ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM 

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

THƠ TRIỆU KIM VĂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Thái Nguyên – 2014

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM 

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

THƠ TRIỆU KIM VĂN

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Thái Nguyên – 2014

-

.

.

-

.

C

hơn.

.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

g 4 năm 2014.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

. .

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Lời cam đoan ...................................................................................................... iii

Mục lục ............................................................................................................... iv

PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 9

Chƣơng 1: TỘC

THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ....................................................................... 9

........................................... 9

im Văn ......................................................... 9

1.1.2. Quan điểm sáng tác. ............................................................................... 10

1.2. Quá trình sáng tác và các giải thưởng. ............................................................. 11

1.3

hiện đại ..................................................................................................................... 12

1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến thơ Triệu Kim Văn .......................................... 16

1.4.1. Bản sắc văn hóa dân tộc Dao ................................................................. 16

1.4.2. Truyền thống văn hóa - văn học quê hương Bắc Kạn .......................... 17

1.4.3. ........... 19

Chƣơng 2: HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG TRONG THƠ TRIỆU KIM VĂN .... 21

2.1. Khái quát về biểu tượng và biểu tượng trong thơ ............................................ 21

2.1.1. Khái quát về biểu tượng ......................................................................... 21

2.1.2. Biểu tượng trong thơ .............................................................................. 23

2.2. Hệ thống biểu tượng trong thơ Triệu Kim Văn ............................................... 27

............................................. 27

......................................... 37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

........................................... 45

Chƣơng 3: GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG

THƠ TRIỆU KIM VĂN ....................................................................................... 54

3.1. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn ............................................ 54

3.1.1. Khái quát về giọng điệu nghệ thuật ...................................................... 54

3.1.2. Đặc điểm giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn ................. 58

3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn .............................................. 71

3.2.1. Khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật ........................................................ 71

3.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn ................... 74

PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................ 85

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 88

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Tạo nên diện mạo văn học Việt Nam hiện đại có sự đóng góp không

nhỏ của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng, thơ ca dân tộc thiểu số

Việt Nam nói chung. Nếu ví nền thơ ca Việt Nam hiện đại như một vườn hoa

trăm hồng ngàn tía thì thơ ca dân tộc thiểu số là những bông hoa rừng với

những hương sắc riêng. Có thể nói, cách mạng tháng Tám năm 1945 thành

công là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, khai sinh ra nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa, đồng thời khai sinh ra một nền văn hóa mới, trong đó

đã làm phục sinh vốn văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số, thúc đẩy

và làm nảy nở nhiều tài năng văn học dân tộc thiểu số. Tuy xuất hiện muộn và

phát triển chậm hơn so với bước tiến của văn học hiện đại Việt Nam, nhưng

văn học các dân tộc thiểu số thời kì hiện đại, trong đó có thơ ca, đã có những

vận động và phát triển nhanh chóng. Bên cạnh sự phát triển của thơ ca dân tộc

Tày, Thái, Mông ...thơ ca dân tộc Dao tuy chưa có một đội ngũ các nhà thơ

đông đảo nhưng đã có “ một vị trí nhất định trong đời sống thơ ca các dân tộc

thiểu số Việt Nam”[45.353]. Nghiên cứu thơ ca dân tộc Dao là một việc làm

cần thiết để góp phần vào việc hoàn chỉnh bức tranh thơ ca dân tộc thiểu số

Việt Nam.

1.2. Đóng góp và ghi dấu vào sự phát triển của thơ ca hiện đại dân tộc

Dao, bên cạnh nhà thơ Bàn Tài Đoàn là tên tuổi của nhà thơ Triệu Kim Văn -

người kế tục xứng đáng “Bó đuốc sống” [45.354] của dân tộc này. Tuy vị trí

của thơ ca Triệu Kim Văn là quan trọng trong thơ ca dân tộc Dao, nhưng cho

đến nay, việc nghiên cứu thành tựu sáng tác của Triệu Kim Văn chưa được tiến

hành một cách thỏa đáng. Đây vẫn còn là một khoảng trống, một mảng thiếu

hụt cần được bù đắp. Nó là một việc làm cần thiết để có cái nhìn toàn cảnh về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

diện mạo thơ ca dân tộc Dao.

1.3. Văn học các dân tộc thiểu số đã góp phần tạo nên diện mạo của nền

văn học Việt Nam – một nền văn học phong phú và giàu bản sắc, nhưng trong

nhiều năm qua văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam vẫn chưa thực sự thu hút

sự quan tâm chú ý đúng mức của giới nghiên cứu, phê bình nói chung, của một

số cấp ngành nói riêng, trong đó có ngành GD&ĐT. Vì thế, các công trình

nghiên cứu, sưu tầm, phê bình văn học...., các sách giáo khoa, giáo trình viết về

văn học các dân tộc thiểu số nói chung vẫn trong tình trạng thưa thớt. Trong đó,

mảng văn học địa phương đưa vào giảng dạy trong nhà trường đến các cấp học

(Trung học phổ thông, trung học cơ sở), giáo trình cho văn học địa phương còn

thiếu thốn. Qua việc nghiên cứu đề tài “Thơ Triệu Kim Văn”, chúng tôi hy

vọng sẽ bổ sung được một tư liệu bổ ích cho công tác giảng dạy văn học địa

phương Bắc Kạn nói riêng và văn học thiểu số Việt Nam nói chung.

1.4. Trong khoảng hai mươi năm qua (Từ những năm 90 của thế kỷ trước

tới nay), văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam đã có được những thành tựu

đáng ghi nhận, nhưng sự chững lại của thơ dân tộc thiểu số trong những năm

gần đây đặt ra những vấn đề quan thiết: Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện

đại trong thơ dân tộc thiểu số; Sự mai một của bản sắc dân tộc thiểu số trong

cuộc sống hiện đại hôm nay; Vấn đề viết bằng tiếng mẹ đẻ và đối tượng độc giả

của nó; Viết bằng tiếng Việt và yêu cầu chuyển tải cách cảm, cách nghĩ, lối nói,

lối diễn đạt của người miền núi... Qua việc nghiên cứu đề tài “Thơ Triệu Kim

Văn”, chúng tôi mong muốn góp câu trả lời cho rất nhiều vấn đề đã – đang

được đặt ra và còn để ngỏ trên đây.

1.5. Các nhà nghiên cứu văn học ở Trường Đại học sư phạm - Đại học

Thái Nguyên đang tiến hành tổ chức biên soạn cuốn giáo trình văn học dân tộc

thiểu số văn học Việt Nam hiện đại để phục vụ cho việc giảng dạy ở cấp Đại

học, sau ĐH đề tài “Thơ Triệu Kim Văn” nếu thực hiện thành công, chúng tôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

hy vọng sẽ có một tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác dạy và học phần văn

học thiểu số nói riêng và trong chuyên ngành văn học nói chung ở các trường

đại học ngành Sư phạm.

2. Lịch sử vấn đề:

So với việc nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại nói chung thì những

nghiên cứu dành cho mảng văn học dân tộc thiểu số còn ở mức độ khiêm tốn.

Trong bối cảnh đó, trong số các bài nghiên cứu, phê bình thơ ca dân tộc thiểu

số Việt Nam hiện đại, việc nghiên cứu thơ của Triệu Kim Văn còn rất ít ỏi,

thưa thớt. Một số bài viết và công trình đã có những tìm hiểu, đánh giá về một

số phương diện trong thơ Triệu Kim Văn ở những mức độ khác nhau.

Trong cuốn chuyên luận Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại

- Một số đặc điểm (PGS. TS Trần Thị Việt Trung - TS Cao Thị Hảo đồng

chủ biên), các tác giả đã có những nhận diện khái quát và chỉ ra một đặc điểm

quan trọng trong thơ Triệu Kim Văn: “Yếu tố tâm linh hòa quyện trong sự ước

muốn hồn nhiên, chất phác – phản ánh mối quan hệ giữa con người với thiên

nhiên thật gắn bó, hài hòa. Đây cũng là nguồn sức mạnh để giúp con người

miền núi gần gũi, chan hòa với thiên nhiên và sản xuất tích cực hơn” [45.210].

Trong cuốn sách Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam

hiện đại (PGS. TS Trần Thị Việt Trung chủ biên), các tác giả đã có những

nhận định về đặc trưng phong cách mang tính đóng góp của thơ Triệu Kim

Văn, vẫn mang những nét truyền thống của văn hóa Dao, nhưng đã có sự hiện

đại, đổi mới để tạo nên nét riêng: “Được thừa hưởng những giá trị văn hóa đầy

bản sắc của dân tộc Dao, Triệu Kim Văn đã cất lên một tiếng thơ, một giọng

Páo dung mới tươi rói, đầy sức trẻ và ngồn ngộn sức sống… Bằng sự thể hiện

linh hoạt trong hình thức thể loại, sự mới mẻ và đầy sáng tạo trong cách cảm,

cách nghĩ, cách diễn đạt, Triệu Kim Văn đã phần nào tiếp cận và hòa nhịp với

đời sống thơ ca đương đại cũng như hòa mình với dòng hải lưu thơ ca các dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tộc thiểu số Việt Nam vốn đã rất phong phú và giàu bản sắc” [46.354].

Trong cuốn sách Hoa văn thổ cẩm, tác giả Lò Ngân Sủn đã chỉ ra chất

dân tộc hòa quyện hiện đại trong thơ Triệu Kim Văn. Tác giả khi bình về một

số bài thơ của Triệu Kim Văn đã rất tinh tường và sâu sắc để đưa ra đánh giá:

“chất dân ca, dân dã của điệu Páo dung đã được hòa quyện vào trong hơi thở

hiện đại, cái dân tộc đã được hòa nhập vào nhân loại, với một giọng điệu khá

hào hoa, phong nhã, với một lối kết cấu, bố cục tự do, tung tẩy, phóng thoáng”

[33.55].

“ n, Nông Minh Châu,

-

” ông

[7.131]

Khóa luận tốt nghiệp Thơ dân tộc Dao từ Bàn Tài Đoàn đến Triệu Kim

Văn của tác giả Phùng Thị Thuận khảo sát khá công phu, từ đó có cái nhìn đối

sánh để chỉ ra sự vận động phát triển của thơ Dao, trong đó thơ Triệu Kim Văn

được đặt vào vị trí một chủ thể quan trọng của tiến trình vận động phát triển ấy:

“Nếu nhà thơ Bàn Tài Đoàn được ví là cây cao bóng cả của thơ Dao, thì Triệu

Kim Văn chính là người tiếp tục vun trồng để cho bóng cây thơ ca dân tộc Dao

mãi mãi xanh tươi” [38.25]; “Nhà thơ Bàn Tài Đoàn là người đã đặt nền móng

cho thơ dân tộc Dao thời kì trước cách mạng tháng Tám. Còn trong thời kì hiện

đại, nhà thơ Triệu Kim Văn là người kế thừa và phát triển thơ Dao. Thơ của

hai ông đã phản ánh rất chân thực và sinh động cuộc sống của dân tộc Dao, nó

tồn tại như một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với đồng bào Dao”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

[38.86].

Cùng với đó, một số bài viết cũng đã đóng góp những cách tiếp cận, nhận

diện thơ Triệu Kim Văn.

Bài bình tác phẩm Đá núi Đồng Văn của Vân Long chỉ ra cái thần, cái hồn

của một người con miền núi ngự trong sâu thẳm tâm thức rồi hiện lên trong thơ

Triệu Kim Văn. Tác giả bài viết đánh giá: “tác giả đã tạo một thế liên lập giữa

con người (người Mông), thiên nhiên, (từ một hùng vĩ Đồng Văn đó mà có) văn

hoá (văn Nguyễn Tuân, thơ Xuân Diệu). Ý tưởng không mới, nhưng cách nói

hay” [24].

Bài viết Xuân của hương ngàn của Lâm Tiến trong cuốn sách Về một mảng

văn học dân tộc đã chỉ ra hồn thơ tươi tắn, giàu tin yêu và gắn bó tha thiết với

quê hương của Triệu Kim Văn: “Mùa xuân gắn với thiên nhiên, cuộc sống con

người miền núi. Lời mùa xuân là lời của đất, của cây, của suối, của mây, gần

gũi thân quen” [41.181].

Bài viết Người về theo lối cỏ của Tuệ Minh đã khẳng định một cách mạnh

mẽ, thuyết phục về tiếng nói dân tộc, giọng điệu dân tộc, tâm hồn dân tộc trong

thơ Triệu Kim Văn. Tác giả viết: “với một nhà thơ - người viết ra những ý tứ,

nhịp điệu, rung động của tâm hồn mình thì văn hoá tộc người là một suối

nguồn mát lành chở đầy phù sa bồi đắp nên những thức điệu tâm hồn. Nhà thơ

Triệu Kim Văn trên hành trình của mình đã đi, đã đến với dòng suối nguồn ấy,

đồng thời góp thêm một mạch nguồn khơi dậy những tình tự dân tộc” [28].

Như vậy qua các công trình nghiên cứu, các bài viết... chúng ta nhận thấy

các tác giả đã có những đóng góp nhất định trong việc phát hiện ra một số đặc

điểm về nội dung, nghệ thuật nổi bật trong thơ Triệu Kim Văn. Nhưng nhìn

chung các bài viết này mới chỉ dừng lại nghiên cứu một khía cạnh, một mặt nào

đó trong thơ Triệu Kim Văn. Cho đến nay, chưa có một công trình nào đi sâu

nghiên cứu, khảo sát toàn diện và có hệ thống về thơ ông, để từ đó rút ra những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đặc điểm khái quát về nội dung tư tưởng, nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn.

Tuy nhiên, đây là những nhận định hết sức đáng quý, gợi mở cho chúng tôi

nhiều vấn đề tìm hiểu một cách hệ thống, toàn diện về thơ Triệu Kim Văn.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

3.1 Đối tƣợng nghiên cứu

Tiến hành thực hiện luận văn, chúng tôi tập trung tìm hiểu nét đặc sắc ở

phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của thơ Triệu Kim Văn.

. Từ đó,

luận văn chỉ ra thành công, hạn chế và đóng góp của thơ Triệu Kim Văn với

thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng, với thơ ca Việt Nam hiện đại

nói chung.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Để thực hiện đề tài, chúng tôi nghiên cứu, khảo sát, phân tích, đánh giá 10 tập

thơ của Triệu Kim Văn: Hoa núi (1989); Mùa sa nhân (1994); Lá tìm nhau

(1999); Con của núi (Thơ song ngữ Dao- Việt- 2002); Lửa của mồ côi (2002);

Lối cỏ (2004); Suối nguồn du du (Thơ song ngữ Dao- Việt- 2010); Hoa nắng

(2010); Trời về (2010); Sợi mưa hiền (2011).

- Các tác phẩm thơ của một số nhà thơ dân tộc khác nhằm so sánh, đối chiếu

làm nổi bật những nét riêng trong thơ Triệu Kim Văn.

4. Mục đích nghiên cứu:

Nghiên cứu đề tài “Thơ triệu Kim Văn”, luận văn nhằm chỉ rõ tính

truyền thống trong thơ và sự kế thừa phát triển thơ Dao trong thời kỳ hiện đại

của thơ Triệu Kim Văn. Đồng thời, qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi muốn

khẳng định những đóng góp của thơ Triệu Kim Văn đối với sự phát triển của

thơ Dao nói riêng và thơ ca dân tộc chung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

5. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Luận văn tập trung nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ

Triệu Kim Văn, khẳng định tính truyền thống và tính hiện đại trong sáng tác

của nhà thơ này, từ đó chỉ ra những đóng góp, thành công và hạn chế, cũng như

cá tính sáng tạo của thơ Triệu Kim Văn.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Tiến hành luận văn, chúng tôi tích hợp đồng bộ một số phương

pháp sau:

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp đồng bộ phương pháp nghiên

cứu nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu

.

- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Văn hóa và văn học có những mối quan

hệ tương hỗ, biện chứng. Muốn giải quyết vấn đề của luận văn, cần tiếp cận từ

giác độ văn hóa học. Sử dụng phương pháp tiếp cận này, chúng tôi khai thác

những vẻ đẹp và đặc trưng của văn hóa dân tộc thiểu số nói chung, văn hóa dân

tộc Dao nói riêng thể hiện trong thơ Triệu Kim Văn.

- Các thao tác nghiên cứu khác: Ngoài việc sử dụng thao tác phân tích tác

phẩm theo loại thể, chúng tôi kết hợp sử dụng một số thao tác như tổng hợp,

, so sánh nhằm khảo sát tác phẩm một cách chi tiết và hệ thống.

- i:

.

7. Đóng góp của luận văn

Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên khảo sát, phân tích, đánh giá toàn

bộ sự nghiệp sáng tác thơ ca của nhà thơ Triệu Kim Văn. Từ đó, khẳng định

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thành tựu, đóng góp cũng như hạn chế của thơ Triệu Kim Văn với nền văn học

thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng và nền thơ Việt Nam hiện đại nói chung.

.

8. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:

Chƣơng 1: Thơ Triệu Kim Văn trong thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện

đại.

Chƣơng 2: Hệ thống biểu tượng trong thơ Triệu Kim Văn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Chƣơng 3: Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn.

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1

THƠ TRIỆU KIM VĂN TRONG

THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

1.1. Tiểu sử và quan điểm sáng tác

1.1.1. Tiểu sử

Tiểu sử đầy đủ và chân thật nhất của một nhà thơ nằm ngay trong chính

tác phẩm của nhà thơ đó. Do vậy, những điều mà một nhà thơ tự viết về mình

bao giờ cũng là một nguồn tư liệu quan trọng và đáng tin cậy để tìm hiểu tác

giả ấy. “Tôi tự hào là đứa con của đại ngàn, với những cánh rừng nguyên sinh

âm u, mây buông sương ủ, nơi núi đá tai mèo dựng đứng như bờm ngựa

chiến... Tôi sinh ra trên tay người mẹ nghèo hiền lành, buổi chập chững theo

các anh chị lên nương ngơ ngác nghe kể đầy gùi cổ tích...” (Trích “Đối khúc

đại ngàn”). Đó là những lời của nhà thơ dân tộc Dao đỏ Triệu Kim Văn - nhà

thơ người Dao đầu tiên của Bắc Kạn đang tự viết về mình. Có thể nói, sau Bàn

Tài Đoàn, tên tuổi Triệu Kim Văn đã góp phần làm phong phú thêm cho đời

sống thơ ca dân tộc Dao nói riêng và thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói

chung.

Triệu Kim Văn (bút danh Hoa Sơn) sinh ngày 14.7.1945 ở vùng quê

Cao Sơn, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Vùng đất ấy với “núi

cao sừng sững như đỡ lấy bầu trời, nơi bản làng ẩn trong mây núi bao phủ, nơi

có những bài láu ton (hát ru) độc đáo”...[28] vừa là môi trường sống, vừa là

không gian văn hóa nuôi dưỡng tâm hồn con người, vừa là nguồn cảm hứng

trong các sáng tác của Triệu Kim Văn.

Mười ba tuổi Triệu Kim Văn biết nói tiếng Kinh, lúc này ông đi học tại

trường thiếu nhi vùng cao Việt Bắc. Ông tâm sự: Thuở ấy mọi người đặt cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ông biệt danh “con mọt sách” vì khi ông biết tiếng Kinh ông đã đọc rất nhiều,

cả kho sách văn học của thư viện nhà trường đều được ông đọc bằng hết. Học

hết lớp 7, ông tiếp tục sang trường Bổ túc Công - Nông học lớp 8, sau đó ông

học sư phạm và giảng dạy tại trường trung cấp Công nghiệp nhẹ của Bộ công

nghiệp. Năm 1973 ông thi vào đại học tổng hợp Hà Nội, ra trường ông về công

tác tại Ban dân tộc tỉnh ủy Bắc Thái, rồi công tác tại huyện ủy Bạch Thông.

Đến năm 1997, ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam. Từ đó, ông hoạt

động chuyên bên văn học nghệ thuật và giữ chức chủ tịch hội Văn học nghệ

thuật tỉnh Bắc Kạn cho đến lúc nghỉ hưu.

Cuộc đời Triệu Kim Văn là một minh chứng sống động cho sự nỗ lực tự

vượt lên chính mình, bằng nền tảng là cội nguồn cốt cách văn hóa của dân tộc

Dao để hòa mình vào dòng chảy chung của đời sống văn hóa – văn học Việt

Nam. Trong suốt cuộc đời sáng tạo nghệ thuật không ngừng nghỉ của mình, dù

ở đâu, dù lúc nào, dù làm gì, nhà thơ Triệu Kim Văn vẫn luôn như một con

chim của núi rừng, uống nước khe ngậm lúa nương mà hót lên những bài ca

của quê hương xứ sở.

1.1.2. Quan điểm sáng tác.

Dù đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng và ghi nhận trong sáng

tác thơ ca, nhưng khi được hỏi về quan điểm sáng tác thì nhà thơ Triệu Kim

Văn khiêm tốn: “Tôi chưa bao giờ nhận mình là nhà thơ”. Suy nghĩ về nghề

văn, ông cho rằng: “Sáng tác là một phần của cuộc sống. Và thơ là tình yêu, là

nhịp đập của trái tim”.[55.64] Đến với thơ, Triệu Kim Văn chỉ nghĩ đơn giản

và chân thành: Thơ là tiếng nói của tâm hồn, nghĩ sao thì nói vậy, chỉ đơn giản

thế thôi. Là người “Con của núi”, ông nghĩ về sứ mạng cao cả của thơ ca thật

mộc mạc. Suy nghĩ ấy được thể hiện khá rõ qua bài “Thơ củi”. Trong bài, ông

ví mình như cây củi và luận bàn về các thứ củi: Củi gộc, củi mòn, củi cành và

cả củi mục để rồi đi đến khẳng định về một thứ thơ gần gũi với cuộc sống,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

phục vụ cuộc sống.:

“Củi tôi hái từ con tim/ Cánh rừng con tim rộng dài không đo được/ Lửa

cháy hết rồi tôi ngồi khóc/ Nhớ chàng mồ côi kiếm củi đổi hạt kê… /Câu thơ tôi

cùng lầm lụi chốn quê”.

Thật đúng với lời nhận xét của Mai Liễu: “Triệu Kim Văn là thế, không

vồ vập, kiểu cách. Cứ lặng lẽ trong đời mà lại làm được ít nhiều sự xáo trộn

trong thơ.”[31.218] Những lời bộc bạch tâm tình trong bài thơ trên là một âm

bản đáng tin cậy nhất để người đọc hiểu về quan niệm sáng tác của nhà thơ,

một quan niệm giản dị, chân thành và sâu sắc. Suy cho cùng, giản dị chính là

tận cùng của mọi mĩ học. Quan niệm thẩm mĩ ấy sẽ là ngọn đuốc bền bỉ trên

con đường sáng tạo đầy chông gai thử thách nhưng cũng đầy hạnh phúc của

nhà thơ Triệu Kim Văn.

1.2. Quá trình sáng tác và các giải thƣởng.

Tuy âm thầm lặng lẽ và giản dị trong lao động sáng tạo, nhưng Triệu

Kim Văn đã có cho mình một gia sản thơ ca rất đáng trân trọng. Đây là kết quả

của sự nỗ lực bền bỉ, của tài năng và tâm hồn một ý thức sáng tạo đầy

tâm huyết. Chặng đường sáng tác văn học của Triệu Kim Văn bắt đầu từ khi

ông theo học “cái chữ”. Là người yêu thích văn chương và ham mê sáng tác

nên người con của núi này đã đến với thơ ca thật tự nhiên. Những đứa con tinh

thần – sản phẩm đầu tay đã chào đời khi chàng trai người Dao này đang ở độ

hai mươi. Năm năm sau, khi thấy những tác phẩm của mình đã đủ độ chín nhà

thơ mới ra mắt người đọc bài thơ đầu tiên: “Nhớ Bác ta trồng nhiều cây” (Báo

Việt Nam độc lập). Từ đó, ông viết nhiều, viết đều, viết khỏe, nhưng chủ yếu

là đăng trên báo và tạp chí. Mãi đến năm 1989 ông mới ra mắt tập thơ đầu tiên:

“Hoa núi”.

Với lòng yêu văn chương và sự hăng say, miệt mài trong lao động nghệ

thuật, đến nay Triệu Kim Văn đã xuất bản 10 tập thơ: Hoa núi (1989) Mùa sa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nhân (1994) Lá tìm nhau (1999) Con của núi (Thơ song ngữ Dao- Việt 2002) Lửa

của mồ côi (2002) Lối cỏ (2004) Hoa nắng (Thơ thiếu nhi 2010) Suối nguồn du du

(Thơ song ngữ Dao- Việt 2010) Trời về (2010 ) Sợi mưa hiền (2011)

Quá trình phấn đấu không miệt mài của Triệu Kim Văn đã tạo nên những

tác phẩm mang đậm bản sắc dân tộc và phong cách sáng tác của riêng mình.

Ông đã vinh dự nhận được nhiều giải thưởng như: Giải thưởng chính thức của

Ban văn học dân tộc Hội nhà văn Việt Nam cho tập thơ “Mùa sa nhân” (1997),

giải thưởng của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam cho tập

thơ “Con của núi” (2002), giải thưởng của Hội văn học nghệ thuật các dân tộc

thiểu số Việt Nam cho tập thơ “Trời về” (2010)... Huy chương vì sự nghiệp văn

học nghệ thuật Việt Nam, Huy chương vì sự nghiệp văn học nghệ thuật các dân

tộc thiểu số Việt Nam. Đây là những ghi nhận xứng đáng cho một tài năng, một

hồn thơ đẫm cốt cách của dân tộc Dao.

1.3. Thơ Triệu Kim Văn trong thơ dân tộc thiểu số văn học Việt Nam

hiện đại

Với một đời sống văn hóa phong phú, sống động, đa sắc diện, Việt Nam

có một nền văn học đa dạng, nhiều dòng, nhiều mảng khối. Bên cạnh sự hình

thành và phát triển của thơ ca dân tộc Kinh (Việt) đạt đến đỉnh cao với nhiều

tác giả, tác phẩm tiêu biểu thì còn tồn tại song hành một mảng thơ ca không

kém phần đặc sắc mà hiện nay đang thu hút được sự quan tâm tìm hiểu của các

nhà nghiên cứu, đó là mảng thơ ca của các dân tộc thiểu số. Đây là một thế giới

hấp dẫn, bí ẩn, giàu sức mời gọi, đang chờ đợi sự khám phá đầy hứa hẹn.

Một bộ phận khá nổi bật trong thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam là thơ ca

dân tộc Tày. “Theo nhà thơ Hoàng Triều Ân thì từ thế kỷ thứ V, người Tày đã

có thơ viết bằng chữ Hán với tác phẩm “Cố hương từ” - Lê Thế Khanh (394-

460), người tổng Nhượng Bản, châu Thạch Lâm (nay là xã Bình Long, huyện

Hòa An) tỉnh Cao Bằng” [45.57]. Đến cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Bế Văn Phụng (1567- 1637) và Nông Quỳnh Vân (1566- 1640) cũng là người

Tày ở Cao Bằng nổi tiếng là hay chữ và sáng tác thơ ca bằng chữ Nôm - Tày.

Sau này đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện thêm các tác giả dân tộc

Tày sáng tác thơ bằng chữ Hán như: Hà Vũ Bằng, Bế Ích Bồng, Nông Đình

Cấp, Lê Văn Dự... Đặc biệt trong đó có Hoàng Đức Hậu (1890- 1945) sáng tác

cả ba thứ tiếng: Tày, Việt, Hán. Điều đáng nói là những sáng tác của Hoàng

Đức Hậu không chỉ ảnh hưởng đến những người làm thơ cùng thời, mà những

nhà thơ sau này như Nông Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Triều Ân, Y Phương,

Dương Thuấn... cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Cũng vào khoảng cuối thế kỷ

XIX còn xuất hiện một số nhà thơ dân tộc Thái như: Ngầu Văn Hoan và Lò

Văn Thứ. Đặc biệt là Ngầu Văn Hoan, với lời thơ gần gũi với lời ăn tiếng nói

hàng ngày của dân tộc đã đưa văn học dân tộc Thái lên đỉnh cao mới, làm cho

thơ ca dân tộc Thái phong phú, trong sáng và giàu hình tượng hơn.

Giai đoạn 1930- 1945, một mảng thơ cách mạng của các dân tộc thiểu số

ra đời cùng với thơ cách mạng của cả nước. Các tác giả tiêu biểu như: Hoàng

Văn Thụ, Lê Quảng Ba, Hoàng Đình Giang, Dương Công Hoạt... Họ là những

chiến sĩ người dân tộc thiểu số hoạt động cách mạng, vừa là người đem hiện

thực cách mạng vào những trang thơ. Cách mạng Tháng Tám thành công, cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp thần thánh của dân tộc ti nguồn cảm

hứng cho thơ ca Việt Nam, trong đó có thơ ca các dân tộc thiểu số. Cùng với

các nhà thơ đã xuất hiện từ trước năm 1945 đến nay là sự xuất hiện của các nhà

thơ dân tộc thiểu số thời kì hiện đại, điều đó đã góp phần tạo nên một đội ngũ

sáng tác khá đông đảo cho thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam. Với tình yêu quê

hương đất nước, tình yêu cuộc sống, tình yêu đất và người miền núi... họ đã cất

lên tiếng thơ chân chất, mộc mạc, hồn nhiên mà sôi nổi, mà nồng nhiệt, phù

hợp với cách cảm, cách nghĩ của đồng bào dân tộc thiểu số. Các tác giả tiêu

biểu giai đoạn này phải kể đến những tên tuổi như: Nông Quốc Chấn, Nông

Minh Châu, Nông Viết Toại (Tày), Cầm Biêu, Lương Quy Nhân (Thái), Bàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Tài Đoàn (Dao), Lò Ngân Sủn (Giáy), Pờ Sảo Mìn (Pa Dí).v.v..

Cuộc trường chinh 9 năm chống thực dân Pháp kết thúc, miền Bắc bắt

tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và miền Nam vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh

chống đế quốc Mỹ xâm lược. Giai đoạn này, hiện thực đời sống cũng khơi

nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà thơ dân tộc thiểu số để một loạt các tập

thơ của họ ra đời. PGS. TS Trần Thị Việt Trung đánh giá: “Đây là một thời kỳ

thăng hoa của thơ ca dân tộc thiểu số”.[45.107] Làm nên đời sống thơ ca dân

tộc thiểu số giai đoạn này vẫn là những gương mặt thơ quen thuộc như: Nông

Quốc Chấn, Nông Viết Toại, Nông Minh Châu, Cầm Biêu, Lương Quy Nhân,

Bàn Tài Đoàn... và được cộng hưởng bởi một lớp tác giả mới được đào tạo

dưới mái trường xã hội chủ nghĩa như: Mã Thế Vinh, Vương Anh, Mã A Lềnh,

Triều Ân.v.v..

Chiến tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược thắng lợi, miền Nam đã hoàn

toàn giải phóng, đất nước thống nhất và bước vào giai đoạn khôi phục, tái thiết,

xây dựng, phát triển. Năm 1986 với công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc, trong

đó có văn học nghệ thuật đã đưa đến một thời kì “trăm hoa đua nở” [45.107]

của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nói “trăm hoa đua nở” là bởi chưa

bao giờ lại có một đội ngũ các nhà thơ dân tộc thiểu số lại đông đảo và nhiều

thế hệ đến thế. Lớp sau nối tiếp lớp trước với sức sáng tạo mạnh mẽ, sung sức

đã cho ra đời hàng loạt những tác phẩm với nhiều giọng điệu khác nhau, nhiều

cách thể hiện khác nhau. Ở giai đoạn văn học này, một điều dễ nhận thấy là các

nhà thơ dân tộc thiểu số trong quá trình sáng tác vẫn không ngừng tìm tòi, sáng

tạo về nội dung và nghệ thuật, nhưng đồng thời cũng vẫn đậm đà bản sắc dân

tộc. Cùng với các thế hệ nhà thơ lớp trước như Nông Quốc Chấn, Nông Viết

Toại, Triều Ân, Bàn Tài Đoàn..., xuất hiện thêm một đội ngũ tác giả như Y

Phương, Lò Ngân Sủn, Nông Thị Ngọc Hòa, Lò Cao Nhum, La Quán Miên,

Inrasara.v.v..

Có thể nói, mỗi một nhà thơ đã cất lên tiếng nói của tâm hồn dân tộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

mình, tạo nên một hương sắc riêng nhưng vẫn gắn bó và hòa chung vào dòng

sông thơ ca văn học Việt Nam hiện đại. Tuy độ đậm, nhạt khác nhau nhưng sáng

tác của các nhà thơ dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại là sự kết tinh của bản sắc

văn hóa truyền thống của dân tộc mình với bản sắc văn hóa Việt Nam. Và như

vậy cũng là sự gắn kết giữa tính truyền thống và hiện đại trong thơ của họ.

Thơ của các nhà thơ các dân tộc thiểu số có sự tương đồng cơ bản. Nó

nằm ở sự mộc mạc, tinh tế và độc đáo; ở sự giao thoa giữa dân tộc mình với

văn hóa vùng miền một cách hài hòa nhuần nhuyễn. Bên cạnh đó, thơ c họ

cũng vẫn thể hiện được sự khác biệt nhất định. Sự khác biệt đó nằm ở bản sắc

văn hóa mang tính đặc trưng riêng của mỗi dân tộc; ở cá tính sáng tạo độc đáo

riêng của mỗi tác giả. Sự tương đồng và khác biệt đó tạo nên một nền thơ các

dân tộc thiểu số vừa nhất quán lại vừa phong phú, đặc sắc.

Hòa chung trong dòng mạch ấy là các nhà thơ dân tộc Dao. Người con

của dân tộc Dao với sự kế tục xứng đáng thành tựu thơ ca của nhà thơ lớp trước

Bàn Tài Đoàn là Triệu Kim Văn. Với những sáng tác của mình, Triệu Kim Văn

cùng hòa vào nguồn mạch chung ấy mà không mất đi bản sắc riêng của mình.

Thơ ca Triệu Kim Văn có một vị trí riêng trong nền thơ ca dân tộc thiểu số Việt

Nam hiện đại. Và nếu như không có thơ Triệu Kim Văn thì bức tranh thơ chung

ấy sẽ khuyết vắng đi một mảng quan trọng đậm sắc thái dân tộc Dao.

Nếu như nói đến Bàn Tài Đoàn là nói đến hồn thơ đậm chất truyền thống

dân tộc Dao thì thơ Triệu Kim Văn là sự sáng tạo, đổi mới thơ Dao trong thời

kỳ hiện đại. Là người con của tỉnh Bắc Kạn, thơ Triệu Kim Văn dù vui hay

buồn, dù viết về đề tài tự nhiên hay xã hội... cũng là tiếng nói tâm hồn của

người Dao với những hình thức mới, dáng vẻ mới. Vể bề ngoài, nhà thơ Triệu

Kim Văn là một người giản dị, kín đáo và ít nói, nhưng khi đọc những vần thơ

của ông mới thấy một tâm hồn đầy nhiệt huyết, cháy bỏng tình yêu trước cuộc

đời. Ông quan niệm: “Sáng tác là một phần của cuộc sống. Và thơ là tình yêu,

là nhịp đập của trái tim” [55.64] cho nên dù nếu không có tác phẩm “vượt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đoạn trường” thì ông cũng vẫn vui vẻ:

“Dẫu ta rớt ở ngay đầu chặng

Cũng vui lòng bởi cuộc sống mến thương”

(Cuộc sống nhà văn)

Có thể thấy, thơ ca dân tộc Dao khá phong phú, với nhiều tên tuổi khác

nữa còn cần phải kể đến như Đặng Phúc Lường, Bàn Thị Cúc, Phùng Trang

Hồng... Nhưng tựu chung lại “Nói đến thơ ca dân tộc Dao thì có hai cái tên án

ngữ cả chặng đường 60 năm sau cách mạng tháng Tám. Đó là Bàn Tài Đoàn và

Triệu Kim Văn” [46.74]. Nếu nhà thơ Bàn Tài Đoàn được ví là “cây cao bóng

cả” của thơ Dao, thì Triệu Kim Văn chính là “người tiếp tục vun trồng” [38.25]

để cho cây thơ ca dân tộc Dao mãi mãi xanh tươi. Như vậy, đây là một sự kế

thừa, tiếp nối và nâng cao phù hợp với quy luật phát triển tự nhiên tất yếu của

một nền thơ ca. Nhìn nhận và đánh giá thỏa đáng vị trí của một tác giả cũng là

việc làm quan trọng, cần thiết để giữ gìn, trân trọng các giá trị của một nền thơ.

1.4. Những yếu tố ảnh hƣởng đến thơ Triệu Kim Văn

1.4.1. Bản sắc văn hóa dân tộc Dao

Đặt văn hóa dân tộc Dao trong văn hóa Việt Nam, có thể coi đó như

mạch riêng giữa nguồn chung. Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc anh em có

mặt từ rất lâu đời ở Việt Nam. Mặc dù sống phân tán và trải qua nhiều cuộc

thiên di trong lịch sử nhưng người Dao vẫn duy trì được bản sắc dân tộc mình.

Trong tiến trình lịch sử, dân tộc Dao chẳng những góp phần vào sự nghiệp

dựng nước và giữ nước mà còn sớm hình thành một nền văn hóa đặc sắc, làm

phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cũng như các dân tộc

thiểu số khác, người Dao có một kho tàng truyện cổ tích, truyện thơ... tạo nên

truyền thống thơ ca khá phong phú và đặc sắc. Kho tàng ấy chính là nơi cất giữ

những kết tinh giá trị tinh thần của con người dân tộc Dao. Và tất cả những nét

văn hóa ấy ít nhiều ảnh hưởng đến sáng tác thơ của Triệu Kim Văn. Trong ý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nghĩa đó, có thể thấy bản sắc văn hóa dân tộc Dao là căn cốt, là điểm tựa, là

mạch nguồn để Triệu Kim Văn kế thừa, từ đó thăng hoa thành những giá trị

riêng đặc sắc trong thơ ca của mình.

Trong thơ của Triệu Kim Văn, có thể thấy những dấu ấn rõ nét của bản

sắc văn hóa dân tộc Dao. Phong tục tập quán, những ngày lễ tết, lễ hội của

người Dao trở thành âm hưởng vang vọng và ẩn sâu trong tâm thức của nhà

thơ. Cùng với đó, nguồn cội văn học dân gian Dao như thành ngữ, tục ngữ, dân

ca, truyện cổ đã trở thành một nguồn chất liệu vô giá để nhà thơ đúc rút và kết

tinh nên những giá trị riêng đặc sắc. Đồng thời, đời sống lao động sản xuất gắn

với các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người Dao đã trở thành

mạch nguồn cảm hứng sâu sắc và sống động để nhà thơ sáng tạo.

1.4.2. Truyền thống văn hóa - văn học quê hƣơng Bắc Kạn

Bắc Kạn có suối đãi vàng

Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh

(Ca dao)

Có thể nói, Bắc Kạn là một miền quê vốn mang trong mình một bề dày

truyền thống văn hóa, với những giá trị đặc trưng độc đáo. Bắc Kạn là tỉnh giàu

tiềm năng du lịch bởi sự phong phú của tài nguyên, khoáng sản và nền văn hoá

đậm đà bản sắc dân tộc miền núi đông bắc Việt Nam. Hồ Ba Bể là danh thắng

thiên nhiên được công nhận là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 1996. Đây

là khu bảo tồn đất ngập nước có tầm quan trọng của thế giới và là 1 trong 20 hồ

nước ngọt đẹp nhất thế giới. Hội xuân Ba Bể được tổ chức vào tháng giêng âm

lịch hàng năm, tạo thành một nét đẹp truyền thống đặc trưng cho Bắc Kạn. Căn

cứ địa cách mạng ATK Chợ Đồn là một trong những khu căn cứ của chủ

tịch Hồ Chí Minh và các cán bộ cấp cao của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong

kháng chiến chống thực dân Pháp. Khu di tích lịch sử Nà Tu, xã Cẩm Giàng,

huyện Bạch Thông nơi Hồ Chí Minh đã tặng lực lượng thanh niên xung phong

4 câu thơ vào năm 1951 "Không có việc gì khó/ Chỉ sợ lòng không bền/ Đào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

núi và lấp biển/ Quyết chí ắt làm nên". Bắc K

ở đây chủ đạo là các hình thức m , p

như l , hát giao duyên… dân gian truyền thống có t

... Tất cả những yếu tố đó góp thành một

vùng quê Bác Kạn phong phú và độc đáo về các giá trị văn hóa. Đây là một

mạch nguồn quý giá để tâm hồn thơ Triệu Kim Văn kế thừa, kết tinh, sáng tạo.

Trong ngôi nhà chung của nền văn học Việt Nam, mỗi địa phương vùng

miền lại có những đặc trưng riêng. Văn học quê hương Bắc Kạn là nền văn học

đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc và có nhiều thành tựu. Đã có nhiều nhà văn là

con em các dân tộc Bắc Kạn thuộc thế hệ tiên phong đặt nền móng cho nền văn

học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nông Minh Châu có thể coi là nhà văn

mở đường cho văn xuôi thiểu số nơi Việt Nam. Nông Viết Toại thành công ở

cả ba mảng: sáng tác, khảo cứu, phê bình, nghiên cứu văn học dân gian. Nông

Quốc Chấn không chỉ nổi tiếng với văn học Bắc Kạn mà còn ghi dấu với nền

văn học dân tộc thiểu số Việt Nam. Tiếp theo là Dương Thuấn - một trong ba

nhà thơ dân tộc Tày xuất sắc nhất hiện nay: Y Phương, Mai Liễu, Dương

Thuấn. Sau khởi điểm đổi mới 1986, Văn học Bắc Kạn đang cùng với văn học

cả nước tiếp tục phát triển. Trong xu hướng đổi mới phát triển của thời kì mới,

văn học Bắc Kạn xuất hiện thêm những cây bút trẻ hứa hẹn nhiều triển vọng:

Dương Khâu Luông, Hoàng Chiến Thắng... Như vậy, văn học Bắc Kạn có bề

dày nền tảng trong truyền thống, có sự kế thừa phát triển và tiếp nối trong hiện

tại, có cơ sở để hi vọng những bước phát triển mới trong tương lai. Và chính từ

cái nôi văn chương ấy, nhà thơ Triệu Kim Văn xuất hiện và trưởng thành, đóng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

góp thêm một giá trị quan trọng vào nền văn học tỉnh nhà.

1.4.3. Hoàn cảnh riêng

Người làm thơ bao giờ cũng viết từ những tâm tư, buồn vui - hạnh phúc -

khổ đau trong cuộc đời, thân phận của chính mình. Thơ bao giờ cũng được

phản chiếu từ chính bản thân người sáng tác. Chính vì vậy, hoàn cảnh riêng bao

giờ cũng có một vai trò đặc biệt quan trọng để nên con đường thơ

của một tác giả. Nhà thơ Triệu Kim Văn cũng là một tác giả nằm trong quy luật

ấy. Hoàn cảnh riêng đã có những tác động hết sức sâu sắc đến hành trình sáng

tạo thơ ca của ông.

Triệu Kim Văn là người có tuổi thơ không may mắn: Ông mất cha ngay

từ khi còn đang trong bụng mẹ. Tuổi thơ của ông đi cùng cuộc sống vất vả lam

lũ với người mẹ nghèo ở xóm nhỏ của xã Cao Sơn. Không bao lâu sau, mẹ ông

đi bước nữa. Ông lại sống với hai người chị, một là chị ruột, một là chị nuôi ở

vùng đất đơn độc, nghèo nàn ấy. Các chị của ông thường hát ru đứa em trai bé

bỏng bằng những bài hát buồn buồn, sâu lắng của người Dao. Đến đầu năm

1960, người chị nuôi của Triệu Kim Văn qua đời. Như vậy, từ nhỏ đến lúc

trưởng thành ông đã chịu hai lần mồ côi. Chính tác giả cũng đã tâm sự: Những

năm 1945- 1947 Nhật- Pháp càn quét, bắn giết, ở một xóm nghèo nhất lại là

con mồ côi, cho nên cảnh âm u, buồn bã lắm. Điều này cũng ảnh hưởng trực

tiếp đến tính cách trầm lặng, nhún nhường, sống thiên về nội tâm và đôi khi có

cả những mặc cảm. Và sau này, tính cách ấy ít nhiều cũng ảnh hưởng đến các

sáng tác của thơ Triệu Kim Văn: Lặng lẽ, không ồn ào, có chiều sâu, có những

trăn trở, day dứt từ cái riêng và cái chung. Từ số phận cá nhân đến số phận của

dân tộc trong những bước thăng trầm của đời người và của lịch sử cũng đã ảnh

hưởng trực tiếp đến các sáng tác sau này của thơ Triệu Kim Văn.

Con đường đến với thơ ca của Triệu Kim Văn bắt đầu khá đặc biệt. Khi

đi học và biết tiếng Kinh, nhà thơ người Dao này đã đọc rất nhiều sách, trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đó có thơ Tố Hữu. Ban đầu khi mới bước vào con đường thơ ca, tuy là một

người Dao nhưng Triệu Kim Văn chịu ảnh hưởng của thơ người Kinh, đặc biệt

là thơ của Tố Hữu. Càng về sau, tác giả càng nghĩ đến dân tộc mình với một ý

thức sâu sắc hơn. Từ đó, khi sáng tác, ông ngày càng có ý thức tìm về nguồn

cội của dân tộc mình. Những phong tục tập quán, những đạo lý làm người, cuộc

sống vất vả nhọc nhằn của người Dao đi vào thơ ông thật dung dị, tự nhiên.

Những suy tư chân thành, đượm buồn, sâu sắc đã cho ta thấy tâm nguyện đau

đáu của nhà thơ Triệu Kim Văn với mạch nguồn truyền thống dân tộc Dao nói

chung, đặc biệt là ý thức tìm về với bản thể đích thực trong sâu thẳm con người

mình: “Nếu con quên/ Rằng con sinh ra trên núi/ Mẹ tắm con trong chậu gỗ/

Nước máng hứng từ ruột đá/ Ba lần mặt trời mọc đặt tên/ Thì con xin không là

con của mẹ/ Thì con xin không là con của núi.”(Con của núi)

Như vậy, hoàn cảnh riêng không may mắn có thể đã tác động đến tính

cách và phần nào cả hồn thơ Triệu Kim Văn, được biểu hiện ở sự trầm lặng,

kiệm lời, sâu sắc, hướng nội, ngậm ngùi, hay xót thương những số phận không

may mắn.

* *

*

hoàn cảnh riêng sinh trưởng và gắn bó với vùng

núi Bắc Kạn giàu truyền thống văn hóa - văn học, đ

kết tinh nên những giá trị độc đáo trong . Ông

đã trở thành người kế tục và tiếp nối, vun trồng cho cánh rừng thơ của dân tộc

Dao ngày càng phong nhiêu. Tất cả những điều đó đã góp phần tạo nên một vị

trí, một giá trị quan trọng của thơ Triệu Kim Văn trong thơ ca dân tộc Dao nói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

riêng, thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung.

Chƣơng 2

HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG TRONG THƠ TRIỆU KIM VĂN

2.1. Khái quát về biểu tƣợng và biểu tƣợng trong thơ

2.1.1. Khái quát về biểu tƣợng

Mỗi nền văn hóa đều được cấu thành bởi một tập hợp các hệ biểu tượng.

Việc nghiên cứu các biểu tượng là chìa khóa để giải mã đời sống văn hóa, tinh

thần của một cộng đồng. Nói như Jean Chevalier, tác giả cuốn Từ điển biểu

tượng văn hóa thế giới, tìm hiểu biểu tượng là tìm ra “chìa khóa của những con

đường đẹp đẽ…. Vượt qua cái dáng vẻ bên ngoài, ta thấy được những chân lý,

niềm vui, những ý nghĩa ẩn kín và thiêng liêng của mọi điều trên mặt đất quyến

rũ và kinh khủng này” [6.66].

Biểu tượng theo Từ điển Tiếng Việt “là dấu, là hình ảnh biểu hiện”

[57.91]. Biểu tượng gần gũi với kí hiệu, ẩn dụ, phúng dụ… Nhưng nếu ký

hiệu, ẩn dụ, phúng dụ là những dấu hiệu nhất thời, rời rạc, là những quy ước

đơn giản giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, chỉ có tác dụng biểu nghĩa thì

biểu tượng có sự đồng nhất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt theo nghĩa

một lực năng động tổ chức. Nói cách khác, biểu tượng là những hình ảnh tượng

trưng. Nó là nó, nhưng không phải là nó. Như vậy, biểu tượng là tập hợp vững

chắc của nhiều hình ảnh khác nhau, là kết quả của sự phản ánh hiện thực vào

não con người, là hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng hay là vật thể tượng trưng.

Biểu tượng là yếu tố quan trọng hợp thành các rung động, cảm xúc, phương

tiện có hiệu lực để điều khiển các trạng thái cảm xúc của con người.

Biểu tượng, trong sức dồn nén năng lượng biểu đạt ý nghĩa to lớn của nó,

là nơi cất giữ, tiềm ẩn nhiều giá trị văn hóa nhân loại qua hàng ngàn năm lịch

sử. Giá trị của biểu tượng ngày càng được khẳng định trong nhiều lĩnh vực của

đời sống và văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung có thể xem là lĩnh vực tinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thông khi lựa chọn biểu tượng làm phương thức cấu trúc hình tượng. Với biểu

tượng, văn học mở ra khả năng vô tận trong việc khám phá vũ trụ, tự nhiên, con

người, đặc biệt là chiều sâu vô thức, bản năng.

Biểu tượng không chỉ biểu thị một sự việc, đã hoàn thành, mà còn biểu

thị cái đang phát triển. Nó không chỉ biểu thị mặt bảo thủ, đã hoàn kết mà còn

biểu thị mặt năng động của cuộc sống.

Biểu tượng trong văn học là loại biểu tượng mang tính đa nghĩa và được

tạo dựng bằng ngôn từ nghệ thuật. Nó được xem như là một thủ pháp nghệ

thuật đặc biệt để chuyển tải ý đồ sáng tạo của nhà văn. Theo nhà ngôn ngữ, tâm

phân học Thuỵ Sĩ C.G.Jung thì “Biểu tượng là một từ ngữ, một danh từ hay một

hình ảnh ngay cả khi chúng là quen thuộc trong đời sống hàng ngày vẫn chứa

đựng mối quan hệ liên can, cộng thêm vào đó cái ý nghĩa quy ước và hiển

nhiên của chúng. Trong biểu tượng có bao hàm một điều gì đó mơ hồ, chưa

biết hay bị che dấu đối với chúng ta” [6.29]. Theo nghĩa rộng, tác phẩm văn

học là một biểu tượng, là một ký hiệu thẩm mỹ mà tác giả gửi đến cho người

đọc. Việc giải mã biểu tượng góp phần giúp chúng ta hiểu được những giá trị

riêng biệt mà tác phẩm mang lại. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng trong một tác

phẩm văn học là một“nhân vật” đặc biệt, được hiện diện dưới nhiều hình thức

khác nhau, có thể là con vật, đồ vật, hình ảnh, hình tượng… gọi chung là các

dạng thức biểu hiện ý nghĩa của tác phẩm văn học. Xét ở góc độ này, biểu

tượng là một thủ pháp đặc biệt để tác giả thể hiện ý đồ sáng tạo của mình.

Biểu tượng luôn chứa đựng trong mình những giá trị đã được vĩnh hằng

hóa, là một thực thể sống động, luôn luôn có sự luân chuyển, đắp đổi nghĩa liên

tục. Nó được nuôi dưỡng bằng những lối tư duy, những tưởng tượng phong phú

của con người, có khả năng mở rộng nghĩa theo thời gian. Biểu tượng có rất

nhiều dạng thức khác nhau, như: biểu trưng, biểu hiệu, dấu hiệu... Xác định xu

hướng này, chúng tôi lựa chọn khảo sát các biểu tượng và bước đầu khám phá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ra mạch nghĩa liên tục trong những biểu tượng ấy cũng như sự phát sinh ra

những lớp nghĩa mới. Hy vọng với phương cách như vậy, đề tài có thể khảo sát

biểu tượng với tất cả những hình ảnh mang những nét nghĩa phái sinh, có

những tri thức văn hóa đặc trưng của dân tộc để khai mở.

2.1.2. Biểu tƣợng trong thơ

Biểu tượng văn hóa là những thực thể vật chất hoặc tinh thần (sự vật, hành

động, ý niệm…) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính hình thức

cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp hệ thống đặc trưng cho những nền

văn hóa nhất định: nghi lễ, hành vi, thần linh, … Biểu tượng văn hóa là sự tồn

tại ở bình diện phổ quát các biểu tượng phi trực quan.

Biểu tượng ngôn từ là các biểu tượng nghệ thuật (biến thể loại hình của

biểu tượng văn hóa) cấu tạo lại thông qua tín hiệu ngôn ngữ trong văn học.

Như vậy, có thể thấy mối quan hệ giữa biểu tượng văn hóa và biểu tượng

ngôn từ là mối quan hệ cấp bậc trong quá trình biểu tượng văn hóa đi sâu vào

các lĩnh vực nghệ thuật để ở đó những ý nghĩa biểu tượng tiếp tục được lưu giữ

và phát triển trở nên phong phú hơn. Cũng chính bởi điều này mà có hiện tượng

gọi là sự biến đổi ý nghĩa của biểu tượng. Nghĩa là, dù có nguồn gốc từ các

biểu tượng văn hóa, khi thức hiện chức năng thẩm mĩ trong một tác phẩm văn

học, biểu tượng ngôn từ được cấu tạo lại, tổ chức lại trong mối quan hệ với các

nhân tố của quá trình giao tiếp đặc biệt như một hoạt động sáng tạo. Các nhà

văn, nhà thơ dựa trên những mối quan hệ hoặc bổ sung, hoặc tương phản, hoặc

đẳng cấu để tổ chức các tín hiệu thẩm mĩ hướng tới việc khắc hoạ nổi bật hình

tượng nghệ thuật, cũng từ đó mà thể hiện một lối tư duy nghệ thuật riêng, một

phong cách sáng tạo riêng.

Như vậy, sự thống nhất giữa hai bình diện của một tác phẩm nghệ thuật -

hình tượng nghệ thuật và nghĩa hàm ngôn của nó - có thể hoặc là đương nhiên,

sẽ dẫn đến sự hình thành biểu tượng (hoặc là ẩn kín, hoặc là bộc lộ). Ở mức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

giới hạn của quá trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi yếu tố của hệ thống nghệ thuật

như: ẩn dụ, phúng dụ, tỉ dụ, dụ ngôn, ngụ ngôn, các chi tiết nghệ thuật, hình

tượng nhân vật, ngôn từ, v.v... đều có thể trở thành biểu tượng. Song, quá

trình "biểu tượng hoá" có thực hiện được hay không là còn tuỳ thuộc vào các

điều kiện sau: Độ đậm đặc mang tính khái quát cao trong tác phẩm nghệ thuật;

Ý đồ của tác giả có muốn hướng tới sự "biểu tượng hoá" trong tác phẩm hay không;

Văn cảnh tác phẩm, khi “nghĩa hàm” của các hình tượng tự bộc lộ, không theo

ý định của tác giả (điều này còn bị quy định bởi lôgíc tâm lý của tuyến nhân vật

và sự phát triển về mặt tình huống trong tác phẩm); Văn cảnh văn học - nghệ

thuật được quy định bởi thời đại và văn hoá (tính lịch sử và tính nghệ thuật

trong tác phẩm).

Ngôn ngữ, đặc biệt ngôn ngữ văn học là “kho tàng” bảo lưu những giá trị

văn hóa của một dân tộc. Do đó, nghiên cứu về biểu tượng, không thể không

xem xét trong mối quan hệ với ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thơ ca. Giá trị

thực sự của biểu tượng được xác lập không chỉ ở bình diện văn hóa nói chung

trong đời sống cộng đồng mà còn định hình và biến đổi trong sự điều chỉnh,

tiếp nhận của mỗi cá nhân, mỗi chủ thể.

Thơ ca là nghệ thuật của ngôn từ. Thơ hay không chỉ phụ thuộc vào ý

thơ - những điều nảy ra trong trí óc khi suy nghĩ, không chỉ phụ thuộc vào ngôn

từ, lời chữ vần vè mà quan trọng hơn nó phải được thể hiện qua những hình

tượng có sự tìm tòi sáng tạo mà người ta vẫn thường gọi là biểu tượng. Theo

"Từ điển tu từ - phong cách thi pháp học" của tác giả Nguyễn Thái Hoà thì

"biểu tượng văn học là những biểu tượng trong sáng tạo văn học tức là những

hình ảnh, tín hiệu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học có tính khái quát và phổ

biến đến mức có khả năng gợi ra một hình ảnh khác hoặc một số phẩm chất,

một số đặc trưng khác với đối tượng biểu hiện" [19.28]. Như vậy, biểu tượng

được hình thành với phương thức sử dụng một loại môi vật để môi giới tri giác

cái bất khả tri giác. Với cách thức "một hình ảnh cụ thể mà nói lên một sự gì

trừu xuất hay vắng mặt", biểu tượng có nhiều dạng thức khác nhau: biểu trưng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

biểu hiện, dấu hiệu... Tuy luôn chứa đựng trong mình những giá trị đã được

vĩnh hằng hoá nhưng biểu tượng không trở thành nơi tồn đọng những giá trị cũ

mòn, nơi giam giữ các tầng ý nghĩa trong sự xơ cứng mà nó là một thực thể

sống động luôn luôn có sự luân chuyển, đắp đổi nghĩa liên tục. Biểu tượng

được nuôi dưỡng bằng những lối tư duy, những tưởng tượng phong phú của

con người mà đời sống con người lại không bao giờ bớt phức tạp , cho nên biểu

tượng vì thế cũng không bao giờ đơn giản. Những phức tạp của đời sống dội

vào tâm tư con người những suy tưởng không cùng để rồi từ đó chúng lại được

dồn nén vào hệ thống biểu tượng. Đó chính là con đường tất yếu của đời sống

và cũng là xu hướng tồn tại và phát triển tất yếu của biểu tượng thơ ca.

Biểu tượng thơ ca với tư cách là một phương tiện đặc biệt của nghệ thuật

mang trong bản thân mình những dấu hiệu đặc trưng của thể loại, cho ta thấy cách

thức con người nắm bắt thế giới sự vật, biến nó thành sự phản ánh những khía

cạnh khác nhau của đời sống tinh thần và xúc cảm con người. Bất cứ một biểu

tượng thơ ca nào cũng có những liên hệ nhất định với ý thức thẩm mĩ truyền

thống. Sự chiếm lĩnh thế giới bên ngoài thông qua các biểu tượng như một

phương thức có khả năng đem đến cho nhà thơ chủ quyền bộc lộ tư tưởng và tình

cảm của cá nhân mình, kích thích nhà thơ diễn đạt những nội dung tiềm ẩn trong

tâm hồn mình, và mặt khác như là biểu hiện của quá t vận dụng các yếu tố

nghệ thuật, để không ngừng mở rộng khả năng biểu đạt, sức sáng tạo của nhà thơ.

Trong một bài thơ, có những biểu tượng trong toàn bài nhưng cũng có

những biểu tượng trong từng đoạn thơ, câu thơ. Biểu tượng trong toàn bài là

biểu tượng xuyên suốt cả bài thơ thể hiện tư tưởng, nghệ thuật chủ đề của bài

thơ còn biểu tượng trong từng đoạn thơ, dòng thơ, câu thơ là những biểu tượng

có tính chất cụ thể, diễn đạt một ý thơ trọn vẹn và nhiều khi chúng có thể tách

khỏi bài thơ, tự có số phận riêng của mình. Nếu một bài thơ không có biểu

tượng chung trong toàn bài, không có những biểu tượng nhỏ trong từng đoạn,

tình cảm cảm xúc lại không mãnh liệt thiết tha thì bài thơ đó không chỉ kém

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

phần hương sắc mà còn khó có lý do để tồn tại.

Thi nhân sáng tạo nên những biểu tượng thơ ca để thể hiện tư tưởng và

cảm xúc của mình. Những quan niệm về nhân sinh, thế sự, về thơ ca… và về

chính bản thân cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ đã làm cho mỗi người lựa

chọn cho mình một biểu tượng này hay biểu tượng kia. Biểu tượng được lựa

chọn theo những tiêu chí nhất định, đáp ứng được nhu cầu bộc lộ của nhà thơ

,thỏa măn với tư tưởng chủ đề, hợp với phong cách và phương pháp sáng tác.

biểu tượng mang sắc thái riêng nên từng nhà thơ ngay từ đầu đã có chiều

hướng quyết định cách chọn hình ảnh, tứ thơ. Biểu tượng sông nước đậm đà

với Tế Hanh, biểu tượng trăng hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử, biểu tượng con

đường trong thơ Tố Hữu, biểu tượng người lái tàu trong thơ Sóng Hồng, biểu

tượng chim lượn trong thơ Chế Lan Viên, biểu tượng ngọn đèn trong thơ Chính

Hữu, biểu tượng con nai vàng trong thơ Lưu Trọng Lư… Đối với từng nhà thơ,

biểu tượng thời thơ ấu khá quan trọng và cũng lưu giữ lâu bền trong tâm

: mái nhà, ngọn lửa, em hồn nhà thơ.

sự thương yêu, đùm bé, mẹ già

bọc… ác biểu tượng đó sẽ đi vào thơ. Các nhà thơ

vùng than có nhiều biểu tượng hầm mỏ, xe than, khoan lỗ… Các nhà thơ vùng

biển có nhiều biểu tượng về triều lên, cá thu, cá hồng… Các nhà thơ miền núi

giàu biểu tượng mây trắng, vườn chanh, nắng mưa, gió bão. Các biểu tượng phát

triển phong phú theo cuộc đời con người, theo các chuyến đi, các quá trình quan

sát, theo tuổi đời, theo thời đại. Các biểu tượng in dấu ấn vào thơ để lại các tài

sản chung cho nhân loại về sau.

Ngoài những đặc tính của biểu tượng nói chung, biểu tượng thơ ca còn

mang một số đặc là một dạng mã hóa những cảm xúc, tư tưởng

của người nghệ sĩ về hiện thực đời sống. Mỗi một tác phẩm nghệ thuật là một

hệ thống những tín hiệu thẩm mĩ và biểu tượng nghệ thuật là một tiểu hệ thống,

góp phần tạo nên những điểm sáng thẩm mĩ trong tác phẩm. Trong quá trình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

sáng tạo, người nghệ sĩ, hoặc vô thức, hoặc hữu thức, đã đem vào tác phẩm của

mình những hình ảnh trở đi trở lại, có sức ám ảnh, khơi gợi lớn mà người ta gọi

là biểu tượng. Do đó, biểu tượng cho ta thấy cá tính sáng tạo, phon

, thời đại, khuynh hướng văn học và cả đặc trưng văn hóa của từng dân tộc.

Các biểu tượng không chỉ dừng lại ở những nét nghĩa ổn định trong

truyền thống thơ ca mà nó liên tục được mở rộng, biến đổi và tăng cường các

khả năng biểu hiện mới. Một mặt, thơ tiếp tục sử dụng các phương thức khai

thác biểu tượng nghệ thuật từ trong truyền thống, khơi sâu những kinh nghiệm

mĩ cảm đã được lưu giữ, bồi đắp trong truyền thống thơ ca trước đó, mặt khác,

mỗi nhà thơ đều xuất để sáng t

vận động của biểu tượng. Việc sáng tạo biểu

tượng theo khía cạnh này hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực thụ cảm và nhu cầu

biểu hiện của nhà thơ trước hiện thực đời sống. Điều này có liên quan đến đặc

điểm tư duy nghệ thuật và khuynh hướng thẩm mĩ ở mỗi nhà thơ cụ thể.

2.2. Hệ thống biểu tƣợng trong thơ Triệu Kim Văn

,

.

-

.

2.2.1. B tƣợng Đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

.

Trong đời sống của con người, Đất luôn là một biểu tượng mang ý nghĩa

quan trọng, bởi nó là mẫu số gốc của sự sống. Cũng nằm trong quy luật tinh

thần đó, Triệu Kim Văn có nhiều suy tư về đất, đưa nó vào trong thế giới thơ

của mình như một biểu tượng giàu ý nghĩa.

2.2.1.1. Biểu tượng Đất trong văn hóa học

Đất là một biểu tượng quan trọng trong hệ thống các biểu tượng văn hóa.

Theo các nhà nghiên cứu, đất đối lập với trời một cách tượng trưng như là bản

nguyên thụ động đối lập so với bản nguyên chủ động, tính nữ so với tính nam,

âm so với dương, bóng tối so với ánh sáng, sự cố định tập trung so với sự biến

động hòa tan.

Nói về bản chất cũng như vẻ đẹp và sức mạnh của đất mẹ, Kinh Rig –

Veda đã viết:

Hãy nằm xuống Đất là Mẹ của người

Nơi tọa lạc mênh mông ấy chứa chan ân huệ

Ai biết dâng hiến, với họ Đất êm như len

Cầu Đất canh giữ người khỏi sa ngã vào cõi hư vô

Hỡi Đất Mẹ

Hãy xây cho con người này một mái vòm, đừng đè bẹp

Hãy tiếp nhận, hãy tiếp đón sinh linh này, hỡi Đất

Hãy lấy vạt áo của mình che cho nó

Như mẹ hiền che chở đứa con yêu .

Mọi con người đều sinh ra từ đất, vì đó là gốc, là mẹ, là khởi nguyên.

Đất là nguồn gốc của hiện hữu và sự sống, che chở chống lại mọi sức mạnh hủy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

diệt. Cũng vì vậy, đất còn mang ý nghĩa như sự sản sinh, sức sống và sự tái

sinh. Xét về phương diện tích cực, những đặc tính của đất là sự phản chiếu đức

tính dịu dàng, phục tùng, kiên định, bền bỉ và khiêm nhường.

So với nước (cũng là gốc của vạn vật), người ta thấy sự khác biệt ở chỗ:

nước có trước sự hình thành vũ trụ, còn đất thì sản sinh ra các hình dạng sự

sống; nước là cái khối lượng chưa phân hóa, còn đất là biểu thị của những mầm

mống phân biệt.

Ruộng đất và người đàn bà thường được đồng nhất trong văn học. Nó là

những luống cày gieo hạt, sinh sôi, gặt hái.v.v.. Đối với một dân tộc gắn bó

chặt chẽ với đời sống sản xuất nông nghiệp, đất lại càng trở nên một yếu tố

trung tâm, cốt lõi trong đời sống, một biểu tượng gốc quan trọng trong đời sống

văn hóa tinh thần.

Triệu Kim Văn có nhiều suy tư về

Đất, đưa nó vào trong thế giới thơ của mình như một biểu tượng giàu ý nghĩa.

2.2.1.2. Biểu tượng Đất trong thơ Triệu Kim Văn

Mỗi nhà thơ sinh ra và lớn lên, trưởng thành, gắn bó với mảnh đất quê

hương bản quán của mình. Và vùng đất chôn nhau cắt rốn luôn là cội rễ, là

mạch nguồn cảm hứng trong công cuộc sáng tạo của nhà thơ. Và trong công

cuộc sáng tạo đó, mỗi nhà thơ luôn luôn có một vùng đất, một không gian, một

thế giới của riêng mình. Nhà thơ Triệu Kim Văn cũng đã đi theo quy luật sáng

tạo ấy.

.

iểu tượng gốc:

Sinh trưởng và gắn bó với một vùng quê núi, nhà thơ Triệu Kim Văn bám

chặt vào thế giới của núi đồi. Trong thế giới ấy, đất là một biểu tượng gốc để

Triệu Kim Văn xây dựng nên những tứ thơ đẹp và sâu sắc. Trong thế giới ấy,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tràn ngập các hình ảnh, các hình tượng về đất.

Đất là mẫu gốc tạo thành bản thể, như cách suy tư và giãi bày đầy hình

ảnh của tác giả: “Hạt nghiến gieo nhầm chỗ/ Chưa thấy nên lõi nghiến bao giờ/

….Loay hoay chọn chỗ gieo thơ/ Nhặt đá xếp bờ tra hạt/ Chợt nghĩ/ Hạt nghiến

và câu thơ chắc cần đất như nhau”.(Siu đất)

Chỉ cần “gieo nhầm” và nằm ra ngoài vùng đất thực sự của mình, con

người ta sẽ ngay lập tức bị biến thành một người khác, đánh mất cái bản thể

đích thực duy nhất trong mình. Cũng tương tự như vậy, nhà thơ tách mình ra

khỏi vùng đất, vùng sinh quyển nghệ thuật của mình, thì sẽ đồng nghĩa với việc

đánh mất bản thể thi sĩ của chính mình. Đây là một chiêm nghiệm sâu sắc, có

thể coi như một bài học nhận thức căn cốt nhất trong cuộc đời con người, cũng

như trong hành trình sáng tạo của nhà thơ, người nghệ sĩ.

Suy ngẫm về thân kiếp và số phận con người, nhà thơ nhận thấy mỗi

người con của quê hương cũng như ngọn cỏ trên đất:

Cỏ ăn theo đất

Nên cỏ cứ là cỏ

Muôn đời kiếp cỏ thôi

(Cỏ)

Vậy mới thấy, nếu ta biết sống một cách tự nhiên, thành thực với bản tính

con người mình, thì đó là một niềm hạnh phúc thực sự lớn lao – niềm hạnh phúc

mãi mãi được là chính mình. Đó là cái ý thức về một bản thể tuy bé nhỏ, bình dị,

hồn nhiên nhưng cũng đầy mạnh mẽ, kiêu hãnh của con người miền núi.

Nhà thơ – người con của đất ấy còn nhận ra một điều thật liêng liêng và

bền bỉ vĩnh hằng ở đất: “Suối cứ chảy, đất không thể thiếu suối/ Ngày nối đêm

rung nhịp tiếng đàn/ Nghìn năm suối không thôi dào dạt/ Nghìn năm đất chịu

ân ban”.(Suối)

Giữa mạch chảy của thời gian, của đời sống này, đất như là một biểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tượng của sự sinh sôi, của sự phong nhiêu, của sức sống lâu bền kì diệu.

Mượn những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong đời sống miền núi, nhà

thơ đã có những liên tưởng đầy triết lí thông qua biểu tượng : “Măng vầu

trong lòng đất/ Măng ngọt/ Măng đã trông thấy trời / Măng đắng /Cho hay

/Khi chết người ta về với đ ”.(Đất)

Đây là những suy nghiệm hết sức thấm thía về lẽ đời, về con người. Dù là

từ lúc khởi nguyên sinh ra cho đến lúc quay trở về già con người ta có thể đổi thay

nhiều lắm (để ứng phó hoàn cảnh, để thỏa mãn tham vọng.v.v.) nhưng rồi cuối

cùng vẫn phải giữ lấy cội nguồn. Đất mẹ là điểm xuất phát mà cũng là điểm kết

thúc của chu trình vòng tròn của con người. Mới hay, đất sinh ra ta và đất sẽ nhận

ta về. Và tác giả đã đúc kết những chân lí đó thành quy luật: “ Đọt măng trồi lên

từ lòng đất /Con ve ngoi lên từ lòng đất/ Lòng đất mẹ bao dung/ Cây tre lột giáp

trả về đất/ Con ve lột xác trả lại đất/ Ấy là luật tự nhiên” )

Như vậy, có thể thấy, nhà thơ Triệu Kim Văn đã rất có dụng ý khi xây

dựng biểu tượng Đất trong thơ của mình, thông qua đó tác giả đã truyền tải và

bày tỏ được những suy tư chiêm nghiệm và đúc kết thành những triết lí rất sâu

sắc, cao đẹp, nhân văn về con người, cuộc sống.

Khởi phát từ biểu tượng gốc : Đất, nhà thơ đã xây dựng thế giới hình

tượng nghệ thuật trong thơ của mình một hệ thống các biểu tượng phái sinh.

Những biểu tượng phái sinh thấy

trong thơ Triệu Kim Văn đó là: Núi, Đồi, Cánh đồng.v.v..

hế giới nghệ

thuật thơ Triệu Kim Văn tràn ngập hình ảnh về núi, đồi. Ở đó, núi đồi gắn liền

với cuộc sống con người, núi đồi là bạn, là nhân chứng.v.v.. Nhà thơ luôn vẽ lại

trong thơ mình những đỉnh núi mờ sương, và qua đó gợi nhớ trong ta nỗi niềm

quê hương tha thiết của một người “con của nú tác

giả sinh ra và lớn lên từ núi, sống giữa không gian núi rừng, không gian của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

những “Tháng chín sợi nắng mềm/ Dập dình nhịp chày giã cối”[53.49].

Có lúc, nhà thơ Triệ thơ

với cảm hứng về nhịp điệu của cuộc sống mới, nhưng đọc rồi thấy đậm đặc

chất miền núi ngàn đời, thấy nhớ thương gắn bó tha thiết:

Tôi người núi

Là người ở núi

Đi một vòng lên núi xuống đồng

Thấy ở đâu cũng chật cũng đông

Người với người thích vai sát cánh

Nhưng tôi người núi

Vẫn chỉ thật lòng yêu núi

(Đất nƣớc rộng dài)

Chính vì luôn một nỗi niềm tha thiết khôn nguôi với bản quán cội nguồn,

nhà thơ luôn tự ghi khắc trong tâm khảm của mình một lời hứa. Nó như sự tự

nhắc nhở, tự ý thức, tự thức tỉnh c

. Đó là một sự tự ý thức thật sự đáng quý, đáng trân trọng:

Nếu con quên

Rằng con sinh ra trên núi

Mẹ tắm con trong chậu gỗ

Nước máng hứng từ ruột đá

Ba lần mặt trời mọc đặt tên

Thì con xin không là con của mẹ

Thì con xin không là con của núi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Con của núi)

Những lời hẹn ước ấy được gửi lại với đất mẹ thiêng liêng, khiến người

đọc như vẫn còn cảm nhận được hương sắc núi rừng lan tỏa mênh mang. Đó là

cái lan tỏa mênh mang của hồn người, hồn núi.

Có những khi, hồn núi bay đi mất, người đọc giật mình cùng tác giả bởi

sự mất mát không thể đong đếm được:

Không còn dấu vết núi

Không còn dấu vết rừng

Không còn dấu vết bản

Đến chút hơi chàm cũng không

Tất cả đã là người Hà Nội

Nhưng làm người Hà Nội thế cũng buồn

(Làm ngƣời Hà Nội thế cũng buồn)

Chính vì vậy, dù có vật đổi sao rời, dù có muôn vàn biến động đổi thay

của cuộc sống hay con người, thì tác giả vẫn nguyện tìm về với núi của mình,

coi đó là hạnh phúc đích thực:

Tôi từ núi đi quành xuống bản

Từ bản đi ra phố thị thành

Từ thị thành mà đi ra biển

Rồi lại trở về với núi xanh

(Hạnh phúc)

Suốt một đời trải qua bao phiêu dạt, đổi thay, dù đến chết thì người con

của núi rừng vẫn chỉ nguyện hóa thân vào quê hương xứ sở:

Nếu tôi chết hãy đưa tôi về núi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Để hồn tôi tìm lại chiếc nhau mình

Trong lồng nhỏ mẹ tôi treo bờ suối

Cành cây giờ đã vươn xanh

(Nếu tôi chết)

Khi nhìn cảnh tượng đồi đất dần bị san ủi để xây dựng công trình mới,

nhà thơ xót xa như vừa mất đi cái gì đó

:

Thị xã bụi đủ màu

Vật vã mùa xây dựng

Phố gối lên đồi dốc đứng

Làng chen nhau những mái nhà sàn

(Thị xã đầu nguồn sông)

Trong cuộc sống của những con người miền cao, đồi núi như là nguồn

sống màu mỡ, gắn bó. Đồi núi đem lại cho họ sự sinh sôi, trù phú nên họ cảm

thấy trân trọng, biết ơn khi đón nhận nó:

Mỡ màu ơi đồi núi

Phì nhiêu ơi ruộng đồng

Thấu tình ai miền tủi

Đêm quàng bờ trăng suông

(Cầu mùa)

Bên cạnh biểu tượng đồi núi, nhà thơ Triệu Kim Văn cũng thường hay

xây dựng trong tác phẩm của mình biểu tượng cánh đồng. Với tác giả, đồng

ruộng là nơi quy tụ, hợp quần của người dân, của bản làng:

Đồng ruộng quy tụ về nơi đây

Làng bản hợp quần nơi đây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Rƣợu núi)

Cũng có những lúc, nhà thơ nhìn cánh đồng với tất cả tấm lòng thấu

hiểu. Cánh đồng cũng nhọc nhằn, chắt chiu, qua bao nhiêu gian khó để có được

mùa màng cho con người:

Mây mẩy cánh đồng phì nhiêu

Nhọc nhằn mùa gieo cấy

(Bản ngã Mƣờng)

, chúng tôi nhận

được kết quả về số lần xuất hiện của biểu tượng Đất trong thơ

cho việc tìm hiểu nghiên cứu của

Biểu tượng

luận văn:

Tổng

Tập 1

Tập 2

Tập 3

Tập 4

Tập 5

Tập 6

Tập 7

Tập 8

Tập 9

Tập 10

Đất

5

9

10

4

4

15

3

2

12

5

69

gốc

8

23

19

30

23

33

19

28

42

36

261

phái sinh

Qua thống kê, chúng tôi thu được kết quả rất ấn tượng về tần số xuất

hiện của biểu tượng Đất và các biểu tượng phái sinh của nó. Tổng cộng trong

10 tập thơ, đã có 69 lần tác giả sử dụng biểu tượng Đất theo nghĩa gốc và 261

lần sử dụng biểu tượng Đất theo nghĩa phái sinh của nó. Số lượng lớn và mật

độ cao như vậy là sự khẳng định rõ ràng cho dụng ý nghệ thuật của nhà thơ.

để chứng tỏ tầm quan trọng của biểu tượng này trong thế giới nghệ

thuật thơ Triệu Kim Văn.

So sánh với việc sử dụng biểu tượng đất của một số các nhà thơ dân tộc

thiểu số khác như Mai Liễu, Y Phương…, có thể thấy thơ Triệu Kim Văn có cả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

sự tương đồng và sự khác biệt với họ.

Mai Liễu thương nhớ cội nguồn với những câu thơ đau đáu:

Vẫn nhớ núm nhau mình nơi đồi vắng

Mà khóc cười xa biệt mấy mươi năm

(Đêm nay gió Khau Mòn lại nổi)

Y Phương tha thiết dặn dò con về làng quê, bản quán của mình:

Ơi cái làng của mẹ sinh con

Có ngôi nhà xây bắng đá hộc

Có con đường trâu bò vàng đen đi kìn kịt

Có niềm vui lúa chín tràn trề

Có tình yêu tan thành tiếng thác

Vang lên trời

Vọng xuống đất

Cái tên làng Hiếu Lễ của con

(Tên làng)

Trong khi đó, Triệu Kim Văn nghĩ đến một sức mạnh nội sinh cho cuộc

sống mới đầy sinh lực:

Những ngọn đồi đang thoát tục

Những làng Dao đang cuộc hồi sinh

Bởi những bàn tay không chỉ biết làm hoa nên vải

Còn giỏi chạm vào đất cằn biết nói

Âm thanh của mùi hương là màu sắc cuộc đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Gặp bên đèo)

Điểm tương đồng ở đây là các tác giả đều sử dụng biểu tượng để

hướng đến các giá trị văn hóa quê hương, vùng miền. Sự khác biệt là ở chỗ,

trong khi các nhà thơ dân tộc thiểu số khác chủ yếu dùng biểu tượng để

hàm chỉ ý nghĩa cội nguồn, thì Triệu Kim Văn còn sử dụng nó để hàm chỉ về sự

sinh sôi, phát triển. Đấy cũng là nét mới, nét riêng của Triệu Kim Văn.

2.2.2. Biểu tƣợng Nƣớc

Nước là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng đối với đời sống. Nó

có sự gắn bó chặt chẽ, sâu sắc trong mọi phương diện đời sống của con người.

Thơ Triệu Kim Văn như một dòng chảy dào dạt mà trong đó biểu tượng nước

là một trong những mạch chảy trung tâm.

:

2.2.2.

Nước giữ vai trò quan trọng trong đời sống của cư dân nông nghiệp và

rất gắn bó với cuộc sống của người dân Việt Nam. Nước trở thành một biểu

tượng văn hóa, trở thành mẫu gốc trong tư duy và trong sáng tạo văn hóa nghệ

thuật của người Việt Nam.

Nước trong tiềm thức con người có ý nghĩa rất quan trọng. “Những ý

nghĩa tượng trưng của nước có thể quy về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống,

phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh. Ba chủ đề này thường gặp trong

những tiểu thuyết cổ xưa nhất và hình thành những tổ hợp hình tượng đa dạng

nhất và đồng thời cũng chặt chẽ nhất” [6.709].

Nước là nguồn gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là

biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính tinh khiết, tính hiền minh,

tính khoan dung và đức hạnh. “Nước còn là nguồn gốc và phương tiện chuyển

tải sự sống, là hình tượng của hơi thở sự sống” [17.710]. Nước được coi là biểu

tượng phổ biến về sự phì nhiêu và khả năng sinh sản dồi dào.

Nước còn trở thành biểu tượng của đời sống tinh thần mà Thánh thần,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Chúa trời ban cho loài người. Nước của sự sống được coi là một biểu tượng về

nguồn gốc vũ trụ. Nước làm cho thanh khiết, chữa khỏi bệnh, làm trẻ lại vì vậy

đưa con người vào cõi vĩnh hằng. Bản thân nước có tính năng làm sạch và cũng

vì lý do đó, được coi là thiêng liêng. Vì thế, nước được dùng trong các nghi lễ

tắm gội, nước có hiệu lực xóa bỏ mọi lỗi lầm và mọi vết nhơ. Ngoài ra, nước

tượng trưng cho sự sống: nước hồi sinh mà con người tìm được trong cõi tối

tăm, có tính năng làm sống lại. Kinh veda ngợi ca:

Hỡi những Dòng nước hồi sức cho đời

Hãy mang lại cho chúng tôi sức mạnh

Sự cao cả, niềm vui, cảnh mộng

Hỡi những Dòng nước, nữ chúa của những điều kỳ diệu

Là những vị nữ nhiếp chính của mọi giống nòi

Hỡi những Dòng nước

Hãy ban cho phương thuốc đầy đủ tính năng vẹn toàn

Để trở thành một tấm áo giáp bảo vệ con người tôi

Và nhờ đó tôi được nhìn lâu dài ánh sáng mặt trời

Hỡi những Dòng nước, xin hãy cuốn đi

Cái tội lỗi này, dù lớn hay nhỏ, mà tôi đã phạm

Cái điều không hay mà tôi đã gây ra cho ai đó

Câu thề nguyện dối trá mà tôi đã thốt ra.

Người Việt là những cư dân nông nghiệp, lấy ruộng đất và nghề nông làm

bản vị. Do đó, dân tộc ta thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp và mang

đậm đà đặc trưng của loại hình văn hóa này. Nước là một quyền năng, một giá

trị. Nước là nguồn sống tự nhiên quan trọng bậc nhất của loài người. Chính vì

thế mà những dòng sông lớn trên thế giới luôn luôn là khởi nguyên của các nền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

văn minh lớn. Đối với người Việt Nam, những con người quen nếp sống dựa

vào thiên nhiên, nước càng trở nên thiêng liêng bởi nước là sự sống. Sự sùng

bái nước là một hành vi mang tính cộng đồng và đã ăn sâu vào tâm thức cộng

đồng. Nước mặc nhiên trở thành một biểu tượng mang tính giá trị, mang một

quyền năng, một sức mạnh đặc biệt đối với đời sống con người. Từ một góc độ

khác, biểu tượng Nước lại được thiêng liêng hóa, trở thành một mạch nguồn

linh diệu của tình cảm. Trong thẳm sâu tâm thức mỗi con người, nước là nguồn

cội, nước là những gì thanh khiết, trong sáng. Nước cũng được quan niệm là số

phận, là định mệnh. Đặc tính về sự trôi chảy liên tục của nước khiến người ta

thường liên tưởng đến dòng đời, đến số phận của con người.

2.2.2.2. Biểu tượng Nước trong thơ Triệu Kim Văn

Thấm thía sâu sắc ý nghĩa của nước với đời sống con người, hòa mình và

gắn bó với những mạch nguồn giá trị của quê hương, Triệu Kim Văn đã xây

dựng rất thành công biểu tượng nước bằng một hệ thống các hình ảnh, chi tiết

giàu ý nghĩa biểu trưng.

iểu tượng gốc:

Với cuộc sống người Dao, nước là yếu tố gắn chặt với sinh tồn. Nước là

khởi thủy cho mọi sự sống, là nguồn mạch cho mọi cảm hứng. Nước được bắt

đầu hình thành một cách thật tự nhiên:

Miệng nước

Nước từ lòng đất chảy ra

Nước từ lòng đá chảy ra

Thăng hoa nguồn diệu vợi

(Pác Nặm)

Trong tâm thức của tác giả, nước là điều gì đó

, với người Dao thì nước không đơn thuần là một yếu tố trong sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

hoạt đời sống, mà nó được coi như một biểu tượng, một ước lệ của tình người:

Ơn trời nước vẫn nước non

Còn câu lục bát sắt son cùng người

(Lục bát cùng ngƣời)

Có thể thấy, nước là khởi nguồn sinh sôi bất tận cho sự sống, là sự quy tụ

tích trữ những mạch ngầm văn hóa, là dòng chảy đồng hành cùng sự chảy trôi

của thời gian, đồng hành cùng cuộc sống con người. Khi thì nước tràn ngập sức

sống:

Con suối nhỏ nước vẫn reo trong vắt

Đôi cây cộng sinh trùm bóng một vùng

(Tháng 5 Nà Pậu)

Khi thì nước gắn với tục lệ và sinh hoạt đời sống con người:

Nếp nhà trầm tư hoang tưởng bên khe

Những máng nước bao nhiêu đoạn nối

Đêm đêm tiếng tắc kè vẫn gọi

Nước măng nước măng cho cậu lên nhà

(Giữa ngày xƣa)

Như vậy, có thể thấy thơ Triệu Kim Văn trong những mạch

nguồn văn hóa dân tộc để xây dựng nên một hệ thống hình ảnh tràn ngập sắc

thái văn hóa miền núi. Trong đó, nước là một biểu tượng sống động của những

mã văn hóa như vậy.

Từ biểu tượng gốc, thơ Triệu Kim Văn tiếp tục mở rộng biên độ bằng hệ

thống các biểu tượng phái sinh của Nước như là sông suối, sương, mây.v.v..

Với mỗi vùng đất, mỗi miền quê, sông là văn hóa quê hương xứ sở. Nó như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

mạch nguồn để từ đó thi sĩ chắt chiu, góp thành bản sắc văn hóa quê hương

hôm nay. Triệu Kim Văn cũng là một người con đang chắt chiu trong mạch

nguồn những điều như thế.

cuộc sống nhọc nhằn của con người trên miền cao quanh năm suốt đời chỉ

biết bó :

Hạt kê nấu cháo mẹ con cùng húp

Một đời không vượt nổi suối khe

(Quả kê còn lại)

Nhưng người ta không bao giờ “vượt suối khe” bởi sông suối là mạch

nguồn cuộc sống, đã chắt chiu từng giọt chảy mà thành:

Có một dòng sông bắt nguồn từ Phja Bjoóc

Nơi ngàn năm núi ngủ trong mây

Mỗi giọt chảy đều được cây chiu chắt

Để thành sông nguồn suối gom đầy

(Có một dòng sông)

Từ chỗ gắn với đời sống sinh hoạt, nước trở nên thân thuộc trong đời

sống tinh thần của người vùng núi. Có lúc, nhà thơ nhìn dòng suối d

. Bởi vậy, thật tự nhiên, nhà thơ ví suối như mái tóc

sơn nữ tuổi mười lăm:

Những dòng suối nào đây

Những nguồn nước nào đây

Gội mềm từng sợi tóc

Uốn nên vuông nên góc

Mái tóc tuổi mười lăm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Núm tóc Mùi Pham)

Có lúc, dòng sông như một bến neo đậu của tình cảm con người. Nó là

nơi người ta tìm về, sẻ chia. Dòng sông trở thành chứng nhân, trở thành người

bạn thân thiết, tin cậy để có thể san sẻ những nỗi niềm trong cuộc sống của con

người. Nó trở thành một bến đậu bình yên của tâm hồn bao người miền núi:

Ở bên sông sâu có một ngôi nhà

Ngôi nhà dưới lùm cây yên ắng

(Ngôi nhà cửa đóng)

Cũng có lúc, biểu tượng Nước còn được biến thể vào trong mây núi

sương mờ. Trước hết, sương núi gắn liền với cái không khí bồng bềnh trầm

mặc hư ảo và ngọt ngào muôn đời của miền núi:

Đi trong bồng bềnh sương

Trong cái lạnh rét tê núi đá

(Lội bộ cùng Cao Sơn)

Và tất nhiên, không thể thiếu, sương cũng còn gắn với những vẻ đẹp,

những niềm vui của con ngưuời nơi đây. Nó chứng kiến và hòa tan vào niềm

vui của những điệu hát, những sợi thêu, những duyên tình đằm thắm:

Chỉ thấy má hồng môi thắm

Trai tài gái sắc chen đua

Chỉ nghe câu sli câu lượn

Trong sương trong nắng ban trưa

(Chợ tình Xuân Dƣơng)

, chúng tôi khảo sát thống kê được

số lần mà biểu tượng Nước xuất hiện trong các tập thơ của Triệu Kim Văn, từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đó có được cơ sở để làm rõ hơn các luận điểm:

Tổng

Biểu tượng Nước

Tập 1

Tập 2

Tập 3

Tập 4

Tập 5

Tập 6

Tập 7

Tập 8

Tập 9

4

7

7

3

7

12

4

2

3

gốc

Tập 10 7

56

13

16

30

13

24

28

12

5

44

39

224

phái sinh

Thống kê cho thấy, có đến 56 lần tác giả sử dụng biểu tượng Nước theo

nghĩa gốc và 224 lần sử dụng các biểu tượng phái sinh của nó. Đây là một con

số cho thấy mật độ dày đặc của hệ thống những biểu tượng này trong thơ Triệu

Kim Văn. Điều này khẳng định một lần nữa về sự gắn bó máu thịt, sự ám ảnh

lâu bền của những cội nguồn văn hóa dân tộc trong tư duy nghệ thuật thơ Triệu

Kim Văn.

So sánh với cách sử dụng biểu tượng nước của một số các nhà thơ các

dân tộc thiểu số khác như Mai Liễu, Pờ Sảo Mìn, Dương Thuấn.v.v.., thì thơ

của Triệu Kim Văn có sự khác biệt nhất định.

Với Mai Liễu, sông suối là quê hương, là nguồn cội, là nơi cuối cùng

tìm về sau bao nhiêu nếm trải đắng cay của số phận con người:

Anh vẫn gặp dòng sông trong xanh

Như buổi chiều xưa rì rào kỉ niệm

Em lặng nhìn dòng sông cuộn chảy

Và khe khẽ hát... khúc hát êm đềm

(Có một dòng sông xanh)

Với Triệu Kim Văn, sông suối là những đang gắn bó, đang hiện hữu

trong đời sống thường ngày:

Một đời ta vui cùng suối mát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Một đời ta không bước nổi qua

Ơi suối nguồn mênh mông và khoáng đạt

Bạc tóc đầu suối vẫn quấn ta

(Suối)

Dương Thuấn tự hào về làng quê tràn đầy sức sống c mình:

Bản tôi nhiều ruộng bậc thang

Bản tôi bên bờ sông Năng ầm ào

(Anh vẽ bản tôi nhé)

Pờ Sảo Mìn mang trong mình sự mạnh mẽ, phong trần nắng gió của một

người con trai miền núi:

Dân tộc chỉ có hai ngàn người

Biết gọi gió gọi mưa gọi nắng

Chắn suối ngăn sông nước ngược dòng

Ngô lúa cười vui tận chân trời đó

Rượu uống quanh năm nước vẫn chảy về

(Cây hai ngàn lá)

Trong khi đó, Triệu Kim Văn bồng bềnh, huyền ảo:

Cõi xưa trong kí ức

Hiển hiện màu rêu phong

Bản nhỏ miền sơn cước

Bồng bềnh chiều sương buông

(Cõi xƣa)

Trong khi một số nhà thơ các dân tộc thiểu số khác thường dùng biểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tượng nước để tạo ra một sắc thái tươi vui, mạnh mẽ, khỏe khoắn, thì biểu

tượng nước trong thơ Triệu Kim Văn thường mang sắc thái nghĩa chậm buồn,

trầm tư, mềm mại.

2.2.3. Biểu tƣợng Lửa

Với văn học nói chung và thơ ca nói riêng, lửa luôn là một biểu tượng

hữu dụng để thể hiện sức sống, sức mạnh, sự linh thiêng và nhiều ý nghĩa cao

cả của con người.v.v.. Điều này cũng đã được thể hiện một cách sâu sắc và ấn

tượng trong thơ Triệu Kim Văn.

,

.

Theo tổng hợp nghiên cứu của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant

trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, biểu tượng Lửa được giải thích với

nhiều ý nghĩa.

Lửa với ý nghĩa bản thể: Ý nghĩa bản thể lửa trong văn hóa nhân loại được

tri nhận và lí giải tương đối phong phú. Theo giáo thuyết Hindu, những dạng

lửa của thế giới trần gian là: lửa thông thường, lửa sấm sét và mặt trời. Ngoài ra

còn có hai dạng lửa khác: lửa xuyên thấu (hoặc lửa hấp thụ) và lửa hủy diệt.

Lửa với ý nghĩa thần thánh: Ý nghĩa siêu nhiên của lửa trải rộng từ những

linh hồn lang thang (ma trơi, đèn lồng) đến anh linh thần thánh. Nhiều nền văn

hóa trên thế giới coi lửa là một vị thần có sức mạnh siêu nhiên, là vị thần sống

và tư duy.

Lửa với ý nghĩa tẩy uế và tái sinh: Ý nghĩa tẩy uế của biểu tượng lửa

thường gắn liền với sự tái sinh. Theo một số truyền thuyết, chúa Ki tô (và các

thánh) tái sinh cơ thể bằng cách đi qua lò lửa của xưởng rèn. Những người theo

Đạo giáo bước vào lửa để tự giải phóng khỏi thân phận mà con người phải chịu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

đựng. Họ bước vào lửa mà không bị thiêu cháy.

Lửa với ý nghĩa hủy diệt: Ý nghĩa hủy diệt của biểu tượng lửa thể hiện ở

chỗ nó làm tối và chết ngạt bởi khói; nó đốt cháy, tàn phá, thiêu hủy; nó là lửa

của những dục vọng, của sự trừng phạt, của chiến tranh. Và theo đó, lửa trong

tay ma quỷ, trở thành công cụ của quỷ.

Lửa với ý nghĩa giác ngộ: Lửa bên trong, lửa là tri thức xuyên suốt, là sự

giác ngộ, là sự hủy bỏ cái vỏ bọc ngoài. Lửa mặt đất tượng trưng cho trí khôn,

nghĩa là ý thức, với tất cả tính hai chiều đối nghịch của nó; ngọn lửa bốc lên

trời thể hiện khí thế hướng tới sự thăng hoa tinh thần; ngọn lửa chao đảo biểu

thị trí khôn, tinh thần sao nhãng.

Lửa với ý nghĩa phương tiện vận chuyển: Một số nghi lễ hỏa táng có nguồn

gốc ở sự chấp nhận lửa như là một phương tiện vận chuyển, hay là sứ giả, từ thế

giới người sống sang thế giới người chết. Trong nghi lễ tang ma của nhiều dân

tộc trên thế giới, người ta đặt phần thức ăn dành cho người chết vào đống lửa

trên đầu quan tài, ngọn lửa có nhiệm vụ chuyển đồ cúng đó cho người chết.

Như bao con người tồn tại ở các vùng miền khác nhau trên trái đất này,

con người Việt Nam cũng được hưởng nhiều ân huệ từ lửa. Người ta sống nhờ

lửa (lửa làm chín thức ăn, lửa xua đi cái giá lạnh, lửa bảo vệ con người trước

thú dữ …). Người ta yêu bằng lửa - lửa tình, tình yêu quê hương đất nước, tình

yêu trai gái. Và khi chết, con người ta cũng không thể thiếu lửa. Nhiều người

Việt Nam sống cả đời chỉ chăm chút sao cho sau này chết đi có người hương

khói. Trong phong tục tổ chức lễ tang của người Việt chúng ta thấy không thể

không có lửa (lửa của nhang khói, lửa của đèn nến). Sự hiện diện của người

thân yêu đã khuất trong mỗi mái ấm gia đình là bàn thờ. Những người còn sống

thể hiện sự tưởng nhớ người đã khuất bằng việc thắp hương, không để “hương

tàn khói lạnh”…Như thế, còn lửa là còn sự sống, còn tình yêu, khi đã “tắt lửa

lòng” cũng là khi người ta đã tuyệt tình cạn nghĩa. Người ta thắp lửa là muốn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thắp lên sự sống, và tất nhiên người thắp lửa bao giờ cũng rất được trân trọng.

Cũng như nhiều dân tộc trên thế giới, người Việt Nam có tục thờ thần

lửa (biểu hiện củavăn hóa sùng bái lửa). Nói cách khác, lửa là thần thánh, là

lực lượng siêu nhiên. Rất nhiều các dân tộc ở Việt Nam có tục thờ thần lửa mặc

dù cách thức và mức độ thể hiện có khác nhau. Có những dân tộc thờ lửa quanh

năm nhưng không có lễ cúng dành riêng cho thần lửa vào dịp tết, trong khi một

số dân tộc khác thì lễ tết luôn gắn liền với nghi thức thờ thần lửa. Trong đời

sống tâm linh người Việt, lửa còn có ý nghĩa như là cầu nối, là phương tiện

vận chuyển từ thế giới người sống sang thế giới người chết. Điều này được thể

hiện rất rõ nét trong nghi thức dâng hương (thắp hương, đốt hương) của người

Việt. Người Việt tin rằng nén hương khi đốt lên (có lửa) như một nhịp cầu vô

hình nối kết hai thế giới hữu hình và vô hình với nhau. Ngày giỗ, ngày tết, bàn

thờ không thể không có lửa đèn, khói nhang. Chỉ khi thắp lửa đèn, khi dâng

hương, người Việt mới khấn vái, cầu mong gia tiên phù hộ độ trì, thành kính

mời ông bà, ông vải về ăn cỗ cúng và tin rằng tấm lòng thành kính của người

thắp hương sẽ quyện theo làn khói thơm hướng về cõi thiêng liêng.

Cũng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Việt, lửa còn có sức

mạnh xua đuổi tà khí - lửa tẩy uế. Ý nghĩa này thể hiện trong những phong tục

như đốt vía, xua đuổi tà ma, ám khí. Người đi chợ gặp người mà họ cho là có

vía xấu, họ châm lửa đốt giấy hoặc rơm rạ để “vía lành ở lại, vía dữ bay đi”.

Người mới chuyển đến nơi ở mới thường đốt một đống lửa to trong nhà để xua

đuổi không khí lạnh lẽo cũng là tạo hơi ấm, khơi thắp lên sức sống mới cho

ngôi nhà.

Lửa đã được người tiền sử phát hiện ra cách đây nhiều nghìn năm. Sự phát

hiện ra lửa và sử dụng lửa cho mục đích của cuộc sống được coi là một bước

tiến quan trọng trong văn minh của loài người. Nhờ có lửa, con người dần biết

ăn chín, uống sôi, biết dùng lửa để sưởi ấm, xua côn trùng, thú dữ… Cũng nhờ

có lửa, con người biết đốt nóng kim loại để rèn, đúc dụng cụ, tăng năng suất lao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

động, phục vụ nhu cầu cuộc sống. Có thể nói: lửa có mặt trong mọi hoạt động

của cuộc sống con người và trở thành một biểu tượng trong đời sống tinh thần

của người dân. Nói đến lửa, người ta nghĩ đến ánh sáng, hơi ấm và sức nóng, sự

đốt cháy…

Chưa phải là tất cả, nhưng những trường hợp dẫn ra ở trên phần nào cho

thấy: biểu tượng lửa trong đời sống văn hóa Việt vừa mang những ý nghĩa

chung của một biểu tượng trong văn hóa nhân loại vừa có những nét ý nghĩa in

đậm dấu ấn riêng của đời sống văn hóa dân tộc.

Triệu Kim Văn có nhiều suy tư về

, đưa nó vào trong thế giới thơ của mình như một biểu tượng giàu ý nghĩa.

Cùng với hai biểu tượng đất và nước, thì biểu tượng lửa đã làm nên thêm

một chiều kích độc đáo ấn tượng trong thơ Triệu Kim Văn. Đó có khi là ngọn

lửa của tình yêu, có khi còn là ngọn lửa của trí tuệ, nồng đượm và trầm nghị.

..Những đặc tính này cũng hòa quyện và hun đúc nên hồn thơ Triệu Kim Văn.

.

Với một người sinh trưởng và gắn bó với quê núi như nhà thơ Triệu Kim

Văn, lửa luôn là một thành tố đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần. Lửa có

thể được coi như sự sống trong tim, như nhiệt huyết và khát vọng cháy bỏng mãnh

liệt của con người. Nếu một ngày để tắt đi ngọn lửa đam mê nhiệt huyết cháy

bỏng ấy, trái tim và tâm hồn con người sẽ nguội lạnh và buồn chán biết bao:

Củi tôi hái từ con tim

Cánh rừng con tim rộng dài không đo được

Lửa cháy hết rồi tôi ngồi khóc

Nhớ chàng mồ côi kiếm củi đổi hạt kê.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Thơ củi)

Lửa là sức mạnh sưởi ấm, che chở và bảo vệ con người qua những khắc

nghiệt của

:

Đêm đông núi

Cùng ngồi co bên lửa

Mắt nhíu vào không muốn mở

Miệng dính vào không muốn mở

(Đêm đông sơn cƣớc)

Có lúc, lửa là nơi hội tụ, tìm về. Cái ấm áp, ấm cúng của bếp lửa là một

không gian lí tưởng để những đôi trai gái trẻ hẹn hò, chờ đợi. Lửa sẽ hun đúc

và thôi thúc tình cảm con người, sẽ chứng kiến và se duyên cho tình yêu đôi

lứa. Những lúc như vậy, lửa thật hiền hòa bao dung và nồng nàn:

Mùa thu bản làng thư thả

Đỏ hồng bếp lửa chờ nhau

(Vị rừng)

Có khi, lửa ghi lại dấu tích của những năm tháng thơ trẻ vụng dại mà trong

sáng, đáng yêu. Có cái gì bỏng rát tâm can khi nhớ về những kí ức xa xưa đó:

Chẳng biết năm đó chim có về quấy phá

Bọn trẻ chỉ thích nhặt bánh vùi lửa

Những mẩu bánh phồng phồng

Bám đầy tro than

(Bánh hoa chim sẻ)

Nhiều khi, với người miền núi, lửa không còn là ngọn lửa thực, mà nó là

lửa trong lòng, trong mắt, trong tim. Nhìn vào mắt nhau, người ta nhận ra tất cả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tình cảm chân thành mà mãnh liệt nhất:

Gần nhau

Gần nhau gần nhau

Bốn mắt soi vào có lửa

(Vô đề)

Chính vì vậy, khi ngọn lửa được nhóm lên bập bùng thì cũng chính là lúc

mà trái tim con người cất lên lời yêu thương: “Em nhóm lửa/Lửa chảy trên hai

má/Lửa bập bùng /Tim nói lời yêu đương.”(Khắc nghiệt)

Rõ ràng, đã trở thành một hình tượng nên thế

giới tinh thần của Triệu Kim Văn. Lửa như nguồn tỏa ra ánh sáng, phát ra

nhiệt, và bởi vậy, lửa như là biểu tượng của nguồn sáng, nguồn ấm trong thơ

ông. Biểu tượng trong thơ Triệu Kim Văn cũng có ý nghĩa là sự sống, thắp

lên lửa là thắp lên sự sống, thắp lên tình yêu, thắp lên niềm tin, sự lạc quan vào

tương lai tương sáng.

Bắt đầu từ biểu tượng gốc là , nhà thơ đã triển khai thành một hệ thống

các hình tượng mang ý nghĩa như là các biểu tượng phái sinh của , như là

bếp, sấm sét, mặt trời.v.v..

Lửa là biểu trưng của tình cảm vợ chồng, tình yêu nam-nữ. Lửa trở thành

biểu tượng ngôn từ, lửa cũng được dùng nhiều với ý nghĩa biểu thị cho những

sắc thái, cung bậc khác nhau của tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng. Vì vậy,

khi không còn giữ được hạnh phúc gia đình, bếp lửa kia sao lẻ loi nguội lạnh

như sự cô đơn của lòng người: “ Thế là còn một mình tôi/Lui cui một bếp một

nồi /Mớ rau con tôm cái cá/Một mâm bát lẻ đũa đôi.”

(Thế là)

Có lúc, lửa lặn mình hóa thân vào trong những sấm sét.

:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Sét đánh

Tạo thành cháy

Con người nhanh nhạy

Bắt chước

Lấy hai hòn đá đập vào nhau

(Lửa)

Có lúc, lửa ẩn mình hóa thân vào hình tượng mặt trời. Trong thơ Triệu

Kim Văn, mặt trời là nguồn sáng, là hi vọng, là ước mơ, là ý hướng tương lai:

Trong tình ruột thịt anh em

Tình người với người

Dưới nắng mặt trời và những ánh sao đêm

(Những khoảng trống)

hống kê về số lần mà biểu tượng

Lửa xuất hiện trong các tập thơ của Triệu Kim Văn, coi như một căn cứ để

khẳng định rõ hơn các luận điểm:

Tổng

Tập 1

Tập 2

Tập 3

Tập 4

Tập 5

Tập 6

Tập 7

Tập 8

Tập 9

Tập 10

Biểu tượng Lửa

2

7

3

6

7

15

7

5

10

4

gốc

66

4

6

7

4

7

4

5

6

9

5

57

phái sinh

có tới 66 lần (biểu tượng gốc) và 57 lần (biểu tượng phái sinh) xuất

hiện . Mỗi lần xuất hiện, biểu tượng lửa luôn mang một vị trí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

trung tâm của tứ thơ, từ đó lan tỏa nhiều tầng lớp ý nghĩa sâu sắc.

Các biểu tượng luôn có ý nghĩa làm phát lộ những bí ẩn của vô thức, của

hành động, khai mở trí tuệ về cái chưa biết và cái vô tận. Sự phân tích ban đầu

và chưa thật đầy đủ về biểu tượng Lửa ở hai cấp độ biểu tượng văn hóa và biểu

tượng ngôn từ (ngôn ngữ thơ ca), hi vọng phần nào đã làm “phát lộ” những ý

nghĩa phong phú và sâu sắc của biểu tượng Lửa trong tâm thức, thế giới tinh

thần, thế giới nghệ thuật thơ Triệu Kim Văn.

So sánh với một số nhà thơ các dân tộc thiểu số về việc sử dụng biểu tượng

lửa, có thể thấy thơ Triệu Kim Văn có nét tương đồng. Họ giống nhau ở chỗ

đều gắn biểu tượng lửa với cuộc sống, với thân phận con người.

Bên cạnh đó, cũng có sự khác biệt nhất định.

Đối với Y Phương, lửa là một biểu tượng của sức sống bừng bừng:

Khúc củi hừng hực cháy

Còn gang nữa đến trời

(Ngƣời đẹp)

Mai Liễu cũng rất mãnh liệt với những hình ảnh về lửa:

Hoa chuối cháy bên đồi

Tình ai còn ngút lửa

(Sông Cầu)

Triệu Kim Văn, thật đơn giản và bình dị, lửa trở thành hơi ấm của tình

người nồng thắm:

Tiếp bạn ta đưa về với núi

Mang mang con gió của đại ngàn

Chỉ không khói lửa bên sàn ấm

Em ngồi ửng má vót cơm lam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Đêm Hà Vị)

Như vậy, trong khi một số nhà thơ các dân tộc thiểu số khác thường dùng

biểu tượng lửa với một sắc thái nghĩa mạnh mẽ, dữ dội, nóng gắt, thì trong thơ

Triệu Kim Văn lửa lại thường mang sắc thái nghĩa hiền hòa, nồng ấm, thắm

đượm tình cảm. Đây cũng là một đặc trưng độc đáo, thể hiện cá tính sáng tạo

của Triệu Kim Văn.

* *

*

Một phương tiện nghệ thuật quan trọng để thể hiện tư duy nghệ thuật của

nhà thơ là hệ thống biểu tượng mà tác giả xây dựng và sử dụng. Nó là một mã

nghệ thuật ẩn chứa những cảm quan của nhà thơ về con người, về cuộc sống.

Nhà thơ Triệu Kim Văn đã xây dựng thành công trong thơ mình một hệ thống

các biểu tượng giàu ý nghĩa. Hệ thống biểu tượng trong thơ Triệu Kim Văn

phong phú, sinh động, đẫm màu sắc miền núi và phong vị văn hóa dân tộc Dao.

Trong một hệ thống phong phú sinh động đó, nhà thơ đặc biệt quan tâm và xây

dựng nổi bật một số biểu tượng trung tâm như Đất, Nước, Lửa, cùng những biểu

tượng phái sinh của nó.

56

: s

.

Điều này đã đem lại cho thơ Triệu Kim Văn một bản sắc độc đáo, một cảm quan

giàu nội lực văn hóa. Việc giải mã được hệ thống biểu tượng này không chỉ có ý

nghĩa tích cực khi tiếp cận thơ ca Triệu Kim Văn nói riêng mà còn góp phần hiệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

quả trong việc khám phá nhận diện văn hóa Dao nói chung.

Chƣơng 3

GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ TRIỆU KIM VĂN

3.1. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn

3.1.1. Khái quát về giọng điệu nghệ thuật

3.1.1.1. Giọng điệu nghệ thuật

Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Nhà văn là nhà sáng tạo ngôn từ.

Nó được cá thể hóa đến mức trở thành quy luật ngữ pháp riêng, giọng điệu

riêng của từng người chứ không chỉ tuân theo quy luật pháp ngữ chung của

ngôn ngữ. F.Saussure, nhà ngôn ngữ học vĩ đại đã chỉ rõ rằng, mỗi từ mỗi chữ

chỉ có nghĩa nhất định khi được đặt trong một câu. Đối với văn chương, người

đọc không phải chỉ để hiểu mà để cảm, nghĩa là nhận lấy toàn bộ những gì nhà

văn gửi gắm đằng sau những hàng chữ, vượt ra khỏi nghĩa của từng từ, từng

chữ. Đối với văn chương, nếu chỉ bám vào những ký hiệu trực tiếp, chỉ là cuộc

tìm kiếm vô bổ trong nghĩa địa của ngôn từ. Do đó giọng điệu văn chương,

cũng xuất phát từ ngôn ngữ, song nó có nghĩa rộng hơn nhiều, nó bao hàm cả

ngữ cảnh, thái độ, quan niệm, cách ứng xử... và cá thể hóa đến mức trở thành

tài sản riêng của một sinh thể tư duy, như giọng điệu riêng của người ấy trong

cuộc đời.

Việc tạo ra giọng điệu nghệ thuật riêng là nỗ lực không ngừng của mỗi

nhà văn. Giọng điệu ấy được cụ thể hóa qua ngôn từ, lời văn, ngữ điệu và các

thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm để bộc lộ “thái độ, tình cảm, lập trường, tư

tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả” nhằm thiết lập các

mối quan hệ “thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”. Tổng

hòa các sắc thái giọng điệu trong một tác phẩm, người đọc sẽ có cơ sở quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

trọng để đánh giá phong cách, sắc thái tình cảm của người viết [16.140].

Trong nghệ thuật, khái niệm giọng điệu được định nghĩa là: “Thái độ,

tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được

miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu

tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm

biếm” [16.134]. Đồng thời, “giọng điệu còn phản ánh lập trường xã hội, thái

độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo

nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một

giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ

tài liệu và sắp xếp trong hệ thống nhân vật” [16.135]. Theo tinh thần định

nghĩa này, giọng điệu thuộc về chủ thể sáng tạo thẩm mỹ. Với loại hình trữ tình

(tập trung vào thơ) thì đó là giọng của nhà thơ, của chủ thể trữ tình, bộc lộ

trong thế giới nghệ thuật.

Về vai trò của giọng trong sáng tạo văn chương, nhà nghiên cứu Lê Ngọc

Trà cắt nghĩa rõ ràng, thuyết phục: “Giọng vừa liên kết các yếu tố hình thức

khác nhau, làm cho chúng cùng mang một âm hưởng nào đó, cùng có chung

một khuynh hướng nhất định, vừa là chỗ dựa chính để các yếu tố của tác phẩm

quy tụ lại và định hình, thống nhất với nhau theo một kiểu nào đó, trong chỉnh

thể giọng ấy, mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, đầy chất thơ hơn, thậm chí có khi mới

mẻ hơn” [44.152].

Như vậy, qua những nghiên cứu của các nhà lí luận, chúng ta có thể thấy

một số vấn đề cơ bản về giọng điệu nghệ thuật: Thứ nhất, giọng điệu nghệ thuật

thể hiện sắc thái tình cảm, lập trường, thái độ của nghệ sĩ đối với cuộc sống,

cho nên nó sẽ rất phong phú đa dạng. Nó không chỉ là vấn đề thuộc về phong

cách nghệ thuật mà còn là yếu tố quan trọng tạo thành tư tưởng, nội dung tác

phẩm; Thứ hai, giọng điệu là một yếu tố thuộc về nghệ thuật, nó chi phối đến

các bình diện hình thức, được bộc lộ qua các dấu hiệu hình thức, cho nên nó có

vai trò rất quan trọng đêm lại tính sáng tạo, phong cách riêng của nghệ sĩ qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tác phẩm của mình.

3.1.1.2. Giọng điệu thơ

Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường

giọng điệu nhất định, trong phạm vi của thái độ cảm xúc nhất định đối với đối

tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó.

Thực tế cho thấy, giọng điệu là một thành tố không thể thiếu được trong

việc xây dựng và triển khai tư tưởng, xúc cảm của nhà thơ. Ở một phương diện

khác, giọng điệu chịu áp lực của thể loại. Chính điểm mấu chốt có tính đặc

trưng này khiến giọng điệu trữ tình khác hẳn giọng điệu văn xuôi tự sự. Thơ trữ

tình chủ yếu được nói đến như một bản tự thuật tâm trạng cả chủ thể và khách

thể gần gũi nhau đến mức trong đa số trường hợp xem như hòa lẫn cùng nhau.

Trong các bài thơ trữ tình nhập vai, nhân vật có mối quan tâm riêng, có cảnh

ngộ và đời sống riêng. Việc đẩy nhân vật trữ tình ra khỏi tầm kiểm soát thông

thường của nhà thơ đã biến nhân vật có khi trở thành đối tượng nhận thức của

chính tác giả. Dù vậy, nhìn vào mối quan hệ ngầm ẩn bên trong, người đọc có

thể nhận ra nhân tố tự thuật tâm trạng và nhân tố nhập vai. Hai nhân tố này

khiến nhà thơ trở thành một sự thống nhất trong hai con người. Chính trên cái

nền thống nhất có tính bản chất này mà thơ trữ tình trực tiếp bộc lộ giọng điệu

tác giả, được chảy trong một trường nhìn, một kênh giọng chỉ đạo. Vì thế,

giọng điệu trữ tình là sự tương hợp nội tại giữa ý thức có tính độc thoại và sự

lựa chọn thể loại phù hợp.

Nhìn chung, giọng điệu thơ trữ tình chủ yếu được bộc lộ qua những đặc

điểm chính: Một là, do thể hiện trực tiếp, trực diện quan niệm, thái độ lập

trường của nghệ sĩ mà giọng điệu thơ mang tính chủ quan; Hai là, nếu văn xuôi

có ý thức khám phá đời sống ở tầng đáy của nó, phân tích một cách minh bạch,

kỹ lưỡng các hiện tượng thì thơ lại là những mảng tâm trạng điển hình, những

nhát cắt của dòng cảm xúc mãnh liệt cho nên giọng điệu tác phẩm thường trùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

khít, tương hợp với ý đồ tác giả. Ba là, mặc dù là phạm trù thuộc về nội dung

nhưng giọng điệu bao giờ cũng chi phối đến các phương diện hình thức, được

bộc lộ qua những tín hiệu có tính hình thức. Trong thực tiễn nghệ thuật, giọng

điệu không hiện ra chắp vá, rời rạc mà được toát ra từ những mao mạch nhỏ bé,

li ti của tác phẩm. Việc biểu hiện nó còn nhờ cậy vào cách xây dựng nhịp điệu

và khả năng điều phối các kỹ thuật sử dụng hình ảnh, gieo vần, dùng từ. .. tạo

thành mối quan hệ bên trong, góp phần làm nên sự thống nhất cơ bản của tác

phẩm.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các thể loại qua từng chặng đường

thơ, chúng ta thấy rằng giọng điệu trong thơ cũng trở nên phong phú và đa

dạng hơn nhiều. Mạch đập cuộc sống, xúc cảm nhà thơ, cấu tứ, thể loại và cuối

cùng là giọng điệu, đó là kết quả của quá trình khởi nguồn, bắt nhịp và thể hiện.

Quá trình ấy ngày dần hướng đến "sự đồng thuận", "tương ứng". Vì vậy mà

nhịp thở của cuộc sống với nhiều cung bậc, sắc thái... vốn vô cùng khác nhau

có cơ hội được "hiện hữu" trong thơ. Cũng chính vì vậy mà sức hấp dẫn của thơ

vẫn mãi "trinh nguyên", vẫn mãi "không cùng". Ngày nay, bên cạnh các thể thơ

truyền thống, thơ tự do đặc biệt nở rộ, giọng điệu trong thơ càng đa dạng hơn,

gần âm hưởng đời thường hơn. Suy cho cùng, giọng điệu trong thơ trữ tình là

sự tương hợp nội tại, giữa ý thức có tính độc lập và sự lựa chọn thể loại phù

hợp. Vì vậy, cũng như sự phát triển của thơ, giọng điệu trong thơ là "tự thân"

và "tự nhiên". Trong tác phẩm không có giọng điệu thì không có những rung

động, sâu sắc, không thể hiện những nỗi đau thương, nỗi xót xa của tác giả

trước thân phận con người, không thể chia sẻ với con người niềm vui và tình

yêu cuộc sống. Chính vì vậy, phân tác phẩm thơ trữ tình là phân tích giọng điệu

của chủ thể trữ tình (nhân vật trữ tình), bởi giọng điệu bộc lộ chủ thể một cách

trung thực, cho phép ta nhận ra nét riêng, sự độc đáo của nghệ sĩ. Nói một cách

khác, giọng điệu là một yếu tố tạo nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ.

Phân biệt Giọng điệu với Ngữ điệu: ngữ điệu thuộc phạm vi câu (ngữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

điệu cảm thán, ngữ điệu hỏi, ngữ điệu cầu khiến, ngữ điệu mệnh lệnh, ngữ điệu

liệt kế,…) thì giọng điệu lại phụ thuộc vào cấu trúc tác phẩm, khuynh hướng

nghệ thuật của tác giả và của thời đại. Ngữ điệu góp phần biểu lộ giọng điệu.

Phân biệt Giọng điệu với Nhịp điệu: Nhịp điệu là sự lặp lại có tính chất

chu kì cách quãng hoặc luận phiên của điểm dừng trong dòng thơ. Nhịp điệu là

sức mạnh cơ bản, năng lượng cơ bản của câu thơ. Những nhịp điệu chỉ là

phương tiện bộc lộ giọng điệu. Nhịp điệu làm cho mỗi thành tố can dự trực tiếp

với hệ thống giọng điệu chỉnh thể. Vậy, nhịp điệu chịu sự

điệu được bộc lộ qua nhịp điệu và ngữ điệu của câu thơ.

Phân biệt Giọng điệu với Nhạc điệu: Nhạc điệu thơ được tổ chức nhờ

yếu tố ngắt nhịp, gieo vần, phối thanh. Thơ được tạo nên từ sự phân vân kéo

dài giữa âm thanh và ý nghĩa. Như vậy nhạc điệu chịu sự chi phối của giọng

điệu.

3.1.2. Đặc điểm giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn

Là một biểu hiện trong nghệ thuật phi vật thể (văn chương, âm nhạc), sự

hình thành giọng điệu của nhà văn tất phải chịu sự tác động, chi phối của không

gian văn hóa (gia đình, quê hương, nhà trường, tập quán vùng miền...), và sự

chi phối của thời đại (trong thơ có âm hưởng thời đại, có sắc điệu, dấu ấn một

thời kì lịch sử). Vì vậy, có thể thấy rằng, “mỗi thời đại nhìn chung có một giọng

điệu riêng, thể hiện cách thức chiếm lĩnh hiện thực và lí giải hiện thực riêng.

Gắn với điều này là quan niệm nghệ thuật của thời ấy” [10]. Xuất phát từ cái

nhìn đó, có thể thấy rằng, giọng điệu nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn tất

yếu sẽ mang những dấu ấn của sự chi phối từ không gian văn hóa vùng miền,

qua đó thể hiện nhận thức và tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ. Khảo sát cụ thể

qua các tập thơ của Triệu Kim Văn, chúng tôi nhận thấy một số giọng điệu cơ

bản nổi bật đã được tác giả tập trung bộc lộ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

3.1.2.1. Giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm

Có một âm sắc mới lạ và độc đáo trong thơ Triệu Kim Văn, đó chính là

giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm. Giọng điệu này được nhà thơ khéo léo đan

cài vào những đề tài thật bình dị, những cảm xúc thật tự nhiên, khiến người đọc

không thể dễ dãi dừng lại bề ngoài câu chữ mà phải đồng cảm và đồng sáng tạo

cùng tác giả để tìm đến những suy tư triết lí ẩn ở bề sâu ý nghĩa. Đó là những

triết lí chiêm nghiệm về sự vận động đổi thay đầy phức tạp của cuộc sống, về

tình người và lòng người, về lẽ đời, lẽ sống.v.v..

Sau những chiêm nghiệm đúc kết, tác giả nhận thấy tất cả những “tròn

vuông” cay đắng ngọt ngào phức tạp ở đời này cũng chỉ là điều hết sức bình

thường. Chỉ cần nâng niu chắt lọc trong đó những điều chân thành, mộc mạc thì

coi như ta đã tìm được chất thơ của đời:

Buồn chong một thẻ hương trời

Nông sâu bẻ léo ngộ lời tri ân

Tròn vuông cái sự đường trần

Bòng bong nhặt chắp đôi vần bòng bong

(Cảm ơn ngƣời cho thơ)

Sau bao nhiêu “loay hoay” trăn trở, lựa chọn, trải nghiệm, nhà thơ nhận ra

một chân lí thật giản dị mà sâu sắc về lẽ sống và viết. Thì ra, sống cũng như viết,

quan trọng nhất phải là dựa vào, bám vào “mảnh đất” thực sự của chính mình.

Cội nguồn, bản thể chính là cái quyết định cho đời sống cũng như đời viết:

Loay hoay chọn chỗ gieo thơ

Nhặt đá xếp bờ tra hạt

Chợt nghĩ

Hạt nghiến và câu thơ chắc cần đất như nhau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Siu đất)

Càng trải qua nhiều thử thách bão dông của số phận, càng đi qua những

thăng trầm của được mất hơn thua vui buồn khổ hạnh trong đời sống, nhà thơ lại

càng thấy trân trọng những gì mình có, mình nhận được. Nó là một sự tri ân của

một người con luôn tin yêu và biết ơn cuộc đời, tin yêu và biết ơn Mẹ Cuộc Sống:

Tôi đã nhận rất nhiều từ cuộc sống

Để được làm người sáng mắt hôm nay

Nên cũng nợ suốt đời không thể trả

Những nghĩa ân trên thế gian này

Nên đừng gọi tôi là gì khác

Tôi chỉ là tôi giữa mọi người

Cho dù ngày mai tôi phải thác

Cũng là hạnh phúc cuộc đời ơi

(Hạnh phúc)

Là một con người sống kĩ lưỡng, tinh tường trong quan sát và sâu sắc

trong suy nghĩ, Triệu Kim Văn đã nhận thấy nỗi đau đớn và mất mát của con

người sau chiến tranh, có những chia sẻ cảm thông. Nỗi đau và mất mát ấy

ngay giữa cuộc sống hòa bình sẽ mãi còn ghim vào tâm trí mọi người một lời

nhắc nhở đầy ám ảnh: “Người đi hình chấm phảy/Vẫn đi trong cuộc đời/Đi

ngang qua nắng cháy/Đi ngang qua mưa rơi…./Chiến tranh đã lùi xa/Vết

thương giờ đã lành/Duy chỉ lời mảnh đạn/ Vẫn nhắc nhở không thôi/ Những

dấu chấm phảy rơi!”

(Ngƣời đi hình chấm phảy)

Có khi, những chuyện tưởng thật đơn giản giữa đời thường cũng giúp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

cho nhà thơ ngộ ra những điều sâu sắc của cuộc sống con người. Càng sâu sắc,

trải đời, giọng điệu của nhà thơ lại càng trở nên nhẹ nhàng, huyền ảo:“Đã một

năm thấy ruồi mắt trái/ Biết phù vân bớt ngắn chút trần gian/Đã bảy năm lẻ

ngày người xa ngái/ Biết tóc phai ăn chặn nỗi bình an/ Đã hăm hai ngày làm

ông ngoại/Biết trường đời cũng tựa cung đàn.” t)

Khi đã bước vào những năm tháng tuổi tác “tri thiên mệnh”, nhà thơ

chiêm nghiệm lại cuộc đời mình và có những suy tư về đời người, về số phận.

Tác giả giật mình mà kính sợ trước định mệnh. Đó là cái kính sợ của một con

người trải đời, hiểu đời sâu sắc:

Tới những năm tháng cuối cuộc đời

Ta cũng giật lùi

Vin mong manh sợi dây định mệnh

(Đi giật lùi)

“Thơ Triệu Kim Văn tạo nên những ấn tượng mạnh bởi sự triết lí và

những liên tưởng thông minh từ một tâm hồn trong sáng, hồn hậu và giàu suy

tư” [46.371]. Bằng những suy tư chiêm nghiệm và triết lí vừa bình dị tự nhiên

lại vừa sắc sảo và ý nghĩa, Triệu Kim Văn đã làm nên một giọng điệu rất độc

đáo, rất ấn tượng cho riêng mình. Đây cũng là yếu tố quan trọng mà tác giả đã

đóng góp cho thơ ca dân tộc Dao của mình, đưa thơ Dao vượt qua chất suy cảm

để dần chuyển sang suy tưởng, suy lí.

Là một nhà thơ dân tộc thiểu số (Tày) cùng thời với Triệu Kim Văn, nhà

thơ Mai Liễu cũng có nhiều triết lí chiêm nghiệm. Tuy nhiên, giọng điệu của

mỗi nhà thơ lại có sự khác biệt.

u Mai Liễu nghĩ về bài học của mẹ và cũng là bài học

:

Quả ớt cay ăn được cả vỏ

Quả chuối ngọt bóc vỏ bỏ đi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

)

: “

.”

)

Nhìn chung, giọng triết lí chiêm nghiệm của thơ Mai Liễu day dứt hơn,

giằng xé hơn, trong khi đó thì thơ Triệu Kim Văn góc cạnh

hơn. Đó cũng là cái tôi riêng, cách nhìn riêng của mỗi nhà thơ.

3.1.2.2. Giọng điệu trữ tình, hoài niệm

Triệu Kim Văn sinh ra và lớn lên cùng núi rừng, cho nên cuộc sống của

con người nơi đây luôn là một sự gắn bó máu thịt với nhà thơ. Dù khó nói

thành lời, khó gọi thành tên, nhưng nỗi nhớ đó lúc nào cũng như một lớp kí ức

phủ sương:

Anh lần về theo lối cỏ

Người vừa bỏ rẫy rời nương

Nẻo lòng gió cài cỏ rối

Nghiêng nghiêng ngõ núi mờ sương

(Ngõ núi mờ sƣơng)

Cuộc sống quê núi ấy gắn bó với con người nhà thơ đến mức cả đời ông

luôn tha thiết một ước nguyện được về với đất mẹ quê hương bản làng. Ở đấy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

không chỉ có núi cao rừng thẳm, suối sâu non ngàn mà còn có nhịp dao, nhịp

búa của cha ông, có bảng văn trên bàn tổ, có cái thanh thản ung dung của chốn

non cao:

Nếu tôi chết hãy đưa tôi về núi

Với cha ông lại cầm búa cầm dao

Bàn tổ chỉ có bảng văn làm báu

Sống một mình thanh thản chốn non cao

(Nếu tôi chết)

Không chỉ hoài niệm về quê hương bản quán, nhà thơ còn đau đáu trong

mình những kỉ niệm, những kí ức đong đầy yêu thương. Khi đã luống tuổi về

già, con người giàu tình cảm ấy lại càng thấy nôn nao luyến tiếc về một thời trẻ

trung say đắm:

Bỗng bóng chiều hai núi ngả sang nhau

Và trong cơn mưa ngâu

Chợt rực lên quầng hoàng hôn đỏ

(Hoàng hôn đỏ)

Trong dòng hoài niệm miên man bất tận ấy, có những khi nhà thơ thảng

thốt giật mình ngẫm nghĩ về thời gian, về đời người. Càng trải qua nhiều âu lo

khó nhọc cuộc sống, người ta càng cảm nhận sâu sắc hơn về một thời thơ trẻ

dại dột mà trong trẻo:

Trót dại ném cả thời hoa

Chợt may ngước mắt mình va phải mình

(Trót dại)

Có thể thấy, thơ Triệu Kim Văn tràn ngập những hoài niệm được bộc lộ

qua một giọng điệu mềm mại, ấm áp, sâu lắng trữ tình. Giọng điệu này cũng đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

thể hiện chân thật cái tôi chủ quan của một nhà thơ

nhiều suy tư, luyến t

y. Đó là sự hoài niệm dành cho cội nguồn văn hóa xứ sở, cho tuổi

thơ nhiều kỉ niệm vui buồn, cho tuổi trẻ và tình yêu chan chứa, cho những giá trị

văn hóa trong cuộc sống con người miền núi đã dần mai một, vời xa.

Cũng là nỗi hoài niệm, nhưng do hoàn cảnh riêng, điều kiện sống khác

nhau, cá tính sáng tạo khác nhau, cho nên mỗi nhà thơ lại mang trong mình một

tâm tư xúc cảm riêng.

Thơ Mai Liễu là “nỗi hoài niệm sâu sắc về quê hương và cội nguồn của

một người ly hương mà lòng vẫn đau đáu một nỗi niềm về nơi chôn rau cắt rốn

của mình” [46.219]:

Xuống lưng đèo là nhìn thấy bản

Thấy ruộng bậc thang hắt nắng lên trời

Có lẽ nào nghe suối rừng mà khóc

Thì cúi xin. TA ngả mũ chào đèo

(Về quê)

Thơ Triệu Kim Văn là nỗi lòng hoài niệm của một người đang nhớ tiếc,

đang hụt hẫng và kiếm tìm những mất mát ngay chính trong không gian sống

của mình:

Phố gối lên đầu dốc đứng

Làng chen những mái nhà sàn

(Thị xã đầu nguồn sông)

Người con của núi rừng ấy có một sự xót xa hoài vọng:

Những ngọn đồi xưa

Đã lùi vào quá khứ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Phố núi hôm nay)

Pờ Sảo Mìn hoài niệm về quê hương và cuộc sống con người dân tộc

mình với sự tin tưởng, lòng biết ơn, niềm yêu quý tự hào trân trọng:

Mẹ sinh ra tôi trên đỉnh đá tai mèo

Uống nước nguồn trong veo

Con trai người Pa Dí

Mắt một mí, tóc đen, mũi tẹt, da vàng

Dáng có vẻ ngang tàng như quẫy đạp trần gian

(Con trai ngƣời Pa Dí)

Triệu Kim Văn hoài niệm với nhiều nỗi suy tư, âu lo, nuối tiếc thiết tha:

Nếu con quên

Rằng con sinh ra trên núi

Mẹ tắm con trong chậu gỗ

Nước máng hứng từ ruột đá

Ba lần mặt trời mọc đặt tên

Thì con xin không là con của mẹ

(Con của núi)

Rõ ràng, thơ Triệu Kim Văn dù vẫn mang nét chung cơ bản của một hồn

thơ dân tộc thiểu số, nhưng luôn có được những nét riêng cho mình. Nét riêng đó

cũng chính là sự thể hiện con người tác giả một cách chân thật và sâu sắc nhất.

3.1.2.3. Giọng điệu ngợi ca, ngưỡng mộ

Sinh trưởng và gắn bó trọn đời với quê núi, hơn ai hết, Triệu Kim Văn

luôn mang trong mình một tình yêu sâu đậm với làng bản. Nó đem lại niềm tự

hào, niềm vui khi được ngắm nhìn và hòa mình vào không khí, cuộc sống của

núi của rừng. Nó khiến người con yêu quê ấy phải tha thiết cất lên những lời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

ngợi ca ngưỡng mộ.

Đây là vẻ đẹp bình yên ấm cúng mà chỉ những ai yêu bản làng thực sự

mới phát hiện được những giây phút đáng quý như thế. Chỉ là những lũng núi

nhấp nhô nhà sàn, là dòng suối mát trong, là cánh đồng mẩy hạt, là vụ mùa gieo

cấy nhọc nhằn, bao đời nay thân thuộc đến bình dị nhưng nó là cuộc sống, là

con người nơi miền rừng:

Lũng núi nhấp nhô mái sàn

Nguồn suối trong trẻo mát lành

Mơn mơn phù sa dịu ngọt

Mây mẩy cánh đồng phì nhiêu

Nhọc nhằn mùa gieo cấy

(Bản ngã mƣờng)

Hiểu được những ấm no hạnh phúc to lớn và ánh sáng lí tưởng quý giá

mà Đảng, Bác Hồ đem lại cho núi rừng, cho người Dao, Triệu Kim Văn luôn

ghi khắc và trân trọng, ngợi ca công ơn ấy:

Từ thuở xa xưa đất nước này

Bao lần cờ nghĩa đã tung bay

Sớm nay đời vẫn say sưa thế

Cả một rừng cờ rợp bóng mây

(Cờ)

Tình yêu thành kính đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc được nhà thơ

diễn tả chân thành và sâu nặng:

Con suối nhỏ nước vẫn reo trong vắt

Đôi cây cộng sinh trùm bóng một vùng

Con tưởng Bác vừa buông cần, chải tóc

Ý thơ chợt đến rưng rưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Tháng 5 Nà Pậu)

Yêu núi rừng và cỏ cây như chính sự sống trong mình, nhà thơ luôn hòa

mình vào thiên nhiên trời đất đẻ tận hưởng những điều kì thú mà tạo hóa như

ban tặng riêng cho những con người trên núi:

Trời ủ men trên núi

Ủ suốt cả mùa đông

Một sớm đem ra cất

Rượu chảy tràn núi sông

(Men xuân)

Có khi đơn giản nhưng vô cùng ấn tượng, đó là những sản vật mà núi

rừng ban tặng cho con người. Đó là tài sản qúy giá mà chỉ con người quê núi

mới may mắn được đón nhận, thưởng thức. Ẩn bên trong những sản vật ấy là

nếp ăn nếp ở, là lề thói sinh hoạt, là cuộc sống con người miền núi:

Trộn người xuôi người ngược

Măng vầu mới nẻ đất

Mật ong đựng quả bầu

Nấm, măng bán từng xâu

(Thị xã đầu nguồn sông)

Vẻ đẹp của những lễ hội không chỉ ở cỏ cây hay tiết trời, mà quan trọng

là trong mỗi câu hát, mỗi ánh mắt của trai tài gái sắc. Lễ tục đầy màu sắc văn

hóa của bản làng luôn có một sức hấp dẫn đặc biệt, như một thứ men nồng để

lòng người ngây ngất thăng hoa:

Chỉ thấy má hồng môi thắm

Trai tài gái sắc chen đua

Chỉ nghe câu sli câu lượn

Trong sương trong nắng ban trưa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Chợ tình Xuân Dƣơng)

Và hơn hết, hơn tất cả những vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng, vẫn luôn

là vẻ đẹp của con người. Con người làm chủ núi rừng, con người sống cùng núi

rừng, và con người làm cho núi rừng bừng sáng lung linh sắc màu cuộc sống:

Sóc đi nhặt quả rơi

Chúng tôi trồng ngô lúa

Lưng núi ruộng không có

Thì đào ruộng bậc thang

Những bông lúa trĩu vàng

Đẹp như là tấm thảm

(Bản núi)

Thấu hiểu và gắn bó với cuộc sống, với con người nơi làng bản, nhà thơ

không khỏi tự hào , để từ đó cất lên những lời thơ ngợi ca đầy ngưỡng mộ.

Điều đó càng thể hiện một tình yêu tự nguyện tự giác và sâu đậm của tác giả

với Đất Mẹ, với núi rừng quê hương.

3.1.2.4. Giọng điệu mỉa mai châm biếm nhẹ nhàng

Triệu Kim Văn là nhà thơ luôn sắc sảo, sâu sắc trong suy nghĩ, nhìn nhận

các vấn đề. Chính vì vậy, ông thường có cái nhìn phản biện, không chỉ là đối

với cuộc sống mà còn là đối với chính mình.

Trước hết, thơ Triệu Kim Văn mang tiếng cười tự trào dành cho chính

mình. Tự nhìn lại mình, nhà thơ đau đớn nhận ra bao nhiêu thay đổi, bao nhiêu giả

dối tầm thường, bao nhiêu thói hư tật xấu từ bao giờ nhiễm vào không hay, đến

mức bản thân gần như trở thành một con người khác. Không có nhiều người khi

làm thơ lại dám dũng cảm đối diện cật vấn và phản tỉnh mình như thế:

Soi vào gương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Mình thấy mình lạ lạ quen quen

Mình có phải mình giả nhiều thật ít

Ở đâu ra cái thằng hành khất

Lạ mà quen ta còn còn nữa là ta

(Soi gƣơng)

Từ ý thức phản tỉnh đối với bản thân, nhà thơ nhìn rộng ra cuộc sống để

đưa ra những phản biện, cảnh tỉnh vô cùng chân thực, dũng cảm và cần thiết.

Bên cạnh đó, thơ Triệu Kim Văn còn có tiếng cười buồn dành cho sự vật

hiện tượng, những con người đáng phê phán trong cuộc sống. Chuyện cháu con

ra thành phố sống tưởng như là chuyện vui mừng của sự phương trưởng phát

triển thành đạt, nhưng nhà thơ ngậm ngùi nhận ra trong đó những nỗi niềm

không dễ nói thành lời. Bao nhiêu những lề thói, những phong tục, những nét

đẹp văn hóa giờ đây như biến mất, thay vào đó là những sự đổi thay, những

tiện nghi, những xu thế mới. Tất cả vẫn không thể nào che lấp được sự buồn

thương nuối tiếc của cả một thế hệ: “Những bà mẹ ở núi/ Mới ra phố với

con/Gặp bà nào cũng thế/Có đôi mắt buồn buồn/ Buồn vì nỗi chẳng quen/Nhà

tầng với nhà ống/Nói mà không thật giọng/ Lại cả tiếng Tây, Tàu”.

(Những bà mẹ núi)

Bởi lẽ, cuộc sống hôm nay dường như không có chỗ cho những không

gian văn hóa sắc màu mà chỉ xám một màu công nghiệp hiện đại, không có chỗ

cho cái tự nhiên phóng khoáng của sông suối núi rừng mà chỉ ngột ngạt những

sự đua chen đến chóng mặt:

Những khu phố hai dãy nhà ống cùng đối mặt

Con đường nhỏ uốn lượn sâu hun hút

Nhà không được nhích ra thì nhô cao cái chóp

Để tỏ ra hơn nhau

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Phố núi hôm nay)

Cũng có lúc, nhà thơ buồn lòng trước những thói tật của con người

hôm nay, những sự lai căng mai một, và châm biếm một cách nhẹ nhàng,

trách nhiệm:

Nên chi bây giờ người đẹp

Phô phang cho thịt da cười

(Ngày xƣa không có thế)

Thơ Triệu Kim Văn không đao to búa lớn và gay gắt dữ dội mà trầm

ngâm, dù mỉa mai nhưng vẫn đượm buồn. Có thể thấy, giọng điệu mỉa mai

châm biếm nhẹ nhàng của Triệu Kim Văn đã đem lại cho thơ ông một cung bậc

riêng rất ấn tượng. Giữa nhiều tiếng nói, thì tiếng nói phản tỉnh – phản biện quả

thật là vô cùng hữu ích, cần thiết, không chỉ cho bản thân tác giả, mà còn là cho

người đọc nói chung.

Qua khảo sát thơ Triệu Kim Văn, có thể thấy nhà thơ đã tạo nên trong

thơ mình một sự phong phú đa dạng linh hoạt trong giọng điệu. Giữa sự phong

phú đa dạng linh hoạt ấy, Triệu Kim Văn vẫn tìm ra cho thơ mình một giọng

điệu chủ đạo – đó là giọng điệu triết lí chiêm nghiệm. Đây là giọng điệu trung

tâm, nổi bật, giữa sự bổ trợ và phối thuộc của các giọng điệu như trữ tình hoài

niệm, ngợi ca ngưỡng mộ và mỉa mai châm biếm.

Nếu so sánh với một tác giả dân tộc thiểu số cùng thế hệ với Triệu Kim

Văn là nhà thơ Mai Liễu, chúng ta sẽ nhận thấy sự khác biệt rất rõ trong giọng

điệu. Nếu như thơ Mai Liễu thấm đẫm giọng điệu hoài niệm (về quê hương,

quá khứ, tình yêu, .v.v..) thì thơ Triệu Kim Văn nổi bật ở giọng điệu triết lí

chiêm nghiệm (về con người, về lẽ đời.v.v..). Nó là minh chứng thuyết phục

cho nguyên tắc chủ quan trong sáng tạo thơ ca. Con người của nhà thơ như thế

nào, thơ sẽ bộc lộ ra một cách chân thực, sâu sắc và rõ nét con người ấy. Việc

tác giả tạo được ra giọng điệu riêng như vừa nói chính là biểu hiện của không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

chỉ tài năng, bản lĩnh mà còn là phong cách nghệ thuật của nhà thơ.

3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn

3.2.1. Khái quát về ngôn ngữ nghệ thuật

3.2.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật

Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn

chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ

của con người. Nó là thứ ngôn ngữ đã được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh

luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật - thẩm mĩ.

Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ và mỗi nhà văn lớn đều là những

nghệ sĩ bậc thầy về tiếng nói. Khác với ngôn ngữ không có tính nghệ thuật, chỉ

nhằm mục đích chủ yếu là thông tin, truyền đạt một điều gì đó chính xác, nội

dung được giới hạn chặt chẽ, ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng tìm cách truyền

các quan điểm của nghệ sĩ vào đối tượng được miêu tả, truyền vào đấy một lối

nhìn sự vật, cách nhận thức và cảm quan về thế giới của nhà văn, nói cách

khác là ngôn ngữ mang dấu ấn của cá tính và phong cách nghệ sĩ.

Thứ nhất: Ngôn ngữ nghệ thuật phải chính xác, tinh luyện và hàm súc.

Tính chính xác là yêu cầu đầu tiên của việc sử dụng ngôn ngữ văn học. Viết

văn phải dùng từ chính xác mới tái hiện và tái tạo đúng sự vật hiện tượng, miêu

tả đúng cảnh vật, khắc hoạ đúng hình dáng, cá tính, tâm lí nhân vật. Qua đó

nghệ sĩ bộc lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ và cả tài năng của mình nữa. Không

chỉ vậy, ngôn từ trong tác phẩm văn chương còn phải cô đọng, phải “nén chặt”

ý nén tối đa trong lời làm cho mỗi từ có sức nặng, có độ thừa và có nhiều lượng

ngữ nghĩa. Tính hàm súc và đa nghĩa do phương thức chuyển nghĩa của ngôn

ngữ nhờ vào các biện pháp tu từ.

Thứ hai: Ngôn ngữ nghệ thuật phải mang tính hình tượng. Ngôn ngữ chia

làm hai loại: Ngôn ngữ nhận thức và ngôn ngữ gợi hình gợi cảm. Ngôn ngữ gợi

hình gợi cảm là ngôn ngữ hình tượng. Nhà văn phản ánh hiện thực và thế giới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

nội tâm bằng tư duy hình tượng và luận lí nên mượn ngôn ngữ hình tượng để

xây dựng hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Hình tượng không trừu tượng

mà mang tính cảm tính cụ thể. Tính hình tượng gắn với tính đa nghĩa, tính hàm

súc, tính chính xác và tính biểu cảm của ngôn ngữ văn học. Hình ảnh tác động

sâu sắc đến tình cảm người đọc, tạo ấn tượng sinh động về sự vật được phản

ánh, qua đó thấy được tình cảm và thái độ của tác giả.

Thứ ba: Ngôn ngữ nghệ thuật phải có tính biểu cảm. Tính biểu cảm của

ngôn ngữ văn học gắn liền với chức năng biểu hiện cảm xúc của văn học.Văn

xuỗi đặc biệt là thơ ca góp phần bộc lộ tình cảm của người viết và rộng ra là

tình cảm của cuộc đời chung. Nghệ thuật nói bằng một thứ tiếng nói duy nhất

đó là ngôn ngữ của chính thế giới bên trong, ngôn ngữ của cảm xúc và biểu

cảm. Tính biểu cảm biểu hiện qua tác phẩm bằng hình tượng bao quát và ngay

trong những từ ngữ cụ thể. Tính biểu cảm biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác

nhau như gián tiếp, trực tiếp, có hình ảnh hoặc chỉ là ngôn ngữ thuần tuý. Tuy

vậy, tính biểu cảm bộc lộ rõ nhất ấy là khi tác giả muốn nhấn mạnh cảm xúc

nội tâm.

3.2.1.2. Ngôn ngữ thơ

Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quí, tinh vi của sáng tạo văn học

nghệ thuật. Vì vậy, ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật; ngôn ngữ

thơ trước hết mang đầy đủ những thuộc tính của ngôn ngữ văn học, đó là: tính

chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình, tính biểu cảm... Tuy

nhiên, ở mỗi loại tác phẩm khác nhau, những đặc điểm ấy lại biểu hiện dưới

những sắc thái và mức độ khác nhau. Đồng thời, mỗi loại tác phẩm lại có

những đặc trưng ngôn ngữ riêng....

Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc,

phong phú của ngôn ngữ, vừa giàu hình ảnh, sắc màu (tính họa) vừa giàu nhạc

điệu (tính nhạc). Các đặc điểm trên hòa quyện với nhau tạo nên hình tượng thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

lung linh, đa nghĩa.

Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ giàu hình ảnh, sắc màu. Hình ảnh thơ bao giờ

cũng là sự kết tinh của việc sử dụng ngôn ngữ. Vì thế hình ảnh thơ luôn có ý

nghĩa trong việc tạo hiệu ứng nghệ thuật, góp phần khẳng định sự hiện hữu của

thơ. Hình ảnh thơ không phải là tổng số của nhiều hình ảnh mà chính sự chọn

lọc những hình ảnh có giá trị biểu cảm, có tính hàm súc, tạo hiệu ứng nghệ

thuật cao, mới thể hiện tư tưởng, tinh thần lập ngôn và cá tính sáng tạo của

người nghệ sĩ.

Ngôn ngữ thơ luôn giàu tính nhạc: Có thể xem tính nhạc là nét đặc thù

rất cơ bản của ngôn ngữ thơ. Thơ bao giờ cũng là sự kết hợp hài hòa giữa ý và

nhạc. Nếu nghiêng về ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan, mà nghiêng về

nhạc thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn. Rõ ràng, nhạc tính là

tiếng nói linh diệu của thi ca, gợi thức trí tưởng tượng của người đọc. Hơn bất

cứ ngôn ngữ ở thể loại nào khác, ngôn ngữ thơ với tính cách là một thứ ngôn

ngữ giàu nhịp điệu, phong phú về cách hòa âm, tiết tấu, giàu từ láy âm, tượng

hình, chính là thứ ngôn ngữ giàu tính nhạc. Nhạc tính trong thơ được tạo nên từ

nhiều yếu tố như nhịp điệu, cách gieo vần, phối thanh…

Ngôn ngữ thơ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc phong phú của ngôn

ngữ. Thơ là thể loại “ý tại ngôn ngoại”. Việc kiệm lời, kiệm chữ là một yêu cầu

tối quan trọng đối với nhà thơ. Hàm súc và giàu sức biểu hiện, ngôn ngữ thơ ca

cô đúc, chặt chẽ với sỗ từ rất hạn định nhưng năng lực biểu hiện lại rất lớn. Vấn

đề đặt ra với mỗi nhà thơ là phải chọn một cách nói tốt nhất đến mức đô người

ta cảm thấy không thể khác được.

Ngôn ngữ thơ mang đặc trưng thẩm mĩ riêng. Đó là thứ ngôn ngữ mang

tính mơ hồ, đa nghĩa. Nó là những hình ảnh của ước lệ nghệ thuật, của biểu

tượng và ý tượng. Bên cạnh đó, nó cũng mang tính cá thể hóa sắc nét và cao độ,

thể hiện sự sáng tạo độc đáo riêng biệt của mỗi cá tính sáng tạo nhà thơ. Chính

vì vậy, tính sáng tạo trong ngôn ngữ thơ cũng là một yếu tố quan trọng thể hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

tài năng và phong cách của một nhà thơ.

3.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Triệu Kim Văn

3.1.2.1. Đặc điểm về hệ thống từ loại

Mỗi nhà thơ có một đặc điểm riêng về ngôn ngữ nghệ thuật. Với thơ

Triệu Kim Văn, chúng tôi tiếp cận và khám phá ngôn ngữ nghệ thuật ở phương

diện từ loại. Đặc điểm cơ bản của hệ thống từ loại trong thơ Triệu Kim Văn thể

hiện ở ba yếu tố: Hệ thống danh từ chỉ sự vật hiện tượng quen thuộc trong đời

sống miền núi, hệ thống động từ hướng nội, hệ thống tính từ

tính chất dịu nhẹ.

Thứ nhất, về hệ thống danh từ:

Là một nhà thơ gắn bó chặt chẽ với đời sống miền núi, thơ của Triệu

Kim Văn cũng phản ánh rõ nét những dấu hiệu đó. Thế giới thơ ông tràn ngập

một hệ thống những danh từ chỉ những sự vật hiện tượng gắn với cuộc sống,

sinh hoạt của con người miền núi.

Trước hết, đó là hệ thống danh từ chỉ những sự vật thuộc về môi trường

tự nhiên như sương, mây, cây, lá, rừng, đá, núi.v.v..

Có khi đó những cuộc lội bộ đắm mình cùng núi mà con người nơi đây

đã trăm năm gắn bó cùng nó:

Đi trong bồng bềnh sương

Trong cái lạnh rét tê da núi

(Lội bộ cùng Cao Sơn)

Những con đường vào bản đã in đậm, ăn sâu vào tâm trí của người con

yêu núi ấy, để hình ảnh này hiện lên vừa bình dị mà vừa thiêng liêng:

Con đường Khuổi Đeng ngược lên đỉnh núi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Từ Khuổi Đeng nghe tiếng con gà gáy

Thì cứ leo bằng cả hai tay

Thang đá lưng mây bay

(Đƣờng vào bản)

Bên cạnh đó là hệ thống danh từ chỉ những sự vật gắn bó thân thuộc với

sinh hoạt thường ngày của con người miền núi như dốc, đèo, củi, mái lều, bếp

lửa, quả sa nhân v.v.v..

Có khi là một ngõ rừng thân thuộc mà đẹp đến nao lòng:

Ngõ rừng xanh ngăn ngắt xanh

Nắng dỡn chân người nghiêng cánh gió

Dốc cua đèo chợt sắc hoa rất đỏ

Bông bi chuối rừng ngơ ngác khóa thời gian

(Ngõ rừng)

Đó còn là những nếp quen sinh hoạt ngàn đời, trở nên ấm cũng nghĩa

tình và chứa đựng những bài học sâu sắc về cuộc sống:

Củi tôi hái từ con tim

Cánh rừng con tim rộng dài không đo được

Lửa cháy hết rồi tôi ngồi tôi khóc

Nhớ chàng mồ côi kiếm củi đổi hạt kê

(Thơ củi)

Có khi, đó là một thứ quả gần gũi, gắn bó mà dân làng coi như một thức quý:

Quả sa nhân là mặt trời của đất

Nằm lăn trên đất

Giăng giăng trên đất

Nẩy từng chùm

Thuốc quý vì sự cay thơm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Mở cửa rừng)

Qua khảo sát 10 tập thơ của Triệu Kim Văn, chúng tôi nhận được kết quả

sau đây:

Tổng

Tập 1

Tập 2

Tập 3

Tập 4

Tập 5

Tập 6

Tập 7

Tập 8

Tập 9

Tập 10

Danh từ SVHT MN

48

34

52

41

25

29

20

32

43

Số lần

42

366

Rõ ràng, cuộc sống và những đặc trưng trong sinh hoạt của người dân tộc

miền núi đã tạo nên những ám ảnh, phản ánh rõ nét ở hệ thống những danh từ

sự vật hiện tượng miền núi mà nhà thơ đã xây dựng và sử dụng trong thơ.

Thứ hai, về hệ thống động từ:

Bên cạnh danh từ, thơ Triệu Kim Văn còn có một hệ thống động từ

được sử dụng nhuần nhuyễn và hiệu quả. Để góp phần cắt nghĩa, lí giải tư

tưởng, tình cảm cảu tác giả, chúng tôi đặt việc khảo sát động từ trong thơ Triệu

Kim Văn ở bình diện động từ hướng nội và động từ hướng ngoại.

Động từ hướng nội là những động từ mà chủ thể của hành động sử dụng

nó để thể hiện những cử chỉ, hành động, biểu hiện những cảm xúc, tư duy

hướng về chính bản thân mình, đặc biệt nó còn diễn tả diễn biến nội tâm của

chính mình. Đối sánh với nó, động từ hướng ngoại là những động từ mà chủ

thể của hành động sử dụng nó để thể hiện những cử chỉ, hành động, tác động,

biểu hiện những cảm xúc, tư duy hướng về những đối tượng, những vấn đề

ngoài bản thân.

Trong thơ Triệu Kim Văn, đôi lúc ta cũng bắt gặp những động từ hướng

ngoại. Đó là lúc mà nhà thơ tràn đầy tin yêu trước cuộc sống:

Trời ủ men trên núi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Ủ suốt cả mùa đông

Một sớm đem ra cất

Rượu chảy tràn núi sông

(Men xuân)

Tuy vậy, là một người ưa quan sát, suy nghĩ, nhìn nhận, đánh giá, cho

nên thơ Triệu Kim Văn chủ yếu sử dụng một hệ thống những động từ hướng

nội.

Nhà thơ lắng mình lại để cảm nhận, đón nhận tiết trời mùa xuân:

Mùa xuân nói lời bằng hoa

Lời hoa cứ âm thầm nở

Cánh cửa mùa đông hé mở

Là ta nghe thấy tiếng xuân

(Tiếng xuân)

Có lúc, nhà thơ hòa mình vào hoa cả để thấu hiểu đất trời, để dãi bày với

thiên nhiên tạo hóa: “Từ hoang sơ nên cao quý thành danh /Hoa cứ khiêm

nhường một đời hoa cỏ/ Mặc mưa nắng hanh heo hoa cứ nở/ Ta xin nghiêng

mình phận mỏng làm em.” (Đùa với cỏ)

Khi hoài niệm về tuổi thơ, gia đình, quê hương, nhà thơ đã bộc lộ thật

tinh tế những cảm động trong sâu thẳm lòng người: “Mà hồn vẫn về đâu lẩn

khuất/ Thấy đứa trẻ thơ ngác ngơ nhìn/ Có khách chui vào buồng giấu mặt/

Còn vẩn vơ câu hát đi tìm” (Nhớ Cao Sơn)

Thống kê để so sánh sự xuất hiện của hai loại động từ hướng nội và

hướng ngoại trong thơ Triệu Kim Văn, chúng tôi có được kết quả.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

một :

Động từ

Tổng

Tập 1

Tập 2

Tập 3

Tập 4

Tập 5

Tập 6

Tập 7

Tập 8

Tập 9

Tập 10

28

49

50

47

42

37

47

41

58

46

445

Hƣớng nội

17

26

34

29

24

21

25

27

55

37

295

Hƣớng ngoại

Có thể thấy, hệ thống động từ hướng nội đã thể hiện rất đúng, rất chân

thực con người vốn ít bộc lộ bề ngoài, hay nghĩ, hay suy tư, thiên về nội tâm

của nhà thơ Triệu Kim Văn.

Thứ ba, về hệ thống tính từ:

Nhà thơ Triệu Kim Văn là một con người sâu tình, nặng nghĩa, hướng

nội, cho nên cái nhìn trước con người và cuộc sống trong thơ ông cũng thể hiện

khá rõ điều này. Hệ thống những tính từ trong thơ Triệu Kim Văn chủ yếu thiên

về những màu sắc gam lạnh, mức độ và tính chất dịu nhẹ.

Gam màu trong thơ Triệu Kim Văn thường dịu nhẹ, mát lành, như cái

trong trẻo của sông suối, cây cối, núi rừng. Đó là màu xanh quen thuộc: Nếu tôi

chết hãy đưa tôi về núi/ Để hồn tôi tìm lại chiếc nhau mình/ Trong lồng nhỏ mẹ

tôi treo bờ suối/ Cành cây giờ đã vươn xanh” (Nếu tôi chết)

Cái dịu dàng trong suốt ấy thấm cả vào cảm thức thời gian của nhà thơ:

Ngọn gió lang thang cho cánh rừng cuộn sóng

Nụ hôn dài thêm sắc biếc làn mây

Với tôi

Mùa thu điệu nhạc xanh ngân nga

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

(Mùa thu xanh)

Khi gặp lại miền quê xưa, con người xưa, nhà thơ đã không giấu nổi lòng

mình. Có điều, cảm xúc ấy vẫn rất kiềm tỏa, không bung phá dữ dội mà dịu nhẹ

ám ảnh:

Khi xưa ở không thành hoa trái

Nay tìm về lòng hóa ngẩn ngơ

(Nhƣ Cố - miền thƣơng nhớ)

Dù là một ấn tượng sâu đậm đến vô cùng, nhà thơ cũng thể hiện nó một

cách thật nhẹ nhàng, mỏng mảnh đến khó nắm bắt: “Nắng lỗi gì mà đang nắng

chợt mưa/ Để cầu vồng giăng giữa chiều bảng lảng/ Để bảy sắc mầu treo sợi

mưa sợi nắng/ Sợi mưa thì dài, sợi nắng quá mỏng manh” (Mƣa – nắng – cầu

vồng)

Có khi nhà thơ ghi lại những khoảng khắc thật vu vơ, vu vơ nhưng lại ấn

tượng và vĩnh cửu:

Êm êm một mái tóc mềm

Tỉnh ra thì hóa cánh rèm gió bay

(Vu vơ)

Tìm hiểu nghiên cứu vấn đề tính từ trong thơ Triệu Kim Văn, chúng tôi

có thêm cơ sở khi nhận được kết quả khảo sát thống kê:

Tổng

Tập 1

Tập 2

Tập 3

Tập 4

Tập 5

Tập 6

Tập 7

Tập 8

Tập 9

Tập 10

Tính từ: Tính chất dịu nhẹ Gam màu lạnh

Số lần

17

14

39

28

32

18

23

20

56

43

290

Như vậy, có thể thấy, ngôn ngữ thơ Triệu Kim Văn mang một hệ thống

tính từ với sắc độ nhẹ nhàng, sâu lắng. Nó cũng là biểu hiện chân thực của tâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

hồn, tính cách và con người nhà thơ đậm chất miền núi này.

3.1

Sự nghiệp sáng tác thơ của Triệu Kim Văn đã trải qua một hành trình dài

với nhiều cố gắng, nỗ lực, nhiều đổi thay sáng tạo. Hành trình ấy được ghi dấu

trong 10 tập thơ: Hoa núi (1989); Mùa sa nhân (1994); Lá tìm nhau (1999);

Con của núi (Thơ song ngữ Dao- Việt- 2002); Lửa của mồ côi (2002); Lối cỏ

(2004); Suối nguồn du du (Thơ song ngữ Dao- Việt- 2010); Hoa nắng (2010);

Trời về (2010); Sợi mưa hiền (2011). Trên chặng đường ấy, nhà thơ đã có

những đổi thay bứt phá nhất định, không chỉ là với thơ ca truyền thống, mà còn

là với chính mình. Dấu hiệu rõ nhất của sự đổi thay ấy trước hết chính là ở sự

cách tân về hình thức thể loại.

Thứ nhất, về thể loại theo hình thức truyền thống:

Kế thừa đặc điểm thơ dân tộc thiểu số nói chung và cũng như thơ dân tộc

Dao nói riêng, giai đoạn đầu của hành trình sáng tác của Triệu Kim Văn mang

dấu ấn truyền thống khá rõ. Một trong những biểu hiện của nét truyền thống đó

là về mặt hình thức thể loại. Ở giai đoạn đầu, thơ Triệu Kim Văn chủ yếu theo

thể loại truyền thống như thể lục bát, thể tứ tuyệt, thể năm chữ, thể bảy

chữ.v.v..

Thơ Triệu Kim Văn ở giai đoạn đầu khá chỉn chu trong những bài thơ tứ

tuyệt bốn câu kiểu cổ điển:

Mới có nửa năm đã nhớ nhau

Ông bà tình ý thật thâm sâu

Sụt sùi dòng lệ tuôn không dứt

Thơ tôi cũng ướt một chiều ngâu

(Tứ tuyệt ngâu)

Có khi, đó là những tâm sự được dãi bày qua những bài thơ năm chữ có

kết cấu hoàn chỉnh quen thuộc: “Mẹ cứ đi như thế/ Chiếc gùi đè trên lưng/ Chị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

cứ đi như thế/ Lá xuân tàn bên nương” (Cõi xƣa)

Thậm chí, mặc dù ít, nhưng Triệu Kim Văn đôi khi cũng trải lòng mình

vào những vần lục bát bình dị và mượt mà, nhuần nhuyễn:

Vô tình tôi đã mến em

Sơ sơ thôi thoáng gặp trên phố người

Có thể em chẳng biết tôi

Có khi em chỉ mỉm cười vu vơ

(Vu vơ)

Dù chủ yếu vẫn là những bài thơ theo thể loại truyền thống quen thuộc,

nhưng ở giai đoạn này, thơ của Triệu Kim Văn cũng đã bắt đầu xuất hiện

những bài thơ phá cách, tự do. Có lúc là sự thay đổi số chữ: “Em nhóm lửa/

Lửa nhảy trên hai m / Lửa bập bùng/ Tim nói lời yêu đương”(Khắc nghiệt)

Có lúc, bài thơ đã được tự do về vần nhịp:

Bỗng bóng chiều hai núi ngả sang nhau

Và trong cơn mưa ngâu

Chợt rực lên quầng hoàng hôn đỏ

(Hoàng hôn đỏ)

Có thể thấy, ở chặng đầu sáng tác, Triệu Kim Văn vẫn có những sự kế

thừa nhất định vào các thể loại truyền thống. Sự kế thừa này chỉ mang tính

tương đối, bởi vì nó đã bắt đầu manh nha những dấu hiệu dự báo sự phá cách

về sau.

Thứ hai, về thể loại có sự cách tân sáng tạo:

Sang đến chặng tiếp theo của hành trình sáng tác, Triệu Kim Văn đã có

những nỗ lực cách tân sáng tạo rất rõ rệt. Dấu hiệu trước hết và rõ ràng nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

chính là ở sự đổi mới trong thể loại. Triệu Kim Văn đã ngày một mạnh dạn, dứt

khoát hơn, vượt qua những thói quen trong thao tác và lựa chọn cho mình

những hình thức thể loại mới, như thể thơ tự do, ba câu.v.v..

Nhà thơ đã dũng cảm từ bỏ những vần nhịp bề ngoài, để đi tìm vần nhịp

bên trong của cảm xúc. Nhờ vậy, tác giả có nhiều bài thơ, câu thơ mới lạ hơn.

Có trường hợp, nhịp câu thơ được ngắt ra như nhịp những bước đi trầm tư của

con người trên phố:

Phố cổ

Tun hút vách rêu son

Cổ mà không cũ

Phố

Một tiểu vũ trụ

Xô bồ những hành tinh

(Phố cổ)

Có khi, cấu trúc bài thơ tưởng như trở nên rời rạc. Nhưng chính trong sự

rời rạc bề ngoài ấy, người đọc được lắng mình để hòa vào khoảng trống thẩm

mĩ của những khổ thơ ba câu mới lạ:

Ta muốn đóng cửa một mình

Đọc sách và độc ẩm

Ta là ta cũng một cõi mênh mông

(Một cõi mênh mông)

Có lúc, vần điệu câu thơ cũng gập ghềnh trúc trắc như con đường đồi

núi. Ẩn bên trong cái trúc trắc kia chính là những suy tư, cảm nghiệm của một

tính cách miền núi, một tâm hồn miền núi:

Người đi gieo hạt

Khuất sau khói sương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Lúp xúp cỏ bồng

Vạt nương quèo soải dốc

Nòm quả lúc lắc hồng hoang

Râm ran mùa

(Điệu thức mùa)

Để có cái nhìn khái quát và rõ ràng hơn về sự cách tân trong thể loại của

thơ Triệu Kim Văn, chúng tôi tiến hành khảo sát và thu được kết quả thống kê

sau đây:

5 tập thơ 5 tập thơ

Tiêu chí so sánh

từ 1989 đến 2002 từ 2004 đến 2011

Số bài thơ theo

89 bài / tổng 198 bài 31 bài / tổng 179 bài

thể loại truyền thống

Số bài thơ theo

109 bài / tổng 198 bài 148 bài / tổng 179 bài

thể loại cách tân

Có thể thấy, thơ Triệu Kim Văn đã có những bước tiến đáng kể trong

cách tân sáng tạo. Tác giả đã từ bỏ cái khuôn định bó hẹp của hình thức cũ,

chọn cho mình một hướng đi táo bạo, chủ yếu làm thơ theo hình thức thể loại

tự do, đổi mới. Đây chính là một sự khẳng định của Triệu Kim Văn trong thơ

ca dân tộc thiểu số nói chung, và trong thơ ca dân tộc Dao nói riêng.

* *

*

Với sự phong phú và linh hoạt trong giọng điệu:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

. Tro

những nỗ lực trong việc xây dựng,

sử dụng hệ thống từ ngữ .

. Q

295 n

445

.

góp phần nâng thơ ca dân tộc Dao lên một chặng phát triển mới trong hành

trình phát triển của . Đó là đóng góp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

quan trọng và đáng ghi nhận của thơ Triệu Kim Văn.

PHẦN KẾT LUẬN

1. Nếu ví nền thơ ca Việt Nam hiện đại như một vườn hoa trăm hồng

ngàn tía thì thơ ca dân tộc thiểu số là những bông hoa rừng với những hương

sắc riêng. Tuy xuất hiện muộn và phát triển chậm hơn so với bước tiến của văn

học hiện đại Việt Nam, nhưng văn học các dân tộc thiểu số thời kì hiện đại,

trong đó có thơ ca, đã có những vận động và phát triển nhanh chóng. Bên cạnh

sự phát triển của thơ ca dân tộc Tày, Thái, Mông ...thơ ca dân tộc Dao tuy chưa

có một đội ngũ các nhà thơ đông đảo nhưng đã có một vị trí nhất định trong đời

sống thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nghiên cứu thơ ca dân tộc Dao là

một việc làm cần thiết để góp phần vào việc hoàn chỉnh bức tranh thơ ca dân

tộc thiểu số Việt Nam.

Triệu Kim Văn là một người kế tục và tôn cao nền thơ ca dân tộc Dao.

Tuy vị trí của thơ ca Triệu Kim Văn là quan trọng trong thơ ca dân tộc Dao,

nhưng cho đến nay, việc nghiên cứu thành tựu sáng tác của Triệu Kim Văn

chưa được tiến hành một cách thỏa đáng. Đây vẫn còn là một khoảng trống,

hứa hẹn sẽ cho những kết quả nghiên cứu lí thú, hữu ích.

2.Sự chững lại của thơ dân tộc thiểu số trong những năm gần đây đặt ra

những vấn đề quan thiết: Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong thơ

dân tộc thiểu số; Sự mai một của bản sắc dân tộc thiểu số trong cuộc sống hiện

đại hôm nay; Vấn đề viết bằng tiếng mẹ đẻ và đối tượng độc giả của nó; Viết

bằng tiếng Việt và yêu cầu chuyển tải cách cảm, cách nghĩ, lối nói, lối diễn đạt

của người miền núi... Qua việc nghiên cứu đề tài “Thơ Triệu Kim Văn”, chúng

tôi mong muốn góp câu trả lời cho rất nhiều vấn đề đã – đang được đặt ra và

còn để ngỏ trên đây.

3.

.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

:

3.1.Thơ Triệu Kim Văn là một thế giới với hệ thống biểu tượng đặc trưng

và giàu ý nghĩa. Trong hệ thống đó, nổi bật là bộ ba biểu tượng Đất, Nước, Lửa

cùng những biểu tượng phái sinh của nó.

Sinh trưởng và gắn bó với một vùng quê núi, nhà thơ Triệu Kim Văn

bám chặt vào thế giới của núi đồi. Trong thế giới ấy, đất là một biểu tượng gốc

để Triệu Kim Văn xây dựng nên những tứ thơ đẹp và sâu sắc. Trong thế giới

ấy, tràn ngập các hình ảnh, các hình tượng về đất. Đất là mẫu gốc tạo thành bản

thể, là một biểu tượng của sự sinh sôi, của sự phong nhiêu, của sức sống lâu

bền kì diệu.

Nước là nguồn gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là

biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính tinh khiết, tính hiền minh,

tính khoan dung và đức hạnh. Nước được coi là biểu tượng phổ biến về sự phì

nhiêu và khả năng sinh sản dồi dào. Trong thơ Triệu Kim Văn, nước là khởi

nguồn sinh sôi bất tận cho sự sống, là sự quy tụ tích trữ những mạch ngầm văn

hóa, là dòng chảy đồng hành cùng sự chảy trôi của thời gian, đồng hành cùng

cuộc sống con người. Nước như sinh thể có sự sống, gắn với tục lệ và sinh hoạt

đời sống con người.

Cùng với hai biểu tượng đất và nước, thì biểu tượng lửa đã làm nên thêm

một chiều kích độc đáo ấn tượng trong thơ Triệu Kim Văn. Đó có khi là ngọn

lửa của tình yêu. Đó có khi còn là ngọn lửa của tình người, của sự hội tụ sum

vầy, của sự chở che sưởi ấm. Lửa là thắp lên sự sống, thắp lên tình yêu, thắp

lên niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tương sáng.

3.2. Là một nhà thơ thấm đẫm bản sắc văn hóa của dân tộc mình, lại mang

một cá tính sáng tạo mạnh mẽ, Triệu Kim Văn xây dựng trong thơ một giọng

điệu và ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo.

Về giọng điệu: Nổi bật nhất, trung tâm nhất trong thơ Triệu Kim Văn là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

giọng điệu triết lí chiêm nghiệm. Giọng điệu này được nhà thơ khéo léo đan cài

vào những đề tài thật bình dị, những cảm xúc thật tự nhiên, khiến người đọc

không thể dễ dãi dừng lại bề ngoài câu chữ mà phải đồng cảm và đồng sáng tạo

cùng tác giả để tìm đến những suy tư triết lí ẩn ở bề sâu ý nghĩa. Đó là những

triết lí chiêm nghiệm về sự vận động đổi thay đầy phức tạp của cuộc sống, về

tình người và lòng người, về lẽ đời, lẽ sống.v.v.. Bên cạnh đó là các giọng điệu

phối thuộc như trữ tình hoài niệm, ngợi ca ngưỡng mộ và mỉa mai châm biếm.

Về ngôn ngữ nghệ thuật: Có hai đặc điểm nổi bật đáng chú ý ở ngôn ngữ

nghệ thuật thơ Triệu Kim Văn, đó là về từ loại và thể loại. Từ loại trong thơ

Triệu Kim Văn khá nổi bật ở hệ thống danh từ chỉ sự vật hiện tượng quen thuộc

trong đời sống miền núi, hệ thống tính từ dịu – nhẹ, hệ thống động từ hướng

nội.v.v.. Thể loại trong thơ Triệu Kim Văn có một quá trình tìm tòi, thể nghiệm

và nhiều thay đổi. Càng trải qua thời gian, những sáng tác về sau cảu tác giả

càng từ bỏ thể loại truyền thống để lựa chọn những thể loại rất mới mẻ, cách

tân, tự do. Đây là một hướng đi táo bạo, là một sự khẳng định cũng như đóng

góp của Triệu Kim Văn trong thơ ca dân tộc thiểu số nói chung, và trong thơ ca

dân tộc Dao nói riêng.

4.

Nam

trong

. V

.

5. Nghiên cứu về thơ Triệu Kim Văn không chỉ đơn thuần là tiếp cận với

một chủ thể văn học, mà nó còn là con đường để đến với văn hóa dân tộc Dao

nói riêng, văn hóa các dân tộc thiểu số nói chung. Những vấn đề mà luận văn

đặt ra có thể sẽ là những gợi dẫn để tiếp tục những hướng tiếp cận nghiên cứu

mới như: Thế giới nghệ thuật thơ Triệu Kim Văn; Bản sắc văn hóa Dao trong

thơ Triệu Kim Văn; Thơ Bàn Tài Đoàn – Triệu Kim Văn trong cái nhìn đối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

sánh.v.v..

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Văn An. 2007. Nét đẹp văn hóa trong thơ văn và ngôn ngữ dân tộc,

NXB Hội nhà văn.

2. Lại Nguyên Ân (biên soạn).1999. 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học

quốc gia, Hà Nội.

3. Jean Bellemin – Noel. 2004. Phân tâm học và văn học, NXB Văn hóa thông tin.

4. Nguyễn Phan Cảnh. 1987. Ngôn ngữ thơ, NXB ĐH &THCN, Hà Nội.

5. Nông Quốc Chấn. 1995. Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Văn

hóa dân tộc.

6. Jean Chevalier – Alain Gheerbrant. 2002. Từ điển biểu tượng văn hóa thế

giới, NXB Đà Nẵng.

. 09/2009. 7.

.

8. Gia Dũng (biên soạn).2000. Tuyển tập thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế

kỉ XX, NXB Văn hóa dân tộc.

9. .

10. Nguyễn Đăng Điệp. 2005.Thơ chống Mỹ - thành tựu và những kinh nghiệm

nghệ thuật, Báo Thơ, số 23.

11. Nguyễn Đăng Điệp. Vọng từ con chữ, NXB Văn học, Hà Nội, 2003.

12. Hà Minh Đức. 1987. Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,

NXB Giáo dục.

13. Hà Minh Đức.2002. Những thành tựu của Văn học Việt Nam trong thời kì

Đổi mới, Tạp chí Văn học, (7).

14. Hà Minh Đức (chủ biên).2007. Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

15. Erich Fromm.2003. Ngôn ngữ bị lãng quên, NXB Văn hóa thông tin.

16. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi.1999. Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

17. Nguyễn Đức Hạnh.2010. Nghiên cứu triển khai giảng dạy phần văn học

địa phương cho cấp trung học cơ sở tại tỉnh Bắc Kạn. Đề tài khoa học và

công nghệ cấp bộ, ĐHSP-ĐH Thái Nguyên.

18. Đỗ Đức Hiểu.2002. Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

19. Nguyễn Thái Hòa. 2006.Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học, NXB

Giáo dục.

20. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa.2003. Phân tích phong cách ngôn

ngữ trong tác phẩm văn học, NXB Đại học Sư phạm.

21. Kharapchencô.1979. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của

văn học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

22. Mã Giang Lân. 2011.Những cấu trúc của thơ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

23. Phong Lê.2008. Hiện đại hóa Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

24. Thanh Lê. 2005.Hành trang văn hóa, NXB Khoa học xã hội.

25. Vân Long .2013.

Văn.http://vannghethainguyen.vn/index.php?option=com_content&view=a

rticle&id=2891:th-va-li-binh-th-va-ha--ng-vn&catid=74:th-

&Itemid=417#.U01U_VWSxos

26. Ju Lotman. Biểu tượng trong hệ thống văn hóa, Tạp chí Sông

Hương 286.

27. Phương Lựu (chủ biên).2006. Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

28. . .http://vanhien.vn/news/dien-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

dan/Nguoi-ve-theo-loi-co4507//.

29. Phan Ngọc. 2002.Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn học.

30. Võ Quang Nhơn.1983. Văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam, NXB Đại

học và Trung học chuyên nghiệp.

31. Trần Thị Phượng, Phan Thu Hương.2011. Chân dung và bút tích các nhà

văn Việt Nam, NXB Giáo dục.

32. Đào Xuân Quý.2003. Nhà thơ và cuộc sống, NXB Quân đội nhân dân.

33. Lò Ngân Sủn.1999. Hoa văn thổ cẩm (II), NXB Văn hóa dân tộc.

34. Trần Đình Sử.1994. Bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam và con

đường của thơ, Tạp chí Văn học, số 1.

35. Phạm Nhân Thành. 2011.Văn hóa các dân tộc ít người ở Việt Nam, NXB

Dân trí.

36. Lê Ngọc Thắng, Lê Bá Nam.1994. Bản sắc văn hóa các dân tộc ở Việt

Nam, NXB Văn hóa dân tộc.

37. Bích Thu. 03/01/2013. Văn học Việt Nam trong quá trình hội nhập,

http://VienVanhoc.org.vn,.

38. Phùng Thị Thuận.2013 Thơ dân tộc Dao từ Bàn Tài Đoàn đến Triệu Kim

Văn, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP Thái Nguyên.

39. Dương Thuấn. 2000.Nét mới của văn học dân tộc và miền núi, Tạp chí

Văn hóa dân tộc, số 7.

40. Lâm Tiến.1995. Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, NXB Văn

hóa dân tộc.

41. Lâm Tiến. 1999.Về một mảng văn học dân tộc, NXB Văn hóa dân tộc.

42. Chu Quang Tiềm. 2005.Tâm lý văn nghệ, NXB Thanh niên.

43. Nguyễn Đức Tồn.2002. Tìm hiểu đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn

ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với các dân tộc khác), NXB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

Đại học Quốc gia Hà Nội.

44. Lê Ngọc Trà.1990. Lí luận văn học, NXB Trẻ.

45. Trần Thị Việt Trung – Cao Thị Hảo.2011. Văn học dân tộc thiểu số Việt

Nam thời kì hiện đại- một số đặc điểm, NXB Đại học Thái Nguyên.

46. Trần Thị Việt Trung. 2010.Bản sắc dân tộc trong thơ các dân tộc thiểu số

Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.

47. Triệu Kim Văn. 1989. Hoa núi, NXB Văn hóa dân tộc.

48. . 1994.Mùa sa nhân, NXB Văn hóa dân tộc.

49. Triệu Kim Văn. 1999.Lá tìm nhau, NXB Văn hóa dân tộc.

50. Triệu Kim Văn.2002. Con của núi (Thơ song ngữ Dao – Việt), NXB Văn

hóa dân tộc.

51. Triệu Kim Văn. 2002.Lửa của mồ côi, NXB Hội nhà văn.

52. Triệu Kim Văn. 2004. Lối cỏ, NXB Hội nhà văn.

53. Triệu Kim Văn. 2010. Suối nguồn du du (thơ song ngữ Dao – Việt), NXB

Văn hóa dân tộc.

54. Triệu Kim Văn. 2010.Hoa nắng (Thơ thiếu nhi), NXB văn hóa dân tộc.

55. Triệu Kim Văn. 2010. Trời về, NXB Văn học.

56. Triệu Kim Văn. 2010. Sợi mưa hiền, NXB Văn học.

57. Viện ngôn ngữ học. 2004.Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2004.

58. Stephan Zweig.1999. Dấu ấn những nền văn minh, những giờ rực sáng

của nhân loại, NXB Văn hóa thông tin.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/

59. Carl Gustav Jung. 2007.Thăm dò tiềm thức, NXB Tri thức.