mẹ. Dù cho mây “ chơi với buổi sớm mai vàng”, “chơi với vầng trăng bạc” (“we play
with the golden dawn, we play with the silver moon” [ 66, tr.27]), “ sóng hát từ sớm mai đến
tối” ( “We sing from morning till night” [ 66, tr. 27]) thì em bé vẫn muốn về với mẹ:
Mẹ ơi, những người sống trên mây đang gọi con:
“ Chúng ta chơi đùa từ khi thức dậy cho đến lúc chiều tà
Chúng ta chơi với buổi sớm mai vàng
Chúng ta chơi với vầng trăng bạc.
… Những người sống trong sóng nước gọi con
“ Chúng ta hát từ sớm mai đến tối
Chúng ta ngao du khắp nơi này nơi nọ
Mà không biết mình đã từng qua những nơi nào”
... Con bảo: “ Buổi chiều mẹ tôi luôn muốn tôi ở nhà với mẹ
Làm sao tôi có thể bỏ mẹ mà đi được”
Thế là họ cười, múa nhảy rồi đi qua.
Là những hiện tượng thiên nhiên được nhân cách hóa, mây và sóng là hình ảnh
tượng trưng cho niềm mơ ước của con người: tự do và nguồn vui. Thế nhưng, đối với trẻ
thơ, ở đâu có mẹ ở đó mới có nguồn vui và sự tự do. Mẹ không chỉ là biển vô biên, là vũ trụ
vĩnh hằng mà mẹ còn là điểm tựa yên bình của cuộc đời con: “Dòng sông vừa chảy xiết vừa
ca/ Và đập tan hết những gì ngăn cản/ Nhưng núi thì ở lại nhớ mong/ Và nhìn theo dòng
sông với tấm lòng trìu mến” (Món quà ).
Trong Trăng non những hiện tượng thiên nhiên được nhân cách hóa đã làm bật
nổi tư tưởng triết lí của Tagore: sự hòa nhập, bình đẳng giữa con người với thiên nhiên. Với
Tagore, thiên nhiên là một sinh linh đặc biệt có linh hồn, luôn bên cạnh trẻ như một người
mẹ bao dung, vĩ đại:
Gió mừng mang đi tiếng chuông leng keng nơi vòng chân con
Mặt trời mỉm cười ngắm con tắm gội
Bầu trời canh chừng khi con ngủ say trong tay mẹ, và ban mai nhón bước
tới giường hôn mắt con. Gió mừng mang đi tiếng chuông leng keng nơi vong chân con.
Cô tiên chiêm bao đang đến với con bay qua bầu trời hoàng hôn
Bà mẹ đời ngồi bên con trong trái tim mẹ. Kẻ dạo nhạc cho các vì sao
đang đứng thổi sáo ở cửa sổ con.
( Đám rước không ngờ)
Bằng sự hào phóng của mình, thiên nhiên đã ban tặng mọi yêu thương cho trẻ.
Hòa nhập vào thiên nhiên, trẻ tìm thấy được niềm vui, sự bình yên, hạnh phúc. Trong bài
Cây đa, vì mong ước được hòa mình vào thiên nhiên tươi đẹp, đứa trẻ đã để trí tưởng tượng
của mình tự do bay bổng:
Hỡi cây đa tóc râu tua tủa đứng bên bờ ao, ngươi có quên đứa bé, như
những con chim làm tổ trên cành rồi bỏ ngươi không?
Ngươi không còn nhớ sao, nó ngồi bên cửa sổ trố mắt nhìn đám rễ lòa
xòa đâm xuống đất?
Những người đàn bà mang bình ra ao kín nước, và cái bóng đen kếch xù
của ngươi đong đưa trên mặt ao như giấc ngủ cựa mình thức dậy.
Anh mặt trời nhảy múa trên những sóng lăn tăn như muôn ngàn con thoi tí
hon không ngừng dệt tấm thảm vàng.
Đôi vịt cưỡi bóng bơi bên bờ sậy, và đứa bé ngồi im nghĩ ngợi.
Nó ao ước thành gió thổi qua cành đa lao xao, thành bóng đa theo ngày
chạy dài trên mặt nước, thành chim đậu trên cành cao tít, hay thành đôi vịt bồng bềnh giữa
bóng đám sậy lung linh.
Ở góc độ so sánh và nhân hóa, những hiện tượng thiên nhiên trong mắt trẻ thơ
vô cùng kì diệu. Hình ảnh cái bóng đen của cây đa “ đong đưa trên mặt ao như giấc ngủ cựa
mình thức dậy” ( “your huge black shadow would wriggle on the water like sleep struggling
to wake up”[ 66, tr. 72] ), hay “ ánh mặt trời nhảy múa trên những sóng lăn tăn như muôn
vàn con thoi tí hon không ngừng dệt tấm thảm vàng” ( “Sunlight danced on the ripples like
restless tiny shuttles weaving golden tapestry” [ 66, tr. 72]) đã đem đến cho người đọc
những liên tưởng bất ngờ, thú vị, thể hiện sự am hiểu tư duy, tâm lí trẻ thơ sâu sắc của
Tagore. Trí tưởng tượng phong phú của ông đã làm cho những sự vật, hiện tượng được
nhân hóa trong Trăng non mang vẻ đẹp huyền ảo đậm sắc màu cổ tích:“ Ai đã ăn cắp giấc
ngủ trên đôi mắt bé của ta?/…Ta sẽ chiếm tất cả và mang về nhà/ Ta sẽ buộc đôi cánh hắn
thật chặt/ Và sẽ đặt hắn lên bờ sông/ Và để hắn chơi trò câu cá/ với một cây sậy giữa đám
cói và lùm hoa súng/ Khi chiều xuống và chợ đã tan / Và trẻ con trong làng đã ngồi lên đùi
mẹ/ thì những con chim đêm hét vào tai hắn, những lời mỉa mai, chế giễu: “ Giờ, ngươi sẽ
ăn cắp giấc ngủ của ai nào?”(Who stole sleep from baby`s eyes? …I would plunder it all,
and carry it home. I would blind her two wings securely, set her on the bank of the river,
and then let her play at fishing with a reed among the rushes and water – lilies.When the
marketing is over in the evening, and the village sit in their mother`s laps, then the night
birds will mockingly din her ears with: “ Whose sleep will you steal now?” [66, tr.12]
Nhiều người cho rằng thơ Tagore hiểu khó do ông sử dụng rất nhiều những
hình ảnh tượng trưng. Vì thế, trong một tập thơ viết cho thiếu nhi, nhân cách hóa những sự
vật, hiện tượng cụ thể sẽ giúp cho việc hiểu tư tưởng triết lí của ông được dễ hơn. Chẳng
hạn như trong bài Bao giờ và vì sao, ý niệm cuộc sống là nguồn vui vì tất cả hương thơm,
mật ngọt, màu sắc, âm nhạc và tình yêu đất trời sinh ra là để dâng tặng con người đã được
Tagore thể hiện qua những hình ảnh thiên nhiên được nhân hóa cụ thể:
Khi mẹ mang cho con những đồ chơi nhiều màu sắc con ơi
Khi mẹ hát cho con nhảy múa
Mẹ mới hiểu vì sao có nhạc trong cành lá
Và vì sao nước lại gửi những bản đồng ca
Cho lòng đất lắng nghe
Vâng, khi mẹ đưa những của ngọt vào bàn tay ham hố của con
Mẹ hiểu vì sao trong cái cốc của hoa có mật và vì sao trái cây chứa đầy vị
ngọt bên trong.
Như đã trình bày ở phần trên, trong đời sống văn hóa Ấn Độ, vốn dĩ thiên nhiên
đã có đời sống riêng của nó. Không cần sử dụng nhân cách hóa, thiên nhiên cũng có linh
hồn. Thế nhưng, trong Trăng non, dưới góc độ của người tiếp nhận, việc sử dụng nhân cách
hóa lại là một hình thức nghệ thuật cơ bản tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho cả tập thơ. Với hình
thức là một tác phẩm văn học thiếu nhi, nhân cách hóa đã mang đến cho Trăng non một sắc
màu huyền diệu.
***
So sánh và nhân cách hóa là hai hình thức nghệ thuật cơ bản trong Trăng non
có ảnh hưởng rất lớn đến dấu ấn phong cách thơ viết cho thiếu nhi của R. Tagore. Bằng việc
vận dụng sáng tạo hai hình thức nghệ thuật này, Tagore đã đem đến cho người đọc những
cảm nhận mới mẻ về thế giới trẻ thơ, về những vấn đề triết lí : con người, cuộc sống; về sự
giải thoát tâm linh để đạt đến sự hiền minh… Với Trăng non, Tagore là nhà thơ của nhi
đồng và không ai có thể phủ nhận được tài năng của ông trong lĩnh vực này.
KẾT LUẬN
1. Trăng non là một trong số những tác phẩm văn học thiếu nhi tiêu biểu của văn
học Ấn Độ, có thể đặt ngang hàng với những tập thơ thiếu nhi nổi tiếng trên thế giới. Với
tập thơ này, Tagore không chỉ là nhà thơ triết luận, nhà thơ tư tưởng, nhà thơ trữ tình tinh tế
bậc nhất mà còn là nhà thơ của nhi đồng, người am hiểu tinh tế và yêu thương trẻ thơ sâu
sắc.
2. Qua những hình ảnh thiên nhiên tượng trưng nhiều ý nghĩa, Tagore đã thể hiện
thành công tâm hồn thuần khiết, thánh thiện của trẻ thơ, tình mẫu tử thiêng liêng, sâu đậm
theo quan niệm triết lí của riêng ông: hòa nhập vào thiên nhiên tươi đẹp, tâm hồn trẻ thơ đạt
tới sự hiền minh.
Trong Trăng non, Mẹ và thiên nhiên là những biểu tượng vĩnh hằng luôn song hành
cùng trẻ thơ. Đến với mẹ trẻ tìm được tình thương và đến với thiên nhiên trẻ có được những
niềm vui bất tận. Nếu mẹ ban cho trẻ sự sống ở cõi đời này thì thiên nhiên với những sắc
màu của nó đã đem đến cho trẻ cái nhìn mộng tưởng tươi đẹp về cuộc sống. Chính tình yêu
thương bao la của mẹ và sự diệu kì vô tận của thiên nhiên đã mở ra cho trẻ giữa cõi đời trần
thế này một thiên đường thực sự.
Hình ảnh Con người –Thượng đế của Tagore đã được tái hiện và khẳng định lại
qua hình ảnh đứa con, vị “chúa đời” của mẹ. Với Tagore, tâm hồn thuần khiết của trẻ thơ và
tình mẫu tử thiêng liêng cao quý là cội nguồn đem đến sự thánh thiện cho thế giới này.
3. So sánh và nhân cách hoá là hai hình thức nghệ thuật nổi bật trong Trăng non, thể
hiện cá tính sáng tạo độc đáo của Tagore. Ông tiếp nhận hai thủ pháp này từ thi pháp thơ ca
truyền thống Ấn Độ và đã sáng tạo nên những hình tượng thơ mới với trường liên tưởng đặc
biệt. So sánh và nhân cách hoá giúp nhà thơ chuyển tải hết tầm chiều sâu tư tưởng triết lí:
Tâm hồn trẻ thơ thánh thiện, tình mẫu tử cao quý, và quan điểm giáo dục chủ đạo. Qua
những liên tưởng so sánh và nhân cách hoá mang tầm vóc vũ trụ, tình mẫu tử đã được vũ
trụ hoá vĩnh hằng và bất tử.
Có rất nhiều dạng thức so sánh, nhân cách hoá được thể nghiệm trong Trăng non:
không chỉ là so sánh, nhân cách hoá trong phạm vi câu thơ, đoạn thơ mà còn mở rộng trên
cả bình diện toàn bài thơ. Với dạng thức này, đối tượng được so sánh, nhân cách hoá đã trở
thành những hình ảnh tượng trưng mang nhiều tầng ý nghĩa, thể hiện những tư tưởng triết lí
của nhà thơ về con người và cuộc sống.
4. Sự nghiệp thơ ca của Tagore với ba nội dung thơ: thơ triết luận, thơ trữ tình và thơ
viết cho trẻ em đã khẳng định vị trí của ông trên văn đàn thế giới. Ở nội dung nào, nhà thơ
cũng để lại dấu ấn và phong cách riêng độc đáo. Thơ ca hiện đại Ấn Độ chịu ảnh hưởng lớn
của Tagore từ tư tưởng triết lí : niềm tin vào phẩm giá con người, sự tôn thờ thiên nhiên…
cho đến hình thức thể hiện: sử dụng cách tân hình thức thơ ca truyền thống, phá bỏ những
quy ước thơ giả tạo và dùng nhiều hình thái tu từ... Với những thi phẩm của mình, R.
Tagore đã trở thành người cách tân, ngôi sao sáng trên thi đàn Phục hưng Ấn Độ: “Ông
được gọi là Leonardo da Vinci của thời Phục hưng Ấn Độ. Nhưng ông không phải là con
người chỉ biết mơ mộng, ngồi nhàn rỗi trong chiếc ghế dựa của mình mà ca hát về vẻ đẹp
thiên nhiên và bí ẩn của đời sống con người… Ông là, như Gandhi vẫn gọi rất đúng, người
lính canh vĩ đại của nhân gian mà đôi mắt đồng cảm luôn luôn theo dõi định mệnh của Ấn
Độ và thế giới” ( Tatsue Morimoto).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lại Nguyên An (1999), Thuật ngữ văn học, nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2. Phạm Thủy Ba ( 1987), Ramayana 3 tập, nxb Văn học, Hà Nội.
3. J. Chevalier, A. Gheerbrant ( 1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, nxb
Đà Nẵng.
4. Phan Nhật Chiêu, Hoàng Hữu Đản ( 1991), Tagore – Người tình của cuộc đời,
Nxb Hội nhà văn.
5. Nhật Chiêu ( 1991), Những ngả đường sáng tạo của R. Tagore – Tạp chí văn,
số 3.
6. Nhật Chiêu,(2002), Câu chuyện văn chương phương Đông, nxb Giáo dục
7. Nhật Chiêu, (2003), Nhật Ban trong chiếc gương soi, nxb Giáo dục.
8. Doãn Chính, Lương Minh Cừ, ( 1991), Lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, nxb Đại
học và Cao đẳng chuyên nghiệp, Hà Nội.
9. Chuyên đề văn học Ấn Độ (1996), Văn học nước ngoài, số 4.
10. Xuân Diệu( 1981), 120 năm ngày sinh của R. Tagore, Báo Nhân dân ngày 8
tháng 5.
11. Trần Kim Dung (1995), Yếu tố huyền ảo trong tập thơ Trăng non của
R. Tagore ( Luận văn tốt nghiệp cử nhân), Đại học sư phạm Hà Nội.
12. Nguyễn Thị Ngọc Diệp (1997), Tagore với trẻ thơ qua tập Trăng non ( Luận
văn tốt nghiệp cử nhân), Đại học sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
13. Will Durant (2003), Lịch sử văn minh Ấn Độ ( Nguyễn Hiến Lê dịch), nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
14. Xuân Diệu ( 1999), Tác phẩm văn chương và lao động nghệ thuật, nxb Giáo
dục, Hà Nội.
15. Hữu Đạt ( 1998), Phong cách học Tiếng Việt hiện đại, nxb Giáo dục.
16. Nguyễn Tấn Đắc ( 2002), Văn hóa Ấn Độ, nxb Tp. HCM.
17. Cao Huy Đỉnh ( chủ biên), (1961), Ra-vin –đơ-ra-nat Ta-go-rơ, nxb Văn hóa,
Hà Nội
18. Cao Huy Đỉnh (1995), Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa trong thơ R. Tagore, Tạp
chí văn học, số 8.
19. Cao Huy Đỉnh, Phạm Thủy Ba (1979), Sử thi Mahabharata, nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
20. X. Exênhin (1995), Thơ, nxb Văn học, Hà Nội.
21. I. Gandhi ( 1984), Tư tưởng Ấn Độ, Văn học nước ngoài
22. M. K. Gandhi ( 1997), Tự thuật, nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Bích Hải ( 1995), Thi pháp thơ Đường, nxb Thuận Hóa, Huế.
24. Nguyễn Văn Hạnh( 2000),Thiên nhiên trong Thơ Dâng,Tạp chí văn học, số 9
25. Nguyễn Văn Hạnh ( 2001), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học sư
Phạm Hà Nội.
26. Đỗ Thu Hà (2005), Tagore – Văn và người, nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
27. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ( 2006), Từ điển thuật ngữ văn
học, nxb Giáo dục, Tp. HCM.
28. V, Huygo ( 1986), Tuyển tập thơ, nxb Văn học, Hà Nội.
29. Nguyễn Hùng Hậu (1996), Nét đặc trưng của tư duy Ấn Độ, Văn học nghệ
thuật, số 4.
30. Lê Từ Hiển ( 2001), Rabindranath Tagore – Họa sĩ vẽ bụi đất và ánh sáng
mặt trời, Tạp chí văn học số 6.
31. Nghiêm Xuân Hồng ( 1966), Biện chứng và giải thoát trong tư tưởng Ấn Độ,
nxb Quan điểm, Sài Gòn.
32. Nguyễn Văn Hoa, Nguyễn Ngọc Thiện ( 1997), Tuyển tập thơ văn xuôi, nxb
Văn học, Hà Nội.
33. Nguyễn Mạnh Hiếu ( 2001), Văn học thiếu nhi, Trường Đại học Sư phạm Tp.
Hồ Chí Minh.
34. Phan Thu Hiền ( 2006), Thi pháp học cổ điển Ấn Độ, nxb Khoa học xã hội.
35. Kalidax ( 2006), Sơkuntơla ( Cao Huy Đỉnh dịch), nxb Sân khấu, Hà Nội.
36. Trần Đăng Khoa ( 1995), Góc sân và khoảng trời, nxb Giáo dục.
37. Nhiều tác giả, Mười nhà thơ thế kỉ ( 1982), ( phần “ R. Tagore”, tr. 232 -256),
nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn.
38.Trần Thị Hoài Phương ( 2006), Nghệ thuật so sánh trong tập thơ Trăng non
của Tagore(Luận văn tốt nghiệp cử nhân),Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
39. Đào Xuân Quý ( 1979), Thơ R. Tagore, nxb Văn học, Hà Nội.
40. Đào Xuân Quý ( 1980), Mấy điều suy nghĩ nhân đọc thơ Ấn Độ, Tạp chí văn
học số 5.
41. Đào Xuân Qúy ( 1981), R. Tagore, nhà thơ trí tuệ muôn màu, Báo văn nghệ
số 21.
42. Đào Xuân Quý ( 2003), Nhà thơ và cuộc sống, nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
43. Xuân Quỳnh ( 1998), Thơ và đời, Nxb Văn hóa.
44. Trần Đình Sử ( 1993), Giáo trình thi pháp học, Trường Đại học Sư phạm, Tp.
Hồ Chí Minh.
45. R. Tagore ( 2004), Tuyển tập tác phẩm 2 tập ( Lưu Đức Trung tuyển chọn và
giới thiệu), nxb Lao động, Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây
46. R. Tagore ( 1997), Mảnh trăng non ( Phạm Bích Thủy, Phạm Hồng Dung
dịch), nxb Đà Nẵng.
47. R. Tagore ( 2001), Tâm tình hiến dâng ( Đỗ Khánh Hoan dịch), nxb Đà Nẵng
48. R. Tagore ( 2001), Tặng vật ( Đỗ Khánh Hoan dịch), nxb Đà Nẵng
49. Lương Duy Thứ ( chủ biên), Phan Nhật Chiêu, Phan Thu Hiền ( 2000), Đại
cương văn hóa phương Đông, nxb Giáo dục.
50. Nguyễn Thị Bích Thúy ( 1998), Chất trí tuệ – điểm sáng thẩm mĩ trong thơ R.
Tagore, Tạp chí văn học, số 4
51. Nguyễn Thị Bích Thúy ( 2001), R. Tagore và lời tụng ca tình yêu, Văn hóa
nghệ thuật.
52. Nguyễn Thị Bích Thúy ( 2002), Luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học sư
phạm Hà Nội.
53. Vân Thanh (1997), Gorki, người đặt nền móng cho văn học thiếu nhi, Tạp chí
văn hóa số 5.
54. Nguyễn Anh Tuyết ( 1998), Hãy trân trọng trí tưởng tượng của trẻ thơ, Tạp
chí vì trẻ thơ, số 99.
55. Lưu Đức Trung ( 1984), Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa trong thơ của R.
Tagore, Nhà thơ lớn Ấn Độ, Báo Văn nghệ Tp. HCm ngày 15 tháng 12.
56. Lưu Đức Trung ( 1986), Thơ tình yêu của R. Tagore, Báo Văn nghệ, TP.
Hồ Chí Minh.
57.Lưu Đức Trung ( 1996), Văn học Ấn Độ ở Việt Nam, Văn học nước ngoài, số 4
58. Lưu Đức Trung ( 1998), Vài nét về truyện ngắn R. Tagore, Báo Văn nghệ,
số 26.
59. Lưu Đức Trung ( 2001), Văn học Ấn Độ, nxb Giáo dục.
60. Lưu Đức Trung ( chủ biên), ( 2003), Chân dung các nhà văn thế giới, nxb
Giáo dục.
61. Lưu Đức Trung ( 2006), Kịch Tagore, Nghiên cứu văn học.
62. Cù Đình Tú ( 2002), Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt, nxb Giáo
dục.
63. V. A. Xukhômlinxki ( 1983), Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ, nxb Giáo dục.
64. Nhiều tác giả ( 2004), Từ điển Văn học ( Bộ mới), nxb Thế giới.
65. Nguyễn Phương Liên ( 2006), Thế giới trẻ em trong sáng tác văn chươn
Tagore ( Luận văn cao học), Trường Khoa học và xã hội nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Tiếng Anh
66. Tagore .R ( 1965), The Cressent moon, Mac Millan and co limited.
67.Tagore. R ( 1970), Song offerings, Mac Millan and co limited.
68.Tagore. R ( 1970), The Gardener, Mac Millan and co limited.
69 .Dr. Sukumar Sen, History of Bengali literature, Shalitya Akademi New Delhi.