ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
THƠ TRIỆU KIM VĂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Thái Nguyên – 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG
THƠ TRIỆU KIM VĂN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Thái Nguyên – 2014
-
.
.
-
.
C
hơn.
.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
g 4 năm 2014.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
. .
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Lời cam đoan ...................................................................................................... iii
Mục lục ............................................................................................................... iv
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 9
Chƣơng 1: TỘC
THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ....................................................................... 9
........................................... 9
im Văn ......................................................... 9
1.1.2. Quan điểm sáng tác. ............................................................................... 10
1.2. Quá trình sáng tác và các giải thưởng. ............................................................. 11
1.3
hiện đại ..................................................................................................................... 12
1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến thơ Triệu Kim Văn .......................................... 16
1.4.1. Bản sắc văn hóa dân tộc Dao ................................................................. 16
1.4.2. Truyền thống văn hóa - văn học quê hương Bắc Kạn .......................... 17
1.4.3. ........... 19
Chƣơng 2: HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG TRONG THƠ TRIỆU KIM VĂN .... 21
2.1. Khái quát về biểu tượng và biểu tượng trong thơ ............................................ 21
2.1.1. Khái quát về biểu tượng ......................................................................... 21
2.1.2. Biểu tượng trong thơ .............................................................................. 23
2.2. Hệ thống biểu tượng trong thơ Triệu Kim Văn ............................................... 27
............................................. 27
......................................... 37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
........................................... 45
Chƣơng 3: GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG
THƠ TRIỆU KIM VĂN ....................................................................................... 54
3.1. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn ............................................ 54
3.1.1. Khái quát về giọng điệu nghệ thuật ...................................................... 54
3.1.2. Đặc điểm giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn ................. 58
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn .............................................. 71
3.2.1. Khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật ........................................................ 71
3.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn ................... 74
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................ 85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 88
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tạo nên diện mạo văn học Việt Nam hiện đại có sự đóng góp không
nhỏ của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng, thơ ca dân tộc thiểu số
Việt Nam nói chung. Nếu ví nền thơ ca Việt Nam hiện đại như một vườn hoa
trăm hồng ngàn tía thì thơ ca dân tộc thiểu số là những bông hoa rừng với
những hương sắc riêng. Có thể nói, cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, đồng thời khai sinh ra một nền văn hóa mới, trong đó
đã làm phục sinh vốn văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số, thúc đẩy
và làm nảy nở nhiều tài năng văn học dân tộc thiểu số. Tuy xuất hiện muộn và
phát triển chậm hơn so với bước tiến của văn học hiện đại Việt Nam, nhưng
văn học các dân tộc thiểu số thời kì hiện đại, trong đó có thơ ca, đã có những
vận động và phát triển nhanh chóng. Bên cạnh sự phát triển của thơ ca dân tộc
Tày, Thái, Mông ...thơ ca dân tộc Dao tuy chưa có một đội ngũ các nhà thơ
đông đảo nhưng đã có “ một vị trí nhất định trong đời sống thơ ca các dân tộc
thiểu số Việt Nam”[45.353]. Nghiên cứu thơ ca dân tộc Dao là một việc làm
cần thiết để góp phần vào việc hoàn chỉnh bức tranh thơ ca dân tộc thiểu số
Việt Nam.
1.2. Đóng góp và ghi dấu vào sự phát triển của thơ ca hiện đại dân tộc
Dao, bên cạnh nhà thơ Bàn Tài Đoàn là tên tuổi của nhà thơ Triệu Kim Văn -
người kế tục xứng đáng “Bó đuốc sống” [45.354] của dân tộc này. Tuy vị trí
của thơ ca Triệu Kim Văn là quan trọng trong thơ ca dân tộc Dao, nhưng cho
đến nay, việc nghiên cứu thành tựu sáng tác của Triệu Kim Văn chưa được tiến
hành một cách thỏa đáng. Đây vẫn còn là một khoảng trống, một mảng thiếu
hụt cần được bù đắp. Nó là một việc làm cần thiết để có cái nhìn toàn cảnh về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
diện mạo thơ ca dân tộc Dao.
1.3. Văn học các dân tộc thiểu số đã góp phần tạo nên diện mạo của nền
văn học Việt Nam – một nền văn học phong phú và giàu bản sắc, nhưng trong
nhiều năm qua văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam vẫn chưa thực sự thu hút
sự quan tâm chú ý đúng mức của giới nghiên cứu, phê bình nói chung, của một
số cấp ngành nói riêng, trong đó có ngành GD&ĐT. Vì thế, các công trình
nghiên cứu, sưu tầm, phê bình văn học...., các sách giáo khoa, giáo trình viết về
văn học các dân tộc thiểu số nói chung vẫn trong tình trạng thưa thớt. Trong đó,
mảng văn học địa phương đưa vào giảng dạy trong nhà trường đến các cấp học
(Trung học phổ thông, trung học cơ sở), giáo trình cho văn học địa phương còn
thiếu thốn. Qua việc nghiên cứu đề tài “Thơ Triệu Kim Văn”, chúng tôi hy
vọng sẽ bổ sung được một tư liệu bổ ích cho công tác giảng dạy văn học địa
phương Bắc Kạn nói riêng và văn học thiểu số Việt Nam nói chung.
1.4. Trong khoảng hai mươi năm qua (Từ những năm 90 của thế kỷ trước
tới nay), văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam đã có được những thành tựu
đáng ghi nhận, nhưng sự chững lại của thơ dân tộc thiểu số trong những năm
gần đây đặt ra những vấn đề quan thiết: Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện
đại trong thơ dân tộc thiểu số; Sự mai một của bản sắc dân tộc thiểu số trong
cuộc sống hiện đại hôm nay; Vấn đề viết bằng tiếng mẹ đẻ và đối tượng độc giả
của nó; Viết bằng tiếng Việt và yêu cầu chuyển tải cách cảm, cách nghĩ, lối nói,
lối diễn đạt của người miền núi... Qua việc nghiên cứu đề tài “Thơ Triệu Kim
Văn”, chúng tôi mong muốn góp câu trả lời cho rất nhiều vấn đề đã – đang
được đặt ra và còn để ngỏ trên đây.
1.5. Các nhà nghiên cứu văn học ở Trường Đại học sư phạm - Đại học
Thái Nguyên đang tiến hành tổ chức biên soạn cuốn giáo trình văn học dân tộc
thiểu số văn học Việt Nam hiện đại để phục vụ cho việc giảng dạy ở cấp Đại
học, sau ĐH đề tài “Thơ Triệu Kim Văn” nếu thực hiện thành công, chúng tôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hy vọng sẽ có một tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác dạy và học phần văn
học thiểu số nói riêng và trong chuyên ngành văn học nói chung ở các trường
đại học ngành Sư phạm.
2. Lịch sử vấn đề:
So với việc nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại nói chung thì những
nghiên cứu dành cho mảng văn học dân tộc thiểu số còn ở mức độ khiêm tốn.
Trong bối cảnh đó, trong số các bài nghiên cứu, phê bình thơ ca dân tộc thiểu
số Việt Nam hiện đại, việc nghiên cứu thơ của Triệu Kim Văn còn rất ít ỏi,
thưa thớt. Một số bài viết và công trình đã có những tìm hiểu, đánh giá về một
số phương diện trong thơ Triệu Kim Văn ở những mức độ khác nhau.
Trong cuốn chuyên luận Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại
- Một số đặc điểm (PGS. TS Trần Thị Việt Trung - TS Cao Thị Hảo đồng
chủ biên), các tác giả đã có những nhận diện khái quát và chỉ ra một đặc điểm
quan trọng trong thơ Triệu Kim Văn: “Yếu tố tâm linh hòa quyện trong sự ước
muốn hồn nhiên, chất phác – phản ánh mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên thật gắn bó, hài hòa. Đây cũng là nguồn sức mạnh để giúp con người
miền núi gần gũi, chan hòa với thiên nhiên và sản xuất tích cực hơn” [45.210].
Trong cuốn sách Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại (PGS. TS Trần Thị Việt Trung chủ biên), các tác giả đã có những
nhận định về đặc trưng phong cách mang tính đóng góp của thơ Triệu Kim
Văn, vẫn mang những nét truyền thống của văn hóa Dao, nhưng đã có sự hiện
đại, đổi mới để tạo nên nét riêng: “Được thừa hưởng những giá trị văn hóa đầy
bản sắc của dân tộc Dao, Triệu Kim Văn đã cất lên một tiếng thơ, một giọng
Páo dung mới tươi rói, đầy sức trẻ và ngồn ngộn sức sống… Bằng sự thể hiện
linh hoạt trong hình thức thể loại, sự mới mẻ và đầy sáng tạo trong cách cảm,
cách nghĩ, cách diễn đạt, Triệu Kim Văn đã phần nào tiếp cận và hòa nhịp với
đời sống thơ ca đương đại cũng như hòa mình với dòng hải lưu thơ ca các dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tộc thiểu số Việt Nam vốn đã rất phong phú và giàu bản sắc” [46.354].
Trong cuốn sách Hoa văn thổ cẩm, tác giả Lò Ngân Sủn đã chỉ ra chất
dân tộc hòa quyện hiện đại trong thơ Triệu Kim Văn. Tác giả khi bình về một
số bài thơ của Triệu Kim Văn đã rất tinh tường và sâu sắc để đưa ra đánh giá:
“chất dân ca, dân dã của điệu Páo dung đã được hòa quyện vào trong hơi thở
hiện đại, cái dân tộc đã được hòa nhập vào nhân loại, với một giọng điệu khá
hào hoa, phong nhã, với một lối kết cấu, bố cục tự do, tung tẩy, phóng thoáng”
[33.55].
“ n, Nông Minh Châu,
-
…
” ông
[7.131]
Khóa luận tốt nghiệp Thơ dân tộc Dao từ Bàn Tài Đoàn đến Triệu Kim
Văn của tác giả Phùng Thị Thuận khảo sát khá công phu, từ đó có cái nhìn đối
sánh để chỉ ra sự vận động phát triển của thơ Dao, trong đó thơ Triệu Kim Văn
được đặt vào vị trí một chủ thể quan trọng của tiến trình vận động phát triển ấy:
“Nếu nhà thơ Bàn Tài Đoàn được ví là cây cao bóng cả của thơ Dao, thì Triệu
Kim Văn chính là người tiếp tục vun trồng để cho bóng cây thơ ca dân tộc Dao
mãi mãi xanh tươi” [38.25]; “Nhà thơ Bàn Tài Đoàn là người đã đặt nền móng
cho thơ dân tộc Dao thời kì trước cách mạng tháng Tám. Còn trong thời kì hiện
đại, nhà thơ Triệu Kim Văn là người kế thừa và phát triển thơ Dao. Thơ của
hai ông đã phản ánh rất chân thực và sinh động cuộc sống của dân tộc Dao, nó
tồn tại như một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với đồng bào Dao”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
[38.86].
Cùng với đó, một số bài viết cũng đã đóng góp những cách tiếp cận, nhận
diện thơ Triệu Kim Văn.
Bài bình tác phẩm Đá núi Đồng Văn của Vân Long chỉ ra cái thần, cái hồn
của một người con miền núi ngự trong sâu thẳm tâm thức rồi hiện lên trong thơ
Triệu Kim Văn. Tác giả bài viết đánh giá: “tác giả đã tạo một thế liên lập giữa
con người (người Mông), thiên nhiên, (từ một hùng vĩ Đồng Văn đó mà có) văn
hoá (văn Nguyễn Tuân, thơ Xuân Diệu). Ý tưởng không mới, nhưng cách nói
hay” [24].
Bài viết Xuân của hương ngàn của Lâm Tiến trong cuốn sách Về một mảng
văn học dân tộc đã chỉ ra hồn thơ tươi tắn, giàu tin yêu và gắn bó tha thiết với
quê hương của Triệu Kim Văn: “Mùa xuân gắn với thiên nhiên, cuộc sống con
người miền núi. Lời mùa xuân là lời của đất, của cây, của suối, của mây, gần
gũi thân quen” [41.181].
Bài viết Người về theo lối cỏ của Tuệ Minh đã khẳng định một cách mạnh
mẽ, thuyết phục về tiếng nói dân tộc, giọng điệu dân tộc, tâm hồn dân tộc trong
thơ Triệu Kim Văn. Tác giả viết: “với một nhà thơ - người viết ra những ý tứ,
nhịp điệu, rung động của tâm hồn mình thì văn hoá tộc người là một suối
nguồn mát lành chở đầy phù sa bồi đắp nên những thức điệu tâm hồn. Nhà thơ
Triệu Kim Văn trên hành trình của mình đã đi, đã đến với dòng suối nguồn ấy,
đồng thời góp thêm một mạch nguồn khơi dậy những tình tự dân tộc” [28].
Như vậy qua các công trình nghiên cứu, các bài viết... chúng ta nhận thấy
các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc phát hiện ra một số đặc
điểm về nội dung, nghệ thuật nổi bật trong thơ Triệu Kim Văn. Nhưng nhìn
chung các bài viết này mới chỉ dừng lại nghiên cứu một khía cạnh, một mặt nào
đó trong thơ Triệu Kim Văn. Cho đến nay, chưa có một công trình nào đi sâu
nghiên cứu, khảo sát toàn diện và có hệ thống về thơ ông, để từ đó rút ra những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đặc điểm khái quát về nội dung tư tưởng, nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn.
Tuy nhiên, đây là những nhận định hết sức đáng quý, gợi mở cho chúng tôi
nhiều vấn đề tìm hiểu một cách hệ thống, toàn diện về thơ Triệu Kim Văn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Tiến hành thực hiện luận văn, chúng tôi tập trung tìm hiểu nét đặc sắc ở
phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của thơ Triệu Kim Văn.
. Từ đó,
luận văn chỉ ra thành công, hạn chế và đóng góp của thơ Triệu Kim Văn với
thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng, với thơ ca Việt Nam hiện đại
nói chung.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Để thực hiện đề tài, chúng tôi nghiên cứu, khảo sát, phân tích, đánh giá 10 tập
thơ của Triệu Kim Văn: Hoa núi (1989); Mùa sa nhân (1994); Lá tìm nhau
(1999); Con của núi (Thơ song ngữ Dao- Việt- 2002); Lửa của mồ côi (2002);
Lối cỏ (2004); Suối nguồn du du (Thơ song ngữ Dao- Việt- 2010); Hoa nắng
(2010); Trời về (2010); Sợi mưa hiền (2011).
- Các tác phẩm thơ của một số nhà thơ dân tộc khác nhằm so sánh, đối chiếu
làm nổi bật những nét riêng trong thơ Triệu Kim Văn.
4. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài “Thơ triệu Kim Văn”, luận văn nhằm chỉ rõ tính
truyền thống trong thơ và sự kế thừa phát triển thơ Dao trong thời kỳ hiện đại
của thơ Triệu Kim Văn. Đồng thời, qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi muốn
khẳng định những đóng góp của thơ Triệu Kim Văn đối với sự phát triển của
thơ Dao nói riêng và thơ ca dân tộc chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ
Triệu Kim Văn, khẳng định tính truyền thống và tính hiện đại trong sáng tác
của nhà thơ này, từ đó chỉ ra những đóng góp, thành công và hạn chế, cũng như
cá tính sáng tạo của thơ Triệu Kim Văn.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Tiến hành luận văn, chúng tôi tích hợp đồng bộ một số phương
pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp đồng bộ phương pháp nghiên
cứu nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu
.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Văn hóa và văn học có những mối quan
hệ tương hỗ, biện chứng. Muốn giải quyết vấn đề của luận văn, cần tiếp cận từ
giác độ văn hóa học. Sử dụng phương pháp tiếp cận này, chúng tôi khai thác
những vẻ đẹp và đặc trưng của văn hóa dân tộc thiểu số nói chung, văn hóa dân
tộc Dao nói riêng thể hiện trong thơ Triệu Kim Văn.
- Các thao tác nghiên cứu khác: Ngoài việc sử dụng thao tác phân tích tác
phẩm theo loại thể, chúng tôi kết hợp sử dụng một số thao tác như tổng hợp,
, so sánh nhằm khảo sát tác phẩm một cách chi tiết và hệ thống.
- i:
.
7. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên khảo sát, phân tích, đánh giá toàn
bộ sự nghiệp sáng tác thơ ca của nhà thơ Triệu Kim Văn. Từ đó, khẳng định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thành tựu, đóng góp cũng như hạn chế của thơ Triệu Kim Văn với nền văn học
thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng và nền thơ Việt Nam hiện đại nói chung.
.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Thơ Triệu Kim Văn trong thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
đại.
Chƣơng 2: Hệ thống biểu tượng trong thơ Triệu Kim Văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Chƣơng 3: Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn.
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
THƠ TRIỆU KIM VĂN TRONG
THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1. Tiểu sử và quan điểm sáng tác
1.1.1. Tiểu sử
Tiểu sử đầy đủ và chân thật nhất của một nhà thơ nằm ngay trong chính
tác phẩm của nhà thơ đó. Do vậy, những điều mà một nhà thơ tự viết về mình
bao giờ cũng là một nguồn tư liệu quan trọng và đáng tin cậy để tìm hiểu tác
giả ấy. “Tôi tự hào là đứa con của đại ngàn, với những cánh rừng nguyên sinh
âm u, mây buông sương ủ, nơi núi đá tai mèo dựng đứng như bờm ngựa
chiến... Tôi sinh ra trên tay người mẹ nghèo hiền lành, buổi chập chững theo
các anh chị lên nương ngơ ngác nghe kể đầy gùi cổ tích...” (Trích “Đối khúc
đại ngàn”). Đó là những lời của nhà thơ dân tộc Dao đỏ Triệu Kim Văn - nhà
thơ người Dao đầu tiên của Bắc Kạn đang tự viết về mình. Có thể nói, sau Bàn
Tài Đoàn, tên tuổi Triệu Kim Văn đã góp phần làm phong phú thêm cho đời
sống thơ ca dân tộc Dao nói riêng và thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói
chung.
Triệu Kim Văn (bút danh Hoa Sơn) sinh ngày 14.7.1945 ở vùng quê
Cao Sơn, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Vùng đất ấy với “núi
cao sừng sững như đỡ lấy bầu trời, nơi bản làng ẩn trong mây núi bao phủ, nơi
có những bài láu ton (hát ru) độc đáo”...[28] vừa là môi trường sống, vừa là
không gian văn hóa nuôi dưỡng tâm hồn con người, vừa là nguồn cảm hứng
trong các sáng tác của Triệu Kim Văn.
Mười ba tuổi Triệu Kim Văn biết nói tiếng Kinh, lúc này ông đi học tại
trường thiếu nhi vùng cao Việt Bắc. Ông tâm sự: Thuở ấy mọi người đặt cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ông biệt danh “con mọt sách” vì khi ông biết tiếng Kinh ông đã đọc rất nhiều,
cả kho sách văn học của thư viện nhà trường đều được ông đọc bằng hết. Học
hết lớp 7, ông tiếp tục sang trường Bổ túc Công - Nông học lớp 8, sau đó ông
học sư phạm và giảng dạy tại trường trung cấp Công nghiệp nhẹ của Bộ công
nghiệp. Năm 1973 ông thi vào đại học tổng hợp Hà Nội, ra trường ông về công
tác tại Ban dân tộc tỉnh ủy Bắc Thái, rồi công tác tại huyện ủy Bạch Thông.
Đến năm 1997, ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam. Từ đó, ông hoạt
động chuyên bên văn học nghệ thuật và giữ chức chủ tịch hội Văn học nghệ
thuật tỉnh Bắc Kạn cho đến lúc nghỉ hưu.
Cuộc đời Triệu Kim Văn là một minh chứng sống động cho sự nỗ lực tự
vượt lên chính mình, bằng nền tảng là cội nguồn cốt cách văn hóa của dân tộc
Dao để hòa mình vào dòng chảy chung của đời sống văn hóa – văn học Việt
Nam. Trong suốt cuộc đời sáng tạo nghệ thuật không ngừng nghỉ của mình, dù
ở đâu, dù lúc nào, dù làm gì, nhà thơ Triệu Kim Văn vẫn luôn như một con
chim của núi rừng, uống nước khe ngậm lúa nương mà hót lên những bài ca
của quê hương xứ sở.
1.1.2. Quan điểm sáng tác.
Dù đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng và ghi nhận trong sáng
tác thơ ca, nhưng khi được hỏi về quan điểm sáng tác thì nhà thơ Triệu Kim
Văn khiêm tốn: “Tôi chưa bao giờ nhận mình là nhà thơ”. Suy nghĩ về nghề
văn, ông cho rằng: “Sáng tác là một phần của cuộc sống. Và thơ là tình yêu, là
nhịp đập của trái tim”.[55.64] Đến với thơ, Triệu Kim Văn chỉ nghĩ đơn giản
và chân thành: Thơ là tiếng nói của tâm hồn, nghĩ sao thì nói vậy, chỉ đơn giản
thế thôi. Là người “Con của núi”, ông nghĩ về sứ mạng cao cả của thơ ca thật
mộc mạc. Suy nghĩ ấy được thể hiện khá rõ qua bài “Thơ củi”. Trong bài, ông
ví mình như cây củi và luận bàn về các thứ củi: Củi gộc, củi mòn, củi cành và
cả củi mục để rồi đi đến khẳng định về một thứ thơ gần gũi với cuộc sống,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phục vụ cuộc sống.:
“Củi tôi hái từ con tim/ Cánh rừng con tim rộng dài không đo được/ Lửa
cháy hết rồi tôi ngồi khóc/ Nhớ chàng mồ côi kiếm củi đổi hạt kê… /Câu thơ tôi
cùng lầm lụi chốn quê”.
Thật đúng với lời nhận xét của Mai Liễu: “Triệu Kim Văn là thế, không
vồ vập, kiểu cách. Cứ lặng lẽ trong đời mà lại làm được ít nhiều sự xáo trộn
trong thơ.”[31.218] Những lời bộc bạch tâm tình trong bài thơ trên là một âm
bản đáng tin cậy nhất để người đọc hiểu về quan niệm sáng tác của nhà thơ,
một quan niệm giản dị, chân thành và sâu sắc. Suy cho cùng, giản dị chính là
tận cùng của mọi mĩ học. Quan niệm thẩm mĩ ấy sẽ là ngọn đuốc bền bỉ trên
con đường sáng tạo đầy chông gai thử thách nhưng cũng đầy hạnh phúc của
nhà thơ Triệu Kim Văn.
1.2. Quá trình sáng tác và các giải thƣởng.
Tuy âm thầm lặng lẽ và giản dị trong lao động sáng tạo, nhưng Triệu
Kim Văn đã có cho mình một gia sản thơ ca rất đáng trân trọng. Đây là kết quả
của sự nỗ lực bền bỉ, của tài năng và tâm hồn một ý thức sáng tạo đầy
tâm huyết. Chặng đường sáng tác văn học của Triệu Kim Văn bắt đầu từ khi
ông theo học “cái chữ”. Là người yêu thích văn chương và ham mê sáng tác
nên người con của núi này đã đến với thơ ca thật tự nhiên. Những đứa con tinh
thần – sản phẩm đầu tay đã chào đời khi chàng trai người Dao này đang ở độ
hai mươi. Năm năm sau, khi thấy những tác phẩm của mình đã đủ độ chín nhà
thơ mới ra mắt người đọc bài thơ đầu tiên: “Nhớ Bác ta trồng nhiều cây” (Báo
Việt Nam độc lập). Từ đó, ông viết nhiều, viết đều, viết khỏe, nhưng chủ yếu
là đăng trên báo và tạp chí. Mãi đến năm 1989 ông mới ra mắt tập thơ đầu tiên:
“Hoa núi”.
Với lòng yêu văn chương và sự hăng say, miệt mài trong lao động nghệ
thuật, đến nay Triệu Kim Văn đã xuất bản 10 tập thơ: Hoa núi (1989) Mùa sa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhân (1994) Lá tìm nhau (1999) Con của núi (Thơ song ngữ Dao- Việt 2002) Lửa
của mồ côi (2002) Lối cỏ (2004) Hoa nắng (Thơ thiếu nhi 2010) Suối nguồn du du
(Thơ song ngữ Dao- Việt 2010) Trời về (2010 ) Sợi mưa hiền (2011)
Quá trình phấn đấu không miệt mài của Triệu Kim Văn đã tạo nên những
tác phẩm mang đậm bản sắc dân tộc và phong cách sáng tác của riêng mình.
Ông đã vinh dự nhận được nhiều giải thưởng như: Giải thưởng chính thức của
Ban văn học dân tộc Hội nhà văn Việt Nam cho tập thơ “Mùa sa nhân” (1997),
giải thưởng của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam cho tập
thơ “Con của núi” (2002), giải thưởng của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc
thiểu số Việt Nam cho tập thơ “Trời về” (2010)... Huy chương vì sự nghiệp văn
học nghệ thuật Việt Nam, Huy chương vì sự nghiệp văn học nghệ thuật các dân
tộc thiểu số Việt Nam. Đây là những ghi nhận xứng đáng cho một tài năng, một
hồn thơ đẫm cốt cách của dân tộc Dao.
1.3. Thơ Triệu Kim Văn trong thơ dân tộc thiểu số văn học Việt Nam
hiện đại
Với một đời sống văn hóa phong phú, sống động, đa sắc diện, Việt Nam
có một nền văn học đa dạng, nhiều dòng, nhiều mảng khối. Bên cạnh sự hình
thành và phát triển của thơ ca dân tộc Kinh (Việt) đạt đến đỉnh cao với nhiều
tác giả, tác phẩm tiêu biểu thì còn tồn tại song hành một mảng thơ ca không
kém phần đặc sắc mà hiện nay đang thu hút được sự quan tâm tìm hiểu của các
nhà nghiên cứu, đó là mảng thơ ca của các dân tộc thiểu số. Đây là một thế giới
hấp dẫn, bí ẩn, giàu sức mời gọi, đang chờ đợi sự khám phá đầy hứa hẹn.
Một bộ phận khá nổi bật trong thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam là thơ ca
dân tộc Tày. “Theo nhà thơ Hoàng Triều Ân thì từ thế kỷ thứ V, người Tày đã
có thơ viết bằng chữ Hán với tác phẩm “Cố hương từ” - Lê Thế Khanh (394-
460), người tổng Nhượng Bản, châu Thạch Lâm (nay là xã Bình Long, huyện
Hòa An) tỉnh Cao Bằng” [45.57]. Đến cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Bế Văn Phụng (1567- 1637) và Nông Quỳnh Vân (1566- 1640) cũng là người
Tày ở Cao Bằng nổi tiếng là hay chữ và sáng tác thơ ca bằng chữ Nôm - Tày.
Sau này đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện thêm các tác giả dân tộc
Tày sáng tác thơ bằng chữ Hán như: Hà Vũ Bằng, Bế Ích Bồng, Nông Đình
Cấp, Lê Văn Dự... Đặc biệt trong đó có Hoàng Đức Hậu (1890- 1945) sáng tác
cả ba thứ tiếng: Tày, Việt, Hán. Điều đáng nói là những sáng tác của Hoàng
Đức Hậu không chỉ ảnh hưởng đến những người làm thơ cùng thời, mà những
nhà thơ sau này như Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Triều Ân, Y Phương,
Dương Thuấn... cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Cũng vào khoảng cuối thế kỷ
XIX còn xuất hiện một số nhà thơ dân tộc Thái như: Ngầu Văn Hoan và Lò
Văn Thứ. Đặc biệt là Ngầu Văn Hoan, với lời thơ gần gũi với lời ăn tiếng nói
hàng ngày của dân tộc đã đưa văn học dân tộc Thái lên đỉnh cao mới, làm cho
thơ ca dân tộc Thái phong phú, trong sáng và giàu hình tượng hơn.
Giai đoạn 1930- 1945, một mảng thơ cách mạng của các dân tộc thiểu số
ra đời cùng với thơ cách mạng của cả nước. Các tác giả tiêu biểu như: Hoàng
Văn Thụ, Lê Quảng Ba, Hoàng Đình Giang, Dương Công Hoạt... Họ là những
chiến sĩ người dân tộc thiểu số hoạt động cách mạng, vừa là người đem hiện
thực cách mạng vào những trang thơ. Cách mạng Tháng Tám thành công, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp thần thánh của dân tộc ti nguồn cảm
hứng cho thơ ca Việt Nam, trong đó có thơ ca các dân tộc thiểu số. Cùng với
các nhà thơ đã xuất hiện từ trước năm 1945 đến nay là sự xuất hiện của các nhà
thơ dân tộc thiểu số thời kì hiện đại, điều đó đã góp phần tạo nên một đội ngũ
sáng tác khá đông đảo cho thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam. Với tình yêu quê
hương đất nước, tình yêu cuộc sống, tình yêu đất và người miền núi... họ đã cất
lên tiếng thơ chân chất, mộc mạc, hồn nhiên mà sôi nổi, mà nồng nhiệt, phù
hợp với cách cảm, cách nghĩ của đồng bào dân tộc thiểu số. Các tác giả tiêu
biểu giai đoạn này phải kể đến những tên tuổi như: Nông Quốc Chấn, Nông
Minh Châu, Nông Viết Toại (Tày), Cầm Biêu, Lương Quy Nhân (Thái), Bàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Tài Đoàn (Dao), Lò Ngân Sủn (Giáy), Pờ Sảo Mìn (Pa Dí).v.v..
Cuộc trường chinh 9 năm chống thực dân Pháp kết thúc, miền Bắc bắt
tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và miền Nam vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh
chống đế quốc Mỹ xâm lược. Giai đoạn này, hiện thực đời sống cũng khơi
nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà thơ dân tộc thiểu số để một loạt các tập
thơ của họ ra đời. PGS. TS Trần Thị Việt Trung đánh giá: “Đây là một thời kỳ
thăng hoa của thơ ca dân tộc thiểu số”.[45.107] Làm nên đời sống thơ ca dân
tộc thiểu số giai đoạn này vẫn là những gương mặt thơ quen thuộc như: Nông
Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Nông Minh Châu, Cầm Biêu, Lương Quy Nhân,
Bàn Tài Đoàn... và được cộng hưởng bởi một lớp tác giả mới được đào tạo
dưới mái trường xã hội chủ nghĩa như: Mã Thế Vinh, Vương Anh, Mã A Lềnh,
Triều Ân.v.v..
Chiến tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược thắng lợi, miền Nam đã hoàn
toàn giải phóng, đất nước thống nhất và bước vào giai đoạn khôi phục, tái thiết,
xây dựng, phát triển. Năm 1986 với công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc, trong
đó có văn học nghệ thuật đã đưa đến một thời kì “trăm hoa đua nở” [45.107]
của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nói “trăm hoa đua nở” là bởi chưa
bao giờ lại có một đội ngũ các nhà thơ dân tộc thiểu số lại đông đảo và nhiều
thế hệ đến thế. Lớp sau nối tiếp lớp trước với sức sáng tạo mạnh mẽ, sung sức
đã cho ra đời hàng loạt những tác phẩm với nhiều giọng điệu khác nhau, nhiều
cách thể hiện khác nhau. Ở giai đoạn văn học này, một điều dễ nhận thấy là các
nhà thơ dân tộc thiểu số trong quá trình sáng tác vẫn không ngừng tìm tòi, sáng
tạo về nội dung và nghệ thuật, nhưng đồng thời cũng vẫn đậm đà bản sắc dân
tộc. Cùng với các thế hệ nhà thơ lớp trước như Nông Quốc Chấn, Nông Viết
Toại, Triều Ân, Bàn Tài Đoàn..., xuất hiện thêm một đội ngũ tác giả như Y
Phương, Lò Ngân Sủn, Nông Thị Ngọc Hòa, Lò Cao Nhum, La Quán Miên,
Inrasara.v.v..
Có thể nói, mỗi một nhà thơ đã cất lên tiếng nói của tâm hồn dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mình, tạo nên một hương sắc riêng nhưng vẫn gắn bó và hòa chung vào dòng
sông thơ ca văn học Việt Nam hiện đại. Tuy độ đậm, nhạt khác nhau nhưng sáng
tác của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại là sự kết tinh của bản sắc
văn hóa truyền thống của dân tộc mình với bản sắc văn hóa Việt Nam. Và như
vậy cũng là sự gắn kết giữa tính truyền thống và hiện đại trong thơ của họ.
Thơ của các nhà thơ các dân tộc thiểu số có sự tương đồng cơ bản. Nó
nằm ở sự mộc mạc, tinh tế và độc đáo; ở sự giao thoa giữa dân tộc mình với
văn hóa vùng miền một cách hài hòa nhuần nhuyễn. Bên cạnh đó, thơ c họ
cũng vẫn thể hiện được sự khác biệt nhất định. Sự khác biệt đó nằm ở bản sắc
văn hóa mang tính đặc trưng riêng của mỗi dân tộc; ở cá tính sáng tạo độc đáo
riêng của mỗi tác giả. Sự tương đồng và khác biệt đó tạo nên một nền thơ các
dân tộc thiểu số vừa nhất quán lại vừa phong phú, đặc sắc.
Hòa chung trong dòng mạch ấy là các nhà thơ dân tộc Dao. Người con
của dân tộc Dao với sự kế tục xứng đáng thành tựu thơ ca của nhà thơ lớp trước
Bàn Tài Đoàn là Triệu Kim Văn. Với những sáng tác của mình, Triệu Kim Văn
cùng hòa vào nguồn mạch chung ấy mà không mất đi bản sắc riêng của mình.
Thơ ca Triệu Kim Văn có một vị trí riêng trong nền thơ ca dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại. Và nếu như không có thơ Triệu Kim Văn thì bức tranh thơ chung
ấy sẽ khuyết vắng đi một mảng quan trọng đậm sắc thái dân tộc Dao.
Nếu như nói đến Bàn Tài Đoàn là nói đến hồn thơ đậm chất truyền thống
dân tộc Dao thì thơ Triệu Kim Văn là sự sáng tạo, đổi mới thơ Dao trong thời
kỳ hiện đại. Là người con của tỉnh Bắc Kạn, thơ Triệu Kim Văn dù vui hay
buồn, dù viết về đề tài tự nhiên hay xã hội... cũng là tiếng nói tâm hồn của
người Dao với những hình thức mới, dáng vẻ mới. Vể bề ngoài, nhà thơ Triệu
Kim Văn là một người giản dị, kín đáo và ít nói, nhưng khi đọc những vần thơ
của ông mới thấy một tâm hồn đầy nhiệt huyết, cháy bỏng tình yêu trước cuộc
đời. Ông quan niệm: “Sáng tác là một phần của cuộc sống. Và thơ là tình yêu,
là nhịp đập của trái tim” [55.64] cho nên dù nếu không có tác phẩm “vượt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đoạn trường” thì ông cũng vẫn vui vẻ:
“Dẫu ta rớt ở ngay đầu chặng
Cũng vui lòng bởi cuộc sống mến thương”
(Cuộc sống nhà văn)
Có thể thấy, thơ ca dân tộc Dao khá phong phú, với nhiều tên tuổi khác
nữa còn cần phải kể đến như Đặng Phúc Lường, Bàn Thị Cúc, Phùng Trang
Hồng... Nhưng tựu chung lại “Nói đến thơ ca dân tộc Dao thì có hai cái tên án
ngữ cả chặng đường 60 năm sau cách mạng tháng Tám. Đó là Bàn Tài Đoàn và
Triệu Kim Văn” [46.74]. Nếu nhà thơ Bàn Tài Đoàn được ví là “cây cao bóng
cả” của thơ Dao, thì Triệu Kim Văn chính là “người tiếp tục vun trồng” [38.25]
để cho cây thơ ca dân tộc Dao mãi mãi xanh tươi. Như vậy, đây là một sự kế
thừa, tiếp nối và nâng cao phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên tất yếu của
một nền thơ ca. Nhìn nhận và đánh giá thỏa đáng vị trí của một tác giả cũng là
việc làm quan trọng, cần thiết để giữ gìn, trân trọng các giá trị của một nền thơ.
1.4. Những yếu tố ảnh hƣởng đến thơ Triệu Kim Văn
1.4.1. Bản sắc văn hóa dân tộc Dao
Đặt văn hóa dân tộc Dao trong văn hóa Việt Nam, có thể coi đó như
mạch riêng giữa nguồn chung. Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc anh em có
mặt từ rất lâu đời ở Việt Nam. Mặc dù sống phân tán và trải qua nhiều cuộc
thiên di trong lịch sử nhưng người Dao vẫn duy trì được bản sắc dân tộc mình.
Trong tiến trình lịch sử, dân tộc Dao chẳng những góp phần vào sự nghiệp
dựng nước và giữ nước mà còn sớm hình thành một nền văn hóa đặc sắc, làm
phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cũng như các dân tộc
thiểu số khác, người Dao có một kho tàng truyện cổ tích, truyện thơ... tạo nên
truyền thống thơ ca khá phong phú và đặc sắc. Kho tàng ấy chính là nơi cất giữ
những kết tinh giá trị tinh thần của con người dân tộc Dao. Và tất cả những nét
văn hóa ấy ít nhiều ảnh hưởng đến sáng tác thơ của Triệu Kim Văn. Trong ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nghĩa đó, có thể thấy bản sắc văn hóa dân tộc Dao là căn cốt, là điểm tựa, là
mạch nguồn để Triệu Kim Văn kế thừa, từ đó thăng hoa thành những giá trị
riêng đặc sắc trong thơ ca của mình.
Trong thơ của Triệu Kim Văn, có thể thấy những dấu ấn rõ nét của bản
sắc văn hóa dân tộc Dao. Phong tục tập quán, những ngày lễ tết, lễ hội của
người Dao trở thành âm hưởng vang vọng và ẩn sâu trong tâm thức của nhà
thơ. Cùng với đó, nguồn cội văn học dân gian Dao như thành ngữ, tục ngữ, dân
ca, truyện cổ đã trở thành một nguồn chất liệu vô giá để nhà thơ đúc rút và kết
tinh nên những giá trị riêng đặc sắc. Đồng thời, đời sống lao động sản xuất gắn
với các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Dao đã trở thành
mạch nguồn cảm hứng sâu sắc và sống động để nhà thơ sáng tạo.
1.4.2. Truyền thống văn hóa - văn học quê hƣơng Bắc Kạn
Bắc Kạn có suối đãi vàng
Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh
(Ca dao)
Có thể nói, Bắc Kạn là một miền quê vốn mang trong mình một bề dày
truyền thống văn hóa, với những giá trị đặc trưng độc đáo. Bắc Kạn là tỉnh giàu
tiềm năng du lịch bởi sự phong phú của tài nguyên, khoáng sản và nền văn hoá
đậm đà bản sắc dân tộc miền núi đông bắc Việt Nam. Hồ Ba Bể là danh thắng
thiên nhiên được công nhận là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 1996. Đây
là khu bảo tồn đất ngập nước có tầm quan trọng của thế giới và là 1 trong 20 hồ
nước ngọt đẹp nhất thế giới. Hội xuân Ba Bể được tổ chức vào tháng giêng âm
lịch hàng năm, tạo thành một nét đẹp truyền thống đặc trưng cho Bắc Kạn. Căn
cứ địa cách mạng ATK Chợ Đồn là một trong những khu căn cứ của chủ
tịch Hồ Chí Minh và các cán bộ cấp cao của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
kháng chiến chống thực dân Pháp. Khu di tích lịch sử Nà Tu, xã Cẩm Giàng,
huyện Bạch Thông nơi Hồ Chí Minh đã tặng lực lượng thanh niên xung phong
4 câu thơ vào năm 1951 "Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên". Bắc K
ở đây chủ đạo là các hình thức m , p
như l , hát giao duyên… dân gian truyền thống có t
... Tất cả những yếu tố đó góp thành một
vùng quê Bác Kạn phong phú và độc đáo về các giá trị văn hóa. Đây là một
mạch nguồn quý giá để tâm hồn thơ Triệu Kim Văn kế thừa, kết tinh, sáng tạo.
Trong ngôi nhà chung của nền văn học Việt Nam, mỗi địa phương vùng
miền lại có những đặc trưng riêng. Văn học quê hương Bắc Kạn là nền văn học
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc và có nhiều thành tựu. Đã có nhiều nhà văn là
con em các dân tộc Bắc Kạn thuộc thế hệ tiên phong đặt nền móng cho nền văn
học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nông Minh Châu có thể coi là nhà văn
mở đường cho văn xuôi thiểu số nơi Việt Nam. Nông Viết Toại thành công ở
cả ba mảng: sáng tác, khảo cứu, phê bình, nghiên cứu văn học dân gian. Nông
Quốc Chấn không chỉ nổi tiếng với văn học Bắc Kạn mà còn ghi dấu với nền
văn học dân tộc thiểu số Việt Nam. Tiếp theo là Dương Thuấn - một trong ba
nhà thơ dân tộc Tày xuất sắc nhất hiện nay: Y Phương, Mai Liễu, Dương
Thuấn. Sau khởi điểm đổi mới 1986, Văn học Bắc Kạn đang cùng với văn học
cả nước tiếp tục phát triển. Trong xu hướng đổi mới phát triển của thời kì mới,
văn học Bắc Kạn xuất hiện thêm những cây bút trẻ hứa hẹn nhiều triển vọng:
Dương Khâu Luông, Hoàng Chiến Thắng... Như vậy, văn học Bắc Kạn có bề
dày nền tảng trong truyền thống, có sự kế thừa phát triển và tiếp nối trong hiện
tại, có cơ sở để hi vọng những bước phát triển mới trong tương lai. Và chính từ
cái nôi văn chương ấy, nhà thơ Triệu Kim Văn xuất hiện và trưởng thành, đóng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
góp thêm một giá trị quan trọng vào nền văn học tỉnh nhà.
1.4.3. Hoàn cảnh riêng
Người làm thơ bao giờ cũng viết từ những tâm tư, buồn vui - hạnh phúc -
khổ đau trong cuộc đời, thân phận của chính mình. Thơ bao giờ cũng được
phản chiếu từ chính bản thân người sáng tác. Chính vì vậy, hoàn cảnh riêng bao
giờ cũng có một vai trò đặc biệt quan trọng để nên con đường thơ
của một tác giả. Nhà thơ Triệu Kim Văn cũng là một tác giả nằm trong quy luật
ấy. Hoàn cảnh riêng đã có những tác động hết sức sâu sắc đến hành trình sáng
tạo thơ ca của ông.
Triệu Kim Văn là người có tuổi thơ không may mắn: Ông mất cha ngay
từ khi còn đang trong bụng mẹ. Tuổi thơ của ông đi cùng cuộc sống vất vả lam
lũ với người mẹ nghèo ở xóm nhỏ của xã Cao Sơn. Không bao lâu sau, mẹ ông
đi bước nữa. Ông lại sống với hai người chị, một là chị ruột, một là chị nuôi ở
vùng đất đơn độc, nghèo nàn ấy. Các chị của ông thường hát ru đứa em trai bé
bỏng bằng những bài hát buồn buồn, sâu lắng của người Dao. Đến đầu năm
1960, người chị nuôi của Triệu Kim Văn qua đời. Như vậy, từ nhỏ đến lúc
trưởng thành ông đã chịu hai lần mồ côi. Chính tác giả cũng đã tâm sự: Những
năm 1945- 1947 Nhật- Pháp càn quét, bắn giết, ở một xóm nghèo nhất lại là
con mồ côi, cho nên cảnh âm u, buồn bã lắm. Điều này cũng ảnh hưởng trực
tiếp đến tính cách trầm lặng, nhún nhường, sống thiên về nội tâm và đôi khi có
cả những mặc cảm. Và sau này, tính cách ấy ít nhiều cũng ảnh hưởng đến các
sáng tác của thơ Triệu Kim Văn: Lặng lẽ, không ồn ào, có chiều sâu, có những
trăn trở, day dứt từ cái riêng và cái chung. Từ số phận cá nhân đến số phận của
dân tộc trong những bước thăng trầm của đời người và của lịch sử cũng đã ảnh
hưởng trực tiếp đến các sáng tác sau này của thơ Triệu Kim Văn.
Con đường đến với thơ ca của Triệu Kim Văn bắt đầu khá đặc biệt. Khi
đi học và biết tiếng Kinh, nhà thơ người Dao này đã đọc rất nhiều sách, trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đó có thơ Tố Hữu. Ban đầu khi mới bước vào con đường thơ ca, tuy là một
người Dao nhưng Triệu Kim Văn chịu ảnh hưởng của thơ người Kinh, đặc biệt
là thơ của Tố Hữu. Càng về sau, tác giả càng nghĩ đến dân tộc mình với một ý
thức sâu sắc hơn. Từ đó, khi sáng tác, ông ngày càng có ý thức tìm về nguồn
cội của dân tộc mình. Những phong tục tập quán, những đạo lý làm người, cuộc
sống vất vả nhọc nhằn của người Dao đi vào thơ ông thật dung dị, tự nhiên.
Những suy tư chân thành, đượm buồn, sâu sắc đã cho ta thấy tâm nguyện đau
đáu của nhà thơ Triệu Kim Văn với mạch nguồn truyền thống dân tộc Dao nói
chung, đặc biệt là ý thức tìm về với bản thể đích thực trong sâu thẳm con người
mình: “Nếu con quên/ Rằng con sinh ra trên núi/ Mẹ tắm con trong chậu gỗ/
Nước máng hứng từ ruột đá/ Ba lần mặt trời mọc đặt tên/ Thì con xin không là
con của mẹ/ Thì con xin không là con của núi.”(Con của núi)
Như vậy, hoàn cảnh riêng không may mắn có thể đã tác động đến tính
cách và phần nào cả hồn thơ Triệu Kim Văn, được biểu hiện ở sự trầm lặng,
kiệm lời, sâu sắc, hướng nội, ngậm ngùi, hay xót thương những số phận không
may mắn.
* *
*
hoàn cảnh riêng sinh trưởng và gắn bó với vùng
núi Bắc Kạn giàu truyền thống văn hóa - văn học, đ
kết tinh nên những giá trị độc đáo trong . Ông
đã trở thành người kế tục và tiếp nối, vun trồng cho cánh rừng thơ của dân tộc
Dao ngày càng phong nhiêu. Tất cả những điều đó đã góp phần tạo nên một vị
trí, một giá trị quan trọng của thơ Triệu Kim Văn trong thơ ca dân tộc Dao nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
riêng, thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung.
Chƣơng 2
HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG TRONG THƠ TRIỆU KIM VĂN
2.1. Khái quát về biểu tƣợng và biểu tƣợng trong thơ
2.1.1. Khái quát về biểu tƣợng
Mỗi nền văn hóa đều được cấu thành bởi một tập hợp các hệ biểu tượng.
Việc nghiên cứu các biểu tượng là chìa khóa để giải mã đời sống văn hóa, tinh
thần của một cộng đồng. Nói như Jean Chevalier, tác giả cuốn Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới, tìm hiểu biểu tượng là tìm ra “chìa khóa của những con
đường đẹp đẽ…. Vượt qua cái dáng vẻ bên ngoài, ta thấy được những chân lý,
niềm vui, những ý nghĩa ẩn kín và thiêng liêng của mọi điều trên mặt đất quyến
rũ và kinh khủng này” [6.66].
Biểu tượng theo Từ điển Tiếng Việt “là dấu, là hình ảnh biểu hiện”
[57.91]. Biểu tượng gần gũi với kí hiệu, ẩn dụ, phúng dụ… Nhưng nếu ký
hiệu, ẩn dụ, phúng dụ là những dấu hiệu nhất thời, rời rạc, là những quy ước
đơn giản giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, chỉ có tác dụng biểu nghĩa thì
biểu tượng có sự đồng nhất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo nghĩa
một lực năng động tổ chức. Nói cách khác, biểu tượng là những hình ảnh tượng
trưng. Nó là nó, nhưng không phải là nó. Như vậy, biểu tượng là tập hợp vững
chắc của nhiều hình ảnh khác nhau, là kết quả của sự phản ánh hiện thực vào
não con người, là hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng hay là vật thể tượng trưng.
Biểu tượng là yếu tố quan trọng hợp thành các rung động, cảm xúc, phương
tiện có hiệu lực để điều khiển các trạng thái cảm xúc của con người.
Biểu tượng, trong sức dồn nén năng lượng biểu đạt ý nghĩa to lớn của nó,
là nơi cất giữ, tiềm ẩn nhiều giá trị văn hóa nhân loại qua hàng ngàn năm lịch
sử. Giá trị của biểu tượng ngày càng được khẳng định trong nhiều lĩnh vực của
đời sống và văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung có thể xem là lĩnh vực tinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thông khi lựa chọn biểu tượng làm phương thức cấu trúc hình tượng. Với biểu
tượng, văn học mở ra khả năng vô tận trong việc khám phá vũ trụ, tự nhiên, con
người, đặc biệt là chiều sâu vô thức, bản năng.
Biểu tượng không chỉ biểu thị một sự việc, đã hoàn thành, mà còn biểu
thị cái đang phát triển. Nó không chỉ biểu thị mặt bảo thủ, đã hoàn kết mà còn
biểu thị mặt năng động của cuộc sống.
Biểu tượng trong văn học là loại biểu tượng mang tính đa nghĩa và được
tạo dựng bằng ngôn từ nghệ thuật. Nó được xem như là một thủ pháp nghệ
thuật đặc biệt để chuyển tải ý đồ sáng tạo của nhà văn. Theo nhà ngôn ngữ, tâm
phân học Thuỵ Sĩ C.G.Jung thì “Biểu tượng là một từ ngữ, một danh từ hay một
hình ảnh ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn chứa
đựng mối quan hệ liên can, cộng thêm vào đó cái ý nghĩa quy ước và hiển
nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một điều gì đó mơ hồ, chưa
biết hay bị che dấu đối với chúng ta” [6.29]. Theo nghĩa rộng, tác phẩm văn
học là một biểu tượng, là một ký hiệu thẩm mỹ mà tác giả gửi đến cho người
đọc. Việc giải mã biểu tượng góp phần giúp chúng ta hiểu được những giá trị
riêng biệt mà tác phẩm mang lại. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng trong một tác
phẩm văn học là một“nhân vật” đặc biệt, được hiện diện dưới nhiều hình thức
khác nhau, có thể là con vật, đồ vật, hình ảnh, hình tượng… gọi chung là các
dạng thức biểu hiện ý nghĩa của tác phẩm văn học. Xét ở góc độ này, biểu
tượng là một thủ pháp đặc biệt để tác giả thể hiện ý đồ sáng tạo của mình.
Biểu tượng luôn chứa đựng trong mình những giá trị đã được vĩnh hằng
hóa, là một thực thể sống động, luôn luôn có sự luân chuyển, đắp đổi nghĩa liên
tục. Nó được nuôi dưỡng bằng những lối tư duy, những tưởng tượng phong phú
của con người, có khả năng mở rộng nghĩa theo thời gian. Biểu tượng có rất
nhiều dạng thức khác nhau, như: biểu trưng, biểu hiệu, dấu hiệu... Xác định xu
hướng này, chúng tôi lựa chọn khảo sát các biểu tượng và bước đầu khám phá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ra mạch nghĩa liên tục trong những biểu tượng ấy cũng như sự phát sinh ra
những lớp nghĩa mới. Hy vọng với phương cách như vậy, đề tài có thể khảo sát
biểu tượng với tất cả những hình ảnh mang những nét nghĩa phái sinh, có
những tri thức văn hóa đặc trưng của dân tộc để khai mở.
2.1.2. Biểu tƣợng trong thơ
Biểu tượng văn hóa là những thực thể vật chất hoặc tinh thần (sự vật, hành
động, ý niệm…) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính hình thức
cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp hệ thống đặc trưng cho những nền
văn hóa nhất định: nghi lễ, hành vi, thần linh, … Biểu tượng văn hóa là sự tồn
tại ở bình diện phổ quát các biểu tượng phi trực quan.
Biểu tượng ngôn từ là các biểu tượng nghệ thuật (biến thể loại hình của
biểu tượng văn hóa) cấu tạo lại thông qua tín hiệu ngôn ngữ trong văn học.
Như vậy, có thể thấy mối quan hệ giữa biểu tượng văn hóa và biểu tượng
ngôn từ là mối quan hệ cấp bậc trong quá trình biểu tượng văn hóa đi sâu vào
các lĩnh vực nghệ thuật để ở đó những ý nghĩa biểu tượng tiếp tục được lưu giữ
và phát triển trở nên phong phú hơn. Cũng chính bởi điều này mà có hiện tượng
gọi là sự biến đổi ý nghĩa của biểu tượng. Nghĩa là, dù có nguồn gốc từ các
biểu tượng văn hóa, khi thức hiện chức năng thẩm mĩ trong một tác phẩm văn
học, biểu tượng ngôn từ được cấu tạo lại, tổ chức lại trong mối quan hệ với các
nhân tố của quá trình giao tiếp đặc biệt như một hoạt động sáng tạo. Các nhà
văn, nhà thơ dựa trên những mối quan hệ hoặc bổ sung, hoặc tương phản, hoặc
đẳng cấu để tổ chức các tín hiệu thẩm mĩ hướng tới việc khắc hoạ nổi bật hình
tượng nghệ thuật, cũng từ đó mà thể hiện một lối tư duy nghệ thuật riêng, một
phong cách sáng tạo riêng.
Như vậy, sự thống nhất giữa hai bình diện của một tác phẩm nghệ thuật -
hình tượng nghệ thuật và nghĩa hàm ngôn của nó - có thể hoặc là đương nhiên,
sẽ dẫn đến sự hình thành biểu tượng (hoặc là ẩn kín, hoặc là bộc lộ). Ở mức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
giới hạn của quá trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi yếu tố của hệ thống nghệ thuật
như: ẩn dụ, phúng dụ, tỉ dụ, dụ ngôn, ngụ ngôn, các chi tiết nghệ thuật, hình
tượng nhân vật, ngôn từ, v.v... đều có thể trở thành biểu tượng. Song, quá
trình "biểu tượng hoá" có thực hiện được hay không là còn tuỳ thuộc vào các
điều kiện sau: Độ đậm đặc mang tính khái quát cao trong tác phẩm nghệ thuật;
Ý đồ của tác giả có muốn hướng tới sự "biểu tượng hoá" trong tác phẩm hay không;
Văn cảnh tác phẩm, khi “nghĩa hàm” của các hình tượng tự bộc lộ, không theo
ý định của tác giả (điều này còn bị quy định bởi lôgíc tâm lý của tuyến nhân vật
và sự phát triển về mặt tình huống trong tác phẩm); Văn cảnh văn học - nghệ
thuật được quy định bởi thời đại và văn hoá (tính lịch sử và tính nghệ thuật
trong tác phẩm).
Ngôn ngữ, đặc biệt ngôn ngữ văn học là “kho tàng” bảo lưu những giá trị
văn hóa của một dân tộc. Do đó, nghiên cứu về biểu tượng, không thể không
xem xét trong mối quan hệ với ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thơ ca. Giá trị
thực sự của biểu tượng được xác lập không chỉ ở bình diện văn hóa nói chung
trong đời sống cộng đồng mà còn định hình và biến đổi trong sự điều chỉnh,
tiếp nhận của mỗi cá nhân, mỗi chủ thể.
Thơ ca là nghệ thuật của ngôn từ. Thơ hay không chỉ phụ thuộc vào ý
thơ - những điều nảy ra trong trí óc khi suy nghĩ, không chỉ phụ thuộc vào ngôn
từ, lời chữ vần vè mà quan trọng hơn nó phải được thể hiện qua những hình
tượng có sự tìm tòi sáng tạo mà người ta vẫn thường gọi là biểu tượng. Theo
"Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học" của tác giả Nguyễn Thái Hoà thì
"biểu tượng văn học là những biểu tượng trong sáng tạo văn học tức là những
hình ảnh, tín hiệu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học có tính khái quát và phổ
biến đến mức có khả năng gợi ra một hình ảnh khác hoặc một số phẩm chất,
một số đặc trưng khác với đối tượng biểu hiện" [19.28]. Như vậy, biểu tượng
được hình thành với phương thức sử dụng một loại môi vật để môi giới tri giác
cái bất khả tri giác. Với cách thức "một hình ảnh cụ thể mà nói lên một sự gì
trừu xuất hay vắng mặt", biểu tượng có nhiều dạng thức khác nhau: biểu trưng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
biểu hiện, dấu hiệu... Tuy luôn chứa đựng trong mình những giá trị đã được
vĩnh hằng hoá nhưng biểu tượng không trở thành nơi tồn đọng những giá trị cũ
mòn, nơi giam giữ các tầng ý nghĩa trong sự xơ cứng mà nó là một thực thể
sống động luôn luôn có sự luân chuyển, đắp đổi nghĩa liên tục. Biểu tượng
được nuôi dưỡng bằng những lối tư duy, những tưởng tượng phong phú của
con người mà đời sống con người lại không bao giờ bớt phức tạp , cho nên biểu
tượng vì thế cũng không bao giờ đơn giản. Những phức tạp của đời sống dội
vào tâm tư con người những suy tưởng không cùng để rồi từ đó chúng lại được
dồn nén vào hệ thống biểu tượng. Đó chính là con đường tất yếu của đời sống
và cũng là xu hướng tồn tại và phát triển tất yếu của biểu tượng thơ ca.
Biểu tượng thơ ca với tư cách là một phương tiện đặc biệt của nghệ thuật
mang trong bản thân mình những dấu hiệu đặc trưng của thể loại, cho ta thấy cách
thức con người nắm bắt thế giới sự vật, biến nó thành sự phản ánh những khía
cạnh khác nhau của đời sống tinh thần và xúc cảm con người. Bất cứ một biểu
tượng thơ ca nào cũng có những liên hệ nhất định với ý thức thẩm mĩ truyền
thống. Sự chiếm lĩnh thế giới bên ngoài thông qua các biểu tượng như một
phương thức có khả năng đem đến cho nhà thơ chủ quyền bộc lộ tư tưởng và tình
cảm của cá nhân mình, kích thích nhà thơ diễn đạt những nội dung tiềm ẩn trong
tâm hồn mình, và mặt khác như là biểu hiện của quá t vận dụng các yếu tố
nghệ thuật, để không ngừng mở rộng khả năng biểu đạt, sức sáng tạo của nhà thơ.
Trong một bài thơ, có những biểu tượng trong toàn bài nhưng cũng có
những biểu tượng trong từng đoạn thơ, câu thơ. Biểu tượng trong toàn bài là
biểu tượng xuyên suốt cả bài thơ thể hiện tư tưởng, nghệ thuật chủ đề của bài
thơ còn biểu tượng trong từng đoạn thơ, dòng thơ, câu thơ là những biểu tượng
có tính chất cụ thể, diễn đạt một ý thơ trọn vẹn và nhiều khi chúng có thể tách
khỏi bài thơ, tự có số phận riêng của mình. Nếu một bài thơ không có biểu
tượng chung trong toàn bài, không có những biểu tượng nhỏ trong từng đoạn,
tình cảm cảm xúc lại không mãnh liệt thiết tha thì bài thơ đó không chỉ kém
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phần hương sắc mà còn khó có lý do để tồn tại.
Thi nhân sáng tạo nên những biểu tượng thơ ca để thể hiện tư tưởng và
cảm xúc của mình. Những quan niệm về nhân sinh, thế sự, về thơ ca… và về
chính bản thân cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ đã làm cho mỗi người lựa
chọn cho mình một biểu tượng này hay biểu tượng kia. Biểu tượng được lựa
chọn theo những tiêu chí nhất định, đáp ứng được nhu cầu bộc lộ của nhà thơ
,thỏa măn với tư tưởng chủ đề, hợp với phong cách và phương pháp sáng tác.
biểu tượng mang sắc thái riêng nên từng nhà thơ ngay từ đầu đã có chiều
hướng quyết định cách chọn hình ảnh, tứ thơ. Biểu tượng sông nước đậm đà
với Tế Hanh, biểu tượng trăng hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử, biểu tượng con
đường trong thơ Tố Hữu, biểu tượng người lái tàu trong thơ Sóng Hồng, biểu
tượng chim lượn trong thơ Chế Lan Viên, biểu tượng ngọn đèn trong thơ Chính
Hữu, biểu tượng con nai vàng trong thơ Lưu Trọng Lư… Đối với từng nhà thơ,
biểu tượng thời thơ ấu khá quan trọng và cũng lưu giữ lâu bền trong tâm
: mái nhà, ngọn lửa, em hồn nhà thơ.
sự thương yêu, đùm bé, mẹ già
bọc… ác biểu tượng đó sẽ đi vào thơ. Các nhà thơ
vùng than có nhiều biểu tượng hầm mỏ, xe than, khoan lỗ… Các nhà thơ vùng
biển có nhiều biểu tượng về triều lên, cá thu, cá hồng… Các nhà thơ miền núi
giàu biểu tượng mây trắng, vườn chanh, nắng mưa, gió bão. Các biểu tượng phát
triển phong phú theo cuộc đời con người, theo các chuyến đi, các quá trình quan
sát, theo tuổi đời, theo thời đại. Các biểu tượng in dấu ấn vào thơ để lại các tài
sản chung cho nhân loại về sau.
Ngoài những đặc tính của biểu tượng nói chung, biểu tượng thơ ca còn
mang một số đặc là một dạng mã hóa những cảm xúc, tư tưởng
của người nghệ sĩ về hiện thực đời sống. Mỗi một tác phẩm nghệ thuật là một
hệ thống những tín hiệu thẩm mĩ và biểu tượng nghệ thuật là một tiểu hệ thống,
góp phần tạo nên những điểm sáng thẩm mĩ trong tác phẩm. Trong quá trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sáng tạo, người nghệ sĩ, hoặc vô thức, hoặc hữu thức, đã đem vào tác phẩm của
mình những hình ảnh trở đi trở lại, có sức ám ảnh, khơi gợi lớn mà người ta gọi
là biểu tượng. Do đó, biểu tượng cho ta thấy cá tính sáng tạo, phon
, thời đại, khuynh hướng văn học và cả đặc trưng văn hóa của từng dân tộc.
Các biểu tượng không chỉ dừng lại ở những nét nghĩa ổn định trong
truyền thống thơ ca mà nó liên tục được mở rộng, biến đổi và tăng cường các
khả năng biểu hiện mới. Một mặt, thơ tiếp tục sử dụng các phương thức khai
thác biểu tượng nghệ thuật từ trong truyền thống, khơi sâu những kinh nghiệm
mĩ cảm đã được lưu giữ, bồi đắp trong truyền thống thơ ca trước đó, mặt khác,
mỗi nhà thơ đều xuất để sáng t
vận động của biểu tượng. Việc sáng tạo biểu
tượng theo khía cạnh này hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực thụ cảm và nhu cầu
biểu hiện của nhà thơ trước hiện thực đời sống. Điều này có liên quan đến đặc
điểm tư duy nghệ thuật và khuynh hướng thẩm mĩ ở mỗi nhà thơ cụ thể.
2.2. Hệ thống biểu tƣợng trong thơ Triệu Kim Văn
,
.
-
.
2.2.1. B tƣợng Đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
.
Trong đời sống của con người, Đất luôn là một biểu tượng mang ý nghĩa
quan trọng, bởi nó là mẫu số gốc của sự sống. Cũng nằm trong quy luật tinh
thần đó, Triệu Kim Văn có nhiều suy tư về đất, đưa nó vào trong thế giới thơ
của mình như một biểu tượng giàu ý nghĩa.
2.2.1.1. Biểu tượng Đất trong văn hóa học
Đất là một biểu tượng quan trọng trong hệ thống các biểu tượng văn hóa.
Theo các nhà nghiên cứu, đất đối lập với trời một cách tượng trưng như là bản
nguyên thụ động đối lập so với bản nguyên chủ động, tính nữ so với tính nam,
âm so với dương, bóng tối so với ánh sáng, sự cố định tập trung so với sự biến
động hòa tan.
Nói về bản chất cũng như vẻ đẹp và sức mạnh của đất mẹ, Kinh Rig –
Veda đã viết:
Hãy nằm xuống Đất là Mẹ của người
Nơi tọa lạc mênh mông ấy chứa chan ân huệ
Ai biết dâng hiến, với họ Đất êm như len
Cầu Đất canh giữ người khỏi sa ngã vào cõi hư vô
Hỡi Đất Mẹ
Hãy xây cho con người này một mái vòm, đừng đè bẹp
Hãy tiếp nhận, hãy tiếp đón sinh linh này, hỡi Đất
Hãy lấy vạt áo của mình che cho nó
Như mẹ hiền che chở đứa con yêu .
Mọi con người đều sinh ra từ đất, vì đó là gốc, là mẹ, là khởi nguyên.
Đất là nguồn gốc của hiện hữu và sự sống, che chở chống lại mọi sức mạnh hủy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
diệt. Cũng vì vậy, đất còn mang ý nghĩa như sự sản sinh, sức sống và sự tái
sinh. Xét về phương diện tích cực, những đặc tính của đất là sự phản chiếu đức
tính dịu dàng, phục tùng, kiên định, bền bỉ và khiêm nhường.
So với nước (cũng là gốc của vạn vật), người ta thấy sự khác biệt ở chỗ:
nước có trước sự hình thành vũ trụ, còn đất thì sản sinh ra các hình dạng sự
sống; nước là cái khối lượng chưa phân hóa, còn đất là biểu thị của những mầm
mống phân biệt.
Ruộng đất và người đàn bà thường được đồng nhất trong văn học. Nó là
những luống cày gieo hạt, sinh sôi, gặt hái.v.v.. Đối với một dân tộc gắn bó
chặt chẽ với đời sống sản xuất nông nghiệp, đất lại càng trở nên một yếu tố
trung tâm, cốt lõi trong đời sống, một biểu tượng gốc quan trọng trong đời sống
văn hóa tinh thần.
Triệu Kim Văn có nhiều suy tư về
Đất, đưa nó vào trong thế giới thơ của mình như một biểu tượng giàu ý nghĩa.
2.2.1.2. Biểu tượng Đất trong thơ Triệu Kim Văn
Mỗi nhà thơ sinh ra và lớn lên, trưởng thành, gắn bó với mảnh đất quê
hương bản quán của mình. Và vùng đất chôn nhau cắt rốn luôn là cội rễ, là
mạch nguồn cảm hứng trong công cuộc sáng tạo của nhà thơ. Và trong công
cuộc sáng tạo đó, mỗi nhà thơ luôn luôn có một vùng đất, một không gian, một
thế giới của riêng mình. Nhà thơ Triệu Kim Văn cũng đã đi theo quy luật sáng
tạo ấy.
.
iểu tượng gốc:
Sinh trưởng và gắn bó với một vùng quê núi, nhà thơ Triệu Kim Văn bám
chặt vào thế giới của núi đồi. Trong thế giới ấy, đất là một biểu tượng gốc để
Triệu Kim Văn xây dựng nên những tứ thơ đẹp và sâu sắc. Trong thế giới ấy,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tràn ngập các hình ảnh, các hình tượng về đất.
Đất là mẫu gốc tạo thành bản thể, như cách suy tư và giãi bày đầy hình
ảnh của tác giả: “Hạt nghiến gieo nhầm chỗ/ Chưa thấy nên lõi nghiến bao giờ/
….Loay hoay chọn chỗ gieo thơ/ Nhặt đá xếp bờ tra hạt/ Chợt nghĩ/ Hạt nghiến
và câu thơ chắc cần đất như nhau”.(Siu đất)
Chỉ cần “gieo nhầm” và nằm ra ngoài vùng đất thực sự của mình, con
người ta sẽ ngay lập tức bị biến thành một người khác, đánh mất cái bản thể
đích thực duy nhất trong mình. Cũng tương tự như vậy, nhà thơ tách mình ra
khỏi vùng đất, vùng sinh quyển nghệ thuật của mình, thì sẽ đồng nghĩa với việc
đánh mất bản thể thi sĩ của chính mình. Đây là một chiêm nghiệm sâu sắc, có
thể coi như một bài học nhận thức căn cốt nhất trong cuộc đời con người, cũng
như trong hành trình sáng tạo của nhà thơ, người nghệ sĩ.
Suy ngẫm về thân kiếp và số phận con người, nhà thơ nhận thấy mỗi
người con của quê hương cũng như ngọn cỏ trên đất:
Cỏ ăn theo đất
Nên cỏ cứ là cỏ
Muôn đời kiếp cỏ thôi
(Cỏ)
Vậy mới thấy, nếu ta biết sống một cách tự nhiên, thành thực với bản tính
con người mình, thì đó là một niềm hạnh phúc thực sự lớn lao – niềm hạnh phúc
mãi mãi được là chính mình. Đó là cái ý thức về một bản thể tuy bé nhỏ, bình dị,
hồn nhiên nhưng cũng đầy mạnh mẽ, kiêu hãnh của con người miền núi.
Nhà thơ – người con của đất ấy còn nhận ra một điều thật liêng liêng và
bền bỉ vĩnh hằng ở đất: “Suối cứ chảy, đất không thể thiếu suối/ Ngày nối đêm
rung nhịp tiếng đàn/ Nghìn năm suối không thôi dào dạt/ Nghìn năm đất chịu
ân ban”.(Suối)
Giữa mạch chảy của thời gian, của đời sống này, đất như là một biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tượng của sự sinh sôi, của sự phong nhiêu, của sức sống lâu bền kì diệu.
Mượn những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong đời sống miền núi, nhà
thơ đã có những liên tưởng đầy triết lí thông qua biểu tượng : “Măng vầu
trong lòng đất/ Măng ngọt/ Măng đã trông thấy trời / Măng đắng /Cho hay
/Khi chết người ta về với đ ”.(Đất)
Đây là những suy nghiệm hết sức thấm thía về lẽ đời, về con người. Dù là
từ lúc khởi nguyên sinh ra cho đến lúc quay trở về già con người ta có thể đổi thay
nhiều lắm (để ứng phó hoàn cảnh, để thỏa mãn tham vọng.v.v.) nhưng rồi cuối
cùng vẫn phải giữ lấy cội nguồn. Đất mẹ là điểm xuất phát mà cũng là điểm kết
thúc của chu trình vòng tròn của con người. Mới hay, đất sinh ra ta và đất sẽ nhận
ta về. Và tác giả đã đúc kết những chân lí đó thành quy luật: “ Đọt măng trồi lên
từ lòng đất /Con ve ngoi lên từ lòng đất/ Lòng đất mẹ bao dung/ Cây tre lột giáp
trả về đất/ Con ve lột xác trả lại đất/ Ấy là luật tự nhiên” )
Như vậy, có thể thấy, nhà thơ Triệu Kim Văn đã rất có dụng ý khi xây
dựng biểu tượng Đất trong thơ của mình, thông qua đó tác giả đã truyền tải và
bày tỏ được những suy tư chiêm nghiệm và đúc kết thành những triết lí rất sâu
sắc, cao đẹp, nhân văn về con người, cuộc sống.
Khởi phát từ biểu tượng gốc : Đất, nhà thơ đã xây dựng thế giới hình
tượng nghệ thuật trong thơ của mình một hệ thống các biểu tượng phái sinh.
Những biểu tượng phái sinh thấy
trong thơ Triệu Kim Văn đó là: Núi, Đồi, Cánh đồng.v.v..
hế giới nghệ
thuật thơ Triệu Kim Văn tràn ngập hình ảnh về núi, đồi. Ở đó, núi đồi gắn liền
với cuộc sống con người, núi đồi là bạn, là nhân chứng.v.v.. Nhà thơ luôn vẽ lại
trong thơ mình những đỉnh núi mờ sương, và qua đó gợi nhớ trong ta nỗi niềm
quê hương tha thiết của một người “con của nú tác
giả sinh ra và lớn lên từ núi, sống giữa không gian núi rừng, không gian của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
những “Tháng chín sợi nắng mềm/ Dập dình nhịp chày giã cối”[53.49].
Có lúc, nhà thơ Triệ thơ
với cảm hứng về nhịp điệu của cuộc sống mới, nhưng đọc rồi thấy đậm đặc
chất miền núi ngàn đời, thấy nhớ thương gắn bó tha thiết:
Tôi người núi
Là người ở núi
Đi một vòng lên núi xuống đồng
Thấy ở đâu cũng chật cũng đông
Người với người thích vai sát cánh
…
Nhưng tôi người núi
Vẫn chỉ thật lòng yêu núi
(Đất nƣớc rộng dài)
Chính vì luôn một nỗi niềm tha thiết khôn nguôi với bản quán cội nguồn,
nhà thơ luôn tự ghi khắc trong tâm khảm của mình một lời hứa. Nó như sự tự
nhắc nhở, tự ý thức, tự thức tỉnh c
. Đó là một sự tự ý thức thật sự đáng quý, đáng trân trọng:
Nếu con quên
Rằng con sinh ra trên núi
Mẹ tắm con trong chậu gỗ
Nước máng hứng từ ruột đá
Ba lần mặt trời mọc đặt tên
Thì con xin không là con của mẹ
Thì con xin không là con của núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Con của núi)
Những lời hẹn ước ấy được gửi lại với đất mẹ thiêng liêng, khiến người
đọc như vẫn còn cảm nhận được hương sắc núi rừng lan tỏa mênh mang. Đó là
cái lan tỏa mênh mang của hồn người, hồn núi.
Có những khi, hồn núi bay đi mất, người đọc giật mình cùng tác giả bởi
sự mất mát không thể đong đếm được:
Không còn dấu vết núi
Không còn dấu vết rừng
Không còn dấu vết bản
Đến chút hơi chàm cũng không
Tất cả đã là người Hà Nội
Nhưng làm người Hà Nội thế cũng buồn
(Làm ngƣời Hà Nội thế cũng buồn)
Chính vì vậy, dù có vật đổi sao rời, dù có muôn vàn biến động đổi thay
của cuộc sống hay con người, thì tác giả vẫn nguyện tìm về với núi của mình,
coi đó là hạnh phúc đích thực:
Tôi từ núi đi quành xuống bản
Từ bản đi ra phố thị thành
Từ thị thành mà đi ra biển
Rồi lại trở về với núi xanh
(Hạnh phúc)
Suốt một đời trải qua bao phiêu dạt, đổi thay, dù đến chết thì người con
của núi rừng vẫn chỉ nguyện hóa thân vào quê hương xứ sở:
Nếu tôi chết hãy đưa tôi về núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Để hồn tôi tìm lại chiếc nhau mình
Trong lồng nhỏ mẹ tôi treo bờ suối
Cành cây giờ đã vươn xanh
(Nếu tôi chết)
Khi nhìn cảnh tượng đồi đất dần bị san ủi để xây dựng công trình mới,
nhà thơ xót xa như vừa mất đi cái gì đó
:
Thị xã bụi đủ màu
Vật vã mùa xây dựng
Phố gối lên đồi dốc đứng
Làng chen nhau những mái nhà sàn
(Thị xã đầu nguồn sông)
Trong cuộc sống của những con người miền cao, đồi núi như là nguồn
sống màu mỡ, gắn bó. Đồi núi đem lại cho họ sự sinh sôi, trù phú nên họ cảm
thấy trân trọng, biết ơn khi đón nhận nó:
Mỡ màu ơi đồi núi
Phì nhiêu ơi ruộng đồng
Thấu tình ai miền tủi
Đêm quàng bờ trăng suông
(Cầu mùa)
Bên cạnh biểu tượng đồi núi, nhà thơ Triệu Kim Văn cũng thường hay
xây dựng trong tác phẩm của mình biểu tượng cánh đồng. Với tác giả, đồng
ruộng là nơi quy tụ, hợp quần của người dân, của bản làng:
Đồng ruộng quy tụ về nơi đây
Làng bản hợp quần nơi đây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Rƣợu núi)
Cũng có những lúc, nhà thơ nhìn cánh đồng với tất cả tấm lòng thấu
hiểu. Cánh đồng cũng nhọc nhằn, chắt chiu, qua bao nhiêu gian khó để có được
mùa màng cho con người:
Mây mẩy cánh đồng phì nhiêu
Nhọc nhằn mùa gieo cấy
(Bản ngã Mƣờng)
, chúng tôi nhận
được kết quả về số lần xuất hiện của biểu tượng Đất trong thơ
cho việc tìm hiểu nghiên cứu của
Biểu tượng
luận văn:
Tổng
Tập 1
Tập 2
Tập 3
Tập 4
Tập 5
Tập 6
Tập 7
Tập 8
Tập 9
Tập 10
Đất
5
9
10
4
4
15
3
2
12
5
69
gốc
8
23
19
30
23
33
19
28
42
36
261
phái sinh
Qua thống kê, chúng tôi thu được kết quả rất ấn tượng về tần số xuất
hiện của biểu tượng Đất và các biểu tượng phái sinh của nó. Tổng cộng trong
10 tập thơ, đã có 69 lần tác giả sử dụng biểu tượng Đất theo nghĩa gốc và 261
lần sử dụng biểu tượng Đất theo nghĩa phái sinh của nó. Số lượng lớn và mật
độ cao như vậy là sự khẳng định rõ ràng cho dụng ý nghệ thuật của nhà thơ.
để chứng tỏ tầm quan trọng của biểu tượng này trong thế giới nghệ
thuật thơ Triệu Kim Văn.
So sánh với việc sử dụng biểu tượng đất của một số các nhà thơ dân tộc
thiểu số khác như Mai Liễu, Y Phương…, có thể thấy thơ Triệu Kim Văn có cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sự tương đồng và sự khác biệt với họ.
Mai Liễu thương nhớ cội nguồn với những câu thơ đau đáu:
Vẫn nhớ núm nhau mình nơi đồi vắng
Mà khóc cười xa biệt mấy mươi năm
(Đêm nay gió Khau Mòn lại nổi)
Y Phương tha thiết dặn dò con về làng quê, bản quán của mình:
Ơi cái làng của mẹ sinh con
Có ngôi nhà xây bắng đá hộc
Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt
Có niềm vui lúa chín tràn trề
Có tình yêu tan thành tiếng thác
Vang lên trời
Vọng xuống đất
Cái tên làng Hiếu Lễ của con
(Tên làng)
Trong khi đó, Triệu Kim Văn nghĩ đến một sức mạnh nội sinh cho cuộc
sống mới đầy sinh lực:
Những ngọn đồi đang thoát tục
Những làng Dao đang cuộc hồi sinh
Bởi những bàn tay không chỉ biết làm hoa nên vải
Còn giỏi chạm vào đất cằn biết nói
Âm thanh của mùi hương là màu sắc cuộc đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Gặp bên đèo)
Điểm tương đồng ở đây là các tác giả đều sử dụng biểu tượng để
hướng đến các giá trị văn hóa quê hương, vùng miền. Sự khác biệt là ở chỗ,
trong khi các nhà thơ dân tộc thiểu số khác chủ yếu dùng biểu tượng để
hàm chỉ ý nghĩa cội nguồn, thì Triệu Kim Văn còn sử dụng nó để hàm chỉ về sự
sinh sôi, phát triển. Đấy cũng là nét mới, nét riêng của Triệu Kim Văn.
2.2.2. Biểu tƣợng Nƣớc
Nước là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng đối với đời sống. Nó
có sự gắn bó chặt chẽ, sâu sắc trong mọi phương diện đời sống của con người.
Thơ Triệu Kim Văn như một dòng chảy dào dạt mà trong đó biểu tượng nước
là một trong những mạch chảy trung tâm.
:
2.2.2.
Nước giữ vai trò quan trọng trong đời sống của cư dân nông nghiệp và
rất gắn bó với cuộc sống của người dân Việt Nam. Nước trở thành một biểu
tượng văn hóa, trở thành mẫu gốc trong tư duy và trong sáng tạo văn hóa nghệ
thuật của người Việt Nam.
Nước trong tiềm thức con người có ý nghĩa rất quan trọng. “Những ý
nghĩa tượng trưng của nước có thể quy về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống,
phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh. Ba chủ đề này thường gặp trong
những tiểu thuyết cổ xưa nhất và hình thành những tổ hợp hình tượng đa dạng
nhất và đồng thời cũng chặt chẽ nhất” [6.709].
Nước là nguồn gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là
biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính tinh khiết, tính hiền minh,
tính khoan dung và đức hạnh. “Nước còn là nguồn gốc và phương tiện chuyển
tải sự sống, là hình tượng của hơi thở sự sống” [17.710]. Nước được coi là biểu
tượng phổ biến về sự phì nhiêu và khả năng sinh sản dồi dào.
Nước còn trở thành biểu tượng của đời sống tinh thần mà Thánh thần,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Chúa trời ban cho loài người. Nước của sự sống được coi là một biểu tượng về
nguồn gốc vũ trụ. Nước làm cho thanh khiết, chữa khỏi bệnh, làm trẻ lại vì vậy
đưa con người vào cõi vĩnh hằng. Bản thân nước có tính năng làm sạch và cũng
vì lý do đó, được coi là thiêng liêng. Vì thế, nước được dùng trong các nghi lễ
tắm gội, nước có hiệu lực xóa bỏ mọi lỗi lầm và mọi vết nhơ. Ngoài ra, nước
tượng trưng cho sự sống: nước hồi sinh mà con người tìm được trong cõi tối
tăm, có tính năng làm sống lại. Kinh veda ngợi ca:
Hỡi những Dòng nước hồi sức cho đời
Hãy mang lại cho chúng tôi sức mạnh
Sự cao cả, niềm vui, cảnh mộng
Hỡi những Dòng nước, nữ chúa của những điều kỳ diệu
Là những vị nữ nhiếp chính của mọi giống nòi
Hỡi những Dòng nước
Hãy ban cho phương thuốc đầy đủ tính năng vẹn toàn
Để trở thành một tấm áo giáp bảo vệ con người tôi
Và nhờ đó tôi được nhìn lâu dài ánh sáng mặt trời
Hỡi những Dòng nước, xin hãy cuốn đi
Cái tội lỗi này, dù lớn hay nhỏ, mà tôi đã phạm
Cái điều không hay mà tôi đã gây ra cho ai đó
Câu thề nguyện dối trá mà tôi đã thốt ra.
Người Việt là những cư dân nông nghiệp, lấy ruộng đất và nghề nông làm
bản vị. Do đó, dân tộc ta thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp và mang
đậm đà đặc trưng của loại hình văn hóa này. Nước là một quyền năng, một giá
trị. Nước là nguồn sống tự nhiên quan trọng bậc nhất của loài người. Chính vì
thế mà những dòng sông lớn trên thế giới luôn luôn là khởi nguyên của các nền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
văn minh lớn. Đối với người Việt Nam, những con người quen nếp sống dựa
vào thiên nhiên, nước càng trở nên thiêng liêng bởi nước là sự sống. Sự sùng
bái nước là một hành vi mang tính cộng đồng và đã ăn sâu vào tâm thức cộng
đồng. Nước mặc nhiên trở thành một biểu tượng mang tính giá trị, mang một
quyền năng, một sức mạnh đặc biệt đối với đời sống con người. Từ một góc độ
khác, biểu tượng Nước lại được thiêng liêng hóa, trở thành một mạch nguồn
linh diệu của tình cảm. Trong thẳm sâu tâm thức mỗi con người, nước là nguồn
cội, nước là những gì thanh khiết, trong sáng. Nước cũng được quan niệm là số
phận, là định mệnh. Đặc tính về sự trôi chảy liên tục của nước khiến người ta
thường liên tưởng đến dòng đời, đến số phận của con người.
2.2.2.2. Biểu tượng Nước trong thơ Triệu Kim Văn
Thấm thía sâu sắc ý nghĩa của nước với đời sống con người, hòa mình và
gắn bó với những mạch nguồn giá trị của quê hương, Triệu Kim Văn đã xây
dựng rất thành công biểu tượng nước bằng một hệ thống các hình ảnh, chi tiết
giàu ý nghĩa biểu trưng.
iểu tượng gốc:
Với cuộc sống người Dao, nước là yếu tố gắn chặt với sinh tồn. Nước là
khởi thủy cho mọi sự sống, là nguồn mạch cho mọi cảm hứng. Nước được bắt
đầu hình thành một cách thật tự nhiên:
Miệng nước
Nước từ lòng đất chảy ra
Nước từ lòng đá chảy ra
Thăng hoa nguồn diệu vợi
(Pác Nặm)
Trong tâm thức của tác giả, nước là điều gì đó
, với người Dao thì nước không đơn thuần là một yếu tố trong sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hoạt đời sống, mà nó được coi như một biểu tượng, một ước lệ của tình người:
Ơn trời nước vẫn nước non
Còn câu lục bát sắt son cùng người
(Lục bát cùng ngƣời)
Có thể thấy, nước là khởi nguồn sinh sôi bất tận cho sự sống, là sự quy tụ
tích trữ những mạch ngầm văn hóa, là dòng chảy đồng hành cùng sự chảy trôi
của thời gian, đồng hành cùng cuộc sống con người. Khi thì nước tràn ngập sức
sống:
Con suối nhỏ nước vẫn reo trong vắt
Đôi cây cộng sinh trùm bóng một vùng
(Tháng 5 Nà Pậu)
Khi thì nước gắn với tục lệ và sinh hoạt đời sống con người:
Nếp nhà trầm tư hoang tưởng bên khe
Những máng nước bao nhiêu đoạn nối
Đêm đêm tiếng tắc kè vẫn gọi
Nước măng nước măng cho cậu lên nhà
(Giữa ngày xƣa)
Như vậy, có thể thấy thơ Triệu Kim Văn trong những mạch
nguồn văn hóa dân tộc để xây dựng nên một hệ thống hình ảnh tràn ngập sắc
thái văn hóa miền núi. Trong đó, nước là một biểu tượng sống động của những
mã văn hóa như vậy.
Từ biểu tượng gốc, thơ Triệu Kim Văn tiếp tục mở rộng biên độ bằng hệ
thống các biểu tượng phái sinh của Nước như là sông suối, sương, mây.v.v..
Với mỗi vùng đất, mỗi miền quê, sông là văn hóa quê hương xứ sở. Nó như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mạch nguồn để từ đó thi sĩ chắt chiu, góp thành bản sắc văn hóa quê hương
hôm nay. Triệu Kim Văn cũng là một người con đang chắt chiu trong mạch
nguồn những điều như thế.
cuộc sống nhọc nhằn của con người trên miền cao quanh năm suốt đời chỉ
biết bó :
Hạt kê nấu cháo mẹ con cùng húp
Một đời không vượt nổi suối khe
(Quả kê còn lại)
Nhưng người ta không bao giờ “vượt suối khe” bởi sông suối là mạch
nguồn cuộc sống, đã chắt chiu từng giọt chảy mà thành:
Có một dòng sông bắt nguồn từ Phja Bjoóc
Nơi ngàn năm núi ngủ trong mây
Mỗi giọt chảy đều được cây chiu chắt
Để thành sông nguồn suối gom đầy
(Có một dòng sông)
Từ chỗ gắn với đời sống sinh hoạt, nước trở nên thân thuộc trong đời
sống tinh thần của người vùng núi. Có lúc, nhà thơ nhìn dòng suối d
. Bởi vậy, thật tự nhiên, nhà thơ ví suối như mái tóc
sơn nữ tuổi mười lăm:
Những dòng suối nào đây
Những nguồn nước nào đây
Gội mềm từng sợi tóc
Uốn nên vuông nên góc
Mái tóc tuổi mười lăm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Núm tóc Mùi Pham)
Có lúc, dòng sông như một bến neo đậu của tình cảm con người. Nó là
nơi người ta tìm về, sẻ chia. Dòng sông trở thành chứng nhân, trở thành người
bạn thân thiết, tin cậy để có thể san sẻ những nỗi niềm trong cuộc sống của con
người. Nó trở thành một bến đậu bình yên của tâm hồn bao người miền núi:
Ở bên sông sâu có một ngôi nhà
Ngôi nhà dưới lùm cây yên ắng
(Ngôi nhà cửa đóng)
Cũng có lúc, biểu tượng Nước còn được biến thể vào trong mây núi
sương mờ. Trước hết, sương núi gắn liền với cái không khí bồng bềnh trầm
mặc hư ảo và ngọt ngào muôn đời của miền núi:
Đi trong bồng bềnh sương
Trong cái lạnh rét tê núi đá
(Lội bộ cùng Cao Sơn)
Và tất nhiên, không thể thiếu, sương cũng còn gắn với những vẻ đẹp,
những niềm vui của con ngưuời nơi đây. Nó chứng kiến và hòa tan vào niềm
vui của những điệu hát, những sợi thêu, những duyên tình đằm thắm:
Chỉ thấy má hồng môi thắm
Trai tài gái sắc chen đua
Chỉ nghe câu sli câu lượn
Trong sương trong nắng ban trưa
(Chợ tình Xuân Dƣơng)
, chúng tôi khảo sát thống kê được
số lần mà biểu tượng Nước xuất hiện trong các tập thơ của Triệu Kim Văn, từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đó có được cơ sở để làm rõ hơn các luận điểm:
Tổng
Biểu tượng Nước
Tập 1
Tập 2
Tập 3
Tập 4
Tập 5
Tập 6
Tập 7
Tập 8
Tập 9
4
7
7
3
7
12
4
2
3
gốc
Tập 10 7
56
13
16
30
13
24
28
12
5
44
39
224
phái sinh
Thống kê cho thấy, có đến 56 lần tác giả sử dụng biểu tượng Nước theo
nghĩa gốc và 224 lần sử dụng các biểu tượng phái sinh của nó. Đây là một con
số cho thấy mật độ dày đặc của hệ thống những biểu tượng này trong thơ Triệu
Kim Văn. Điều này khẳng định một lần nữa về sự gắn bó máu thịt, sự ám ảnh
lâu bền của những cội nguồn văn hóa dân tộc trong tư duy nghệ thuật thơ Triệu
Kim Văn.
So sánh với cách sử dụng biểu tượng nước của một số các nhà thơ các
dân tộc thiểu số khác như Mai Liễu, Pờ Sảo Mìn, Dương Thuấn.v.v.., thì thơ
của Triệu Kim Văn có sự khác biệt nhất định.
Với Mai Liễu, sông suối là quê hương, là nguồn cội, là nơi cuối cùng
tìm về sau bao nhiêu nếm trải đắng cay của số phận con người:
Anh vẫn gặp dòng sông trong xanh
Như buổi chiều xưa rì rào kỉ niệm
Em lặng nhìn dòng sông cuộn chảy
Và khe khẽ hát... khúc hát êm đềm
(Có một dòng sông xanh)
Với Triệu Kim Văn, sông suối là những đang gắn bó, đang hiện hữu
trong đời sống thường ngày:
Một đời ta vui cùng suối mát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Một đời ta không bước nổi qua
Ơi suối nguồn mênh mông và khoáng đạt
Bạc tóc đầu suối vẫn quấn ta
(Suối)
Dương Thuấn tự hào về làng quê tràn đầy sức sống c mình:
Bản tôi nhiều ruộng bậc thang
Bản tôi bên bờ sông Năng ầm ào
(Anh vẽ bản tôi nhé)
Pờ Sảo Mìn mang trong mình sự mạnh mẽ, phong trần nắng gió của một
người con trai miền núi:
Dân tộc chỉ có hai ngàn người
Biết gọi gió gọi mưa gọi nắng
Chắn suối ngăn sông nước ngược dòng
Ngô lúa cười vui tận chân trời đó
Rượu uống quanh năm nước vẫn chảy về
(Cây hai ngàn lá)
Trong khi đó, Triệu Kim Văn bồng bềnh, huyền ảo:
Cõi xưa trong kí ức
Hiển hiện màu rêu phong
Bản nhỏ miền sơn cước
Bồng bềnh chiều sương buông
(Cõi xƣa)
Trong khi một số nhà thơ các dân tộc thiểu số khác thường dùng biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tượng nước để tạo ra một sắc thái tươi vui, mạnh mẽ, khỏe khoắn, thì biểu
tượng nước trong thơ Triệu Kim Văn thường mang sắc thái nghĩa chậm buồn,
trầm tư, mềm mại.
2.2.3. Biểu tƣợng Lửa
Với văn học nói chung và thơ ca nói riêng, lửa luôn là một biểu tượng
hữu dụng để thể hiện sức sống, sức mạnh, sự linh thiêng và nhiều ý nghĩa cao
cả của con người.v.v.. Điều này cũng đã được thể hiện một cách sâu sắc và ấn
tượng trong thơ Triệu Kim Văn.
,
.
Theo tổng hợp nghiên cứu của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant
trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, biểu tượng Lửa được giải thích với
nhiều ý nghĩa.
Lửa với ý nghĩa bản thể: Ý nghĩa bản thể lửa trong văn hóa nhân loại được
tri nhận và lí giải tương đối phong phú. Theo giáo thuyết Hindu, những dạng
lửa của thế giới trần gian là: lửa thông thường, lửa sấm sét và mặt trời. Ngoài ra
còn có hai dạng lửa khác: lửa xuyên thấu (hoặc lửa hấp thụ) và lửa hủy diệt.
Lửa với ý nghĩa thần thánh: Ý nghĩa siêu nhiên của lửa trải rộng từ những
linh hồn lang thang (ma trơi, đèn lồng) đến anh linh thần thánh. Nhiều nền văn
hóa trên thế giới coi lửa là một vị thần có sức mạnh siêu nhiên, là vị thần sống
và tư duy.
Lửa với ý nghĩa tẩy uế và tái sinh: Ý nghĩa tẩy uế của biểu tượng lửa
thường gắn liền với sự tái sinh. Theo một số truyền thuyết, chúa Ki tô (và các
thánh) tái sinh cơ thể bằng cách đi qua lò lửa của xưởng rèn. Những người theo
Đạo giáo bước vào lửa để tự giải phóng khỏi thân phận mà con người phải chịu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đựng. Họ bước vào lửa mà không bị thiêu cháy.
Lửa với ý nghĩa hủy diệt: Ý nghĩa hủy diệt của biểu tượng lửa thể hiện ở
chỗ nó làm tối và chết ngạt bởi khói; nó đốt cháy, tàn phá, thiêu hủy; nó là lửa
của những dục vọng, của sự trừng phạt, của chiến tranh. Và theo đó, lửa trong
tay ma quỷ, trở thành công cụ của quỷ.
Lửa với ý nghĩa giác ngộ: Lửa bên trong, lửa là tri thức xuyên suốt, là sự
giác ngộ, là sự hủy bỏ cái vỏ bọc ngoài. Lửa mặt đất tượng trưng cho trí khôn,
nghĩa là ý thức, với tất cả tính hai chiều đối nghịch của nó; ngọn lửa bốc lên
trời thể hiện khí thế hướng tới sự thăng hoa tinh thần; ngọn lửa chao đảo biểu
thị trí khôn, tinh thần sao nhãng.
Lửa với ý nghĩa phương tiện vận chuyển: Một số nghi lễ hỏa táng có nguồn
gốc ở sự chấp nhận lửa như là một phương tiện vận chuyển, hay là sứ giả, từ thế
giới người sống sang thế giới người chết. Trong nghi lễ tang ma của nhiều dân
tộc trên thế giới, người ta đặt phần thức ăn dành cho người chết vào đống lửa
trên đầu quan tài, ngọn lửa có nhiệm vụ chuyển đồ cúng đó cho người chết.
Như bao con người tồn tại ở các vùng miền khác nhau trên trái đất này,
con người Việt Nam cũng được hưởng nhiều ân huệ từ lửa. Người ta sống nhờ
lửa (lửa làm chín thức ăn, lửa xua đi cái giá lạnh, lửa bảo vệ con người trước
thú dữ …). Người ta yêu bằng lửa - lửa tình, tình yêu quê hương đất nước, tình
yêu trai gái. Và khi chết, con người ta cũng không thể thiếu lửa. Nhiều người
Việt Nam sống cả đời chỉ chăm chút sao cho sau này chết đi có người hương
khói. Trong phong tục tổ chức lễ tang của người Việt chúng ta thấy không thể
không có lửa (lửa của nhang khói, lửa của đèn nến). Sự hiện diện của người
thân yêu đã khuất trong mỗi mái ấm gia đình là bàn thờ. Những người còn sống
thể hiện sự tưởng nhớ người đã khuất bằng việc thắp hương, không để “hương
tàn khói lạnh”…Như thế, còn lửa là còn sự sống, còn tình yêu, khi đã “tắt lửa
lòng” cũng là khi người ta đã tuyệt tình cạn nghĩa. Người ta thắp lửa là muốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thắp lên sự sống, và tất nhiên người thắp lửa bao giờ cũng rất được trân trọng.
Cũng như nhiều dân tộc trên thế giới, người Việt Nam có tục thờ thần
lửa (biểu hiện củavăn hóa sùng bái lửa). Nói cách khác, lửa là thần thánh, là
lực lượng siêu nhiên. Rất nhiều các dân tộc ở Việt Nam có tục thờ thần lửa mặc
dù cách thức và mức độ thể hiện có khác nhau. Có những dân tộc thờ lửa quanh
năm nhưng không có lễ cúng dành riêng cho thần lửa vào dịp tết, trong khi một
số dân tộc khác thì lễ tết luôn gắn liền với nghi thức thờ thần lửa. Trong đời
sống tâm linh người Việt, lửa còn có ý nghĩa như là cầu nối, là phương tiện
vận chuyển từ thế giới người sống sang thế giới người chết. Điều này được thể
hiện rất rõ nét trong nghi thức dâng hương (thắp hương, đốt hương) của người
Việt. Người Việt tin rằng nén hương khi đốt lên (có lửa) như một nhịp cầu vô
hình nối kết hai thế giới hữu hình và vô hình với nhau. Ngày giỗ, ngày tết, bàn
thờ không thể không có lửa đèn, khói nhang. Chỉ khi thắp lửa đèn, khi dâng
hương, người Việt mới khấn vái, cầu mong gia tiên phù hộ độ trì, thành kính
mời ông bà, ông vải về ăn cỗ cúng và tin rằng tấm lòng thành kính của người
thắp hương sẽ quyện theo làn khói thơm hướng về cõi thiêng liêng.
Cũng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Việt, lửa còn có sức
mạnh xua đuổi tà khí - lửa tẩy uế. Ý nghĩa này thể hiện trong những phong tục
như đốt vía, xua đuổi tà ma, ám khí. Người đi chợ gặp người mà họ cho là có
vía xấu, họ châm lửa đốt giấy hoặc rơm rạ để “vía lành ở lại, vía dữ bay đi”.
Người mới chuyển đến nơi ở mới thường đốt một đống lửa to trong nhà để xua
đuổi không khí lạnh lẽo cũng là tạo hơi ấm, khơi thắp lên sức sống mới cho
ngôi nhà.
Lửa đã được người tiền sử phát hiện ra cách đây nhiều nghìn năm. Sự phát
hiện ra lửa và sử dụng lửa cho mục đích của cuộc sống được coi là một bước
tiến quan trọng trong văn minh của loài người. Nhờ có lửa, con người dần biết
ăn chín, uống sôi, biết dùng lửa để sưởi ấm, xua côn trùng, thú dữ… Cũng nhờ
có lửa, con người biết đốt nóng kim loại để rèn, đúc dụng cụ, tăng năng suất lao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
động, phục vụ nhu cầu cuộc sống. Có thể nói: lửa có mặt trong mọi hoạt động
của cuộc sống con người và trở thành một biểu tượng trong đời sống tinh thần
của người dân. Nói đến lửa, người ta nghĩ đến ánh sáng, hơi ấm và sức nóng, sự
đốt cháy…
Chưa phải là tất cả, nhưng những trường hợp dẫn ra ở trên phần nào cho
thấy: biểu tượng lửa trong đời sống văn hóa Việt vừa mang những ý nghĩa
chung của một biểu tượng trong văn hóa nhân loại vừa có những nét ý nghĩa in
đậm dấu ấn riêng của đời sống văn hóa dân tộc.
Triệu Kim Văn có nhiều suy tư về
, đưa nó vào trong thế giới thơ của mình như một biểu tượng giàu ý nghĩa.
Cùng với hai biểu tượng đất và nước, thì biểu tượng lửa đã làm nên thêm
một chiều kích độc đáo ấn tượng trong thơ Triệu Kim Văn. Đó có khi là ngọn
lửa của tình yêu, có khi còn là ngọn lửa của trí tuệ, nồng đượm và trầm nghị.
..Những đặc tính này cũng hòa quyện và hun đúc nên hồn thơ Triệu Kim Văn.
.
Với một người sinh trưởng và gắn bó với quê núi như nhà thơ Triệu Kim
Văn, lửa luôn là một thành tố đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần. Lửa có
thể được coi như sự sống trong tim, như nhiệt huyết và khát vọng cháy bỏng mãnh
liệt của con người. Nếu một ngày để tắt đi ngọn lửa đam mê nhiệt huyết cháy
bỏng ấy, trái tim và tâm hồn con người sẽ nguội lạnh và buồn chán biết bao:
Củi tôi hái từ con tim
Cánh rừng con tim rộng dài không đo được
Lửa cháy hết rồi tôi ngồi khóc
Nhớ chàng mồ côi kiếm củi đổi hạt kê.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Thơ củi)
Lửa là sức mạnh sưởi ấm, che chở và bảo vệ con người qua những khắc
nghiệt của
:
Đêm đông núi
Cùng ngồi co bên lửa
Mắt nhíu vào không muốn mở
Miệng dính vào không muốn mở
(Đêm đông sơn cƣớc)
Có lúc, lửa là nơi hội tụ, tìm về. Cái ấm áp, ấm cúng của bếp lửa là một
không gian lí tưởng để những đôi trai gái trẻ hẹn hò, chờ đợi. Lửa sẽ hun đúc
và thôi thúc tình cảm con người, sẽ chứng kiến và se duyên cho tình yêu đôi
lứa. Những lúc như vậy, lửa thật hiền hòa bao dung và nồng nàn:
Mùa thu bản làng thư thả
Đỏ hồng bếp lửa chờ nhau
(Vị rừng)
Có khi, lửa ghi lại dấu tích của những năm tháng thơ trẻ vụng dại mà trong
sáng, đáng yêu. Có cái gì bỏng rát tâm can khi nhớ về những kí ức xa xưa đó:
Chẳng biết năm đó chim có về quấy phá
Bọn trẻ chỉ thích nhặt bánh vùi lửa
Những mẩu bánh phồng phồng
Bám đầy tro than
(Bánh hoa chim sẻ)
Nhiều khi, với người miền núi, lửa không còn là ngọn lửa thực, mà nó là
lửa trong lòng, trong mắt, trong tim. Nhìn vào mắt nhau, người ta nhận ra tất cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tình cảm chân thành mà mãnh liệt nhất:
Gần nhau
Gần nhau gần nhau
Bốn mắt soi vào có lửa
(Vô đề)
Chính vì vậy, khi ngọn lửa được nhóm lên bập bùng thì cũng chính là lúc
mà trái tim con người cất lên lời yêu thương: “Em nhóm lửa/Lửa chảy trên hai
má/Lửa bập bùng /Tim nói lời yêu đương.”(Khắc nghiệt)
Rõ ràng, đã trở thành một hình tượng nên thế
giới tinh thần của Triệu Kim Văn. Lửa như nguồn tỏa ra ánh sáng, phát ra
nhiệt, và bởi vậy, lửa như là biểu tượng của nguồn sáng, nguồn ấm trong thơ
ông. Biểu tượng trong thơ Triệu Kim Văn cũng có ý nghĩa là sự sống, thắp
lên lửa là thắp lên sự sống, thắp lên tình yêu, thắp lên niềm tin, sự lạc quan vào
tương lai tương sáng.
Bắt đầu từ biểu tượng gốc là , nhà thơ đã triển khai thành một hệ thống
các hình tượng mang ý nghĩa như là các biểu tượng phái sinh của , như là
bếp, sấm sét, mặt trời.v.v..
Lửa là biểu trưng của tình cảm vợ chồng, tình yêu nam-nữ. Lửa trở thành
biểu tượng ngôn từ, lửa cũng được dùng nhiều với ý nghĩa biểu thị cho những
sắc thái, cung bậc khác nhau của tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng. Vì vậy,
khi không còn giữ được hạnh phúc gia đình, bếp lửa kia sao lẻ loi nguội lạnh
như sự cô đơn của lòng người: “ Thế là còn một mình tôi/Lui cui một bếp một
nồi /Mớ rau con tôm cái cá/Một mâm bát lẻ đũa đôi.”
(Thế là)
Có lúc, lửa lặn mình hóa thân vào trong những sấm sét.
:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Sét đánh
Tạo thành cháy
Con người nhanh nhạy
Bắt chước
Lấy hai hòn đá đập vào nhau
(Lửa)
Có lúc, lửa ẩn mình hóa thân vào hình tượng mặt trời. Trong thơ Triệu
Kim Văn, mặt trời là nguồn sáng, là hi vọng, là ước mơ, là ý hướng tương lai:
Trong tình ruột thịt anh em
Tình người với người
Dưới nắng mặt trời và những ánh sao đêm
(Những khoảng trống)
hống kê về số lần mà biểu tượng
Lửa xuất hiện trong các tập thơ của Triệu Kim Văn, coi như một căn cứ để
khẳng định rõ hơn các luận điểm:
Tổng
Tập 1
Tập 2
Tập 3
Tập 4
Tập 5
Tập 6
Tập 7
Tập 8
Tập 9
Tập 10
Biểu tượng Lửa
2
7
3
6
7
15
7
5
10
4
gốc
66
4
6
7
4
7
4
5
6
9
5
57
phái sinh
có tới 66 lần (biểu tượng gốc) và 57 lần (biểu tượng phái sinh) xuất
hiện . Mỗi lần xuất hiện, biểu tượng lửa luôn mang một vị trí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trung tâm của tứ thơ, từ đó lan tỏa nhiều tầng lớp ý nghĩa sâu sắc.
Các biểu tượng luôn có ý nghĩa làm phát lộ những bí ẩn của vô thức, của
hành động, khai mở trí tuệ về cái chưa biết và cái vô tận. Sự phân tích ban đầu
và chưa thật đầy đủ về biểu tượng Lửa ở hai cấp độ biểu tượng văn hóa và biểu
tượng ngôn từ (ngôn ngữ thơ ca), hi vọng phần nào đã làm “phát lộ” những ý
nghĩa phong phú và sâu sắc của biểu tượng Lửa trong tâm thức, thế giới tinh
thần, thế giới nghệ thuật thơ Triệu Kim Văn.
So sánh với một số nhà thơ các dân tộc thiểu số về việc sử dụng biểu tượng
lửa, có thể thấy thơ Triệu Kim Văn có nét tương đồng. Họ giống nhau ở chỗ
đều gắn biểu tượng lửa với cuộc sống, với thân phận con người.
Bên cạnh đó, cũng có sự khác biệt nhất định.
Đối với Y Phương, lửa là một biểu tượng của sức sống bừng bừng:
Khúc củi hừng hực cháy
Còn gang nữa đến trời
(Ngƣời đẹp)
Mai Liễu cũng rất mãnh liệt với những hình ảnh về lửa:
Hoa chuối cháy bên đồi
Tình ai còn ngút lửa
(Sông Cầu)
Triệu Kim Văn, thật đơn giản và bình dị, lửa trở thành hơi ấm của tình
người nồng thắm:
Tiếp bạn ta đưa về với núi
Mang mang con gió của đại ngàn
Chỉ không khói lửa bên sàn ấm
Em ngồi ửng má vót cơm lam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Đêm Hà Vị)
Như vậy, trong khi một số nhà thơ các dân tộc thiểu số khác thường dùng
biểu tượng lửa với một sắc thái nghĩa mạnh mẽ, dữ dội, nóng gắt, thì trong thơ
Triệu Kim Văn lửa lại thường mang sắc thái nghĩa hiền hòa, nồng ấm, thắm
đượm tình cảm. Đây cũng là một đặc trưng độc đáo, thể hiện cá tính sáng tạo
của Triệu Kim Văn.
* *
*
Một phương tiện nghệ thuật quan trọng để thể hiện tư duy nghệ thuật của
nhà thơ là hệ thống biểu tượng mà tác giả xây dựng và sử dụng. Nó là một mã
nghệ thuật ẩn chứa những cảm quan của nhà thơ về con người, về cuộc sống.
Nhà thơ Triệu Kim Văn đã xây dựng thành công trong thơ mình một hệ thống
các biểu tượng giàu ý nghĩa. Hệ thống biểu tượng trong thơ Triệu Kim Văn
phong phú, sinh động, đẫm màu sắc miền núi và phong vị văn hóa dân tộc Dao.
Trong một hệ thống phong phú sinh động đó, nhà thơ đặc biệt quan tâm và xây
dựng nổi bật một số biểu tượng trung tâm như Đất, Nước, Lửa, cùng những biểu
tượng phái sinh của nó.
56
: s
.
Điều này đã đem lại cho thơ Triệu Kim Văn một bản sắc độc đáo, một cảm quan
giàu nội lực văn hóa. Việc giải mã được hệ thống biểu tượng này không chỉ có ý
nghĩa tích cực khi tiếp cận thơ ca Triệu Kim Văn nói riêng mà còn góp phần hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
quả trong việc khám phá nhận diện văn hóa Dao nói chung.
Chƣơng 3
GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ TRIỆU KIM VĂN
3.1. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn
3.1.1. Khái quát về giọng điệu nghệ thuật
3.1.1.1. Giọng điệu nghệ thuật
Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Nhà văn là nhà sáng tạo ngôn từ.
Nó được cá thể hóa đến mức trở thành quy luật ngữ pháp riêng, giọng điệu
riêng của từng người chứ không chỉ tuân theo quy luật pháp ngữ chung của
ngôn ngữ. F.Saussure, nhà ngôn ngữ học vĩ đại đã chỉ rõ rằng, mỗi từ mỗi chữ
chỉ có nghĩa nhất định khi được đặt trong một câu. Đối với văn chương, người
đọc không phải chỉ để hiểu mà để cảm, nghĩa là nhận lấy toàn bộ những gì nhà
văn gửi gắm đằng sau những hàng chữ, vượt ra khỏi nghĩa của từng từ, từng
chữ. Đối với văn chương, nếu chỉ bám vào những ký hiệu trực tiếp, chỉ là cuộc
tìm kiếm vô bổ trong nghĩa địa của ngôn từ. Do đó giọng điệu văn chương,
cũng xuất phát từ ngôn ngữ, song nó có nghĩa rộng hơn nhiều, nó bao hàm cả
ngữ cảnh, thái độ, quan niệm, cách ứng xử... và cá thể hóa đến mức trở thành
tài sản riêng của một sinh thể tư duy, như giọng điệu riêng của người ấy trong
cuộc đời.
Việc tạo ra giọng điệu nghệ thuật riêng là nỗ lực không ngừng của mỗi
nhà văn. Giọng điệu ấy được cụ thể hóa qua ngôn từ, lời văn, ngữ điệu và các
thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm để bộc lộ “thái độ, tình cảm, lập trường, tư
tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả” nhằm thiết lập các
mối quan hệ “thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”. Tổng
hòa các sắc thái giọng điệu trong một tác phẩm, người đọc sẽ có cơ sở quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trọng để đánh giá phong cách, sắc thái tình cảm của người viết [16.140].
Trong nghệ thuật, khái niệm giọng điệu được định nghĩa là: “Thái độ,
tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được
miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu
tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm” [16.134]. Đồng thời, “giọng điệu còn phản ánh lập trường xã hội, thái
độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo
nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một
giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ
tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật” [16.135]. Theo tinh thần định
nghĩa này, giọng điệu thuộc về chủ thể sáng tạo thẩm mỹ. Với loại hình trữ tình
(tập trung vào thơ) thì đó là giọng của nhà thơ, của chủ thể trữ tình, bộc lộ
trong thế giới nghệ thuật.
Về vai trò của giọng trong sáng tạo văn chương, nhà nghiên cứu Lê Ngọc
Trà cắt nghĩa rõ ràng, thuyết phục: “Giọng vừa liên kết các yếu tố hình thức
khác nhau, làm cho chúng cùng mang một âm hưởng nào đó, cùng có chung
một khuynh hướng nhất định, vừa là chỗ dựa chính để các yếu tố của tác phẩm
quy tụ lại và định hình, thống nhất với nhau theo một kiểu nào đó, trong chỉnh
thể giọng ấy, mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, đầy chất thơ hơn, thậm chí có khi mới
mẻ hơn” [44.152].
Như vậy, qua những nghiên cứu của các nhà lí luận, chúng ta có thể thấy
một số vấn đề cơ bản về giọng điệu nghệ thuật: Thứ nhất, giọng điệu nghệ thuật
thể hiện sắc thái tình cảm, lập trường, thái độ của nghệ sĩ đối với cuộc sống,
cho nên nó sẽ rất phong phú đa dạng. Nó không chỉ là vấn đề thuộc về phong
cách nghệ thuật mà còn là yếu tố quan trọng tạo thành tư tưởng, nội dung tác
phẩm; Thứ hai, giọng điệu là một yếu tố thuộc về nghệ thuật, nó chi phối đến
các bình diện hình thức, được bộc lộ qua các dấu hiệu hình thức, cho nên nó có
vai trò rất quan trọng đêm lại tính sáng tạo, phong cách riêng của nghệ sĩ qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tác phẩm của mình.
3.1.1.2. Giọng điệu thơ
Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường
giọng điệu nhất định, trong phạm vi của thái độ cảm xúc nhất định đối với đối
tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó.
Thực tế cho thấy, giọng điệu là một thành tố không thể thiếu được trong
việc xây dựng và triển khai tư tưởng, xúc cảm của nhà thơ. Ở một phương diện
khác, giọng điệu chịu áp lực của thể loại. Chính điểm mấu chốt có tính đặc
trưng này khiến giọng điệu trữ tình khác hẳn giọng điệu văn xuôi tự sự. Thơ trữ
tình chủ yếu được nói đến như một bản tự thuật tâm trạng cả chủ thể và khách
thể gần gũi nhau đến mức trong đa số trường hợp xem như hòa lẫn cùng nhau.
Trong các bài thơ trữ tình nhập vai, nhân vật có mối quan tâm riêng, có cảnh
ngộ và đời sống riêng. Việc đẩy nhân vật trữ tình ra khỏi tầm kiểm soát thông
thường của nhà thơ đã biến nhân vật có khi trở thành đối tượng nhận thức của
chính tác giả. Dù vậy, nhìn vào mối quan hệ ngầm ẩn bên trong, người đọc có
thể nhận ra nhân tố tự thuật tâm trạng và nhân tố nhập vai. Hai nhân tố này
khiến nhà thơ trở thành một sự thống nhất trong hai con người. Chính trên cái
nền thống nhất có tính bản chất này mà thơ trữ tình trực tiếp bộc lộ giọng điệu
tác giả, được chảy trong một trường nhìn, một kênh giọng chỉ đạo. Vì thế,
giọng điệu trữ tình là sự tương hợp nội tại giữa ý thức có tính độc thoại và sự
lựa chọn thể loại phù hợp.
Nhìn chung, giọng điệu thơ trữ tình chủ yếu được bộc lộ qua những đặc
điểm chính: Một là, do thể hiện trực tiếp, trực diện quan niệm, thái độ lập
trường của nghệ sĩ mà giọng điệu thơ mang tính chủ quan; Hai là, nếu văn xuôi
có ý thức khám phá đời sống ở tầng đáy của nó, phân tích một cách minh bạch,
kỹ lưỡng các hiện tượng thì thơ lại là những mảng tâm trạng điển hình, những
nhát cắt của dòng cảm xúc mãnh liệt cho nên giọng điệu tác phẩm thường trùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
khít, tương hợp với ý đồ tác giả. Ba là, mặc dù là phạm trù thuộc về nội dung
nhưng giọng điệu bao giờ cũng chi phối đến các phương diện hình thức, được
bộc lộ qua những tín hiệu có tính hình thức. Trong thực tiễn nghệ thuật, giọng
điệu không hiện ra chắp vá, rời rạc mà được toát ra từ những mao mạch nhỏ bé,
li ti của tác phẩm. Việc biểu hiện nó còn nhờ cậy vào cách xây dựng nhịp điệu
và khả năng điều phối các kỹ thuật sử dụng hình ảnh, gieo vần, dùng từ. .. tạo
thành mối quan hệ bên trong, góp phần làm nên sự thống nhất cơ bản của tác
phẩm.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các thể loại qua từng chặng đường
thơ, chúng ta thấy rằng giọng điệu trong thơ cũng trở nên phong phú và đa
dạng hơn nhiều. Mạch đập cuộc sống, xúc cảm nhà thơ, cấu tứ, thể loại và cuối
cùng là giọng điệu, đó là kết quả của quá trình khởi nguồn, bắt nhịp và thể hiện.
Quá trình ấy ngày dần hướng đến "sự đồng thuận", "tương ứng". Vì vậy mà
nhịp thở của cuộc sống với nhiều cung bậc, sắc thái... vốn vô cùng khác nhau
có cơ hội được "hiện hữu" trong thơ. Cũng chính vì vậy mà sức hấp dẫn của thơ
vẫn mãi "trinh nguyên", vẫn mãi "không cùng". Ngày nay, bên cạnh các thể thơ
truyền thống, thơ tự do đặc biệt nở rộ, giọng điệu trong thơ càng đa dạng hơn,
gần âm hưởng đời thường hơn. Suy cho cùng, giọng điệu trong thơ trữ tình là
sự tương hợp nội tại, giữa ý thức có tính độc lập và sự lựa chọn thể loại phù
hợp. Vì vậy, cũng như sự phát triển của thơ, giọng điệu trong thơ là "tự thân"
và "tự nhiên". Trong tác phẩm không có giọng điệu thì không có những rung
động, sâu sắc, không thể hiện những nỗi đau thương, nỗi xót xa của tác giả
trước thân phận con người, không thể chia sẻ với con người niềm vui và tình
yêu cuộc sống. Chính vì vậy, phân tác phẩm thơ trữ tình là phân tích giọng điệu
của chủ thể trữ tình (nhân vật trữ tình), bởi giọng điệu bộc lộ chủ thể một cách
trung thực, cho phép ta nhận ra nét riêng, sự độc đáo của nghệ sĩ. Nói một cách
khác, giọng điệu là một yếu tố tạo nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
Phân biệt Giọng điệu với Ngữ điệu: ngữ điệu thuộc phạm vi câu (ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
điệu cảm thán, ngữ điệu hỏi, ngữ điệu cầu khiến, ngữ điệu mệnh lệnh, ngữ điệu
liệt kế,…) thì giọng điệu lại phụ thuộc vào cấu trúc tác phẩm, khuynh hướng
nghệ thuật của tác giả và của thời đại. Ngữ điệu góp phần biểu lộ giọng điệu.
Phân biệt Giọng điệu với Nhịp điệu: Nhịp điệu là sự lặp lại có tính chất
chu kì cách quãng hoặc luận phiên của điểm dừng trong dòng thơ. Nhịp điệu là
sức mạnh cơ bản, năng lượng cơ bản của câu thơ. Những nhịp điệu chỉ là
phương tiện bộc lộ giọng điệu. Nhịp điệu làm cho mỗi thành tố can dự trực tiếp
với hệ thống giọng điệu chỉnh thể. Vậy, nhịp điệu chịu sự
điệu được bộc lộ qua nhịp điệu và ngữ điệu của câu thơ.
Phân biệt Giọng điệu với Nhạc điệu: Nhạc điệu thơ được tổ chức nhờ
yếu tố ngắt nhịp, gieo vần, phối thanh. Thơ được tạo nên từ sự phân vân kéo
dài giữa âm thanh và ý nghĩa. Như vậy nhạc điệu chịu sự chi phối của giọng
điệu.
3.1.2. Đặc điểm giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn
Là một biểu hiện trong nghệ thuật phi vật thể (văn chương, âm nhạc), sự
hình thành giọng điệu của nhà văn tất phải chịu sự tác động, chi phối của không
gian văn hóa (gia đình, quê hương, nhà trường, tập quán vùng miền...), và sự
chi phối của thời đại (trong thơ có âm hưởng thời đại, có sắc điệu, dấu ấn một
thời kì lịch sử). Vì vậy, có thể thấy rằng, “mỗi thời đại nhìn chung có một giọng
điệu riêng, thể hiện cách thức chiếm lĩnh hiện thực và lí giải hiện thực riêng.
Gắn với điều này là quan niệm nghệ thuật của thời ấy” [10]. Xuất phát từ cái
nhìn đó, có thể thấy rằng, giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn tất
yếu sẽ mang những dấu ấn của sự chi phối từ không gian văn hóa vùng miền,
qua đó thể hiện nhận thức và tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ. Khảo sát cụ thể
qua các tập thơ của Triệu Kim Văn, chúng tôi nhận thấy một số giọng điệu cơ
bản nổi bật đã được tác giả tập trung bộc lộ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
3.1.2.1. Giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm
Có một âm sắc mới lạ và độc đáo trong thơ Triệu Kim Văn, đó chính là
giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm. Giọng điệu này được nhà thơ khéo léo đan
cài vào những đề tài thật bình dị, những cảm xúc thật tự nhiên, khiến người đọc
không thể dễ dãi dừng lại bề ngoài câu chữ mà phải đồng cảm và đồng sáng tạo
cùng tác giả để tìm đến những suy tư triết lí ẩn ở bề sâu ý nghĩa. Đó là những
triết lí chiêm nghiệm về sự vận động đổi thay đầy phức tạp của cuộc sống, về
tình người và lòng người, về lẽ đời, lẽ sống.v.v..
Sau những chiêm nghiệm đúc kết, tác giả nhận thấy tất cả những “tròn
vuông” cay đắng ngọt ngào phức tạp ở đời này cũng chỉ là điều hết sức bình
thường. Chỉ cần nâng niu chắt lọc trong đó những điều chân thành, mộc mạc thì
coi như ta đã tìm được chất thơ của đời:
Buồn chong một thẻ hương trời
Nông sâu bẻ léo ngộ lời tri ân
Tròn vuông cái sự đường trần
Bòng bong nhặt chắp đôi vần bòng bong
(Cảm ơn ngƣời cho thơ)
Sau bao nhiêu “loay hoay” trăn trở, lựa chọn, trải nghiệm, nhà thơ nhận ra
một chân lí thật giản dị mà sâu sắc về lẽ sống và viết. Thì ra, sống cũng như viết,
quan trọng nhất phải là dựa vào, bám vào “mảnh đất” thực sự của chính mình.
Cội nguồn, bản thể chính là cái quyết định cho đời sống cũng như đời viết:
Loay hoay chọn chỗ gieo thơ
Nhặt đá xếp bờ tra hạt
Chợt nghĩ
Hạt nghiến và câu thơ chắc cần đất như nhau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Siu đất)
Càng trải qua nhiều thử thách bão dông của số phận, càng đi qua những
thăng trầm của được mất hơn thua vui buồn khổ hạnh trong đời sống, nhà thơ lại
càng thấy trân trọng những gì mình có, mình nhận được. Nó là một sự tri ân của
một người con luôn tin yêu và biết ơn cuộc đời, tin yêu và biết ơn Mẹ Cuộc Sống:
Tôi đã nhận rất nhiều từ cuộc sống
Để được làm người sáng mắt hôm nay
Nên cũng nợ suốt đời không thể trả
Những nghĩa ân trên thế gian này
Nên đừng gọi tôi là gì khác
Tôi chỉ là tôi giữa mọi người
Cho dù ngày mai tôi phải thác
Cũng là hạnh phúc cuộc đời ơi
(Hạnh phúc)
Là một con người sống kĩ lưỡng, tinh tường trong quan sát và sâu sắc
trong suy nghĩ, Triệu Kim Văn đã nhận thấy nỗi đau đớn và mất mát của con
người sau chiến tranh, có những chia sẻ cảm thông. Nỗi đau và mất mát ấy
ngay giữa cuộc sống hòa bình sẽ mãi còn ghim vào tâm trí mọi người một lời
nhắc nhở đầy ám ảnh: “Người đi hình chấm phảy/Vẫn đi trong cuộc đời/Đi
ngang qua nắng cháy/Đi ngang qua mưa rơi…./Chiến tranh đã lùi xa/Vết
thương giờ đã lành/Duy chỉ lời mảnh đạn/ Vẫn nhắc nhở không thôi/ Những
dấu chấm phảy rơi!”
(Ngƣời đi hình chấm phảy)
Có khi, những chuyện tưởng thật đơn giản giữa đời thường cũng giúp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cho nhà thơ ngộ ra những điều sâu sắc của cuộc sống con người. Càng sâu sắc,
trải đời, giọng điệu của nhà thơ lại càng trở nên nhẹ nhàng, huyền ảo:“Đã một
năm thấy ruồi mắt trái/ Biết phù vân bớt ngắn chút trần gian/Đã bảy năm lẻ
ngày người xa ngái/ Biết tóc phai ăn chặn nỗi bình an/ Đã hăm hai ngày làm
ông ngoại/Biết trường đời cũng tựa cung đàn.” t)
Khi đã bước vào những năm tháng tuổi tác “tri thiên mệnh”, nhà thơ
chiêm nghiệm lại cuộc đời mình và có những suy tư về đời người, về số phận.
Tác giả giật mình mà kính sợ trước định mệnh. Đó là cái kính sợ của một con
người trải đời, hiểu đời sâu sắc:
Tới những năm tháng cuối cuộc đời
Ta cũng giật lùi
Vin mong manh sợi dây định mệnh
(Đi giật lùi)
“Thơ Triệu Kim Văn tạo nên những ấn tượng mạnh bởi sự triết lí và
những liên tưởng thông minh từ một tâm hồn trong sáng, hồn hậu và giàu suy
tư” [46.371]. Bằng những suy tư chiêm nghiệm và triết lí vừa bình dị tự nhiên
lại vừa sắc sảo và ý nghĩa, Triệu Kim Văn đã làm nên một giọng điệu rất độc
đáo, rất ấn tượng cho riêng mình. Đây cũng là yếu tố quan trọng mà tác giả đã
đóng góp cho thơ ca dân tộc Dao của mình, đưa thơ Dao vượt qua chất suy cảm
để dần chuyển sang suy tưởng, suy lí.
Là một nhà thơ dân tộc thiểu số (Tày) cùng thời với Triệu Kim Văn, nhà
thơ Mai Liễu cũng có nhiều triết lí chiêm nghiệm. Tuy nhiên, giọng điệu của
mỗi nhà thơ lại có sự khác biệt.
u Mai Liễu nghĩ về bài học của mẹ và cũng là bài học
:
Quả ớt cay ăn được cả vỏ
Quả chuối ngọt bóc vỏ bỏ đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
)
: “
.”
)
Nhìn chung, giọng triết lí chiêm nghiệm của thơ Mai Liễu day dứt hơn,
giằng xé hơn, trong khi đó thì thơ Triệu Kim Văn góc cạnh
hơn. Đó cũng là cái tôi riêng, cách nhìn riêng của mỗi nhà thơ.
3.1.2.2. Giọng điệu trữ tình, hoài niệm
Triệu Kim Văn sinh ra và lớn lên cùng núi rừng, cho nên cuộc sống của
con người nơi đây luôn là một sự gắn bó máu thịt với nhà thơ. Dù khó nói
thành lời, khó gọi thành tên, nhưng nỗi nhớ đó lúc nào cũng như một lớp kí ức
phủ sương:
Anh lần về theo lối cỏ
Người vừa bỏ rẫy rời nương
Nẻo lòng gió cài cỏ rối
Nghiêng nghiêng ngõ núi mờ sương
(Ngõ núi mờ sƣơng)
Cuộc sống quê núi ấy gắn bó với con người nhà thơ đến mức cả đời ông
luôn tha thiết một ước nguyện được về với đất mẹ quê hương bản làng. Ở đấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
không chỉ có núi cao rừng thẳm, suối sâu non ngàn mà còn có nhịp dao, nhịp
búa của cha ông, có bảng văn trên bàn tổ, có cái thanh thản ung dung của chốn
non cao:
Nếu tôi chết hãy đưa tôi về núi
Với cha ông lại cầm búa cầm dao
Bàn tổ chỉ có bảng văn làm báu
Sống một mình thanh thản chốn non cao
(Nếu tôi chết)
Không chỉ hoài niệm về quê hương bản quán, nhà thơ còn đau đáu trong
mình những kỉ niệm, những kí ức đong đầy yêu thương. Khi đã luống tuổi về
già, con người giàu tình cảm ấy lại càng thấy nôn nao luyến tiếc về một thời trẻ
trung say đắm:
Bỗng bóng chiều hai núi ngả sang nhau
Và trong cơn mưa ngâu
Chợt rực lên quầng hoàng hôn đỏ
(Hoàng hôn đỏ)
Trong dòng hoài niệm miên man bất tận ấy, có những khi nhà thơ thảng
thốt giật mình ngẫm nghĩ về thời gian, về đời người. Càng trải qua nhiều âu lo
khó nhọc cuộc sống, người ta càng cảm nhận sâu sắc hơn về một thời thơ trẻ
dại dột mà trong trẻo:
Trót dại ném cả thời hoa
Chợt may ngước mắt mình va phải mình
(Trót dại)
Có thể thấy, thơ Triệu Kim Văn tràn ngập những hoài niệm được bộc lộ
qua một giọng điệu mềm mại, ấm áp, sâu lắng trữ tình. Giọng điệu này cũng đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thể hiện chân thật cái tôi chủ quan của một nhà thơ
nhiều suy tư, luyến t
y. Đó là sự hoài niệm dành cho cội nguồn văn hóa xứ sở, cho tuổi
thơ nhiều kỉ niệm vui buồn, cho tuổi trẻ và tình yêu chan chứa, cho những giá trị
văn hóa trong cuộc sống con người miền núi đã dần mai một, vời xa.
Cũng là nỗi hoài niệm, nhưng do hoàn cảnh riêng, điều kiện sống khác
nhau, cá tính sáng tạo khác nhau, cho nên mỗi nhà thơ lại mang trong mình một
tâm tư xúc cảm riêng.
Thơ Mai Liễu là “nỗi hoài niệm sâu sắc về quê hương và cội nguồn của
một người ly hương mà lòng vẫn đau đáu một nỗi niềm về nơi chôn rau cắt rốn
của mình” [46.219]:
Xuống lưng đèo là nhìn thấy bản
Thấy ruộng bậc thang hắt nắng lên trời
Có lẽ nào nghe suối rừng mà khóc
Thì cúi xin. TA ngả mũ chào đèo
(Về quê)
Thơ Triệu Kim Văn là nỗi lòng hoài niệm của một người đang nhớ tiếc,
đang hụt hẫng và kiếm tìm những mất mát ngay chính trong không gian sống
của mình:
Phố gối lên đầu dốc đứng
Làng chen những mái nhà sàn
(Thị xã đầu nguồn sông)
Người con của núi rừng ấy có một sự xót xa hoài vọng:
Những ngọn đồi xưa
Đã lùi vào quá khứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Phố núi hôm nay)
Pờ Sảo Mìn hoài niệm về quê hương và cuộc sống con người dân tộc
mình với sự tin tưởng, lòng biết ơn, niềm yêu quý tự hào trân trọng:
Mẹ sinh ra tôi trên đỉnh đá tai mèo
Uống nước nguồn trong veo
Con trai người Pa Dí
Mắt một mí, tóc đen, mũi tẹt, da vàng
Dáng có vẻ ngang tàng như quẫy đạp trần gian
(Con trai ngƣời Pa Dí)
Triệu Kim Văn hoài niệm với nhiều nỗi suy tư, âu lo, nuối tiếc thiết tha:
Nếu con quên
Rằng con sinh ra trên núi
Mẹ tắm con trong chậu gỗ
Nước máng hứng từ ruột đá
Ba lần mặt trời mọc đặt tên
Thì con xin không là con của mẹ
(Con của núi)
Rõ ràng, thơ Triệu Kim Văn dù vẫn mang nét chung cơ bản của một hồn
thơ dân tộc thiểu số, nhưng luôn có được những nét riêng cho mình. Nét riêng đó
cũng chính là sự thể hiện con người tác giả một cách chân thật và sâu sắc nhất.
3.1.2.3. Giọng điệu ngợi ca, ngưỡng mộ
Sinh trưởng và gắn bó trọn đời với quê núi, hơn ai hết, Triệu Kim Văn
luôn mang trong mình một tình yêu sâu đậm với làng bản. Nó đem lại niềm tự
hào, niềm vui khi được ngắm nhìn và hòa mình vào không khí, cuộc sống của
núi của rừng. Nó khiến người con yêu quê ấy phải tha thiết cất lên những lời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ngợi ca ngưỡng mộ.
Đây là vẻ đẹp bình yên ấm cúng mà chỉ những ai yêu bản làng thực sự
mới phát hiện được những giây phút đáng quý như thế. Chỉ là những lũng núi
nhấp nhô nhà sàn, là dòng suối mát trong, là cánh đồng mẩy hạt, là vụ mùa gieo
cấy nhọc nhằn, bao đời nay thân thuộc đến bình dị nhưng nó là cuộc sống, là
con người nơi miền rừng:
Lũng núi nhấp nhô mái sàn
Nguồn suối trong trẻo mát lành
Mơn mơn phù sa dịu ngọt
Mây mẩy cánh đồng phì nhiêu
Nhọc nhằn mùa gieo cấy
(Bản ngã mƣờng)
Hiểu được những ấm no hạnh phúc to lớn và ánh sáng lí tưởng quý giá
mà Đảng, Bác Hồ đem lại cho núi rừng, cho người Dao, Triệu Kim Văn luôn
ghi khắc và trân trọng, ngợi ca công ơn ấy:
Từ thuở xa xưa đất nước này
Bao lần cờ nghĩa đã tung bay
Sớm nay đời vẫn say sưa thế
Cả một rừng cờ rợp bóng mây
(Cờ)
Tình yêu thành kính đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc được nhà thơ
diễn tả chân thành và sâu nặng:
Con suối nhỏ nước vẫn reo trong vắt
Đôi cây cộng sinh trùm bóng một vùng
Con tưởng Bác vừa buông cần, chải tóc
Ý thơ chợt đến rưng rưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Tháng 5 Nà Pậu)
Yêu núi rừng và cỏ cây như chính sự sống trong mình, nhà thơ luôn hòa
mình vào thiên nhiên trời đất đẻ tận hưởng những điều kì thú mà tạo hóa như
ban tặng riêng cho những con người trên núi:
Trời ủ men trên núi
Ủ suốt cả mùa đông
Một sớm đem ra cất
Rượu chảy tràn núi sông
(Men xuân)
Có khi đơn giản nhưng vô cùng ấn tượng, đó là những sản vật mà núi
rừng ban tặng cho con người. Đó là tài sản qúy giá mà chỉ con người quê núi
mới may mắn được đón nhận, thưởng thức. Ẩn bên trong những sản vật ấy là
nếp ăn nếp ở, là lề thói sinh hoạt, là cuộc sống con người miền núi:
Trộn người xuôi người ngược
Măng vầu mới nẻ đất
Mật ong đựng quả bầu
Nấm, măng bán từng xâu
(Thị xã đầu nguồn sông)
Vẻ đẹp của những lễ hội không chỉ ở cỏ cây hay tiết trời, mà quan trọng
là trong mỗi câu hát, mỗi ánh mắt của trai tài gái sắc. Lễ tục đầy màu sắc văn
hóa của bản làng luôn có một sức hấp dẫn đặc biệt, như một thứ men nồng để
lòng người ngây ngất thăng hoa:
Chỉ thấy má hồng môi thắm
Trai tài gái sắc chen đua
Chỉ nghe câu sli câu lượn
Trong sương trong nắng ban trưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Chợ tình Xuân Dƣơng)
Và hơn hết, hơn tất cả những vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng, vẫn luôn
là vẻ đẹp của con người. Con người làm chủ núi rừng, con người sống cùng núi
rừng, và con người làm cho núi rừng bừng sáng lung linh sắc màu cuộc sống:
Sóc đi nhặt quả rơi
Chúng tôi trồng ngô lúa
Lưng núi ruộng không có
Thì đào ruộng bậc thang
Những bông lúa trĩu vàng
Đẹp như là tấm thảm
(Bản núi)
Thấu hiểu và gắn bó với cuộc sống, với con người nơi làng bản, nhà thơ
không khỏi tự hào , để từ đó cất lên những lời thơ ngợi ca đầy ngưỡng mộ.
Điều đó càng thể hiện một tình yêu tự nguyện tự giác và sâu đậm của tác giả
với Đất Mẹ, với núi rừng quê hương.
3.1.2.4. Giọng điệu mỉa mai châm biếm nhẹ nhàng
Triệu Kim Văn là nhà thơ luôn sắc sảo, sâu sắc trong suy nghĩ, nhìn nhận
các vấn đề. Chính vì vậy, ông thường có cái nhìn phản biện, không chỉ là đối
với cuộc sống mà còn là đối với chính mình.
Trước hết, thơ Triệu Kim Văn mang tiếng cười tự trào dành cho chính
mình. Tự nhìn lại mình, nhà thơ đau đớn nhận ra bao nhiêu thay đổi, bao nhiêu giả
dối tầm thường, bao nhiêu thói hư tật xấu từ bao giờ nhiễm vào không hay, đến
mức bản thân gần như trở thành một con người khác. Không có nhiều người khi
làm thơ lại dám dũng cảm đối diện cật vấn và phản tỉnh mình như thế:
Soi vào gương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Mình thấy mình lạ lạ quen quen
Mình có phải mình giả nhiều thật ít
Ở đâu ra cái thằng hành khất
Lạ mà quen ta còn còn nữa là ta
(Soi gƣơng)
Từ ý thức phản tỉnh đối với bản thân, nhà thơ nhìn rộng ra cuộc sống để
đưa ra những phản biện, cảnh tỉnh vô cùng chân thực, dũng cảm và cần thiết.
Bên cạnh đó, thơ Triệu Kim Văn còn có tiếng cười buồn dành cho sự vật
hiện tượng, những con người đáng phê phán trong cuộc sống. Chuyện cháu con
ra thành phố sống tưởng như là chuyện vui mừng của sự phương trưởng phát
triển thành đạt, nhưng nhà thơ ngậm ngùi nhận ra trong đó những nỗi niềm
không dễ nói thành lời. Bao nhiêu những lề thói, những phong tục, những nét
đẹp văn hóa giờ đây như biến mất, thay vào đó là những sự đổi thay, những
tiện nghi, những xu thế mới. Tất cả vẫn không thể nào che lấp được sự buồn
thương nuối tiếc của cả một thế hệ: “Những bà mẹ ở núi/ Mới ra phố với
con/Gặp bà nào cũng thế/Có đôi mắt buồn buồn/ Buồn vì nỗi chẳng quen/Nhà
tầng với nhà ống/Nói mà không thật giọng/ Lại cả tiếng Tây, Tàu”.
(Những bà mẹ núi)
Bởi lẽ, cuộc sống hôm nay dường như không có chỗ cho những không
gian văn hóa sắc màu mà chỉ xám một màu công nghiệp hiện đại, không có chỗ
cho cái tự nhiên phóng khoáng của sông suối núi rừng mà chỉ ngột ngạt những
sự đua chen đến chóng mặt:
Những khu phố hai dãy nhà ống cùng đối mặt
Con đường nhỏ uốn lượn sâu hun hút
Nhà không được nhích ra thì nhô cao cái chóp
Để tỏ ra hơn nhau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Phố núi hôm nay)
Cũng có lúc, nhà thơ buồn lòng trước những thói tật của con người
hôm nay, những sự lai căng mai một, và châm biếm một cách nhẹ nhàng,
trách nhiệm:
Nên chi bây giờ người đẹp
Phô phang cho thịt da cười
(Ngày xƣa không có thế)
Thơ Triệu Kim Văn không đao to búa lớn và gay gắt dữ dội mà trầm
ngâm, dù mỉa mai nhưng vẫn đượm buồn. Có thể thấy, giọng điệu mỉa mai
châm biếm nhẹ nhàng của Triệu Kim Văn đã đem lại cho thơ ông một cung bậc
riêng rất ấn tượng. Giữa nhiều tiếng nói, thì tiếng nói phản tỉnh – phản biện quả
thật là vô cùng hữu ích, cần thiết, không chỉ cho bản thân tác giả, mà còn là cho
người đọc nói chung.
Qua khảo sát thơ Triệu Kim Văn, có thể thấy nhà thơ đã tạo nên trong
thơ mình một sự phong phú đa dạng linh hoạt trong giọng điệu. Giữa sự phong
phú đa dạng linh hoạt ấy, Triệu Kim Văn vẫn tìm ra cho thơ mình một giọng
điệu chủ đạo – đó là giọng điệu triết lí chiêm nghiệm. Đây là giọng điệu trung
tâm, nổi bật, giữa sự bổ trợ và phối thuộc của các giọng điệu như trữ tình hoài
niệm, ngợi ca ngưỡng mộ và mỉa mai châm biếm.
Nếu so sánh với một tác giả dân tộc thiểu số cùng thế hệ với Triệu Kim
Văn là nhà thơ Mai Liễu, chúng ta sẽ nhận thấy sự khác biệt rất rõ trong giọng
điệu. Nếu như thơ Mai Liễu thấm đẫm giọng điệu hoài niệm (về quê hương,
quá khứ, tình yêu, .v.v..) thì thơ Triệu Kim Văn nổi bật ở giọng điệu triết lí
chiêm nghiệm (về con người, về lẽ đời.v.v..). Nó là minh chứng thuyết phục
cho nguyên tắc chủ quan trong sáng tạo thơ ca. Con người của nhà thơ như thế
nào, thơ sẽ bộc lộ ra một cách chân thực, sâu sắc và rõ nét con người ấy. Việc
tác giả tạo được ra giọng điệu riêng như vừa nói chính là biểu hiện của không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chỉ tài năng, bản lĩnh mà còn là phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn
3.2.1. Khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật
3.2.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn
chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ
của con người. Nó là thứ ngôn ngữ đã được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh
luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật - thẩm mĩ.
Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ và mỗi nhà văn lớn đều là những
nghệ sĩ bậc thầy về tiếng nói. Khác với ngôn ngữ không có tính nghệ thuật, chỉ
nhằm mục đích chủ yếu là thông tin, truyền đạt một điều gì đó chính xác, nội
dung được giới hạn chặt chẽ, ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng tìm cách truyền
các quan điểm của nghệ sĩ vào đối tượng được miêu tả, truyền vào đấy một lối
nhìn sự vật, cách nhận thức và cảm quan về thế giới của nhà văn, nói cách
khác là ngôn ngữ mang dấu ấn của cá tính và phong cách nghệ sĩ.
Thứ nhất: Ngôn ngữ nghệ thuật phải chính xác, tinh luyện và hàm súc.
Tính chính xác là yêu cầu đầu tiên của việc sử dụng ngôn ngữ văn học. Viết
văn phải dùng từ chính xác mới tái hiện và tái tạo đúng sự vật hiện tượng, miêu
tả đúng cảnh vật, khắc hoạ đúng hình dáng, cá tính, tâm lí nhân vật. Qua đó
nghệ sĩ bộc lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ và cả tài năng của mình nữa. Không
chỉ vậy, ngôn từ trong tác phẩm văn chương còn phải cô đọng, phải “nén chặt”
ý nén tối đa trong lời làm cho mỗi từ có sức nặng, có độ thừa và có nhiều lượng
ngữ nghĩa. Tính hàm súc và đa nghĩa do phương thức chuyển nghĩa của ngôn
ngữ nhờ vào các biện pháp tu từ.
Thứ hai: Ngôn ngữ nghệ thuật phải mang tính hình tượng. Ngôn ngữ chia
làm hai loại: Ngôn ngữ nhận thức và ngôn ngữ gợi hình gợi cảm. Ngôn ngữ gợi
hình gợi cảm là ngôn ngữ hình tượng. Nhà văn phản ánh hiện thực và thế giới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nội tâm bằng tư duy hình tượng và luận lí nên mượn ngôn ngữ hình tượng để
xây dựng hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Hình tượng không trừu tượng
mà mang tính cảm tính cụ thể. Tính hình tượng gắn với tính đa nghĩa, tính hàm
súc, tính chính xác và tính biểu cảm của ngôn ngữ văn học. Hình ảnh tác động
sâu sắc đến tình cảm người đọc, tạo ấn tượng sinh động về sự vật được phản
ánh, qua đó thấy được tình cảm và thái độ của tác giả.
Thứ ba: Ngôn ngữ nghệ thuật phải có tính biểu cảm. Tính biểu cảm của
ngôn ngữ văn học gắn liền với chức năng biểu hiện cảm xúc của văn học.Văn
xuỗi đặc biệt là thơ ca góp phần bộc lộ tình cảm của người viết và rộng ra là
tình cảm của cuộc đời chung. Nghệ thuật nói bằng một thứ tiếng nói duy nhất
đó là ngôn ngữ của chính thế giới bên trong, ngôn ngữ của cảm xúc và biểu
cảm. Tính biểu cảm biểu hiện qua tác phẩm bằng hình tượng bao quát và ngay
trong những từ ngữ cụ thể. Tính biểu cảm biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác
nhau như gián tiếp, trực tiếp, có hình ảnh hoặc chỉ là ngôn ngữ thuần tuý. Tuy
vậy, tính biểu cảm bộc lộ rõ nhất ấy là khi tác giả muốn nhấn mạnh cảm xúc
nội tâm.
3.2.1.2. Ngôn ngữ thơ
Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quí, tinh vi của sáng tạo văn học
nghệ thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật; ngôn ngữ
thơ trước hết mang đầy đủ những thuộc tính của ngôn ngữ văn học, đó là: tính
chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu cảm... Tuy
nhiên, ở mỗi loại tác phẩm khác nhau, những đặc điểm ấy lại biểu hiện dưới
những sắc thái và mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi loại tác phẩm lại có
những đặc trưng ngôn ngữ riêng....
Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc,
phong phú của ngôn ngữ, vừa giàu hình ảnh, sắc màu (tính họa) vừa giàu nhạc
điệu (tính nhạc). Các đặc điểm trên hòa quyện với nhau tạo nên hình tượng thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lung linh, đa nghĩa.
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ giàu hình ảnh, sắc màu. Hình ảnh thơ bao giờ
cũng là sự kết tinh của việc sử dụng ngôn ngữ. Vì thế hình ảnh thơ luôn có ý
nghĩa trong việc tạo hiệu ứng nghệ thuật, góp phần khẳng định sự hiện hữu của
thơ. Hình ảnh thơ không phải là tổng số của nhiều hình ảnh mà chính sự chọn
lọc những hình ảnh có giá trị biểu cảm, có tính hàm súc, tạo hiệu ứng nghệ
thuật cao, mới thể hiện tư tưởng, tinh thần lập ngôn và cá tính sáng tạo của
người nghệ sĩ.
Ngôn ngữ thơ luôn giàu tính nhạc: Có thể xem tính nhạc là nét đặc thù
rất cơ bản của ngôn ngữ thơ. Thơ bao giờ cũng là sự kết hợp hài hòa giữa ý và
nhạc. Nếu nghiêng về ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan, mà nghiêng về
nhạc thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn. Rõ ràng, nhạc tính là
tiếng nói linh diệu của thi ca, gợi thức trí tưởng tượng của người đọc. Hơn bất
cứ ngôn ngữ ở thể loại nào khác, ngôn ngữ thơ với tính cách là một thứ ngôn
ngữ giàu nhịp điệu, phong phú về cách hòa âm, tiết tấu, giàu từ láy âm, tượng
hình, chính là thứ ngôn ngữ giàu tính nhạc. Nhạc tính trong thơ được tạo nên từ
nhiều yếu tố như nhịp điệu, cách gieo vần, phối thanh…
Ngôn ngữ thơ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc phong phú của ngôn
ngữ. Thơ là thể loại “ý tại ngôn ngoại”. Việc kiệm lời, kiệm chữ là một yêu cầu
tối quan trọng đối với nhà thơ. Hàm súc và giàu sức biểu hiện, ngôn ngữ thơ ca
cô đúc, chặt chẽ với sỗ từ rất hạn định nhưng năng lực biểu hiện lại rất lớn. Vấn
đề đặt ra với mỗi nhà thơ là phải chọn một cách nói tốt nhất đến mức đô người
ta cảm thấy không thể khác được.
Ngôn ngữ thơ mang đặc trưng thẩm mĩ riêng. Đó là thứ ngôn ngữ mang
tính mơ hồ, đa nghĩa. Nó là những hình ảnh của ước lệ nghệ thuật, của biểu
tượng và ý tượng. Bên cạnh đó, nó cũng mang tính cá thể hóa sắc nét và cao độ,
thể hiện sự sáng tạo độc đáo riêng biệt của mỗi cá tính sáng tạo nhà thơ. Chính
vì vậy, tính sáng tạo trong ngôn ngữ thơ cũng là một yếu tố quan trọng thể hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
tài năng và phong cách của một nhà thơ.
3.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn
3.1.2.1. Đặc điểm về hệ thống từ loại
Mỗi nhà thơ có một đặc điểm riêng về ngôn ngữ nghệ thuật. Với thơ
Triệu Kim Văn, chúng tôi tiếp cận và khám phá ngôn ngữ nghệ thuật ở phương
diện từ loại. Đặc điểm cơ bản của hệ thống từ loại trong thơ Triệu Kim Văn thể
hiện ở ba yếu tố: Hệ thống danh từ chỉ sự vật hiện tượng quen thuộc trong đời
sống miền núi, hệ thống động từ hướng nội, hệ thống tính từ
tính chất dịu nhẹ.
Thứ nhất, về hệ thống danh từ:
Là một nhà thơ gắn bó chặt chẽ với đời sống miền núi, thơ của Triệu
Kim Văn cũng phản ánh rõ nét những dấu hiệu đó. Thế giới thơ ông tràn ngập
một hệ thống những danh từ chỉ những sự vật hiện tượng gắn với cuộc sống,
sinh hoạt của con người miền núi.
Trước hết, đó là hệ thống danh từ chỉ những sự vật thuộc về môi trường
tự nhiên như sương, mây, cây, lá, rừng, đá, núi.v.v..
Có khi đó những cuộc lội bộ đắm mình cùng núi mà con người nơi đây
đã trăm năm gắn bó cùng nó:
Đi trong bồng bềnh sương
Trong cái lạnh rét tê da núi
(Lội bộ cùng Cao Sơn)
Những con đường vào bản đã in đậm, ăn sâu vào tâm trí của người con
yêu núi ấy, để hình ảnh này hiện lên vừa bình dị mà vừa thiêng liêng:
Con đường Khuổi Đeng ngược lên đỉnh núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Từ Khuổi Đeng nghe tiếng con gà gáy
Thì cứ leo bằng cả hai tay
Thang đá lưng mây bay
(Đƣờng vào bản)
Bên cạnh đó là hệ thống danh từ chỉ những sự vật gắn bó thân thuộc với
sinh hoạt thường ngày của con người miền núi như dốc, đèo, củi, mái lều, bếp
lửa, quả sa nhân v.v.v..
Có khi là một ngõ rừng thân thuộc mà đẹp đến nao lòng:
Ngõ rừng xanh ngăn ngắt xanh
Nắng dỡn chân người nghiêng cánh gió
Dốc cua đèo chợt sắc hoa rất đỏ
Bông bi chuối rừng ngơ ngác khóa thời gian
(Ngõ rừng)
Đó còn là những nếp quen sinh hoạt ngàn đời, trở nên ấm cũng nghĩa
tình và chứa đựng những bài học sâu sắc về cuộc sống:
Củi tôi hái từ con tim
Cánh rừng con tim rộng dài không đo được
Lửa cháy hết rồi tôi ngồi tôi khóc
Nhớ chàng mồ côi kiếm củi đổi hạt kê
(Thơ củi)
Có khi, đó là một thứ quả gần gũi, gắn bó mà dân làng coi như một thức quý:
Quả sa nhân là mặt trời của đất
Nằm lăn trên đất
Giăng giăng trên đất
Nẩy từng chùm
Thuốc quý vì sự cay thơm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Mở cửa rừng)
Qua khảo sát 10 tập thơ của Triệu Kim Văn, chúng tôi nhận được kết quả
sau đây:
Tổng
Tập 1
Tập 2
Tập 3
Tập 4
Tập 5
Tập 6
Tập 7
Tập 8
Tập 9
Tập 10
Danh từ SVHT MN
48
34
52
41
25
29
20
32
43
Số lần
42
366
Rõ ràng, cuộc sống và những đặc trưng trong sinh hoạt của người dân tộc
miền núi đã tạo nên những ám ảnh, phản ánh rõ nét ở hệ thống những danh từ
sự vật hiện tượng miền núi mà nhà thơ đã xây dựng và sử dụng trong thơ.
Thứ hai, về hệ thống động từ:
Bên cạnh danh từ, thơ Triệu Kim Văn còn có một hệ thống động từ
được sử dụng nhuần nhuyễn và hiệu quả. Để góp phần cắt nghĩa, lí giải tư
tưởng, tình cảm cảu tác giả, chúng tôi đặt việc khảo sát động từ trong thơ Triệu
Kim Văn ở bình diện động từ hướng nội và động từ hướng ngoại.
Động từ hướng nội là những động từ mà chủ thể của hành động sử dụng
nó để thể hiện những cử chỉ, hành động, biểu hiện những cảm xúc, tư duy
hướng về chính bản thân mình, đặc biệt nó còn diễn tả diễn biến nội tâm của
chính mình. Đối sánh với nó, động từ hướng ngoại là những động từ mà chủ
thể của hành động sử dụng nó để thể hiện những cử chỉ, hành động, tác động,
biểu hiện những cảm xúc, tư duy hướng về những đối tượng, những vấn đề
ngoài bản thân.
Trong thơ Triệu Kim Văn, đôi lúc ta cũng bắt gặp những động từ hướng
ngoại. Đó là lúc mà nhà thơ tràn đầy tin yêu trước cuộc sống:
Trời ủ men trên núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Ủ suốt cả mùa đông
Một sớm đem ra cất
Rượu chảy tràn núi sông
(Men xuân)
Tuy vậy, là một người ưa quan sát, suy nghĩ, nhìn nhận, đánh giá, cho
nên thơ Triệu Kim Văn chủ yếu sử dụng một hệ thống những động từ hướng
nội.
Nhà thơ lắng mình lại để cảm nhận, đón nhận tiết trời mùa xuân:
Mùa xuân nói lời bằng hoa
Lời hoa cứ âm thầm nở
Cánh cửa mùa đông hé mở
Là ta nghe thấy tiếng xuân
(Tiếng xuân)
Có lúc, nhà thơ hòa mình vào hoa cả để thấu hiểu đất trời, để dãi bày với
thiên nhiên tạo hóa: “Từ hoang sơ nên cao quý thành danh /Hoa cứ khiêm
nhường một đời hoa cỏ/ Mặc mưa nắng hanh heo hoa cứ nở/ Ta xin nghiêng
mình phận mỏng làm em.” (Đùa với cỏ)
Khi hoài niệm về tuổi thơ, gia đình, quê hương, nhà thơ đã bộc lộ thật
tinh tế những cảm động trong sâu thẳm lòng người: “Mà hồn vẫn về đâu lẩn
khuất/ Thấy đứa trẻ thơ ngác ngơ nhìn/ Có khách chui vào buồng giấu mặt/
Còn vẩn vơ câu hát đi tìm” (Nhớ Cao Sơn)
Thống kê để so sánh sự xuất hiện của hai loại động từ hướng nội và
hướng ngoại trong thơ Triệu Kim Văn, chúng tôi có được kết quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
một :
Động từ
Tổng
Tập 1
Tập 2
Tập 3
Tập 4
Tập 5
Tập 6
Tập 7
Tập 8
Tập 9
Tập 10
28
49
50
47
42
37
47
41
58
46
445
Hƣớng nội
17
26
34
29
24
21
25
27
55
37
295
Hƣớng ngoại
Có thể thấy, hệ thống động từ hướng nội đã thể hiện rất đúng, rất chân
thực con người vốn ít bộc lộ bề ngoài, hay nghĩ, hay suy tư, thiên về nội tâm
của nhà thơ Triệu Kim Văn.
Thứ ba, về hệ thống tính từ:
Nhà thơ Triệu Kim Văn là một con người sâu tình, nặng nghĩa, hướng
nội, cho nên cái nhìn trước con người và cuộc sống trong thơ ông cũng thể hiện
khá rõ điều này. Hệ thống những tính từ trong thơ Triệu Kim Văn chủ yếu thiên
về những màu sắc gam lạnh, mức độ và tính chất dịu nhẹ.
Gam màu trong thơ Triệu Kim Văn thường dịu nhẹ, mát lành, như cái
trong trẻo của sông suối, cây cối, núi rừng. Đó là màu xanh quen thuộc: Nếu tôi
chết hãy đưa tôi về núi/ Để hồn tôi tìm lại chiếc nhau mình/ Trong lồng nhỏ mẹ
tôi treo bờ suối/ Cành cây giờ đã vươn xanh” (Nếu tôi chết)
Cái dịu dàng trong suốt ấy thấm cả vào cảm thức thời gian của nhà thơ:
Ngọn gió lang thang cho cánh rừng cuộn sóng
Nụ hôn dài thêm sắc biếc làn mây
…
Với tôi
Mùa thu điệu nhạc xanh ngân nga
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Mùa thu xanh)
Khi gặp lại miền quê xưa, con người xưa, nhà thơ đã không giấu nổi lòng
mình. Có điều, cảm xúc ấy vẫn rất kiềm tỏa, không bung phá dữ dội mà dịu nhẹ
ám ảnh:
Khi xưa ở không thành hoa trái
Nay tìm về lòng hóa ngẩn ngơ
(Nhƣ Cố - miền thƣơng nhớ)
Dù là một ấn tượng sâu đậm đến vô cùng, nhà thơ cũng thể hiện nó một
cách thật nhẹ nhàng, mỏng mảnh đến khó nắm bắt: “Nắng lỗi gì mà đang nắng
chợt mưa/ Để cầu vồng giăng giữa chiều bảng lảng/ Để bảy sắc mầu treo sợi
mưa sợi nắng/ Sợi mưa thì dài, sợi nắng quá mỏng manh” (Mƣa – nắng – cầu
vồng)
Có khi nhà thơ ghi lại những khoảng khắc thật vu vơ, vu vơ nhưng lại ấn
tượng và vĩnh cửu:
Êm êm một mái tóc mềm
Tỉnh ra thì hóa cánh rèm gió bay
(Vu vơ)
Tìm hiểu nghiên cứu vấn đề tính từ trong thơ Triệu Kim Văn, chúng tôi
có thêm cơ sở khi nhận được kết quả khảo sát thống kê:
Tổng
Tập 1
Tập 2
Tập 3
Tập 4
Tập 5
Tập 6
Tập 7
Tập 8
Tập 9
Tập 10
Tính từ: Tính chất dịu nhẹ Gam màu lạnh
Số lần
17
14
39
28
32
18
23
20
56
43
290
Như vậy, có thể thấy, ngôn ngữ thơ Triệu Kim Văn mang một hệ thống
tính từ với sắc độ nhẹ nhàng, sâu lắng. Nó cũng là biểu hiện chân thực của tâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hồn, tính cách và con người nhà thơ đậm chất miền núi này.
3.1
Sự nghiệp sáng tác thơ của Triệu Kim Văn đã trải qua một hành trình dài
với nhiều cố gắng, nỗ lực, nhiều đổi thay sáng tạo. Hành trình ấy được ghi dấu
trong 10 tập thơ: Hoa núi (1989); Mùa sa nhân (1994); Lá tìm nhau (1999);
Con của núi (Thơ song ngữ Dao- Việt- 2002); Lửa của mồ côi (2002); Lối cỏ
(2004); Suối nguồn du du (Thơ song ngữ Dao- Việt- 2010); Hoa nắng (2010);
Trời về (2010); Sợi mưa hiền (2011). Trên chặng đường ấy, nhà thơ đã có
những đổi thay bứt phá nhất định, không chỉ là với thơ ca truyền thống, mà còn
là với chính mình. Dấu hiệu rõ nhất của sự đổi thay ấy trước hết chính là ở sự
cách tân về hình thức thể loại.
Thứ nhất, về thể loại theo hình thức truyền thống:
Kế thừa đặc điểm thơ dân tộc thiểu số nói chung và cũng như thơ dân tộc
Dao nói riêng, giai đoạn đầu của hành trình sáng tác của Triệu Kim Văn mang
dấu ấn truyền thống khá rõ. Một trong những biểu hiện của nét truyền thống đó
là về mặt hình thức thể loại. Ở giai đoạn đầu, thơ Triệu Kim Văn chủ yếu theo
thể loại truyền thống như thể lục bát, thể tứ tuyệt, thể năm chữ, thể bảy
chữ.v.v..
Thơ Triệu Kim Văn ở giai đoạn đầu khá chỉn chu trong những bài thơ tứ
tuyệt bốn câu kiểu cổ điển:
Mới có nửa năm đã nhớ nhau
Ông bà tình ý thật thâm sâu
Sụt sùi dòng lệ tuôn không dứt
Thơ tôi cũng ướt một chiều ngâu
(Tứ tuyệt ngâu)
Có khi, đó là những tâm sự được dãi bày qua những bài thơ năm chữ có
kết cấu hoàn chỉnh quen thuộc: “Mẹ cứ đi như thế/ Chiếc gùi đè trên lưng/ Chị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cứ đi như thế/ Lá xuân tàn bên nương” (Cõi xƣa)
Thậm chí, mặc dù ít, nhưng Triệu Kim Văn đôi khi cũng trải lòng mình
vào những vần lục bát bình dị và mượt mà, nhuần nhuyễn:
Vô tình tôi đã mến em
Sơ sơ thôi thoáng gặp trên phố người
Có thể em chẳng biết tôi
Có khi em chỉ mỉm cười vu vơ
(Vu vơ)
Dù chủ yếu vẫn là những bài thơ theo thể loại truyền thống quen thuộc,
nhưng ở giai đoạn này, thơ của Triệu Kim Văn cũng đã bắt đầu xuất hiện
những bài thơ phá cách, tự do. Có lúc là sự thay đổi số chữ: “Em nhóm lửa/
Lửa nhảy trên hai m / Lửa bập bùng/ Tim nói lời yêu đương”(Khắc nghiệt)
Có lúc, bài thơ đã được tự do về vần nhịp:
Bỗng bóng chiều hai núi ngả sang nhau
Và trong cơn mưa ngâu
Chợt rực lên quầng hoàng hôn đỏ
(Hoàng hôn đỏ)
Có thể thấy, ở chặng đầu sáng tác, Triệu Kim Văn vẫn có những sự kế
thừa nhất định vào các thể loại truyền thống. Sự kế thừa này chỉ mang tính
tương đối, bởi vì nó đã bắt đầu manh nha những dấu hiệu dự báo sự phá cách
về sau.
Thứ hai, về thể loại có sự cách tân sáng tạo:
Sang đến chặng tiếp theo của hành trình sáng tác, Triệu Kim Văn đã có
những nỗ lực cách tân sáng tạo rất rõ rệt. Dấu hiệu trước hết và rõ ràng nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chính là ở sự đổi mới trong thể loại. Triệu Kim Văn đã ngày một mạnh dạn, dứt
khoát hơn, vượt qua những thói quen trong thao tác và lựa chọn cho mình
những hình thức thể loại mới, như thể thơ tự do, ba câu.v.v..
Nhà thơ đã dũng cảm từ bỏ những vần nhịp bề ngoài, để đi tìm vần nhịp
bên trong của cảm xúc. Nhờ vậy, tác giả có nhiều bài thơ, câu thơ mới lạ hơn.
Có trường hợp, nhịp câu thơ được ngắt ra như nhịp những bước đi trầm tư của
con người trên phố:
Phố cổ
Tun hút vách rêu son
Cổ mà không cũ
Phố
Một tiểu vũ trụ
Xô bồ những hành tinh
(Phố cổ)
Có khi, cấu trúc bài thơ tưởng như trở nên rời rạc. Nhưng chính trong sự
rời rạc bề ngoài ấy, người đọc được lắng mình để hòa vào khoảng trống thẩm
mĩ của những khổ thơ ba câu mới lạ:
Ta muốn đóng cửa một mình
Đọc sách và độc ẩm
Ta là ta cũng một cõi mênh mông
(Một cõi mênh mông)
Có lúc, vần điệu câu thơ cũng gập ghềnh trúc trắc như con đường đồi
núi. Ẩn bên trong cái trúc trắc kia chính là những suy tư, cảm nghiệm của một
tính cách miền núi, một tâm hồn miền núi:
Người đi gieo hạt
Khuất sau khói sương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Lúp xúp cỏ bồng
Vạt nương quèo soải dốc
Nòm quả lúc lắc hồng hoang
Râm ran mùa
(Điệu thức mùa)
Để có cái nhìn khái quát và rõ ràng hơn về sự cách tân trong thể loại của
thơ Triệu Kim Văn, chúng tôi tiến hành khảo sát và thu được kết quả thống kê
sau đây:
5 tập thơ 5 tập thơ
Tiêu chí so sánh
từ 1989 đến 2002 từ 2004 đến 2011
Số bài thơ theo
89 bài / tổng 198 bài 31 bài / tổng 179 bài
thể loại truyền thống
Số bài thơ theo
109 bài / tổng 198 bài 148 bài / tổng 179 bài
thể loại cách tân
Có thể thấy, thơ Triệu Kim Văn đã có những bước tiến đáng kể trong
cách tân sáng tạo. Tác giả đã từ bỏ cái khuôn định bó hẹp của hình thức cũ,
chọn cho mình một hướng đi táo bạo, chủ yếu làm thơ theo hình thức thể loại
tự do, đổi mới. Đây chính là một sự khẳng định của Triệu Kim Văn trong thơ
ca dân tộc thiểu số nói chung, và trong thơ ca dân tộc Dao nói riêng.
* *
*
Với sự phong phú và linh hoạt trong giọng điệu:
…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
. Tro
những nỗ lực trong việc xây dựng,
sử dụng hệ thống từ ngữ .
. Q
295 n
445
.
…
góp phần nâng thơ ca dân tộc Dao lên một chặng phát triển mới trong hành
trình phát triển của . Đó là đóng góp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
quan trọng và đáng ghi nhận của thơ Triệu Kim Văn.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Nếu ví nền thơ ca Việt Nam hiện đại như một vườn hoa trăm hồng
ngàn tía thì thơ ca dân tộc thiểu số là những bông hoa rừng với những hương
sắc riêng. Tuy xuất hiện muộn và phát triển chậm hơn so với bước tiến của văn
học hiện đại Việt Nam, nhưng văn học các dân tộc thiểu số thời kì hiện đại,
trong đó có thơ ca, đã có những vận động và phát triển nhanh chóng. Bên cạnh
sự phát triển của thơ ca dân tộc Tày, Thái, Mông ...thơ ca dân tộc Dao tuy chưa
có một đội ngũ các nhà thơ đông đảo nhưng đã có một vị trí nhất định trong đời
sống thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nghiên cứu thơ ca dân tộc Dao là
một việc làm cần thiết để góp phần vào việc hoàn chỉnh bức tranh thơ ca dân
tộc thiểu số Việt Nam.
Triệu Kim Văn là một người kế tục và tôn cao nền thơ ca dân tộc Dao.
Tuy vị trí của thơ ca Triệu Kim Văn là quan trọng trong thơ ca dân tộc Dao,
nhưng cho đến nay, việc nghiên cứu thành tựu sáng tác của Triệu Kim Văn
chưa được tiến hành một cách thỏa đáng. Đây vẫn còn là một khoảng trống,
hứa hẹn sẽ cho những kết quả nghiên cứu lí thú, hữu ích.
2.Sự chững lại của thơ dân tộc thiểu số trong những năm gần đây đặt ra
những vấn đề quan thiết: Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong thơ
dân tộc thiểu số; Sự mai một của bản sắc dân tộc thiểu số trong cuộc sống hiện
đại hôm nay; Vấn đề viết bằng tiếng mẹ đẻ và đối tượng độc giả của nó; Viết
bằng tiếng Việt và yêu cầu chuyển tải cách cảm, cách nghĩ, lối nói, lối diễn đạt
của người miền núi... Qua việc nghiên cứu đề tài “Thơ Triệu Kim Văn”, chúng
tôi mong muốn góp câu trả lời cho rất nhiều vấn đề đã – đang được đặt ra và
còn để ngỏ trên đây.
3.
.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
:
3.1.Thơ Triệu Kim Văn là một thế giới với hệ thống biểu tượng đặc trưng
và giàu ý nghĩa. Trong hệ thống đó, nổi bật là bộ ba biểu tượng Đất, Nước, Lửa
cùng những biểu tượng phái sinh của nó.
Sinh trưởng và gắn bó với một vùng quê núi, nhà thơ Triệu Kim Văn
bám chặt vào thế giới của núi đồi. Trong thế giới ấy, đất là một biểu tượng gốc
để Triệu Kim Văn xây dựng nên những tứ thơ đẹp và sâu sắc. Trong thế giới
ấy, tràn ngập các hình ảnh, các hình tượng về đất. Đất là mẫu gốc tạo thành bản
thể, là một biểu tượng của sự sinh sôi, của sự phong nhiêu, của sức sống lâu
bền kì diệu.
Nước là nguồn gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là
biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính tinh khiết, tính hiền minh,
tính khoan dung và đức hạnh. Nước được coi là biểu tượng phổ biến về sự phì
nhiêu và khả năng sinh sản dồi dào. Trong thơ Triệu Kim Văn, nước là khởi
nguồn sinh sôi bất tận cho sự sống, là sự quy tụ tích trữ những mạch ngầm văn
hóa, là dòng chảy đồng hành cùng sự chảy trôi của thời gian, đồng hành cùng
cuộc sống con người. Nước như sinh thể có sự sống, gắn với tục lệ và sinh hoạt
đời sống con người.
Cùng với hai biểu tượng đất và nước, thì biểu tượng lửa đã làm nên thêm
một chiều kích độc đáo ấn tượng trong thơ Triệu Kim Văn. Đó có khi là ngọn
lửa của tình yêu. Đó có khi còn là ngọn lửa của tình người, của sự hội tụ sum
vầy, của sự chở che sưởi ấm. Lửa là thắp lên sự sống, thắp lên tình yêu, thắp
lên niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tương sáng.
3.2. Là một nhà thơ thấm đẫm bản sắc văn hóa của dân tộc mình, lại mang
một cá tính sáng tạo mạnh mẽ, Triệu Kim Văn xây dựng trong thơ một giọng
điệu và ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo.
Về giọng điệu: Nổi bật nhất, trung tâm nhất trong thơ Triệu Kim Văn là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
giọng điệu triết lí chiêm nghiệm. Giọng điệu này được nhà thơ khéo léo đan cài
vào những đề tài thật bình dị, những cảm xúc thật tự nhiên, khiến người đọc
không thể dễ dãi dừng lại bề ngoài câu chữ mà phải đồng cảm và đồng sáng tạo
cùng tác giả để tìm đến những suy tư triết lí ẩn ở bề sâu ý nghĩa. Đó là những
triết lí chiêm nghiệm về sự vận động đổi thay đầy phức tạp của cuộc sống, về
tình người và lòng người, về lẽ đời, lẽ sống.v.v.. Bên cạnh đó là các giọng điệu
phối thuộc như trữ tình hoài niệm, ngợi ca ngưỡng mộ và mỉa mai châm biếm.
Về ngôn ngữ nghệ thuật: Có hai đặc điểm nổi bật đáng chú ý ở ngôn ngữ
nghệ thuật thơ Triệu Kim Văn, đó là về từ loại và thể loại. Từ loại trong thơ
Triệu Kim Văn khá nổi bật ở hệ thống danh từ chỉ sự vật hiện tượng quen thuộc
trong đời sống miền núi, hệ thống tính từ dịu – nhẹ, hệ thống động từ hướng
nội.v.v.. Thể loại trong thơ Triệu Kim Văn có một quá trình tìm tòi, thể nghiệm
và nhiều thay đổi. Càng trải qua thời gian, những sáng tác về sau cảu tác giả
càng từ bỏ thể loại truyền thống để lựa chọn những thể loại rất mới mẻ, cách
tân, tự do. Đây là một hướng đi táo bạo, là một sự khẳng định cũng như đóng
góp của Triệu Kim Văn trong thơ ca dân tộc thiểu số nói chung, và trong thơ ca
dân tộc Dao nói riêng.
4.
Nam
trong
. V
.
5. Nghiên cứu về thơ Triệu Kim Văn không chỉ đơn thuần là tiếp cận với
một chủ thể văn học, mà nó còn là con đường để đến với văn hóa dân tộc Dao
nói riêng, văn hóa các dân tộc thiểu số nói chung. Những vấn đề mà luận văn
đặt ra có thể sẽ là những gợi dẫn để tiếp tục những hướng tiếp cận nghiên cứu
mới như: Thế giới nghệ thuật thơ Triệu Kim Văn; Bản sắc văn hóa Dao trong
thơ Triệu Kim Văn; Thơ Bàn Tài Đoàn – Triệu Kim Văn trong cái nhìn đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sánh.v.v..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Văn An. 2007. Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc,
NXB Hội nhà văn.
2. Lại Nguyên Ân (biên soạn).1999. 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học
quốc gia, Hà Nội.
3. Jean Bellemin – Noel. 2004. Phân tâm học và văn học, NXB Văn hóa thông tin.
4. Nguyễn Phan Cảnh. 1987. Ngôn ngữ thơ, NXB ĐH &THCN, Hà Nội.
5. Nông Quốc Chấn. 1995. Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Văn
hóa dân tộc.
6. Jean Chevalier – Alain Gheerbrant. 2002. Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới, NXB Đà Nẵng.
. 09/2009. 7.
.
8. Gia Dũng (biên soạn).2000. Tuyển tập thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế
kỉ XX, NXB Văn hóa dân tộc.
9. .
10. Nguyễn Đăng Điệp. 2005.Thơ chống Mỹ - thành tựu và những kinh nghiệm
nghệ thuật, Báo Thơ, số 23.
11. Nguyễn Đăng Điệp. Vọng từ con chữ, NXB Văn học, Hà Nội, 2003.
12. Hà Minh Đức. 1987. Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
NXB Giáo dục.
13. Hà Minh Đức.2002. Những thành tựu của Văn học Việt Nam trong thời kì
Đổi mới, Tạp chí Văn học, (7).
14. Hà Minh Đức (chủ biên).2007. Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
15. Erich Fromm.2003. Ngôn ngữ bị lãng quên, NXB Văn hóa thông tin.
16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi.1999. Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Nguyễn Đức Hạnh.2010. Nghiên cứu triển khai giảng dạy phần văn học
địa phương cho cấp trung học cơ sở tại tỉnh Bắc Kạn. Đề tài khoa học và
công nghệ cấp bộ, ĐHSP-ĐH Thái Nguyên.
18. Đỗ Đức Hiểu.2002. Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
19. Nguyễn Thái Hòa. 2006.Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học, NXB
Giáo dục.
20. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa.2003. Phân tích phong cách ngôn
ngữ trong tác phẩm văn học, NXB Đại học Sư phạm.
21. Kharapchencô.1979. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
22. Mã Giang Lân. 2011.Những cấu trúc của thơ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
23. Phong Lê.2008. Hiện đại hóa Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
24. Thanh Lê. 2005.Hành trang văn hóa, NXB Khoa học xã hội.
25. Vân Long .2013.
Văn.http://vannghethainguyen.vn/index.php?option=com_content&view=a
rticle&id=2891:th-va-li-binh-th-va-ha--ng-vn&catid=74:th-
&Itemid=417#.U01U_VWSxos
26. Ju Lotman. Biểu tượng trong hệ thống văn hóa, Tạp chí Sông
Hương 286.
27. Phương Lựu (chủ biên).2006. Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
28. . .http://vanhien.vn/news/dien-
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
dan/Nguoi-ve-theo-loi-co4507//.
29. Phan Ngọc. 2002.Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn học.
30. Võ Quang Nhơn.1983. Văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam, NXB Đại
học và Trung học chuyên nghiệp.
31. Trần Thị Phượng, Phan Thu Hương.2011. Chân dung và bút tích các nhà
văn Việt Nam, NXB Giáo dục.
32. Đào Xuân Quý.2003. Nhà thơ và cuộc sống, NXB Quân đội nhân dân.
33. Lò Ngân Sủn.1999. Hoa văn thổ cẩm (II), NXB Văn hóa dân tộc.
34. Trần Đình Sử.1994. Bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam và con
đường của thơ, Tạp chí Văn học, số 1.
35. Phạm Nhân Thành. 2011.Văn hóa các dân tộc ít người ở Việt Nam, NXB
Dân trí.
36. Lê Ngọc Thắng, Lê Bá Nam.1994. Bản sắc văn hóa các dân tộc ở Việt
Nam, NXB Văn hóa dân tộc.
37. Bích Thu. 03/01/2013. Văn học Việt Nam trong quá trình hội nhập,
http://VienVanhoc.org.vn,.
38. Phùng Thị Thuận.2013 Thơ dân tộc Dao từ Bàn Tài Đoàn đến Triệu Kim
Văn, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP Thái Nguyên.
39. Dương Thuấn. 2000.Nét mới của văn học dân tộc và miền núi, Tạp chí
Văn hóa dân tộc, số 7.
40. Lâm Tiến.1995. Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB Văn
hóa dân tộc.
41. Lâm Tiến. 1999.Về một mảng văn học dân tộc, NXB Văn hóa dân tộc.
42. Chu Quang Tiềm. 2005.Tâm lý văn nghệ, NXB Thanh niên.
43. Nguyễn Đức Tồn.2002. Tìm hiểu đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn
ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với các dân tộc khác), NXB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Đại học Quốc gia Hà Nội.
44. Lê Ngọc Trà.1990. Lí luận văn học, NXB Trẻ.
45. Trần Thị Việt Trung – Cao Thị Hảo.2011. Văn học dân tộc thiểu số Việt
Nam thời kì hiện đại- một số đặc điểm, NXB Đại học Thái Nguyên.
46. Trần Thị Việt Trung. 2010.Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.
47. Triệu Kim Văn. 1989. Hoa núi, NXB Văn hóa dân tộc.
48. . 1994.Mùa sa nhân, NXB Văn hóa dân tộc.
49. Triệu Kim Văn. 1999.Lá tìm nhau, NXB Văn hóa dân tộc.
50. Triệu Kim Văn.2002. Con của núi (Thơ song ngữ Dao – Việt), NXB Văn
hóa dân tộc.
51. Triệu Kim Văn. 2002.Lửa của mồ côi, NXB Hội nhà văn.
52. Triệu Kim Văn. 2004. Lối cỏ, NXB Hội nhà văn.
53. Triệu Kim Văn. 2010. Suối nguồn du du (thơ song ngữ Dao – Việt), NXB
Văn hóa dân tộc.
54. Triệu Kim Văn. 2010.Hoa nắng (Thơ thiếu nhi), NXB văn hóa dân tộc.
55. Triệu Kim Văn. 2010. Trời về, NXB Văn học.
56. Triệu Kim Văn. 2010. Sợi mưa hiền, NXB Văn học.
57. Viện ngôn ngữ học. 2004.Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2004.
58. Stephan Zweig.1999. Dấu ấn những nền văn minh, những giờ rực sáng
của nhân loại, NXB Văn hóa thông tin.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
59. Carl Gustav Jung. 2007.Thăm dò tiềm thức, NXB Tri thức.