BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Bùi Thị Hồng
THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
VÀ THƠ VƯƠNG DUY
DƯỚI GÓC NHÌN SO SÁNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Bùi Thị Hồng
THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
VÀ THƠ VƯƠNG DUY
DƯỚI GÓC NHÌN SO SÁNH
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Người thực hiện
Bùi Thị Hồng
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn thạc sĩ
Ngữ văn, chuyên ngành Văn học Việt Nam. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến
gia đình luôn tiếp sức mạnh cho tôi đi hết chặng đường học tập và nghiên cứu vừa
qua.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn trường Đại
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã luôn tận tụy truyền đạt những kiến thức
quý báu cho tôi trong quá trình giảng dạy.
Xin được bày tỏ lòng cảm ơn đến thầy Lê Quang Trường đã giúp đỡ tôi trong
quá trình thu thập tài liệu tham khảo quan trọng đối với đề tài của mình.
Đặc biệt xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến cô Lê Thu Yến,
người đã truyền tình yêu thơ chữ Hán Nguyễn Du đến với tôi và là người luôn tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng là lời cảm ơn đối với bạn bè đã đồng hành cùng tôi trong suốt thời
gian học tập cũng như nghiên cứu vừa qua.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán........................................................................ 8
1.1.1. Thời đại ............................................................................................... 8
1.1.2. Cuộc đời ............................................................................................ 10
1.1.3. Thơ chữ Hán Nguyễn Du .................................................................. 13
1.2. Vương Duy và thơ Vương Duy ................................................................ 14
1.2.1. Thời đại ............................................................................................. 14
1.2.2. Con người .......................................................................................... 16
1.2.3. Sự nghiệp .......................................................................................... 18
1.3. Nguyên lí văn học so sánh ....................................................................... 19
1.3.1. Nguyên lí chung của văn học so sánh ............................................... 19
1.3.2. Cơ sở để so sánh Nguyễn Du và Vương Duy ................................... 21
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................. 8
Chương 2. NHỮNG ĐIỂM GẶP GỠ GIỮA THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN
2.1. Cảm hứng thế sự ...................................................................................... 25
2.1.1. Hiện thực xã hội ................................................................................ 25
2.1.2. Số phận con người ............................................................................. 39
2.2. Cảm hứng cá nhân .................................................................................... 48
2.2.1. Tự thán .............................................................................................. 49
2.2.2. Nỗi sầu li biệt .................................................................................... 59
2.3. Cảm hứng về không gian ........................................................................ 66
2.3.1. Không gian lữ thứ ............................................................................. 66
DU VÀ THƠ VƯƠNG DUY ............................................................. 25
2.3.2. Không gian khép kín ......................................................................... 76
Chương 3. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA THƠ CHỮ HÁN
3.1. Tinh thần Phật – Lão ................................................................................ 86
3.1.1. Tinh thần Phật giáo ........................................................................... 86
3.1.2. Tinh thần Lão Trang ......................................................................... 98
3.2. Cảm hứng về thiên nhiên ....................................................................... 107
3.2.1. Vương Duy – hòa vào thiên nhiên .................................................. 107
3.2.2. Nguyễn Du – tả thực và độc lập với thiên nhiên ............................ 114
3.3. Cảm hứng về chủ thể trữ tình ................................................................. 120
3.3.1. Con người nhàn trong thơ Vương Duy ........................................... 121
3.3.2. Con người ràng buộc, lo âu trong thơ Nguyễn Du ......................... 126
3.4. Cảm hứng về thời gian ........................................................................... 134
3.4.1. Thời gian hiện tại trong thơ Vương Duy ........................................ 134
3.4.2. Thời gian quá khứ trong thơ Nguyễn Du ........................................ 139
NGUYỄN DU VÀ THƠ VƯƠNG DUY ........................................ 86
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 144
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 146
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có một nền văn học riêng biệt, tuy nhiên trong
quá trình hội nhập giữa các đất nước nền văn học đó lại trải qua một quá trình tiếp
nhận, ảnh hưởng và tiếp biến. Do đó văn học của mỗi quốc gia mang tính quốc tế,
nó vừa mang những nét chung của khu vực, của nhân loại lại đồng thời có những
tính chất riêng biệt đặc trưng cho văn học của mỗi dân tộc. Chính vì vậy việc so
sánh các tác giả khác nhau của những dân tộc khác nhau sẽ giúp chúng ta hiểu sâu
hơn, đánh giá toàn diện hơn thành quả nghệ thuật của mỗi người. Không chỉ vậy
qua so sánh chúng ta còn rút ra được bản chất, quy luật tồn tại, phát triển và sáng
tạo của văn học. Đồng thời cũng thấy được sự ảnh hưởng, tiếp nhận và tiếp biến
giữa những nền văn học khác nhau của từng khu vực, từng quốc gia khác nhau.
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, là “tập đại thành” của nền văn
học trung đại nước ta, những tác phẩm ông để lại đã trở thành tài sản quý giá, mẫu
mực cho nền văn học cổ điển nước nhà. Vương Duy là nhà thơ nổi tiếng đời
Đường, ông được tôn vinh là Thi Phật, là nhà thơ xuất sắc của phái thơ Điền viên
sơn thủy cùng với Mạnh Hạo Nhiên. Cả hai nhà thơ tuy sống ở thời đại khác nhau
nhưng cùng dùng một ngôn ngữ (chữ Hán) và cùng thể thơ (Đường luật) để sáng
tác, đồng thời đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Phật giáo cũng như Lão
giáo. Chính vì vậy giữa họ có những nét tương đồng và khác biệt nhất định và có
thể đối thoại, so sánh với nhau. Qua so sánh Nguyễn Du và Vương Duy giúp chúng
ta hiểu rõ nét đặc sắc của mỗi nhà thơ, để tôn vinh những bản sắc riêng ấy cũng
như đặc trưng của hai nền văn học Việt Nam – Trung Hoa.
Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc đã hình thành từ
lâu đời. Sở dĩ hình thành mối quan hệ trên phương diện văn học bởi vì trong lịch sử
dân tộc ta nhiều lần chịu sự xâm lăng cũng như đô hộ của Trung Hoa, nền văn hóa
Trung Hoa đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa Việt Nam, văn học cũng là một
loại hình văn hóa cho nên tất yếu cũng chịu ảnh hưởng và hình thành nên mối quan
hệ này. Trong thời kì trung đại, cùng với sự thống trị của nhà nước phong kiến, cả
2
hai đất nước đều bị chi phối và ảnh hưởng bởi các học thuyết, tôn giáo, triết học,
đạo đức như Nho, Phật, Lão… Tuy nhiên mỗi nhà thơ lại có một hoàn cảnh riêng,
một thời đại sinh sống và cách sáng tạo nghệ thuật khác nhau chính vì thế mà các
sáng tác cũng sẽ có những khác biệt. Để tìm ra sự khác biệt đó cũng như nhân tố
tạo nên sự khác biệt thì chúng ta cần so sánh để thấy rõ sự khác biệt của các học
thuyết các tư tưởng thẩm thấu qua những nền văn hóa khác nhau sẽ có những biểu
hiện khác nhau ra sao. Từ đó chúng ta đánh giá được sự đóng góp của mỗi tác giả
cũng như đặc trưng dân tộc trong tác phẩm của họ.
Các công trình nghiên cứu trước đây về Nguyễn Du đa phần thường tập trung
vào kiệt tác Truyện Kiều, còn thơ chữ Hán chưa được tìm hiểu và nghiên cứu
nhiều, các công trình đã có trước đây chủ yếu đi sâu vào những vấn đề tư tưởng
nghệ thuật, tâm sự cá nhân, tấm lòng nhân đạo…mà Nguyễn Du biểu hiện trong thơ
chữ Hán của ông. Những công trình nghiên cứu theo hướng văn học so sánh về thơ
chữ Hán của Nguyễn Du lại càng ít ỏi. Còn tác gia Vương Duy thì hiện tại ở Việt
Nam còn ít được nghiên cứu và ít người biết đến. Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề
tài này với mong muốn góp thêm một tiếng nói về Nguyễn Du và Vương Duy.
Sau nữa, chúng tôi chọn thực hiện đề tài này vì sự yêu thích của bản thân đối
với Nguyễn Du nói chung và thơ chữ Hán Nguyễn Du nói riêng. Và cũng yêu thích
những bài thơ đậm chất Thiền nhưng không khô cứng mà ngược lại là sự dung hợp
hài hoà giữa con người và tự nhiên, giữa Phật lí và xúc cảm của Vương Duy.
2. Lịch sử vấn đề
Về tác giả Vương Duy, chúng tôi chỉ tìm thấy vài ba công trình nghiên cứu đã
được xuất bản. Một là Vương Duy thi tuyển của tác giả Giản Chi, hai là tác giả Vũ
Thế Ngọc với Vương Duy chân diện mục, và ba là nghiên cứu của Nguyễn Thị
Diệu Linh – Trần Thị Thu Hương: Tác giả tác phẩm văn học nước ngoài trong
nhà trường – Vương Duy. Các công trình trên đều đi sâu nghiên cứu về cuộc đời,
sự nghiệp thơ văn, thậm chí cả hội họa của nhà thơ Vương Duy. Khi bàn về thơ
Vương Duy, những tác giả trên đều chú ý đến Vương Duy với tư cách là một hiện
tượng “thi tăng” (chữ dùng của tác giả Trần Thị Thu Hương), thơ ông thể hiện nội
3
dung “thiền thú”. Riêng tác giả Trần Thị Thu Hương trước đó đã nghiên cứu sâu về
cảnh giới nghệ thuật trong thơ Vương Duy với công trình Một số đặc trưng cảnh
giới nghệ thuật thơ Vương Duy.
Cùng hướng nghiên cứu đó chúng tôi cũng tìm thấy hai bài viết của tác giả
Đinh Vũ Thùy Trang và Võ Thị Minh Phụng về tư tưởng thiền trong thơ Vương
Duy. Đặc biệt là tác giả Võ Thị Minh Phụng đã tiến hành so sánh chất thiền trong
thơ Vương Duy và thơ Huyền Quang để thấy rõ sự “xa rời trần tục mà tu theo tinh
thần xuất thế của Phật giáo”. Ngoài ra còn phải kể đến công trình đặc biệt chuyên
sâu của Nguyễn Diệu Minh Chân Như so sánh chất “đạm” trong thơ tuyệt cú của
Vương Duy và wabi trong thơ Haiku của Basho. Như vậy, hầu hết các công trình
nghiên cứu về Vương Duy đều thiên về tìm hiểu chất “thiền” trong thơ ông. Còn lại
những đánh giá khác về thơ Vương Duy xuất hiện trong các sách lịch sử về văn học
Trung Quốc cùng với một vài nhà thơ khác thuộc thi phái Sơn thủy điền viên là
Mạnh Hạo Nhiên, Trừ Quang Hy nhưng cũng chỉ đề cập ngắn gọn về cuộc đời và
sự nghiệp văn học của Thi Phật như Văn học sử Trung Quốc quyển 1 của Dịch
Quân Tả (Huỳnh Minh Đức dịch), Văn học sử Trung Quốc do Đặng Thai Mai
dịch...
Còn về những công trình nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du, đã có những tác
giả trong các chuyên luận và bài viết của mình bàn luận, đánh giá về thơ chữ Hán
của Nguyễn Tiên Điền như Hoài Thanh, Nguyễn Lộc, Mai Quốc Liên, Nguyễn Huệ
Chi, Lê Thu Yến, Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Thị Nương,…Các tác giả trên đã tiếp
cận thơ chữ Hán Nguyễn Du dưới những góc độ khác nhau.
Nguyễn Lộc cho rằng thơ chữ Hán Nguyễn Du thể hiện tâm sự của nhà thơ
trước cuộc đời; tác giả Lê Thu Yến khảo sát đặc điểm về nghệ thuật trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du; Nguyễn Huệ Chi lại đi sâu phân tích thế giới nhân vật đa dạng
trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du…
Chỉ có vài công trình nghiên cứu đi theo hướng văn học so sánh lấy Nguyễn
Du làm đối tượng chúng tôi tìm hiểu được là luận án Tiến sĩ của Hoàng Trọng
Quyền tiến hành so sánh Nguyễn Du và Đỗ Phủ trên phương diện tư tưởng nghệ
4
thuật, những tương đồng và dị biệt về tư tưởng nghệ thuật biểu hiện trong sáng tác
của hai nhà thơ.
Tác giả Lê Quang Trường so sánh chất tài tử giữa Nguyễn Du và Lý Thương
Ẩn trong công trình Chất tài tử trong thơ Nguyễn Du và thơ Lý Thương Ẩn. Ở
đây tác giả so sánh Nguyễn Du cùng với Lý Thương Ẩn dưới góc nhìn loại hình
nhà nho tài tử để làm rõ tài năng, cá tính và hùng tâm của Nguyễn Du và Lý
Thương Ẩn.
Tác giả Đoàn Lê Giang trong bài viết “Basho – Nguyễn Trãi – Nguyễn Du,
những hồn thơ đồng điệu” in trong Tạp chí văn học số 6, 2003, đã so sánh ba nhà
thơ và đưa ra những điểm tương đồng giữa họ về tình yêu thiên nhiên, tình cảm yêu
thương con người sâu sắc, hướng về con người; Huỳnh Quán Chi trong bài viết
“Phật kinh trong thơ văn Nguyễn Trãi và Nguyễn Du” đã khảo sát những biểu
hiện của tinh thần Phật giáo trong thơ văn Nguyễn Trãi và Nguyễn Du, dù chưa sâu
sắc và đầy đủ nhưng cũng đã đưa ra kết luận về sự xuyên suốt của mạch thiền trong
dòng chảy văn học trung đại Việt Nam.
Các công trình so sánh trên đây tuy theo hướng so sánh Nguyễn Du với những
nhà thơ, tác giả khác nhưng chưa hẳn lấy thơ chữ Hán của ông làm đối tượng chính
mà bao gồm cả những sáng tác khác của Nguyễn Du để đưa ra những ý kiến so
sánh, bàn luận.
Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nghiên cứu
riêng biệt nào nhìn thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy dưới góc nhìn so
sánh. Trên tinh thần tiếp thu và sáng tạo, chúng tôi đã dựa vào những công trình
nghiên cứu đi trước ở trên để tham khảo và chọn lựa đề tài này.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi chính là ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn
Du và những bài thơ của Thi Phật Vương Duy để qua đó tiến hành phân tích, so
sánh những điểm tương đồng cũng như dị biệt giữa hai nhà thơ để thấy được những
nét riêng của mỗi tác giả và của mỗi nền văn học dân tộc.
5
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là đối sánh thơ của Nguyễn Du và Vương
Duy dựa trên vấn đề cảm hứng trong sáng tác của cả hai nhà thơ. Để từ đó hiểu
thêm về Nguyễn Du trong góc nhìn so sánh với Vương Duy.
Chúng tôi tiến hành khảo sát ba tập thơ của Nguyễn Du với 250 bài và 170 bài
thơ của Vương Duy chủ yếu trong tuyển tập của Giản Chi (134 bài), trong Vương
Duy chân diện mục (Vũ Thế Ngọc) và các tuyển tập thơ Đường ở Việt Nam (36
bài).
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp so sánh – đối chiếu: Sử dụng phương pháp này chúng tôi nhằm
đặt sáng tác của hai nhà thơ trong thế đối sánh với nhau, so sánh và đối chiếu để rút
ra những điểm gặp gỡ cũng như sự khác biệt trong việc thể hiện cảm hứng sáng tác
mang tính bản chất, tính đặc thù riêng của mỗi tác giả, mỗi nền văn học. Qua so
sánh chúng tôi nhằm xác lập vị trí của hai nhà thơ trong hệ thống văn học cổ điển
mỗi nước.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng phương pháp này chúng tôi tiến
hành phân tích, khảo sát những biểu hiện, những nét tương đồng của Tố Như và
Vương Duy.
Phương pháp lịch sử - xã hội: Mỗi một nhà thơ sống ở một thời đại khác nhau,
những yếu tố lịch sử, xã hội thời đại có tác động không nhỏ đến những sáng tác của
họ. Thông qua tìm hiểu hoàn cảnh xã hội, thời đại, cũng như yếu tố văn hóa thời
đại sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn toàn diện và lí giải được những đặc trưng
trong cảm hứng sáng tác của hai nhà thơ.
Phương pháp tiểu sử - thực chứng: phương pháp này nhằm giúp chúng tôi
dùng những cứ liệu lịch sử đã được xác thực để chứng minh, lí giải những ảnh
hưởng của chúng đối với sáng tác của hai nhà thơ.
Phương pháp hệ thống và thống kê: chúng tôi coi mỗi bài thơ của hai nhà thơ
là một yếu tố trong hệ thống toàn bộ sáng tác của họ, qua đó tiến hành khảo sát
những bộ phận đó đặt trong một hệ thống thống nhất để có thể bật lên phong cách
riêng của từng người.
6
5. Đóng góp của luận văn
Trong công trình của mình chúng tôi cố gắng để có thể làm rõ sự gặp gỡ,
những điểm tương đồng cũng như những sự khác biệt về vấn đề cảm hứng sáng tác
trong thơ của Nguyễn Du và Vương Duy.
Chúng tôi cũng mong muốn làm rõ thêm sự sâu sắc mang tính đặc thù của văn
hóa mỗi dân tộc thể hiện qua mỗi tác giả, và chỉ ra sự khác biệt trong cách thể hiện
tinh thần của hai học thuyết Phật giáo và Đạo giáo của hai nhà thơ. Đồng thời
mong muốn làm rõ rằng hai nền văn hóa Việt Nam và Trung Quốc tương đồng
nhưng không thống nhất sẽ có sự thể hiện khác biệt thế nào trong cảm hứng sáng
tác của mỗi nhà thơ. Qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn đặc trưng của văn học
trung đại Việt Nam cũng như bản sắc văn hóa thẩm mỹ của dân tộc Việt trong thế
đối sánh với dân tộc Trung Hoa.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Trong chương này chúng tôi giải quyết những vấn đề chung về hai tác giả
Nguyễn Du và Vương Duy như: thời đại, cuộc đời, và những nét khái quát về sự
nghiệp văn học. Từ thời đại và cuộc đời riêng của hai nhà thơ cũng chính là cơ sở
để chúng tôi lí giải sự tương đồng hay khác biệt trong thơ của họ. Đồng thời chúng
tôi cũng nêu những nguyên lí và cơ sở so sánh hai tác giả này từ bộ môn Văn học
so sánh làm nền tảng lí thuyết cho công trình so sánh của chúng tôi.
Chương 2: Sự gặp gỡ giữa thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy
Ở chương này chúng tôi tiến hành phân tích những điểm gặp gỡ của thơ chữ
Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy. Đó là sự gặp gỡ về cảm hứng thế sự, cảm
hứng cá nhân và đặc biệt là cảm hứng về không gian.
Chương 3: Sự khác biệt giữa thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy
Trong chương này, chúng tôi cố gắng làm rõ sự khác biệt giữa thơ chữ Hán
Nguyễn Du và thơ Vương Duy. Sự khác biệt trong cách thể hiện tinh thần Phật giáo
7
và Đạo giáo; sự khác biệt trong cách cảm hứng về thiên nhiên, về con người; cảm
hứng về thời gian. Chính những dị biệt này đã tạo nên hai phong cách độc đáo của
mỗi người.
8
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nguyễn Du và thơ chữ Hán
1.1.1. Thời đại
Nguyễn Du sinh ra trong một thời đại có thể nói là hỗn loạn, rối ren.
Xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII – XIX được coi là thời kì khủng hoảng sâu sắc
nhất của chế độ phong kiến, đồng thời đây cũng là thời kì diễn ra những sự kiện
lịch sử trọng đại.
Thứ nhất là sự sụp đổ không gì cưỡng nổi của chế độ phong kiến. Chiến tranh
giữa các phe phái bùng nổ mà tiêu biểu là cuộc đối đầu giữa họ Trịnh ở Đàng
Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong.
Đàng Ngoài với cơ chế “Vua Lê chúa Trịnh” đã bức người dân vào tình thế
“một cổ hai tròng”, vua chúa, quan lại chỉ lo ăn chơi hưởng thụ hơn là việc cai trị
đất nước. Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút đã dành khá nhiều trang viết để
lên án thực trạng sa đọa của quan lại, vua tôi nhà Nguyễn và bè lũ chúa Trịnh cũng
như tình cảnh thống khổ của người dân lúc ấy: “Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân
cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức
thu lấy, không thiếu một thứ gì…Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ
măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt
khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào” [49, tr.61]. Tình trạng quan
liêu hối lộ, tham nhũng, lộng quyền ngày càng trầm trọng. Không những vậy, thiên
tai, hạn hán liên miên đã làm cho vô số người dân lâm vào cảnh đói khổ, chết chóc.
Trước tình cảnh ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra dưới sự lãnh đạo
của các thủ lĩnh như Thục Toại, Nguyễn Kim Phẩm… nhưng đều bị đánh tan. Cũng
chính vào thời điểm đó, nội bộ triều đình Lê – Trịnh ngày càng gia tăng mâu thuẫn.
Bè phái Chúa Trịnh từ sau khi Trịnh Sâm lên ngôi ngày càng không xem vua Lê ra
gì, thái tử Duy Vĩ bị vu oan và giết chết. Trịnh Sâm say mê Đặng Thị Huệ nên phế
trưởng lập thứ lên làm vua khiến cho phe cánh của Đặng Thị Huệ ỷ thế làm càn.
Tuy nhiên sau khi Trịnh Sâm chết, cục diện trở nên hỗn loạn trầm trọng. Bè cánh
của Trịnh Khải lật đổ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ sinh ra kiêu căng. Chúng làm
9
loạn khắp nơi, uy hiếp, áp bức cả quan lại lẫn dân chúng. Hễ không vừa ý là đe dọa
phá nhà, giết người. Ngay cả Nguyễn Khản anh trai Nguyễn Du cũng bị bè lũ kiêu
binh phá tư dinh ở Bích Câu và phải chạy nạn. Dân chúng đã gọi đây là “loạn kiêu
binh”, sự ra đời của kiêu binh là dấu hiệu báo động sự sụp đổ hoàn toàn của bè lũ
Chúa Trịnh và càng khiến mâu thuẫn với nhân dân trở nên sâu sắc.
Trong khi đó chế độ phong kiến ở Đàng Trong bắt đầu rơi vào khủng hoảng.
Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, cho tiến hành cải cách và tổ
chức lại bộ máy nhà nước. Nhân đó bè lũ quan lại cũng tiến hành xây dựng dinh
thự phục vụ cho việc ăn chơi, hưởng lạc. Việc cải cách không đem lại kết quả tốt
đẹp mà kéo theo đó là cơ hội cho bọn quý tộc, quan lại đua nhau bóc lột nhân dân,
chơi bời xa xỉ. Nhân dân lầm than, xã hội rối ren, chính trị khủng hoảng. Sau khi
Nguyễn Phúc Khoát mất, Phúc Thuần lên thay nhưng vì còn nhỏ nên quyền lực rơi
vào tay bọn quan tham khiến cho tình hình chính trị càng lúc càng thối nát do sự
tranh giành quyền lực cũng như chém giết giữa các phe phái trong triều đình. Cùng
với đó là hạn hán, đói kém xảy ra, tiền kẽm không tiện lợi để lưu thông dẫn đến
buôn bán không thông. Người dân lại nổi dậy đòi quyền sống. Xã hội phong kiến
Việt Nam lúc này dường như đã đi vào con đường sụp đổ không thể cưỡng nổi.
Thứ hai là những cuộc nổi dậy đòi quyền sống của các phong trào nông dân.
Xã hội phong kiến thối nát đã đẩy người dân vào tình cảnh thống khổ vô cùng,
không thể chịu nổi những áp bức đó, họ đã đứng lên đấu tranh.
Tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu
Cầu, Hoàng Công Chất…và thành công nhất là phong trào Tây Sơn do ba anh em
Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ lãnh đạo đã đánh bại cả ba tập đoàn phong
kiến Lê – Trịnh – Nguyễn. Tiếc thay vị vua anh hùng, sáng suốt của phong trào
nông dân là Nguyễn Huệ lại ra đi một cách đột ngột khi tuổi đời còn trẻ. Người anh
hùng áo vải Quang Trung đã ra đi khi những cải cách thay đổi đất nước còn dang
dở. Từ sau khi ông mất nhân dân hai miền tiếp tục “oằn mình” chịu đựng những
cuộc chiến tranh.
10
Thời kì này chiến tranh diễn ra liên tục, hầu như năm nào cũng có những cuộc
đụng độ giữa các triều đại, các phe phái xảy ra, tầng lớp thống khổ nhất không ai
khác ngoài nhân dân lao động.
Sau khi triều đại Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh xây dựng triều Nguyễn. Dưới
sự cai trị khắc nghiệt theo Nho giáo chính thống của nhà Nguyễn, cuộc sống của
người dân dưới chính sách thuế khóa, lao dịch nặng nề hơn thời trước đầy cơ khổ,
lầm than. Chính vì vậy những cuộc khởi nghĩa nông dân tiếp tục nổ ra khiến giai
cấp thống trị hoảng sợ, khủng hoảng trầm trọng.
Nói chung đó là “những cuộc bể dâu”, những “phen thay đổi sơn hà”.
Như vậy, Nguyễn Du đã sống qua ba triều đại lần lượt là: Lê – Trịnh, Tây
Sơn, và Nguyễn. Ông đã chứng kiến tất cả những cuộc binh biến tàn khốc của các
tập đoàn phong kiến cũng như những cuộc khởi nghĩa nông dân đòi quyền sống.
Nhà thơ không chỉ chứng kiến mà còn trải nghiệm những nỗi cơ khổ của người
dân, thấy rõ cảnh nghèo đói, thấy rõ cảnh “bãi bể thành nương dâu”. Có thể kết lại
rằng thời đại Nguyễn Du là một thời đại biến động và khủng hoảng trầm trọng cả
bề mặt và chiều sâu tư tưởng và những biến động ấy đã để lại dấu vết không bao
giờ phai trong tư tưởng của nhà thơ.
1.1.2. Cuộc đời
Nguyễn Du sinh năm 1765 tại phường Bích Câu (Thăng Long), quê ở Tiên
Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
Ông xuất thân trong một gia đình quý tộc nổi tiếng bậc nhất lúc đương thời,
gia tộc ông có nhiều đời làm quan to, đó là truyền thống của dòng họ Nguyễn, đã
được nhân dân địa phương công nhận bằng hai câu ca dao:
Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước, họ này hết quan
Cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm. Ông là một sử gia, một nhà thơ và đồng
thời là quan lớn của triều Lê. Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần, là vợ thứ ba của
Nguyễn Nghiễm. Bà xuất thân ở vùng quan họ nổi tiếng và nhỏ hơn chồng 32 tuổi.
11
Anh lớn của Nguyễn Du là Nguyễn Khản (cùng cha khác mẹ) cũng là quan lớn
trong phủ Chúa. Nguyễn Khản có một cuộc sống phong lưu, thích thơ phú, soạn
nhạc, trong nhà lúc nào cũng có đàn ca hát xướng.
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Ông đỗ thấp (đỗ Tam
trường) nhưng lại thông minh, học rộng, thông hiểu cả Nho, Phật, Đạo. Dòng họ
Nguyễn không chỉ nổi tiếng nhiều đời làm quan mà còn nổi tiếng với truyền thống
văn học, có nhiều người viết sách và làm thơ. Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du
là một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh dịch; Nguyễn Nghiễm cha ông là một
sử gia, nhà thơ; Nguyễn Khản là anh cả của Tố Như cũng là một vị quan giỏi làm
thơ, hay đối đáp với Trịnh Sâm; rồi cả Nguyễn Nễ anh cùng mẹ với Nguyễn Du,
Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành là cháu ông cũng đều là nhà thơ, nhà văn có tiếng bấy
giờ. Có lẽ chính vì hai truyền thống ấy mà Nguyễn Du có một tâm hồn nhạy cảm
với văn chương, với nghiệp bút nghiên chăng?
Nguyễn Du sinh ra lúc gia đình còn có cuộc sống sung túc, êm đềm, song đến
năm nhà thơ mười tuổi thì cha mất, hai năm sau đó mẹ cũng mất. Lúc này Nguyễn
Du đến nương tựa tại nhà anh là Nguyễn Khản. Xuất thân từ một gia đình quyền
quý, tuổi thơ vàng son sống trong hạnh phúc ngắn ngủi của Nguyễn Du lại sớm kết
thúc, có lẽ lúc ấy cậu bé họ Nguyễn hụt hẫng biết bao.
Năm 1786, Nguyễn Khản mất, Nguyễn Quýnh (anh cùng cha khác mẹ của
Nguyễn Du) nổi lên chống Tây Sơn bị bắt và cũng bị giết, quân Tây Sơn đốt sạch
dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền. Lúc này Nguyễn Du cùng những anh em còn lại
cũng chia tay nhau mỗi người đi về một hướng khác nhau. Bản thân Nguyễn Du về
quê vợ ở Thái Bình. Sau khi người vợ họ Đoàn mất Nguyễn Du về lại quê nhà Hà
Tĩnh song nhà cửa đã bị quân Tây Sơn phá mất.
Nguyễn Du từng có ý định vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng bị tướng
Tây Sơn là Nguyễn Thận bắt giam. Song nhờ có anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn và
anh ruột là Nguyễn Nễ đang làm quan cho nhà Tây Sơn nên chỉ bị giam ba tháng
rồi được tha. Từ đó ông về ở hẳn ở Tiên Điền với những tâm sự nặng nề. Có lẽ
12
những năm gió bụi này đã để lại trong Nguyễn Du bao nỗi niềm giằng xé, đau đớn
với những điều bất đắc chí.
Nguyễn Du sống ở Hồng Lĩnh cho đến năm 1802, tình hình đất nước đổi thay.
Triều Tây Sơn từ sau khi Quang Trung mất đã không còn hưng thịnh nữa, và rồi
không lâu sau bị Nguyễn Ánh tiêu diệt hoàn toàn. Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy hiệu là
Gia Long. Nguyễn Ánh cho vời những cựu thần nhà Lê ra làm quan, trong đó có
Nguyễn Du.
Dưới triều Nguyễn, Nguyễn Du làm quan được thăng chức rất nhanh, từ Tri
huyện Phù Dung lên Tri phủ Thường Tín, Đông các học sĩ ở Kinh đô, giám khảo
trường thi ở Hải Dương, Cai bạ ở Quảng Bình, rồi đến Cần Chánh điện học sĩ, rồi
được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, lại phong thành Hữu Tham Tri bộ Lễ.
Giỏi việc quan nhưng Nguyễn Du rất ít nói, trong lòng ông luôn có một nỗi
“canh cánh mối u sầu nghìn năm”, vẫn như một người bất đắc chí và nhà thơ luôn
cảm thấy day dứt trăn trở trước cuộc đời, đau đớn vì “những điều trông thấy”.
Trong suốt những năm tháng làm quan Nguyễn Du bốn lần xin về quê rồi mới ra
làm việc lại. Con đường hoạn lộ thông thoáng, ông cũng không bị đối xử quá khắt
khe với tư cách là di thần nhà Lê, thế nhưng ông lúc nào cũng giữ một thái độ
khiêm nhường bên ngoài, tránh đụng chạm mọi thứ. Đến nỗi vua Gia Long phải lên
tiếng: “Nhà nước dùng người cứ kẻ hiền tài là dùng chứ không phân biệt Nam Bắc.
Ngươi với ta đã được ơn tri ngộ, làm quan đến bực Á khanh, biết việc gì ngươi phải
nói cho hết chức trách của mình, sao lại cứ sợ hãi, chỉ vâng vâng dạ dạ cho qua
chuyện” [53, tr.14].
Năm Canh Thìn (1820), Gia Long mất, Minh Mạng nối ngôi. Nhà vua định cử
Nguyễn Du làm chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong, nhưng chưa kịp đi thì
Nguyễn Du mắc bệnh dịch và mất trong năm ấy. Nguyễn Du là nhà thơ lớn của
dân tộc, là “tập đại thành” của văn học trung đại Việt Nam. Trong thơ cũng như
con người ông luôn đậm đà dấu ấn của truyền thống văn hóa, văn học của dân tộc.
Cuối cùng, con người nặng tình và tài hoa ấy đã yên nghỉ giấc ngàn thu trong lặng
lẽ và cô đơn như chính ông suốt đời luôn cảm thấy cô đơn [36].
13
1.1.3. Thơ chữ Hán Nguyễn Du
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du gồm ba tập: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung
tạp ngâm và Bắc hành tạp lục.
Thanh Hiên thi tập được sáng tác trong khoảng thời gian 18 năm, từ năm
1786 đến năm 1804, tức là trong chặng đường: “mười năm gió bụi” ở Thái Bình, về
quê dưới chân núi Hồng Lĩnh và vài năm đầu ra làm quan. Đó là khoảng đời thanh
niên chí cao mộng lớn nhưng thời vận lỡ làng, số phận long đong. Có thể nói nhà
thơ sinh lầm thế kỉ chăng? Thời đại li loạn, gia đình tan tác, mang thân phiêu bạt,
nương nhờ đất khách, sống đời cùng khó không anh em, bạn hữu. Vì thế, trong tập
thơ này mang nặng nỗi buồn cô đơn, ý thức thương cho bản thân mình, thân người,
và chính vì đang ở nơi đất khách, sống trong cảnh nương nhờ nên lời thơ đau đáu
một nỗi nhớ quê nặng trịch, đọc mà thấm thía đến tận xương tủy. Toàn tập thơ gồm
78 bài, chia làm ba mốc: “Mười năm gió bụi” có 27 bài, “Dưới chân núi Hồng
Lĩnh” có 31 bài, “Ra làm quan ở Bắc Hà” có 18 bài.
Nam trung tạp ngâm sáng tác trong khoảng thời gian 1805 – 1812, thời gian
Nguyễn Du làm quan ở kinh đô Huế và làm Cai bạ ở Quảng Bình. Tập thơ phản
ánh con đường làm quan của Nguyễn Du. Con người phải giữ mình để tránh va
chạm, tránh tị hiềm ghen ghét. Ông làm thơ trong thời gian này để nói lên nỗi buồn
thế thái nhân tình bên cạnh nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm thương thân. Toàn tập thơ
gồm 40 bài.
Bắc hành tạp lục gồm 132 bài thơ chữ Hán, sáng tác trong vòng một năm, từ
tháng 2 đến tháng chạp năm Quý Dậu (1813). Khi ông dẫn đầu một phái đoàn sứ bộ
sang Trung Quốc. Mở đầu tập thơ là bài cảm tác khi trở ra Thăng Long để lên
đường sang Trung Quốc. Cũng giống như hai tập thơ trên, những bài thơ trong Bắc
hành tạp lục cũng là thơ tâm sự. Tuy nhiên, Nguyễn Du có sự đổi mới, đã không
còn những bài thơ riêng về hoàn cảnh của mình nữa. Thơ ông đề cập đến hiện thực
cuộc sống của người dân Trung Hoa và ngâm vịnh về những di tích lịch sử, đồng
thời bày tỏ tình cảm với những danh nhân lịch sử nước bạn. Giọng điệu trong Bắc
hành tạp lục dường như đã bớt u sầu so với hai tập thơ trước.
14
Có thể khái quát về đề tài trong ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du như sau:
một là đề tài hiện thực cuộc sống của con người, bao gồm cả hiện thực cuộc sống
của chính nhà thơ; hai là đề tài thiên nhiên. Cũng như những nhà thơ trung đại
khác, Nguyễn Du cũng làm thơ về thiên nhiên khá nhiều. Ông đặc biệt viết nhiều
về thiên nhiên quê hương mình với tất cả những gì vốn có của nó, từ hiền hòa êm
dịu cho đến hoang dại, hiểm nguy. Không chỉ vậy, thiên nhiên cũng là đối tượng
hay gợi cho thi nhân những suy nghĩ sâu xa về cuộc đời, về thân phận. Ba là đề tài
lịch sử, Nguyễn Du ngâm vịnh và đánh giá lịch sử Trung Hoa khá sâu sắc. Nguyễn
Du viết nhiều về những nhân vật lịch sử, và cảm thông với cuộc đời những người
tài, người trung nghĩa và phê phán những kẻ xấu xa trong lịch sử Trung Hoa. Nói
như Mai Quốc Liên thì “Nguyễn Du đã làm một việc phi thường là bằng thơ ông đã
đánh giá nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, từ Tiên Tần cho đến Đường – Tống” [14,
tr.122]. Cuối cùng, là những dòng thơ mang tâm sự cảm thương cho thân mình và
phận người trước biến động của cuộc sống. Về thể thơ trong ba tập, khảo sát thơ
Nguyễn Du thì chúng tôi thu được kết quả, thơ ngũ ngôn chỉ có 44/250 bài (chiếm
khoảng 18%), còn thất ngôn thì có đến 206/250 bài (chiếm khoảng 80%), còn lại là
những bài thơ viết theo thể cổ phong tự do.
1.2. Vương Duy và thơ Vương Duy
1.2.1. Thời đại
Vương Duy tên chữ là Ma Cật, ông là nhà thơ thuộc thời đại nhà Đường, nổi
tiếng ở những năm từ Khai Nguyên đến Thiên Bảo. Đường là thời kì hoàng kim
của thơ ca. Đó là thời kì thơ ca Trung Quốc phát triển rực rỡ nhất, nội dung thì
phong phú, còn hình thức thì phải nói là đạt đến trình độ điêu luyện.
Đời Đường kéo dài khoảng 300 năm (617 – 907), từ khi Lý Uyên lật đổ nhà
Tùy lập lên nhà Đường cho đến khi Chu Ơn lật đổ nhà Đường.
Trong 300 năm lịch sử đó nhà Đường có thể chia làm ba thời kì là: sơ Đường,
trung Đường, và vãn Đường. Vương Duy sinh năm 701, mất năm 761, ông sống
trong thời kì Sơ Đường (còn gọi là Sơ thịnh Đường hay Thịnh Đường) đến vài năm
đầu Trung Đường. Thời kì này kéo dài hơn 100 năm từ Đường Cao tổ (Lý Uyên -
15
617) đến loạn An Sử vào cuối niên hiệu Thiên Bảo (755) của Đường Huyền Tông
(Lý Long Cơ).
Trong thời kì này kinh tế phát triển. Đặc biệt đáng chú ý là hai niên hiệu Khai
Nguyên và Thiên Bảo dưới triều Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng). Nền
chính trị lúc này trong sáng, các thế lực bè đảng được tiêu diệt hết. Nhà vua trọng
dụng hai vị lương thần là Diêu Sùng và Tống Cảnh làm tể tướng. Nhờ đó kinh tế
dần phát triển, nông nghiệp đã phát minh ra máy cày tay và đồng xa. Nông nghiệp
được đề cao và quan tâm, đất nước nhờ đó mà ổn định, bước vào thời kì thịnh
vượng. Kinh đô Trường An đông đúc và phồn thịnh bậc nhất.
Bên cạnh đó, Đường Huyền Tông cũng trọng dụng tể tướng Trương Cửu Linh.
Nhà vua nghe theo chính sách cải cách quan lại của ông, đồng thời quan tâm đến
việc dùng người tài, lại yêu cầu các địa phương bồi dưỡng và tiến cử nho sĩ ưu tú
cho đất nước.
Tuy nhiên những năm cuối đời nhà thơ (755- 761) xã hội xảy ra biến loạn.
Mốc đánh dấu chính là sự kiện loạn An Sử (755). Loạn An Lộc Sơn nổ ra đã làm
cho xã hội nhà Đường rối loạn. An Lộc Sơn là tiết độ sứ người Hồ, nổi lên định
cướp ngôi nhà Đường. Đường Huyền Tông cùng Dương Quý Phi chạy vào đất
Thục. Tuy sau đó nhà Đường đã dẹp được loạn An Sử nhưng từ đây mâu thuẫn dân
tộc, giai cấp vẫn âm ỉ cháy, nhà Đường bắt đầu thời kì xuống dốc.
Tóm lại, trong 300 năm đời Đường, có thể lấy năm 755 – xảy ra loạn An Sử
làm mốc để đánh dấu hai thời kì khác nhau. 100 năm đầu là thời kì thịnh vượng. Từ
sau loạn An Sử là thời kì mà mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, triều đình hủ bại,
chiến tranh xảy ra liên miên, người dân bị đẩy vào cảnh điêu linh. Diễn biến lịch sử
này đã để lại dấu ấn trong thơ ca Đường.
Vương Duy sống trong cả hai thời kì khác nhau của lịch sử nhà Đường, từ thời
kì hưng thịnh đến khi bắt đầu loạn lạc. Tuy loạn lạc xảy ra vào những năm cuối đời
nhà thơ nhưng nó cũng ảnh hưởng đến cuộc sống của ông.
16
Nhìn chung cuộc đời Vương Duy bình lặng hơn và nhà thơ ít trải qua nhiều
biến cố, thăng trầm lịch sử như Nguyễn Du. Điều này cũng là một nhân tố tạo nên
sự khác biệt giữa hai nhà thơ.
1.2.2. Con người
Vương Duy (701 – 761) tự là Ma Cật, người đất Kì, Thái Nguyên (nay thuộc
huyện Kì, tỉnh Sơn Tây). Cha sớm qua đời nên suốt thời ấu thơ Vương Duy tuy
sống trong cảnh đủ đầy về vật chất nhưng lại thiếu thốn tình cảm cha con. Gần gũi
với ông nhất là người mẹ, một người họ Thôi ở Bắc Lăng, bà thờ Phật hơn ba mươi
năm và là một tín đồ Phật giáo. Không khí trong nhà vì vậy lúc nào cũng đượm mùi
nhang khói và tiếng tụng kinh, niệm Phật.
Vương Duy từ khi còn nhỏ đã bộc lộ những năng khiếu văn chương, âm
nhạc…tâm hồn nhạy cảm của ông đã sớm tiếp thu không khí sùng đạo Phật trong
gia đình từ rất sớm.
Năm Vương Duy hai mốt tuổi, ông đậu tiến sĩ, được bổ nhiệm quan Đại nhạc
thừa. Sau đó vì phạm lỗi nên bị biếm đi Tế Châu (nay là huyện Trường Thanh, Sơn
Đông) làm Tư khố tham quan cũng tại đây người vợ của nhà thơ qua đời.
Đến năm 734, Trương Cửu Linh chấp chính, Vương Duy làm thơ dâng lên xin
được tiến cử, do đó ông được bổ làm Hữu thập di.
Năm Khai Nguyên thứ 25, Trương Cửu Linh bị biếm, cũng trong mùa thu năm
đó Vương Duy phải đi sứ ngoài biên ải, ở Lương Châu một thời gian. Sau khi đi sứ
ở Lương Châu, Vương Duy về Trường An làm quan một thời gian khá ổn định.
Trong thời gian này vì công việc nhà thơ có đi Tứ Xuyên, Hồ Bắc nhưng thời
gian không lâu. Ông sống tương đối ổn định tại ngoại thành Trường An, một nơi
núi rừng tráng lệ.
Trong khoảng thời gian mười lăm, mười sáu năm từ cuối Khai Nguyên đến
cuối Thiên Bảo (740 – 755), Vương Duy sống cuộc đời yên tĩnh của một vị quan
văn, chức tước thăng dần: Khế Bộ Lang Trung năm 742, Cấp Sự Trung năm 755.
Tuy nhiên, cuộc sống chủ yếu của ông lại là gảy đàn, chơi sáo, làm thơ trong
dinh thự của mình tại Võng Xuyên. Cũng vì vậy mà địa danh Võng Xuyên thường
17
xuyên xuất hiện trong thơ ông. Đây là thời kì chuyển từ tráng niên sang tuổi già của
Vương Duy, thời kì này ông sáng tác rất nhiều thơ sơn thủy điền viên.
Năm 755, An Lộc Sơn chiếm Trường An và Lạc Dương, Vương Duy bị bức ra
làm quan cho ngụy triều. Sau khi ngụy triều đổ, Vương Duy suýt bị tội nặng, may
nhờ có em trai là Vương Tấn đứng ra xin từ quan để chuộc tội, Vương Duy mới
được tha. Sau đó, ông tiếp tục ra làm quan thăng đến Thượng Thư Hữu Thừa.
Tất cả những biến cố trên đã ảnh hưởng sâu sắc đến tầng lớp trí thức, nho sĩ
đương thời, Vương Duy cũng nằm trong số đó. Chính vì vậy mà những năm cuối
đời của Vương Duy, mỗi khi bãi triều nhà thơ thường ngồi lặng lẽ một mình đốt
hương, đọc kinh, niệm Phật.
Vương Duy sinh ra trong một xã hội mà nền giáo dục Nho giáo phát triển
mạnh mẽ. Chịu sự giáo dục đó, Vương Duy cũng dùi mài kinh sử và đi thi lấy công
danh. Cả cuộc đời Vương Duy là một vị quan luôn làm tròn trách nhiệm. Ngay cả
khi về ở ẩn tại Võng Xuyên, Vương Duy vẫn ngày ngày lên triều rồi sau đó lui về
dinh thự của mình vui với đạo.
Vương Duy có một người mẹ là tín đồ Phật giáo trong nhiều năm, ngay từ thuở
nhỏ ông đã sống trong không khí đượm mùi đạo. Tư tưởng của đạo Phật cũng từ đó
ngấm vào tâm hồn nhà thơ. Những bài thơ sơn thủy của thi nhân tinh tế, nhẹ nhàng
nhưng luôn hàm chứa ý vị Thiền sâu sắc. Đối với Lão giáo, Vương Duy cũng thấu
hiểu và yêu thích. Trong thơ mình ông nhắc đến tấm gương của những bậc cao
nhân Đạo giáo với một tấm lòng ngưỡng vọng, ông cũng vô số lần bày tỏ ý muốn
được ẩn cư nơi non xanh. Và nửa cuộc đời sau của mình Vương Duy đã thực hiện
trọn vẹn ý định ấy.
Như vậy, con người Vương Duy là sự thống nhất giữa ba tư tưởng Nho, Phật
và Đạo. Ông sống với trách nhiệm làm quan của một nhà Nho, vui với Phật và Đạo.
Trong thơ Vương Duy cũng biểu hiện rõ nét sự thống nhất ấy.
Năm 761, năm Thượng Nguyên thứ hai đời Đường Túc Tông (Lí Hanh),
Vương Duy qua đời, thọ 61 tuổi.
18
1.2.3. Sự nghiệp
Vương Duy (701 – 761), như vậy sự nghiệp sáng tác của ông nằm trọn trong
giai đoạn Thịnh Đường. Ông để lại khoảng 400 bài thơ, trong đó có những bài thơ
thời trẻ, bộc lộ tâm trạng của lớp tri thức có tài có chí không được dùng, sống trong
cảnh hàn vi, còn bọn công tử quý tộc dốt nát lại giàu có, rong chơi xa hoa, trụy lạc.
Những tháng năm ở biên cương, Vương Duy cũng sáng tác những bài thơ biên
tái. Trong những bài thơ này của Vương Duy có tình điệu khẳng khái, hiên ngang,
đề cao lòng yêu nước, tinh thần hăng hái của những người lính canh giữ biên
cương, sẵn lòng vì một triều đại đang mở mang, hướng tới thịnh vượng như: Sứ chí
tại thượng, Lũng đầu ngâm, Lão tướng hành,…
Thơ Vương Duy có một phần nổi bật quan trọng đó là thơ thiên nhiên. Ông
được coi là một nhà thơ tiêu biểu của phái thơ Sơn thủy điền viên cùng với Mạnh
Hạo Nhiên. Do ưa thích một lối sống bình dị, tĩnh lặng, tâm hồn ông hoà nhập với
cảnh sống thanh bình của núi rừng nên thơ ông miêu tả núi sông hùng vĩ, cảnh làm
ruộng, gặt hái, lấy sự chất phác đôn hậu của đời sống dân chúng cần mẫn trên đồng
ruộng làm nền. Vương Duy là người không chỉ yêu thích mà còn tinh thông Phật
học, do đó thơ ông thắm đượm tư tưởng của đạo Phật. Vương Duy được người đời
sau tôn là “Thi Phật” cùng với “Thi tiên” Lý Bạch, “Thi thánh” Đỗ Phủ là những
nhà thơ nổi tiếng đời Đường.
Vương Duy làm thơ chủ yếu là ngũ ngôn, qua thống kê chúng tôi thấy rằng có
đến 131/170 (chiếm khoảng 77%) bài thơ là thơ ngũ ngôn, trong khi thất ngôn chỉ
có 26/170 bài (chiếm khoảng 15%). Sở trường của Vương Duy là thơ ngũ ngôn,
ông được người đời tôn xưng là “bậc thầy của thơ ngũ ngôn” [20, tr.95] nhất là
ngũ ngôn tứ tuyệt, những bài thơ làm theo thể này vô cùng ngắn gọn, súc tích, bộc
lộ được ý vị Thiền, cũng như triết lí nhân sinh mà nhà thơ gửi gắm. Số bài thơ làm
theo thể này chiếm đến 68/170 bài (chiếm khoảng 40%), những bài thơ nổi tiếng
của Vương Duy được nhiều người biết đến và yêu thích hầu như đều được làm theo
thể ngũ ngôn tứ tuyệt như: Điểu minh giản, Lộc trại, Sơn thù du, Tân Di ổ, Trúc
Lí quán, Văn hạnh quán…
19
Với Vương Duy, để thể hiện triết lí Thiền tông cũng như đạt đến sự điêu luyện
của trạng thái giác ngộ thì ông chọn hình thức thơ nhỏ nhất về mặt dung lượng là
ngũ ngôn tuyệt cú chỉ với hai mươi chữ để chuyển tải một nội dung tư tưởng sâu
sắc. Thơ càng ngắn, càng ít chữ thì càng súc tích, từ đó tạo nên tính chất cô đọng,
hàm súc. Với dung lượng ít ỏi, thơ Vương Duy chú trọng gợi nhiều hơn tả, đọc
những bài thơ sơn thủy nhưng đậm chất Thiền và Đạo chúng ta phải nghiền ngẫm
thật lâu để có thể ngộ ra diệu ý trong đó. Đó chính là hiệu quả của “ý tại ngôn
ngoại” (ý ở ngoài lời), lời thì giản mà ý thì sâu.
Là một thi nhân, Vương Duy còn nổi tiếng với vai trò là một nhạc sư. Có lần
Kỳ Vương mời Vương Duy lại cung Cửu công chúa, em Kỳ Vương và Đường
Minh Hoàng, gẩy đàn chơi. Sau khi đánh đàn xong công chúa hỏi tên khúc nhạc là
gì, Vương thưa: “Uất luân bào”. Rồi hỏi do ai sáng tác, Vương thưa là của mình.
Đến lúc này công chúa mới sửng sốt nói: “Ta thường đánh khúc đàn này cho
Hoàng huynh nghe. Vẫn tưởng là sáng tác của bậc nhạc sư xa xưa, không ngờ nay
mới biết là của tiên sinh” [42, tr.25].
Ngoài sáng tác thơ ca Vương Duy còn tinh thông hội họa. Ông là gương mặt
tiêu biểu cho trường phái tranh sơn thủy của Trung Quốc, và đồng thời là người
sáng lập ra Nam Tông họa phái. Tài tử Tô Đông Pha khi nhận xét về Vương Duy
đã nói: “Vị Ma Cật chi thi, thi trung hữu họa, quan Ma Cật chi họa, họa trung hữu
thi.” (Thưởng thức thơ của Ma Cật, trong thơ có họa, ngắm họa của Ma Cật, trong
họa có thơ.)
1.3. Nguyên lí văn học so sánh
1.3.1. Nguyên lí chung của văn học so sánh
Văn học so sánh hiện nay đã trở thành một bộ môn khá ổn định và có triển
vọng trong giới nghiên cứu văn học. Tuy vậy, không phải văn học nào cũng là văn
học so sánh, nó hoàn toàn khác với thao tác so sánh văn chương.
So sánh văn chương là một phương pháp nghiên cứu văn học có đối tượng bất
kì. Chúng ta có thể so sánh hai hay nhiều đoạn văn, đoạn thơ với nhau; hoặc có thể
so sánh tác phẩm này với tác phẩm kia; tác giả này với tác giả khác; giai đoạn văn
20
học này với giai đoạn văn học kia; so sánh trào lưu với trào lưu; so sánh niên đại,
lịch đại,..và các hiện tượng tương đồng hoặc tương phản…Thông qua so sánh văn
chương người nghiên cứu rút ra được quy luật vận động, phát triển của văn học.
Văn học so sánh khác so sánh văn học ở chỗ đối tượng nghiên cứu. Theo đó,
đối tượng của văn học so sánh là nghiên cứu mối quan hệ giữa các nền văn học,
vượt qua ranh giới quốc gia, dân tộc. Văn học so sánh nghiên cứu mối quan hệ giữa
văn học, văn hóa của các dân tộc khác nhau cũng như sự giao lưu văn học, văn hóa
của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Chính vì vậy mà văn học so sánh vừa có
tính dân tộc lại vừa có tính quốc tế. Để phân biệt rõ hơn giữa văn học so sánh và so
sánh văn học, người nghiên cứu cần chú trọng đến những nguyên lí, đặc trưng riêng
của văn học so sánh.
“Văn học so sánh vừa tìm cái chung, cái tương đồng của các thực tại văn học
có tính phổ quát với phương pháp loại hình, vừa tìm cái độc sáng, cái bản sắc, cái
đa dạng, cái khác biệt trong cái chung đó với phương pháp khu biệt” [58, tr.30].
Vì văn học so sánh có những nguyên lí riêng, có những đối tượng riêng nên
khi tiến hành nghiên cứu theo hướng văn học so sánh người nghiên cứu cần xác
định rõ đối tượng của mình. Theo đó, có ba đối tượng chính của văn học so sánh
như sau:
Thứ nhất, văn học so sánh nghiên cứu các mối quan hệ trực tiếp giữa các nền
văn học dân tộc khác nhau. Khi nghiên cứu đối tượng này nhà nghiên cứu cần chỉ
ra được sự vay mượn hay ảnh hưởng qua lại cũng như nguồn gốc của sự ảnh hưởng
và vay mượn để đánh giá sự đóng góp của cả hai bên. Ví dụ Nguyễn Du vay mượn
cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc để sáng
tạo nên Đoạn trường tân thanh; truyện Nửa đêm của Nam Cao chịu ảnh hưởng
cuốn Thérèse Raquin của Emile Zola một cách rõ rệt; Ghen của Đoàn Phú Tứ
được viết theo vở La Jalousie của Shacha Guitry…[80, tr.389]
Thứ hai, văn học so sánh nghiên cứu những điểm tương đồng (hay còn gọi là
nghiên cứu song song). Đó có thể là những tương đồng về đề tài, chủ đề, tư tưởng,
21
hay phong cách .v.v. giữa hai đối tượng không có mối liên hệ trực tiếp dựa trên tính
phổ quát và khác biệt giữa văn hóa của các quốc gia.
Việc nghiên cứu theo hướng này nhằm rút ra những đặc điểm chung giữa hai
đối tượng từ đó tìm ra đặc điểm của nền văn hóa cũng như hệ thống văn học giữa
các quốc gia khác nhau. Đồng thời làm nổi bật đặc trưng của mỗi nền văn học.
Ví dụ, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đi nghiên cứu kiểu
truyện Tấm Cám ở các quốc gia Đông Nam Á, hay đề tài “dũng sĩ diệt đại bàng
cứu người đẹp” trong truyện cổ Đông Nam Á .v.v.
Thứ ba, văn học so sánh nghiên cứu các điểm khác biệt độc lập. Hướng nghiên
cứu này xuất phát từ thực tế văn học. Bởi vì trong thực tiễn đôi khi chúng ta cần
phải nghiên cứu, so sánh hai hiện tượng văn học khác nhau để chứng minh sự khác
nhau giữa hai đối tượng đó qua đó nhằm phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu cụ thể
nào đó của nhà nghiên cứu.
Ví dụ so sánh truyện Con chó săn của dòng họ Baskerville của Arthur Conan
Doyle với tác phẩm Tên của đóa hồng của Umberto Eco để chứng minh Tên của
đóa hồng không phải là tiểu thuyết trinh thám; so sánh tiểu thuyết Robinson
Crusoe của Daniel Defoe với Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật để thấy Quả
dưa đỏ chưa phải là tiểu thuyết phiêu lưu .v.v.
Như vậy, văn học so sánh có nhiệm vụ làm rõ cái đặc thù của dân tộc cũng như
cái quốc tế, từ đó tìm ra bản chất của văn học, cũng như quy luật phát triển của văn
học.
Tóm lại, “văn học so sánh vừa hướng tới cái thống nhất, cái đơn nhất trong sự
đa dạng của những khác biệt, hoặc ngược lại nó khởi đi từ những hiện tượng khác
biệt để tiến đến khái quát các chuỗi (séries) của cái chung. Sự biện chứng giữa tính
loại hình và tính khác biệt cũng chính là sự biện chứng giữa cái chung và cái riêng,
cái phổ quát và cái độc đáo” [58, tr.30].
1.3.2. Cơ sở để so sánh Nguyễn Du và Vương Duy
Nguyễn Du và Vương Duy sinh sống và sáng tác ở hai thời đại khác nhau, tại
hai không gian khác biệt. Một người sống ở thời nhà Đường (701-761), một người
22
ra đời sau đó hơn một ngàn năm. Một người là nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc, một
người là đại thi hào của dân tộc Việt Nam.
Khi tiến hành so sánh Nguyễn Du và Đỗ Phủ chúng ta có thể khẳng định mối
liên hệ giữa hai nhà thơ. Bởi vì sinh thời trong những tác phẩm của mình Nguyễn
Tiên Điền đã nhiều lần nói đến Đỗ Phủ với một tấm lòng cảm thông, kính trọng vô
vàn:
Thiên cổ văn chương thiên cổ si (sư)
Bình sinh bội phục vị thường li
(Lỗi dương Đỗ Thiếu Lăng mộ 1)
(Văn chương để lại muôn đời, bậc thầy của muôn đời
Suốt đời ta khâm phục chưa chút đơn sai)
Còn Vương Duy và Nguyễn Du thì không có một căn cứ nào cho chúng ta thấy
sự liên hệ giữa họ. Nói đến Vương Duy chúng ta nghĩ ngay đến một Thi Phật với
những bài thơ độc đáo ý vị Thiền, còn Nguyễn Du là một nhà thơ với tâm hồn đa
cảm mang nặng tâm sự về cuộc đời và nhà thơ với tấm lòng nhân đạo cao cả. Vậy
cơ sở nào để so sánh hai nhà thơ có sự khác biệt nhiều như vậy?
Cơ sở để chúng tôi so sánh Nguyễn Du và Vương Duy là dựa trên nguyên lí
của văn học so sánh đã trình bày khái quát ở phần trên. Nguyên lí của văn học so
sánh cho phép chúng tôi tiến hành so sánh hai đối tượng khác biệt và hoàn toàn độc
lập, đây là đối tượng thứ ba của văn học so sánh. Khi tiến hành nghiên cứu các
điểm khác biệt độc lập giữa Nguyễn Du và Vương Duy chúng tôi muốn chứng
minh nét nổi bật của Nguyễn Du – con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam trong
thế đối sánh với Vương Duy – con người Trung Hoa, văn hóa Trung Hoa.
Cơ sở tiếp theo dẫn dắt chúng tôi đến với đề tài này là do văn học Việt Nam và
văn học Trung Quốc có một mối liên hệ chặt chẽ, hay có thể nói nền văn học Việt
Nam, nhất là văn học trung đại chịu ảnh hưởng từ văn học cổ Trung Quốc. Trong
đó thơ ca là thể loại mang đậm dấu ấn của Đường thi. Mối quan hệ này hình thành
trên cơ sở lịch sử đất nước ta từ xa xưa đã bị Trung Quốc xâm lược, đô hộ cả nghìn
năm. Từ đó có sự giao lưu văn hóa, văn học cũng như vay mượn chữ viết trong
23
sáng tác văn nghệ cho nên sự gặp gỡ giữa nhà thơ Việt Nam là Trung Hoa là không
ít.
Bên cạnh đó giữa Vương Duy và Nguyễn Du chúng tôi cũng đồng thời thấy
được sự tương ngộ giữa hai tâm hồn thơ ca. Đó là sự tương đồng, gặp gỡ của tinh
thần phương Đông của hai nhà thơ và cũng là cơ sở để chúng tôi tựa vào khi so
sánh Nguyễn Du và Vương Duy.
Đó chính là tinh thần ham sống, tinh thần luôn hướng đến sự thanh cao trong
mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Cả Vương Duy và Nguyễn Du đều theo đuổi con
đường hoạn lộ đến cuối đời. Song không giống những người khác, họ giữ cho mình
một tâm hồn liêm khiết trong việc quan. Nguyễn Du sống thanh bần đến cuối đời,
trong khi Vương Duy ngoài thời gian ở triều đình thì lui về vui với thiên nhiên,
kinh kệ, không quan tâm đến vinh nhục thế sự. Cả hai thi nhân dù nhìn cuộc sống
với thái độ thế nào cũng không từ bỏ cuộc sống, thân “hiện hữu” tại thế gian với
một tinh thần luôn hướng về một cuộc sống.
Cả Vương Duy và Nguyễn Du đều có một tấm lòng luôn hướng đến vẻ đẹp của
cuộc sống. Vương Duy trân trọng cuộc sống với từng chi tiết bình dị nhất như một
tiếng chim hót, một đóa hoa sen, một đàn trẻ chăn trâu nô đùa dưới mưa… Còn
Nguyễn Du khi phản ánh hiện thực xã hội với những gì thối nát nhất nhưng vẫn
hướng đến một cuộc sống hạnh phúc và trân trọng những vẻ đẹp của con người
trong cuộc sống ấy.
24
Tiểu kết chương 1
Trên đây chúng tôi đã trình bày những vấn đề khái quát về cuộc đời, con người
cũng như sự nghiệp văn học của Vương Duy và Nguyễn Du. Đồng thời chúng tôi
cũng xin nêu ra những cơ sở để so sánh thơ Vương Duy và Nguyễn Du. Đó là cơ sở
lí luận xuất phát từ nguyên lí và đặc trưng cho phép của bộ môn Văn học so sánh.
Có thể nói đây là hai hiện tượng văn học hoàn toàn khác biệt. Tuy vậy dựa trên
những gì thu được từ quá trình nghiên cứu khái quát chúng tôi tiến hành so sánh
Nguyễn Du và Vương Duy nhưng chỉ giới hạn ở phạm vi nhỏ là cảm hứng sáng tác
và sự thể hiện tinh thần của Phật giáo, Lão giáo.
25
Chương 2. NHỮNG ĐIỂM GẶP GỠ GIỮA THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN DU VÀ THƠ VƯƠNG DUY
2.1. Cảm hứng thế sự
Văn học luôn có chức năng phản ánh hiện thực dù nó ở trong thời kỳ nào đi
nữa. Mỗi một nhà văn, nhà thơ khi cầm bút sáng tác đều ý thức được việc phản ánh
hiện thực là chức năng cao cả nhất của văn nghệ. Nguyễn Du và Vương Duy có gốc
là một nhà Nho. Mà đối với mỗi người chịu ảnh hưởng từ học thuyết Nho giáo sẽ
hiểu được thế nào gọi là trách nhiệm đối với đời. Xuất phát từ cảm hứng trách
nhiệm đối với cuộc sống, con người, trong thơ họ hình thành nên một loại cảm
hứng văn học gọi là cảm hứng thế sự.
Cảm hứng theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là trạng thái tâm lí đặc biệt nảy sinh
khi con người có một sự tập trung cao độ kết hợp với một cảm xúc mãnh liệt tạo
điều kiện cho óc tưởng tượng và năng lực sáng tạo hoạt động hiệu quả nhất. Cảm
hứng thế sự chính là cảm hứng nảy sinh khi các thi nhân quan sát hiện thực cuộc
sống với một sự tập trung, một trạng thái tình cảm sâu sắc nhất để biến cảm hứng
ấy thành câu chữ thể hiện cuộc sống một cách hiệu quả nhất.
Xuất phát từ đặc tính phản ánh hiện thực của thơ văn cho nên các nhà thơ, nhà
văn luôn lấy chất liệu sáng tác nghệ thuật từ chính cuộc sống mà họ trải qua, cũng
như hiện thực mà họ chứng kiến.Cũng như bao nhà thơ khác, Nguyễn Du và
Vương Duy đều hướng về con người và xã hội họ sống.
2.1.1. Hiện thực xã hội
Những bài thơ của Vương Duy tuy đậm đặc ý muốn hướng đến một cuộc sống
thanh nhàn với thiên nhiên nhưng điều đó không có nghĩa là Vương Duy bỏ mặc
thế sự, dửng dưng với cuộc đời. Ngược lại Vương Duy vẫn có những bài thơ cho
thấy ông không hề xa rời cuộc sống, không chỉ mải mê tìm lối thoát tục.
Trong loạn An Lộc Sơn, trước cảnh người dân thống khổ, triều thần hoảng
loạn, nhà thơ xót xa:
26
Vạn hộ thương tâm sinh dã yên
Bách quan hà nhật cánh triều thiên?
Thu hòe diệp lạc không cung lí
Ngưng Bích trì đầu tấu quản huyền
(Tư Thành Khẩu hào tụng thị Bùi Địch)
(Muôn nhà dân đau lòng trước những ngọn khói quê
Bao giờ trăm quan mới lại được chầu vua?
Lá hòe mùa thu rụng hoài trong cung vắng
Nơi ao Ngưng Bích vẫn vang dội tiếng sáo, tiếng đàn)
Trong cuộc phản loạn của An Lộc Sơn, Vương Duy bị ép làm quan cho ngụy
triều, ông không có cách chống lại. Sau khi loạn An Sử trôi qua, Vương Duy suýt
bị tội vì đã làm quan cho ngụy triều, song nhờ có em xin tha tội mà được tha. Bài
thơ này Vương Duy làm khi bị An Lộc Sơn giam lỏng, ông viết cho bạn mình là
Bùi Địch. Bài thơ phản ánh hiện thực lúc kinh đô Trường An bị chiếm, khói lửa
chiến tranh khiến nơi nơi nhân dân lâm vào loạn lạc, sợ hãi. Trong khi đó các quan
lại ngơ ngác, bàng hoàng, không biết ngày nào mới được chầu vua, phải chăng
Vương Duy đang nói tâm trạng mình trước hiện thực ấy. Cung điện vắng vẻ, chỉ có
lá thu rơi, cảnh vật tiêu điều, vắng lặng. Ấy vậy mà tiếng nhạc, tiếng hát của quân
phản loạn lại vẫn vang đều khiến cho nhà thơ không sao cầm nổi xót xa.
Những ngày tháng còn trẻ, với chức trách của một vị quan miền biên tái
Vương Duy có cái nhìn khá khắt khe đối với hiện thực cuộc sống sa đọa của những
thiếu niên trai tráng:
Tân phong mỹ tửu đấu thập thiên
Hàm Dương du hiệp đa thiếu niên
Tương phùng ý khí vi quân ẩm
Hệ mã cao lâu thùy liễu biên
(Thiếu niên hành)
(Ở Tân Phong, rượu ngon có cả muôn đấu
Hiệp khách đất Hàm Dương phần nhiều là người trẻ
27
Gặp nhau, cảm nhau về ý khí mà cùng nhau uống
Lên lầu cao sau khi buộc ngựa bên gốc liễu rũ tơ)
Những người trẻ tuổi không ra trận cống hiến cho nước nhà, ngược lại say đắm
trong men rượu. Ngựa không dùng để chinh chiến sa trường mà bị buộc cùng bên
gốc liễu yếu ớt. Trong khi đó những vị tướng đã già nhưng vẫn rong ruổi miền biên
ải, chiến đấu vì đất nước:
Nhất thân chuyển chiến tam thiên lí
Nhất kiếm tằng đương bách vạn sư
Hán binh phấn tấn như tích lịch
Nỗ kỵ bôn đằng úy tật lê
(Lão tướng hành)
(Một thân luân chuyển đánh trận ba ngàn dặm
Một thanh kiếm địch trăm vạn quân
Quân Hán đoạt ngựa tiến nhanh như sét đánh
Ngựa giặc chạy miết sợ đám gai chông)
Bản thân Vương Duy cũng bôn ba nơi biên cương thời còn trẻ, ông làm nhiều
bài thơ phản ánh hiện thực cuộc sống nơi biên cương. Hiện thực cuộc sống miền
biên tái bên cạnh những hào khí ngút trời, những cuộc hành quân giết giặc gian khổ
còn là nỗi cô đơn, hoài niệm “đất cũ” – quê nhà chăng?
Chinh bồng xuất Hán tắc
Quy nhạn nhập Hồ thiên
Đại mạc cô yên trực
Trường hà lạc mộ viên
(Sứ chí tắc thượng)
(Cỏ bồng dời đất Hán
Chim nhạn về trời Hồ
Khói buồn cao đại mạc
Ráng chiều phơi trường hà)
28
Vị quan Vương Duy nhiều lần phải thay đổi trong việc quan, ông phải đi từ nơi
này sang nơi khác nhận những nhiệm vụ mới. Trên những con đường rong ruổi ấy
nhà thơ vẫn quan sát một cách tinh tế cuộc sống của con người nơi đó. Đó là cảnh
sống thanh bình, tĩnh lặng của thôn dân:
Tình giang nhất nữ cán
Triêu nhật chúng cầm minh
Thủy quốc châu trưng nhị
(Hiểu hành Ba Giáp)
(Bên sông lúc trời tạnh ráo một cô gái làm việc giặt giũ
Dưới ánh mai, chim hót líu lo
Nơi sông nước người ta họp chợ trong đò)
Một bức tranh hiện thực êm đềm, giản dị nhưng ấm áp. Dưới ánh ban mai là
tiếng chim hót vang, bên sông là thiếu nữ giặt áo, tắm mình trong nắng sớm, thật là
tràn trề sức sống, sức trẻ. Nơi sông nước càng thêm nhộn nhịp với phiên họp chợ.
Chỉ bằng vài nét chấm phá nhưng Vương Duy đã cho người đọc thấy được hiện
thực cuộc sống tuyệt vời ở chốn này. Khung cảnh nơi đây còn đặc biệt có ý nghĩa
với nhà thơ, bởi vì nó khiến ông vơi bớt niềm nhớ nhung đối với quê nhà:
Nhân tác thù phương ngữ
Oanh vi cựu quốc thanh
Lại am sơn thủy thú
Sảo giải biệt ly tình
(Hiểu hành Ba Giáp)
(Người ở đây nói tiếng xứ khác
Oanh vẫn hót giọng xưa nơi nước nhà
Nhờ có nhiều cảnh non nước đẹp mắt
Nên cũng đỡ phần nào niềm nhớ nhung khi chia lìa)
Lần khác trên đường nhà thơ đi biên ải (do bị biếm), nhà thơ ngủ lại ở Trịnh
Châu một đêm. Với một tâm trạng không hề dễ chịu, Vương Duy đã nói về chuyến
đi của mình là đến vùng biên cương chỉ để kiếm đồng lương còm, thế nhưng thi
29
nhân vẫn hết sức tinh tế để quan sát cuộc sống người dân nơi đây. Một bức tranh
cuộc sống giản dị nhưng êm đềm, lão nông phu về nhà sau một ngày làm đồng; lũ
trẻ chăn trâu nghịch mưa vui vẻ; dế kêu bên khung dệt vải; chim hót báo mùa lúa
chín.
Điền phụ thảo tế quy
Thôn đồng vũ trung mục
Chủ nhân đông cao thượng
Thì giá nhiêu mao ốc
Trùng tu cơ trữ minh
Tước huyên hòa thử thục
(Túc Trịnh Châu)
(Lão nông phu từ cánh đồng cỏ trở về
Trẻ trong xóm chăn trâu bò dưới mưa
Ông chủ bên cánh đồng phía đông
Mạ mùa mọc quanh ngôi nhà tranh
Dế nỉ non nhớ khung cửi
Se sẻ ríu rít báo tin mùa lúa chín)
Vương Duy có cái nhìn về cuộc sống theo cách riêng của mình. Dưới nhãn
quan của Vương Duy, cuộc sống dường như bình lặng và luôn đơn giản. Thiên
nhiên và con người nơi đây đã hòa quyện vào nhau để dệt nên bức tranh hiện thực
ấm áp và hạnh phúc khiến thi nhân chạnh lòng nghĩ đến con đường hoạn lộ thăng
trầm của ông chăng?
Trên con đường ấy vị quan họ Vương không phải chỉ thấy những khung cảnh
êm đềm, ông còn chứng kiến những cảnh ngộ khiến con người phải rơi lệ:
Thanh thanh dương liễu sắc
Mạch thượng biệt li nhân
Ái tử du Yên, Triệu
Cao đường hữu lão thân
Bất hành vô khả dưỡng
30
Hành khứ bách ưu tân
(Quan biệt giả)
(Đường quê liễu rũ xanh xanh
Trên đường quê đó có người tiễn đưa nhau
Người con yêu đi sang các nước Yên, Triệu
Nơi thềm cao, còn cha mẹ già
Không đi thì không có gì để phụng dưỡng
Mà đi thì trăm mối lo mới làm bận lòng)
Đó là một cuộc chia li của những người con với cha mẹ để sang đất khác mưu
sinh. Nghịch cảnh ở chỗ cha mẹ đã già mà phải tiễn con đi, biết sống đến ngày con
trở về được chăng? Con cái tất nhiên muốn ở lại phụng dưỡng nhưng nếu ở lại thì
“vô khả dưỡng”, không có khả năng nuôi dưỡng nổi cha mẹ. Chỉ với một câu thơ
vài chữ ngắn ngủi, nhà thơ đã bày ra trước mắt người đọc một tấm gương soi rõ
hiện thực đời sống nơi đây. Đó là nơi đây con người phải khổ sở như thế nào mới
khiến họ buộc phải đi nơi khác để kiếm nguồn nuôi dưỡng cha mẹ già. Cha mẹ đã
già có cầu gì nhiều, người con cũng chỉ có cha mẹ già mà không nuôi nổi. Hoàn
cảnh phải cơ cực đến mức nào mới ép được con người đến bước đường này. Người
ra đi với trăm mối lo, vừa phải lo cha mẹ già ở lại quê nhà mà mình không túc trực
sớm hôm, vừa phải lo cách mưu sinh ở đất lạ. Người đi mang thân phận một kẻ xa
quê vừa cô đơn, vừa nặng nề chồng chất gánh nặng cơm áo trên vai. Chứng kiến
cuộc chia li này, nhà thơ không giữ nổi những giọt lệ cảm thông, thương xót, ông
thương cho mình và xót cho người. Như vậy, nào có phải Vương Duy chỉ biết đến
ẩn dật, yếm thế. Ông vẫn quan tâm đến con người, đến cuộc sống, nhưng là cuộc
sống dường như phần nào đã được chọn lọc qua lăng kính riêng của mình. Đó là
một lăng kính đã được lọc qua những triết lí của Phật, của Lão, và của chính riêng
Vương Duy.
Vương Duy luôn có sự quan tâm đến cuộc sống thường ngày của những con
người gần gũi với mình. Ông viết những gì ông thấy, không tham khái quát hay đi
31
sâu vào những gì phức tạp của thế sự. Chỉ đơn giản là cảm nhận từ cuộc sống con
người:
Tà quang chiếu khư lạc
Cùng hạng ngưu dương qui
Dã lão niệm mục đồng
Ỷ trượng hậu sài phi
(Vị Xuyên điền gia)
(Bóng tà rọi vào thôn ấp
Trâu dê trở về trong xóm sâu
Ông già quê nghĩ tới lũ trẻ chăn trâu
Tựa gậy đứng đợi nơi cổng tre)
Đó là khung cảnh của một buổi chiều tà nơi xóm ấp. Lũ trẻ chăn trâu lùa trâu,
dê trở về nhà sau một ngày làm việc mệt mỏi. Hay chỉ đơn giản là ông lão chống
gậy đợi bầy trẻ về nhà nơi cổng tre. Con người hiện lên trong bức tranh cuộc sống
thật hiền hòa và bình thản, phải chăng hạnh phúc bình dị mà bất cứ người dân nào
cũng mong mỏi là đây? Phải chăng ngắm bức tranh này Vương Duy cũng cảm thấy
nhẹ nhàng và vui sướng, đó chính là niềm khao khát của thi nhân. Cuộc sống vẫn
theo nhịp đều đặn song lại toát lên ý vị của sự nhàn rỗi, thanh bình tuyệt đối. Đó là
sự nhàn rỗi có được do không có chiến tranh, không có bóc lột, không có bất công.
Con người nơi đây cũng không chịu thiên tai, không phải li biệt như cảnh ngộ nhà
thơ nói ở trên. Đây chẳng phải là cuộc sống, là hiện thực sao?
Dường như đôi mắt của Vương Duy luôn hướng về thiên nhiên, những con
người gần gũi với thiên nhiên, nhất là những người nông dân luôn được nhà thơ
nhìn một cách trìu mến:
Nông nguyệt vô nhàn nhân
Khuynh gia sự nam mẫu
(Tân tình vãn vọng)
(Ngày mùa không có người ngồi rồi
Cả nhà đổ ra làm việc đồng áng)
32
Ông nhìn ra sự bận rộn của người nhà nông, nhìn thấy nhịp quay của cuộc
sống đồng áng. Ngày mùa người nông dân rất bận rộn, không có người rỗi rãi.
Người đọc theo ngòi bút của thi nhân mà dường như đã mường tượng ra khung
cảnh người người đổ ra đồng làm việc, với những niềm vui, những nụ cười, những
giọt mồ hôi đổ trên cánh đồng. Cả nhà được cùng nhau làm việc, đó chính là niềm
hạnh phúc giản đơn nhất nhưng cũng to lớn nhất. Cái nhìn của Vương Duy tinh tế,
nhẹ nhàng, có vẻ như ông chỉ lướt ngòi bút qua cảnh ngày mùa, vậy nhưng ý vị câu
thơ mang lại thì vô cùng sâu sắc. Nó chứa đựng tình cảm yêu mến của nhà thơ, và
đồng thời tái hiện lại cuộc sống nông thôn một cách chân thật nhất.
Vương Duy hơn một lần viết về những con người chân lấm tay bùn, gắn bó với
đồng ruộng:
Điền tốt lai trí từ
Hân hân xuân hoàn cao
Đạm đạm thủy sinh ba
Đào lí tuy vị khai
Đề ngạc mãn kì chi
Thỉnh quân lí hoàn sách
Cảm cáo tương nông thì
(Tặng Bùi Thập Địch)
(Đám điền tốt tới chào hỏi, thưa gửi
Vui vẻ xuân đã về đồng
Mênh mông đầy ắp, nước dâng nơi bờ ao
Đào mận tuy chưa trổ hoa
Mà đài hoa giá đậu đã nhú đầy cành
Xin chú sửa soạn roi ngựa mà về đi
Báo chú biết ngày mùa tới rồi đó)
Bài thơ là những dòng nhắn gởi của Vương Duy với người bạn tên Bùi Thập
Địch, trong bài thơ Vương Duy báo cho bạn biết ngày mùa đã về. “Nông thì” được
miêu tả với những dấu hiệu của cây cỏ, non nước. Ruộng tốt với nước tràn trề, giá
33
đậu nhú mầm chờ ngày sinh trưởng mạnh mẽ. Con người cũng mang một tâm trạng
vui vẻ, thoải mái cười đùa, chào hỏi lẫn nhau. Một cuộc sống vui tươi, ấm áp đang
chờ bạn của nhà thơ, dường như nhà thơ nhắn với bạn của mình rằng nơi đây đang
chờ bạn về tận hưởng, bạn còn chờ gì mà không sửa soạn về đi thôi. Đối với Vương
Duy, cuộc sống thực tại là chốn yên bình nhất để ông rũ bỏ những phiền não, ông
không tránh đời, luôn có mặt trong hiện thực với một tâm hồn thoát tục. Cho nên
hiện thực trong thơ Vương Duy vừa thật mà vừa giản dị.
Như vậy, hiện thực trong thơ Vương Duy hiện lên trong thơ ông với một vẻ
ngoài đã được chau chuốt. Dường như Vương Duy vẽ lại bức tranh cuộc sống với
một ngòi bút thấm đẫm sự tinh tế, thanh thoát. Đó chính là hồn thơ riêng của thi
nhân. Một hồn thơ của ý vị Thiền, nhẹ nhàng, giản đơn nhưng vô cũng sâu sắc.
Chính bởi lẽ ấy mà hiện thực cuộc sống, cảm hứng thế sự trong thơ Vương Duy có
một vẻ ngoài nhạt và thanh. Tuy nhiên, khi người đọc bước qua bức rèm ấy sẽ thấy
hiện thực cuộc sống hiện lên trong thơ ông vô cùng chân thành và sâu sắc.
Nguyễn Du cũng giống Vương Duy, xuất thân trong một gia đình Nho học, có
truyền thống làm quan lâu đời, Nguyễn Du lúc trẻ luôn mong lập thân giúp đời.
Song hiện thực cuộc sống và những biến đổi của thời cuộc vô tình biến ông thành
người tha hương, chạy loạn. Những ngày tháng ấy đã cho Nguyễn Du cơ hội trải
nghiệm cuộc sống của nhiều lớp người. Chính bản thân ông cũng rơi vào cảnh tha
hương, khất thực, bệnh tật, ăn nhờ ở đậu. Đối với Nguyễn Du, hiện thực cuộc sống,
thế thái nhân tình, nỗi khổ của con người luôn là điều khiến ông day dứt không thể
nào nguôi.
Nguyễn Du quan sát cuộc sống với tất cả những tình cảm ông có được. Trên
đường đi sứ, ông nhận ra cuộc sống con người luôn phải đối mặt với nhiều điều khó
khăn. Trước là với thiên nhiên khắc nghiệt:
Vũ sư thế khấp Bằng Di nộ
Ngũ chỉ sơn tiền thủy bạo chú
Bạch ba chung nhật tẩu xà long
34
Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ
(Bất tiến hành)
(Thần mưa khóc sướt mướt, thần nước giận dữ
Trước núi Ngũ Chỉ, nước như trút xuống
Sóng bạc suốt ngày như rắn rồng đua chạy
Hai bên bờ núi xanh như sói cọp)
Bài thơ thuộc dạng vịnh cảnh, đúng là Nguyễn Du đang vịnh cảnh, nhưng là
cảnh đáng sợ mà ông thấy. Thiên nhiên nơi đây không thơ mộng mà ngược lại luôn
rình rập sự an toàn của con người. Đất nước Trung Hoa trong mắt nhà thơ không
như lời đồn:
Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình
Trung Hoa đạo trung phù như thị
(Ninh Minh giang chu hành)
(Mọi người đều nói đường trên đất Trung Hoa bằng phẳng
Hóa ra đường Trung Hoa lại như thế này)
Như thế này là thế nào? Là núi cao, sóng dữ, đường núi gập ghềnh hiểm trở
với rừng rậm đầy thú dữ (Bất tiến hành, Chu hành tức sự, Ninh Minh giang chu
hành…). Có khi đi một mạch ba ngày còn chưa tơi nơi cần tới. Trước hiện thực
đáng sợ ấy thi nhân không khỏi bồn chồn lo lắng. Nếu nhà thơ chỉ đi ngang qua
vùng đất này đã thấy hiểm nguy đến vậy thì những con người sống nơi đây há
chẳng phải quanh năm nhọc nhằn chống chọi với hiểm nguy từ tự nhiên sao?
Đất nước Trung Hoa mà Nguyễn Du thấy không phải một đất nước thanh bình,
êm ả, càng không phải đất nước có con dân được an nhàn.
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành
Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ
Tự xuân tồ thu điền bất canh
(Trở binh hành)
(Ta nghe người vùng này nhiều năm khổ vì lúa mất trắng và nắng cháy
35
Chỉ có cấy xuân mà không thu hoạch được
Hồ Nam, Hà Nam từ lâu không có mưa
Từ mùa xuân đến mùa thu ruộng bỏ không cày)
Thiên tai, hạn hán, trời nhiều ngày không mưa khiến cho người nông dân
không trồng trọt được. Dẫu có trồng được thì cũng không được thu hoạch vì nắng
hạn đã khiến hoa màu chết sạch. Vì thế cho nên con người ở đây sống trong cảnh
tang thương:
Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc
Khang tì vi thực lê vi canh
Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo
Hoài trung táo tử thân biên khuynh
(Trở binh hành)
(Trai lớn gái bé luôn có sắc mặt ốm đói
Tấm cám làm cơm, rau lê làm canh
Ta nhìn thấy tận mắt người đói chết giữa đường
Hột táo trong bọc túi lăn bên mình)
Con người ở đây luôn trong trạng thái đói khát. Mùa màng không thu hái gì
được thì gạo thóc đâu để sống cho nên đói là phải. Người may mắn thì còn có chút
tấm cám làm cơm, chút rau dại làm canh. Kẻ bất hạnh thì chết vì đói giữa đường.
Nguyễn Du quan sát thật kĩ càng, chỉ với một chi tiết nhỏ, bên cạnh người chết giữa
đường là một hạt táo khô rơi ra mà nhà thơ cũng ghi nhận. Con người phải đói khổ
tới mức cạn kiệt, phải ăn hạt táo mà chống đói. Thế nhưng chút hơi tàn ấy cũng
không duy trì được bao lâu. Người dân chết đói giữa đường, mùa màng thất bát,
phải trôi dạt đi ăn xin. Vậy mà quan lại thì phung phí, thừa thãi:
Tạc tiêu Tây Hà dịch
Cung cụ hà trương hoàng
Lộc cân tạp ngư xí
Mãn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
36
Tiểu môn chỉ lược thường
Bát khí cố vô tích
(Sở kiến hành)
(Đêm qua ở trạm Tây Hà
Tiệc tùng cung đốn sao mà linh đình thế
Gân hươu cùng vây cá
Đầy bàn thịt lợn, thịt dê
Quan lớn chẳng đụng đũa
Tùy tùng chỉ nếm qua
Bỏ mứa không đoái tiếc)
Đây chính là hiện thực cuộc sống với mâu thuẫn giai cấp sâu sắc được Nguyễn
Du vạch ra dưới ngòi bút tài tình của mình. Giai cấp thống trị phè phỡn sống trong
nhung lụa, thừa thãi tài vật trong khi những người dân thấp cổ bé họng phải bỏ
mạng vì đói kém. Những lời hứa phát chẩn của bè lũ quan lại chỉ để dối gạt triều
đình, sự thật của cải chúng vơ vét hết làm đầy túi riêng:
Tạc kiến Tân Trịnh thành môn niêm bảng thị
Án hộ cấp túc tô tàn manh
(Trở binh hành)
(Hôm trước thấy trong thành Tân Trịnh yết bảng cáo thị
Xét theo hộ mà cấp lúa cứu sống lũ dân sống sót)
Có thể thấy bè lũ tham quan ra sức lộng hành, bỏ mặc sống chết của con dân.
Cuộc sống của họ vốn đã đói kém, bị áp bức, còn phải chịu nạn giặc giã. Thế sự
loạn lạc, sống chết không biết trước:
Bản địa lục nguyệt chí cửu nguyệt
Hoạt, Tuấn nhị huyện tề xưng binh
Tặc sát quan lại thập bát cửu
Mãn thành tây phong xung huyết tinh
(Trở binh hành)
(Đất này từ tháng sáu đến tháng chín
37
Hai huyện Hoạt, Tuấn cùng nổi binh
Giặc giết quan lại mười người đến tám chín người
Đầy thành gió tây thổi mùi máu tanh)
Cuộc loạn lạc binh đao này có nguyên nhân chính đáng. Người dân không chịu
nổi những bất công, những đau khổ nên nổi binh chống lại bè lũ quan lại nhằm
kiếm cho họ con đường sống. Xã hội nào không có sự bất mãn của người dân là
một xã hội thanh bình, hạnh phúc. Đất nước Trung Hoa nổi danh thịnh vượng
nhưng sự thật nào đâu phải như thế. Nguyễn Du đã mở rộng tầm nhìn đối với hiện
thực của đất nước luôn tự xưng là “thượng quốc” này. Những lời đồn đại đều sai
lệch với hiện thực nơi đây. Dân đói khổ, loạn lạc. Binh đao làm tắc nghẽn cả đường
xá, tiến không được mà lùi cũng chẳng xong. Trong cuộc chiến giữa quan lại và
giặc giã, người dân vô tội bị cuốn vào, phải xung binh, quan “khêu đèn suốt đêm
lập sổ dân đinh”. Đây quả là một xã hội thối nát, một thực trạng đau lòng. Ấy vậy
mà vua ở trên cao nào có hay biết, vẫn bị lũ nịnh thần che mắt, dối gạt. Nhà thơ
không nhịn được đã phải thốt lên:
Thùy nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương
(Sở kiến hành)
(Ai vẽ bức tranh này
Đem dâng lên nhà vua)
Nói như vậy chẳng phải người đọc đã nhận ra hiện thực thối nát, đầy rẫy bất
công kia có nguyên nhân là do đâu sao? Chẳng phải do nhà vua không đủ tài đức,
không đủ sáng suốt để cai trị đất nước đó sao? Chẳng phải vua thượng quốc là một
“bù nhìn” không hơn không kém đó sao? Bản chất của xã hội phong kiến Trung
Hoa đen tối cùng với sự vô năng của đầu não thống trị đã hiện ra một cách vô cùng
rõ nét và đầy châm biếm dưới ngòi bút của Nguyễn Du.
Nguyễn Du không chỉ thấy hiện thực cuộc sống đen tối của xã hội, ông còn
nhìn thấu bản chất của con người trong xã hội ấy. Đến thăm đình, chùa, đền, miếu
38
nơi thờ những con người tiết nghĩa, anh hùng của Trung Hoa, Nguyễn Du ngao
ngán trước thực trạng hương khói lạnh lùng:
Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa
Như hà hương hỏa thái thê lương?
(Quế Lâm Cù Các Bộ)
(Ai cũng bảo nước Trung Hoa trọng tiết nghĩa
Sao ở đây hương khói lại lạnh lẽo thế này?)
Không chỉ hương khói lạnh lẽo mà đền đài, lăng mộ của họ cũng bị thời gian
khiến cho hao mòn, thậm chí bị chôn vùi, đổ nát:
Bách xích cao đài khuynh Lĩnh Biểu
Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu
(Triệu Vũ đế cố cảnh)
(Đài cao trăm thước ở ngoài Lĩnh Biểu đã đổ
Ngôi mộ cổ nghìn năm ở Phiên Ngung cũng đã mất)
Con người sống với sự thờ ơ, quên lãng khiến không chỉ đền đài đổ nát mà còn
khiến cho “tông miếu xã tắc nhà Minh suy tàn, đầy cỏ thu”, đến cả không gian bao
trùm cũng u ám:
Đoạn vân suy thảo mãn Hoài Âm
(Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu)
(Mây rời rạc, cỏ tàn úa bao trùm đất Hoài Âm)
Hậu nhân của đất nước này sao có thể vô tình đến vậy? Hay do cuộc sống của
họ quá khổ sở nên không còn quan tâm đến cái gọi là tưởng niệm những con người
có công, những con người có đóng góp cho đất nước thời trước. Những giá trị hiện
nay họ được hưởng há chẳng phải có công lao của những danh nhân ấy sao?
Khi Nguyễn Du vịnh lại lịch sử Trung Hoa ông đã nhận ra rằng những con
người trung trinh liệt tiết, hay tài giỏi đều không có kết cục tốt đẹp. Nhạc Phi trung
nghĩa bị gian thần hại chết mà vua không tỏ; Khuất Nguyên nặng lòng với Sở quốc
lại không được Sở Vương coi trọng; Kinh Kha, Dự Nhượng đều bỏ mạng vì đất
nước; Đỗ Phủ, Khuất Nguyên với tài năng văn chương đã mang theo một cái
39
nghiệp suốt đời đau khổ…Đây là những con người mang tinh hoa của đất trời
nhưng có số mệnh bị ghen ghét, vùi dập. Cũng chính từ quy luật đau thương này,
phải chăng Tố Như nhận ra bản chất con người cũng như xã hội đương thời bạc bẽo
nơi đây?
Tóm lại, qua ngòi bút tài tình của mình, Nguyễn Du đã vạch trần hiện thực xã
hội thối nát của đất nước Trung Hoa. Nhân dân điêu linh, lầm than, quan lại chỉ biết
bóc lột, đàn áp, còn vua thì chẳng khác nào bù nhìn. Không chỉ có hiện thực đời
sống vật chất mà đời sống tinh thần, tâm linh cũng bị bỏ mặc. Đền đài, đình miếu
lạnh lẽo khói hương, không khí u ám bao trùm nơi thiêng liêng. Cái nhìn của Tố
Như thấu suốt tất cả xã hội đang trên đà suy vi. Mọi giá trị văn hóa bị lãng quên,
vùi dập, cái ác, cái xấu hiện thân nhan nhản nơi những tên hôn quân, những kẻ gian
thần. Nguyễn Du đi sứ nhưng không phải với tâm thế thần phục thượng quốc mà
ông nhìn thẳng, nhìn thật kĩ và quan sát tỉ mỉ hiện thực cuộc sống ở đất nước được
gọi là vĩ đại này. Nguyễn Du không ngại ngần tỏ rõ thực trạng ấy với tất cả ngôn
ngữ ông có để viết nên những vần thơ phản ánh hiện thực sâu sắc nhất đến mãi sau
này.
2.1.2. Số phận con người
Cảm hứng thế sự không chỉ hướng Nguyễn Du và Vương Duy đến việc phản
ánh hiện thực cuộc sống. Nó còn dẫn nguồn cảm xúc và trách nhiệm của họ đến với
thân phận của những con người bất hạnh . Nhìn ra hiện thực cuộc sống đầy rẫy bất
công và xấu xa, cả Vương Duy và Nguyễn Du đều nhận ra và thông cảm với nỗi
đau của những con người chịu nhiều khổ nạn trong cuộc sống.
Chuyến đi sứ sang Trung Quốc đã giúp Nguyễn Du có cái nhìn khái quát về
chế độ phong kiến cũng như có cái nhìn rõ rệt hơn về những mảnh đời nhỏ bé
không quyền lực, bị chèn ép trong xã hội. Khi đã trải qua những thăng trầm của
cuộc đời, cái nhìn của Nguyễn Du trở nên sâu sắc hơn:
Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La
40
(Phản chiêu hồn)
(Đời sau người đều là Thượng quan
Mặt đất này đâu đâu cũng là sông Mịch La)
Trong cái xã hội thối nát ấy chỉ có những người thấp cổ bé họng thuộc tầng lớp
dưới đáy xã hội là khốn khổ hơn cả. Đó là người phu xe, người nông dân, người ăn
xin…Khi nhắc đến những con người này, giọng thơ của Nguyễn Du bao giờ cũng
thấm đậm tình yêu thương, trìu mến. Chính vì tình thương đối với những kiếp
người nhỏ bé ấy nên trên đường qua Hà Nam, nhìn người phu xe khổ cực kéo xe
dưới trời nắng gắt nhà thơ đã đồng cảm mà viết:
Hà xứ thôi xa hán
Tương khan lục lục đồng
(Hà Nam đạo trung khốc thử)
(Anh đẩy xe kia quê ở đâu nhỉ?
Nhìn nhau thấy vất vả như nhau)
Nhà thơ đang rong ruổi trên đất khách, làm thân lữ khách, đang phải chống
chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, đường xá hiểm nguy. Ông nhìn ra sự tương đồng
giữa mình và người kéo xe xa lạ kia. Người kéo xe ấy đang phải kéo xe giữa ánh
nắng gay gắt của mặt trời dù tiết thu đã đến. Con người đều vì cuộc sống mưu sinh
nên vất vả. Nhà thơ nhìn ra sự vất vả ấy, nhìn ra sự vất vả của cả hai thân phận con
người xa lạ. Tình thương của Nguyễn Du đối với những con người đau khổ không
phân biệt biên giới quốc gia, mọi khoảng cách của địa lý hay văn hóa cũng đều
không có ý nghĩa trước tinh thần hiện thực đầy nhân đạo ấy. Nguyễn Du với “đôi
mắt trông thấu cả sáu cõi”, với tấm lòng nhân đạo sâu sắc nên trong thơ ông hiện
thực cuộc sống cũng như nỗi đau của nhân thế, của kiếp người luôn đè nặng trong
thơ.
Khi trông thấy người hát rong kiếm vài đồng bạc lẻ phải đổi bằng tất cả sinh
lực, ông thương cảm:
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc
41
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục
(Thái Bình mại ca giả)
(Miệng sùi bọt, tay rã rời
Ngồi yên, cất đàn, ngỏ lời đã hát xong
Dốc hết tâm lực gần một trống canh
Mà chỉ được năm sáu đồng tiền)
Hai ông cháu người hát rong hát gần một trống canh chỉ để đổi vài đồng bạc lẻ,
trong khi đó trên thuyền lại “cơm thừa canh cặn đổ rất bừa bãi”. Quả là nghịch lí,
kẻ sắp tàn hơi không được no đủ, kẻ giàu có thừa mứa thì phung phí. Cảnh tình này
quả khiến nhà thơ đau xót, càng đau xót hơn khi Nguyễn Du lại một lần nữa được
chứng kiến nghịch cảnh của cuộc sống ấy một lần nữa:
Hữu phụ huề tam nhi
Tương tương tọa đạo bàng
(Sở kiến hành)
(Có người đàn bà dắt ba đứa con
Cùng nhau ngồi ở bên đường)
Bốn mẹ con người phụ nữ do mất mùa mà phải kéo nhau đi xin ăn, ngồi bên lề
đường mong người qua lại bố thí. Ấy vậy mà trong giỏ chỉ là rau với cám. Quần áo
thì rách rưới, đói khổ lam lũ. Nhà thơ đã nhìn thấy trước cảnh:
Duyên nhai nhật khất thực
Thử kế khả an trường
Nhãn hạ ủy câu hác
Huyết nhục tự sài lang
(Sở kiến hành)
(Ngày ngày dọc theo đường phố xin ăn
Kế ấy làm sao mà lâu dài được
Nhìn thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh
Máu thịt nuôi sài lang)
42
Có thể nói rằng chính từ cuộc đời khốn khó của mình mà Nguyễn Du càng
cảm thông nhiều hơn với những kiếp người bất hạnh, với hiện thực cuộc sống bất
công. Đó chính là tình cảm nhân đạo cao quý nhất của nhà thơ. Thơ ông không đơn
thuần là ngôn từ mà nó còn chất chứa bao nước mắt, bao tâm tư, thậm chí có cả
máu đã hòa lệ để mà xót thương cho số phận bất hạnh của những kiếp người khác
nhau mà Nguyễn Du “trông thấy” trong cuộc đời mình. Điểm tập kết sau cùng của
tinh thần hiện thực, của ý thức trách nhiệm với cuộc đời chẳng phải là nhìn ra nỗi
khổ của con người hay sao? Phải chăng có một đáp án nào hoàn hảo hơn cho câu
hỏi hiện thực cuộc sống là gì? Thế sự là gì? Không, sẽ chẳng có đáp án nào ngoài
câu trả lời đó. Tinh thần hiện thực cao nhất chẳng phải là thể hiện được nỗi khổ đau
của con người trong cuộc sống với tinh thần cảm thông và nâng niu, trân trọng
cũng như xót thương đó sao?
Ngòi bút của Tố Như dường như luôn tự động tìm đến những kiếp người lao
khổ. Tất cả mọi kiếp người từ già đến trẻ, ấu nam, tiểu nữ cho đến kĩ nữ, phi tần,
rồi cả người trung thần, đến cả bậc đế vương. Ngòi bút hiện thực ấy không dừng lại
ở trần thế nơi có người sinh sống mà nó còn vượt qua ranh giới cõi âm – cõi dương
để xót thương cho cả những người đã chết.
Nguyễn Du có một tấm lòng cao cả và sự quan tâm luôn thường trực với thân
phận của những người phụ nữ. Theo ông đã là phận hồng nhan thì luôn chuốc lấy
hai chữ bạc mệnh. Mệnh của họ đã định sẵn là mệnh khổ. Người ca nữ đất Long
Thành một thuở tài danh nhưng theo thời gian đã không còn khiến cho thiên hạ
nhận ra bởi dung nhan tàn tạ, hoàn cảnh cũng khốn khó theo:
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu
(Long Thành cầm giả ca)
(Riêng ở cuối chiếu có một người tóc đã hoa râm
Nét mặt võ vàng, thần sắc khô khan, thân hình hơi nhỏ
43
Đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm
Ai biết rằng đó chính là người tài danh bậc nhất của kinh thành ngày trước)
Trông thấy cảnh ngộ đáng thương ấy thi nhân không khỏi đau xót trong lòng,
nhìn người cũ ông nhớ lại chuyện đã xa xưa, rồi lại nhận ra thực tại phũ phàng vùi
dập không chừa một ai. Ngay cả bản thân Nguyễn Du cũng chìm vào vòng xoáy vô
tận của thế sự đổi dời, “ngẫm lại mà lệ thấm áo”.
Chữ bạc mệnh không chừa một ai, Dương quý phi vốn nổi danh tài sắc, song
người phụ nữ ấy phải chịu tiếng oan ngàn năm vì khuynh quốc:
Tự thị cử triều không lập trượng
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành
(Dương Phi cố lý)
(Từ đấy cả triều đều là người đứng như phỗng
Mà nghìn năm đổ tội oan cho người đẹp khuynh thành)
Giai nhân sinh ra không phải là một cái tội, thế nhưng giai nhân phải chịu oan
vì khiến cho đất nước nghiêng ngả. Nào phải do nàng muốn có một cuộc đời và
một cái kết cho phận hồng nhan của nàng bi kịch đến vậy? Nguyễn Du không nhìn
cuộc đời Dương phi một cách thông thường là trầm trồ nhan sắc rồi cảm thương
cuộc đời mà ông nhìn vào nguyên nhân gây nên bi kịch ấy. Triều đình của vua
Đường không chống nổi loạn An Lộc Sơn là do quan lại chỉ “đứng như phỗng”,
chúng chỉ ăn lương mà không có đóng góp gì, bên cạnh đó là một ông vua yêu
người đẹp hơn giang sơn. Đến khi giang sơn gặp họa thì mọi tội vạ đổ lên đầu
người đẹp. Họ chỉ là phận liễu yếu, có sức lực gì gây cuộc điên đảo, gây trận thị
phi? Được yêu thì họ nhận, nào họ có tỏ gì về chính sự. Vậy tội của họ là gì? Là
mang hai chữ hồng nhan khiến người say mê. Thật nghịch lí và không công bằng.
Nhưng đáng buồn thay đó chính là sự thật. Nhà thơ của chúng ta cảm khái chuyện
cũ mà “ngậm ngùi không kể xiết”.
“Tạo vật” hay “đố tài”. Phàm là người tài hoa thì luôn chịu mệnh khổ. Tố Như
tự đặt mình chung phận với những người tài hoa ấy để mà cảm thông, mà xót
thương. Có lúc là khóc cùng Đỗ Phủ:
44
Mỗi độc nho quan đa ngộ thân
Thiên niên nhất khốc Đỗ Lăng nhân
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ 2)
(Mỗi lần đọc câu “mũ áo nhà nho thường làm lụy thân mình
Lại một lần khóc thương người đất Đỗ Lăng sống nghìn năm trước)
Có lúc lại tìm dấu cũ của Khuất Nguyên mà cảm khái:
Cực mục thương tâm hà xứ thị
Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương
(Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu)
(Nhìn hết tầm mắt, đau lòng vì chẳng biết dấu vết cũ ở nơi nào
Chỉ thấy gió thu thổi lá rụng qua sông Nguyên Tương)
Những con người như Đỗ Phủ, Khuất Nguyên, Tiểu Thanh, Dương quý
phi…và cả Tố Như đều có một điểm chung. Điểm chung đó chính là sự tài hoa.
Người tài hoa về văn nghiệp, kẻ thì hồng nhan hơn người. Tài hoa là vậy song kẻ
thì thất chí, người thì chết trong cô độc, phận thì mang tiếng oan ngàn đời…Cái tài
ấy phải chăng là nguồn cội của tai ương? Chính Nguyễn Du đã viết trong Truyện
Kiều rằng “Chữ tài liền với chữ tai một vần” là câu trả lời của ông đó sao? Hỏi có
ai được hạnh phúc. Không một ai. Nguyễn Du nhìn ra sự thật đằng sau cái tài ấy là
một số phận với bao cay đắng, bao bất công, bao nhiêu nỗi niềm tủi hận mà cuộc
đời mang lại cho họ. Ông cảm thông đến tận cùng những đau khổ đó như thể đang
cảm thông, đang an ủi chính bản thân mình. Kiếp tài hoa với những hào quang
ngắn ngủi nhưng bất hạnh thì trọn cả một đời.
Không phải ngẫu nhiên mà đôi mắt của thi nhân luôn dừng lại để phát hiện ra
sự đau khổ, sự bất hạnh của con người. Nó phải chăng là do chính cuộc đời nhà thơ
cũng khổ đau giống họ. Thế cho nên ông nhìn đâu cũng dễ dàng bắt gặp những
mảnh đời có số phận như mình để rồi đưa tâm hồn, đưa tấm lòng ra mà ôm lấy, mà
vuốt ve an ủi. Để rồi sau mỗi lần như thế nỗi đau đời của ông lại càng chồng chất,
càng xoáy sâu hơn nữa, và trái tim đa sầu đa cảm lại rỉ thêm máu. Như vậy cảm
hứng thế sự trong thơ Nguyễn Du không chỉ đơn thuần là nhà thơ phản ánh thực
45
trạng của xã hội mà còn là sự cảm thông, nhìn nhận những nỗi đau, sự bất hạnh của
số phận con người trong xã hội ấy.
Cùng tinh thần phản ánh hiện thực cao cả ấy, trong thơ Vương Duy cũng đầy
những dòng cảm động khi nhà thơ viết về những con người bất hạnh. Trước hết là
những người cung nữ:
Lộ thấp tình hoa xuân điện hương
Nguyệt minh ca súy tại Chiêu Dương
Thùy tương hải thủy thiêm cung lậu
Cộng trích Trường Môn nhất dạ trường
(Cung oán)
(Móc ướt đầm những đóa hoa lúc trời tạnh ở nơi điện xuân lừng hương
Trăng sáng, đàn hát vang lừng ở điện Chiêu Dương
Ai đem nước biển cho thêm vào nước đồng hồ nơi cung cấm
Để cùng rỏ với giọt lệ càng dài ở cung Trường Môn)
Trong hoàng cung xa hoa, tráng lệ với điện các lừng hương thơm và luôn vang
vọng những âm thanh của tiếng đàn, tiếng hát, nhịp sáo đưa. Trong ánh trăng sáng
của đêm, một bên là những cuộc vui với hương thơm, với điệu nhạc thì lại có một
bên là u ám, là chất chứa cô độc vì đợi chờ. Số phận của những người phụ nữ trong
cung cấm khác với những người phụ nữ bình thường. Nếu người phụ nữ bình
thường có quyền tự do thì họ không có cái gọi là tự do trong cung cấm. Họ sống chỉ
với mục đích duy nhất là mang lại tiếng cười, niềm vui cho các bậc đế vương. Họ
được yêu thương thì không nói nhưng một khi thất sủng thì cả cuộc đời sẽ là những
chuỗi ngày cô độc, cô độc đến cả khi từ giã cõi đời. Trong những câu thơ trên,
Vương Duy đã đưa ra một hình ảnh giản đơn nhưng lại lột tả sâu sắc nỗi đau của
người cung nữ trong bài thơ. Nàng chờ đợi cả đêm, đếm từng giọt nước của chiếc
đồng hồ nước rơi tí tách trong đêm. Mà nước nhiều như biển, có nghĩa là thời gian
chờ đợi như bị kéo dài đến vô tận. Mỗi một giọt nước rơi là một khắc thời gian trôi
và cũng là những giọt lệ sầu nhỏ xuống. Nàng đã phải chờ đợi như thế bao lâu rồi?
Nàng đã cô quạnh thế này bao lâu rồi? Chắc là phải lâu rất lâu rồi đến mức nàng cất
46
lên tiếng nói ai oán rằng ai đã mang nước biển để kéo dài thời gian chờ đợi cũng là
thời gian đau khổ của nàng. Nàng có lẽ không chịu cảnh đói kém, không phải chịu
giá rét nhưng tâm hồn nàng thì đau khổ nhường nào? Nỗi đau tinh thần bao giờ
cũng hành hạ con người gấp trăm ngàn lần nỗi đau thể xác bởi nó khiến con người
ta hao mòn, khổ sở từng giây từng phút. Con người bất hạnh thể xác bị giày vò có
thể kết thúc nếu quá sức của họ, nhưng nỗi bất hạnh đến từ tâm hồn thì khác, nó dai
dẳng ngày này qua tháng nọ, nó không khiến con người chết đi nhưng khiến họ
sống không niềm vui, không động lực, sống mà còn đau khổ hơn là chết đi. Vương
Duy làm thế nào để thấu hiểu được nỗi lòng của những người cung nữ này? Ông
làm thế nào để nhìn ra số phận đau khổ này giữa muôn vàn cảnh đời hỗn loạn chứ?
Đôi mắt của Vương Duy đặc biệt chú ý đến những người phụ nữ bất hạnh.
Không phải chỉ là cảm thông với số phận hẩm hiu của người cung nữ, ông còn nhận
ra nỗi khổ của những người khuê phụ trông mong chồng ngoài biên ải. Nỗi khổ của
chờ đợi đến héo mòn:
Viễn thú công danh bạc
U khuê niên mạo thương
Trang thành đối xuân thụ
Bất ngữ lệ thiên hàng
(Khuê nhân tặng viễn 1)
(Công danh của người lính thú đóng ở xa vẫn là thấp hèn, bạc bẽo
Nơi phòng khuê u buồn, năm tháng và dung nhan của người vợ ở lại
ngày một hao mòn
Trang điểm xong đứng trước cây cỏ lúc xuân về
Không nói lên lời mà chỉ âm thầm với ngàn dòng lệ nhớ)
Đối với một người nam nhi thì con đường công danh, lập thân luôn được ưu
tiên. Nhưng với người vợ của họ thì con đường công danh ấy vô cùng bạc bẽo. Vì
nó mà có biết bao người vợ trẻ mòn mỏi trong cô đơn mong ngóng chồng. Tuổi
xuân và dung nhan ngày ngày một tiều tụy, nơi khuê phòng trống vắng niềm vui.
Ngày ngày họ trang điểm nhưng nào có phu quân chiêm ngưỡng, họ đành đối mặt
47
với thiên nhiên, với cây cỏ. Nỗi sầu muộn ấy nào ai có thấu, khuê phụ chỉ còn gửi
vào những dòng lệ âm thầm chịu đựng. Vương Duy không phải chỉ viết một bài thơ
về nỗi sầu của người chinh phụ mà ông làm hẳn một chùm 5 bài thơ thể hiện nỗi
lòng của người vợ vò võ năm tháng đợi chồng đang nơi biên ải.
Cùng nhìn vào nỗi khổ của thân phận con người như Nguyễn Du nhưng
Vương Duy có vẻ quan tâm nhiều đến thân phận những người phụ nữ. Ông không
chỉ thương xót cho người còn sống mà ngay cả người đã khuất là Ban tiệp dư nổi
danh một thời cũng khiến nhà thơ day dứt, cảm thương:
Cung điện sinh thu thảo
Quân vương ân hạnh sơ
Na kham văn phượng súy
Môn ngoại độ kim dư
(Ban tiệp dư 3)
(Cỏ thu mọc nơi cung điện
Ơn huệ của nhà vua bây giờ thưa ban
Khôn đành nghe tiếng sáo phượng
Ngoài cửa có tiếng xe kim dư qua)
Ban tiệp dư là một chức nữ quan dưới triều Hán, Ngụy ở Trung Quốc, Tiệp dư
họ Ban lúc đầu được vua yêu sau cùng thất sủng cùng với Hứa hoàng hậu, lúc này
vua yêu nàng Triệu Phi Yến. Đây là bi kịch của một nữ quan thời xưa, song dưới
ngòi bút của mình, Vương Duy vẫn khéo léo vẽ ra trước mắt người đọc cuộc sống
bất hạnh của người phụ nữ trong tay đế vương. Hầu hết họ đều rơi vào vòng luẩn
quẩn ban đầu được yêu chiều thì hạnh phúc, đến khi thất sủng thì hận sầu theo đến
lúc từ giã cõi đời. Nước mắt của họ rơi đến cạn khô, phải chăng số trời đã định sẵn
hồng nhan thì phải đa truân?
Số lượng những bài thơ nói về thân phận đau khổ của con người trong thơ
Vương Duy không nhiều như Nguyễn Du, song ông cũng đã cho người đọc cảm
nhận được tinh thần hiện thực cao quý là hướng ngòi bút về số phận của những con
người bất hạnh trong cuộc sống. Dẫu chỉ là một bộ phận nhỏ trong xã hội là những
48
người cung nữ, phi tần, chinh phụ nơi cung cấm, nơi khuê phòng nhưng không thể
phủ nhận cái nhìn vừa tinh tế, vừa tỉ mỉ quan sát và trên hết là sự xót thương của
Vương Duy đối với họ. Thơ Vương Duy đâu phải chỉ có những vần thơ Thiền tuyệt
diệu, ông còn có những vần thơ thấm đẫm tinh thần hiện thực được khởi nguồn bởi
cảm hứng thế sự như thế đấy. Người đọc thơ tôn ông làm Thi Phật bởi tinh thần
Phật học tràn đầy trong thơ Vương Duy, có lẽ nó cũng bao gồm cả tinh thần hiện
thực cao cùng với một ý thức sáng tạo và phản ánh cuộc sống chăng?
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng dù khác nhau về thời đại, về hoàn cảnh lịch
sử nhưng Nguyễn Du và Vương Duy cũng như bao nhà Nho khác, đều có cái gốc
cơ bản của một Nho sĩ. Một trong những tinh thần cao quý của họ chính là cảm
hứng trách nhiệm với cuộc đời, họ quan tâm đến thế sự, hiện thực theo cách riêng
của mình. Đối với thi nhân thì nó trở thành một cảm hứng không thể thiếu trong sự
nghiệp sáng tác của họ. Cảm hứng thế sự chiếm một bộ phận không nhỏ trong thơ
Vương Duy và Nguyễn Du. Hai nhà thơ đã có ý thức cao trong việc tái hiện cuộc
sống cũng như hướng tâm tình đến với những con người có một số phận khổ đau
trong xã hội.
Tóm lại, mỗi thi nhân dù có chịu ảnh hưởng của học thuyết chính trị hay tư
tưởng, tôn giáo khác nhau, song chất liệu nghệ thuật trong sáng tác của họ không
thể thiếu hiện thực cuộc sống. Nguyễn Du và Vương Duy tất nhiên cũng không
nằm ngoài quy luật ấy.
2.2. Cảm hứng cá nhân
“Thi dĩ ngôn chí” (dùng thơ để nói chí) là một quan niệm văn học của Nho gia
xuất phát từ Trung Quốc. Quan niệm này có ảnh hưởng sâu sắc đến các thi nhân
Trung Quốc cũng như Việt Nam, nhất là ở thời kỳ cổ trung đại. “Chí” ở đây ngoài
cách hiểu thông thường là chí lập thân, tinh thần yêu nước thì còn có thể hiểu là
tâm sự, suy nghĩ, cảm nhận của mỗi nhà thơ. Mỗi thi nhân dù muốn hay không đều
chịu sự tác động của ngoại vật, ngoại cảnh, thời cuộc. Những sự kiện xảy ra trong
cuộc sống có ảnh hưởng rất lớn đến tâm trạng của họ. Làm thơ là một cách để họ
49
có thể bộc bạch những tâm sự khó giãi bày cùng ai, và coi đó là một cách thức giải
tỏa bớt nỗi lòng.
Lâm Ngữ Đường trong Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa cho rằng “ở
Trung Quốc thơ có nhiệm vụ thay thế tôn giáo, nghĩa là có nhiệm vụ làm cho tâm
hồn thanh khiết, cảm được cái bí mật cùng cái đẹp của vũ trụ, gây cho con người
tấm lòng thương đồng loại và mọi sinh vật” [16, tr.92]. Thơ có nghĩa vụ làm tâm
hồn con người thanh khiết, để làm được điều đó phải chăng nó cần phải đảm nhận
việc thanh lọc cảm xúc của con người. Nó phải thể hiện được mọi cung bậc cảm
xúc của riêng nhà thơ cũng như những cảm xúc ẩn sâu, những trạng thái tinh thần
cần được chia sẻ.
Khảo sát thơ của Nguyễn Du và Vương Duy chúng tôi nhận thấy rằng, thơ là
mảnh đất tâm hồn của họ, hai nhà thơ không ngần ngại bộc lộ con người cá nhân,
chính cảm hứng cá nhân đã thôi thúc họ viết nên những vần thơ mang tâm sự riêng.
2.2.1. Tự thán
Phật giáo cho rằng “đời là bể khổ”, con người sống trong cuộc đời ai cũng có
nỗi khổ riêng của mình. Có người chọn cách giải thoát bằng việc xa lánh cuộc đời,
có người lại chọn cách tìm quên chốn Thiền môn. Nhưng có những người biết khổ
mà không thể tránh để rồi những lúc chạnh lòng họ tự than cho thân phận mình, tự
cảm thương cho chính mình. Vương Duy và cả Nguyễn Du cũng không ít lần tự
thán cho cuộc đời của mỗi người.
Có lẽ không ngoa khi nhiều người cho rằng thơ chữ Hán Nguyễn Du là nhật ký
tâm trạng của ông. Qua những vần thơ ấy ta tìm thấy được tâm sự cá nhân, nhất là
những dòng tâm sự khi nhà thơ tự thán cho chính thân phận, cuộc đời ông.
Tuổi trẻ, sinh ra trong gia đình vọng tộc, có truyền thống khoa bảng nên
Nguyễn Du cũng ấp ủ giấc mộng công danh, với nhiều “hùng tâm, tráng chí” nhưng
thời đại đã bất ngờ đổi thay, biến ông thành kẻ lỡ thời, lỡ vận. Ông đau xót vì “sống
chửa nên danh, thư kiếm không thành”:
Sinh vị thành danh thân dĩ suy
Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy
50
(Tự thán 1)
(Sống chưa làm nên danh, thân đã suy yếu
Tóc bạc phơ phơ, gió chiều thổi)
Cái nợ công danh vì loạn lạc mà chưa thành nhưng thân đã già, tóc đã bạc,
thân thể cũng đã suy yếu. Nguyễn Du hơn một lần than thở về thân già của mình:
Bạch phát hùng tâm không đốt ta
(Khai song)
(Tóc bạc rồi dù còn có hùng tâm nhưng chỉ biết than thở)
Thân già có thể không biểu hiện ra ngoài nhưng con người trung niên chưa đến
tuổi “tri thiên mệnh” mà mái tóc đã bạc trắng thì thật đáng để nói. Theo chúng tôi
khảo sát được thì hình ảnh con người với mái tóc bạc xuất hiện trong thơ Nguyễn
Du là 58/250 bài thơ và trở đi trở lại thành một biểu tượng gây ám ảnh cho người
đọc. Chúng ta có lẽ đã đặt vấn đề tại sao Tố Như lại nói nhiều về con người tóc bạc
như vậy? Xưa đến nay tóc bạc là dấu hiệu của tuổi già, thế nhưng cũng có khi con
người chưa đến tuổi già mà tóc đã bạc, và Nguyễn Du là một người chưa già nhưng
tóc đã bạc. Liệu có phải do ông luôn trăn trở, luôn day dứt về cuộc đời, về thế sự và
hơn hết là về bản thân ông. Cuộc đời nhà thơ với nhiều nỗi bất đắc chí, gia đình ly
tán, những hùng tâm cống hiến không thành, lại trải nhiều sương gió nên tóc bạc.
Nguyễn Du ý thức được tóc đã bạc, ông ám ảnh vì điều đó. Chỉ có khi nghĩ đến
nhiều thì Nguyễn Du mới nhắc đến nó nhiều, bởi vì nó đã thành một sự ám ảnh đối
với ông. Vì sao? Vì tóc bạc là minh chứng cho tuổi già, tóc bạc là dấu tích của thời
gian, sức lực đã trôi đi không lấy lại được:
Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí
(Tặng Thực Đình)
(Tóc bạc làm tiêu ma chí khí kẻ sĩ nghèo)
Kẻ sĩ vốn nghèo, nhờ nuôi dưỡng ý chí lập công danh để mà đứng trong trời
đất. Dẫu kẻ sĩ còn hùng tâm nhưng có thể làm gì với mái tóc đã bạc nên chỉ đành
than thở, bất lực và buông xuôi. Và dù bất lực song trong lòng lại luôn day dứt,
51
luôn khắc khoải cho nên mái tóc đã bạc lại càng bạc nhiều hơn, lại càng được nói
đến nhiều hơn.
Mái đầu bạc ấy cũng luôn nhắc nhà thơ về cuộc đời lưu lạc, đầu bạc mà còn
phải bôn ba nơi đất lạ, ở nhờ “nhà người” cùng sự thất bại:
Lưu lạc bạch đầu thành để sự
(U cư 1)
(Lưu lạc đến bạc đầu mà có nên chuyện gì đâu)
Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia
(U cư 2)
(Đầu bạc phơ phơ ở nhờ nhà người)
Hình ảnh “bạch phát” trong thơ chữ Hán Nguyễn Du trở thành biểu tượng của
những khắc khoải, lo âu của ông. Tóc đã bạc trong khi công danh chưa thành, sự
nghiệp văn chương dang dở, bản thân lâm vào cảnh khổ nơi bãi bể, bến sông. Phải
chăng Nguyễn Du lấy lấy tóc bạc và tuổi già để an ủi phần nào tâm hồn mình trước
hiện thực cuộc sống thống khổ của bản thân ông?
Như vậy, mái đầu “tóc bạc” gợi ra bao mất mát, bao đau thương mà Nguyễn
Du phải gánh lấy, nó cũng là dấu tích của bất hạnh cuộc đời, chưa đầy ba mươi tóc
đã bạc trắng, thử hỏi con người ấy có nhẹ lòng chăng? Thử hỏi làm sao không ưu
phiền, không nặng nề tâm sự?
Trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du không chỉ bày tỏ tâm sự mà còn tự thán cho cả
hiện thực cuộc sống của bản thân ông. Đó là một cuộc sống với cái nghèo luôn đeo
bám:
Bạch đầu sở kế duy y thực
Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên
(Dạ tọa)
(Đầu bạc chỉ mãi lo chuyện cơm áo
Làm thế nào được hát ngông như thời thiếu niên?)
Chuyện cơm áo vốn không bao giờ “đùa với khách thơ”, lại càng không đùa
với nhà nho thanh bần như Nguyễn Du. Sau này khi làm quan cho nhà Nguyễn ông
52
cũng giữ trọn đạo thanh quan, lương bổng còn không đủ để tự túc, những thiếu thốn
khiến nhà thơ phải ngậm ngùi:
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng
(Ngẫu hứng 4)
(Mười miệng trẻ đói, mặt cùng xanh như rau)
Cùng với nghèo là bệnh, mà Nguyễn Du còn bệnh tật trong cô đơn, không có
ai chia sẻ:
Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông
(Ngẫu đề)
(Một thân nằm bệnh ở phía đông Hoàng thành)
Bệnh tật còn theo nhà thơ trên cả những chặng đường xa nên dù muốn hay
không ông cũng đành phải phó mặc cho tất cả :
Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ
(Thủy liên đạo trung tảo hành)
(Tấm thân nhiều bệnh giao phó cho đường xá)
Suốt đời mình Nguyễn Du luôn mang một mối sầu không tỏ được cùng ai cũng
như chính bản thân ông cũng không gỡ nổi mối sầu ấy:
Nhất sinh u tứ vị tằng khai
(Thu chí)
(Suốt đời ôm mối u sầu chưa từng gỡ ra được)
Sinh thời Nguyễn Du dường như không tỏ được tâm sự cùng ai chỉ có thể ngỏ
cùng những vần thơ, chính vì vậy mà nhà thơ khao khát có lẽ hậu thế sẽ có người
hiểu được ông:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Độc Tiểu Thanh ký)
(Chẳng biết hơn ba trăm năm sau này nữa
Thiên hạ có ai người khóc Tố Như chăng?)
53
Có lẽ tâm hồn thi nhân quá nhạy cảm trước những biến động của cuộc đời?
Chỉ cần một vang động dù nhỏ nhoi, một mối âu lo về cuộc đời cũng đủ khiến họ
xúc cảm. Với họ thì thời gian luôn trôi chảy không ngừng, dẫu biết đó là quy luật
nhưng nó tác động đến họ quả không ít. Ngay đến thi Phật như Vương Duy cũng
đôi lần cảm thán:
Lệ phục ánh đồi nhan
Chu đăng chiếu hoa phát
Hán gia phương thượng thiểu
Cổ ảnh tàm triều yết
(Đông dạ thư hoài)
(Quần áo đẹp ánh lên dung nhan già nua tiều tụy
Cây đèn màu đỏ soi mái tóc hoa râm
Triều đình nhà Hán chuộng người trai trẻ
Đối bóng, thấy mình (già) tự thẹn lúc buổi sớm mai vào chầu)
Giống với Nguyễn Du, mái tóc bạc theo năm tháng, dấu vết của thời gian và
dấu hiệu của tuổi già cũng khiến Vương Duy phải lên tiếng:
Túc tích chu nhan thành mộ xỉ
Tu du bạch phát biến thùy thiều
(Thán bạch phát)
(Mới ngày nào da dẻ hồng hào nay răng đã móm mém
Phút chốc đôi trái đào đã biến thành mái tóc bạc)
Cũng mái tóc bạc, cũng thân làm khách, dường như không hẹn mà Vương Duy
và Nguyễn Du có một sự gặp gỡ thú vị khi cảm hứng cá nhân của hai nhà thơ đã
dẫn dắt ngòi bút của họ viết nên những dòng thơ chất chứa nỗi niềm riêng:
Ngã niên nhất hà trưởng
Mấn phát nhật dĩ bạch
Phủ ngưỡng thiên địa gian
Năng vi kỉ thì khách
(Thán bạch phát)
(Tuổi ta đã già nhiều
Tóc ngày một thêm bạc
54
Cúi, ngửa trong khoảng trời đất
Làm khách sống gửi nơi quán trọ (khoảng trời đất này được bao lâu
nữa))
“Phủ” – ngưỡng”, “cúi xuống” – “ngẩng lên”, thi nhân cúi xuống để nhìn đất
rồi lại ngẩng lên nhìn trời, nhìn đất trời rồi lại thấy bản thân mình ở giữa trời đất ấy.
Mình là trung tâm của vũ trụ nhưng là trung tâm cô đơn, sống ở đất khách khó hòa
hợp, xa lạ, điều này khiến nhà thơ càng cảm thấy lạc lõng, cả trời đất rộng lớn chỉ
có mỗi ta. Mà thân ta lại là khách trọ, ta lạc lõng ở nhờ đất trời được bao lâu nữa
khi mà tuổi ngày thêm nhiều và tóc ngày thêm bạc?
Hình ảnh mái tóc bạc trong thơ Vương Duy còn thể hiện sự lo lắng, sầu muộn
của ông khi phải lưu lạc nơi xa vì việc quan:
Túng hữu qui lai nhật
Đa sầu niên mấn xâm
(Bị xuất Tế Châu)
(Mai đây có về được đi nữa
Buồn nhiều, chắc tóc bạc phơ (mang màu năm tháng))
Không phải hễ nhắc đến Vương Duy là cho rằng thơ ông luôn thể hiện cái
thoát tục của đạo, đó là mặt chủ yếu và chiếm số lượng lớn nhất, nhưng bên cạnh
đó Vương Duy cũng có những vần thơ thể hiện tâm trạng riêng. Đó là những dòng
tâm sự trước cuộc đời, trước thế sự đổi thay, trước năm tháng trôi nhanh. Có lẽ
những vần thơ ấy được nhà thơ viết trước khi ông ngộ đạo hoàn toàn chăng?
Con đường làm quan của Vương Duy có đôi lần bị biếm, có lần trên đường
đến nơi nhận chức mới ông đã than thở:
Thử khứ dục hà ngôn
Cùng biên tuần vi lộc
(Túc Trịnh Châu)
(Muốn nói gì về chuyến đi này
(Nói rằng:) đi cùng biên cương để kiếm đồng lương còm)
55
Đi đến biên cương chỉ để kiếm chút bổng lộc nhỏ, có đáng không? Không
đáng nhưng đó là nhiệm vụ, là chức trách của kẻ sĩ đã đội mũ làm quan cho triều
đình. Phận “quan nhỏ dễ bị mắc tội”, Vương Duy muốn chối từ cũng không có khả
năng. Khi khác Vương Duy lại u sầu vì tâm sự nhớ quê nhà:
Hồi chiêm cựu hương quốc
Miểu mạn liên vân hà
(Độ hà đáo Thanh Hà tác)
(Ngoảnh lại xem quê hương cũ
Thấy mênh mông những giáng cùng mây)
Cô chu vạn lí dạ
Thu nguyệt bất kham luân
(Ba Nam chu trung thư sự)
(Con đò lẻ loi trong đêm, ở nơi muôn dặm xa nhà
Dưới bóng trăng thu, trong tình cảnh ấy nỗi lòng thật khó tả)
Quê cũ đã cách xa, ngập chìm trong màn mây mờ. Người đi xa có cố gắng dõi
mắt trông về cũng không thấy gì. Tất cả chỉ còn là một khoảng không mịt mờ và bị
che khuất. Và nỗi lòng khó tả ở đây há không phải là nỗi lòng sầu nhớ gia hương,
nỗi lòng cô đơn, quạnh quẽ nơi xa xôi ư?
Thơ Vương Duy không ít những dòng tâm trạng, thời còn trẻ ông một lòng
hướng đạo nhưng lại chưa thể dứt bỏ tất cả để đi đến con đường giải thoát. Nguyên
nhân là:
Thế võng anh ngã cố
Tiểu muội thành nhật trưởng
Huynh đệ vi hữu thú
Gia bần, lộc kí bạc
Trữ súc phi hữu tố
(Ngẫu tác 2)
(Tại lưới đời ràng buộc
Em gái ngày một lớn
56
Em trai chưa có vợ
Nhà nghèo lương đã ít
Dành dụm lại không sẵn)
Lúc này nhà thơ còn bị ràng buộc bởi thế sự, bởi gia cảnh. Chính vì vậy mà
tâm nguyện muốn học đạo theo gương người xưa phải dùng dằng vì muốn ra đi lại
thương cho người ở lại lưới đời. Đi không được nhưng ở lại thì nhà thơ cũng tự hổ
thẹn vì lỡ hẹn với lí tưởng, vì lòng thiền ngày ngày thôi thúc. Mối tâm sự ấy khó tỏ
cùng ai, cho nên Vương Duy chỉ có thể gửi gắm vào ngôn từ.
Có đôi lúc chúng ta bắt gặp tâm trạng ưu phiền, lo buồn của nhà thơ mà không
lí giải được nguyên nhân. Trong bài thơ Hoa Tử Cương, Vương Duy thể hiện một
trạng thái đầy tâm sự:
Phi điểu bất khứ cùng
Liên sơn phục thu sắc
Thướng há Hoa Tử Cương
Trù trướng tình hà cực
(Hoa Tử Cương)
(Chim bay hoài không ngớt
Núi nhiều ngọn liên tiếp ngả mầu thu
Lên lên, xuống xuống núi Hoa Tử
Buồn bã không biết chừng nào)
Thi nhân buồn bã vì nhìn những cánh chim bay mải miết không có nơi dừng
chân hay vì núi mây ngả màu úa tàn khi thu đến, hay vì một điều gì khác nữa? Có
lẽ cả thi nhân cũng không tìm thấy lời giải đáp. Người đọc chỉ có thể khẳng định
được một điều đó là Vương Duy đang có tâm sự, nỗi niềm ấy để lại sự buồn phiền,
day dứt cho ông khiến ông phải lên tiếng mà tự thán.
Vương Duy cũng dễ xúc động như Nguyễn Du. Khi dọn về nơi ở mới, nhìn
cảnh vật của chủ nhân xưa chỉ trơ lại một gốc liễu Vương Duy bùi ngùi ngẫm
chuyện sau này và cả trước đó, rồi lại không vui:
Tân gia Mạnh thành khẩu
57
Cổ mộc dư suy liễu
Lai giả phục vi thùy
Không bi tích nhân hữu
(Mạnh Thành ao)
(Nhà mới dọn về ở Mạnh Thành
Cây xưa còn lại mỗi một gốc liễu cỗi
Người sẽ lại ở đây sau ta là ai?
Thương suông những cái người ở đây trước đã có)
Thi nhân buồn, vì thương xót, và có cả lo cho mình. Ông hỏi ai sẽ ở đây sau ta,
dường như nhà thơ cũng đang tự vấn nay ông xót cho cố chủ, sau ông người ta có
bi ai cho cố chủ là ông hay không? Ở đây chúng ta không bàn chuyện đạo, không
bàn đến thâm ý cao siêu nào đó của Phật hay Lão, ở đây chỉ đơn thuần là tâm sự
của một thi nhân đa cảm khi nhìn cảnh mới, cảnh cũ mà ngẫm lẽ đời. Ở đây chúng
tôi nhận thấy Vương Duy cùng Nguyễn Du không hẹn mà cùng gặp nhau tại một
giao điểm. Đó chính là cả hai thi nhân đều đa cảm và thương cho người khác,
nhưng cũng từ đó mà họ băn khoăn, lo lắng sau này ai sẽ thương xót cho họ như họ
đã từng thương cho tha nhân:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Độc Tiểu Thanh kí)
(Chẳng biết hơn ba trăm năm sau này nữa,
Thiên hạ có ai khóc Tố Như chăng?)
Vương Duy thương chủ nhân cũ của ngôi nhà mà ông dọn đến, nhìn cảnh xưa
chỉ còn một gốc cây già cỗi, và Nguyễn Du thì đồng cảm với Tiểu Thanh mệnh
bạc, văn chương bị đốt cháy chỉ còn sót lại vài phần. Cả hai người thương cho
người xưa, cảnh cũ, rồi chạnh nghĩ sau này hậu nhân liệu ai sẽ nhỏ lệ thương ta? Ta
thương người, nhưng liệu người có thương ta, vì vậy mà ta lại càng tự thương cho
thân mình hơn nữa.
58
Có thể thấy rằng trong thơ Vương Duy không hề khan hiếm những dòng tâm
sự. Những dòng tâm sự thể hiện sự âu lo, thể hiện một khía cạnh rất thật và cũng rất
đời thường của một con người vốn được tôn xưng là Thi Phật. Trước khi trở thành
Thi Phật thì trước đó thơ Vương Duy vẫn là tiếng nói mang tâm sự của cá nhân
ông. Ở đây chúng tôi cũng thử đặt ra một vấn đề, đó là nguyên nhân của sự thay đổi
mang tính chất bước ngoặt quan trọng trong thơ Vương Duy, từ những vần thơ
mang cảm hứng thế sự, cảm hứng cá nhân sang những vần thơ đậm đặc chất Thiền?
Theo tiểu sử của Vương Duy do những nhà nghiên cứu mô tả thì từ sau loạn An
Lộc Sơn, sau khi vợ nhà thơ qua đời thì ông ở vậy, lui về ở tại Võng Xuyên và sống
cuộc sống của một người ẩn dật nhưng vẫn làm quan. Và những bài thơ làm trong
khoảng thời gian này đến cuối đời Vương Duy là những bài thơ mang ý vị Thiền
sâu xa cùng ý muốn nhàn tản sâu đậm. Trong Vương Duy thi tuyển Giản Chi viết
về giai đoạn chuyển biến này của Vương Duy như sau: “Lần tỏa chiết trong biến cố
An Lộc Sơn càng làm ông thấm thía lời dạy “Chư hành vô thường” của Phật và
càng say cái đạo “dưỡng sinh, toàn chân” của Đạo gia. Trong tâm trạng ấy, ông
lui về ở biệt thự Võng Khẩu ở phía nam Lam Điền – biệt thự ông mua lại của nhà
thơ Tống Chi Vấn. Rảnh việc quan, ông lui về, sống thật giản dị: nhà cửa không
trang hoàng, bày biện; Đồ đạc vẻn vẹn có một chiếc võng, dăm chiếc ghế, một áng
kinh; Ăn thì trường trai, mặc thì áo vải; Ngày ngày tụng kinh…Cảnh trí Võng Khâu
rất đẹp: có hoa Tử Cương, Y hồ, Trúc Lí quán, Liễu Lãng, Thù Du Phàn, Tân Di
ổ…đều là những phong cảnh nên thơ” [6, tr.18-19]
Có lẽ đây là một vấn đề không dễ để lí giải, chúng tôi cũng khá băn khoăn
nhưng xin phép sẽ bàn ở công trình khác khi có cơ hội. Chúng tôi muốn chỉ ra rằng
thơ Vương Duy không phải chỉ có những bài thơ đưa ông đến với danh xưng Thi
Phật mà còn có những bài thơ tự thán, những bài thơ mang đậm dấu ấn từ cảm
hứng về cá nhân nhà thơ. Người đọc có thể yêu mến những vần thơ tinh tế ý vị
thanh nhàn của Vương Duy, nhưng cũng không thể nào phủ nhận những vần thơ
khởi phát từ nguồn cảm hứng cá nhân của nhà thơ.
59
Như vậy cả Vương Duy và Nguyễn Du dù muốn dù không nhưng dưới sự giáo
dục của Nho giáo với chí hướng của việc lập thân và ra làm quan và trách nhiệm
đối với xã hội là điều không thể chối từ. Song song với cuộc đời làm quan ấy là xa
quê, phải sống nơi đất khách. Phải chăng tuổi ngày một già thì ý thức về thân phận
cũng như những mối ưu tư ngày càng mạnh mẽ và như thế cái ý thức ấy, mối ưu tư
ấy được mỗi nhà thơ “tự thán”, tự “nghiền ngẫm” thông qua những vần thơ của
chính họ.
2.2.2. Nỗi sầu li biệt
Cảm hứng cá nhân trong thơ Nguyễn Du và Vương Duy còn thể hiện qua
những bài thơ tống biệt. Mỗi cuộc chia li đều để lại cho thi nhân một nỗi sầu cũng
như sự lưu luyến khó che giấu được trong khung cảnh ấy. Và hơn hết sự lưu luyến
lẫn nỗi sầu ấy là sự thể hiện của tình cảm đậm sâu mà cả Vương Duy lẫn Nguyễn
Du dành cho người ra đi.
Khi Vương Duy tiễn bạn là Tiền thiếu phủ về Lam Điền đã gởi theo cuộc ra đi
của bạn cái mong muốn được dứt bỏ công danh, xa rời thế sự của mình:
Nhân gia giản tây viễn
Tiện quân minh phát khứ
Thái quyết khinh hiên miện
(Xuân dạ Trúc Đình tặng Tiền thiếu phủ quy Lam Điền)
(Sáng sớm mai ông ra đi, tôi thèm được như ông
(Thèm cái thái độ) xem khinh xe mũ
(chức tược) để về nơi có rau dương xỉ mà hái)
Có lẽ lúc nhà thơ tiễn người bạn này ông vẫn chưa bắt đầu cuộc sống nửa quan
nửa ẩn, vẫn còn nặng lòng với thế sự nên mới có cái ao ước xa rời chốn quyền quý,
tranh đua để đến với cuộc sống giản dị cùng thiên nhiên. Nhưng trong những vần
thơ ấy, chúng ta vẫn cảm nhận được tình cảm lưu luyến của nhà thơ. Không lưu
luyến sao lại mong muốn được như bạn? Nếu không đậm sâu tình cảm thì sao lại
mong muốn được trải nghiệm những gì đang chờ đón bạn phía trước?
Khi phải tiễn một người bạn đã mất, nhà thơ nghẹn ngào tâm sự:
60
Ức tích quân tại thì
Vấn ngã học Vô sinh
Khuyến quân khổ bất tảo
Lịnh quân vô sở thành
Cố nhân các hữu tặng
Hựu bất cập sinh bình
Phụ nhĩ phi nhất đồ
Thống khốc phản sài kinh
(Khốc Ân Dao)
(Nhớ lúc anh còn sống
Muốn hỏi tôi học đạo “Vô sinh”
Hận rằng khuyên anh không được đủ sớm
Khiến anh học mà không thành
Người cũ đều có vật tặng
Nhưng tặng không kịp lúc anh còn sống
Dở dang mọi bề
Trở về, nức nở gài cánh cổng tre)
Vương Duy hối hận vì đã không sớm khuyên bạn theo học đạo của nhà Phật để
tìm được sự giải thoát trong cuộc sống. Nếu có thể làm điều đó sớm hơn thì chắc
bạn nhà thơ đã không sớm ra đi khiến “người sống đau lòng” nức nở rơi lệ.
Mỗi cuộc chia li đều khiến người đi hay kẻ ở bùi ngùi, người ở lại trông theo
bạn đi xa khuất bóng với cây cỏ, sẽ chỉ còn lại nỗi nhớ:
Bình vu, lục hề thiên lí
Miểu trù trướng, hề tư quân
(Tống hữu nhân quy sơn 2)
(Đồng cỏ xanh xanh, rậm rì ngàn dặm
Buồn rầu trông theo mà nhớ ông)
Sau khi nỗi nhớ nhung, lưu luyến vơi bớt người ở lại sẽ nhanh chóng cảm nhận
được sự cô đơn, hiu quạnh:
61
Tiền sơn cảnh khí giai
Độc vãng hoàn trù trướng
(Lưu biệt Thôi Hưng Tông)
(Núi phía trước phong cảnh đẹp
Nhưng đi một mình nên vẫn buồn rầu)
Phong cảnh đẹp dễ khiến tâm trạng con người hứng khởi, thế nhưng trước
phong cảnh đẹp mà lại thiếu tri kỉ. Không có ai cùng nhà thơ ngắm cảnh, sự trống
vắng ấy khiến cho con người không thể không cảm thấy buồn rầu, hụt hẫng. Có
bằng hữu thì có người cùng đồng hành, nhưng bạn đi xa rồi nên chỉ còn mình thi
nhân “độc vãng” - cô độc một mình trên con đường. Chính vì đường rộng mà người
chỉ có một, cảnh đẹp không thể lấp đầy khoảng trống mà người ra đi để lại. Có lẽ vì
vậy mà dù cảnh vẫn đẹp nhưng người vẫn cứ sầu.
Mỗi một hoàn cảnh chia li khác nhau lại tác động đến tâm trạng của con người
trong hoàn cảnh ấy. Nếu khi Vương Duy tiễn bạn về ở ẩn thì ông mong ước sớm
được như bạn, rồi khi tiễn bạn đi đến nơi khác thì ông cảm thấy cô đơn trước cảnh
vật khi không có người chia sẻ. Đến lúc Vương Duy đã có tâm thế thư thái của
người sống cùng đạo thì khi chia tay bạn ông lại lo lắng, thương cảm cho bạn còn
ràng buộc với việc quan, còn rày đây mai đó:
Viễn thụ tế hành nhân
Trường thiên ẩn thu tái
Tâm bi hoạn du tử
(Biệt đệ Tấn hậu đăng Thăng Long tự vọng Lam Điền)
(Cây xa che khuất bóng người đi
Trời rộng bao trùm cửa ải lúc thu về
Lòng cảm thương người làm quan đổi đi xa)
Mỗi một cuộc chia li đều để lại nỗi buồn cho người ở lại cũng như người đi,
nhưng những cuộc đưa tiễn giữa người thân lại càng khiến người ta khổ tâm:
Lưỡng muội nhật thành trưởng
Song hoàn tương cập nhân
62
Dĩ năng trì bảo sắt
Tự giải yểm la cân
Niệm tích biệt thì tiểu
Vị tri sơ dữ thân
Kim lai thủy li hận
Thức lệ phương ân cần
(Biệt đệ muội)
(Hai cô em ngày một lớn
Đôi lọn tóc sắp dài bằng tóc người ta
Đã biết cầm cây đàn sắt quí
Đã biết che tấm khăn là
Nhớ lại hồi nào anh ra đi
(Các cô) chưa biết thế nào là tình thân sơ
Nay mới hiểu cái buồn li biệt
Vừa gạt lệ vừa tỏ lòng ân cần)
Ngày trước khi anh ra đi thì những người em còn nhỏ dại, còn chưa hiểu được
biệt li thế nào. Nay khi anh trở về các em gái đã trưởng thành, đã biết thế nào là nỗi
sầu li biệt. Nỗi sầu phải chia cách với người thân luôn có sức mạnh đốn ngã bất cứ
một ai. Vương Duy cũng không ngoại lệ, nhìn các em bịn rịn khi chia li, nước mắt
rơi mà vẫn không quên ân cần gói ghém, trước tình cảnh ấy lẽ nào ông không đau
xót, không lưu luyến vạn phần? Những tâm tình lưu luyến ấy khiến cho người đọc
nhận ra một Vương Duy rất tình cảm, rất đời thường và cũng rất gần gũi. Ông
không còn chỉ là một thi nhân chỉ biết đến lánh đời, yếm thế. Mà còn là một nhà
thơ đơn thuần dùng những vần thơ thể hiện cảm xúc của mình để bày tỏ con người
và tâm hồn của mình. Chính vì vậy, chúng ta càng thêm hiểu và càng thêm yêu
Vương Duy hơn qua những lời thơ mang đậm sắc thái cá nhân của chính ông.
Một con người có tâm thế nhàn như Vương Duy mà còn không cầm được xúc
động khi chia ly thế thì một con người “thiên tuế trường ưu” là Nguyễn Du sẽ sầu
thương đến thế nào khi chia ly đây?
63
Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm
(Lưu biệt Nguyễn đại lang)
(Xin giữ lấy một mảnh trăng ở phía nam sông
Đêm đến thường soi lòng hai ta)
Đó là tấm lòng lưu luyến, khẳng định tình cảm gắn bó không rời với bằng hữu
của nhà thơ. Dẫu bạn đi xa nhưng cả hai nguyện cùng nhìn về ánh trăng để nhận rõ
tâm tình gửi trọn cho nhau. Có lẽ, ngày thường nhà thơ ít bộc lộ cảm xúc, chỉ đến
khi tiễn chân bạn đi ông mới bày tỏ nỗi lòng. Đối với con người luôn mang tâm sự
thế thái nhân tình như Nguyễn Du thì có được một người bạn hiểu lòng thật không
dễ dàng. Chính vì vậy mà tâm trạng luyến lưu, cùng nỗi u sầu khi biệt li là không
tránh khỏi:
Các tại loạn li trung
Sinh tử giao tình tại
Tồn vong khổ tiết đồng
(Biệt Nguyễn đại lang 3)
(Cả hai ta đều trong cảnh loạn li
Tình bạn sống chết có nhau giữa đôi ta còn đó
Tiết nghĩa khổ vì còn mất giống nhau)
Đó là một lời hứa hẹn khắc vào tâm khảm đôi bên. Tố Như khẳng định tình
bạn sống chết vẫn có nhau luôn bền vững dù là cảnh loạn li. Càng trong cảnh loạn
li ấy, thi nhân mới thấy rõ sự gắn bó tri kỉ giữa đôi bên cũng như nỗi niềm chung
giữa đôi bên. Càng trân trọng tình cảm ấy bao nhiêu thì nỗi lòng khi xa cách càng
chồng chất bấy nhiêu. Xin bạn hãy yên tâm về mảnh tình ấy, người ở lại sẽ mãi giữ
và mãi nhớ, bạn hãy yên tâm mà lên đường. Nguyễn Du đã mượn ánh trăng làm
nhân chứng soi chiếu cho tình cảm bền chặt ấy.
Cùng với lời khẳng định tình bạn tri giao là một lời hẹn ước vào ngày không
xa nhà thơ được thỏa nguyện về đất Bắc “nghỉ ngơi”, xa rời chốn hồng trần:
64
Hưu kì bất thậm viễn
Tương kiến tại trung châu
(Biệt Nguyễn Đại lang 1)
(Ngày nghỉ ngơi không còn xa
Sẽ gặp nhau tại trung châu)
Tuy đã hẹn bạn ngày tương ngộ cũng như thể hiện tình cảm tha thiết với bạn
nhưng sự lưu luyến không nỡ xa rời vẫn không tránh được, vẫn hai người đôi chốn
mà đều nhớ về nhau.
Khi khác, Nguyễn Du lại nhìn bạn về chốn không vướng bận danh lợi mà
mừng cho bạn và bùi ngùi “thẹn” cho mình:
Quy khứ cố hương hảo phong nguyệt
(Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy)
(Bác về quê cũ trăng thanh gió mát)
Trong khi bạn về cố hương với phong cảnh tuyệt vời nhưng nhà thơ thì vẫn
còn:
Bạch đầu vô lại bất hoàn gia
(Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam quy)
(Ta bạc đầu không chốn tựa nương không về được nhà)
Tuổi già ai không mong được trở về quê cũ vui vầy cùng bạn hữu. Nguyễn Du
không những đã bạc đầu mà vẫn còn không được về quê nhà nói gì đến việc có
bằng hữu an ủi trong cuộc sống. Nỗi niềm ấy ai có thể thấu? Trong lòng thi nhân
lúc này phải chăng là sự cô đơn đến trơ trọi, sự trống vắng không gì bù đắp được.
Dẫu không được về nơi chốn cũ thì vẫn còn tri kỉ để vơi bớt nỗi niềm, vậy mà ngay
đến người bạn ấy cũng đã trở về. Trên con đường công danh chỉ còn mình Nguyễn
Du rong ruổi bởi cái nghiệp khó dứt, sự thật là Nguyễn Du chỉ bỏ được cái nghiệp
ấy khi ông mãi mãi yên nghỉ chốn vĩnh hằng. Cuộc chia li này chất chứa hai nỗi
niềm tâm sự, hai mối sầu thương khiến cho Nguyễn Du không thể không nghẹn
ngào.
65
Có lúc Nguyễn Du lại hồi tưởng cảnh chia li đã xa, nỗi vui mừng vì vẫn giữ
được tấm “thân” và vui mừng được gặp lại bạn:
Lão hĩ toàn thân bách chiến dư
Tha nhật Nam qui tương hội phỏng
(Lưu biệt cựu khế Hoàng)
(Già rồi mừng được toàn thân sau trăm trận đánh
Mai đây trở về Nam, gặp gỡ hỏi thăm nhau)
Nguyễn Du không viết nhiều về những cuộc chia biệt như Vương Duy, thế
nhưng cũng giống Vương Duy, trước những cuộc chia biệt ấy Nguyễn Du đều
không tránh khỏi tâm trạng lưu luyến, tình cảm thắm thiết được nhà thơ gửi trao
cho người đi. Nguyễn Du và Vương Duy làm người đưa tiễn, dõi mắt nhìn theo
người đi và lại nặng nề mối thương tâm. Điều đó khiến người đọc cảm động cũng
như cảm nhận trọn vẹn khía cạnh cảm xúc cá nhân trong con người mỗi nhà thơ.
Tóm lại, qua thơ Vương Duy và thơ chữ Hán Nguyễn Du người đọc có thể
cảm nhận và thấu hiểu tâm sự của hai nhà thơ về thân phận, về cuộc đời của chính
họ, không chỉ vậy, nỗi sầu khi phải biệt li của con người dù ở thời đại nào, dù ở
quốc gia nào thì cũng đều có điểm gặp gỡ.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng đối với thi nhân, muốn hiểu được tâm tình
của họ, cách gần gũi nhất là tìm hiểu thông qua những sáng tác. Bởi lẽ, làm thơ là
cách dễ dàng nhất thể hiện con người cá nhân, thể hiện cái tôi chủ quan trong mỗi
nhà thơ. Văn chương ngoài tính khách quan phản ánh cuộc sống từ chất liệu hiện
thực còn là tâm hồn, phong cách và chứa đựng tâm sự cũng như nỗi niềm của
người sáng tạo ra chúng. Trong ba yếu tố thường biểu hiện qua thơ là tình, cảnh, sự
thì tình luôn là yếu tố đầu tiên, chủ đạo và dẫn dắt theo sau nó là cảnh rồi đến sự.
Chính vì vậy, tình có đậm thì cảnh mới chân thật, và sự mới sâu sắc được.
Thơ Vương Duy và thơ chữ Hán Nguyễn Du thể hiện đầy đủ cả ba yếu tố tình,
cảnh và sự, nếu hiểu cái “tình” mà họ gởi gắm thì việc thấu hiểu về “cảnh” và “sự”
mà họ thể hiện đã dễ dàng hơn rất nhiều.
66
2.3. Cảm hứng về không gian
Tác phẩm nghệ thuật luôn hiện ra trước mắt người đọc với tư cách là một
khách thể nghệ thuật, trong khách thể nghệ thuật ấy luôn tồn tại những phương
diện: không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, chi tiết nghệ thuật…Những
phương diện nghệ thuật này đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm, và người
tiếp nhận tác phẩm chỉ có thể chiếm lĩnh tác phẩm một cách hoàn toàn khi đã lĩnh
hội được những phương diện này.
Nhà văn, nhà thơ khi sáng tác văn chương bao giờ cũng cần một không gian và
thời gian để con người và cuộc sống được tái hiện lại. Có hình tượng không gian
mới có hình tượng con người. Chính vì vậy mà “không gian nghệ thuật là một
phương diện quan trọng của thi pháp. Nó là phương tiện để tác giả xây dựng thế
giới nghệ thuật của mình (tác phẩm). Nó cũng là cánh cửa để qua đó người đọc
hiểu được hình tượng và tư tưởng tác giả gửi gắm vào trong tác phẩm” [17, tr.26].
Cho nên không gian đối với mỗi nhà thơ đều khơi gợi những cảm hứng mãnh liệt,
để từ cảm hứng ấy họ tập trung tình cảm và sức sáng tạo tuyệt vời nhằm biểu hiện
tư tưởng của mình đến với người đọc một cách riêng biệt.
2.3.1. Không gian lữ thứ
Văn học trung đại Trung Quốc và Việt Nam đều chịu ảnh hưởng bởi hệ thống
học thuyết Nho – Phật – Đạo và có cùng một mô hình chiếm lĩnh không gian tạo
thành một không gian đặc trưng là không gian vũ trụ, con người lấy mình làm trung
tâm quan sát không gian theo “mô hình nhìn quanh đông tây nam bắc, trên dưới,
trước sau. Đó là mô hình tìm kiếm, phát huy sức sống trong vũ trụ” [57, tr.216].
Nguyễn Thị Bích Hải trong Thi pháp thơ Đường cũng đã chia không gian nghệ
thuật thơ Đường thành hai loại là không gian vũ trụ và không gian đời thường.
Không gian vũ trụ là không gian vô cùng rộng lớn, chiều cao dường như chiếm ưu
thế. Đó còn là không gian của thiên nhiên, thi nhân mỗi khi bất đắc ý đều tìm về
với thiên nhiên, hòa mình vào thiên nhiên. Vương Duy là nhà thơ gần gũi với thiên
nhiên, không gian trong thơ ông vừa là không gian vũ trụ đặc trưng của thơ Đường,
vừa là không gian thoát tục, nhàn tản, không gian của tâm Thiền. Song nếu chỉ đề
67
cập đến các dạng cảm hứng trước không gian này mà không kể đến cảm hứng trước
không gian lữ thứ trong thơ Vương Duy thì quả là thiếu sót. Phạm Vũ Lan Anh cho
rằng hai không gian sáng tác của thi nhân thời đại hoàng kim của thơ Đường là
không gian gia đình, làng họ và không gian lữ thứ. Trong đó không gian lữ thứ là
không gian đặc trưng trong thơ của giới nho sĩ – trí thức, quan liêu. Vương Duy
xuất thân là một nhà Nho, là một vị quan cho đến cuối đời, cuộc đời của ông gắn
với những chuyến đi, nhà thơ đặt bản thân vào những không gian mới, hoàn cảnh
mới để hoàn thành nhiệm vụ cũng như đó là một phần của cuộc sống. Cảm hứng
trước dạng thức không gian lữ thứ trong thơ Vương Duy gắn liền với cảm hứng về
quê hương, đây là cảm hứng chủ đạo trong văn học cổ trung đại.
Đối với Nguyễn Du, cảm hứng về quê hương là cảm hứng xuyên suốt ba tập
thơ chữ Hán. Cả Nam trung tạp ngâm, Thanh hiên thi tập và Bắc hành tạp lục
đều ngập tràn hình ảnh quê hương núi Hồng, sông Lam. Trần Đình Sử trong Thi
pháp văn học trung đại Việt Nam đã cho rằng không gian chủ đạo trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du chính là không gian “luân lạc, dãi dầu”. Những yếu tố hình thành
nên không gian luân lạc trong thơ Nguyễn Du là độ to lớn mênh mông của thế giới,
là những nơi xa lạ, tha hương, dị hương, là những cái nhìn bao quát xa xôi…
Từ cảm hứng về quê hương, tình cảm tha thiết đối với quê nhà, cùng với tính
chất của việc quan nên trong thơ Nguyễn Du và Vương Duy hình thành một loại
không gian đặc trưng đó chính là không gian lữ thứ. Theo Từ điển Hán Việt -
Thiều Chửu thì “lữ” vừa có nghĩa là khách trọ, vừa có nghĩa là ở trọ, còn “thứ” có
nghĩa là trọ, đi đến nơi đâu mà phải đỗ lại đến đêm thứ hai. “Lữ thứ” có nghĩa là đi
đường ngủ trọ. Trong văn học thời kỳ trung đại người đọc bắt gặp hình ảnh này khá
nhiều, nó thường được dùng để chỉ những người tha hương, sống trọ ở nơi đất
khách, là chỗ tạm thời không ổn định và thường xuyên di chuyển, không gian lữ
thứ trái ngược với không gian làng quê, họ hàng:
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
(Bà huyện Thanh Quan)
68
Khi thi nhân có mặt tại không gian lữ thứ tức là họ đã bị chia cách với không
gian quê nhà, sự xa cách này khiến họ cảm nhận được tình cảm đậm sâu của mình
dành cho gia đình.
Con đường hoạn lộ của Vương Duy tuy không biến đổi mạnh mẽ nhưng cũng
không coi là an nhàn. Thi nhân rời xa quê nhà lên kinh đô Trường An từ năm mười
bảy tuổi, sớm xa quê. Trong thời gian làm quan ông bị biếm đi Tế Châu một lần,
rồi lại một lần bị đổi ra biên cương, cho tới cuối đời ông sống tại dinh thự của mình
ở Võng Xuyên, vừa làm quan, vừa làm ẩn sĩ. Hầu hết nhà thơ sống ở không gian
gián cách với quê nhà. Chính không gian xa lạ này gợi cho nhà thơ nỗi nhớ:
Độc tại dị hương vi dị khách
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ
Biến sáp thù du thiếu nhất nhân
(Cửu nguyệt cửu nhật ức sơn trung huynh đệ)
(Một mình ở quê người làm thân khách lạ
Mỗi lần gặp ngày Tết lại nhớ anh em ruột thịt bội phần
Ở xa, đoán biết rằng, lúc này các anh chị em đang leo núi
Ai nấy khắp lượt cài hoa thù du, chỉ thiếu mỗi một người)
Đối với mỗi con người khi xa quê thường giấu trong lòng nỗi nhớ nhà, nhưng
khi ở nơi đất khách, gặp dịp lễ, tết, thì nỗi nhớ ấy sẽ không ngừng thôi thúc khiến
họ xao xuyến. Vương Duy nhân ngày tết trùng cửu trước không khí đón tết ở nơi
mình sống lại nhớ đến quê nhà, nhớ đến anh chị em trong gia đình. Đây vốn là dịp
mọi thành viên đoàn tụ cùng nhau.
Người Trung Hoa cổ vào tết trùng cửu có tục lệ “trùng cửu đăng cao” (ngày 9
tháng 9 lên cao). Phong tục này gắn với truyền thuyết từ thời Đông Hán. Phí
Trường Phòng nói với người đệ tử của mình là Hoàn Cảnh rằng người nhà anh ta
sắp gặp tai họa, để tránh tai họa phải dời nhà ở lên cao, tay đeo hột thù du, uống
rượu cúc thì tránh được họa. Sau đó mọi sự đúng như lời Phí Trường Phòng, và
“trùng cửu đăng cao” dần trở thành phong tục đẹp của người Trung Hoa. Nó trở
69
thành ngày để những người trong gia đình đi xa nhớ về nhau, quan tâm về sự bình
an của nhau [93, tr.3].
Nhà thơ một mình nơi đất khách và nếm trải sự cô đơn, trống vắng, thiếu thốn
tình cảm gia đình. Nỗi niềm ấy càng nhân lên gấp bội khi tết đến. Chứng kiến ở nơi
đây người ta cài thù du, mọi gia đình cùng sum họp với nhau khiến người đi xa là
Vương Duy chạnh lòng. Anh, chị, em trong gia đình giờ này chắc đang cài hoa thù
du nhưng chỉ thiếu “nhất nhân”, thiếu một mình ông, mà “nhất nhân” ấy đang một
mình ở xứ lạ. “Độc tại” - cô độc tại “dị hương” làm “dị khách”, từ “độc” được nhà
thơ dùng để chỉ sự lẻ loi, chỉ có một mình ông, nó làm rõ sự cô đơn ấy. Nếu ở nơi
xa lạ mà có một hay vài người thân quen có lẽ thi nhân cũng không cảm thấy đơn
độc đến thế. Không gian mà con người lẻ loi đang sống là “dị hương”, là quê
hương của người khác, bản thân thi nhân chỉ là “dị khách” trên quê hương kẻ khác
và trong trạng thái hoàn toàn cô đơn.
Bài thơ được làm theo thể tứ tuyệt luật bằng vần bằng, nhà thơ không sử dụng
phép đối cũng như chỉ có hai vần là “thân” – “nhân”. Dường như với tâm trạng của
một người đang hồi tưởng về người thân trong gia đình và quê hương thì những vần
thơ bình lặng phù hợp để diễn tả tâm tình hơn hết. “Thân” là người, mà “nhân”
cũng là người, điệp từ “dị” được dùng hai lần. Một bài thơ tứ tuyệt vốn đã ít chữ ,
sao nhà thơ lại bớt đi phương tiện để biểu đạt? Đây được coi là “nghịch lí giữa chữ
và nghĩa trong thơ tứ tuyệt” và là “thủ pháp nghệ thuật được ưa chuộng”
[12,tr.167]. Điều này thoạt nhìn có thể thấy là nghịch lí nhưng là nghịch lí có ý
nghĩa đối với thể thơ như Đường luật vốn lời ít mà ý nhiều, gợi nhiều hơn tả.
Vương Duy điệp lại hai lần từ “dị” để khắc sâu cảm giác xa lạ mà nhà thơ đang
nếm trải, lạ quê, lạ người, không quen thân nên tự coi mình là khách, mà “dị”
không chỉ mang ý nghĩa khác lạ mà còn có ý nghĩa là chia lìa. Vậy nên, chỉ với một
từ “dị”, Vương Duy đã cho người đọc nhận thấy được hoàn cảnh của bản thân ông:
vừa là khách lạ, vừa chịu cảnh chia lìa gia đình, quê hương, vừa cô độc. Cũng với
hai lần điệp lại từ “dị”, nhà thơ đã khắc họa rõ nét không gian xa cách, không gian
lữ thứ. Lại nói về vần mà Vương Duy sử dụng “thân” và “nhân” ở cuối câu thơ thứ
70
hai và câu thứ tư. “Thân” ở câu hai là chỉ những người thân đang ở quê của Vương
Duy, còn “nhân” ở câu cuối là nhà thơ, mà chỉ có “nhất nhân”, trong khi “thân” là
toàn bộ người thân trong gia đình, ở đây sự lẻ loi thiếu vắng lại được tô đậm thêm.
Bài thơ không bóng bẩy, không có ngôn từ mỹ lệ, đơn giản chỉ là một đoạn
diễn biến tâm lí của người con xa quê: thấy lễ tết nơi này, nhớ về gia đình, người
thân đang đón lễ, nhưng chỉ thiếu mình ta. Đơn giản nhưng sâu sắc, cho nên bài thơ
này của Vương Duy đã nhận được sự yêu thích của những người đọc cùng cảnh
ngộ như ông.
Với trọng trách làm một vị quan của triều đình, Vương Duy không ít lần bị đổi
đi biên cương, bị biếm đi nơi khác cho nên việc phải lưu lại trên đường đi là không
tránh khỏi. Không gian được nhà thơ tái hiện lại trong những chuyến đi này cho
người đọc cảm nhận rõ dặm trường lữ thứ mà ông đã trải qua:
Triêu dữ Chu nhân từ
Mộ đầu Trịnh nhân túc
Tha hương tuyệt trù lữ
Cô thân khách đồng bộc
(Túc Trịnh Châu)
(Sáng, giã từ người Chu
Chiều, đến ngủ nhà người Trịnh
Nơi quê người không có bạn bè
Người lữ khách (vì thế) dễ thân với tôi tớ)
Thời gian Vương Duy làm bài thơ này có lẽ là năm Khai Nguyên thứ 25, năm
này tể tướng Trương Cửu Linh bị biếm làm Trưởng sử Kinh Châu, cũng mùa thu
năm đó Vương Duy phải đi sứ ngoài biên ải, ở lại Lương Châu một thời gian.
Chính ông đã bày tỏ thái độ với chuyến đi của mình:
Thử khứ dục hà ngôn?
Cùng biên tuần vi lộc
(Túc Trịnh Châu)
(Muốn nói gì về chuyến đi này?
71
(Nói rằng: ) đi cùng biên cương để kiếm đồng lương còm!)
Trương Cửu Linh là vị quan có tài, tính tình cương trực, không thích xu nịnh
nên bị tên gian thần Lý Lâm Phủ gièm pha đẫn đến mất chức. Vương Duy là người
được Trương Cửu Linh nâng đỡ nên khi Trương Cửu Linh gặp nạn, Vương Duy
cũng bị giáng theo và phải đi biên ải. Tâm trạng của ông qua hai câu thơ trên cho
thấy ông không mặn mà với chuyến đi này, và nó lẽ nào còn hàm chứa sự mỉa mai
của nhà thơ với chính mình chăng? Vì thế mà chặng đường ấy dưới con mắt thi
nhân là một chuỗi dài những ngày lưu lạc. Mới sáng còn ở đất người Chu mà chiều
đến đã ngủ nhờ nhà người Trịnh. Không gian lữ thứ được hiện ra ở một loạt các
hành động của nhà thơ. Sáng tiễn biệt ở một nơi, chiều tối ngủ nhờ một nơi, tự
xưng bản thân là “cô khách” – người khách cô độc, ở chốn “tha hương” – nơi quê
hương của người khác.
Người “cô khách” là Vương Duy không có bạn bè ở nơi xa lạ này, chỉ dễ làm
quen với tôi tớ. Phải chăng khi tâm trạng bất mãn với quan trường đã cộng hưởng
với việc phải sống trong không gian gián cách với chốn yên bình cũ khiến thi nhân
càng cảm thấy cô quạnh, cảm giác mạnh mẽ về sự lạc lõng của “chiếc thân” làm li
khách càng lúc càng khiến ông thêm nặng nề ưu tư. Không gian ấy làm nổi bật sự
bơ vơ của con người. Không gian cách biệt, lưu lạc ấy còn khiến cho con người
phải lo âu về thời gian, về cuộc đời:
Túng hữu quy lai nhật
Đa sầu niên mấn xâm
(Bị xuất Tế Châu)
(Mai đây có về được đi nữa
Buồn nhiều chắc tóc bạc phơ (mang màu năm tháng))
Bài thơ này làm khi Vương Duy bị biếm đi Tế Châu , ở đó thi nhân u sầu khi
nghĩ đến thời gian ngày một trôi, tóc bạc màu năm tháng mà không biết bản thân
còn phải chịu cảnh tha hương này đến bao giờ. Dẫu có về được thì tất cả cũng đã
thay đổi khác xưa.
72
Trong thơ Vương Duy người đọc bắt gặp nhiều lần hình ảnh gợi lên không
gian ly biệt, lữ thứ như “khách xá” (Tống xuân từ), “tha hương” (Túc Trịnh
Châu), “cố hương” (Tạp thi), “cựu hương quốc” (Độ hà đáo Thanh Hà), “nghịch
lữ” (Thiên tháp chủ nhân)…Trong không gian lữ thứ ấy, tình yêu đối với gia đình,
nỗi niềm khao khát trở về với không gian quen thuộc khi xưa trở thành mối quan
tâm hàng đầu của thi nhân:
Quân tự cố hương lai
Ưng tri cố hương sự
Lai nhật ỷ song tiền
Hàn mai trược hoa vị?
(Tạp thi)
(Anh từ quê nhà đến
Chắc rõ chuyện quê nhà
Hôm anh rời làng, lại đây, thì trước cái cửa sổ có rèm lụa trắng
Thấy cây mai gầy đã đơm hoa chưa?)
Bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt chỉ có hai mươi từ nhưng ý nghĩa và dư vị nó để lại
cho người đọc thì gấp nhiều lần số từ của nó. Vương Duy tiếp tục dùng phép điệp,
vỏn vẹn hai mươi từ nhưng “cố hương” đã lặp lại hai lần tức là chiếm mất bốn từ.
Ở đây có một sự nhấn mạnh đầy ngụ ý khi “cố hương” được nói đến, vừa là quê cũ
của nhà thơ đồng thời nó cũng chính là sự khẳng định không gian hiện tại không
phải là quê nhà mà là đất khách. Quê nhà càng được nói nhiều bao nhiêu thì sự tồn
tại của tác giả tại nơi xa xôi này càng lâu bấy nhiêu. Không gian ở cố hương được
gợi lên với hình ảnh thiên nhiên “hàn mai”, tức là mai lạnh, hoa mai vào mùa đông
chứ không phải mùa xuân. Phải chăng nơi xứ người thi nhân đang chịu đựng mùa
đông lạnh lẽo nên tìm chút hơi ấm từ tin tức của quê cũ. Ông không hỏi nhiều, chỉ
hỏi cây mai lạnh nơi cửa sổ hoa đã nở chưa. Có thể trước đây nhà thơ từng ngồi nơi
cửa sổ ấy và ngắm mai gầy đơm bông chăng? Người đọc nhận ra một điều rằng
tình quê càng đậm bao nhiêu, tình nhà càng sâu đậm bấy nhiêu.
73
Như vậy, không gian lữ thứ trong thơ Vương Duy không đơn thuần là không
gian địa lý mà còn là không gian chất chứa tâm trạng, chứa chan tình cảm của thi
nhân với quê hương và cũng chất chứa nỗi buồn của người cô khách chốn tha
hương.
Trên đây là không gian lữ thứ mà Vương Duy trải nghiệm và đó là sự chọn lựa
của chính ông. Còn về Nguyễn Du có như Vương Duy hay không? Nếu có thể chọn
thì Tố Như có rời xa chốn núi Hồng, sông Lam gắn bó máu thịt chăng?
Cuộc đời Nguyễn Du trải qua nhiều thăng trầm biến đổi. Thời đại nhà thơ sống
cũng trải qua bao cuộc đổi thay chế độ chính trị, nhà thơ đã chứng kiến nhiều phen
“thương hải tang điền”. Chính bản thân ông cũng nhiều phen lao đao như thời đại
ấy. Xuất thân trong một gia đình quý tộc nhiều đời làm quan, bản thân Nguyễn Du
cũng thi cử và mong muốn lập thân giúp đời. Song loạn lạc khiến gia đình ông tan
nát, anh em chia lìa mỗi người một ngả. Nguyễn Du chạy loạn về quê vợ, rồi bị
giam trong tù, sau này ra làm quan cho nhà Nguyễn ông cũng ở nhiều nơi khác
nhau, nhưng quê nhà thì vẫn không thể trở về. Chính vì vậy mà trong thơ Nguyễn
Du không gian chủ yếu là không gian “luân lạc”, không gian “đường đi”, hay chính
là không gian lữ thứ, không gian xa lạ. Nỗi nhớ quê nhà, tình yêu với chốn non
Hồng, Lam giang ấy dường như là nỗi niềm không bao giờ nguôi của Nguyễn Du.
Trong thơ ông, con người luôn bị bứng ra khỏi không gian quê hương quen thuộc
và đặt vào không gian xa cách:
Trú cửu đốn vong thân thị khách
Niên thâm cánh giác lão tùy nhân
Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục
(U cư 1)
(Ở trọ lâu ngày bỗng quên bẵng mình là khách
Năm chầy càng biết là cái già đã đến với mình
Ở đất khách nên dưỡng cái vụng về để phòng thói đời)
Con người lưu lạc đến nỗi ở trọ lâu ngày quá nên quên mất mình là khách trọ,
thời gian cứ trôi, tuổi già đến nhưng không biết mình còn phải làm khách bao lâu
74
nữa? Có thật là thi nhân đã quên mình là khách trọ, đã quen với cuộc sống li hương
chốn này? Nếu đã quên mình là khách thì hẳn sẽ không thốt lên rằng “ở đất khách
nên dưỡng cái vụng về để phòng thói đời”. Tại sao phải đề phòng thói đời? Vì nhà
thơ đang ở chốn “dị hương”, quê người khác, không có cảm giác an toàn nên phải
đề phòng, phải giữ thân. Vậy thì hẳn người đọc có thể hiểu được cái sự quên thân là
khách trọ chỉ là mỉa mai, là nhấn mạnh thêm nỗi lo sợ và tình cảnh đơn chiếc lúc
này của thi nhân.
Gắn liền với không gian chia cách này là nỗi nhớ da diết về quê cũ:
Ky lữ đa niên đăng hạ lệ
Gia hương thiên lí nguyệt trung tâm
(Xuân dạ)
(Lâu năm làm khách xa nhà, lệ rơi dưới đèn
Nghìn dặm nhớ quê, lòng gửi theo vầng trăng)
Hay:
Vọng vọng gia hương tự nhật biên
Hoành sơn chỉ cách nhất sơn điên
Khả lân quy lộ tài tam nhật
Độc bão hương tâm dĩ tứ niên
(Nễ giang khẩu hương vọng)
(Trông ngóng quê nhà xa tựa như ở bên mặt trời
Nhưng chỉ cách một ngọn núi trong dãy Hoành Sơn
Khá thương đường về nhà chỉ mất có ba ngày
Mà riêng ôm lòng nhớ nhà đã bốn năm)
Bài thơ được sáng tác trong khoảng thời gian Nguyễn Du làm quan cho nhà
Nguyễn, tất nhiên là không được về quê mà phải theo sự phân công của triều đình.
Ngày tháng nơi đất khách Nguyễn Du trông ngóng quê nhà, khoảng cách địa lí rất
gần chỉ mất ba ngày, cũng như chỉ cần qua một ngọn núi là đến. Không gian quê cũ
và không gian xa lạ hiện tại không tới nỗi mịt mù dặm đường, nhưng nhà thơ đã
phải ôm mối “hương tâm” bốn năm rồi. Điều này cho thấy sự bó buộc của chốn
75
quan trường đối với Nguyễn Du, làm quan mà nỗi khao khát được về quê nhà vẫn
âm ỉ cháy, âm thầm thiêu đốt tâm can ông.
Con người khi quyết định ra đi đến nơi xa lạ, đất vùng đất khác có nhiều
nguyên nhân, có người bị ép buộc, nhưng cũng có người tự nguyện tìm đến với
những không gian xa lạ ấy để tự trải nghiệm, để khẳng định bản thân, và có lẽ để
trả xong cái nợ công danh:
Hoành Sơn sơn ngoại Lĩnh Nam trình
Cầm kiếm tương thùy thướng ngọc kinh
(Họa hải ông Đoàn Nguyễn Tuấn “Giáp Dần phụng
mệnh nhập Phú Xuân kinh, đăng trình lưu biệt chư hữu” chi tác)
(Ngoài núi Hoành Sơn là đường vào Lĩnh Nam
Mang theo đàn và gươm lên kinh đô)
Không gian lữ thứ vừa là không gian thi nhân gửi gắm tình quê, vừa là không
gian để thực hiện những chí hướng còn dang dở, và cũng là không gian để bộc bạch
tâm sự cá nhân:
Hồng sơn thiên lí ỷ lan tâm
Bồi hồi đối cảnh độc vô ngữ
(La Phù giang thủy các độc tọa)
(Lòng nhớ Hồng Sơn nơi ngàn dặm trong lúc tựa lan can
Bồi hồi trước bóng mình một mình yên lặng)
Nơi tha hương, thi nhân ngồi một mình trong bóng tối để suy ngẫm về cuộc
đời, về thế sự. Nhân sinh chỉ như một giấc mộng, chỉ có tình quê là còn mãi. Con
người không có ai chia sẻ tâm sự thì quả là cô đơn, mà không có người sẻ chia khi
mình đang mang thân lữ khách lại càng cô độc, u sầu hơn nữa. Với một con người
mà cuộc đời là những chuyến đi không dứt như Nguyễn Du thì thời gian ông gắn
bó với quê nhà quá ít, hầu như ông trải qua cuộc đời ở những nơi đất khách. Lúc thì
ông ở nhờ bến sông, bãi biển, khi thì trong tù, lúc lại ở xứ người. Những từ ngữ
khắc họa thân phận ly khách và không gian lữ thứ trong thơ Nguyễn Du rất nhiều:
“tha hương” (Xuân nhật ngẫu hứng), “cố hương” (Sơn cư mạn hứng), “tha
76
phương” (Lưu biệt Nguyễn đại lang), “khách tình” (Mạc phủ tức sự), “khách lộ”
(Đông lộ) …
Có thể thấy rằng không gian lữ thứ với tư cách là một phần trong không gian
vũ trụ, không chỉ là không gian địa lí thông thường mà nó còn là không gian hàm
chứa tâm sự, tình cảm, là không gian tâm lí được nhà thơ bộc bạch. Chính tại
không gian ấy thi nhân mới có thể nhận ra những giá trị bấy lâu bị lãng quên mà
khi còn ở trong không gian gia đình khó có thể thấu hiểu hết và vì thế nó trở thành
nguồn cảm hứng mạnh mẽ của ngòi bút thi nhân.
Không gian lữ thứ tạo cơ hội cho họ thử thách bản thân, trả nợ công danh,
đồng thời cũng để họ tự trải nghiệm cuộc sống và nhận ra giá trị bền vững của gia
đình, của quê hương đối với tâm hồn mỗi con người. Phải chăng chính vì lưu lạc ở
nơi xa, làm người lữ khách nên cảm hứng về quê hương luôn là cảm hứng quan
trọng của hầu hết nhà thơ thời kỳ trung đại?
Như vậy, không gian lữ thứ trong cả thơ Vương Duy và Nguyễn Du là không
gian bao hàm trong nó cả không gian tâm lí, tình cảm và gắn liền với nó là một tấm
lòng sâu nặng luôn hướng về quê hương, gia đình. Những dòng thơ của Nguyễn Du
và Vương Duy gắn với cảm hứng mãnh liệt này đã đem đến cho người đọc nhiều
sự xúc động, không chỉ vậy nó dường như đang khơi dậy “tình nhà” đang ngủ quên
ở đâu đó trong lòng độc giả giữa bộn bề cuộc sống đua chen này.
2.3.2. Không gian khép kín
Khảo sát cảm hứng về không gian trong thơ Nguyễn Du và Vương Duy chúng
tôi còn nhận thấy ngoài sự gặp gỡ ở cảm hứng trước dạng thức không gian lữ thứ,
họ còn gặp gỡ nhau ở một dạng thức không gian đặc biệt khác: không gian khép
kín. Sở dĩ chúng tôi gọi là không gian khép kín bởi vì không gian ấy bị ngăn cách
với thế giới bên ngoài, chỉ nhỏ hẹp trong phạm vi ngôi nhà với cánh cửa luôn đóng
kín, khi thì là ngôi nhà với rèm che chỉ còn chút ánh sáng mờ nhạt.
Tác giả Lê Thu Yến trong Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du đã
chia không gian nghệ thuật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du làm hai dạng thức là
không gian nhỏ hẹp và không gian rộng lớn. Trong không gian nhỏ hẹp tác giả đề
77
cập tới không gian cụ thể là ngôi nhà, không gian có mái che và cũng đã nói về
không gian được tạo bởi cánh cửa đóng nhiều mở ít. Tiếp nối nhận định ấy chúng
tôi đi vào phân tích không gian cánh cửa đóng kín trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Chính vì không gian có cánh cửa đóng sẽ ngăn cản tầm nhìn của con người với
ngoại vật cũng như tạo thành một vòng kín bao bọc con người ở đó với những nỗi
niềm của bản thân. Không gian vừa nhỏ vừa tách biệt nên chúng tôi cho rằng đó là
không gian khép kín.
Khi chúng tôi tiến hành tìm hiểu cảm hứng trước dạng thức không gian khép
kín trong thơ Vương Duy ở những công trình trước đó thì nhận thấy điều này hầu
như chưa được đề cập đến. Tác giả Trần Thị Thu Hương trong công trình nghiên
cứu Một số đặc trưng cảnh giới nghệ thuật thơ Vương Duy đã tìm hiểu không
gian trong thơ ông bằng “phép thấu thị”, là một nguyên tắc trong hội họa. Sở dĩ như
vậy bởi vì thơ Vương Duy có đặc trưng nghệ thuật là “thi trung hữu họa”. Tuy
nhiên “phép thấu thị” là phương thức giúp tác giả khai thác thơ Vương Duy dưới
cái gọi là điểm nhìn không gian, điểm nhìn đó là trên – dưới và nằm ngang theo
mặt phẳng, có lúc lại là điểm nhìn di động. Ở đây vấn đề dạng thức không gian và
cảm hứng của thi nhân trước dạng thức không gian ấy hầu như không được đề cập.
Tuy nhiên khi chúng tôi đi vào khảo sát đã nhận thấy dạng thức không gian khép
kín xuất hiện không ít lần trong thơ Vương Duy, điều này cho thấy cảm hứng của
Vương Duy trước không gian ấy không hề ít.
Vương Duy với tâm tình của một cư sĩ, cuộc sống của ông gói gọn ở hai nơi:
triều đình và nhà riêng tại Võng Xuyên. Khi còn chưa thực hiện được ước muốn về
một cuộc sống thanh nhàn, Vương Duy đã tự hẹn với mình:
Thiều đệ Tung Cao hạ
Qui lai thả bế quan
(Qui Tung sơn tác)
(Đường đi xa lắc dưới núi Tung cao vút
Về tới rồi sẽ đóng cửa thôi)
78
Nơi đến ở đây là núi Tung nằm trong hệ thống núi Ngũ Nhạc ở Trung Quốc.
Có lẽ khi làm bài thơ này Vương Duy vẫn chưa thỏa nguyện, vẫn chưa được về núi
ẩn cư. Vì vậy mà ông hẹn với núi xanh, hẹn với bản thân mình một ngày về núi
Tung sẽ “bế quan”. Nhà thơ khao khát được khép kín không gian vốn đã kín. Núi
cao và xa, ấy vậy mà thi nhân còn chắc chắn rằng sẽ đóng cửa lại. Đây là sự chủ
động có ý thức của Vương Duy trong việc tạo ra cho bản thân không gian ngăn
cách với thế giới. Và đúng như lời hẹn ước ấy, Vương Duy khi về ở Võng Xuyên
đã không ngần ngại “yểm sài phi”.
Căn nhà đã ở tận trong hẻm sâu, khách cũng ít đến thăm, ngõ vắng ngựa xe, ấy
vậy mà rèm còn che buồng tối mờ mờ:
Lan huệ sinh ngã li
Ái ái nhật noãn khuê
(Tặng Bùi Thập Địch)
(Lan huệ mọc đầy rào nhà
Mờ mờ, buồng trong ấm có bóng mặt trời chiều)
Đóng cửa để tĩnh lặng, để ngăn cách thế sự nhưng thiên nhiên thì dường như
được thi nhân ưu đãi. Lan huệ cứ thế mọc lấn cả rào, và rèm dù che kín buồng thì
vẫn có ánh sáng mặt trời soi chiếu vào. Trong không gian ấy Vương Duy chỉ cần có
thiên nhiên làm bầu bạn để ngâm vịnh. Trong không gian ấy thi nhân đóng cửa
không tiếp khách:
Chung niên vô khách trường bế quan
Chung nhật vô tâm trường tự nhàn
(Đáp Trương ngũ đệ)
(Suốt năm không có khách cửa đóng hoài hoài
Suốt ngày vô tâm lúc nào cũng nhàn rỗi)
Chúng ta có thể thấy rằng dường như không gian khép kín là một không gian
bổ trợ cho quá trình đạt đạo của Vương Duy, đơn giản chỉ đóng cửa, không tiếp
khách ngày ngày là “nhàn”, là thỏa nguyện.
79
Tại Võng Xuyên, nhà thơ an nhàn ca hát, làm thơ, học đạo, sống hòa vào tự
nhiên. Vương Duy chẳng cần phải đi đâu xa, chỉ cần một cánh cửa đóng kín tạo
thành một không gian ngăn cách mỏng manh:
Đỗ môn bất phục xuất
Cửu dữ thế tình sơ
Dĩ thử vi trường sách
(Tống Mạnh Lục quy Tương Dương)
(Đóng cửa không ra ngoài nữa
Từ lâu không thiết tha với đời
Cho đó là sách lược hay)
Sách lược mà Vương Duy dùng để đối phó với thế sự phù phiếm là đóng cửa.
Ông tự tạo cho mình một không gian riêng tư để quên sự đời. Đó là không gian để
tu hành, để giấu mình chỉ đơn giản được tạo thành bởi một cánh cửa khép kín. Liệu
có phải nhà thơ chỉ ở trong không gian ấy mà quên hẳn được sự đời? Sự thật thì
một con người thông tuệ về tư tưởng nhà Phật cũng như Đạo là Vương Duy thì
cách sống của ông chính là cao nhân ẩn dật. Không cần phải chạy trốn đến tận sâu
trong núi rừng hay thôn quê xa vắng, chỉ với một cánh cửa khép kín đã là tu, là ẩn.
Bên trong không gian ấy Vương Duy thong thả ngắm thiên nhiên:
Thâm viện trú dung khai
Tọa khan thương đài sắc
(Thư sự)
(Viện sâu, ban ngày biếng không mở cửa
Ngồi nhìn mầu rêu xanh)
Con người ấy ngồi một mình trong viện kín, biếng lười mở cửa sổ mà chỉ chú
tâm ngắm nhìn màu rêu xanh. Bên trong không gian ấy là khoảnh khắc riêng để thi
nhân và thiên nhiên hòa hợp:
Dục thướng nhân y lai
(Thư sự)
(Nó như muốn lên áo người)
80
Lúc khác ở trong không gian ấy nhà thơ vui với sách vở, văn chương:
Bế hộ trứ thư đa tuế nguyệt
(Phỏng Lã dật nhân bất ngộ)
(Đóng cửa, viết sách đã nhiều năm tháng)
Đóng cửa tức là đã có ý thức ngăn cản sự tác động bên ngoài đối với mình, thi
nhân đóng cửa, tạo cho chính mình một không gian hoàn toàn yên tĩnh để ngẫm về
đạo, để thưởng ngoạn thiên nhiên. Chỉ ngắm rêu thôi mà có thể ngắm đến màu rêu
như muốn nhuộm màu áo người đang ngắm thì có thể thấy sự tập trung cao độ của
nhà thơ. Dường như với một người có tâm Thiền sẵn như Vương Duy thì dù là ở
không gian nào cũng tĩnh tâm, cũng ngộ đạo. Đối với Vương Duy, cánh cửa khép
lại là không gian lí tưởng mà ông thích thú, là không gian tuyệt vời để ông vui với
đạo.
Như vậy, không gian khép kín gợi cho Vương Duy một cảm hứng sáng tác khá
dồi dào, ông thể hiện cảm hứng ấy qua những bài thơ trác tuyệt của mình, nhẹ
nhàng giản đơn nhưng hàm chứa tinh thần của đạo sâu sắc. Cũng chính dạng thức
không gian đặc biệt này có lẽ đã thể hiện phần nào cảnh giới đắc đạo của Vương
Duy. Ở tại không gian hẹp ấy tưởng như con người sẽ bị gò bó, nhưng ngược lại
chính tại không gian trú ngụ ấy người đọc lại nhận thấy tâm hồn rộng mở, phóng
khoáng cùng thanh thoát của Vương Duy.
Đó là Vương Duy với không gian khép kín vô cùng hòa hợp với mình. Nguyễn
Du không cầu tĩnh tại và tách biệt để tu đạo mà ông tìm đến với không gian ấy bởi
nguyên nhân khác.
Khi cả gia đình Nguyễn Du mỗi người một nơi chạy loạn, cuộc sống lưu lạc,
ăn nhờ ở đậu khiến nhà thơ dù muốn hay không cũng thường bó mình trong không
gian chật hẹp, không gian tạo bởi cánh cửa khép kín:
Hoạn khí kinh trời hộ bất khai
Thuân tuần hàn thử cố tương thôi
(Xuân nhật ngẫu hứng)
(Lâu nay khí trời xấu không mở cửa
81
Mùa rét mùa nóng lần lữa theo nhau trôi qua)
Thời tiết xấu nên đóng cửa không ra ngoài, không mở cửa nhưng nhà thơ vẫn
quan sát bước đi của thời gian, mùa rét, mùa nóng trôi qua lần lượt. Không biết bản
thân nhà thơ đã sống trong không gian ấy bao lâu rồi:
Bế môn bất thức xuân thâm hiểm
Đãn kiến đường lê lạc tận hoa
(Tạp ngâm)
(Đóng cửa nên không biết xuân đến sớm hay muộn
Chỉ thấy cây đường lê hoa đã rụng hết rồi)
Trong không gian ấy, nhà thơ đối mặt với cuộc sống khốn khó, bệnh tật:
Sài phi dạ tĩnh bế thân ngâm
Thập niên túc tật vô nhân vấn
(Ngọa bệnh 2)
(Cửa sài đóng kín trong đêm vắng nằm rên than
Bệnh cũ mười năm không ai thăm hỏi)
Cửa sài giản đơn nhưng đóng kín, chỉ còn một mình Nguyễn Du với nỗi đau
của bệnh tật đang hành hạ cơ thể. Tuy thế nỗi đau ấy sao sánh bằng sự cô độc mà
nhà thơ đang trải qua. Không chỉ đối diện với nghèo khó, bệnh tật mà nhà thơ còn
đối diện với nỗi cô đơn, bệnh đã nhiều năm nhưng không có ai thăm hỏi, đêm vắng
chỉ có tiếng than thở của chính mình. Cánh cửa đóng kín chia cách thế giới bên
ngoài càng khiến nỗi cô đơn ấy nhiều thêm. Nguyễn Du luôn có ý thức khép cửa,
tránh tiếp xúc với bên ngoài. Thậm chí trước non xanh nhà thơ cũng vẫn khép cửa:
Thiên Thai sơn tiền độc bế môn
(Ký Huyền Hư Tử)
(Trước núi Thiên Thai mình ta đóng cửa)
Chỉ có một mình, chỉ có cô độc, người đọc tưởng rằng Nguyễn Du sẽ “khai
song” cùng hòa vào cảnh vật để khuây khỏa nỗi cô đơn, nhưng không, ông lại đóng
cửa dẫu có một mình. Hành động của nhà thơ thể hiện điều gì? Vì nguyên nhân gì
mà ông thường xuyên giam mình trong không gian kín ấy? Phải chăng vì cuộc đời
82
nhiều biến hóa, mối tâm sự khó ngỏ cùng ai. Cho nên nhà thơ tự khép mình lại rồi
tự hỏi mình, tự vấn bản thân mình. Nhà thơ đóng cửa không tiếp cả bạn thân:
Bế môn tạ tri giao
(Ngẫu thư công quán bích)
(Đóng cửa tạ từ không tiếp bạn thân)
Vương Duy đóng cửa ở nhà sâu, ngõ vắng nên khách ít lui tới. Thế nhưng nếu
có khách đến thì ông vẫn tiếp, vui cùng khách hỏi chuyện đời nơi chú tiểu. Suốt
năm nhà thơ không có khách thì cảm nhàn, ở trong nhà viết sách làm vui. Còn
Nguyễn Du ở trong không gian ấy làm những gì? Có được thư thái như Vương Duy
chăng? Khi thì nhà thơ đóng cửa chịu bệnh, khi thì trời xấu nên không muốn mở
cửa, lúc thì đóng cửa tránh tiếp khách.
Đôi khi Nguyễn Du không trực tiếp nói đến hình ảnh cánh cửa khép kín,
nhưng trong không gian mà ông sống cụ thể là ngôi nhà lại tối mờ, thiếu ánh sáng:
Thâm đường xuất khâu dận
(Bất mị)
(Nhà tối giun bò ra)
Ngôi nhà thiếu ánh sáng nên rơi vào khoảng tối, trong khoảng tối ấy là khoảng
lặng u sầu của thi nhân. Có phải thật sự ông muốn khép hẳn bản thân, co mình lại
trong không gian chật hẹp, ẩm mốc và tù túng ấy không? Tất nhiên nếu người đọc
hiểu con người Nguyễn Du sẽ biết được hoàn cảnh nghèo khó lúc này đã đẩy ông
đến tình cảnh này. Dường như nếu không đóng cửa thì Nguyễn Du cũng như
Vương Duy đều kéo rèm che ánh sáng:
Thâm đường tiễu tiễu há liêm lung
(Ngẫu đề)
(Nhà sâu lặng lẽ rèm buông xuống)
Có thể nói đối với Nguyễn Du, không gian khép kín, không gian nhỏ hẹp và
thiếu ánh sáng ấy là môi trường mà ông dùng để trốn tránh mọi sự bên ngoài và
cũng là để nhìn nhận hiện thực cuộc sống của bản thân. Ngôi nhà lặng lẽ buông
rèm, tối đến mức “đom đóm ma sẽ hiện ra”. Người thường sẽ muốn mở cửa để ngôi
83
nhà được thông thoáng, Nguyễn Du đóng cửa một cách có chủ ý, ông tạo cho mình
một không gian không có nhiều ánh sáng (chỉ mờ mờ chiếu qua hoặc tối hẳn). Như
ở trên chúng ta thấy có nhiều lý do để thi nhân đóng cửa, thế nhưng nếu Nguyễn
Du không đóng mà mở cửa thì biết đâu tâm trạng của ông sẽ thoải mái hơn chăng?
Vậy mà không, Nguyễn Du vẫn đóng, và dù đã đóng nhưng vẫn không ngăn cách
được những biến động của cuộc sống. Ông vẫn cảm nhận mọi sự qua cánh cửa
ngăn cách ấy, chỉ vì với tâm trạng u sầu, nỗi buồn héo hắt nên nhà thơ đóng cửa để
tự mình vật lộn với muôn ngàn tâm tư đan xen. Có biết bao nỗi niềm Nguyễn Du
không thể tỏ cùng ai và cũng không dễ dàng để bày tỏ, cho dù có muốn bước ra hòa
nhập với cuộc đời thì trong Nguyễn Du vẫn có một điều gì đó kéo ông lại với u sầu.
Ngoài những lý do mà Nguyễn Du bày tỏ thì có lẽ người đọc vẫn nhận thấy sự lấn
cấn khó giải thích. Có phải đây là bản tính chân như của thi nhân, nên dẫu có
muốn đến đâu cũng không thể giao cảm với đời. Có phải vì vậy mà ông chọn đóng
cửa để tự mình chịu đựng, giày vò và khắc khoải theo năm tháng? Không gian vốn
đã nhỏ nay lại càng nhỏ hơn bởi sự ngột ngạt của rèm, của cửa kín, hành động khép
kín cửa chính là Nguyễn Du từ chối hòa nhập với thế giới, với vũ trụ.
Trần Đình Sử trong công trình viết về thi pháp không gian nghệ thuật đã cho
rằng trong thơ cổ không gian ngôi nhà hay được miêu tả bằng hình ảnh cánh cửa, vì
cánh cửa mở đường cho con người vào vũ trụ. Do vậy, con người vũ trụ trong thơ
cổ trung đại tương ứng với không gian vũ trụ thường xuất hiện cánh cửa mở.
Nhưng Nguyễn Du lại chọn miêu tả ngôi nhà mình sống với cánh cửa khép kín,
không mở cửa, rèm cũng không vén. Có lẽ ông muốn tạo nên một không gian ngăn
cách bản thân mình với vũ trụ bao la, rộng lớn bởi với những tâm sự riêng mang
nhà thơ không thể hòa mình, hay để cảm xúc thăng hoa, tan vào không gian vũ trụ
rộng lớn. Chỉ riêng mình đối diện khắc khoải với không gian, thời gian và chính
mình. Có thể ban đầu do hoàn cảnh mà Nguyễn Du không mở cửa nhưng càng về
sau chúng ta cảm nhận rõ ràng Nguyễn Du là đang tự tạo nên một không gian để
“bao” chính mình lại.
84
Như vậy, qua tìm hiểu thơ Vương Duy và Nguyễn Du chúng ta thấy được sự
gặp gỡ thú vị giữa họ trong cảm hứng trước hai dạng thức không gian. Không gian
lữ thứ và không gian khép kín, trước mỗi dạng thức không gian là một chiều sâu
tâm tưởng và tình cảm của nhà thơ bộc lộ. Nếu không gian lữ thứ đem lại nỗi nhớ
nhung quê nhà và ý thức về sự lưu lạc của bản thân Vương Duy và Nguyễn Du thì
không gian khép kín với ánh sáng hiu hắt là không gian riêng để mỗi người trải
nghiệm cuộc sống với tất cả những nỗi niềm riêng tư nhất. Cả hai dạng thức không
gian này đều gắn liền với cảm xúc, tâm tư và quan niệm nhân sinh của thi nhân, nó
cho chúng ta hiểu sâu hơn về Nguyễn Du và Vương Duy.
85
Tiểu kết chương 2
Vương Duy và Nguyễn Du là hai nhà thơ sinh ra vào hai thời đại khác nhau.
Vương Duy sinh sống vào thời kì Thịnh Đường, là thời kỳ mà cả Nho – Phật và
Đạo đều đạt đến vị trí hoàng kim và có sức ảnh hưởng tới hầu hết tầng lớp trí thức
và Nho sĩ. Việt Nam với mối quan hệ mật thiết với Trung Quốc về văn hóa lẫn tư
tưởng tất nhiên không nằm ngoài vùng ảnh hưởng của hệ thống ba học thuyết lớn
Phật, Nho và Đạo, nhất là thời kỳ trung đại. Nguyễn Du sinh sống vào thời kỳ mà
lịch sử, chính trị xã hội đất nước Việt Nam có nhiều biến đổi, song sức ảnh hưởng
của hệ tư tưởng Nho – Phật – Đạo không vì thế mà suy giảm. Đồng thời Việt Nam
nằm trong khu vực văn hóa chữ Hán cùng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
nền văn hóa chữ Hán đã hình thành nền văn học chữ Hán với những tính chất đặc
trưng, những quy phạm mà người sáng tác bằng chữ Hán phải tuân theo dù ít hay
nhiều. Sự tương đồng thú vị giữa Nguyễn Du và Vương Duy có thể xuất phát từ
tính quy phạm đối với sáng tác văn chương, song nó cũng đến từ hai tâm hồn tương
giao về tinh thần, quan niệm nhân sinh.
Nếu phải xếp Nguyễn Du và Vương Duy vào một loại hình tác giả nào đó
trong tiến trình văn học trung đại thì thật là khó. Trần Nho Thìn chia loại hình nhà
Nho thành ba loại: nhà Nho hành đạo, nhà Nho ẩn dật và nhà Nho tài tử. Nguyễn
Du vừa: hành đạo (làm quan), muốn ẩn dật (dù chưa hoàn toàn thực hiện được), thể
hiện chất tài tử (quan niệm về tài mệnh thể hiện trong sáng tác và ý muốn hành lạc)
và đồng thời còn thể hiện sự am tường, yêu thích, ngộ chân lý của cả Phật giáo lẫn
Lão giáo. Vương Duy là nhà Nho, cũng là nhà sư, và ông sống cuộc đời bán quan
bán ẩn, nửa Nho, nửa Phật và Lão giáo. Trong đó ảnh hưởng sâu đậm nhất là Phật
giáo. Song sáng tác của Vương Duy thể hiện cả ba mặt trên. Vương Duy khác với
Thi Tiên Lý Bạch là đệ tử của học thuyết Lão Trang, khác với Thi Thánh Đỗ Phủ là
nhà Nho chân chính cả cuộc đời cũng như những gì ông thể hiện trong thơ văn.
Chính vì sự nhập nhằng này mà Vương Duy và Nguyễn Du giống nhau, từ đó dẫn
đến những gặp gỡ thú vị về cảm hứng sáng tác trong thơ cả hai.
86
Chương 3. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT GIỮA THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN DU VÀ THƠ VƯƠNG DUY
3.1. Tinh thần Phật – Lão
3.1.1. Tinh thần Phật giáo
Trong số các nhà thơ đời Đường, không phải chỉ có một mình Vương Duy chịu
ảnh hưởng Phật giáo và làm thơ với tinh thần nhà Phật. Song lại chỉ duy nhất một
mình ông được người đời tôn xưng là Thi Phật. Trong cuộc đời và cả sự nghiệp
của Vương Duy, dấu ấn của Phật giáo là vô cùng sâu đậm. Thơ của Vương Duy
mang tinh thần Thiền, “mỗi tuyệt cú bí ẩn như một công án Thiền” [27, tr.76].
Nguyễn Du thì khác, tuy chịu ảnh hưởng của tinh thần nhà Phật song dấu ấn mà nó
để lại trong thơ Nguyễn Du chỉ bàng bạc.
Chúng tôi tiến hành khảo sát 170 bài thơ của Vương Duy thì có 25/170 (chiếm
khoảng 15%) nhà thơ đưa trực tiếp Thiền ngữ, từ được dùng trong Phật giáo vào
thơ để biểu đạt tư tưởng của mình. Trong khi đó 250 bài thơ của Nguyễn Du chỉ có
7/250 (chiếm khoảng 2.8%) là nhà thơ sử dụng trực tiếp những từ ngữ của nhà
Phật. Nếu xét một cách tổng thể hơn thì trong số 170 bài thơ của Vương Duy có
đến 92/170 bài mang ý vị Thiền, tư tưởng của nhà Phật được biểu thị bằng những
khung cảnh, sự kiện khác nhau. Thơ chữ Hán Nguyễn Du có khoảng 14/250 bài
phảng phất ý vị Thiền tông và nằm rải rác trong cả ba tập thơ. Có thể thấy rằng tinh
thần Phật giáo trong thơ Vương Duy vô cùng đậm đặc nhưng nó chỉ bàng bạc trong
thơ Nguyễn Du.
Đi sâu vào tìm hiểu chúng tôi muốn chỉ rõ sự khác biệt này giữa hai nhà thơ.
Trước hết nói đến Nguyễn Du, tuy không có tài liệu cho thấy ông ảnh hưởng trực
tiếp giáo lí nhà Phật song cũng không thể phủ nhận dấu ấn của nó trong thơ ông.
Trong các tác phẩm của Nguyễn Du, người đọc dễ dàng nhận ra thái độ tích cực,
yêu mến của nhà thơ đối với đạo Phật. Hơn một lần Nguyễn Du thể hiện tình cảm
ấy trong các bài thơ chữ Hán của mình. Nhưng tinh thần Phật giáo trong thơ
Nguyễn Du khác biệt so với Vương Duy. Phật giáo được truyền vào nước ta bằng
hai con đường chính là Ấn Độ và Trung Hoa, song để có thể tồn tại nó đã biến đổi
87
theo xu hướng Việt Nam hóa. Thời đại Lý – Trần (thế kỷ X đến XIV) là thời đại
Phật giáo gần như là quốc giáo, nguyên nhân do đâu, chính là do Phật giáo lúc này
không còn tinh thần “xuất thế” như gốc ban đầu mà là tinh thần “nhập thế”, nó đã
bộc lộ khả năng nhập cuộc vô cùng lợi hại của mình. “Tư tưởng bình đẳng bác ái
của nó, nó gặp gỡ một cách tự nhiên với tinh thần bác ái của dân tộc, phổ biến của
ca dao tục ngữ. Nó cũng dễ dàng bắt gặp truyền thống bình đẳng của các công xã
Việt Nam thời cổ” [84, tr.82].
Như vậy Phật giáo Việt Nam đến thời kỳ này đã trở thành Phật giáo của người
Việt, là Phật giáo với tinh thần hướng về cuộc sống, không trốn chạy thực tại. Nói
như Nguyễn Huệ Chi thì “Phật giáo nguyên thủy biện chứng tư duy đến Phật giáo
Việt Nam biện chứng chân thực đời sống, nó chỉ có ý nghĩa thẩm mỹ khi nó góp
phần làm sáng tỏ chân lí cuộc sống” [84, tr.90]. Đến thời đại của Nguyễn Du, Phật
giáo vẫn còn giữ được ảnh hưởng to lớn của nó đối với xã hội Việt Nam, nhất là
thái độ cởi mở của các giai cấp thống trị cả ở Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong. Trên
tinh thần đó “các dòng Thiền tông tiếp tục được truyền nối và phát huy ảnh hưởng
của mình” [66, tr.167].
Tiếp thu tinh thần đó của Phật giáo nước nhà, Nguyễn Du tìm đến tư tưởng
Thiền tông với mục đích muốn có sự thấu hiểu hơn nữa chân lí cuộc sống, tìm một
hướng giải thích cho những chiêm nghiệm, những suy nghĩ và trăn trở về cuộc sống
của ông:
Thanh Vị trọc Kinh đồng bất tức
(Tái thứ nguyên vận)
(Sông Vị trong, sông Kinh đục đều chảy không ngừng)
Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh
(Tạp ngâm)
(Cúc vàng năm ngoái năm nay lại nở)
Sông dù đục hay trong thì vẫn cứ chảy không ngừng bởi vì đó là quy luật của
cuộc sống. Hoa có đẹp thì hết mùa sẽ tàn để ươm nụ năm sau lại nở ra rực rỡ. Con
người dẫu có tham luyến mọi thứ cuối cùng vẫn phải buông vì đến cuối cùng sẽ
88
chẳng còn lại được gì chỉ là “một nắm cỏ khâu xanh rì”. Cũng với sự thấu đạt đó,
trước cảnh hoang tàn của những di tích xưa, Nguyễn Du có ngậm ngùi nhưng
không quá u sầu. Bản thân ông biết sẽ chẳng có triều đại nào tồn tại ngàn năm,
“nương dâu rồi sẽ thành ruộng muối”, công danh, vinh hoa rồi cũng như “rắn chạy
về hang”. Chính vì vậy, cuộc sống cần gì tranh đua, tranh đua làm gì để rồi cả kẻ
hiền và người ngu cũng chỉ còn lại một nấm mồ mà thôi. Tất cả rồi sẽ quy về một
chữ “vô”.
Khi Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc, đứng trước đài đá chia kinh của người xưa,
ông đã một lần nữa nghiệm ra bản chất của cái gọi là “hữu”, cái gọi là “vô”. Thái tử
Lương Chiêu Minh đời nhà Lương ở Trung Quốc khi đọc được kinh Kim Cang đã
lĩnh hội được ý chỉ nên quyết định chia quyển kinh làm ba mươi hai phần nhằm
giúp cho người đọc dễ nhận biết và thấu hiểu. Nguyễn Du lại không nghĩ như vậy,
đến trước đài đá mà thái tử nhà Lương chia kinh, cụ đã nói:
Thái tử niên thiếu nịch ư văn
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân
Phật bản thị không, bất trước vật
Hà hữu hồ kinh, an dụng phân?
(Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài)
(Thái tử tuổi trẻ, mê đắm văn chương,
Gượng làm chuyện chia kinh, chỉ thêm rắc rối.
Phật vốn là không, không dính gì đến mọi vật,
Có dính dáng gì đến kinh mà phải chia?)
Cụ Nguyễn chính là không đồng tình với hành động chia kinh của thái tử
Chiêu Minh. Nếu đã thấu hiểu chân lí của nó thì hà cớ gì mà lại đem kinh ra chia.
Tất cả đều là không, không có bất cứ thứ gì thật, “Phật vốn là không”, vậy thì tất
nhiên cả kinh sách cũng coi là không. Đã là không mà còn mang chia, chứng tỏ vị
thái tử họ Lương chưa thật thông suốt, vẫn còn chấp vào sách vở, câu chữ, chưa
thật sự lĩnh ngộ được cái gọi là “Phật bản thị”. Cái gọi là “chân kinh” chính là cái
“vô tự”. Cách nói này đã trở thành cách nói quen thuộc của nhà Phật, “bồ đề bản vô
89
thụ”, vô khổng địch (sáo không lỗ), vô huyền cầm (đàn không dây), vốn là không
nhưng tận cùng của không lại là có, là giải thoát. Nguyễn Du đến trước đài “phân
kinh”, nghe câu chuyện của thái tử Chiêu Minh đã ngộ ra chân lí của nhà Phật, “vô
thị tự chân kinh”.
Một khi đã thấu hiểu được chân lí thì con người sẽ hiểu tại sao đối với mọi thứ
trong cuộc sống hiện thực đều không nên quyến luyến, bởi lẽ tất cả là hư vô, “chư
hành vô thường, chư pháp vô ngã, niết bàn tịch diệt”. Điều này có nghĩa là tất cả
mọi sự vật hiện tượng trên thế giới đều vận động theo quy luật, biến đổi không
ngừng, cuối cùng sẽ tan biến, và một vòng tuần hoàn như vậy sẽ kéo dài đến vô tận.
Vận động rồi mất đi, mất đi sẽ lại sinh ra và vận động, hoa nở rồi hoa tàn, tàn
rồi lại nở, đông qua xuân tới, rồi lại đông tới xuân qua. Như vậy con người làm chi
phải lấy làm khổ sầu trước vòng quay tuần hoàn ấy của vũ trụ:
Sơn thượng hữu đào hoa
Xước ước như hồng ỷ
Thanh thần lộng xuân nghiên
Nhật mộ trước nê chỉ
(Hành lạc từ 2 )
(Trên núi có hoa đào
Mềm mại như lụa đỏ
Sớm mai cợt đùa sắc xuân đẹp
Chiều tối dính bùn nhơ)
Ngắm hoa đào trên núi, trước cảnh hoa đẹp sớm còn khoe sắc với nắng xuân,
tối đến rơi rụng trên bùn lầy, Nguyễn Du dẫu có buồn nhưng ông biết đây là lẽ
thường của cuộc đời, là quy luật vận động của tự nhiên. Thiên nhiên tuân theo quy
luật đó, con người cũng không ngoại lệ:
Hảo hoa vô bách nhật
Nhân thọ vô bách tuế
(Hành lạc từ 2 )
(Hoa đẹp chẳng trăm ngày
90
Người thọ chẳng trăm tuổi)
Nguyễn Du sống để trả lời cho những tâm sự nặng trĩu về cuộc sống, ông
không dứt bỏ cuộc sống nhưng biết chân lí của cuộc đời nên sống có chừng mực,
không tham, không cầu và cũng không quá luyến tiếc với những gì phù phiếm
trong cuộc đời:
Thế sự phù trầm hưu thán tức
(Thăng Long 2)
(Thế sự nổi chìm thôi đừng than thở)
Mà hãy sống có chừng mực, sống chậm để không bị cuốn vào vòng tranh đấu
danh lợi hư ảo:
Đào hoa mạc trượng đông quân ý
Bàng hữu phong di tính tối toan
(Ngẫu thư công quán bích 2)
(Hoa đào chớ cậy chúa xuân yêu
Bên cạnh có dì gió tính rất chua ngoa)
Đôi khi để có thể thanh thản, Nguyễn Du cũng như bao nhà sư của chốn
Không môn, tạm quên thế sự, làm một con người “vong ngôn”, im lặng để tâm hồn
dịu lại, để toàn tâm thưởng thức vẻ đẹp cuộc sống:
Hoàng hoa lục trúc lưỡng vong ngôn
(Tái thứ nguyên vận)
(Hoa vàng và trúc xanh cả hai đều quên nói)
Nguyễn Du không có ước mong giải thoát khỏi trần thế, ông tìm đến nhà Phật
chỉ để giải tỏa những nghi vấn về bản chất cuộc đời cũng như tìm đến một chốn tựa
nương cho tinh thần trong thời cuộc sóng gió. Dẫu có muốn ông cũng khó mà theo
chân các nhà sư hòa vào núi xanh, ông chỉ có thể ngắm từ xa và thẹn thùng. Về căn
bản chất Nho trong con người Nguyễn Du vẫn rất đậm, mối nợ với cuộc đời, với
nghiệp công danh vẫn luôn day dứt, vẫn băn khoăn. Có lẽ vì chính cả bản thân
Nguyễn Du là người đa sầu đa cảm, trước thế thái nhân tình ông không buông bỏ
được. Phật giáo vì vậy chỉ có ảnh hưởng đối với Nguyễn Du trong cách nhìn đời,
91
nhìn người và xoa dịu nỗi lòng. Trong suốt 250 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du người
đọc hầu như không thể tìm ra bài thơ nào hoàn toàn thanh thoát theo tinh thần “phá
chấp” của Thiền tông, Nguyễn Du “phá” hết mọi “chấp” trừ nỗi đau đời là không
buông bỏ được.
Vương Duy khác với Nguyễn Du, thơ ông không bàng bạc chất Thiền mà đậm
đặc chất Thiền. Không chỉ có những bài thơ sử dụng Thiền ngữ để diễn tả trực tiếp
ý chỉ nhà Phật mà ngay cả những bài thơ sơn thủy, tả cảnh thiên nhiên cũng tỏa ra ý
vị Thiền sâu sa. Xét về cuộc đời, cách sinh hoạt thì Vương Duy đúng với bản chất
của một cư sĩ tu đạo tại nhà. Vương Duy tên tự là Ma Cật, tên này được lấy từ tên
vị đại sĩ Duy Ma La Cật hay Duy ma Cật. Theo Vũ Thế Ngọc thì Vương Duy lấy
hiệu là Duy Ma Cật để tự noi gương đại bồ tát Duy Ma Cật (Vimalakirti) nghĩa là
Tịnh Danh, là một vị đại bồ tát nhưng vẫn sống cuộc sống của một cư sĩ, “thân tại
thế gian” nhưng “tâm bất tại thế gian”. Vương Duy đích thực là một người có lối
sống của cư sĩ, theo Phật tại gia. Sau khi vợ chết ông không tục huyền mà ở vậy,
ông mua một ngôi nhà ở Võng Xuyên và ngoài thời gian ở triều đình thì ông sống
thanh nhàn tại đây. Nhiều giáo trình nói về tiểu sử Vương Duy đã nhận xét rằng
Vương Duy “tín đạo Phật, mỗi ngày đều ăn chay, tụng kinh” [33], hay “chuộng đạo
Phật, ăn trường trai” [30]. Với Vương Duy, Phật giáo không chỉ là niềm yêu thích,
ông là một đệ tử chốn Thiền môn, cái tâm hướng về cửa Thiền được ông nói đến
nhiều lần bằng Thiền ngữ mang bản chất của nhà Phật:
Nhất sinh kỉ hử thương tâm sự
Bất hướng Không môn hà xứ tiêu ?
(Thán bạch phát)
(Một kiếp người có bao nhiêu là chuyện đau lòng
Không hướng về cửa Không thì biết tiêu sầu ở đâu?)
Hoàng Kim bất khả thành
Dục tri trừ lão bệnh
Duy hữu học Vô Sinh
(Thu dạ độc tọa)
92
(Vàng ròng, chẳng thể luyện đồng thau mà làm ra được
Muốn biết cách theo Đạo “Vô Sinh” (Đạo Phật))
Bản chất của cuộc đời, của con người quy lại về hư vô, về một chữ “vô”.
Vương Duy đã dùng các từ ngữ ám chỉ trực tiếp bản chất của Đạo như: “Không
môn” (Thán bạch phát), “đạo Vô Sinh” (Thu dạ độc tọa), thân thế là “Không hư”
(Phạn Phúc Phủ sơn tăng), “Không bệnh không” (Hạ nhật quá Thanh Long tự
yết Thao thiền sư), …Bộ kinh Duy Ma Cật hay còn có tên gọi khác là kinh Bất khả
tư nghị giải thoát nghĩa là mọi sự không thể nghĩ ngợi và bàn luận, đó chính là giải
thoát. Tất cả quy về “tính không”, cần gì phải nghĩ bàn. Vương Duy luôn hướng
tâm hồn mình về “tính không” ấy. “Tính không” – “không tính” là khái niệm trung
tâm của đạo Phật nghĩa là trống rỗng, trống không, xem vạn sự là Không, Không là
vạn sự. Điều này không có nghĩa phủ nhận vạn sự, sự vật vẫn tồn tại song nó chẳng
qua chỉ là những biểu hiện quá trình của một thể tính mà thôi. Vương Duy xuất
phát từ việc hướng tâm đến chốn Không môn, xem thân thế là hư không và hơn nữa
cảnh giới mong muốn đạt được chính là “không tịch”. Cảnh giới trong thơ sơn thủy
của Vương Duy chính là cảnh giới hướng đến “không tịch”, là “cảnh giới không có
bất cứ tướng trạng nào, không có sinh ra và mất đi, không có sai biệt về đối lập,
vượt thoát thời gian không gian” [41, tr.361].
Cảnh giới đó bắt đầu hình thành từ trạng thái im lặng – tịch lạc tuyệt đối:
Phần hương khan Đạo thư
Nhiên đăng trú dục tận
Minh khánh dạ phương sơ
Dĩ ngộ Tịch vi Lạc
(Phạn Phúc Phủ sơn tăng)
(Thắp nhang cùng xem kinh Phật
Đốt đèn khi ngày gần tàn
Gióng khánh lúc đêm bắt đầu
Đã tỉnh ngộ, nhận ra “Vắng lặng là Vui”)
93
Một không gian đậm chất Thiền được thi nhân khắc họa, con người thong thả
làm việc ngày thường của một đệ tử tâm theo Phật, đốt hương và đọc kinh, khi màn
đêm buông xuống, châm một ngọn đèn và gióng một tiếng chuông có giá trị thức
tỉnh. Tất cả tĩnh mịch, không có một âm thanh nào. Nhưng chính trong khoảnh
khắc tĩnh mịch ấy thì tiếng chuông vang lên cũng là lúc con người “đốn ngộ” và
nhận ra niềm vui từ sự vắng lặng, tĩnh mịch này. Lấy động để tĩnh bật ra, cái tĩnh
vút lên từ nền của cái động, sau đó là sự thức tỉnh của con người rất nhẹ nhàng
nhưng sâu sắc. Ở khoảnh khắc này dường như mọi thứ đều ngưng đọng, thời gian
và không gian cùng dừng tại một giao điểm của “tịch lạc”, không còn biết là chốn
nào, thời gian nào, chỉ có niềm vui ngộ đạo của con người.
Con người trong thơ Vương Duy hướng đến cái tĩnh nên thường xuyên ở trong
trạng thái “vô ngôn”:
Hành đảo thủy cùng xứ
Tọa khan vân khởi thì
(Chung Nam biệt nghiệp)
(Đi tới tận cùng dòng nước
Ngồi xem mây bốc lên)
Tu đạo không nhất thiết phải giương cờ gióng trống, chỉ cần cái tâm tĩnh mịch,
vượt khỏi mọi kiến chấp thế gian. Nhà thơ về ở núi, đi dạo một mình, đến tận cùng
dòng nước lại ngồi lặng im ngắm mây nổi. Chỉ ngồi lặng ngắm mây mà không cần
nói gì, không bàn luận gì. Đây chính là tư thế của con người đã hoàn toàn ngộ đạo,
không vướng bận bụi trần. Đây cũng chính là sự khác biệt nhất giữa Vương Duy và
Nguyễn Du.
Vương Duy hoàn toàn có tâm thái cũng như tư thế của một cao nhân đạt đạo,
những gì ông thể hiện không phải chỉ là ước muốn mà là cuộc sống vui vẻ với đạo.
Nguyễn Du thì khác, dẫu thấu hiểu Phật đạo cũng như bản chất cuộc đời song ông
không thể vượt thoát được hiện thực mà luôn bị giữ lại bởi những niềm riêng và
tâm hồn đa cảm của chính mình. Nhà thơ đã biết quy luật cuộc đời, biết rằng “thế
sự đa duy si”, biết rằng kiếp người không nên lo âu, tham vọng hay lo âu mà hãy
94
nên “phù sinh hành lạc sự”. Song cả cuộc đời nhà thơ, ông chưa từng được một lần
làm điều đó. Cứ mỗi lần Nguyễn Du muốn để bản thân được tìm vui thì chính bản
thân ông lại có lí do để ngăn chặn cái ý muốn ấy, khi thì tuổi già tóc bạc, lúc thì
hoàn cảnh cuộc sống không cho phép. Ở đây điều cốt yếu chính là Nguyễn Du nói
lên ý muốn của mình nhưng lại bỏ ngỏ vì ông chưa bao giờ làm được điều đó. Nhà
thơ thấu hiểu chân lý của đạo nhưng lấy cái hiểu đó ra thực hành là một điều khó
khăn, ít nhất là đối với chính Nguyễn Du.
Tố Như có quá nhiều thứ phải nghĩ bàn, trong khi đối với Vương Duy, không
có gì phải nghĩ bàn. Cuộc sống là chuỗi những ngày vui đời, và vui đạo:
Vũ trung thảo sắc lục kham nhiễm
Thủy thượng đào hoa hồng dục nhiên
Ưu lậu tỉ khưu, kinh luận học
Ủ lũ trượng nhân hương lí hiền
Phi y đảo tỉ thả tương kiến
Tương hoan ngữ tiếu hành môn tiền
(Võng Xuyên biệt nghiệp)
(Trong mưa mầu cỏ xanh như nhuộm
Hoa đào trên dòng nước đỏ như bốc cháy
Mấy Vị Sư Sãi học Kinh, Luận Nhà Phật
Mấy vị Bô Lão làm gương mẫu cho dân làng
Khoác áo, xoay guốc (đi tìm) gặp nhau
Nói cười vui vẻ trước cánh cổng nghèo)
Không chỉ con người trong thơ Vương Duy hướng về cuộc sống của tâm thái
nhà Phật mà thiên nhiên trong thơ ông cũng thanh thoát, tỏa ra ý vị Thiền, hướng
tới cảnh giới “không tịch”.
Không sơn bất kiến nhân
Đãn văn nhân ngữ hưởng
Phản ảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng
(Lộc trại)
95
(Núi vắng teo không thấy bóng người
Chỉ nghe âm vang tiếng nói
Ánh sáng hắt vào rừng sâu
Lại chiếu lên đám rêu xanh)
Bài thơ hiện lên một không gian vừa rõ nét vừa mờ ảo. Rõ ở chỗ đường nét
của núi, hình dáng của núi sừng sững trước mắt người đọc, rõ ở chỗ màu rêu xanh
không bị nhòa đi bởi cảnh núi rừng âm u, rõ hơn nữa chính là trong rừng sâu vẫn
nhìn thấy tia sáng, ánh sáng vẫn len được vào. Song song đó là cái mờ ảo của núi
vắng không bóng người, âm thanh vang vọng nhưng tiếng nói ấy nghe ảo mờ, ánh
sáng chập chờn, rừng thì sâu. Chính sự mờ ảo này đã tôn lên sự tĩnh mịch, vắng vẻ
của sơn lâm. Một trạng thái tĩnh mịch tuyệt đối.
Thi nhân dường như đang tập trung tuyệt đối mọi giác quan để cảm nhận thiên
nhiên, để dõi theo từng biểu hiện động – tĩnh của tự nhiên. Một nhịp sống rất âm
thầm nhưng sâu kín là hình ảnh ánh sáng hắt lên đám rêu xanh, soi rõ màu xanh của
rêu mà thi nhân vẫn cảm nhận được. Bài thơ có nhiều nghịch lí, mở đầu Vương
Duy viết “không sơn”, núi vắng “bất kiến nhân” nhưng lại nghe vọng đâu đây tiếng
người nói, rừng thì sâu hun hút, ấy thế mà ánh sáng mặt trời vẫn xuyên qua được,
vẫn hắt ánh sáng lên đám rêu. Cái có lại nảy sinh từ cái không, trong cái không là
cái hữu hình hiện ra. Đây chính là mối quan hệ giữa “sắc” và “không”, là cái vô
biên trong tinh thần Phật học chăng? Lấy cái vô để cảm nhận cái hữu đồng thời từ
trong cái hữu lại thấu đạt sâu sắc giá trị của cái không là vậy.
Người đọc dường như phải thật khẽ khàng, chầm chậm bóc tách từng lớp cảnh
vật của bài thơ. Trước khung cảnh này, có lẽ ta phải nín thở nhè nhẹ mà vạch thơ
để bước được vào không gian hư hư thực thực, vừa thoát tục nhưng cũng vẫn luôn
có sự sống này.Ta sợ chính cái tâm động của mình sẽ phá vỡ không gian tĩnh tại
tuyệt vời này, sẽ làm kinh động con người đang hòa lẫn với cảnh vật mà chuyên
chú ngắm cảnh, hòa vào cảnh kia. Nhẹ thôi kẻo…
Nổi bật lên trong bài thơ là con người vô ngôn, vô úy, không cần ngôn ngữ
cũng như không có lo âu. Con người hoàn toàn ở trạng thái thoát khỏi ảnh hưởng
96
của xung quanh mà chỉ chuyên chú vào cảnh vật, thậm chí đã đạt tới trạng thái
hoàn toàn quên, hoàn toàn nhập vào cảnh. Hai cặp đối lập động – tĩnh và hư – thực
thay nhau chuyển hóa để cùng biểu đạt tinh thần của bài thơ. Người đọc nào còn
cảm nhận được rõ rệt đâu là thời gian, đâu là không gian, cái gì được và cái gì mất
đi và như đã hòa cùng thi nhân hướng đến cảnh giới ‘không tịch” ở đây. Không chỉ
riêng Lộc trại mà những bài thơ sơn thủy khác của Vương Duy như Điểu minh
giản, Mộc lan trại, Văn hạnh quán…đều toát lên chất Thiền, đều hướng đến cảnh
giới “không tịch”, thanh thoát.
“Thế giới” được nhìn hoàn toàn bằng giác quan Thiền, bằng cái tâm của người
đạt Đạo:
Liễu thị nam đầu phỏng ẩn luân
Đáo môn bất cảm đề phàm điểu
Khán trúc hà tu vấn chủ nhân
Thành ngoại thanh sơn như ốc lí
(Phỏng Lã dật nhân bất ngộ)
(Đến đầu nam của chợ Liễu, thăm nhà ẩn dật
Tới cổng, không dám đề chữ “phàm điểu”
Ngắm rặng trúc, đâu cần hỏi đến chủ nhân
Núi xanh ngoài thành giống như ở trong nhà)
Bài thơ có nhan đề là đến thăm nhà ẩn sĩ họ Lã, nhằm thông báo về mục đích
của chuyến đi. Nhà thơ đến đầu chợ hỏi thăm nhà ẩn sĩ, tới cửa rồi nhưng không có
người ở nhà. Cũng không đề thơ như người xưa mà quay lại ngắm rặng trúc, ngắm
cổng tre, cảnh vật bên ngoài. Người đọc tuyệt nhiên không thấy sự hụt hẫng hay
khó chịu nào của thi nhân. Vì sao tìm người không gặp mà lại không thấy buồn? Vì
sao ngắm trúc mà không cần hỏi đến chủ nhân? Vậy chẳng phải mục đích của
chuyến đi đã phí hoài sao? Song nếu nhìn bài thơ dưới chân ý của nhà Phật thì
không có gì khó khăn để giải thích. Cổng tre, non xanh, cảnh đẹp bày ra trước mắt,
không gặp dật nhân mà gặp cảnh, vậy thì có gặp dật nhân hay không thì cũng
không buồn, không vui. Nếu con người có tâm thì đông, tây, nam, bắc khắp chốn
97
nhân gian ở đâu chẳng là gặp gỡ. Chính vì vậy không gặp dật nhân cũng là thường,
là nước chảy, hoa rơi, có gì đáng bận lòng, đáng nghĩ bàn. Điều này cũng giống
như nói vạn vật đều có Phật tính, vậy há cần gì phải phân biệt Phật ở chốn nào,
không phải đến tận Thiên Trúc mới gặp Phật, Phật ở ngay trong lòng người đó thôi.
Quả đúng vậy, với Vương Duy, từ con người đến thơ văn đều tỏa ra chất
Thiền, ông lý giải, nhìn đời, nhìn cuộc sống, hay yêu thiên nhiên cũng bằng nhãn
giới nhà Phật. Chất Phật khi thì đậm, khi thì ý vị sâu xa hòa quyện trong từng câu
thơ, từng dòng tâm sự. Nhà thơ đã thật sự vượt thoát khỏi bụi bặm trần thế để
hướng về một thế giới thuần Đạo, cảnh giới của sắc không cũng như chìm vào
trong cõi Phật mà vui sống – cảnh giới mà Nguyễn Du đến cuối cùng vẫn không
thực hiện được:
Thế sự vấn tiều khách
Minh túc trường lâm hạ
Phần hương ngọa dao tịch
Giản phương tập nhân y
(Lam Điền sơn Thạch Môn tỉnh xá)
(Việc đời (bỏ ngoài tai) hỏi mấy chú kiếm củi là đủ
Nằm ngủ khoèo trong rừng già
Đốt nhang nằm chiếu miễn
Hương của hoa khe thơm quận vào áo)
Cả cuộc đời Nguyễn Du vẫn luôn là một nhà Nho về cơ bản, ông cống hiến
thân mình cho nghiệp thư hương để trả nợ văn chương. Tìm đến với Phật giáo ông
muốn tạm thời được “quên” những muộn phiền của thế thái nhân tình. Những khi
chìm vào đạo là những lúc nhà thơ nhẹ lòng đôi chút. Ấy thế nhưng đến sau cùng
mối tâm sự không thể gỡ, Nguyễn Du vẫn không thể thực hiện ước mong vào rừng
nghe tiếng thông reo, không thể vui say quên ngày tháng để mà:
Hữu khuyển thả tu sát
Hữu tửu thả tu khuynh
(Hành lạc từ 1)
98
(Có chó cứ nên giết
Có rượu cứ nghiêng bầu)
Mối hận nam nhi vẫn ngày tháng không tiêu tan, thi nhân đứng giữa trời đất để
tỏ cái bất đắc chí cũng như khối tâm sự nặng nề của một con người chí cao mà
“mười năm chưa rửa được mối hận nam nhi”. Đến cuối cùng thì Nguyễn Du vẫn là
con người nặng nợ đời, nặng tình đời, những ước mong thoát lưới đời ông vẫn
không thực hiện được, vẫn chỉ thèm được như người xưa nằm khểnh bên song cửa
sổ. Thực tại Nguyễn Du vẫn chỉ đau đáu một câu hỏi:
Tiễn nhĩ dã âu tùy thủy khứ
Phù sinh lao lục kỷ thời hưu?
(Đồng Lung giang)
(Thèm được như đàn âu kia theo giòng nước lội đi
Còn cảnh phù sinh vất vả (của ta) đến bao giờ mới thôi?)
Tấm lòng Nguyễn Du muốn được nhàn nhưng vẫn phải tạ từ cùng chim âu vì
không thể làm được, đành lỗi hẹn cùng non xanh:
Trúc thạnh đa tàm phụ nhĩ minh
(Tống nhân)
(Rất thẹn cùng trúc đá vì lỗi phụ lời thề với nó)
Con người trần thế là Nguyễn Du vẫn luôn bị cuốn vào thế sự, ông tự biết
mình đã không thể “hát ngông như thời niên thiếu” được nữa mà giờ đây dẫu “đầu
bạc” vẫn “chỉ mãi lo chuyện cơm áo”. Con người ấy làm sao có thể cắt đứt những
mối dây liên hệ với cuộc đời để mà vượt thoát khỏi trần thế như Vương Duy. Cùng
thấu hiểu Phật đạo nhưng giữa Nguyễn Du và Vương Duy là cả một khoảng cách
lớn trong việc thực hiện lý tưởng ấy.
3.1.2. Tinh thần Lão Trang
Ở trên chúng tôi đã tiến hành phân tích và khảo sát để chỉ ra sự khác biệt đậm
– nhạt của tinh thần Phật giáo trong thơ Vương Duy và thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Có thể thấy rõ rằng dấu ấn Phật giáo trong thơ Vương Duy đậm hơn Nguyễn Du rất
99
nhiều, vậy sự thể hiện ảnh hưởng của tinh thần Lão Trang thì giữa họ có gì khác
biệt?
Ở Vương Duy, con người nhà Phật chiếm ưu thế rõ ràng nhất song không thể
quên rằng dấu ấn của Đạo giáo cũng chiếm một vị trí khá quan trọng. Phật hòa với
Đạo biểu hiện ở tâm thế ẩn dật của thi nhân. Như chúng ta đã biết, Đạo gặp Thiền ở
chữ “vô”. Nhân sinh phải tuân theo tự nhiên, theo chuyển động của trời đất, ở điểm
này Phật giáo không hẹn mà cùng gặp gỡ với Lão Trang. Lão Tử nói: “Nhân pháp
địa; địa pháp thiên; thiên pháp Đạo; Đạo pháp tự nhiên” (Con người lấy đất làm
khuôn phép; đất lấy trời làm khuôn phép; trời lấy Đạo làm khuôn phép; Đạo lấy Tự
nhiên làm khuôn phép) [71, tr.37]. Với Đạo giáo, thế giới tự nhiên là tối thượng,
đây cũng chính là cơ sở nảy sinh thuyết vô vi.
Coi trọng quy luật tự nhiên và hướng về tự nhiên, chính vì vậy một cuộc sống
chốn non xanh đối với người tu hành như Vương Duy là cuộc sống lí tưởng nhất.
Trong 170 bài thơ của Vương Duy chúng tôi thống kê được 54/170 bài ông đề cập
đến chuyện ở ẩn, đến tâm trạng lánh đời về với thôn dã. Đây chính là dấu ấn đậm
nhất của tinh thần Lão Trang nổi lên trong thơ Vương Duy. Nguyễn Du thì lại tiếp
thu tinh thần Lão giáo theo hướng khác, dấu ấn của tinh thần Lão Trang nổi lên
trong thơ ông là chiêm nghiệm về mộng và thái độ “tri túc giả phú”.
Con đường hoạn lộ của Vương Duy cũng khá gập ghềnh, sau loạn An Lộc Sơn
ông không còn quá tha thiết với công danh. Thế sự khiến ông chán ngán:
Trướng trần sự hề đa vi
Trú mã đề song thụ
Vọng thanh sơn hề bất quy
(Tặng Tử trung thư vọng Chung Nam sơn ca)
(Bực vì việc đời nhiều ngang trái
Dừng ngựa bên cây song thụ
Mải ngắm non xanh chẳng về)
Vương Duy đối với thế sự, với phú quý vinh hoa, quan tước là thái độ:
Phù sinh tín như ký
100
Bạc hoạn phù hà hữu
(Tư Thánh tự tống Chấp Nhị)
(Cuộc sống nổi, đúng là cuộc sống gửi (ở đậu)
Chức quan còm có đáng gì đâu)
Việc đời thay đổi, nhân tình thế thái vốn không chừa cá nhân nào, đã bị cuốn
vào vòng xoáy ấy, con người rất dễ quên mất bản thân. Song đối với Vương Duy,
tất cả không bằng ăn một bữa cơm vui vẻ, uống một ly rượu say:
Thế sự phù vân, hà túc vấn
Bất như cao ngọa thả gia xan
(Chước tửu dữ Bùi Địch)
(Việc đời biến thiên như làn mây nổi, đáng gì mà hỏi
Nằm khểnh mà ăn thêm cho no còn hơn)
Chính vì cuộc sống nhân sinh tạm bợ, chỉ là sống nhờ, sống gửi cho nên thi
nhân chỉ muốn tìm về với tự nhiên, muốn cuộc sống an nhàn, ẩn dật nơi thôn cùng
ngõ hẻm. Vương Duy tuy không từ quan nhưng sau những biến cố trong cuộc đời
ông trở thành một người bán quan bán ẩn.
Từ thái độ chán ngán thế sự, Vương Duy hướng đến một cuộc sống chốn non
xanh, vui thú điền viên bất tận:
Thái lăng độ đầu phong cấp
Xách trượng thôn tây nhật tà
Hạnh thụ đàn biên ngư phủ
Đào Hoa Nguyên lí nhân gia
(Điền viên lạc 1)
(Hái súng về bến đò gió gắt
Chống gậy ven thôn lúc mặt trời xế chiều
Bên đàn cây Hạnh kìa ông già đánh cá
Nơi nguồn Đào Hoa kìa nhà dân cư)
Nhà thơ tìm về với thiên nhiên trong tâm trạng thư thái, hưởng an nhàn:
Đào hồng phục hàm túc vũ
101
Liễu lục cánh đái xuân yên
Hoa lạc, gia đồng vị tảo
Oanh đề sơn khách do miên
(Điền viên lạc 4)
(Hoa đào đỏ lại ngậm những hạt mưa cũ
Tơ liễu xanh vẫn đeo những làn khói xuân
Hoa rụng, trẻ nhà chưa quét
Chim oanh hót, người sơn khách còn ngủ)
Trở về với thiên nhiên, thi nhân tinh tế nhận ra những nét đẹp còn e ấp của
thiên nhiên. Hoa đào đỏ sau mưa xuân vẫn còn ngậm những hạt mưa, hàng tơ liễu
xanh vẫn mờ ảo trong làn khói xuân, vẫn quấn quýt đeo bám lẫn nhau. Trong
khung cảnh tự nhiên dịu dàng, tươi tắn song không kém tinh tế ấy, thi nhân mặc
hoa rụng, mặc oanh hót mà say ngủ. Dường như người sơn khách ấy đã hoàn toàn
thoát khỏi cõi trần, đang tiêu dao tự tại trong cơn ngủ say.
Vương Duy luôn nói đến tâm trạng lánh đời cùng mong ước được sống ẩn dật
tại chốn non xanh, ông đặc biệt yêu thích những tấm gương người xưa có lối sống
tìm về tự nhiên như:
Ngũ liễu cao thả sơ
Vọng thử khứ nhân thế
(Hí tặng Trương ngũ đệ 2)
(Năm gốc liễu của chú vừa cao vừa thưa
Có vậy, mà cứ thế từ tạ đời)
Đối với người Trung Quốc, có lẽ không ai là chưa từng nghe qua về Đào Tiềm,
tự Uyên Minh, biệt hiệu là Ngũ liễu tiên sinh. Sở dĩ có tên gọi Ngũ liễu tiên sinh là
do khi Đào Tiềm viết truyện về mình đã nói về bản thân “không biết là người thời
nào, tên họ là gì; bên nhà có trồng năm cây liễu, cho nên lấy hiệu là Ngũ liễu tiên
sinh”. Đào Tiềm là tấm gương người xưa thà chết trong đói nghèo, phải đi xin ăn
cũng không ra làm quan do chán ngán chốn quan trường phải khom lưng trước kẻ
102
tiểu nhân. Ông kiêu hãnh trở về với thú vui ruộng vườn, với thiên nhiên, đọc sách,
làm thơ. Do đó mà Ngũ liễu trở thành danh từ để chỉ những người ở ẩn.
Cuộc sống vui với ruộng vườn song vẫn tham gia triều chính của Vương Duy
khiến người đời khâm phục, ông giữ vững tâm dù cho không cách ly hẳn với cuộc
đời. Có một số ý kiến nhận định về Vương Duy cho rằng thơ ông đề cập quá nhiều
đến chuyện ở ẩn, đến sự lánh đời, cho rằng Vương Duy tiêu cực, yếm thế:
Trước loạn An – Sử, Vương Duy và Đỗ Phủ đều ở Trường An,
nhưng trong những bài như Binh xa hành, Lệ nhân hành v.v…Đỗ
Phủ đã vạch trần tội ác của giai cấp thống trị và có tinh thần phê
phán sâu sắc, còn Vương Duy tuy ở cùng một thời, cùng một chỗ,
nhưng bấy giờ đang sống nhàn hạ, ẩn dật trong biệt thự của mình.
Thái độ tiêu cực xuất thế của ông khiến cho ông ít quan tâm đến
những vấn đề to lớn của hiện thực…” [38, tr.457].
Chúng tôi cho rằng nhận xét như vậy quả thật có mang tính chất chủ quan,
Vương Duy nhàn hạ ẩn dật nhưng một mặt ông vẫn làm tròn chức trách chốn quan
trường. Cuộc sống của ông đâu phải hoàn toàn lánh đời, thêm vào đó, với tư tưởng
nhà Phật cùng tư tưởng Lão Trang thấm nhuần, Vương Duy hướng về thiên nhiên,
còn Đỗ Phủ với tinh thần đậm đặc của một nhà Nho, cách nhìn hiện thực cuộc sống
và thơ văn của ông ắt hẳn phải khác Vương Duy. Nếu so sánh như trên thì bất kì
nhà thơ nào không phản ánh những vấn đề hiện thực to lớn của cuộc sống thì đều là
nhà thơ tiêu cực chăng? Và nếu ai cũng sáng tác như Đỗ Phủ thì làm gì có một Đỗ
Phủ vĩ đại, một Vương Duy Thi Phật và hơn hết là một bức tranh phong phú về thể
loại, đa dạng về phong cách của Đường thi.
Trong thời loạn, mỗi người đều tìm cho bản thân một điểm tựa tinh thần và
hướng mình đi theo điểm tựa ấy. Với Vương Duy, điểm tựa là Phật giáo, Đạo giáo,
cả hai đã hướng thi nhân đến với cuộc sống của một cư sĩ ẩn dật. Ông thường
xuyên nói đến chúng như thể sợ người khác sẽ không hiểu cho mình.
Nguyễn Du không giống với Vương Duy, ông hay nói đến mộng trong ba tập
thơ chữ Hán. Xem cuộc đời như mộng ảo là tinh thần của Đạo gia. Chúng tôi thống
103
kê được Nguyễn Du đã 27 lần nói đến mộng trong 23 bài thơ rải đều trong ba tập
thơ chữ Hán. Dường như hiện thực cuộc sống quá đau khổ, có những điều khiến
con người muốn trốn tránh để đưa vào mộng. Nguyễn Du hay mộng, đến độ tự bản
thân ông cũng lên tiếng:
Tri giao quái ngã sầu đa mộng
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung?
(Ngẫu đề)
(Bạn bè thân thiết lấy làm lạ rằng sao ta hay sầu mộng
Nhưng thiên hạ ai là người không ở trong mộng)
Nguyễn Du cho rằng con người ai cũng ở trong mộng, ai cũng chìm đắm trong
giấc mộng cuộc đời cả. Làm gì có ai thoát khỏi mộng mị đâu, vì sao ư? Vì “nhân
sinh giai như mộng”, tất cả đều sẽ trở về một chữ “vô”, có gì là thật mà không phải
mộng.
Trần thế bách niên khai nhãn mộng
(La Phù giang thủy các độc tọa)
(Cuộc đời trăm năm trên trần thế chỉ là giấc mộng vừa mở mắt)
Thời gian luôn trôi chảy, thời gian trở thành nỗi ám ảnh đối với Nguyễn Du,
ông sợ già, sợ thân yếu bởi có thân nên luôn phải lo:
Táp tải phù sinh hoạn hữu thân
(Mạn hứng 1)
(Cuộc phù sinh ba mươi năm có mối lo vì có thân)
Lão Tử trong Đạo đức kinh đã nói thế này “Hà vi quý đại hoạn nhược thân?
Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?”
(Tại sao nói “Ta có mối lo lớn là vì ta có thân?”. Đó là vì, ta có thân nên có mối lo
lớn, nếu như ta không có thân thì ta có gì phải lo?) [71, tr.25]. Con người sống sở dĩ
phải lo vì con người có thân, mà cái thân là mối lo lớn nhất. Nguyễn Du hiểu điều
này, có lẽ ý nhà thơ muốn nói vì sao ông phải tham gia vào cuộc phù sinh, vào giấc
mộng nhân sinh dù biết bản chất của tất cả. Đó là vì có thân nên phải lo, nếu phủ
nhận thì con người còn ý nghĩa gì trong cuộc đời. Mỗi con người trong cuộc đời
104
luôn phải bươn chải, tranh đấu với nhau há cũng chẳng phải đó là phương thức để
họ lo cho thân mình hay sao?
Nguyễn Du cũng chẳng thể đứng ngoài vòng tuần hoàn vĩnh viễn ấy của cuộc
đời. Song ông cũng không thể tiếp nhận tất cả, Nguyễn Du hay mộng vì thế chăng?
Ngay cả nỗi nhớ người vợ cũng xuất hiện trong mộng (Ký mộng), nhớ anh cũng
tìm trong mộng (Ức gia huynh, Xuân tiêu lữ thứ), nhớ quê ông cũng đưa vào
mộng (Bất mị, Nhiếp Khẩu đạo trung, Tam giang khẩu đường dạ bạc),…Bao
nhiêu mộng mị Nguyễn Du đều trải qua, từ “hư túc mộng”, “tàn mộng” (mộng tàn),
“ngọ mộng” (mộng trưa), “mộng trì” (mộng dài), “Lư sinh mộng” (mộng chàng
Lư) rồi đến “tiêu lộc mộng” (mộng lá chuối dấu hươu), “phồn hoa mộng”, “Hồng
Lĩnh mộng”…Mỗi một lần mộng là một lần ông cảm nhận được bản chất cuộc đời,
mỗi lần mộng là một lần Nguyễn Du sống co mình lại một phần. Có những giấc
mộng về gia đình, quê hương an ủi tâm tình con người tha hương là Nguyễn Du,
song cũng có những giấc mộng về thế sự, công danh khiến người thêm e ngại cuộc
đời và lại chìm vào mộng để tránh nhưng tỉnh mộng thì vẫn phải đối mặt với hiện
thực. Nguyễn Du càng mộng thì hiện thực cuộc sống, nỗi đau nhân thế càng ăn sâu
vào tâm hồn ông, bởi mộng dù có lạ lùng tới đâu cũng đều có nguồn gốc từ hiện
thực cuộc sống, là sự phản ảnh có điều kiện của cuộc sống.
Với nỗi lo có thân, Nguyễn Du cũng học tập thái độ sống tích cực từ Lão
Trang đó là thái độ “tri túc giả phú” (người biết đủ thì giàu). Giàu ở đây không hẳn
là giàu về vật chất mà là hơn người, biết mình và biết người để mình sống được
thanh thản hơn. “Tri nhân giả trí; tự tri giả minh. Thắng nhân giả hữu lực; tự thắng
giả cường. Tri túc giả phú, cưỡng hành giả hữu chí.” (Kẻ biết người là có chí; kẻ
biết mình là sáng suốt. Kẻ thắng người ta là có sức; kẻ tự thắng mình là mạnh. Kẻ
tri túc (tự cảm thấy đủ) thì giàu; kẻ cố gắng thực hiện (Đạo) là người có chí) [71,
tr.45]. Tiếp nhận tinh thần trên, trong thơ chữ Hán Nguyễn Du đã nói khá nhiều lần
đến thái độ tri túc – biết đủ và giữ mình trong cuộc đời. Trong 250 bài thì có 14 lần
thi nhân thể hiện quan điểm sống tích cực trên của Lão Tử. Những ngày lưu lạc xa
quê, lo nghĩ vì thân đã già, nhà thơ tự nhủ:
Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục
105
Loạn thế toàn sinh cửu úy nhân
(U cư 1)
(Ở nơi đất khách nên dưỡng cái vụng về để phòng thói đời
Sống đời loạn muốn bảo toàn sinh mệnh nên từ lâu phải sợ người)
Ở đất khác nên phải vờ vụng về, không tranh đua phòng thói đời khó lường,
tuổi đã già nên sinh ra sợ người. Vì đã già không còn sức để tranh đua với đời, với
người hay vì già nên sinh ra e ngại? Có lẽ không phải vậy, một người đọc nhiều
hiểu rộng như Nguyễn Du ắt hẳn phải hiểu thế nào là thời cuộc. Ông đã biết đây là
thời loạn, có điều gì mà không thể xảy ra. Gia tộc họ Nguyễn ở Tiên Điền với
truyền thống quý tộc, nhiều đời làm quan to, đến nỗi dân gian có câu ca ngợi:
Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước, họ này hết quan
Chính bản thân Nguyễn Du thời thơ ấu cũng đã sống một cuộc sống phú quý,
được nuôi dưỡng để theo nghiệp văn chương, phục vụ cho triều đình. Thế nhưng
nhà Lê sụp đổ, kéo theo đó là sự thảm bại của chúa Trịnh, rồi lại đến Tây Sơn, cuối
cùng là nhà Nguyễn lên ngôi. Giai cấp thống trị lần lượt hoán đổi, con người sống
trong thời loạn nếu không khéo giữ mình thì sao còn lo mối lo “thân”. Tuổi già đi
kèm với bệnh tật, không giấu mình thì còn biết làm sao? Và Nguyễn Du phải giấu
bằng cách im lặng “giam mặc tàng sinh lão bệnh dư’ (sau hồi bệnh già phải sống
giấu mình bằng cách giữ im lặng). Những năm tháng ra làm quan cho nhà Nguyễn
ông cũng vẫn giữ thái độ biết mình, biết tự thỏa mãn và hài lòng, không xâm phạm
đến cái gọi là tính tự nhiên tránh “chân con le bị nối dài”. Chính vì tự biết đủ nên
Nguyễn Du nhìn ra sự khốc liệt, tranh đấu chốn quan trường, lòng người hiểm ác
được che đậy đằng sau cái vỏ đẹp đẽ:
Ngoại lộ văn chương thể
Trung tàng sát phạt ky
(Khổng tước vũ)
(Mã ngoài lộ ra vẻ đẹp
Bên trong chứa chất độc giết người)
106
Có tài chớ nên cậy được yêu bởi bên cạnh hoa đẹp lúc nào cũng có dì gió chua
ngoa, sẵn sàng tàn hại khiến cho hoa không còn tươi đẹp được nữa. Thái độ ấy kéo
theo cách ứng xử nhún nhường, “vô bệnh cố câu câu” (không bệnh mà lưng khom
khom). Nguyễn Du đã nêu lên một triết lí nhân thế “tri túc chi chỉ”, khi con người
biết đủ, đã cảm thấy giàu thì cần phải biết dừng, biết nên tiến hay thủ, chớ có lún
sâu mà chuốc lấy họa sát thân qua câu chuyện về con chó bị chết:
Niệm nhĩ thuộc thổ súc
Dữ nhân mao cốt đồng
Tham tiến bất tri chỉ
Vẫn thân hàn sơn trung
Vẫn thân vật thán uyển
(Điệu khuyển)
(Nghĩ mày thuộc giống gia súc
Lông xương cũng như người
Ham tiến không biết dừng
Bỏ mình trong núi lạnh
Bỏ mình chớ oán than)
Nguyễn Du làm quan được thăng chức liên tục, nhà Nguyễn vô cùng tin dùng
ông. Ông được cử đón tiếp sứ bộ rồi lại cử đi sứ, tuy vậy ông lại hay cáo bệnh xin
về, không xu nịnh mong thăng tiến mà khiêm tốn:
Bất tài đa khủng tốc quan phi
(Giang đầu tản bộ 1)
(Bất tài nên hay sợ rước lấy sai lầm trong việc quan)
Nếu nói rằng Phật giáo đối với Nguyễn Du là cơ sở để ông lí giải cuộc đời và
để xoa dịu tâm hồn thì Đạo giáo là cơ sở để ông hành xử với bản thân và đối với
cuộc đời. Đó chính là lối sống biết dừng đúng lúc, biết thế nào là đủ với sức lực để
bảo toàn cho “thân” không bị nhuốm bụi trần.
Tóm lại, Nguyễn Du và Vương Duy đều chịu ảnh hưởng ít nhiều của Đạo giáo,
song mỗi người lại biểu hiện một khía cạnh khác nhau của sự ảnh hưởng ấy. Với
107
Vương Duy, Đạo và Phật đã hòa vào nhau, ông hướng về cuộc sống ẩn dật, nhàn
tàn với núi non, kinh kệ đến cuối đời sống trong niềm vui thư thái. Ngược lại,
Nguyễn Du lại tìm đến Lão Trang để lí giải những nỗi niềm của bản thân về cuộc
đời, để tìm nơi tạm nghỉ cho tâm hồn đã quá mệt mỏi với thế sự cũng như thái độ
“tri túc” đúng đắn để ứng xử với chính nó. Nguyễn Du tìm đến Lão Trang để cho
phép bản thân buông nhẹ một tiếng thở dài rồi lại quay trở về hiện thực cuộc sống.
Thơ ông đúng với nhận xét của GS Lê Đình Kỵ: “Thơ chữ Hán ít có bài nào có thể
coi là thanh thoát, u nhàn. Ngay khi nói đến chuyện thoát trần, trong âm hưởng
câu thơ Nguyễn Du vẫn nghe thấy được cái ba động của cuộc đời” [31, tr.82].
Như vậy, cả Nguyễn Du và Vương Duy đều thể hiện dấu ấn của Phật giáo và
Lão giáo trong thơ của mình. Ở Vương Duy chất Phật đậm đặc hơn và hòa quyện
với Lão. Ở Nguyễn Du chất Phật bàng bạc thể hiện cái nhìn đúng đắn của ông về
bản chất trần thế, tư tưởng Lão Trang có vẻ đậm hơn song cũng không quá đậm
như trong thơ Vương Duy. Cả hai có những khác biệt nhất định trong mức độ tiếp
nhận tinh thần của Đạo và Phật, song chúng tôi nhận thấy rằng cả hai thật sự đã
“lấy Phật trị tâm, lấy Đạo trị thân, lấy Nho trị đời” (vua Hiếu Tông Triệu Thấn nhà
Nam Tống) [70, tr.24].
3.2. Cảm hứng về thiên nhiên
Nếu nói đến sự khác biệt rõ rệt nhất giữa Vương Duy và Nguyễn Du thì chúng
tôi cho rằng sự khác biệt ấy phải là sự khác biệt trong cách xây dựng hình tượng
thiên nhiên, và thái độ đối với thiên nhiên từ cảm hứng riêng của mỗi người.
3.2.1. Vương Duy – hòa vào thiên nhiên
Vương Duy với tư cách là người đại diện tiêu biểu cho trường phái Sơn thủy
điền viên, kết hợp với tư tưởng phóng khoáng thoát tục của nhà Phật, tư tưởng
hướng về tự nhiên của Lão Trang nên tình yêu thiên nhiên trong thơ ông là vấn đề
không cần bàn cãi. Vương Duy hoàn toàn hòa mình vào thiên nhiên, dành trọn vẹn
tình yêu cho thiên nhiên. Xuyên suốt các bài thơ của Vương Duy, hình ảnh thiên
nhiên luôn hiện hữu bên cạnh con người, không chỉ vậy nó còn nhiều lần “vượt
quyền”, đẩy con người ra khỏi vị trí trung tâm và độc chiếm vị trí độc tôn trong thơ.
108
Vương Duy mượn thiên nhiên để nói Đạo, nói đời, nói tấm lòng nhung nhớ quê nhà
và cả cuối cùng thể hiện tình yêu đối với thiên nhiên, sông núi. Chúng tôi tiến hành
khảo sát và thống kê được 54/170 (khoảng 32%) bài thơ Vương Duy lấy thiên
nhiên làm đối tượng chính tức là hình ảnh thiên nhiên lấn át tất cả những yếu tố
khác, đồng thời con người hòa vào cảnh vật, đạt đến trạng thái “vô ngã chi cảnh”.
Trong số đó có những bài thơ đại diện cho phong cách thi tăng của Vương Duy
như: Điểu minh giản, Lộc trại, Mộc lan sài, Trúc Lí quán, Văn hạnh quán, Tân
Di ổ…
Vương Duy ở đằng sau cảnh vật say sưa ngắm cảnh, ngâm ngợi và hòa tan bản
thân vào thiên nhiên.
Mộc mạt phù dung hoa
Sơn trung phát hồng ngạc
Giản hộ tịch vô nhân
Phân phân khai thả lạc
(Tân Di ổ)
(Hoa phù dung nơi ngọn cây
Giữa núi nẩy những đài đỏ
Cửa bên khe núi vắng teo không bóng người
Bời bời hoa cái nở, cái rụng)
Chỉ với bốn câu thơ ngắn song bức tranh thiên nhiên mà Vương Duy vẽ ra quả
có sức hút mạnh mẽ với giác quan người đọc. Thị giác bị tác động bởi màu đỏ của
đài hoa, thính giác dường như lắng xuống để có thể cảm nhận được âm thanh rơi
rụng nhịp nhàng, bời bời của hoa. Không gian núi vắng vẻ không bóng người đã
tạo nên sự tĩnh mịch và êm ái, cũng như rộng lớn là thế giới riêng của những cánh
hoa thi nhau nở rồi rụng. Người đọc dường như có thể thoải mái hình dung ra
khung cảnh khe núi nơi có vô số đài hoa đỏ nở rực rỡ và rụng bời bời, trải đầy trên
mặt đất. Nơi đây không có bóng người nhưng người đọc vẫn cảm nhận được có
một đôi mắt đang ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời này từ xa với ánh
mắt dịu dàng, đằm thắm. Cùng một hình ảnh cánh hoa rơi, nếu người hữu ý thì thấy
109
hoa bay bay nhè nhẹ rất đẹp, song nếu là người vô ý thì nào cảm nhận được gì từ
chi tiết nhỏ nhặt ấy. Chính vì vậy để viết được những dòng thơ thanh thoát này, đôi
mắt thi nhân phải chứa chan tình cảm với đối tượng mà mình đặt bút vào. Bên cạnh
đó, đọc thơ chúng ta có thể nhận thấy, thiên nhiên không chỉ là đối tượng để thi
nhân ngắm nhìn, nâng niu, mà thiên nhiên còn là đối tượng để thi nhân suy ngẫm,
triết lý. Nhìn những cánh hoa sớm nở tối tàn nơi núi vắng, Vương Duy cũng đồng
thời nhìn được quy luật của tự nhiên. Sự vận động ấy là vô hạn, trong khi cuộc đời
con người là hữu hạn. Có người hay không hoa vẫn cứ nở rồi rụng, chỉ có con
người mất đi rồi sẽ không thể ngắm hoa được nữa mà thôi. Nếu đã vậy thì sao
không bỏ hết sầu lo mà thưởng thức vẻ đẹp vĩnh hằng của tự nhiên, cuộc đời hữu
hạn của con người liệu được bao lăm mà ngần ngại.
Có đôi lần thi nhân mải mê ngắm cảnh nên đã quên cả lối về:
Ngôn nhập Hoàng Hoa Xuyên
Mỗi trục Thanh khê thủy
Tùy sơn tương vạn chuyển
Chiếp đồ vô bách lý
Thanh huyên loạn thạch trung
Sắc tĩnh thâm tùng lí
Dạng dạng phiếm lăng hành
Trừng trừng ánh hà vĩ
Ngã tâm tố dĩ nhàn
Thanh xuyên đạm như thử
Thỉnh lưu bàn thạch thượng
Thùy điếu tương dĩ hĩ
(Thanh khê)
(Mỗi lần vào Hoàng Hoa Xuyên
Là theo dòng Thanh khê
Quanh theo núi chuyển hướng rất nhiều lần
Mới qua được chưa đầy trăm dặm đường
110
Tiếng ồn ào vang dội giữa muôn tảng đá
Một mầu im chìm giữa những cây thông xanh
Dọc súng đong đưa trên mặt nước
Dòng nước trong soi bóng những tàn sen cụm lau
Lòng ta vốn an nhàn điềm đạm
Con sông trong cũng in như thế
Xin dành cho một chỗ ngồi trên bàn đá
Để lấy chỗ buông câu cho rồi)
Bài thơ thật đáng yêu, đáng yêu ở câu chuyện say mê thiên nhiên mà Vương
Duy thuật lại. Đi đến con sông Hoàng Hoa xuyên phải ngang qua Thanh khê, nhà
thơ đắm mình vào khung cảnh trên đường đi: núi quanh co, nước sông trong vắt,
hoa súng đong đưa hữu tình, cụm lau in bóng xuống dòng suối trong…Ấy vậy,
cảnh trong sáng, thanh mát và nhàn tản như tâm tình thi nhân. Ông tự nhận lòng
vốn nhàn sẵn, tiện cảnh đẹp xin buông câu ngồi một chỗ hà cớ gì phải đi đâu nữa.
Thật ra ngồi trên đá buông câu chỉ là cái cớ mà thôi, với tâm hồn Vương Duy thì
không cần buông câu mà chỉ cần thả mình xuống đá, ngồi lặng một chỗ và thưởng
thức phong cảnh thôi là quá đủ để quên hết mọi thứ, ngay đến lối về cũng không
bận tâm dù quanh co nhiều lần.
Thiên nhiên trong thơ Vương Duy luôn là người bạn thân thiết với ông:
Độc tọa u hoàng lí
Đàn cầm phục trường khiếu
Thâm lâm nhân bất tri
Minh nguyệt lai tương chiếu
(Trúc Lí quán)
(Ngồi một mình trong đám tre rậm
Gảy đàn cầm lại huýt sáo
Rừng sâu không ai biết tới
Chỉ có vầng trăng sáng soi)
111
Thú vui của con người trong bài thơ là ngồi một mình gảy đàn và huýt sáo,
nhưng không gian lại khá đặc biệt. Chính là ngồi thực hiện những thú vui ấy chỉ
một mình trong rừng tre rậm rạp không bóng người. Nơi rừng sâu không có ai biết
đến con người đang gảy đàn và huýt sáo kia. Con người đã tách ra khỏi cuộc sống
thường nhật mà chọn thiên nhiên làm nơi nghỉ ngơi, không cần ai biết đến, chỉ có
“minh nguyệt lai tương chiếu”, là chỉ có ánh trăng sáng cùng soi vào con người mà
thôi. Và trong không gian ấy, cũng chỉ có người và trăng là trung tâm đối diện với
nhau, cùng nhau hưởng thụ không gian thiên nhiên trong trẻo, tuyệt đối tĩnh mịch
và xa vắng này. Người đã lẫn với cây cỏ, tiếng đàn đã hòa với ánh trăng, cùng cỏ
cây và người. Tất cả tạo nên một thể hòa hợp thống nhất giữa thi nhân và thiên
nhiên, tạo nên mối quan hệ khăng khít thâm giao giữa con người và thiên nhiên
vậy. Vương Duy thân thì ở triều đình nhưng tâm hồn bao giờ cũng hướng về chốn
rừng sâu, nơi có non xanh nước biếc, có hoa rơi, chim hót. Làm thơ về thiên nhiên
Vương Duy không dùng ngôn ngữ chau chuốt, không tô bóng ảnh vật, song chính
nhờ sự giản dị, Vương Duy đưa vào thơ những gì chân thật nhất, tự nhiên nhất,
cũng là đẹp đẽ nhất của tạo vật.
Thiên nhiên trong thơ Vương Duy đa phần là những hình ảnh trong sáng, tĩnh
nhàn. Trong 170 bài thơ Vương Duy mà chúng tôi khảo sát thì chỉ có hai lần nhà
thơ miêu tả thiên nhiên với sắc thái mạnh mẽ (trong hai bài thơ là Loan Gia lại và
Hán giang lâm phiến). Trong bài Loan Gia lại, Vương Duy viết:
Táp táp thu vũ trung
Thiển thiển thạch lưu tả
Khiêu ba tự tương tiễn
Bạch lộ kinh phục há
(Loan Gia lại)
(Trong tiếng mưa thu sầm sập
Từ kẽ đá nước chảy ra thành dòng sông
Sóng chờm tung tóe lên nhau
Cò trắng sợ, bay lên lại sà xuống)
112
Thiên nhiên trong bài thơ ở trạng thái luôn động. Đó là nước chảy từ lòng đá ra
thành sông, mưa rơi và gió thổi. Sóng nước vì mưa và gió nên bắn tung tóe. Điều
đó khiến cho chú cò trắng đang đậu phải giật mình bay lên rồi sà xuống. Trong bức
tranh thiên nhiên chỉ toàn những động thái ấy người đọc lại cảm nhận được cái tĩnh
lặng tuyệt đối. Đó chính là cái tĩnh lặng của thi nhân đang đứng ngoài quan sát kia.
Thi nhân hẳn phải rất chú tâm cũng như rất tinh tế và tĩnh tâm tuyệt đối thì mới
nhìn ra trong bao nhiêu cái ba động ấy sự sợ hãi của con cò. Con cò giật mình vỗ
cánh bay lên. Cái sự giật mình vì kinh sợ ấy hẳn là diễn ra rất nhanh chóng, để có
thể thu được vào tầm mắt chút diễn biến nhanh chóng ấy chắc chắn Vương Duy
phải tập trung hết tinh lực cũng như khả năng cảm nhận tinh tế đối với tự nhiên.
Như vậy bài thơ là thiên nhiên với những sắc thái linh động song người đọc lại nhìn
ra cái tĩnh lặng tuyệt vời của chủ thể trữ tình đằng sau cảnh vật ấy. Nó khiến cho
những sắc thái cảm giác mạnh kia chuyển sang nhẹ nhàng và êm dịu bất ngờ.
Hầu như không có những đối tượng thiên nhiên khiến con người lâm vào lo
buồn, sợ hãi như trong thơ Nguyễn Du. Ngay cả khi Vương Duy viết về những hình
ảnh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông thì con người cũng không cảm thấy xa lạ,
hoảng sợ:
Sở tái tam Tương tiếp
Kinh môn cửu phái thông
Giang lưu thiên địa ngoại
Sơn sắc hữu vô trung
Quận ấp phù tiền phố
Ba lan động viễn không
(Hán giang lâm phiếm)
(Nơi ải Sở, ba dòng Tương gặp nhau
Tới Kinh Môn, chín nhánh chụm lại
Dòng sông chảy (như ở) ngoài trời đất
Mầu núi (lờ mờ) giữa “có” và “không”
Quận ấp nổi trên bãi sông trước
113
Sóng vỗ tận chân trời xa)
Hiện lên trước mắt người đọc là khung cảnh núi sông hùng vĩ. Có thể hình
dung được nhà thơ đang ngồi thuyền trên sông Hán và xuôi về Trường giang. Nhà
thơ miêu tả địa thế ba sông chụm lại rồi sông Trường giang từ Lư Giang lại chia ra
làm chín nhánh chảy xuôi. Dòng nước mênh mông, rộng lớn tựa như vượt khỏi
ranh giới trời đất, nhà thơ nhìn thấy quận ấp chìm trong nước. Núi cao, sông rộng,
nước xiết là vậy song tư thế của con người thật sảng khoái:
Tương Dương hảo phong nhật
Lưu túy dữ Sơn ông
(Hán giang lâm phiếm)
(Nắng gió ở Tương Dương đẹp
Ở lại mà say cùng ông Sơn)
Chính cái tư thế sảng khoái, phóng khoáng cùng say giữa trời đất mênh mông
rộng lớn ấy đã tạo nên khí khái hào hùng, lãng mạn cho bài thơ. Có thể thấy trong
bất kì hoàn cảnh nào Vương Duy cũng nhìn thiên nhiên với đôi mắt hòa hợp, nâng
niu và dành một tình yêu sâu đậm với thiên nhiên, luôn hòa quyện bản thân vào non
xanh để tìm thấy chính mình.
Có thể kết luận rằng đối với Vương Duy thì thiên nhiên là chốn thần tiên lí
tưởng nhất, là bồng lai tiên cảnh cũng như đất Phật. Bởi chỉ cần hòa mình vào thiên
nhiên là mọi ý niệm phức tạp trong con người Vương Duy tan biến hết, thay vào đó
là trạng thái vượt thoát hoàn toàn hòa nhập với lí tưởng của đạo mà thi nhân yêu
mến. Đây là điểm khác biệt lớn so với Nguyễn Du. Còn Nguyễn Du với tấm lòng
khắc khoải, nặng tình người, tình đời nên thiên nhiên không dành được trọn vẹn
tâm hồn thi nhân. Không chỉ vậy đối với Nguyễn Du thiên nhiên là đối tượng hoàn
toàn có vị trí độc lập với ông, thiên nhiên được Nguyễn Du tả thật với tất cả những
cái đáng sợ vốn có của nó. Cảm hứng đối với thiên nhiên của Nguyễn Du mang
tính khách quan.
114
3.2.2. Nguyễn Du – tả thực và độc lập với thiên nhiên
Trong khi Vương Duy hòa mình vào thiên nhiên thì Nguyễn Du lại thể hiện
một thái độ khác với thiên nhiên. Không phải Nguyễn Du không yêu thiên nhiên,
yêu lắm chứ, thiên nhiên quê nhà đã đủ để “ngâm ngợi”, trăng luôn theo ông trong
mọi hoàn cảnh kia mà. Thế nhưng Nguyễn Du không hòa tan bản thân vào thiên
nhiên như Vương Duy, ngược lại thi nhân đứng ngoài mà quan sát thiên nhiên một
cách độc lập và tả thực một cách khách quan với những gì vốn có của nó. Thiên
nhiên trở thành đối tượng để ông suy ngẫm, đánh giá, và thiên nhiên cũng lạnh
lùng, hờ hững không hòa điệu với con người.
Con người u buồn, nhưng không nhận được sự đồng cảm của thiên nhiên:
Nhân tự bi thê thảo tự thanh
Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng
(Thanh minh ngẫu hứng)
(Người cứ buồn thương, cỏ cứ xanh
Ngày xuân nhưng thân mình không còn trai trẻ nữa)
Thiên nhiên không những không thông cảm, mà ngược lại nó đang vào độ
khoe hết vẻ đẹp vốn có của mình. Người buồn thương, nhưng cỏ vẫn cứ xanh, cứ
tươi tốt, cứ mọc lan phủ khắp thềm, người dù muốn cỏ cũng không dừng lại. Thời
tiết đang vào xuân nên tràn trề nhựa sống, mùa của sự tươi trẻ nhưng thân người thì
lại đã già, người qua tuổi trẻ rồi. Người đọc nhận thấy trạng thái đối lập rõ rệt giữa
người và tự nhiên: “nhân tự bi thê” – “thảo tự thanh” (người buồn – cỏ xanh), “thân
phi thiếu tráng – xuân nhật” (người không còn trẻ nữa – ngày xuân). Con người và
thiên nhiên hoàn toàn tách biệt với nhau, người một tâm trạng, thiên nhiên một
trạng thái, hai thứ hoàn toàn đối nghịch với nhau. Khi Nguyễn Du đi sứ, thiên nhiên
nơi đất khách cũng bao lần khiến nhà thơ cảm nhận sâu sắc thêm thân phận li
hương của ông:
Tứ vọng vân sơn, nhân độc lão
(Tam Giang khẩu đường dạ bạc)
(Nhìn bốn phía toàn mây với núi, người riêng thấy mình già)
115
Giữa bốn bề núi non trùng điệp mà thân lữ khách chỉ cô độc một mình, thêm
tuổi già khiến con người càng thấy bất lực, quạnh quẽ, choáng ngợp. Hết cô độc
giữa núi rừng lại là:
Cộng chỉ mai hoa báo tiêu tức
Xuân hà tằng đáo dị hương nhân
(An Huy đạo trung)
(Cùng trỏ hoa mai báo tin xuân
Nhưng xuân có bao giờ đến với người từ nơi đất khách)
Nhà thơ mỉa mai hay buồn thương cho mình đây, yêu hoa, yêu xuân nhưng lại
nghẹn ngào nói xuân có bao giờ đến với người lữ khách, ở đất khách thì làm gì có
xuân. Ấy thế nhưng hoa mai vẫn báo tin và xuân vẫn đến, còn người có đón xuân
được hay không thì chúa xuân nào có quản. Dường như thi nhân yêu thiên nhiên
nhưng tình cảnh và cảm xúc của ông không được thiên nhiên đáp lại, mà nó thường
đưa đến một trạng thái đối lập hoàn toàn với mong muốn của ông. Thiên nhiên vô
tình hay hữu ý mà trong thơ Nguyễn Du nó luôn thể hiện một trạng thái khác biệt.
Nó như cố tình xoáy sâu vào nỗi niềm của con người. Nơi đất lạ, xuân không chỉ
hờ hững với người có tâm mà thiên nhiên cũng cản trở đường đi của sứ thần nhà
Nguyễn.
Sơn lộc tích nê thâm một mã
Khê tuyền phục quái lão thành tinh
(Mạc phủ tức sự)
(Đường chân núi đầy bùn sâu ngập cả chân ngựa
Yêu quái ẩn núp trong khe suối lâu đời đã thành tinh)
Đường đi đến non Yên còn rất dài và rất xa, những chướng ngại như thế này
gợi cho người lữ khách bao cảm xúc khó tả được. Thậm chí có lúc ông tưởng như
sự dữ dội của tự nhiên muốn nhấn chìm cả mối tình nhà bởi càng ngày nó càng chia
cách thi nhân với cố hương. Đường đi của Nguyễn Du không phải chỉ có núi non
hiểm trở mà sông nước cũng dữ dội và “hành hạ” con người không kém:
Giao li xuất một thành trùng uyên
116
Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyên
Hạ lạo sơ trướng phí như tiên
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền
Tâm huyền huyền sở đa úy
(Ninh Minh giang chu hành)
(Thuồng luồng, li long ra vào thành vực sâu
Sóng vỗ bọt phun ngày đêm ầm ầm
Nước lụt mùa hè vừa dâng nước sôi sục
Một mạch ba ngày đi lòng chơi vơi
Lòng chơi vơi vì sợ nhiều)
Có khi đường đi bằng phẳng, người lữ khách không gặp núi non hiểm trở hay
sông nước hung bạo, những tưởng sẽ được thư nhàn thì lại gặp trời nắng gắt như
thiêu như đốt:
Nhân hành liệt nhật trung
Đồ trường tê quyện mã
(Hà Nam đạo trung khốc thử)
(Người đi trong ánh nắng gắt của mặt trời
Trên đường dài mệt ngựa hí vang)
Từ sơn thần cho đến thủy thần rồi thời tiết gay gắt đua nhau nổi cơn thịnh nộ
để đe dọa con người. Sự hung bạo ấy khiến cho con người dẫu có mạnh mẽ đến đâu
cũng phải kinh hãi.
Thiên nhiên không chỉ lạnh lùng, xa cách con người mà bên cạnh vẻ đẹp khiến
con người say đắm nó còn thể hiện sự đáng sợ, hiểm nguy vốn có khiến con người
sợ hãi. Dường như thiên nhiên nơi đây đang cố gắng phô bày hết tất cả những gì
nguy hiểm nhất của nó để cản bước chân của con người. Nó chẳng ngại ngần thể
hiện sức mạnh nguyên thủy có thể nhấn chìm tất cả.
Không phải chỉ thiên nhiên đất lạ mới hung tàn và hiểm nguy đối với con
người. Ngay đến cảnh vật quê nhà cũng được nhà thơ nhìn một cách chân thực nhất
khía cạnh đáng sợ của chúng:
117
Lam Giang trướng thu thủy
Ngư miết du khâu lăng
Ngưu mã mê nhai sĩ
Dĩ ngạn băng bảo lôi
Hồng đào kiến kỳ quỉ
(Lam giang)
(Sông Lam tràn đầy nước lụt mùa thu
Cá giãi bơi đùa nơi gò đẫy
Trâu ngựa không nhận ra bờ nước
Bờ sông lở sụt ầm ầm như sấm dữ
Sóng lớn thấy như có quỷ lạ)
Nguyễn Du như nhìn thấy một dòng sông Lam lạ lùng và hoàn toàn khác biệt
khi mùa nước về. Nước nhiều gây lụt, nước cuồn cuộn chảy cũng như cuộn mình,
vùng vẫy đe dọa động vật, đe dọa cả con người. Nhà thơ có cảm giác như dòng
sông ngày nào yên bình giờ biến hình thành quỉ lạ. Điều đó khiến con người chùn
chân vì sợ hãi. Sông Lam, núi Hồng đủ để thi nhân ngâm vịnh nhưng nó cũng
không phải luôn ở trạng thái hiền hòa ấy mà còn có bộ mặt khác đáng sợ thế này.
Nguyễn Du không thiên vị, không ngần ngại trong việc tả thiên nhiên như thế đấy.
Có thể nói thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du được tả thực với một
cảm hứng mãnh liệt. Ngoài thể hiện sự khắc nghiệt và hiểm nguy thì nó cũng có
mặt hiền hòa, êm dịu khiến con người say đắm:
Sơn thượng hữu đào hoa
Xước ước như hồng ỷ
(Hành lạc từ 2)
(Trên núi có hoa đào
Mềm mại như lụa đỏ)
Thiên nhiên là đề tài ngâm vịnh vô tận của thi nhân, nhất là thiên nhiên quê
nhà càng khiến thi nhân yêu mến hơn nữa:
Lam thủy Hồng sơn vô hạn thắng
118
Bằng quân thu thập trợ thanh ngâm
(Phúc Thực Đình)
(Sông Lam núi Hồng đẹp vô hạn
Nhờ anh thu lượm để giúp thêm vào việc ngâm vịnh thanh tao)
Khi thì thiên nhiên trở thành nhân chứng cho tình bằng hữu bền chặt:
Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm
(Lưu biệt Nguyễn đại lang 1)
(Xin giữ lấy một mảnh trăng ở phía nam sông
Đêm đến thường soi lòng hai ta)
Nếu nói hình ảnh thiên nhiên được Nguyễn Du gửi gắm tình cảm nhiều nhất và
có lẽ là ngoại lệ duy nhất được nhà thơ coi là bạn thì chỉ có trăng. Trăng có khi là
minh chứng cho tình bạn, trăng có lúc lại soi chiếu cảnh vật hiện rõ sắc thu cho con
người ngắm nghía:
Mãn phục giai thu sắc
Mãn giang giai nguyệt minh
(Tương Âm dạ)
(Đầy mắt toàn là sắc thu
Khắp sông nơi nào cũng sáng trăng)
Có lúc thi nhân cảm nhận mọi thứ đều thay đổi, duy chỉ có ánh trăng vẫn là
trăng “ngày xưa”:
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành
(Thăng Long 2)
(Mảnh trăng sáng ngày xưa chiếu xuống tòa thành mới)
Nhờ có ánh trăng vẫn chiếu sáng nơi đây mà Nguyễn Du như cảm thấy Thăng
Long vẫn còn chút gì đó của quá khứ, và gật gù “đây vẫn còn là Thăng Long kinh
đô cũ” dẫu cho những biến đổi đường phố bốn bề đã làm mờ hết những dấu vết xưa
cũ. Và thi nhân tìm lại được những dấu vết ấy là nhờ có mảnh trăng kia. Thế nhưng
chút êm dịu hiền hòa này không đủ để xoa dịu những thực tại ở trên cũng như ấn
119
tượng về sự khác lạ của Nguyễn Du trong ứng xử cùng thiên nhiên. Chúng tôi đồng
tình với nhận định của tác giả Lê Thu Yến khi cho rằng thiên nhiên trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du “thực đến độ trở thành tàn nhẫn”, và ông hoàn toàn khác những
nhà thơ trung đại. Ví như với Nguyễn Trãi thiên nhiên là đối tượng bầu bạn thân
thiết:
Hái cúc, ương lan hương bén áo
Tìm mai, đạp nguyệt tuyết xâm khăn
(Thuật hứng 15)
Hay với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thiên nhiên là chốn nghỉ ngơi và vui sống lý
tưởng:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
(Nhàn)
Chúng ta không cần nói đâu xa xôi, chính trong kiệt tác Truyện Kiều của
Nguyễn Du thái độ của thi nhân đối với thiên nhiên cũng hoàn toàn khác trong thơ
chữ Hán:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
(Truyện Kiều)
Như vậy, có một sự khác biệt rõ rệt giữa việc thể hiện cảm hứng trước thiên
nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du với các nhà thơ khác thời kỳ trung đại,
gần hơn nữa là của chính ông trong Truyện Kiều. Phải chăng thơ chữ Hán là nơi
Nguyễn Du thể hiện thật nhất bản thân mình, nó không giống những nhà thơ khác
vì đó chính là cái khác giữa con người Nguyễn Du và họ. Quả là nếu đi sâu tìm
hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du chúng ta sẽ còn khai thác được nhiều điều mới mẻ
hơn nữa về đại thi hào dân tộc của chúng ta. Ở đây chúng tôi chỉ nói đến sự khác
biệt trong việc nhà thơ ứng xử với thiên nhiên, những vấn đề khác chúng tôi chưa
có cơ hội đi sâu tìm hiểu.
120
Nguyễn Du đã say mê với thiên nhiên nhưng trong sự say mê ấy là một trạng
thái hoàn toàn tỉnh táo. Ông yêu thiên nhiên nhưng không vì yêu mà chỉ nói về cái
đẹp, cái đáng yêu mà ông còn không ngần ngại thể hiện một cách chân thực nhất
cái hoang sơ, cái nguyên thủy cùng hoang dã của tự nhiên. Trong thơ chữ Hán
người đọc còn nhận thấy sự khách quan và độc lập giữa Nguyễn Du với thiên
nhiên. Ông đứng ngoài quan sát, đẹp thì ông khen, đáng sợ thì ông kinh hãi. Sự độc
lập ấy có lúc trở thành lạnh lùng vì thiên nhiên và con người không thể chia sẻ tâm
tư với nhau. Chính vì vậy mà chúng ta mới thấy một Nguyễn Du luôn khắc khoải,
cô độc khi đối diện với thiên nhiên khiến người đọc xót xa:
Dao không thất cố hương
Hạc lai nhân bất kiến
Vãn thu uất thương thương
(Tương giang dạ bạc)
(Vời trông phía trời xa chẳng thấy quê hương
Hạc đến người không thấy đến
Cây trong chiều hôm cứ xanh ngăn ngắt)
Tóm lại, nếu Vương Duy hòa mình vào thiên nhiên đến quên thế sự thì
Nguyễn Du không có cách nào để hòa tan vào thiên nhiên. Đối với ông, thiên nhiên
là đối tượng để đối diện và đối thoại, để đánh giá, ông không thể vứt bỏ mọi u uẩn
mà chìm đắm trong tự nhiên dù lòng cũng khao khát “xuống tóc vào rừng, nằm
nghe tiếng thông reo”. Nhưng đó chỉ là mơ ước, Nguyễn Du chưa một lần thực hiện
được mơ ước ấy. Nếu cảnh giới trong thơ sơn thủy Vương Duy là vô ngã thì
Nguyễn Du là hữu ngã, nếu Vương Duy hòa tan vào thiên nhiên hoàn toàn thì
Nguyễn Du chỉ đứng ngoài quan sát và tả thực một cách khách quan.
3.3. Cảm hứng về chủ thể trữ tình
Nếu xét thế giới nghệ thuật của một nhà văn, nhà thơ mà bỏ quên cảm hứng về
chủ thể trữ tình thì quả là thiếu sót lớn. Với hai phong cách khác nhau nên cảm
hứng về chủ thể trữ tình trong thơ Vương Duy và Nguyễn Du có sự khác biệt vô
cùng. Trong thơ Vương Duy nổi lên hình ảnh chủ thể là con người nhàn, con người
121
thoát tục, trong khi con người lo âu, con người bị ràng buộc là cảm hứng mạnh mẽ
được thể hiện rõ nét trong thơ Nguyễn Du.
3.3.1. Con người nhàn trong thơ Vương Duy
Đọc thơ Vương Duy chúng ta dễ dàng nhận thấy hình tượng con người nổi bật
nhất trong thơ Thi Phật là con người nhàn. Con người trong thơ Vương Duy thật sự
đã thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc đời trần tục. Trong hình ảnh con người ấy những
vọng niệm thông thường đều không hiển hiện. Dù chỉ khép một cánh cửa sài, ngăn
cách mỏng manh thì tâm con người cũng đã nhàn. Con người ấy hòa mình vào tự
nhiên, sống vui cùng Đạo, đi dạo chơi tay còn cầm kinh Phật:
Đạo thư hành thượng bả
(Quá Lý ấp trạch)
(Đi dạo chơi tay còn cầm kinh Phật)
Con người trong thơ Vương Duy vui với những thú vui vườn ruộng, những thú
vui tao nhã. Từ việc vác cày ra đồng trồng trọt rồi thu hái:
Bỉnh cư Lam Điền
Bạc địa cung canh
Tuế yến thâu thuế
Dĩ phụng tư thịnh
Thần vãng Đông cao
Thảo lộ vị hi
Mộ khan yên hỏa
Phụ đảm lai quy
(Thù chư công kiến quá)
(Lui về Lam Điền
Tự cầy lấy miếng đất xấu
Cuối năm mót lúa
Để lấy xôi cúng
Sáng sớm ra ruộng
Cỏ còn đượm móc
122
Chiều trông chừng khói lên, đèn đốt
Mà gánh gồng ra về)
Sau công việc trồng trọt và thu hái thì nhà thơ thảnh thơi uống rượu, đánh đàn,
hái hoa, và say ngủ:
Chước tửu hội lâm toàn thủy
Bão cầm hảo ỷ trường tùng
Nam viên lộ quỳ triêu chiết
Đông cốc hoàng lương dạ xuân
(Điền viên lạc 5)
(Rót rượu cùng tới bên dòng suối
Ôm đàn cầm tựa lưng vào cây thông cao
Sớm bẻ bông quỳ trong vườn phía nam
Đêm xuân ngủ say trong hang phía đông)
Hiện lên trước mắt người đọc là hình ảnh đẹp của con người ở trạng thái thư
nhàn hết sức có thể. Uống rượu bên bờ suối, rồi ôm đàn gảy bên cây thông cao,
sáng thì hái hoa trong vườn, tối lại ngủ say trong hang. Con người hòa vào thiên
nhiên một cách tuyệt đối, có nước non, cây cối, cỏ hoa cùng tham gia vào cuộc
sống nhàn tịch của con người. Đông, tây, nam, bắc, lên núi, hay xuống nước, nơi
đâu cũng thấy hình ảnh một con người tự do tự tại, không còn bất cứ một sự ràng
buộc nào của ngoại vật nữa. Cùng là hoạt động hái hoa nhưng Vương Duy và
Nguyễn Du lại khác biệt hoàn toàn. Nếu Vương Duy:
Nhật nhật thái liên khứ
Châu trường đa mộ qui
Lộng cao mạc tiễn thủy
Úy thấp hồng liên y
(Liên hoa ổ)
(Ngày ngày đi hái sen
Bãi cát ven sông rộng nên thường về muộn
Vung sào chớ làm nước tóe
123
E làm ướt cánh hoa sen hồng)
Thì Nguyễn Du lại chỉ hái sen trong giấc mộng chứ chưa được thật sự chạm
tay vào hoa, chỉ khát khao một giấc mơ đẹp bên sen thôi:
Kim thần khứ thái liên
Nãi ước đông lân nữ
Bất tri lai bất tri
Cách hoa văn tiếu ngữ
(Mộng đắc thái liên 3)
(Sáng nay đi hái sen
Nên mới hẹn với cô láng giềng
Chẳng biết đến lúc nào không biết
Cách khóm hoa nghe tiếng cười nói)
Người đọc sẽ dễ dàng nhận ra Vương Duy quên mình với việc hái sen, mải mê
ngắm hoa mà về muộn. Trong cách vung sào chèo thuyền cũng nhẹ nhàng và cẩn
trọng. Nhà thơ cẩn trọng để làm gì? Cẩn trọng vì sợ nước vung lên làm ướt cánh
sen hồng. Hình ảnh con người ấy mới đáng yêu làm sao! Hái sen mà sợ nước ướt
cánh hoa, sự trân trọng và nâng niu ấy của Vương Duy với thiên nhiên thật khiến
người đọc thích thú. Trên hết nhìn vào bức tranh ấy chúng ta thấy rõ ràng tư thế
chuyên tâm của thi nhân với hoa sen, chỉ ngắm hoa, lo cho hoa mỏng manh bị nước
văng đến mà đã bỏ quên hết sự đời, quên cả thời gian.
Vốn là người theo Phật nên Vương Duy có nhiều cảm tình đối với sư tăng.
Trong cuộc sống nhàn của Vương Duy không thể thiếu hình ảnh các vị tăng sư. Bài
thơ dưới đây biểu hiện được trạng thái thong thả đợi đón sư tăng của nhà thơ:
Ứng môn đãn ngưỡng tảo
Úy hữu sơn tăng lai
(Cung hòe mạch)
(Cửa khách đang muốn quét
Sợ có sơn tăng sang)
124
Bài thơ Điểu minh giản là bài thơ được nhiều người biết đến nhất của Vương
Duy, nó cũng là bài thơ phát ngôn đầy đủ cho bản thể nhàn dật của ông:
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tỉnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung
(Điểu minh giản)
(Người nhàn rỗi trước cảnh hoa quế rụng
Đêm tĩnh mịch, núi xuân vắng teo
Trăng mọc làm chim núi sợ
Thỉnh thoảng kêu trong khe xuân)
Mở đầu bài thơ Vương Duy đã thể hiện ngay trạng thái “nhân nhàn” tức là con
người đang nhàn rỗi. Con người nhàn rỗi ấy đang ngắm hoa quế rụng, đang ngắm
trăng xuân và thưởng thức cả tiếng chim bất thời vang lên. Trạng thái nhàn ở đây
kéo theo trạng thái tĩnh lặng, tất cả vô cùng yên tĩnh. Con người vô ngôn, con
người nhàn rỗi không lo sự đời và thảnh thơi cảm nhận từng trạng thái động diễn ra
của cảnh đêm dù là nhỏ nhất. Liệu có phải Vương Duy không dùng tai để nghe một
cách thông thường mà đang dùng hết mọi giác quan, dùng cái tâm để cảm nhận tất
cả. Sự cảm nhận ấy chỉ có thể có hiệu quả khi cái tâm nhàn không vướng một hạt
bụi, cái tâm ấy cũng chỉ có thể cảm nhận được sắc thái của sự vật với trạng thái tĩnh
mịch vô cùng. Đó chính là cái tâm vắng lặng, là tâm Thiền được Vương Duy gói
gọn trong trạng thái “nhân nhàn” vậy.
Con người ấy không ngần ngại tự nhận mình nhàn, nhiều lần nói về trạng thái
nhàn của bản thân. Từ “nhàn” vì thế được dùng nhiều: “nhàn dật” (Vị Xuyên điền
gia), “tự nhàn” (Đáp Trương ngũ đệ), “nhàn môn” (Tặng Tổ tam vịnh), “thượng
nhàn” (Thôi Bộc Dương huynh Quý Trọng tiền sơn hứng), “nhàn hữu dư” (Phạn
Phúc Phủ sơn tăng), “dĩ nhàn” (Thanh khê), “nhân nhàn” (Điểu minh giản),
“nhàn nhàn” (Quy tung sơn tác)…Sự lặp đi lặp lại nhiều lần như thế chứng tỏ
Vương Duy luôn ý thức mình là một con người sống với lí tưởng nhàn, ông thể
125
hiện tất cả ý muốn cũng như hiện thực cuộc sống của một ẩn nhân luôn tự nhàn
trong thơ mình.
Vương Duy là một nhàn nhân và có lẽ nguyên nhân để ông đạt đến cảnh giới
của sự nhàn ấy là:
Chung niên vô khách trường bế quan
Chung nhật vô tâm trường tự nhàn
(Đáp Trương Ngũ đệ)
(Suốt năm không có khách, cửa đóng hoài hoài
Suốt ngày vô tâm, lúc nào cũng nhàn rỗi)
Trần Thị Thu Hương cho rằng “chữ “vô tâm” trong câu thơ này chỉ trạng thái
nhàn nhã, không vướng tục lụy của tâm hồn con người” [27, tr.98], thống nhất với
ý kiến đó chúng tôi cho rằng để có thể đạt đến sự nhàn nhã của thân xác thì cái tâm
phải nhàn trước đã. “Vô tâm” theo cách hiểu của nhà Phật và theo cách của Vương
Duy thì “vô tâm” ở đây bao hàm ý nghĩa là một phép tu dùng tư tưởng để triệt tiêu
những sự phiền não đến từ tâm tưởng của con người. Cái sự vô tâm chính là không
còn lưu luyến đến công danh, chức tước, tiền tài. Tất cả chỉ là vật ngoài thân. Con
người không còn bất cứ vọng niệm hay kiến chấp nào. Tâm tư thoải mái an định
trước mọi đổi thay của thế sự. Có “vô tâm” được như thế thì con người mới thật sự
nhàn. “Vô tâm” cắt nghĩa với chữ nhàn, và trong câu thơ Vương Duy tiếp tục viết
“tự nhàn”, như vậy chỉ với câu thơ bảy chữ mà có đến bốn chữ hướng về trạng thái
nhàn. Sự lặp lại này càng khẳng định rõ thêm cái tâm nhàn tuyệt đối của thi nhân.
Vương Duy “Vô tâm” để giữ cho tâm hồn tĩnh lặng, là màng lọc của tâm hồn trước
thế sự chứ không phải là tiêu cực cự tuyệt hết những biến động của cuộc đời. Nếu
Vương Duy thật sự cự tuyệt thế sự thì hẳn người đọc sẽ không bao giờ được thưởng
thức những vần thơ tuyệt diệu của Thi Phật về thế sự cũng như những dòng thơ tâm
sự thấm đẫm tình cảm nữa. Vương Duy nhàn nhưng vẫn là con người cảm nhận
được cuộc sống một cách trọn vẹn theo cách riêng của mình.
Như vậy, cái nhàn của Vương Duy là sự đúc kết tổng hợp từ tâm thái phóng
khoáng, tĩnh tại của Thiền tông cũng như tư tưởng lánh đời, xa rời chốn trần tục
126
của Đạo giáo. Đó đồng thời nó còn cho thấy tư thế của một nhà Nho cần mẫn
nhưng vẫn giữ tâm trong sạch. Cái nhàn trong thơ của Vương Duy toát lên một
cách tự nhiên, một cách nhẹ nhàng và luôn tinh tế len vào cảm nhận của người đọc.
Thật sự Vương Duy phải trác tuyệt thế nào mới có thể viết nên những câu thơ đưa
được cả cái nhàn vào tâm hồn người đọc đến thế!
3.3.2. Con người ràng buộc, lo âu trong thơ Nguyễn Du
Cảm hứng trước con người trong thơ Nguyễn Du không có cái nhàn như
Vương Duy mà là cảm hứng về con người hiện ra với những mối lo âu, những ràng
buộc của cuộc đời.
Nguyễn Du luôn khắc khoải trong lòng những tâm sự về bản thân, về cuộc đời,
về con người. Khi sống cuộc sống lưu lạc xa quê Nguyễn Du phải vật lộn với nỗi lo
về cơm áo, về gia cảnh nghèo khó:
Táo đầu chung nhật vô yên hỏa
Song ngoại hoàng hoa tú khả xan
(Tạp ngâm 2)
(Bếp núc suốt ngày không khói lửa
Hoa cúc vàng ngoài cửa sổ, tươi đẹp tưởng có thể ăn được)
Gia cảnh Nguyễn Du lúc này có thể là vô cùng khó khăn, ông đang nói rất thật
về hoàn cảnh bản thân. Bếp núc nguội lạnh không khói lửa vì không có gì để nấu,
hoa cúc vàng ngoài sân trông rất đẹp nhưng cũng chẳng thể khiến con người no
bụng. Cảnh nghèo khó đến chuột phải gặm sách:
Cơ thử duyên sàng khiết ngã thư
(Ngọa bệnh)
(Chuột đói leo sàng gặm sách vở của ta)
Cùng với nỗi lo về cái nghèo là nỗi lo về bệnh tật, dường như đói nghèo và
bệnh tật luôn đi cùng với nhau, nó khiến cho gánh nặng nỗi lo của Nguyễn Du càng
thêm chồng chất. Những cơn bệnh dai dẳng cứ trở đi trở lại tàn phá thân thể cũng
như tâm hồn ông:
Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa
127
(U cư 2)
(Một nhà xuân lạnh bệnh cũ nhiều)
Giang hồ bệnh đáo kim thời cửu
(Xuân dạ)
(Trong chốn giang hồ bệnh đến đã lâu ngày)
Đa bệnh đa sầu khí bất thư
Thập tuần khốn ngọa Quế Giang cư
(Ngọa bệnh)
(Nhiều bệnh nhiều sầu thần khí không thư thái
Mười tuần nằm co trong nhà bên sông Quế)
Con người ấy nào đâu chỉ có mối lo về đói nghèo và bệnh tật, tâm hồn đa sầu
đa cảm ấy còn luôn lo âu trước thời gian, trước tuổi già. Công danh chưa thành,
nghiệp văn chương dang dở trong khi hoàn cảnh khốn khó, bệnh tật. Tuổi già đã
đuổi tới rồi mà vẫn chưa trả nợ “nam nhi”. Bao nhiêu mối lo âu chồng chất ấy đã
khiến con người ấy chưa đến tuổi mà tóc đã bạc trắng cùng thời gian trôi vô tình:
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên
(Quỳnh Hải nguyên tiêu)
(Đầu bạc nhiều giận nỗi ngày tháng trôi)
Cuộc sống của Nguyễn Du đã thay đổi khi ông được nhà Nguyễn vời ra làm
quan. Tuy cảnh nghèo vẫn còn nhưng cũng đã bớt phần nào, lúc này nợ “nam nhi”,
nợ công danh coi như đã được trả. Thế mà con người ấy vẫn không hết ưu tư. Tâm
hồn ông vẫn trĩu nặng tâm sự. Lúc này nhà thơ lại lo lắng thân mình đã già vẫn lưu
lạc nơi đất khách, biết ngày nào mới được trở về quê nhà:
Phao trịch như thoa hoán bất hồi
Thiên lý xích thân vi khách cửu
(Thu chí)
(Ngày tháng thoi đưa gọi không quay lại
Thân mình trần trụi ngoài nghìn dặm ở lâu nơi đất khách)
128
Có ai mà không muốn tuổi già được hưởng an nhàn, Nguyễn Du cũng vậy.
Nhưng đáng thương thay cho ông tuổi già vẫn còn bôn ba. Tóc bạc trắng trong gió,
bạc thêm mỗi ngày tháng qua nhưng thân lữ khách Nguyễn Du vẫn không thoát
được. Giờ đây mỗi một ngày tháng qua là một ngày nhà thơ mong mỏi trở về cố
hương. Không thực hiện được việc đó nên ông sâu sầu, thương tâm. Suốt chặng
đường đi sứ Nguyễn Du vẫn luôn canh cánh trong lòng mối lo này.
Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du chúng ta như mường tượng ra chân dung của
ông. Hiện lên trong thơ là hình ảnh một con người tuổi chưa già hẳn, chưa đến năm
mươi mà tóc đã bạc trắng, nơi khóe mắt ánh lên cái nhìn sâu xa và nếp nhăn hằn
trên vầng trán. Con người ấy thường thao thức đêm khuya, ngồi một mình đêm thu
(thu dạ độc tọa), và tự nói chuyện, tự độc thoại với chính bản thân vì không có tri
kỉ. Những niềm riêng khiến thi nhân phải lo âu đã đành, nhưng ngay cả chuyện
nhân tình xưa nay cũng khiến ông bận tâm. Nguyễn Du không chỉ ràng buộc bản
thân bởi những nỗi niềm của bản thân mà ông còn lo cả nỗi đau nhân tình thế thái.
Con người với đôi mắt như trông thấu cả sáu cõi ấy bận tâm từ cảnh nghèo của ông
cháu hát rong ở Thái Bình kiếm vài đồng lẻ cho đến ba mẹ con người ăn xin bên lề
đường, nàng hầu cũ của em trai, người phu kéo xe…cho đến chuyện người xưa
trong lịch sử. Cảnh nào cũng khiến Nguyễn Du thương tâm và lại ưu phiền khi tự
vấn về thói đời:
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai
Do thả hồi cố đảo đa phúc
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân
(Thái Bình mại ca giả)
(Dốc hết tâm lực gần một trống canh
Mà chỉ được năm sáu đồng tiền
Đứa bé được dẫn ra khỏi thuyền
Còn quay đầu lại chúc “đa phúc”
Ta chợt thấy vậy vừa buồn đau vừa chua xót)
129
Ông xót cho người hiền, người chịu oan khuất, người bạc mệnh như Khuất
Nguyên, Đỗ Phủ, Tiểu Thanh, Liễu Hạ Huệ, Văn Thiên Tường…rồi lại lên án kẻ
gian, kẻ ác như Tần Cối, Vương Thị, Tào Tháo, Mã Viện…Con người Nguyễn Du
là vậy, yêu ghét rõ ràng, yêu thì đến tâm can cũng vạch ra để tỏ rõ:
Dị đại tương liên không sái lệ
Nhất cùng chí thử khởi công thi
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ)
(Sống khác thời đại thương nhau chỉ biết rơi nước mắt
Cùng quẫn đến thế có phải vì giỏi làm thơ)
Nguyễn Du nói về Đỗ Phủ theo cách riêng của ông. Ông không bình về cuộc
đời Đỗ Thiếu Lăng như người khác. Họ có thể thương cho Đỗ Phủ cuộc đời nghèo
khó, nặng tâm sự với đời mà không được đền đáp, nhưng Nguyễn Du thì nhìn vào
sự tương đồng trong số mệnh của ông để thương xót cho “cố nhân”. Đó là sự cảm
thông về cái tài dẫn đến cái mệnh. Vì giỏi làm thơ nên chăng số phận long đong
cực khổ? Vì mang nợ văn chương, sách vở nên chịu lụy đến thân mình? Nguyễn
Du tìm câu trả lời cho Đỗ Phủ mà cũng là tìm câu trả lời cho chính bản thân ông.
Con người đa sầu đa cảm ấy làm thế nào dửng dưng khi đến nơi gợi nhớ về
Khuất Nguyên, Nguyễn Du thương tiếc cho tấm lòng của người “cô trung” ấy
muôn phần:
Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh
Tứ phương hà xứ thác cô trung
Cận thời mỗi hiếu vi kì phục
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng
(Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu 2)
(Nghìn xưa có ai thương người một mình tỉnh táo
Bốn phương chốn nào gửi được tấm lòng cô trung
Gần đây mỗi khi người ta thích trang phục lạ
Thì thứ hoa tiêu, hoa lan họ đeo chẳng giống ông chút nào)
130
Nguyễn Du sáng suốt nhận ra rằng bi kịch của Khuất Nguyên không phải do
tâm tính ông cao ngạo mà “kỳ thực đây không phải là bi kịch tính cách mà là bi
kịch xã hội, bi kịch thời đại” [69, tr.78]. Tấm lòng cô trung của Khuất Nguyên
khiến người đời sau thương cảm, Nguyễn Du vừa thương cảm tấm lòng ấy vừa
thương cảnh tỉnh táo riêng mình của Khuất Nguyên. Có lẽ Nguyễn Du giống với
người xưa, trước cuộc đời ông luôn tỉnh táo, bởi quá tỉnh nên nhận hết ba động của
thế sự, thấy hết những điều đen tối cũng như đau khổ của nhiều kiếp người và rồi
ôm tâm sự ấy trong lòng. Nguyễn Du tự đánh giá bản thân, tự hỏi mình sao phải
tỉnh táo để nhìn đời làm gì để rồi nhìn thế sự lại thấy khổ đau:
Hà dĩ thanh tinh khan thế sự
Phù bình nhiễu nhiễu cánh kham ai
(Lưu Linh mộ)
(Sao ta phải đem cái trong sạch tỉnh táo để nhìn đời
Để phải như cánh bèo trôi giạt rất đáng thương)
Chính những tâm sự ấy, những tình cảm cho đi ấy đã ràng buộc Nguyễn Du
với cuộc đời trần thế mãi mãi. Ông không thể nào thoát được sự ràng buộc mạnh
mẽ ấy. Bất luận yêu hay ghét Nguyễn Du cũng không ngại che giấu. Ông thương
đến tê tái cõi lòng nhưng khi ghét thì không tiếc lời lên án:
Nhất sinh tâm tích đồng phu tế
Thiên cổ hình hài nhục nữ nhi
(Vương thị tượng)
(Bụng dạ một đời giống hệt như chồng
Hình hài ngàn năm làm nhục cho phụ nữ)
Đồng trụ cận năng khi Việt nữ
Châu xa tất cánh lụy gia nhi
(Giáp thành Mã phục ba miếu)
(Cột đồng trụ chỉ có thể lừa được đàn bà đất Việt
Xe ngọc châu rốt cuộc làm lụy con cái trong nhà)
131
Hai thái cực tình cảm yêu ghét luôn được nhà thơ đẩy đến tận cùng, bởi con
người ấy không có trạng thái nửa vời. Ông sống hết mình, yêu hết mình và ghét
cũng đến tận tâm can.
Dường như con người ấy không bao giờ cảm thấy thanh thản, không vướng
bận mối sầu này thì lại vướng nợ kia. Bởi ông “nhất phiến tài tình” nên “thiên cổ
lụy”. Lúc xa quê, sống nơi đất khách thì u sầu vì thất chí, vì nợ bút nghiên chưa trả,
đến khi ra làm quan cho nhà Nguyễn, cái nợ văn chương tạm gọi là đã trả thì lại
đau đáu tấm lòng hướng về quê nhà, về với thiên nhiên, muốn ẩn cư, lại thẹn với
núi xanh. Có lẽ đặt Nguyễn Du vào hoàn cảnh nào đi nữa ông cũng sẽ không nguôi
day dứt, không bớt sầu lo. Nhà Nho Nguyễn Du khi “xuất” thì thẹn vì nợ đời,
nhưng khi “nhập” thì lại hổ với tâm, dù thế nào Nguyễn Du đều cảm thấy không
trọn vẹn, ông cứ bị giằng xé giữa hai lẽ sống ấy đến cuối đời.
Con người trong thơ Nguyễn Du là con người của tư tưởng, luôn luôn đi tìm
lời giải đáp cho thế thái nhân tình, cho những câu hỏi về cuộc đời, về số mệnh.
Nhưng câu trả lời vẫn là một ẩn số, thế nên Nguyễn Du mải miết suy tư, đánh giá,
khắc khoải trong bế tắc, tất cả dồn lại trong thơ. Với một tâm hồn đa cảm như
Nguyễn Du, mọi âm vang của cuộc đời đều có tác động, ảnh hưởng đến ông. Thử
hỏi một con người như thế làm sao có thể thoát tục, làm sao có thể “tự nhàn”?
Chính Nguyễn Du nhiều phen ao ước về cuộc sống nhàn dật ấy đã bỏ cuộc, ông
nhận ra bản thân mình không thể vượt nổi chữ “đời”:
Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại
Thiên tuế trường ưu vị tử tiền
(Mộ xuân mạn hứng)
(Tấm thân không thể ra ngoài vòng hữu hình
Trước khi chết còn lo mãi chuyện ngàn năm)
Chữ “đời” ấy sẽ còn đeo theo Nguyễn Du không buông cũng như nỗi u sầu còn
mãi, buông làm sao được khi ông luôn nhìn đời với đôi mắt dạt dào cảm xúc và tâm
hồn tỉnh táo mà luôn đa sầu đến vậy:
Bách chủng u hoài vị nhất sư
132
(Bát muộn)
(Trăm nỗi u buồn chưa một lần được giải thoát)
Ở đây chúng tôi xin trở lại để so sánh hai bài thơ về hái sen của Vương Duy và
Nguyễn Du để làm rõ thêm về sự khác biệt giữa họ. Trong bài Liên hoa ổ Vương
Duy thể hiện sự nâng niu, trân trọng cũng như hứng thú khi hái sen. Con người ấy
không có gì phải bận tâm mà chỉ chuyên chú vào hoa nên quên cả thời gian. Trong
khi đó Nguyễn Du thì mong hái sen trong mộng, bởi thực tế có khi nào nhà thơ
được thong dong đến vậy. Bài thơ như sau:
Kim thần khứ thái liên
Nãi ước đông lân nữ
Bất tri lai bất tri
Cách hoa văn tiếu ngữ
(Mộng đắc thái liên 3)
(Sáng nay đi hái sen
Nên mới hẹn với cô láng giềng
Chẳng biết đến lúc nào không biết
Cách khóm hoa nghe tiếng cười nói)
Ô hay đây là mộng sao? Mộng được nhà thơ tái hiện sinh động thế này ư?
Sáng sớm có hẹn với cô hàng xóm đi hái sen. Chờ người đến nhưng lại không biết
người đến bao giờ, cách khóm hoa chỉ nghe tiếng cười nói. Sao Nguyễn Du không
thấy người mà lại chỉ nghe tiếng người vọng lại từ khóm hoa? Giọng thơ mang lại
cảm giác như nhà thơ đang trẻ lại, tâm trạng bớt u buồn so với những bài thơ trước.
Chúng ta cảm nhận được sự hăng hái, bồn chồn, nao núng của người đang chờ đợi
cô hàng xóm, đợi rất lâu rồi bất ngờ nghe thấy tiếng người truyền lại từ khóm hoa.
Cả hoa và người cùng hòa giọng để mang lại tiếng cười sảng khoái khiến thi nhân
say mê thế này ư? Và đây chính là một khoảnh khắc hiếm hoi mà Nguyễn Du tạm
quên những mối lo âu, những tâm sự mà vui cùng hoa, cùng thiếu nữ. Nhưng sự
thật quay lại nhanh chóng, đây là một giấc mộng, buồn hơn nữa là chính trong giấc
mộng hái hoa ấy thi nhân vẫn:
133
Cộng tri liên liên hoa
Thùy giả liên liên cán
Kỳ trung hữu chân ti
Khiên liên bất khả đoạn
(Mộng đắc thái liên 4)
(Mọi người đều biết yêu thích hoa sen
Nhưng ai là kẻ yêu thân cây sen
Trong thân cây sen rõ có những sợi tơ
Vấn vương không thể dứt được)
Con người ấy ngay cả trong mộng vẫn còn phải bận lòng. Người thưởng hoa
mấy ai như ông thương xót cho cả thân cây. Rằng khi hoa ngắt đi từ thân những sợi
tơ ấy không dứt được ngay mà còn bám víu, vấn vương mãi thân cây. Sen vấn
vương hay chính tâm hồn thi nhân vấn vương với điều gì mà mãi không dứt được?
Sao Nguyễn Du lại cứ đa cảm đa sầu đến thế? Ông không thể trút bỏ tất cả dù chỉ
một chút thôi để thanh thản được, thế nên ngay cả mộng Nguyễn Du cũng vẫn còn
phải lo. Tâm hồn ấy nhạy cảm quá đỗi, mỏng manh quá đỗi nên bất cứ âm vang nào
của cuộc đời đều nhận lấy để rồi thành tâm sự, thành nỗi niềm chồng chất, khiến
cho tâm hồn thi nhân không bao giờ tự do, thanh nhàn được.
Như vậy, cảm hứng về hình tượng con người trong thơ Vương Duy phản ánh
con người Vương Duy, hình tượng con người trong thơ Nguyễn Du cũng là dáng
dấp của nhà thơ. Hai con người với hai tư thế khác nhau, hai trạng thái khác nhau.
Một người nhàn tản, một người sầu lo. Vương Duy thấm đạo, “thân tại thế gian”
nhưng “tâm thì đã vượt thoát khỏi thế gian”, còn Nguyễn Du thì mãi không giải
thoát được khỏi cõi trần, đó cũng chính là nỗi niềm riêng không dễ gì lý giải được
khi nghiên cứu về Nguyễn Du. Tất cả đều chỉ là tương đối, cái chủ quan của ông
vẫn luôn là câu hỏi khó với chúng ta khi đọc thơ chữ Hán của ông và băn khoăn,
bối rối đi tìm lời giải mà vẫn chưa trọn vẹn bao giờ.
134
3.4. Cảm hứng về thời gian
Tác phẩm nghệ thuật là một thế giới nghệ thuật, thế giới đó có con người tồn
tại và vận động trong thời gian và không gian. Thời gian trong tác phẩm được gọi
là thời gian nghệ thuật. Thời gian có ba chiều vận động là quá khứ, hiện tại và
tương lai. Thời gian vật lí tự nhiên không thể đảo ngược lại. Nhưng thời gian trong
tác phẩm nghệ thuật thì lại vừa là thời gian tự nhiên và thời gian tâm lí. Đó là thời
gian được tái tạo dựa trên tính chủ quan của tác giả nhằm phục vụ cho mục đích
biểu hiện tư tưởng mà tác giả muốn hướng người đọc đến.
Trong thơ của mình, cả Vương Duy và Nguyễn Du đều xuất phát từ cảm hứng
đặc biệt với thời gian để từ đó xây dựng hình tượng con người được đặt trong
những dạng thức thời gian khác nhau. Do có chung một cảm thức về thế giới trung
đại nên gắn với con người vũ trụ là thời gian vũ trụ, con người đời thường là thời
gian trần thế, thơ Vương Duy và Nguyễn Du đều có những dạng thức thời gian này,
đó là tính chất quy phạm chung của thơ ca trung đại. Tuy nhiên, do thời gian nghệ
thuật mang tính chất chủ quan nên giữa Nguyễn Du và Vương Duy có một sự khác
biệt trong cách thể hiện cảm hứng trước thời gian một cách nhất định.
3.4.1. Thời gian hiện tại trong thơ Vương Duy
Cảm hứng về thời gian nổi bật trong thơ Vương Duy là đi từ thời gian hiện tại
bị quên lãng cho tới “vô thời gian” là thời gian đặc trưng của thơ mang Thiền vị.
Thời gian ở đây luôn trong trạng thái ngưng đọng, lãng quên. Chính vì thơ Thiền
phải bộc lộ được cái thanh thoát trong mọi sự, nếu đã vậy thì cần gì phải chú ý đến
khái niệm được gọi là thời gian.
Người xưa luôn cảm thấy thời gian có một sức mạnh vô hình đè ép con người.
Con người hữu hạn trong vũ trụ vô hạn, chính vì nhận biết được sự hữu hạn ngắn
ngủi ấy mà con người trở nên lo lắng:
Hốt trì vụ dĩ truy trục hề
Phi dư tâm chi sở cấp
Lão nhiễm nhiễm kỳ tương chí hề
Khủng tu danh chi bất lập
135
(Ly tao – Khuất Nguyên)
(Vội rong ruổi mà đuổi theo a,
Chẳng phải cái mà lòng ta muốn gấp;
Già sồng sộc sắp đến a,
Sợ danh hay chửa dựng được) (Đào Duy Anh dịch)
Đối với một nhà Nho có tinh thần trách nhiệm luôn phấn đấu vì sự nghiệp lo
cho đời như Khuất Nguyên thì việc lo lắng trước thời gian là tất yếu. Ông lo lắng
cái già sẽ sồng sộc kéo đến trong khi con người chưa có chút danh gì để lại cho đời.
Ngược lại tinh thần Nho giáo ở trên Phật giáo cho rằng cuộc đời con người chỉ là
một khoảnh khắc trong vòng tuần hoàn của tự nhiên, tất cả chỉ là sương sa, sấm
chớp hay ảo mộng. Nó trôi qua rất nhanh và thường không để lại dấu vết. Đạo gia
với quan niệm “nhân sinh giai như mộng” cũng coi đời người như một giấc mộng,
ngắn ngủi và chớp nhoáng. Vương Duy là con người sau khi đạt đạo mọi chấp niệm
về thời gian dường như không có xuất hiện trong thơ ông.
Thơ Vương Duy là sự hòa hợp tất cả những tinh thần ấy, người đọc nhiều lần
bắt gặp con người trong thơ ông say sưa với đạo, với nhàn thú mà quên tất cả:
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tỉnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung
(Điểu minh giản)
(Người nhàn rỗi trước cảnh hoa quế rụng
Đêm tĩnh mịch, núi xuân vắng teo
Trăng mọc làm chim núi sợ
Thỉnh thoảng kêu trong khe xuân)
Trong không gian tĩnh lặng của đêm, người nhàn nhã ngồi ngắm hoa quế rụng,
núi vắng, đêm lặng. Tất cả không gian yên tĩnh tuyệt đối, con người đã thả hồn vào
khung cảnh. Trong tĩnh có động, trong động bật lên cái tĩnh vốn có. Thế nhưng vào
khoảnh khắc này con người dường như không hề bị ảnh hưởng mà vẫn duy trì một
136
tư thế nhàn ban đầu. Con người ấy thả hồn vào hoa, trăng, đêm, không khí xuân và
cả âm thanh vội của chú chim nào đó. Trong trạng thái ấy khái niệm thời gian đang
trôi chảy không hề tồn tại, tất cả lặng đi để thưởng thức khung cảnh giao hòa tuyệt
vời này. Và cũng chính giây phút này tất cả ngưng đọng, thời gian bị quên đi hoàn
toàn. Bởi có quên thì âm thanh hoa rụng và trăng lên thi nhân mới cảm nhận được,
con người ấy không dùng thính giác thông thường để cảm nhận mà dùng tâm để
cảm nhận, để quan sát sự tinh tế của tự nhiên.
Con người ấy ngày thường vẫn mải mê với công việc của mình, không quan
tâm đến chuyện thiên hạ có hay không ai là người ở ẩn:
Triêu canh thượng bình điền
Mộ canh thượng bình điền
Tá vấn vấn tân giả
Ninh tri Thư Nịch hiền
(Thượng bình điền)
(Sáng cầy ruộng cao thấp
Chiều cầy ruộng thấp cao
Hỏi người người hỏi bến đò
Ai cần biết đến Nịch Thư là hiền)
Lúc thì con người mải vui cảnh quên thời gian, khi thì thời gian được dành cho
công việc, lúc thì thời gian chỉ để say giấc:
Thanh trú do tự miên
Sơn điểu thì nhất chuyển
(Lý xử sĩ sơn cư)
(Sáng bạch rồi còn ngủ
Thỉnh thoảng có tiếng chim núi hót)
Con người cứ chìm trong giấc ngủ thật say, say đến mặc kệ thế sự, say không
còn biết đất trời. Con người hòa tan vào thiên nhiên trong giấc nồng:
Hoa lạc gia đồng vị tảo
Oanh đề sơn khách do miên
137
(Điền viên lạc 4)
(Hoa rụng, trẻ nhà chưa quét
Chim oanh hót, người sơn khách còn ngủ)
Con người với một tâm thái Thiền định, chỉ biết đến thực tại, không màng quá
khứ, không lo nghĩ đến tương lai. Trong 170 bài thơ của Vương Duy, ông ít khi
nhắc đến quá khứ. Trong thơ ông hầu chỉ có khoảnh khắc hiện tại với những hoạt
động của con người đang diễn ra. Không nhớ tiếc những gì đã qua, chỉ tiêu dao
trong thực tại đến say sưa quên thời gian.
Thời gian dường như không có năng lực khiến con người phải lo âu, con người
cứ vui mà lơ đi:
Ngẫu nhiên trị lâm tẩu
Đàm tiếu vô hoàn kì
(Chung Nam biệt nghiệp)
(Bất thần gặp một cụ già miền rừng núi
Cùng Cụ vui chuyện không dứt ra được)
Gặp người tri kỉ thì trò chuyện không dứt ra được, cũng không biết là bao lâu
mới kết thúc. Thời gian có thể cản được cuộc vui này sao?
Khái niệm thời gian ở đây là thời gian của tâm Thiền. Thời gian như ngưng
đọng lại, nó không sinh cũng không diệt, nó bất biến và có xu hướng bị coi như
không tồn tại. Với Vương Duy thời gian dẫu có vù vù trôi qua thi nhân cũng mặc
nó trôi mà bình thản không sợ hãi:
Nhật, nhật, nhân không lão
Niên niên cánh xuân quy
Tương quan hữu tôn tửu
Bất dụng tích hoa phi
(Tống xuân từ)
(Ngày lại ngày con người già đi hoài
Năm rồi năm, mùa xuân vẫn trở lại
Cùng vui với nhau, có bầu rượu đấy
138
Tiếc làm chi những cánh hoa tàn bay)
Ngày ngày trôi qua, con người cũng già đi, thế mà thi nhân không lo sợ cái già.
Ngược lại ông vui với bạn hữu, với rượu ngon, hoa đã rụng theo thời gian úa tàn thì
hà cớ gì con người phải tiếc nuối? Con người sống phải tuân theo quy luật “sinh lão
bệnh tử” thì sớm muộn cũng sẽ chấm hết cuộc sống (theo Vương Duy là cuộc sống
gửi) vậy thì con người có lo lắng, sợ hãi nó vẫn sẽ diễn ra. Con người thay vì cứ
nuối tiếc thời gian sao không quên đi tất cả những nỗi âu sầu ấy mà tận hưởng thời
gian hiện tại đi. Hoa rơi thì hãy cứ ngắm đi, có rượu ngon thì cứ nên thưởng thức
đi. Đời người với chiếc thân hữu hạn mong manh ngắn ngủi vô cùng.
Những bài thơ Thiền khác của Vương Duy như Lộc trại, Mộc Lan trại, Tân
Di ổ, Sơn thù du…đều hiện ra hình tượng thời gian ngưng đọng, bị quên lãng
không nói đến. Trạng thái con người đạt được thấu hiểu về thơ Vương Duy cũng là
lúc con người hòa vào thiên nhiên mà quên đi thời gian hiện hữu. Vương Duy cũng
đôi lần nói về thời gian trôi đi trong những câu thơ cảm thán về tuổi già hay những
cuộc tiễn đưa, song những khoảnh khắc đó rất ít và mục đích cũng là nhắc nhở
chính bản thân nhà thơ quý trọng thời gian hiện tại. Có lẽ thi nhân muốn gửi gắm
thông điệp riêng rằng con người hãy quên đi nỗi lo về tương lai, không u sầu về
quá khứ mà hãy vui với hiện tại và mở lòng để cảm nhận cuộc sống một cách trọn
vẹn. Vương Duy không phải vô tâm trước cuộc sống, trước quy luật của vạn vật
nhưng với cái tâm đã thông hiểu đạo đời thì ông biết buông và thả những chấp
niệm không đáng bận của thế sự. Chỉ có khi nào con người buông được, ngộ được
ý chỉ đơn giản của cuộc sống thì mới thảnh thơi mà tận hưởng cuộc sống được. Đọc
thơ Vương Duy người đọc chỉ còn cảm nhận được niềm vui của thi nhân qua mỗi
ngày, ông không vướng bận, không quá u sầu cũng không quá hào hứng. Tâm
Vương Duy luôn an định như hình tượng núi trong thơ ông vậy. Thơ Vương Duy
luôn toát ra ý vị nhàn nhã, bình đạm, nhịp thơ thong dong như chính con người thi
nhân: “Phẫn nhi bất lệ, ai nhi bất thương, lạc nhi bất dâm, nộ nhi bất oán” (Tức
bực mà không dữ dằn – Xót thương mà không quá độ đến đau đớn – Vui mà không
nhả nhớt – Giận mà không oán hờn) [6, tr.30].
139
3.4.2. Thời gian quá khứ trong thơ Nguyễn Du
Nếu cảm hứng về thời gian trong thơ Vương Duy là đi từ thực tại đến trạng
thái lãng quên hoàn toàn thì trong thơ chữ Hán Nguyễn Du ngược lại. Con người
Nguyễn Du bộc lộ cả trong cách ông nhận thức và xúc cảm trước những khoảnh
khắc thời gian khác nhau. Với Nguyễn Du thời gian dĩ vãng đã lùi xa luôn là thời
gian khiến ông đau đáu nhung nhớ.
Tác giả Lê Thu Yến chia thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Du thành
những dạng như: thời gian úa tàn, thời gian ký ức, thời gian khoảnh khắc; tác giả
Trần Đình Sử cho rằng cảm thức thời gian bao trùm trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
là “tàn tạ, phôi pha” và đó là thời gian của con người, không phải thời gian vũ trụ
bất biến. Trên cơ sở hai nhận định ấy chúng tôi cũng đồng tình cho rằng thơ
Nguyễn Du thời gian quá khứ luôn chiếm ưu thế so với những dạng thức thời gian
khác.
Nguyễn Du ít khi nói về tương lai, hiện tại. Thời gian được ông nói đến nhiều
nhất là thời gian đã qua, thời gian của quá khứ. Với một tâm trạng đau buồn trước
thời cuộc nhà thơ luôn hoài niệm về thời gian đã qua với đầy nỗi niềm riêng:
Ức tích ngô ông tạ lão thì
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi
(Giang đình hữu cảm)
(Nhớ xưa khi cha ta từ tạ vì già mà về hưu
Ở bến sông này phơi phới xe bồ ngựa tứ)
Đó là quá khứ huy hoàng thời cha Nguyễn Du còn tại thế, gia đình chưa lâm
vào cảnh tan nát, chia lìa. Quá khứ ấy liệu có phải luôn ám ảnh thi nhân nên trước
những thay đổi ông đều ngậm ngùi chứ không vui mừng:
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung
Tương thức mỹ nhân khan bão tử
Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông
(Thăng Long 1)
140
(Những ngôi nhà lớn nghìn xưa nay thành đường cái quan
Những tòa thành mới xóa đi cung điện cũ
Những cô gái xinh đẹp mà ta quen biết trước kia nay đã thành những
bà mẹ ẵm con
Những bạn trẻ hào hiệp cùng chơi với nhau nay đã thành bố rồi)
Những dấu tích của triều đại xưa kia như cung điện, thành quách đều biến đổi,
con người cũng vậy. Thế sự đổi thay, lòng người cũng phức tạp khôn lường. Càng
lăn lộn trong cuộc đời Nguyễn Du càng nhận ra bản chất của nó. Phải chăng thực
tại khiến ông càng nhận thức sâu sắc hơn nỗi đau nhân loại và muốn khước từ nó.
Trước sự thay đổi ở hiện tại, thi nhân không tránh khỏi tiếc nuối, mất mát:
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy
(Thăng Long 1)
(Suốt đêm bận lòng khổ tâm không ngủ được)
Dường như quá khứ khiến con người thoải mái, không có nỗi nhớ nhà, nhớ anh
em, hay buồn vì bất đắc chí như hiện tại. Nguyễn Du lưu luyến thời gian đã qua,
gặp lại người cũ ông không khỏi xúc động dù chỉ là nàng hầu cũ của người em:
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử
Khả liên do trước khứ thời y
(Ngô gia đệ cựu ca cơ)
(Thương ôi ngó sen tuy gãy nhưng tơ vẫn chưa đứt
Nghe nói nàng lấy người khác đã có ba con
Đáng ái ngại là vẫn còn mặc chiếc áo ngày ra đi)
Quá khứ của Nguyễn Du có những ký ức êm đềm, có hình ảnh người thân, có
gia đình và có cả tuổi trẻ. Hiện tại phũ phàng càng thúc đẩy ông hoài niệm quá khứ.
Đó là hiện tại với tình cảnh ở trọ lâu ngày quên mình là khách, là thực tại với “thân
dĩ suy”, “thập tải phong trần”, là bặt tin người thân:
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt
Bất kiến bình an nhất chỉ thư
141
(Sơn cư mạn hứng)
(Em trai em gái nơi quê nhà bặt hẳn tin tức
Chẳng thấy một bức thư báo bình an)
So sánh với quá khứ tươi đẹp cũ thì thực tại quá đau khổ, quá phũ phàng. Thực
tại không tươi đẹp, để có thể duy trì được hiện tại Nguyễn Du hướng về thời gian
đã qua để an ủi có lẽ cũng là điều dễ hiểu.
Thơ ông xuất hiện nhiều những từ ngữ chỉ thời gian quá khứ như: “khứ niên”,
“vãng sự”, “tiền sự”, “thập niên”, “tam niên”, “khứ thời”…cũng như những động
từ thể hiện trạng thái nhớ nhung về những ký ức như: “ức”, “hoài”, “niệm”,
“thương”, “tư”…Những gì cũ đều được nhà thơ cất giữ kĩ càng và thường mang ra
ôn lại. Ông nhớ chuyện xưa cũ để làm gì? Phải chăng nhớ để mà an ủi mình, để xoa
dịu thực tại:
Đề bào trân trọng cố nhân tâm
(Tặng Thực Đình)
(Chiếc áo bào thêu vải thô trân trọng tấm lòng người cũ)
Chính vì thương tiếc những gì trong quá khứ mà Nguyễn Du hoài cổ, ông bàn
luận chuyện người xưa khá nhiều. Ông không ngần ngại là đánh giá lại lịch sử
Trung Hoa theo cách riêng của mình. Trong tập Bắc hành tạp lục viết vào thời
gian đi sứ Trung Quốc, mỗi lần đi đến địa danh cũ gắn với người xưa đều khiến
ông bồi hồi cảm xúc. Với người ngay thì ông xót thương, với kẻ gian thì ông lên
án. Có lúc Nguyễn Du nhìn chuyện xưa mà ngao ngán cho thế sự đương thời:
Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La
(Phản chiêu hồn)
(Đời sau người đều là Thượng quan
Mặt đất này đâu đâu cũng là sông Mịch La)
Đối với con người ấy, chuyện cũ, việc cũ hay sầu cũ đều còn mãi, đã cũ nhưng
không biến mất mà luôn đeo bám dai dẳng, trở thành nỗi trăn trở ngàn thu của
Nguyễn Du, và của cả những người yêu thơ ông sau này. Về cơ bản Nguyễn Du
142
vẫn là một nhà Nho, một nhà Nho luôn đau đời, dù có thẩm thấu tinh thần của nhà
Phật hay Lão Trang thì chất Nho nặng về ứng xử với đời vẫn luôn thường trực
trong ông.
Có thể thấy rằng giữa Vương Duy và Nguyễn Du có một sự khác biệt lớn trong
cảm nhận cũng như đưa thời gian vào thơ. Nếu ở Vương Duy là một cảm hứng dạt
dào đối với thời gian hiện tại đến không còn ý niệm về thời gian thì trong thơ
Nguyễn Du là cảm hứng mãnh liệt đến từ quá khứ. Quá khứ được thi nhân dựng lại
bằng ngòi bút đầy xúc cảm với những nỗi niềm, tâm sự được gửi gắm vào đó.
Vương Duy vui với đạo và đời, thời gian đối với ông không có sức ám ảnh, Nguyễn
Du luôn mang nỗi buồn về bản thân, về thế thái nhân tình và đồng thời còn sợ hãi
tuổi già. Chính vì vậy mà thời gian đối với ông là một áp lực luôn đè nén. Phải
chăng Nguyễn Du tìm về quá khứ để tránh đi thực tại với đầy rẫy những bất công
và ngang trái? Nguyễn Du cũng là người tinh thông Phật, Đạo như Vương Duy, đâu
phải Tố Như không biết quy luật cuộc sống và vũ trụ. Thế nhưng ông không thể
buông bỏ tình đời, ông không thể thực hiện triệt để chân lý của đạo mà ông đã thấu
đạt như Vương Duy bởi vì đó chính là Nguyễn Du. Là một nhà thơ tài tình và cũng
nặng tình, là con người trải đời, trông thấu cõi đời nên chẳng thể rũ bỏ được bao
giờ.
143
Tiểu kết chương 3
Như vậy bên cạnh những gặp gỡ thì Nguyễn Du và Vương Duy còn có những
khác biệt rõ rệt. Đó là sự khác biệt đậm nhạt trong thể hiện tinh thần của Đạo giáo,
Phật giáo; khác biệt trong cảm hứng trước thiên nhiên và con người; khác biệt cả về
cảm hứng trước thời gian (không phải toàn bộ). Tất cả những điểm dị biệt này góp
phần lí giải sự thống nhất một cách xuyên suốt về phong cách riêng biệt của
Nguyễn Du và Vương Duy cũng như tô rõ hơn nét riêng ấy. Với Nguyễn Du con
người nặng nỗi đau đời, nhà Nho bất đắc chí nên cả Đạo và Phật đều chỉ dừng ở
trong tư tưởng và bàng bạc trong thơ ông, ông chẳng thể để tâm vượt thoát theo đạo
cũng như thực hiện ước vọng về cuộc đời vui đạo. Chính vì vậy nên cả thiên nhiên
và con người, thời gian, không gian đều nặng nề chuyển tải tâm tình của con người
ấy trong cuộc đời, trong thơ. Với Vương Duy thì khác, được người đời tôn xưng là
Thi Phật, thơ ông đậm đặc tinh thần của Thiền tông, của Đạo, con người và thiên
nhiên cũng thanh thoát, nhàn tản, vượt thoát khỏi ràng buộc của thế gian. Tuy có sự
khác biệt rõ rệt nhưng giữa những điểm khác biệt ấy người đọc vẫn nhận ra tinh
thần yêu cuộc sống, gửi tâm tư vào cuộc sống cũng như lối sống thanh bần của cả
hai nhà thơ. Nếu nói giữa Nguyễn Du và Vương Duy có một sợi dây gắn kết thì đó
chính là tình yêu sâu đậm đối với cuộc đời và một tâm hồn thanh khiết, cao quý
không bị bụi trần che mờ.
144
KẾT LUẬN
Vấn đề so sánh giữa văn học trung đại Việt Nam và Trung Quốc từ lâu đã
không còn quá mới mẻ. Đã có nhiều công trình nghiên cứu theo hướng này và thu
hái được những thành quả nhất định. Vấn đề tiếp nhận và ảnh hưởng của văn học
trung đại Việt Nam từ văn học Trung Quốc là điều hiển nhiên do lịch sử giao lưu
văn hóa, văn học giữa hai nước. Tuy không còn mới mẻ song không phải đã cũ.
Vẫn còn rất nhiều vấn đề dành cho người nghiên cứu khi đi vào nghiên cứu so sánh
hai nền văn học này. Tiếp tục hướng đi đó chúng tôi với công trình của mình tìm
hiểu thơ Vương Duy và thơ chữ Hán Nguyễn Du chỉ là bước đầu nghiên cứu, bước
đầu nhìn dưới góc độ đối sánh về cảm hứng, vạch ra những tương đồng cũng như
khác biệt cơ bản chứ chưa thật sự đi sâu giải quyết được trọn vẹn những vấn đề do
nhiều hạn chế.
Bước đầu tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Vương Duy dưới góc nhìn
so sánh từ cảm hứng, chúng tôi đã nhận thấy những điểm gặp gỡ và khác biệt giữa
hai nhà thơ xuất sắc của hai đất nước. Vương Duy và Nguyễn Du đều là những “tập
đại thành” của nền văn học Việt Nam và Trung Quốc, có ảnh hưởng nhiều đến
những người sáng tác thơ văn thế hệ sau. Cả hai nhà thơ sử dụng Hán văn để sáng
tác văn chương, đó là ngôn ngữ chung của cả ba học thuyết Nho, Phật và Đạo, nó
gắn liền với thời đại, văn hóa và nền tri thức mà cả Nguyễn Du và Vương Duy tiếp
nhận. Chính mối quan hệ đó đã thể hiện sự gắn bó giữa văn hóa kéo theo văn học
giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Nguyễn Du và Vương Duy đều là những nhà thơ có sự thấu hiểu và tinh thông
Nho, Phật cũng như Đạo. Thế nhưng ở Vương Duy là một sự thể hiện đậm đặc tinh
thần của Phật rồi đến Đạo, bản thân ông cũng hoàn toàn sống cuộc đời của một tu
sĩ tại gia khi bước vào giai đoạn sau của cuộc đời. Ngược lại Nguyễn Du thể hiện
tinh thần Phật, Đạo với một sắc thái nhạt hơn so với Vương Duy. Thơ ông bàng bạc
tinh thần của Phật giáo, Lão giáo và nghiêng hẳn về truyền thống tiếp thu những
145
học thuyết ấy theo tinh thần dân tộc, ông đưa gần chúng đến với hiện thực cuộc
sống, ứng xử với cuộc sống trên nền tảng tư tưởng của tam giáo.
Khi tiến hành phân tích và tìm hiểu thơ Vương Duy và Nguyễn Du chúng tôi
cũng nhận thấy cảm hứng nổi bật của cả hai thi nhân là cảm hứng về thiên nhiên.
Trong khi Vương Duy cho thấy một con người hoàn toàn thuận theo tự nhiên, hòa
mình vào thiên nhiên thì ngược lại ở Nguyễn Du là một trạng thái tỉnh táo, độc lập
và tả thực trước thiên nhiên. Đôi lúc ông tả thực đến trần trụi, thiên nhiên trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du bộc lộ hết tất cả bản chất của nó, từ nguyên thủy, ban sơ đến
hiền hòa, say đắm. Đặc điểm này của Nguyễn Du khác hẳn với những nhà thơ khác
trong thời kì văn học trung đại, nó mang đậm dấu ấn cá nhân riêng biệt không lẫn
được với ai của ông.
Con người trong thơ Vương Duy là con người nhàn, con người mà “thân” ở
chốn hữu hình nhưng “tâm” đã vượt thoát khỏi chốn ấy. Ngược lại, con người trong
thơ Nguyễn Du là con người của trăm mối lo âu, trăm sự ràng buộc, “tấm thân
không thể thoát khỏi thế giới hữu hình”. Dẫu vậy cả hai nhà thơ đều thể hiện được
một cách sâu đậm tình cảm đối với cuộc sống, luôn trân trọng cuộc sống dù thể
hiện theo những quan niệm hay cách thức khác nhau người đọc vẫn nhận ra tâm
hồn thanh cao và trong sáng của hai thi nhân trong cuộc sống.
So sánh Vương Duy và Nguyễn Du giúp chúng ta hiểu rõ hơn Nguyễn Du
đồng thời cũng thấy được sự độc đáo của Vương Duy, ông không chỉ được biết đến
với những bài thơ Thiền mà ông còn có những vần thơ mang cảm hứng cá nhân,
những vần thơ gửi gắm tâm tình thắm thiết. Chúng ta hiểu Vương Duy qua Nguyễn
Du và cũng hiểu Nguyễn Du qua Vương Duy. Đây chính là tinh thần của so sánh
văn học. Sự giống nhau và khác nhau giữa họ giúp chúng ta nhận ra được quy luật
vận động văn học ở hai đối tượng so sánh Vương Duy và Nguyễn Du là tương đồng
không phải tiếp nhận ảnh hưởng trực tiếp, cả hai không ai tiếp nhận của đối phương
mà tiếp nhận từ một nền văn hóa có sự tương đồng với nhau qua nhiều thời kỳ lịch
sử, từ hai nền văn hóa, văn học Việt Nam – Trung Hoa có mối quan hệ gắn bó.
146
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2002), Giai thoại thơ Đường và tác giả, Nxb Văn nghệ
Tp. HCM, Tp. HCM.
2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
3. Đỗ Tùng Bách (2000), Thơ Thiền Đường Tống, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
4. Bùi Hạnh Cẩn, Việt Anh (biên dịch) (1999), Đường thơ - một thơ, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
5. Lê Nguyên Cẩn, Nguyễn Thị Diệu Linh, Trần Thị Thu Hương (2006), Tác gia
tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường – Vương Duy, Nxb Đại học
Sư phạm, Tp. HCM.
6. Giản Chi (tuyển dịch) (1993), Vương Duy thi tuyển, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
7. Trương Chính, Nguyễn Thạch Giang (2001), Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
8. Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
9. Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân (Trần Đình Sử, Lê Tẩm dịch) (2000), Nghệ thuật
ngôn ngữ thơ Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Dân (2000), Lí luận văn học so sánh, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Sĩ Đại (2007), Một số đặc trưng của thơ tứ tuyệt đời Đường, Nxb Văn
học, Hà Nội.
13. Nguyễn Danh Đạt (1999), Bình và chú giải 100 bài thơ Đường hay nhất, Nxb
Văn nghệ, Tp. HCM.
14. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (1998), Nguyễn Du về tác gia và
tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
147
15. Anh Đức, Bùi Bình Thi, Bùi Khánh Thế (2001), Bản sắc dân tộc trong văn hóa
văn nghệ, Nxb Văn học, Hà Nội.
16. Lâm Ngữ Đường (Nguyễn Hiến Lê dịch) (1994), Nhân sinh quan và thơ văn
Trung Hoa, Nxb Văn hóa, Tp. HCM.
17. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa, Huế.
18. GS.TS Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học, văn hóa vấn đề và suy nghĩ, Nxb
Khoa học Xã hội, Tp. HCM.
19. Phạm Thị Hảo (2008), Khái niệm và thuật ngữ lý luận văn học Trung Quốc,
Nxb Văn học, Hà Nội.
20. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh (Phạm Công Đạt dịch) (2000), Văn học sử
Trung Quốc (tập 2), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
21. Trịnh Hoành (2009), Sổ tay điển văn học, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
22. Hồ Sĩ Hiệp (2009), Đến với Đường thi tuyệt cú, Đại học Sư phạm Tp. HCM,
Tp. HCM.
23. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
24. Nguyễn Duy Hinh (2003), Người Việt Nam với Đạo giáo, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
25. Hòa thượng Thích Huệ Hưng (2013), Duy Ma Cật sở thuyết kinh, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
26. Cao Xuân Huy (Nguyễn Huệ Chi soạn) (2005), Tư tưởng phương Đông gợi
những điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội.
27. Trần Thị Thu Hương (2003), Một số đặc trưng cảnh giới nghệ thuật thơ Vương
Duy, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
28. Trần Trung Hỷ (2007), Thơ sơn thủy cổ trung đại Trung Quốc, Nxb Giáo dục,
Hà Nam.
29. Đinh Gia Khánh (2005), Điển cố văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
30. Trần Trọng Kiên (1995), Đường thi, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
31. Lê Đình Kỵ (2001), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Tp. HCM.
148
32. Mai Lăng (2008), Tuyển dịch thơ Đường, Nxb Văn học, Tp. HCM.
33. Nguyễn Hiến Lê (1997), Đại cương văn học sử Trung Quốc, Nxb Trẻ,
Tp. HCM.
34. Mai Quốc Liên (1996), Nguyễn Du toàn tập (Tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
35. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ 18 nửa đầu thế kỉ 19
(Tập 2), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
36. Nguyễn Lộc (1990), Nguyễn Du con người và cuộc đời, Nxb Đà Nẵng,
Tp. HCM.
37. Phương Lựu (2002), Từ văn học so sánh đến thi học so sánh, Nxb Văn học,
Hà Nội.
38. Đặng Thai Mai (dịch) (1994), Văn học sử Trung Quốc, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
39. Henri Maspero (Lê Diên dịch) (2000), Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
40. Hồ Á Mẫn (Lê Huy Tiêu dịch) (2011), Giáo trình văn học so sánh, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
41. Hân Mẫn, Thông Thiền (dịch) (2002), Từ điển Thiền Tông Hán Việt, Nxb
Tp. HCM, Tp. HCM.
42. Vũ Thế Ngọc (2006), Vương Duy chân diện mục, Nxb Tổng hợp Tp. HCM,
Tp. HCM.
43. Trần Văn Nhĩ (dịch) (2007), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn nghệ,
Tp. HCM.
44. Nguyễn Diệu Minh Chân Như (2009), “Đạm” trong tuyệt cú của Vương Duy
và Wabi trong Haiku của Basho, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại
học Sư phạm Tp. HCM, Tp. HCM.
45. Lê Đức Niệm (1998), Diện mạo thơ Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.
46. Duy Phi (2001), Đường thi tinh tuyển, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
47. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1997), Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
149
48. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học
Trung Quốc qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Nguyễn Khắc Phi (2012), Ngữ văn 9 (Tập 1), Nxb Giáo dục, Tp. HCM.
50. Ngô Văn Phú (biên soạn và tuyển chọn) (2001), Thơ Đường ở Việt Nam, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
51. Ngô Văn Phú (2001), Đường thi tam bách thủ - 300 bài thơ Đường, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
52. Hoàng Trọng Quyền (2004), Nguyễn Du và Đỗ Phủ những tương đồng và khác
biệt về tư tưởng nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Tp. HCM, Tp. HCM.
53. Vũ Tiến Quỳnh (1992), Nguyễn Du, Nxb Tổng hợp Khánh Hòa, Khánh Hòa.
54. Trần Trọng San (dịch) (1990), Kim Thánh Thán phê bình thơ Đường, Nxb Tủ
sách Đại học Tổng hợp Tp. HCM, Tp. HCM.
55. Phùng Quốc Siêu (2004), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb Văn hóa Thông
tin, Tp. HCM.
56. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại (Tài liệu bồi dưỡng
Giáo viên Văn cấp 2), Vụ giáo viên, Hà Nội.
57. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
58. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (2005), Văn học so sánh nghiên
cứu và triển vọng, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
59. Dịch Quân Tả (Huỳnh Minh Đức dịch) (1992), Văn học sử Trung Quốc (Quyển
1), Nxb Trẻ, Tp. HCM.
60. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại tác giả tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam (Tập 2), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
61. Lê Thị Thanh Tâm (2007), Nghiên cứu so sánh thơ Thiền Lý Trần Việt Nam và
thơ Thiền Đường Tống Trung Quốc, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp. HCM, Tp. HCM.
62. Cao Tự Thanh (1995), Giai thoại thơ Đường, Nxb Phụ nữ, Long An.
150
63. Nguyễn Bá Thành (2006), Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
64. Nguyễn Kim Thản, Hồ Hải Thụy, Nguyễn Đức Dương (2005), Từ điển tiếng
Việt, Nxb Văn hóa Sài Gòn, Tp. HCM.
65. Trần Nho Thìn (2012), Kiểu tác giả của văn học trung đại trong văn học Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
66. Nguyễn Khắc Thuần (2005), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (Tập 2), Nxb
Giáo dục, Tp. HCM.
67. Lương Duy Thứ (2000), Bài giảng văn học Trung Quốc, Nxb Đại học Quốc gia
Tp. HCM.
68. Lương Duy Thứ (2005), Thi pháp thơ Đường, Nxb Đại học Sư phạm,
Tp. HCM.
69. Lương Duy Thứ, Đỗ Vạn Hỷ (2008), Giáo trình văn học Trung Quốc, Nxb Đại
học Quốc gia Tp. HCM, Tp. HCM.
70. Lao Tử, Thịnh Lê (Trương Đình Nguyên, Mai Xuân Hải, Trần Quyền, Nguyễn
Đức Sâm, Phan Văn Các dịch) (2001), Từ điển Nho – Phật – Đạo, Nxb Văn
học, Tp. HCM.
71. Lão Tử (Phan Ngọc dịch) (2001), Đạo đức kinh dễ hiểu, Nxb Văn học, Hà Nội.
72. Hòa thượng Thích Thanh Từ (2011), Kinh Kim Cang giảng giải, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
73. Trần Thu Trang (2012), Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, Luận văn
thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM, Tp. HCM.
74. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (2006), Việt Nam những sự
kiện lịch sử (Từ khởi thủy đến 1858), Nxb Giáo dục, Huế,
75. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (2002), Đại Nam thực lục
(Tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
76. Lê Quang Trường (2005), Chất tài tử trong thơ Lý Thương Ẩn và thơ Nguyễn
Du, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn Tp. HCM, Tp. HCM.
151
77. Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt
Nam thế kỷ X – XIV, Nxb Văn học, Tp. HCM.
78. Đoàn Thị Thu Vân, Lê Trí Viễn, Lê Thu Yến, Lê Văn Lực (2009), Văn học
trung đại Việt Nam – Thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX, Nxb Giáo dục,
Tp. HCM.
79. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
80. Viện Văn học (2001), Văn học so sánh lý luận và ứng dụng, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
81. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà Nho tài tử và
văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
82. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh
niên, Tp. HCM.
83. Lê Thu Yến, Đoàn Thị Thu Vân, Lê Văn Lực, Phạm Văn Nhu (2003), Văn học
trung đại những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Tp. HCM.
Tạp chí:
84. Nguyễn Huệ Chi (1978), “Các yếu tố Nho – Phật – Lão được tiếp thu và
chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học thời đại Lý –
Trần”, Tạp chí Văn học, (6), tr.76-94.
85. Vu Tại Chiếu (2007), “Mối quan hệ giữa “nhập thế” của Phật giáo Việt Nam
với sự hình thành và phát triển của văn học cổ điển Việt Nam”, Nghiên cứu
Văn học, (9), tr.15-27.
86. Biện Minh Điền (2005), “Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học trung đại
Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (4), tr.81-90.
87. Đoàn Lê Giang (2003), “Basho – Nguyễn Trãi – Nguyễn Du, những hồn thơ
đồng điệu”, Tạp chí Văn học, (6), tr.33-42.
88. Đặng Thanh Lê (1995), “Tiếp cận một số vấn đề tiếp nhận ngôn ngữ và tư
tưởng triết học Trung Quốc thời kì trung đại”, Tạp chí Văn học, (2), tr.9-11.
152
89. Tạ Ngọc Liễn (1994), “Về tính dân tộc trong thơ cổ, trung đại Việt Nam”, Tạp
chí Văn học, (11), tr.20-22.
90. Nguyễn Thị Nương (2011), “Con người thương thân – một biểu hiện độc đáo
của ý thức cá nhân trong thơ chữ Hán Nguyễn Du”, Nghiên cứu Văn học,
(9), tr.143-150.
91. Bùi Duy Tân (1995), “Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn học chữ
Nôm ở Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (2), tr.12-15.
92. Trần Nho Thìn (1994), “Mối quan hệ giữa cái “tôi” nhà Nho và thực tại trong
văn chương thời cổ”, Tạp chí Văn học, (2), tr.32-37.
93. Hà Thu (1995), “Đăng cao – một truyền thống văn hóa phương Đông”, Văn
hóa dân gian, (2), tr.3-6.
94. Đào Thái Tôn (2011), “Chữ “Đạo” trong sách Lão Tử qua lời giảng của Giáo
sư Cao Xuân Huy”, Tạp chí Hán Nôm, (6), tr.32-36.
95. Nguyễn Thanh Tùng (2011), “Nguyễn Du với tư tưởng Đạo gia”, Nghiên cứu
văn học, (9), tr.130-142.
Tài liệu web:
96. Huỳnh Quán Chi: “Phật kinh trong thơ văn Nguyễn Trãi và Nguyễn Du”:
http://www.lien-hoa.net/PhatKinhTrongThoVanNgTraiNgDu.html
97. Võ Thị Minh Phụng: “Tìm hiểu nội dung thiền thú trong thơ Vương Duy và
Huyền Quang”: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.Việt Nam/home/iNguyễn
Duex.php?option=com_content&view=article&id=2396:tim-hiu-ni-dung-
thin-thu-trong-th-Việt Namg-duy-va-huyn-quang-&catid=121:ht-vit-nam-
trung-quc-nhng-quan-h-Việt Nam-hoa-Việt Nam&Itemid=187
98. Đinh Vũ Thùy Trang: “Về thơ Vương Duy”:
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c175/n3420/Ve-tho-Vuong-
Duy.html
1. Tạp thi – Giản Chi dịch xuôi
2. Điểu minh giản – Giản Chi dịch xuôi
3. Sơn thù du – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
4. Tương tư – Giản Chi dịch xuôi
5. Sơn trung – Giản Chi dịch xuôi
6. Hàn thực ti thượng tác – Giản Chi dịch xuôi
7. Cửu nguyệt cửu nhật ức sơn trung huynh đệ - Giản Chi dịch xuôi
8. Hỉ đề bàn thạch – Giản Chi dịch xuôi
9. Tống nguyên Nhị sứ An Tây – Giản Chi dịch xuôi
10. Tống biệt – Giản Chi dịch xuôi
11. Đào nguyên hành – Giản Chi dịch xuôi
12. Thanh khê – Giản Chi dịch xuôi
13. Phụng ký vi thái thú Trắc – Giản Chi dịch xuôi
14. Hối nhật du đại lý vị thanh thành Nam biệt nghiệp – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
15. Xuân dạ trúc đình tặng Tiền thiếu phủ quy Lam Điền – Giản Chi dịch xuôi
16. Tích vũ Võng Xuyên trang tác – Ngô Văn Phú dịch xuôi
17. Đăng Hà Bắc thành lâu tác – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
18. Đông vãn đối tuyết ức Hồ cư sĩ gia – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
19. Chung Nam biệt nghiệp – Giản Chi dịch xuôi
20. Sứ chí tắc thượng – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
21. Chung Nam sơn – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
22. Thù Trương thiếu phủ - Giản Chi dịch xuôi
23. Hán giang lâm phiến – Giản Chi dịch xuôi
24. Quy tung sơn tác – Giản Chi dịch xuôi
25. Sơn cư thu minh – Giản Chi dịch xuôi
26. Quá Hương Tích tự - Giản Chi dịch xuôi
27. Quy Võng Xuyên tác – Giản Chi dịch xuôi
28. Lâm đình hồ - Giản Chi dịch xuôi
29. Nam mang – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
30. Hoa tử cương – Giản Chi dịch xuôi
31. Câu trúc lãnh – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
32. Lộc trại – Giản Chi dịch xuôi
PHỤ LỤC: CÁC BÀI THƠ VƯƠNG DUY DÙNG ĐỂ KHẢO SÁT
33. Văn hạnh quán – Giản Chi dịch xuôi
34. Mộc lan trại – Giản Chi dịch xuôi
35. Thù tri phiến – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
36. Ca hồ - Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
37. Liễu lãng – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
38. Loan gia lại – Giản Chi dịch xuôi
39. Kim tiết tuyền – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
40. Trúc lý quán – Giản Chi dịch xuôi
41. Cung hòe mạch – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
42. Bắc mang – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
43. Bạch thạch khê – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
44. Tân Di ổ - Giản Chi dịch xuôi
45. Tất viên – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
46. Tiêu viên – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
47. Mạnh Thành ao – Giản Chi dịch xuôi
48. Hàn thực thành đông tức sự - Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
49. Vị Xuyên điền gia – Giản Chi dịch xuôi
50. Tế Châu tống tổ tam – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
51. Hồng mẫu đơn – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
52. Tống Hạ Toại viên ngoại ngoại sanh – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
53. Kì thượng tức sự điền viên – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
54. Quá cảm hóa tự Đàm Hưng thượng thôn sơn viện – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
55. Khốc An Dao – Giản Chi dịch xuôi
56. Điền viên lạc 1 – Giản Chi dịch xuôi
57. Điền viên lạc 2 – Giản Chi dịch xuôi
58. Điền viên lạc 3 – Giản Chi dịch xuôi
59. Điền viên lạc 4 – Giản Chi dịch xuôi
60. Điền viên lạc 5 – Giản Chi dịch xuôi
61. Bình trì – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
62. Thượng bình điền – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
63. Vãn xuân Nghiêm Thiếu Quân dữ chư công quan quá – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
64. Thiếu niên hành – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
65. Đề hữu nhân vân mẫu trướng tử - Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
66. Tức phu nhân – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
67. Lưu biệt Thôi Hưng Tôn – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
68. Thu dạ khúc – Giản Chi dịch xuôi
69. Kí sùng Phạm Tăng – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
70. Du Lý sơn nhân sở cư nhân đề thất bích – Giản Chi dịch xuôi
71. Thu dạ độc tọa – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
72. Tùng quân hành – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
73. Khốc Mạnh Hạo Nhiên – Giản Chi dịch xuôi
74. Võng Xuyên biệt nghiệp – Giản Chi dịch xuôi
75. Tống Trần Tử Phú quy Giang Đông – Vũ Thế Ngọc dịch xuôi
76. Lão tướng hành – Ngô Văn Phú dịch xuôi
77. Ban tiệp dư – Giản Chi dịch xuôi
78. Dữ Lư viên ngoại tượng quá thôi xử sĩ Hưng Tông lâm đình – Giản Chi dịch xuôi
79. Phỏng Lã dật nhân bất ngộ - Trần Trọng San dịch xuôi
80. Ôn tuyền ngụ mục – Trần Trọng San dịch xuôi
81. Quá như thiền sư túc cư sĩ tung Khâu lan nhã – Trần Trọng San dịch xuôi
82. Lam Điền thạch môn tỉnh xá – Giản Chi dịch xuôi
83. Vi thủ lang sơn cư – Giản Chi dịch xuôi
84. Tặng từ trung thư – Giản Chi dịch xuôi
85. Tống hữu nhân quy sơn 1 – Giản Chi dịch xuôi
86. Tống hữu nhân quy sơn 2 – Giản Chi dịch xuôi
87. Đáp Trương ngũ đệ - Giản Chi dịch xuôi
88. Hí tặng Trương ngũ đệ 2 – Giản Chi dịch xuôi
89. Tặng Lý Kì – Giản Chi dịch xuôi
90. Tặng Tổ tam vịnh – Giản Chi dịch xuôi
91. Tặng Bùi Thập Dịch – Giản Chi dịch xuôi
92. Thôi Bộc Dương huynh – Giản Chi dịch xuôi
93. Thù chư công kiến quả - Giản Chi dịch xuôi
94. Phạn Phúc Phủ sơn tăng – Giản Chi dịch xuôi
95. Phụng họa thánh chế tòng Bồng Lai – Ngô Văn Phú dịch xuôi
96. Quá Lý ấp trạch – Giản Chi dịch xuôi
97. Sơn trung thi đệ đẳng – Giản Chi dịch xuôi
98. Hiểu hành Ba giáp – Giản Chi dịch xuôi
99. Đông nhật du lãm – Giản Chi dịch xuôi
100. Túc trịnh châu – Giản Chi dịch xuôi
101. Ngẫu tác 1 – Giản Chi dịch xuôi
102. Ngẫu tác 2 – Giản Chi dịch xuôi
103. Khổ nhiệt – Giản Chi dịch xuôi
104. Nạp lương – Giản Chi dịch xuôi
105. Quan biệt giả - Giản Chi dịch xuôi
106. Tây Thi vịnh – Giản Chi dịch xuôi
107. Lạc Dương nữ nhi hành – Giản Chi dịch xuôi
108. Qua viên – Giản Chi dịch xuôi
109. Ngẫu nhiên tác – Giản Chi dịch xuôi
110. Phù nam khúc ca từ 1 – Giản Chi dịch xuôi
111. Phù nam khúc ca từ 4 – Giản Chi dịch xuôi
112. Phù nam khúc ca từ 5 – Giản Chi dịch xuôi
113. Y hồ - Giản Chi dịch xuôi
114. Liên hoa ổ - Giản Chi dịch xuôi
115. Ban tiệp dư 2 – Giản Chi dịch xuôi
116. Ban tiệp dư 3 – Giản Chi dịch xuôi
117. Sơn trung ký chư đệ muội – Giản Chi dịch xuôi
118. Văn tú tài Bùi Địch ngâm thi tặng – Giản Chi dịch xuôi
119. Thôi cửu đệ - Giản Chi dịch xuôi
120. Thôi Hưng Tông – Giản Chi dịch xuôi
121. Khẩu hào hựu thị Bùi Địch – Giản Chi dịch xuôi
122. Tạp thi – Giản Chi dịch xuôi
123. Tặng Vi mục – Giản Chi dịch xuôi
124. Thư sự - Giản Chi dịch xuôi
125. Tống xuân từ - Giản Chi dịch xuôi
126. Khuê nhân tặng viễn 1 – Giản Chi dịch xuôi
127. Khuê nhân tặng viễn 2 – Giản Chi dịch xuôi
128. Khuê nhân tặng viễn 3 – Giản Chi dịch xuôi
129. Khuê nhân tặng viễn 4 – Giản Chi dịch xuôi
130. Khuê nhân tặng viễn 5 – Giản Chi dịch xuôi
131. Ngẫu nhiên tác 6 – Giản Chi dịch xuôi
132. Xuân trung điền viên tác – Giản Chi dịch xuôi
133. Lý xử sĩ sơn cư – Giản Chi dịch xuôi
134. Biệt đệ Tấn – Giản Chi dịch xuôi
135. Biệt đệ muội – Giản Chi dịch xuôi
136. Tứ Thanh tự Tống chấp nhị - Giản Chi dịch xuôi
137. Tống Trương ngũ đệ - Giản Chi dịch xuôi
138. Thôi lục sự - Giản Chi dịch xuôi
139. Độ Hà đáo Thanh hà tác – Giản Chi dịch xuôi
140. Đông dạ thư hoài – Giản Chi dịch xuôi
141. Quá phúc thiền sư Lan nhược – Giản Chi dịch xuôi
142. Bị xuất Tế Châu – Giản Chi dịch xuôi
143. Thiên tháp chủ nhân – Giản Chi dịch xuôi
144. Thành văn học – Giản Chi dịch xuôi
145. Võng Xuyên nhàn cư – Giản Chi dịch xuôi
146. Võng Xuyên nhàn cư tặng Bùi Địch – Giản Chi dịch xuôi
147. Vi cấp sự sơn cư – Giản Chi dịch xuôi
148. Ba nam chu trung – Giản Chi dịch xuôi
149. Cao cốc khẩu chiêu – Giản Chi dịch xuôi
150. Đề sơn tăng phòng – Giản Chi dịch xuôi
151. Tống Tử Châu Lý sứ quân – Giản Chi dịch xuôi
152. Tống hữu nhân – Giản Chi dịch xuôi
153. Kỳ thương tống Triệu Tiên Châu – Giản Chi dịch xuôi
154. Họa giả chí xá nhân tảo triều đại minh cung chi tác – Giản Chi dịch xuôi
155. Quan lạp – Giản Chi dịch xuôi
156. Tảo thu sơn – Giản Chi dịch xuôi
157. Tống Mạnh lục quy Tương Dương - Giản Chi dịch xuôi
158. Vãn xuân khuê tứ - Giản Chi dịch xuôi
159. Vũ uy mộ xuân – Giản Chi dịch xuôi
160. Sơn cư tức sự - Giản Chi dịch xuôi
161. Tân tình vãn vọng – Giản Chi dịch xuôi
162. Hạ nhật quá Thanh Long yết Thao thiền sư – Giản Chi dịch xuôi
163. Thán bạch phát – Giản Chi dịch xuôi
164. Thán bạch phát – Giản Chi dịch xuôi
165. Thu dạ khúc – Giản Chi dịch xuôi
166. Cung oán – Giản Chi dịch xuôi
167. Tư khẩu thành khẩu hào – Giản Chi dịch xuôi
168. Chước tửu – Giản Chi dịch xuôi
169. Khốc Ân Dao – Giản Chi dịch xuôi 170. Lưu biệt Khâu Vi – Giản Chi dịch xuôi