ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------- o0o -------------

NGUYỄN NGỌC DIỆP

NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ PHÁT

TRIỂN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ SỰ VẬN

DỤNG HAI NGUYÊN LÝ ĐÓ Ở HỒ CHÍ MINH TRONG

CÁCH MẠNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2007

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------- o0o -------------

NGUYỄN NGỌC DIỆP

NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ PHÁT

TRIỂN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VÀ SỰ VẬN

DỤNG HAI NGUYÊN LÝ ĐÓ Ở HỒ CHÍ MINH TRONG

CÁCH MẠNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC

MÃ SỐ: 60.22.80

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.DƢƠNG VĂN DUYÊN

HÀ NỘI – 2007

2

MỤC LỤC

Trang

1 MỞ ĐẦU

Chương 1:NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN

CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

8

8 1.1. Phép biện chứng duy vật

12 1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển

13 1.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

19 1.2.2. Nguyên lý về sự phát triển

1.3. Nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ

25 phổ biến và nguyên lý về sự phát triển

25 1.3.1 Quan điểm toàn diện

27 1.3.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể

27 1.3.3. Quan điểm phát triển

Chương 2: SỰ VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN

31

VÀ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN Ở HỒ CHÍ MINH TRONG CÁCH MẠNG VIỆT

NAM

32 2.1. Quan điểm toàn diện

41 2.2. Quan điểm lịch sử cụ - thể

50 2.3. Quan điểm phát triển

Chương 3: BÀI HỌC VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM BIỆN CHỨNG DUY VẬT CỦA

HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

63

3.1. Khái quát một số nét cơ bản về tình hình thế giới và Việt Nam

63 trong những năm gần đây

63 3.1.1. Tình hình thế giới hiện nay

3.1.2. Thực trạng đất nƣớc sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội đại

65 biểu toàn quốc lần thứ IX và sau 20 năm đổi mới

3.2. Quán triệt quan điểm biện chứng duy vật của Hồ Chí Minh trong

4

68 giai đoạn hiện nay ở Việt Nam

69 3.2.1. Quan điểm toàn diện

75 3.2.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể

79 3.2.3. Quan điểm phát triển

KẾT LUẬN

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

5

88

Më ®Çu

1. TÝnh cÊp thiÕt cña ®Ò tµi

Nói về chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến sĩ M. Ahmed, giám đốc Unesco khu

vực Châu Á – Thái Bình Dương, đại diện đặc biệt của tổng giám đốc Unesco

đã viết:

“Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại

ngay khi còn sống, và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được

ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ,

mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh mới và hy

vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất

công, bất bình đẳng trên trái đất này” [37, 37].

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc Việt

Nam. Trong lịch sử nhân loại ở thế kỉ XX, Người được coi là một biểu tượng

kiệt xuất, đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân

Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì

hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với những đóng góp to

lớn ấy, năm 1990 Người đã được tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc,

Danh nhân văn hoá thế giới.

Trong v¨n kiÖn §¹i héi §¶ng toµn quèc lÇn thø VII, §¶ng céng s¶n ViÖt

Nam ®· kh¼ng ®Þnh: “LÊy chñ nghÜa M¸c - Lªnin, t t ëng Hå ChÝ Minh lµm

nÒn t¶ng t t ëng vµ kim chØ nam cho h¯nh ®éng” [17; 127 - 128].

T t ëng Hå ChÝ Minh lµ mét hÖ thèng lÝ luËn bao gåm nhiÒu lÜnh vùc

réng lín vµ v« cïng phong phó. Trong ®ã, sù vËn dông vµ ph¸t triÓn s¸ng t¹o

nh÷ng nguyªn lý cña phÐp biÖn chøng duy vËt trong l·nh đạo c¸ch m¹ng ViÖt

Nam ë Hå ChÝ Minh ® îc xem lµ mét bé phËn quan träng trong toµn bé di s¶n

v« gi¸ mµ Ng êi ®· ®Ó l¹i cho d©n téc vµ nh©n lo¹i.

Thùc tÕ ®æi míi cña ®Êt n íc ta 20 n¨m qua - tuy đã đạt được nh÷ng

thµnh tùu to lín song vÉn cßn nhiÒu h¹n chế - đã chỉ ra cho chúng ta thấy: khi

6

nào chúng ta nắm vững lí luận phép biện chứng duy vật, biết vận dụng một

cách sáng tạo các nguyên tắc, phương pháp của phép biện chứng vào hoàn cảnh

cụ thể của đất nước, biết lấy “cái bất biến” ứng vào “cái vạn biến” theo tư

tưởng Hồ Chí Minh thì vai trò và hiệu lực của việc cải tạo tự nhiên, biến đổi xã

hội sẽ được nâng cao. Ngược lại, nếu cách làm của chúng ta là chủ quan, là duy

ý chí, siêu hình thì chúng ta sẽ phạm phải những khuyết điểm, sai lầm nghiêm

trọng, gây tổn thất to lớn không chỉ cho cách mạng mà còn cho cả quá trình

phát triển xã hội nói chung. Do đó, nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển

phép biện chứng duy vật mácxít, những tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh

trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam vào công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước đang là nhu cầu bức thiết, là việc làm có ý nghĩa to lớn.

Chúng ta tìm về tư tưởng Hồ Chí Minh là để đi tìm “nguồn sáng tương

lai” cho đất nước. Ở thời kỳ kháng chiến cứu nước và bắt đầu tiến lên xây dựng

chủ nghĩa xã hội, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt lên trên nhiều người đương

thời, biết vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý cơ bản của phép biện

chứng duy vật vào việc xem xét và giải quyết vấn đề thực tiễn của cách mạng

Việt Nam, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ thắng lợi.

Ng êi ®ã trë thµnh “ng êi kÕ tôc hiÕm hoi” nh÷ng nhµ s¸ng lËp chñ nghÜa duy

vËt biÖn chøng trong thêi ®¹i míi, tr íc mét ph ¬ng §«ng “®Çy m©u thuÉn”,

“®Çy biÕn cè phøc t¹p”. Vì thế, “kh¸m ph¸ phÐp biÖn chøng Hå ChÝ Minh lµ

mét viÖc lµm cùc k× quan träng” [25, 307]. Trong giai đoạn hiện nay, trước

những biến đổi to lớn của bối cảnh trong nước và quốc tế, một yêu cầu khách

quan đặt ra đối với chúng ta là: cần phải có sự nghiên cứu và vận dụng một

cách sáng tạo tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới, góp phần

đưa đất nước phát triển đi lên hội nhập nền kinh tế thế giới.

Với những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Nguyên lý về mối liên hệ

phổ biến và phát triển của phép biện chứng duy vật và sự vận dụng hai nguyên

lý đó ở Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam” cho luận văn của mình.

7

2. T×nh h×nh nghiªn cøu ®Ò tµi

Chñ tÞch Hå ChÝ Minh lµ mét tÊm g ¬ng c¸ch m¹ng tuyÖt vêi. Người

kh«ng chỉ cã nh÷ng ®ãng gãp to lín cho phong trµo c¸ch m¹ng gi¶i phãng d©n

téc vµ céng s¶n quèc tÕ mµ Người cßn lµ nhµ t t ëng, nhµ v¨n ho¸ lín cña

nh©n lo¹i. Nh÷ng quan ®iÓm lÝ luËn vµ gi¸ trÞ t t ëng ë nhiÒu ph ¬ng diÖn

cùng những phÈm chÊt cao quý, khÝ ph¸ch anh hïng cña Ng êi ®· trë thµnh tµi

s¶n v« gi¸ cña phong trµo c¸ch m¹ng vµ nh©n lo¹i tiÕn bé thÕ giíi. V× thÕ, t

t ëng Hå ChÝ Minh, con ng êi, nh©n c¸ch Hå ChÝ Minh ®· trë thµnh ®èi t îng

tËp trung nghiªn cøu kh«ng chØ cña nh©n d©n Việt Nam mµ cßn cña nhiÒu chÝnh

kh¸ch vµ giíi khoa häc thÕ giíi. Ở nước ta trong những năm gần đây, việc

nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được đẩy mạnh và bước đầu đã

có được những thành quả nhất định. Tìm hiểu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí

Minh vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước ®ang là vấn đề

được Đảng và Nhà nước ta rất quan t©m. Vấn đề này được xem là một trong

những lĩnh vực chủ yếu của nghiên cứu lý luận và khoa học xã hội nh©n văn.

Cho ®Õn nay ®· cã hµng ngh×n c«ng tr×nh, bµi viÕt vÒ chñ tÞch Hå ChÝ Minh,

trong đó có cả công trình cấp nhà nước KX.02. Công trình này đã huy động

đông đảo các nhà khoa học nhiều chuyên ngành khác nhau tham gia nghiên cứu

một cách trực tiếp, cơ bản và có hệ thống về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên,

trong thời kỳ hiện nay, theo như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét: những

công trình bề thế, có quy mô lớn, có tầm vóc về tư tưởng và học thuật tương

xứng với giá trị và ý nghĩa của sự nghiệp Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh

chưa nhiều [13; 33]. Đặc biệt, nh÷ng c«ng tr×nh chuyªn kh¶o nghiªn cøu t

t ëng triÕt häc hay triÕt lý cña Hå ChÝ Minh, t t ëng biÖn chøng cña Hå ChÝ

Minh – víi t c¸ch lµ mét ®èi t îng nghiªn cøu ®éc lËp - ë n íc ta l¹i cµng Ýt

ái. Nói như Lª H÷u NghÜa, ®©y lµ mét khu vùc cßn nhiÒu chç trèng tr¶i trong

nghiªn cøu vÒ t t ëng Hå ChÝ Minh. Thèng nhÊt víi quan ®iÓm đó, Hoµng ChÝ

B¶o còng nhÊn m¹nh: c¸c c«ng tr×nh nghiªn cøu vÒ t t ëng triÕt häc Hå ChÝ

Minh, t t ëng biÖn chøng Hå ChÝ Minh cßn Ýt ng êi bµn ®Õn.

ViÕt vÒ vÊn ®Ò nµy, thùc tÕ cho ®Õn nay ®· cã c¸c c«ng tr×nh nghiªn cøu

8

sau:

 T t ëng biÖn chøng Hå ChÝ Minh, (2005), NguyÔn §øc §¹t, NXB ChÝnh

trÞ Quèc gia, Hà Nội

 T t ëng triÕt häc Hå ChÝ Minh, (2000), Lª H÷u NghÜa (chñ biªn), NXB

Lao ®éng, Hµ Néi

 Gãp phÇn t×m hiÓu ®Æc s¾c t duy triÕt häc Hå ChÝ Minh, (2002), Hå

KiÕm ViÖt, NXB ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi

Trong cuốn “T t ëng biÖn chøng Hå ChÝ Minh” do Nguyễn Đức Đạt

biên soạn, tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất: Tác giả đã chỉ cơ sở thực tiễn và cơ sở lí luận hình thành tư

tưởng biện chứng Hồ Chí Minh. Về cơ sở thực tiễn: đó là thực tiễn cuộc đấu

tranh của nhân dân ta chống ách đô hộ của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu

thế kỷ XX; đó là thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta và nhân

dân thế giới gắn liền với hơn 60 năm hoạt động cách mạng của Hồ chủ tịch.

Những thực tiễn này được gắn kết với lý luận Mác – Lênin, với truyền thống

cách mạng của gia đình, quê hương và trí tuệ Hồ Chí Minh. Về cơ sở lí luận,

tác giả chỉ ra: Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh hình thành trên cơ sở tiếp thu

tư tưởng và văn hoá dân tộc; tư tưởng, văn hoá Phương Đông (Trung Hoa, Ấn

Độ), tư tưởng, văn hoá Phương Tây, chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Thứ hai là: Trên cơ sở lí luận và thực tiễn đó, tác giả đã đi sâu phân tích

một số nội dung cơ bản của quan điểm biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí

Minh, xuyên suốt là các quan điểm: quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện,

quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển. Hồ Chí Minh đã vận dụng

một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam

trong quá trình xác định đúng đắn con đường cách mạng của dân tộc: Độc lập

dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba: Tác giả đã đi vào phân tích và chỉ ra: Trong quá trình lãnh đạo

cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước,

Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh phù hợp với

9

xu thế vận động và phát triển của lịch sử với phương châm “Dĩ bất biến ứng

vạn biến”. Nhờ thế, Đảng ta đã xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng

cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của cách mạng Việt Nam trên tinh thần phủ

định có kế thừa để đổi mới và phát triển. Do đó, công cuộc đổi mới toàn diện

đất nước ta gần 20 năm qua tuy còn nhiều mặt yếu kém, khiếm khuyết, song đã

đạt được những thành tựu to lớn. Đặc biệt, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc

hơn. Bên cạnh những vấn đề trên, tác giả còn chỉ ra một số tiên đoán tài tình

của Hồ Chí Minh về những sự kiện lớn, có tính bước ngoặt của lịch sử.

Trong Tạp chí triết học số 4 tháng 7 năm 2001, Nguyễn Đức Đạt cũng

đã khái quát và trình bày một số các quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh. Tác

giả nhấn mạnh: Quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh không chỉ là sự phản ánh

mà còn là sự vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

phép biện chứng duy vật vào hiện thực cụ thể sống động của cách mạng Việt

Nam, xã hội Việt Nam. Nội dung, quan điểm của Hồ Chí Minh rất phong phú,

đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu công phu để áp dụng vào công cuộc đổi mới

của đất nước. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ rõ: chúng ta không được phép coi

quan điểm biện chứng Hồ Chí Minh là cái đã sắp sẵn cho mọi lời giải đáp mà

chỉ nên xem nó là phương thức hữu hiệu nhất để tìm ra lời giải đáp cho hiện

thực sống động.

Trong cuèn “Gãp phÇn t×m hiÓu ®Æc s¾c t duy triÕt häc Hå ChÝ Minh"

cña Hå KiÕm ViÖt, tác giả đã tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về tư

duy triết học Hồ Chí Minh. Đó là tư duy triết học phát triển trên nền tảng triết

học Mác - Lênin, đồng thời kế thừa triết lý dân tộc Việt Nam, bao gồm trong đó

tinh hoa triết lý Phương Đông, chủ yếu là Nho học ở vấn đề cơ bản nhất là quan

hệ Thiên – Nhân đã được Việt hoá, hướng sự cải biến cách mạng đối với xã

hội, giáo hoá con người, vì con người và phát huy nhân tố con người. Vì thế, nó

đã tạo cho quyết định luận duy vật ở Hồ Chí Minh những nét đặc sắc. Bên cạnh

đó, tác giả còn chỉ ra một số vấn đề cơ bản trong việc vận dụng tư duy triết học

10

Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Trong cuốn “Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh”, Lê Hữu Nghĩa đã trình

bày nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh ở ba yếu tố chính. Thứ nhất là truyền

thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hai là những giá trị hợp lý, tiến bộ của

triết học Phương Đông và triết học Phương Tây. Ba là hệ thống tư tưởng triết

học Mác - Lênin - đỉnh cao trong sự phát triển tư tưởng nhân loại. Trong đó,

triết học Mác - Lênin có vai trò quyết định, là thế giới quan và phương pháp

luận khoa học để Hồ Chí Minh xem xét và giải quyết những vấn đề cách mạng

của Việt Nam. Bên cạnh đó, tác giả đã chỉ ra: phương pháp biện chứng duy vật

của triết học Mác - Lênin đã được Hồ Chí Minh vận dụng tài tình, nhuần

nhuyễn trong lý luận và trong nghệ thuật lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vì thế,

có thể coi tư tưởng Hồ Chí Minh là triết học biện chứng của chủ nghĩa Mác -

Lênin trong sự “thâu hái” những tư tưởng, truyền thống tốt đẹp của dân tộc

Việt Nam cùng những sự tinh hoa khác của nhân loại. Trong cuốn sách, tác giả

cũng đã trình bày một cách ngắn gọn một số tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh

với các quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử - cụ thể,

quan điểm kế thừa và nghệ thuật phân tích mâu thuẫn.

Có thể nói, việc khám phá chiều sâu tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh

mặc dù đã đạt được một số thành quả nhất định song vẫn đòi hỏi rất nhiều sự

nỗ lực, sáng tạo của giới nghiên cứu lý luận nước ta.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

- Môc ®Ých: Nghiªn cøu sù vËn dông sáng tạo hai nguyªn lý của phép

biện chứng duy vật ở Hå ChÝ Minh trong C¸ch m¹ng ViÖt Nam, tõ ®ã thÊy ® îc

ý nghÜa của vấn đề này trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.

- NhiÖm vô:

+ Ph©n tÝch hai nguyªn lý c¬ b¶n cña phÐp biÖn chøng duy vËt.

+ Làm rõ sự vận dụng hai nguyên lý của phép biện chứng duy vËt ở Hå

ChÝ Minh trong c¸ch m¹ng ViÖt Nam.

+ Nªu lªn bµi häc vËn dông quan điểm biÖn chøng duy vËt cña Hå ChÝ

Minh trong sù nghiÖp ®æi míi ở Việt Nam hiÖn nay.

11

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Luận văn nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và về sự phát

triển, sự vận dụng hai nguyên lý đó ở Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam

- chủ yếu là thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và giai đoạn đầu xây

dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời nghiên cứu sự vận dụng các quan điểm biện

chứng của Hồ Chí Minh vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở

Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở lí luận: Dùa trªn nh÷ng quan ®iÓm cña chñ nghÜa M¸c - Lªnin vÒ

phÐp biÖn chøng duy vật, ®ång thêi kÕ thõa kÕt qu¶ nghiªn cøu cña nh÷ng

ng êi ®i tr íc.

- Ph ¬ng ph¸p nghiªn cøu: T¸c gi¶ sö dông c¸c ph ¬ng ph¸p: ph©n tÝch -

tæng hîp, ph ¬ng ph¸p so sánh, ph ¬ng ph¸p l«gÝc vµ lÞch sö, ph ¬ng ph¸p hÖ

thèng.

6. Đóng góp mới của luận văn

- Luận văn góp phần làm sáng tỏ sù vËn dông, ph¸t triÓn c¸c nguyªn lý

cña phÐp biÖn chøng duy vËt ở Hå ChÝ Minh vµo trong qu¸ tr×nh chØ ®¹o c¸ch

m¹ng ViÖt Nam, tõ ®ã thÊy ® îc ý nghÜa to lín cña nã ®èi víi sù nghiÖp ®æi

míi ®Êt n íc trong giai ®o¹n hiÖn nay.

7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn

* Ý nghÜa lý luËn: LuËn v¨n lµm s¸ng tá quan điểm biÖn chøng duy vËt

trong c¸ch m¹ng ViÖt Nam cña Hå ChÝ Minh, gãp phÇn vµo viÖc ®Þnh h íng

®óng ®¾n vÒ chñ tr ¬ng, ® êng lèi x©y dùng ®Êt n íc trong c«ng cuéc đổi mới

ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

* Ý nghÜa thùc tiÔn: LuËn v¨n cã thÓ lµm t liÖu tham kh¶o trong viÖc

gi¶ng d¹y m«n t t ëng Hå ChÝ Minh, ®Æc biÖt lµ t t ëng triÕt häc Hå ChÝ

Minh, gióp cho b¶n th©n cã c¸ch nh×n nhËn, ®¸nh gi¸ ®óng ®¾n sù vËt, hiÖn

t îng, ®¹t hiÖu qu¶ cao trong hµnh ®éng.

8. KÕt cÊu cña luËn v¨n

Ngoµi phÇn më ®Çu, kÕt luËn, danh môc tµi liÖu tham kh¶o, luËn v¨n gåm

12

3 ch ¬ng vµ 8 tiÕt.

Chương 1

NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. 1. Phép biện chứng duy vật

Tõ x a ®Õn nay, trong mäi lÜnh vùc ho¹t ®éng cña con ng êi, vÊn ®Ò

ph ¬ng ph¸p lu«n ® îc ®Æt ra ®Ó lùa chän, sö dông nh»m thùc hiÖn mét c¸ch cã

hiÖu qu¶ nh÷ng môc tiªu đ· ®Þnh.

§¸nh gi¸ vÒ tÇm quan träng cña ph ¬ng ph¸p, P. Bªc¬n nhấn mạnh:

Ph ¬ng ph¸p như là “sợi chỉ cần thiết dẫn đường”. Cßn đối với R. §ªcac, «ng

l¹i ® a ra mét nhËn ®Þnh: ThiÕu ph ¬ng ph¸p th× ng êi tµi còng cã thÓ m¾c lçi,

cã ph ¬ng ph¸p th× ng êi tÇm th êng còng lµm ® îc viÖc phi th êng.

Cïng víi qu¸ tr×nh con ng êi nhËn thøc, c¶i t¹o, biÕn ®æi tù nhiªn vµ x·

héi, ph ¬ng ph¸p trong ho¹t ®éng nhËn thøc vµ trong c¶i t¹o hiÖn thùc còng

ngµy cµng ph¸t triÓn vµ më réng. Tuy nhiªn, còng cã ph ¬ng ph¸p ®óng ®¾n vµ

ph ¬ng ph¸p sai lÇm.

Trong lÞch sö ph¸t triÓn triÕt häc cã hai ph ¬ng ph¸p ®èi lËp nhau:

ph ¬ng ph¸p biÖn chøng vµ ph ¬ng ph¸p siªu h×nh. Trong ®ã, ph ¬ng ph¸p

biÖn chøng ® îc xem lµ ph ¬ng ph¸p khoa häc, lµ c«ng cô ®Ó nhËn thøc thÕ

giíi ngµy cµng ®óng ®¾n, s©u s¾c h¬n, ®Ó c¶i t¹o thÕ giíi ngµy cµng hiÖu qu¶

h¬n, theo nh÷ng quy luËt kh¸ch quan cña nã.

Ph ¬ng ph¸p biÖn chøng lµ ph ¬ng ph¸p nhËn thøc ®èi t îng ë trong c¸c

mèi liªn hÖ víi nhau, ¶nh h ëng lẫn nhau, rµng buéc nhau; nhËn thøc ®èi t îng

ë tr¹ng th¸i vËn ®éng, biÕn ®æi, n»m trong khuynh h íng chung lµ ph¸t triÓn.

13

§©y lµ qu¸ tr×nh thay ®æi vÒ chÊt cña c¸c sù vËt, hiÖn t îng mµ nguån gèc cña

sù thay ®æi Êy lµ do sù ®Êu tranh cña c¸c mÆt ®èi lËp ®Ó gi¶i quyÕt m©u thuÉn

néi t¹i cña chóng.

Ph ¬ng ph¸p biÖn chøng thÓ hiÖn t duy mÒm dÎo, linh ho¹t. Nã thõa

nhËn trong nh÷ng tr êng hîp cÇn thiÕt, bªn c³nh c²i “hoÆc l¯…hoÆc lµ …” cßn

cã c° c²i “vôa l¯…võa lµ…”; nã thõa nhËn mét chØnh thÓ trong cïng mét lóc

võa lµ nã l¹i võa kh«ng ph¶i lµ nã; thõa nhËn c¸i kh¼ng ®Þnh vµ c¸i phñ ®Þnh,

võa lo¹i trõ nhau ®ång thêi l¹i võa g¾n bã víi nhau.

Ph ¬ng ph¸p biÖn chøng ph¶n ¸nh hiÖn thùc ®óng nh nã tån t¹i. Nhê

vËy, ph ¬ng ph¸p t duy biÖn chøng trë thµnh c«ng cô h÷u hiÖu gióp con ng êi

nhËn thøc vµ c¶i t¹o thÕ giíi.

Cïng víi sù ph¸t triÓn cña t duy con ng êi, ph ¬ng ph¸p biÖn chøng trải

qua ba giai ®o¹n ph¸t triÓn, ® îc thÓ hiÖn trong triết häc víi ba h×nh thøc lÞch sö

cña phÐp biÖn chøng: phÐp biÖn chøng tù ph¸t ng©y th¬ thêi k× cæ ®¹i, phÐp biÖn

chøng duy t©m (cæ ®iÓn §øc), phÐp biÖn chøng duy vËt (do C. M¸c, Ph.

¡ngghen x©y dùng, sau ®ã ® îc V.I. Lªnin ph¸t triÓn).

*Phép biện chứng tự phát, ngây thơ thời kỳ cổ đại

Ngay từ thời cổ đại, những yếu tố biện chứng tự phát đầu tiên đã bắt đầu

xuất hiện. Chúng gắn liền với những kiến giải theo quan điểm duy vật. Khi xem

xét thế giới, người ta đã nhận thấy một bức tranh tổng quát, trong đó, các sự

vật, hiện tượng có mối liên hệ chằng chịt với nhau, tác động lẫn nhau, không có

cái gì đứng im mà tất cả đều vận động, biến hoá. Những yếu tố biện chứng ấy

đã nói lên sức mạnh nhận thức của con người, đã góp phần làm phong phú tri

thức chung và thúc đẩy nhận thức của con người phát triển. Tuy nhiên, đó mới

chỉ là những yếu tố biện chứng mang tính tự phát, ngây thơ. Bởi vì, nó chưa

dựa trên những thành quả khoa học mà mới chỉ dựa vào sự quan sát trực quan,

mang tính chất phỏng đoán về bức tranh chung của thế giới. Do đó, sau này nó

đã bị phép siêu hình (xuất hiện từ nửa cuối thế kỷ XV) thay thế.

14

* Phép biện chứng duy tâm

Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học cổ điển Đức ở cuối thế

kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Các đại biểu của triết học cổ điển Đức là Căng,

Phích – tơ, Selinh và đặc biệt là Hêghen đã đóng một vai trò to lớn trong việc

phê phán những quan điểm siêu hình và chuẩn bị về mặt lí luận cho việc xây

dựng phương pháp biện chứng. Có thể nói, trước Hêghen, trong triết học của

các nhà duy vật thế kỷ XVII – XVIII như Spi – nô da, Điđơrô, các nhà khai

sáng Pháp cũng đã có nhiều yếu tố của phép biện chứng. Song, chỉ đến Hêghen,

phép biện chứng mới được nêu lên thành một học thuyết, mới được hình thành

với tính cách là một bộ phận của triết học. Với một hệ thống khái niệm, phạm

trù và các quy luật cơ bản, Hêghen đã trở thành người đầu tiên xây dựng hoàn

chỉnh phép biện chứng. Tuy nhiên, đó lại là phép biện chứng duy tâm, trong đó,

“ý niệm tuyệt đối” được xem là cái có trước, tha hoá thành giới tự nhiên và xã

hội; biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật.

* Phép biện chứng duy vật

Kế thừa một cách có chọn lọc và phát triển những thành quả của các nhà

triết học trước đó, đồng thời dựa trên cơ sở khái quát những thành tựu to lớn

của khoa học hiện đại, thực tiễn lịch sử loài người, đặc biệt là thực tiễn xã hội

giữa thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật

biện chứng và phép biện chứng duy vật (sau này được V.I. Lênin bảo vệ và

phát triển). Mặc dù đánh giá rất cao những tư tưởng triết học biện chứng của

Hêghen đối với cuộc đấu tranh chống phương pháp siêu hình song C. Mác, Ph.

Ăng ghen và V.I. Lênin cũng hết sức phê phán những tư tưởng sai lầm, duy

tâm, phản động của Hêghen. Các ông đã cải tạo triệt để phép biện chứng của

Hêghen, đã tước bỏ đi những cái gì là thần bí, là phiến diện, làm cho phép biện

chứng của Hêghen đi bằng “chân” chứ không phải đi bằng “đầu”. Trong tác

phẩm Tư bản, C. Mác viết: “Phương pháp biện chứng của tôi chẳng những

khác về căn bản với phương pháp biện chứng của Hê ghen mà còn đối lập với

phương pháp đó. Đối với Hê ghen, quá trình của tư duy mà ông đã đặt cho cái

15

tên là ý niệm, là đấng sáng tạo ra hiện thực, còn hiện thực chỉ là biểu hiện bề

ngoài của ý niệm mà thôi. Đối với tôi thì trái lại, sự vận động của tư duy chỉ là

phản ánh của sự vận động hiện thực, di chuyển và biến hình vào trong đầu óc

con người” [57, 35]. Có thể nói, chỉ có các ông mới phát hiện ra phép biện

chứng thật sự tồn tại trong thế giới khách quan, từ đó đưa tri thức của loài

người tiến thêm một bước nữa trong quá trình nhận thức tự nhiên. Trong triết

học của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin, chủ nghĩa duy vật đã khắc phục

được mọi hạn chế trước đây, còn phép biện chứng cũng được trình bày theo

bản chất vốn có của nó - tức là trình bày trên cơ sở duy vật, dựa trên nền tảng

vững chắc của khoa học tự nhiên. Phép biện chứng duy vật đã trở thành một

học thuyết thực sự khoa học, một phương pháp luận tiên tiến dùng để nhận thức

và cải tạo thế giới.

Trong tác phẩm Chống Đuy Rinh, Ph. Ăngghen đã định nghĩa hoàn chỉnh

về phép biện chứng:

“Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ

biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và của tư

duy” [1, 201].

Còn đối với C. Mác, ông cũng coi “phép biện chứng là khoa học về

những quy luật chung của sự vận động của thế giới bên ngoài cũng như của tư

duy con người ” [43, 111].

Phép biện chứng duy vật được coi là một khoa học song nó khác với

khoa học cụ thể. Bởi vì nó nghiên cứu những quy luật chung nhất, những quy

luật phổ biến của sự vận động, phát triển và tác động trong cả 3 lĩnh vực: giới

tự nhiên, xã hội loài người và tư duy con người. Trong phép biện chứng duy

vËt, biÖn chøng cña c¸i kh¸ch quan quy ®Þnh biÖn chøng cña c¸i chñ quan, t

duy biÖn chøng ph¶n ¸nh tÝnh biÖn chøng vèn cã cña b¶n th©n cuéc sèng. Néi

dung cña nã lµ mét hÖ thèng c¸c nguyªn lý (Nguyªn lý vÒ mèi liªn hÖ phæ biÕn

vµ nguyªn lý vÒ sù ph¸t triÓn), c¸c quy luËt (Quy luËt chuyÓn ho¸ tõ nh÷ng sù

thay ®æi vÒ l îng thµnh nh÷ng sù thay ®æi vÒ chÊt vµ ng îc l¹i, quy luËt m©u

thuÉn, quy luËt phñ ®Þnh cña phñ ®Þnh - nãi lªn b¶n chÊt, c¸ch thøc vµ xu h íng

vËn ®éng vµ ph¸t triÓn) vµ c¸c cÆp ph¹m trï (c¸i chung - c¸i riªng – c¸i ®¬n 16

nhÊt, nguyªn nh©n - kÕt qu¶, b¶n chÊt – hiÖn t îng, kh¶ n¨ng - hiÖn thùc, néi

dung - h×nh thøc, tÊt yÕu - ngÉu nhiªn). Tõ nh÷ng nguyªn lý, quy luËt, ph¹m trï

®ã, phÐp biện chứng duy vật h×nh thµnh nªn c¸c quan ®iÓm, c¸c nguyªn t¾c chØ

®¹o trong nhËn thøc còng nh trong ho¹t ®éng thùc tiÔn. Tiªu biÓu lµ quan ®iÓm

toµn diÖn, quan ®iÓm ph¸t triÓn, quan ®iÓm lịch sử - cụ thể... trong sù xem xÐt

c¸c sù vËt, hiÖn t îng cña thÕ giíi. §ã lµ mét thÕ giíi chØnh thÓ, vËn ®éng vµ

ph¸t triÓn kh«ng ngõng trong m©u thuÉn, b»ng m©u thuÉn. §ã lµ mét hÖ thèng

“më” chø kh«ng “®ãng kÝn”, l¯ mét tËp hîp nh÷ng kh²i niÖm, ph³m trï “®éng”

chø kh«ng “tÜnh”.

Bắt nguồn từ chính hiện thực khách quan, phép biện chứng duy vật đã

cho chúng ta chiếc chìa khoá để giải thích tính chất phức tạp và muôn hình

muôn vẻ của thế giới, trang bị cho con người sự hiểu biết về những quy luật

chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó vận dụng vào trong hoạt động

thực tiễn của mình.

Để nắm được phép biện chứng duy vật, chúng ta phải hiểu được hai

nguyên lý, các cặp phạm trù và các quy luật của nó. Tuy nhiên, trong giới hạn

của luận văn, tôi chỉ xin đi vào tìm hiểu hai nguyên lý của phép biện chứng duy

vật và sự vận dụng hai nguyên lý đó ở Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt

Nam.

1.2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển

Thế giới vật chất rất đa dạng, phong phú và muôn hình muôn vẻ. Tuy

nhiên, thế giới vẫn thống nhất ở tính vật chất của nó. Thế giới vật chất tồn tại

trong sự vận động vĩnh viễn và tuân theo những quy luật khách quan của bản

thân sự vật, hiện tượng.

Song, vấn đề đặt ra là: trong sự thống nhất ấy, các sự vật và hiện tượng

có mối liên hệ với nhau hay là tồn tại một cách đơn lẻ? Và trong sự vận động

vĩnh viễn đó, thế giới đổi mới không ngừng hay là đi theo một vòng tuần hoàn

khép kín, lặp lại cái cũ?

Trả lời câu hỏi này có hai quan điểm đối lập nhau: quan điểm biện chứng

17

và quan điểm siêu hình. Phép biện chứng cho rằng: Mọi sự vật, hiện tượng trên

thế giới đều có mối liên hệ hữu cơ với nhau và luôn luôn vận động, phát triển.

Trái lại, phép siêu hình lại khẳng định: Mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới đều

tồn tại độc lập, tách rời nhau, luôn lặp lại cái cũ, không có sự đổi mới và phát

triển.

Phép biện chứng duy vật đã giải thích quan điểm của mình một cách

hoàn chỉnh trong hai nguyên lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý

về sự phát triển của sự vật, hiện tượng.

1.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

* Khái niệm về mối liên hệ phổ biến

Khi xem xét và phân tích thế giới khách quan (tự nhiên và xã hội), người

ta đã nhận thấy có một đặc điểm nổi bật là: mọi sự vật và hiện tượng trong thế

giới đều liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau, hình thành một màng lưới phức

tạp, vô cùng vô tận, tuyệt đối không có một sự vật hiện tượng nào tồn tại một

cách biệt lập, tách rời nhau. Thông qua những mối liên hệ, sự tác động qua lại

lẫn nhau ấy, các sự vật hiện tượng mới có thể biểu hiện sự tồn tại của mình, bộc

lộ bản chất và tính quy luật của chúng trong thế giới. Phép biện chứng duy vật

gọi đó là mối liên hệ phổ biến hợp quy luật của các sự vật và hiện tượng, đồng

thời coi việc nghiên cứu, giải thích mối liên hệ phổ biến ấy một cách khoa học

là nhiệm vụ nghiên cứu đầu tiên của mình.

Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật, mối liên hệ là phạm trù

triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau

giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng

trong thế giới.

* Các tính chất của mối liên hệ

Các nhà triết học duy vật biện chứng đã chỉ ra các tính chất của mối liên

hệ, đó là: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, nhiều vẻ.

Tính khách quan

Thế giới là một thể thống nhất trong đó các sự vật và hiện tượng có sự

18

liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Sự liên hệ và tác động qua lại đó là khách

quan, là vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng. Trong các tác phẩm: Tư

bản, Biện chứng của tự nhiên, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê

phán và trong nhiều tác phẩm khác, C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã

vạch rõ bản chất biện chứng của thế giới, đã chứng minh rõ biện chứng là cái

tồn tại khách quan vốn có của thế giới. Trong tác phẩm Lút vích Phơ Bách và

sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph. Ăngghen khẳng định: ngày nay

vấn đề không phải là tưởng tượng ra những mối liên hệ mà là phát hiện ra

những mối liên hệ đó từ trong những sự thực.

Thế giới vật chất rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, thế giới vẫn

thống nhất ở tính vật chất của nó. Thực tiễn cuộc sống - bằng những phát minh

khoa học - đã chỉ cho chúng ta thấy tính chất phát triển biện chứng của thế giới,

đã chứng tỏ mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có sự tác động qua lại lẫn

nhau, thông qua những mối liên hệ biện chứng. Ph.Ăng ghen nhấn mạnh:

những khoa học hiện đại về tự nhiên đã chứng thực rằng “trong tự nhiên, rút

cục lại, mọi cái đều diễn ra một cách biện chứng chứ không phải siêu hình” [1,

39]. Điều đó cũng có nghĩa, phép biện chứng với tư cách là học thuyết về sự

liên hệ phổ biến, không phải là sự phỏng đoán trực quan (giống như các nhà

biện chứng thời cổ đại), mà là học thuyết dựa chắc trên cơ sở khoa học. Thế

giới là một bức tranh chằng chịt các mối liên hệ và tác động qua lại. Bất cứ một

sự vật, hiện tượng nào cũng có mối quan hệ với tất cả các sự vật, hiện tượng

khác. Nếu như trước kia người ta cho rằng giữa giới vô cơ và giới hữu cơ có

một ranh giới tuyệt đối, thì ngay từ đầu thế kỷ XIX, các nhà hoá học đã chứng

minh từ chất vô cơ có thể tạo ra được các hợp chất hữu cơ. Do đó, lần đầu tiên

trong lịch sử nhận thức của nhân loại, cái “hố sâu” ngăn cách giữa tự nhiên vô

cơ và giới hữu cơ bị lấp kín. Người ta đã nhận thấy bản thân sinh vật chính là

kết quả của vật chất vô cơ, nhưng đồng thời cũng lại là nguyên nhân tác động

đến vật chất vô cơ. Con người chính là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, là

một bộ phận của tự nhiên, song, dù muốn hay không, con người vẫn luôn phải

19

chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác xung quanh và các yếu tố

ngay trong chính bản thân con người. Đồng thời, cùng với sự vận động và phát

triển của lịch sử nhân loại, để tồn tại, con người cũng có sự tác động trở lại với

những sự vật và hiện tượng đó.

Tính phổ biến

Khi phân tích thế giới khách quan, phép siêu hình đã tuyệt đối hoá tính

độc lập tương đối của sự vật, hiện tượng, coi chúng không có mối liên hệ gì với

nhau. Nó cô lập sự vật, hiện tượng ra khỏi điều kiện tồn tại của chúng, đồng

thời cắt đứt quá trình lịch sử của sự vật và hiện tượng. Nhìn vào bức tranh

chung của thế giới, phép siêu hình chỉ thấy đươc sự vật cá biệt mà không thấy

mối liên hệ giữa các sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy

được sự “sinh thành” cũng như “tiêu vong” của sự vật, chỉ thấy “cây” mà

không thấy “rừng”. Do đó, phép siêu hình đã không thể giải thích đựơc tại sao

giữa các mặt, các bộ phận, các quá trình của sự vật cũng như giữa sự vật này và

sự vật khác lại có những mối liên hệ như vậy mà không phải là mối liên hệ

khác; tại sao các hiện tượng xảy ra trong thế giới không phải hoàn toàn là ngẫu

nhiên mà lại tuân theo những quy luật nhất định?

Đối lập với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật đã chỉ ra rằng:

trong thế giới, các sự vật, hiện tượng không tồn tại biệt lập mà ràng buộc lẫn

nhau, phụ thuộc vào nhau, luôn tác động và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Sự liên

hệ như thế là phổ biến đối với các sự vật, hiện tượng khác nhau cũng như đối

với các mặt, các bộ phận bên trong mỗi sự vật, hiện tượng riêng lẻ. Và cơ sở

của sự liên hệ ấy chính là tính thống nhất vật chất của thế giới.

Trái với phép siêu hình, phép biện chứng coi thế giới tự nhiên không

phải là một sự chồng chất ngẫu nhiên các sự vật và hiện tượng tách rời nhau, cô

lập nhau với nhau, không phụ thuộc vào nhau, mà là một khối thống nhất có

liên hệ, trong đó sự vật và hiện tượng liên hệ hữu cơ với nhau, phụ thuộc vào

nhau và ràng buộc lẫn nhau. Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng giới tự nhiên chính là

“hòn đá thử vàng” của phép biện chứng. Việc phát minh ra tế bào, coi nó là đơn

20

vị cơ sở đã cho chúng ta thấy toàn bộ cơ thể của thực vật và động vật đều phát

triển bằng sự bội gia và sự phân hoá. Sự ra đời của học thuyết tiến hoá của

Đácuyn đã chỉ rõ: tất cả các giống loài sinh vật (kể cả con người) đều là sản

phẩm của một quá trình phát triển lâu dài bằng con đường phân ly tính chất. Và

như vậy cũng có nghĩa: trong thế giới có sự thống nhất và mối liên hệ chặt chẽ

giữa khoáng vật, thực vật, động vật và cả loài người. Đặc biệt, quy luật bảo

toàn và chuyển hoá năng lượng lại thêm một bằng chứng nữa bác bỏ quan điểm

siêu hình, chia cắt thế giới thành từng mảnh biệt lập, vạch rõ sự chuyển hoá lẫn

nhau của các hình thức vận động tạo ra tính nhiều vẻ của thế giới. Thế giới

không phải là một khối hỗn độn, trong đó, sự vật, hiện tượng này đặt cạnh sự

vật và hiện tượng khác như những cái “hộp” đặt trong tủ kính. Thế giới là một

khối thống nhất trong sự liên hệ, tác động qua lại, trong quá trình vận động,

phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đó là sự liên hệ vô cùng

khăng khít không chỉ là giữa các sự vật và hiện tượng với nhau mà còn là sự

chuyển hoá của chúng từ giai đoạn này, quá trình này sang giai đoạn khác, quá

trình khác. Bởi vì, trong bản thân mỗi sự vật và hiện tượng đã mang sẵn những

nhân tố có thể cấu thành sự vật và hiện tượng khác trong những điều kiện nhất

định.

Trên thực tế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng gọi

phép biện chứng là khoa học về những mối liên hệ. Bởi vì, bất cứ một sự vật,

hiện tượng nào trong thế giới cũng đều có mối liên hệ với các sự vật, hiện

tượng khác, không có sự vật và hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Người

ta nghiên cứu thấy những cánh bướm chập chờn bay ở rừng Amazôn cũng có

sự liên quan đến một cơn bão của Hồng Kông, sự lên xuống của thuỷ triều cũng

có sự liên quan đến mặt trăng, cũng như sự xuất hiện hiện tượng sao chổi cũng

có liên quan đến những sự kiện lớn trên thế giới. Con người sống và tồn tại nhờ

vào việc khai thác giới tự nhiên, tác động vào giới tự nhiên, song ngược lại,

giới tự nhiên với tư cách là môi trường sống của con người, luôn có sự ảnh

hưởng lớn đến con người. Sự tàn phá, khai thác nhiên một cách bừa bãi của loài

21

người sẽ làm giới tự nhiên trả thù bằng các hiện tượng “sóng thần”, bằng bão

lũ, bằng hạn hán, làm cho trái đất nóng lên, đe doạ tới sự sống của con người

và tuổi thọ của trái đất…

Không chỉ có tự nhiên mà cả xã hội loài người cũng vận động theo

“nhịp” biện chứng. Trong lĩnh vực xã hội, người ta nhận thấy mối quan hệ giữa

con người với con người là tất yếu khách quan. Do nhu cầu sống và tồn tại, con

người buộc phải có mối quan hệ qua lại với nhau, tác động lẫn nhau (mà cơ sở

của mối quan hệ ấy là lợi ích).

Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh

tế - xã hội khác nhau. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội là một thể thống nhất

hữu cơ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến

trúc thượng tầng. Trong đó, các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, các hình

thái ý thức xã hội đồng thời cũng có sự liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau.

Đặc biệt, giữa các hình thái kinh tế xã hội khác nhau cũng có mối liên hệ chặt

chẽ với nhau trong quá trình phát triển.

Xét trong lĩnh vực tư duy, tư tưởng, người ta cũng nhận thấy: ý thức con

người (vốn là những cái phi vật chất, là thuộc tính của một dạng vật chất cao

nhất là bộ óc người) chính là sự phản ánh sự vận động của hiện thực khách

quan, “di chuyển” và “biến hình” vào trong đầu óc của con người. Ph. Ăngghen

đã chỉ rõ: lịch trình biện chứng của ý tưởng chỉ là phản ánh ý thức của thế giới

thực tại. Nói cách khác, biện chứng khách quan quy định biện chứng chủ quan,

tư duy biện chứng phản ánh tính biện chứng vốn có của bản thân cuộc sống.

Tính đa dạng

Thừa nhận thế giới là một bức tranh chằng chịt các mối liên hệ và tác

động qua lại, phép biện chứng duy vật đồng thời cũng chỉ ra tính da dạng,

nhiều vẻ của mối liên hệ.

Thế giới vật chất là muôn hình muôn vẻ cho nên những mối liên hệ và sự

tác động lẫn nhau của các sự vật và hiện tượng trong thế giới cũng vô cùng

phong phú và đa dạng. Người ta nghiên cứu thấy có các mối liên hệ sau: mối

22

liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ

yếu; mối liên hệ trực tiếp, mối liên hệ gián tiếp; mối liên hệ bản chất, mối liên

hệ không bản chất; mối liên hệ tất yếu, mối liên hệ ngẫu nhiên. Trong đó, các

loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối vớí sự vận động và phát triển

của các sự vật và hiện tượng. Tuy nhiên, phép biện chứng mácxít không nghiên

cứu tất cả các mối liên hệ mà chỉ nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất,

mối liên hệ vốn có trong cả lĩnh vực vật chất lẫn tinh thần.

Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, sự tác động lẫn nhau giữa

các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật.

Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng này với các

sự vật và hiện tượng khác.Ví dụ như: xét trong đời sống xã hội thì mối liên hệ

giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (hợp thành phương thức sản xuất)

là mối liên hệ bên trong, còn mối liên hệ giữa xã hội với hoàn cảnh địa lý tự

nhiên được coi là mối liên hệ bên ngoài. Trong đó, mối liên hệ bên trong và

mối liên hệ bên ngoài có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau song

mối liên hệ bên trong là nhân tố chủ yếu. Nó quyết định bản chất, khả năng

biến hoá vốn có của sự vật và hiện tượng, quyết định mức độ ảnh hưởng của

điều kiện bên ngoài đối với sự vật ấy. Mối liên hệ bên ngoài, nhìn chung,

không giữ vai trò quyết định, thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mới

có thể tác động đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên,

mối liên hệ bên ngoài cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt, trong

những điều kiện nhất định, nó có thể giữ vai trò quyết định. Chẳng hạn như:

Ngày nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới đang

tạo ra thời cơ, đồng thời cũng tạo ra những thách thức to lớn đối với các nước

chậm phát triển – trong đó có Việt Nam. Đất nước ta có tranh thủ được thời cơ

do cuộc cách mạng đó tạo ra hay không, trước hết và chủ yếu phụ thuộc vào sự

“tự lực cách sinh”, vào năng lực của Đảng, của nhà nước và nhân dân ta. Song,

chúng ta cũng khó có thể xây dựng được một đất nước “dân giàu, nước mạnh,

23

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nếu không hội nhập quốc tế, không tận

dụng được những thành quả của các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ

mà thế giới đã đạt được.

Cũng giống như xét quan hệ giữa mối liên hệ bên trong và mối liên hệ

bên ngoài, người ta nhận thấy các cặp mối liên hệ khác cũng có mối quan hệ

biện chứng với nhau. Ở mỗi cặp mối liên hệ lại có những đặc trưng riêng. Và

trong các cặp mối liên hệ ấy, nhìn chung, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ tất

nhiên, mối liên hệ chủ yếu thường giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, tùy theo

những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, cũng có những khi các mối liên hệ tương

ứng với chúng lại giữ vai trò quyết định. Nói cách khác, sự phân chia các mối

liên hệ trong từng cặp chỉ mang tính chất tương đối. Trong từng cặp mối liên

hệ, các loại mối liên hệ có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát

của các mối liên hệ hoặc do quá trình vận động và phát triển của bản thân các

sự vật. Ví dụ: Cùng là bốn những lĩnh vực: trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục,

nếu như chúng ta coi chúng là bốn lĩnh vực khác biệt thì mối liên hệ giữa chúng

là mối liên hệ bên ngoài; song, nếu chúng ta coi chúng là bốn lĩnh vực cơ bản

của công tác giáo dục trong nhà trường (nhằm hình thành và phát triển nhân

cách, xây dựng con người mới) thì lúc này mối liên hệ giữa chúng với nhau lại

trở thành mối liên hệ bên trong.

Mặc dù sự phân chia các mối liên hệ chỉ mang tính chất tương đối,

nhưng mỗi một loại mối liên hệ lại có một vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận

động và phát triển của sự vật cho nên sự phân chia đó là cần thiết. Trong một

sự vật, hiện tượng có thể bao gồm rất nhiều mối liên hệ chứ không phải chỉ có

một cặp mối liên hệ xác định, đồng thời các mối liên hệ ấy cũng hết sức phức

tạp. Vì thế, con người phải biết tìm ra các mối liên hệ, phân loại được các mối

liên hệ, nắm bắt đúng vai trò của từng mối liên hệ để từ đó có cách tác động

phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn của mình.

1.2.2. Nguyên lý về sự phát triển

24

* Khái niệm phát triển

Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: Nguyên lý về mối liên hệ

phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói

về điều này, Ph. Ăngghen khẳng định: “Tất cả giới tự nhiên mà chúng ta có thể

nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau”.

“Việc các vật thể ấy có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này

tác động lẫn nhau, và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động” [2, 520].

Rõ ràng, có thể thấy: Sự liên hệ phổ biến của sự vật, hiện tượng trong thế

giới không tách rời sự vận động, biến hoá, phát triển và ngược lại. Trong đó,

cái này làm tiền đề cho cái kia, bao hàm cái kia. Chính vì xuất phát từ việc nhìn

nhận thế giới trong sự tách rời, cô lập của các sự vật và hiện tượng cho nên

những nhà triết học theo quan điểm siêu hình đã phủ nhận sự vận động, biến

đổi và phát triển trong thế giới. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ hạn chế của phương

pháp siêu hình: phương pháp siêu hình truyền cho chúng ta một thói quen là

“xem xét những sự vật tự nhiên và quá trình tự nhiên trong trạng thái biệt lập

của chúng, ở bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, và do đó không xem xét

chúng trong trạng thái vận động mà xem xét trong trạng thái tĩnh; không coi

chúng về cơ bản là biến đổi mà coi chúng là vĩnh viễn không biến đổi, không

xem xét chúng trong trạng thái trạng thái sống mà xem xét chúng trong trạng

thái chết” [1; 36]. Tuy nhiên, cũng có các nhà triết học siêu hình thừa nhận có

sự vận động, phát triển trong thế giới. Bởi trước những sự thật không thể chối

cãi được, đặc biệt là trước áp lực của các tài liệu khoa học lúc bấy giờ, các nhà

triết học siêu hình cũng khó mà phủ nhận sự phát triển. Song, khi nói về sự phát

triển, theo họ, nếu có phát triển thì phát triển chỉ là sự tăng hoặc giảm đơn

thuần về lượng mà không có sự biến đổi về chất. Nó diễn ra theo một vòng tuần

hoàn khép kín, không có những bước thăng trầm, quanh co, phức tạp. Đặc biệt,

trong con mắt của các nhà siêu hình, nguồn gốc, động lực của sự phát triển

không phải do mâu thuẫn bên trong của sự vật mà do sự tác động của những

25

lực lượng bên ngoài như thượng đế.

Trái lại, phép biện chứng duy vật, dựa trên sự khái quát những thành quả

của khoa học tự nhiên, đã chỉ ra: thế giới là một bức tranh chằng chịt các mối

liên hệ, trong đó mọi sự vật và hiện tượng không phải đứng yên một chỗ mà

chúng luôn vận động, phát triển tuân theo những quy luật nhất định.

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một

phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ

đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.

*Tính chất của sự phát triển

Tính khách quan

Thế giới vật chất thật muôn hình muôn vẻ. Song, thế giới vẫn thống nhất

ở tính vật chất của nó. Thực tiễn cuộc sống, với những phát minh khoa học, đã

khẳng định rằng: mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tác động qua lại lẫn

nhau, đều nằm trong quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong, đều có quá

trình thay thế cái cũ bằng cái mới.

Phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, theo quan điểm

của các nhà duy vật biện chứng, động lực của mọi sự phát triển không phải do

nguyên nhân bên ngoài mà nằm ngay trong bản thân hiện thực khách quan. Đó

là do mâu thuẫn nội tại, do sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:

giữa sức hút và sức đẩy trong lực học, giữa âm và dương trong vật lý, giữa

phân giải và hoá hợp trong hoá học, giữa di truyền và biến dị, đồng hoá và dị

hoá trong sinh vật học, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa giai

cấp thống trị và giai cấp bị trị trong xã hội, giữa cái chưa biết và cái đã biết,

giữa tính vô hạn của nhận thức loài người với tính có hạn của nhận thức ở từng

con người cụ thể trong nhận thức luận v.v… Dưới cái bề ngoài tưởng chừng

như rất giản đơn của các sự vật, hiện tượng lại luôn ẩn giấu những yếu tố trái

ngược, tương phản. Trong đó, các mặt đối lập, các xu hướng đối lập luôn luôn

liên hệ với nhau, đồng thời chúng lại chuyển hoá, phủ định lẫn nhau, hướng

vào nhau và đấu tranh. Mặt này chính là cơ sở tồn tại của mặt kia và ngược lại.

26

Nó là động lực thúc đẩy sự vật vận động, biến đổi. Nếu không có mâu thuẫn,

không có sự khắc phục mâu thuẫn thì sẽ không thể có sự phát triển. Đó là quy

luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy, đồng thời cũng là quy luật quan

trọng nhất, là hạt nhân, là bản chất của phép biện chứng. V.I. Lênin đã từng

nói: “Sự phân đôi cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của

nó, đó là thực chất (một trong những “bản chất”, một trong những đặc trưng

hay đặc điểm cơ bản, nếu không phải là đặc trưng hay đặc điểm cơ bản nhất

của phép biện chứng)” [44, 378].

Tiến bộ là tính chất vốn có của sự tiến hoá của vạn vật. Lịch sử tiến triển

của tự nhiên, vũ trụ là lịch sử của sự đổi mới từ thấp lên cao. Quá trình đó diễn

ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, làm cho cái cũ không ngừng bị tiêu vong, cái mới

không ngừng xuất hiện. Bắt đầu là sự thay đổi dần dần về lượng, từ đó sẽ dẫn

đến sự thay đổi về chất thông qua những bước nhảy. Mọi sự thay đổi trong thế

giới khách quan đều diễn biến theo phương thức chuyển hoá từ những thay đổi

về lượng thành những thay đổi về chất. Trong tác phẩm Biện chứng của tự

nhiên, Ph. Ăngghen viết: Trong vật lý học, “mọi sự biến hoá đều là sự đổi

lượng thành chất, là kết quả của sự biến đổi về lượng của số lượng vận động -

vận động bất kỳ dưới hình thức nào - cố hữu của vật thể ấy hoặc được truyền

cho vật thể ấy” [2, 514]. Tuy nhiên, sự thay đổi về lượng không phải là sự cộng

lại hay sự pha trộn mà nó là sự phối hợp, biến chế, cũng giống như không phải

lấy trăm màu bôi lên mặt giấy là sẽ thành một bức hoạ, không phải cứ đem

gạch, ngói, gỗ sắt chất đống lên có thể có được một cái nhà. Ví dụ Na – pô – lê

– ông nói:

“2 người lính Mameluck thì trội hơn hẳn 3 người lính Pháp

100 người lính Mameluck và 100 người lính Pháp thì ngang nhau

300 người lính Pháp thì thường thường trội hơn 300 người lính

Mameluck

Và 1000 người lính Pháp thì bao giờ cũng đánh bại được 1500 người lính

27

Mameluck” [1, 184]

Dựa vào những căn cứ khoa học, các nhà triết học biện chứng duy vật đã

chỉ ra: “tiệm tiến” và “bột phát” là quy luật của sự tiến hoá. Mọi vật trong tự

nhiên đều tiến hoá tuần tự, đến một trình độ, một giai đoạn nhất định sẽ có sự

biến hoá “gấp rút” nhảy sang một hình thái mới. Ví dụ như: thân cây hoá thạch

biến thành than đá, chất quang tuyến biến thành hêlium hay mọi loài thảo mộc

và động vật đều biến hoá bằng những sự thay đổi mang tính đột biến

v.v…Song, những sự thay đổi mang tính đột biến ấy lại là những giai đoạn kế

tiếp nhau của một lịch trình phát triển, tiến hoá tuần tự của cùng một sự vật.

Theo quan điểm của các nhà triết học duy vật biện chứng, phát triển là

hiện tượng diễn ra không ngừng trong cả giới tự nhiên, trong xã hội và tư duy.

Tuy nhiên, đó không phải là mọi sự vận động nói chung. Phát triển chỉ khái

quát xu hướng chung của sự vận động đi lên của sự vật mới ra đời thay thế sự

vật cũ. Nếu ta xem xét ở góc độ các sự vật, hiện tượng cá biệt, ở những thời

điểm nhất định, có thể có những vận động đi lên, có vận động tuần hoàn, thậm

chí có cả vận động đi xuống, song nếu ta xem xét suốt cả quá trình vận động

của sự vật, hiện tượng thì vận động đi lên là khuynh hướng chung của mọi sự

vật. Vì thế, các nhà duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng phát triển diễn ra theo

một đường xoáy ốc. Trong quá trình phát triển có những bước thăng trầm,

quanh co, phức tạp, sự vật dường như lặp lại cái cũ song lại trên cơ sở mới cao

hơn...

Tính phổ biến

Sự phát triển của sự vật, hiện tượng là mang tính phổ biến. Tính phổ biến

của sự phát triển thể hiện ở chỗ nó diễn ra trong mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội

và tư duy, ở bất kể sự vật hiện tượng nào của thế giới khách quan.

Thế giới nằm trong một quá trình vận động, phát triển không ngừng. Vật

chất - tự nó - luôn luôn có sự tiến hoá, biến đổi, chuyển dời, cái cũ không

ngừng bị tiêu vong, cái mới không ngừng xuất hiện. Ở đâu trên thế giới cũng

diễn ra quá trình chuyển biến của các sự vật, hiện tượng từ trạng thái này sang

28

trạng thái khác, sự thay thế lẫn nhau giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và

cái lạc hậu, giữa cái đang lên và cái suy tàn. Nói như Giô – rét, một lãnh tụ xã

hội Pháp:

“Không gì xảo trá hơn câu châm ngôn bi quan và cảm động và phản

động của nhà tôn đồ Thánh giáo chán chường: “Không có gì mới lạ dưới ánh

sáng mặt trời”. Mặt trời xưa kia chính là một sự mới lạ, trái đất là một sự mới

lạ, rồi con người cũng là một sự mới lạ. Lịch sử con người chỉ là sự cố gắng

không ngừng để phát minh ra những sự mới lạ, và sự tiến hoá không ngừng là

một sự sáng tạo không ngừng” [Trích 86, 86].

V.I. Lênin đã từng nói: “Cái biện chứng = nắm được những mặt đối lập

trong sự thống nhất của chúng”[44, 107]. Ở xã hội cũng như trong tự nhiên,

mọi vật đều biến hoá theo một quá trình gồm sinh, trưởng, diệt. Bởi vì, ở mọi

sự vật, hiện tượng đều có các mặt đối lập nhau, cùng thống nhất với nhau, đấu

tranh với nhau trong một sự vật tạo thành các mâu thuẫn. Khoa học hiện đại

ngày càng đi sâu vào bản chất của mâu thuẫn. Người ta đã nhận thấy trong ánh

sáng có sự thống nhất và đấu tranh giữa tính chất sóng và tính chất hạt, trong

sinh vật học có quá trình đồng hoá và dị hoá, có sự mâu thuẫn giữa di truyền và

biến dị. Trong xã hội có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản, giữa chủ

nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Trong tư duy có mâu thuẫn giữa năng lực

nhận thức vô hạn của loài người với sự hiểu biết có hạn ở từng con người cụ

thể v.v…Do đó, dù con người có muốn hay không - thì các sự vật hiện tượng

trong thế giới vẫn luôn vận động, phát triển theo những quy luật nhất định.

Khoa học đã chứng minh được rằng: trước kia, trái đất vẫn còn là một tinh cầu

cháy rực như mặt trời, trên đó chưa hề có sự sống. Sau này, các loài sinh vật

mới lần lượt kế tiếp nhau mà phát triển, loài sinh sau phức tạp, hoàn bị hơn loài

trước. Sau cùng, con người mới xuất hiện - do chính sự tiến hoá của một loài

động vật: vượn người. Và cũng phải rất lâu, con người - từ trạng thái súc vật

của đời sống mông muội - mới có thể tiến đến chỗ có ý thức về bản thân mình,

29

biết suy nghĩ, đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ trực quan sinh

động đến tư duy trừu tượng. Đó là cả một quá trình lịch sử kéo dài trên mấy

vạn năm.

Trong con mắt của các nhà siêu hình, trạng thái tự nhiên của vật chất là

trạng thái nghỉ ngơi, trạng thái tĩnh. Ví dụ như tảng đá, nó có bề mặt, có sức

nặng, có thể đo được, có thể cân được nhưng ngày tháng qua đi, trông nó vẫn

không có vẻ gì là thay đổi. Đặc biệt là bao giờ người ta cũng thấy nó đứng

nguyên chỗ cũ. Trông vẻ bề ngoài, hòn đá thật là “yên tĩnh”, tưởng chừng như

bên trong nó hoàn toàn là một chất “chết”. Tuy nhiên, đối với phép biện chứng

duy vật, không có cái gì là “tuyệt đối”, là cố định cả, chỉ có trình liên tiếp của

sự “quá độ” và của sự “trở thành”, chỉ có sự tiến triển không ngừng từ thấp lên

cao. Khoa học ngày nay đã chỉ cho chúng ta biết: về cấu tạo bên trong hòn đá

bao gồm những phần tử nhỏ li ti, đó là nguyên tử. Mỗi một nguyên tử là một hệ

thống phức tạp bao gồm vô số những điện tử luôn luôn chuyển động, quay

chung quanh hạt nhân trên những quỹ đạo cũng giống như những hành tinh

xoay quanh mặt trời. Rõ ràng, dưới vẻ bề ngoài tưởng chừng như “yên tĩnh” ấy

thực tế lại ẩn giấu một sự chuyển biến không ngừng. Trong sự tiến triển của

lịch sử xã hội loài người cũng vậy, không có một xã hội nào đứng yên cả, từ tổ

chức kinh tế, chính trị đến luân lý, phong tục, mọi thứ đều luôn biến đổi. Nó là

kết quả của việc giải quyết những mâu thuẫn thông qua cuộc đấu tranh giữa các

giai cấp (mà đỉnh cao là các cuộc cách mạng).

Tính đa dạng

Bên cạnh tính khách quan, tính phổ biến, phép biện chứng duy vật còn

chỉ ra tính đa dạng và phong phú của sự phát triển. Có thể nói, khuynh hướng

chung của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới là vận động đi lên. Tuy nhiên,

sự phát triển ở mỗi sự vật, hiện tượng khác nhau lại không giống nhau. Bởi vì

nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của sự vật, hiện tưọng là do mâu thuẫn bên

trong của bản thân sự vật, hiện tượng ấy. Mặt khác, trong quá trình tồn tại và

phát triển, các sự vật, hiện tượng còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện

30

tượng khác. Sự tác động đó có thể thúc đẩy nhưng cũng có thể kìm hãm sự phát

triển của sự vật, thậm chí có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật,

đôi khi còn làm cho sự vật thụt lùi. Ví dụ như: cùng là sự lựa chọn đi theo con

đường chủ nghĩa xã hội nhưng tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng nước mà mỗi

nước vạch ra các chủ trương, cách thức tiến hành xây dựng chế độ xã hội chủ

nghĩa khác nhau. Song, các nước đó có đi được đúng hướng chủ nghĩa xã hội

hay không còn chịu tác động, ảnh hưởng của những nước bên ngoài, sự chống

phá của các lực lượng thù địch.

1.3. Nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ

biến và nguyên lý về sự phát triển

C. Mác đã từng nói: Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới

bằng những cách khác nhau, song vấn đề ở chỗ phải cải tạo thế giới. Từ việc

nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về sự

phát triển, chúng ta có thể rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và

cải tạo hiện thực.

1.3.1. Quan điểm toàn diện

Theo quan điểm duy vật biện chứng, các sự vật và hiện tượng trong thế

giớí không phải tồn tại một cách biệt lập, mà tồn tại và phát triển trong mối liên

hệ, trong sự thống nhất với sự vật và hiện tượng khác. Sự liên hệ đó là đặc

điểm căn bản của thế giới khách quan, phong phú, đa dạng và mang tính phổ

biến. Vì thế, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta

phải có quan điểm toàn diện, chống quan điểm phiến diện trong việc xem xét

sự vật.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải nhận thức sự vật, hiện tượng

trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt trong

bản thân sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các

sự vật khác. Bởi vì mỗi một mối liên hệ chỉ phản ánh một phần bản chất của sự

vật cho nên muốn nhận thức được bản chất của sự vật, điều quan trọng là phải

nắm được mối liên hệ phổ biến, toàn diện, nghĩa là phải nắm được tổng thể của

31

mối liên hệ. V.I. Lênin khẳng định: “chỉ có trong toàn bộ và trong quan hệ lẫn

nhau của những hiện thực ấy, khái niệm mới được thực hiện” [44, 209]. Ví dụ

như: khi xem xét con sông và những giọt nước của con sống ấy, V.I. Lênin đòi

hỏi phải nghiên cứu vị trí của mỗi giọt, mối quan hệ của nó với những giọt

khác; hướng vận động của nó; tốc độ; con đường vận động (thẳng, cong,

tròn…) hướng lên trên, hướng xuống dưới, tổng của vận động. Nghĩa là phải

nắm được càng nhiều càng tốt những “vòng khâu” của liên hệ, vòng khâu trong

mối liên kết. Theo V.I. Lênin, “bản tổng kê” của các sự vật hiện tượng cũng

như bản chất của dòng sông được rút ra từ “bản tổng kê” những mặt riêng biệt

của vận động, của những “giọt riêng biệt”, của những “luồng riêng biệt” [44,

156]. Vì vậy, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, chúng ta phải đứng

trên quan điểm toàn diện, phải có cái nhìn bao quát, nghiên cứu tất cả các mặt,

các mối liên hệ và khâu trung gian của sự vật đó. Các mối liên hệ trong hiện

thực vô cùng phong phú song xét về tính chất và ý nghĩa thì chúng không giống

nhau. Đặc biệt, trong những điều kiện nhất định, các mối liên hệ lại có thể

chuyển hoá lẫn nhau. Cho nên, có quan điểm toàn diện không có nghĩa là san

bằng mọi mối liên hệ, không có nghĩa là cứ ghép lại với nhau một cách tuỳ tiện.

Toàn diện nhưng mặt khác phải có trọng tâm trọng điểm. Vì thế, từ những mối

liên hệ toàn diện, đòi hỏi chúng ta lại phải đi sâu phát hiện những mối liên hệ

cơ bản, quy định bản chất của sự vật như: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ

bản chất, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ tất nhiên. Trên cơ sở đó cần sử

dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để đem lại hiệu quả

cao nhất trong hoạt động thực tiễn của bản thân.

1.3.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể

Muốn đánh giá đúng bản chất của sự vật, hiện tượng, bên cạnh quan

điểm toàn diện, chúng ta cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể.

Quan điểm lịch sự - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi xem xét cũng như khi

đánh giá và tác động vào các sự vật, hiện tượng phải chú ý đến điều kiện, hoàn

cảnh lịch sử - cụ thể trong đó sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, và phát triển.

32

Với mỗi sự vật, hiện tượng khác nhau sẽ có những đặc điểm khác nhau, do đó

cần phải dùng những biện pháp khác nhau trong tác động để có thể được hiệu

quả cao nhất. Xét về các giai đoạn lịch sử cũng vậy, có thể một luận điểm nào

đó đúng trong điều kiện này song lại không đúng trong điều kiện khác. Cho

nên, để xác định đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta

bao giờ cũng căn cứ vào sự phân tích tình hình cụ thể của đất nước, đặc điểm

của đất nước và bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong thời kỳ đó.

1.3.3. Quan điểm phát triển

Quan điểm siêu hình về sự phát triển không thể giải thích được tính chất

phong phú, sự phức tạp muôn hình muôn vẻ của thế giới, do đó, nó không thể

đề ra được con đường, biện pháp đúng đắn để đẩy sự vật tiến lên.

Trái lại, quan điểm biện chứng về sự phát triển đã chỉ cho chúng ta con đường

nhận thức khoa học, từ đó vạch ra con đường đúng đắn để cải tạo hiện thực.

Ý nghĩa đặc biệt quan trọng của triết học Mác - Lênin về sự phát triển là

ở chỗ: nó đòi hỏi chúng ta khi xem xét bất cứ sự vật, hiện tượng nào, bất cứ vấn

đề gì đều phải đứng trên quan điểm phát triển, nếu không thì chúng ta không

thể hiểu được sự vật, hiện tượng một cách đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc, không thể

nắm được triết lý. Quan điểm biện chứng về sự phát triển là quan điểm khoa

học, phù hợp với thực tại khách quan. V.I. Lênin đã vạch ra một cách sâu sắc

sự đối lập giữa hai quan niệm biện chứng và siêu hình như sau:

“Hai quan niệm cơ bản về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi

như là giảm đi, tăng lên, như là lặp lại, và sự phát triển coi như là sự thống nhất

của các mặt đối lập (sự phân đôi của cái thống nhất thành những mặt đối lập bài

trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt đối lập ấy).

Với quan niệm thứ nhất về sự vận động, sự tự vận động, động lực của

nó, nguồn gốc của nó, động cơ của nó nằm trong bóng tối (hay là người ta đem

nguồn gốc ấy đặt ra bên ngoài - Thượng đế, chủ thể, etc). Với quan niệm thứ

hai, sự lưu ý chủ yếu lại hướng chính vào sự nhận thức nguồn gốc của “tự” vận

động” [44; 379]. Theo V.I. Lênin, quan niệm thứ nhất là “chết cứng, nghèo

33

nàn, khô khan” còn quan niệm thứ hai thì “sinh động”. Chỉ có quan niệm thứ

hai mới cho ta chìa khoá của “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn

tại”, cho ta chìa khoá của “những bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính

tiệm tiến”, của “sự chuyển hoá thành mặt đối lập”, của “sự tiêu diệt cái cũ và

nảy sinh cái mới” [44, 379].

Nhận thức bản chất của sự vật không phải chỉ là nhận thức thông qua

những hiện tượng với tính cách là “cái hiện có trực tiếp hay tồn tại trực tiếp”

mà còn phải xem xét, phân tích những hiện tượng với tính cách là những cái

không tồn tại hoặc là cái mang tính phủ định tự nó. V.I. Lênin đã phân tích: “bề

ngoài là hư vô, là cái không tồn tại mà đang tồn tại - tồn tại với tính cách vòng

không” [44, 140]. Vì thế, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, nhận thức bản

chất của các sự vật, hiện tượng không những chúng ta phải xem xét, phân tích

cái tồn tại hiện có mà quan trọng hơn là phải biết phát hiện cái chưa có, cái sẽ

có hoặc cái phải có. Ví dụ: khi nghiên cứu nền kinh tế của nước ta, không

những chúng ta cần phải thấy đặc điểm vốn có của nó mà còn phải thấy được

cái chưa có, cái phải có, cái còn thiếu của nền kinh tế đất nước. Có nghĩa là

phải có tầm nhìn xa trông rộng.

Có thể nói, quan niệm biện chứng về sự phát triển đã đưa lại cho chúng

ta cách xem xét sự vật, hiện tượng một cách khoa học. Nó chỉ ra tình trạng

không ổn định do những mâu thuẫn bên trong của các sự vật, hiện tượng. Nó

chỉ ra tính chất mong manh của cái cũ (tuy bề ngoài vẫn còn có vẻ đồ sộ, vững

chắc), nó chỉ ra sức sống hùng mạnh của cái mới (dù lúc đầu xem ra còn nhỏ

yếu). Nó chỉ ra rằng cái mới là không gì thắng nổi, rằng đó là đặc điểm quan

trọng nhất trong sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nguyên

lý về sự phát triển đã chỉ ra cho chúng ta thấy: Nếu phát triển là quá trình đổi

mới không ngừng thì nhiệm vụ của khoa học và sự nhận thức khoa học là: phải

nghiên cứu bản thân giới tự nhiên, vật chất trong sự vận động vô tận của nó,

trong sự biến đổi từ dạng này sang dạng khác, từ giản đơn đến phức tạp, từ thấp

lên cao. Nếu phát triển là quá trình cái mới ra đời, cái cũ mất đi, cái mới chiến

34

thắng cái cũ bằng một cuộc đấu tranh không thể điều hoà, thì con đường duy

nhất để thay đổi những chế độ xã hội mục nát là làm cách mạng chứ không

phải cải lương.

Nguyên lý về sự phát triển đã chỉ ra: mọi sự vật, hiện tượng trong thế

giới đều nằm trong quá trình vận động và phát triển. Cho nên, trong nhận thức

và trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải có quan điểm phát triển, tức là

khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào, chúng ta cũng phải đặt chúng trong

sự vận động, phát triển, vạch ra những xu hướng biến đổi, chuyển hoá của

chúng.

Quan điểm phát triển đòi hỏi: khi đánh giá một sự vật, hiện tượng, chúng

ta không chỉ căn cứ vào cái hiện đang tồn tại của sự vật mà cần phải thấy được

những khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được

những biến đổi có tính chất thụt lùi tạm thời, khái quát để vạch ra khuynh

hướng biến đổi chính của sự vật. Quan điểm phát triển còn chỉ ra rằng: cần phải

nhìn nhận sự vật, hiện tượng theo những giai đoạn nhất định, từ đó tìm ra

phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp để hoặc là thúc đẩy sự vật

phát triển nhanh hơn, hoặc là kìm hãm sự phát triển của nó (tuỳ theo sự phát

triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống con người). Đồng thời, quan điểm

phát triển cũng đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến. Bởi

vì, nếu như chúng ta tuyệt đối hoá một nhận thức nào đó về sự vật trong một

hoàn cảnh lịch sử phát triển nhất định, trong một giai đoạn phát triển nhất định,

mà xem nó là nhận thức duy nhất đúng đắn về toàn bộ sự vật trong quá trình

phát triển tiếp theo của nó thì chúng ta sẽ mắc phải những sai lầm nghiêm

trọng. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng lôgíc biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong

sự phát triển, trong sự tự vận động, trong sự biến đổi của nó. Chúng ta chỉ có

thể có quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật khi chúng ta khái quát và làm

sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau của sự vật.

Trong quá trình phát triển, sự vật có thể có những bước thụt lùi tạm thời nhưng

xu hướng chung là biến đổi đi lên. Vì thế phải thấy được tính quanh co, phức

35

tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ biến. Muốn thúc đẩy sự

vật phát triển theo quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu

thuẫn chính của sự vật, bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn. Sự

phát triển biện chứng của tự nhiên, xã hội và tư duy được thực hiện bằng con

đường thông qua sự tích luỹ về lượng mà tạo ra sự thay đổi về chất, thông qua

phủ định của phủ định. Cho nên, khi vận dụng quan điểm phát triển trong hoạt

động thực tiễn nhằm cải tạo sự vật, chúng ta phải biết phát huy nỗ lực của mình

trong việc hiện thực hoá hai quá trình đó. Thiếu quan điểm khoa học đó, người

ta sẽ dễ rơi vào bi quan, dao động, nhất là khi tiến trình cách mạng và sự tiến

triển của từng lĩnh vực xã hội, cũng như của cá nhân nói riêng tạm thời gặp khó

khăn, trắc trở.

* * *

Kết luận chương 1: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về

sự phát triển đã chỉ ra rằng: thế giới là một chỉnh thể, trong đó mọi sự vật, hiện

tượng đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau. Mối liên hệ đó

là khách quan, tất yếu và phổ biến. Các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều

luôn luôn vận động, phát triển. Trong quá trình phát triển, có thể có những

bước thụt lùi tạm thời song khuynh huớng chung là đi lên theo đường xoáy ốc.

Ý nghĩa quan trọng nhất mà hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật nên lên

là: vấn đề không phải ở chỗ chỉ giải thích thế giới “bằng nhiều cách khác nhau”

mà quan trọng là ở chỗ phải cải tạo thế giới, phải vận dụng lí luận vào việc giải

quyết những vấn đề mà cách mạng đặt ra trong thực tiễn sinh động. Vì thế,

trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải có quan

điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển. Các quan

điểm đó luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, đan xen vào nhau.

Chương 2

SỰ VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ VỀ

SỰ PHÁT TRIỂN Ở HỒ CHÍ MINH TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Sinh thêi, chñ tÞch Hå ChÝ Minh ch a bao giê tù nhËn m×nh lµ mét nhµ

triÕt häc. Đặc biệt, trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Ng êi còng ch a 36

bao giê viÕt mét t¸c phÈm chuyªn biÖt nµo vÒ phÐp biÖn chøng duy vËt. Tuy

nhiªn, trong t t ëng Hå ChÝ Minh, ng êi ta lu«n t×m thÊy nh÷ng t t ëng triÕt

häc phong phó, s©u s¾c vµ rÊt ®éc ®¸o.

Chñ tÞch Hå ChÝ Minh luôn tù coi m×nh lµ ng êi theo chñ nghÜa M¸c -

Lªnin, nãi c¸ch kh¸c lµ ng êi theo chñ nghÜa duy vËt biÖn chøng. Người cho

rằng ưu điểm lớn nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin chÝnh là “cách làm biện

chứng”. Ng­êi ®± nhËn thÊy được sức mạnh “c°i t³o thÕ giíi” của phương pháp

biện chứng duy vật, ®ång thêi thấy được sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật

biện chứng vµ phép biện chứng duy vật. Trong t t ëng biện chứng ở Hồ Chí

Minh, người ta thấy có sù kÕt hîp nhuÇn nhuyễn nh÷ng t t ëng biÖn chøng

trong triÕt häc m¸cxÝt với triÕt häc ph ¬ng §«ng vµ ph ¬ng T©y, cæ truyÒn

còng nh hiÖn ®¹i. Tuy nhiên, trong đó, tư tưởng biện chứng mácxít vẫn được

coi là nguồn gốc lí luận trực tiếp và chủ yếu nhất. Với vai trò là người cầm lái

con thuyền cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách tài tình,

nhuần nhuyễn những nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật trong lý

luận và nghệ thuật lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là ở những thời

điểm cam go của cuộc kháng chiến. Sự vận dụng phép biện chứng duy vật ở Hồ

Chí Minh trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam kh«ng ph¶i lµ sù vËn dông tõng

nguyªn lý, tõng quy luËt mµ lµ sù vËn dông tæng hîp c¸c nguyªn lý, c¸c kinh

nghiÖm ®· ® îc ®óc kÕt, t¹o thµnh nh÷ng quan ®iÓm nhÊt qu¸n trong suèt qu¸

tr×nh ho¹t ®éng c¸ch m¹ng, ® a c¸ch m¹ng tíi thµnh c«ng. §ã lµ c¸c quan

®iÓm: quan ®iÓm toµn diÖn, quan ®iÓm lÞch sö - cô thÓ, quan ®iÓm ph¸t triÓn.

Nó thể hiện một sự linh ho¹t, mÒm dÎo, “ứng vạn biến” với mäi t×nh huèng, tËn

dông mäi ®iÒu kiÖn, hoµn c¶nh ®Ó t¹o thÕ vµ lùc cho c¸ch m¹ng, ® a c¸ch m¹ng

tíi thµnh c«ng.

2.1. Quan điểm toàn diện

Xuất phát từ việc nhận thức về tính chØnh thÓ cña thÕ giíi vµ tÝnh chØnh

thÓ cña mçi sù vËt, Chñ tÞch Hå ChÝ Minh lu«n cã quan ®iÓm toµn diÖn khi

xem xÐt vµ gi¶i quyÕt c¸c c«ng viÖc. §ã lµ một ph ¬ng ph¸p khoa học, đi từ

37

“bé phËn” ®Õn “to¯n thÓ”, ®i tô “®iÓm” tíi “diÖn. Nã võa mang tÝnh bao qu¸t

toµn côc song l¹i võa n¾m c²i “cèt yÕu”, giúp cho viÖc gi¶i quyÕt c¸c vÊn ®Ò

cách mạng ® îc tiÕn hµnh tõng b íc thËt v÷ng ch¾c.

Trong bÊt cø c«ng viÖc gì, dù lín hay nhỏ, trong mọi thời kỳ cách mạng,

người ta đều nhận thÊy quan ®iÓm nµy của Hồ Chí Minh ® îc thÓ hiÖn hết sức

râ rµng. Trước hết, nó thể hiện ở cách nhìn nhận, xác định lực lượng cách

mạng.

Trong mỗi cuộc kháng chiến, việc xác định lực lượng cách mạng luôn

được coi là một vấn đề vô cùng quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với thắng

lợi của một cuộc cách mạng. Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:

“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, đồng thời kế thừa truyền thống

đoàn kết của dân tộc Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh

tổng hợp của toàn dân. Người chỉ rõ: trong cuộc kháng chiến của dân tộc, “cái

sức mạnh vô địch mà ta có thể thắng quân địch, giành độc lập, thống nhất là sự

đoàn kết” [63, 60]. Người cho rằng nếu dân khí của ta mà mạnh thì không có

quân lính nào, súng ống nào có thể chống lại được. Từ đó, chủ tịch Hồ Chí

Minh khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc là công việc chung chứ không

phải việc của 1, 2 người; muốn tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc cần

phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh. Cho nên, chúng ta cần phải đoàn kết

toàn dân: sỹ nông, công thương… đều nhất trí chống lại cường quyền, không

phân biệt gái trai, già trẻ, lương giáo…

Đối với chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng chính là sự nghiệp của dân và

do dân: Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không có

gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân. Bởi vậy, chúng ta phải biết

phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Người nói: “Cách mệnh thì phải

đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ các giai cấp áp bức mình, chứ không

phải chỉ nhờ 5, 7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan mà được” [60, 276].

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người đã ra lời kêu gọị

toàn quốc kháng chiến: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ

38

không chia tôn giáo đảng phái dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên

chống thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng

gươm, không có gì thì dùng cuốc thuổng gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống

thực dân Pháp cứu nước” [62, 480]. Trong chiến tranh cũng như trong thời kỳ

hoà bình lập lại, Người luôn chủ trương “cầu đồng tồn dị”, tìm ra mẫu số chung

để quy tụ sức mạnh của toàn dân. Người nói: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn,

ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người

cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này thế khác đều là dòng dõi của tổ

tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc

cháu Rồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc

lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành

đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang” [62, 246 - 247].

Cho nên, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã dành

nhiều tâm lực cho sự nghiệp xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên

minh công - nông làm nền tảng, trên cơ sở đó thu hút rộng rãi các thành viên

khác bao gồm: các dân tộc, các giai cấp, các tôn giáo, các đoàn thể, các lứa

tuổi, v.v… Xuất phát từ quan điểm toàn diện, thực hiện chủ trương “đoàn kết

tất cả những người Việt Nam yêu nước”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai th¸c

® îc mäi søc m¹nh, mäi tiÒm n¨ng cña khèi céng ®ång d©n téc. Trong cuộc

kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ, Người đã tập hợp được đông đảo các

thành phần xã hội tham gia, kh«ng bá sãt bÊt k× mét lùc l îng nµo, kể cả những

người là Khâm sai, Thượng thư, tổng đốc trong chế độ cũ, hay các điền chủ,

thân hào, trí thức, nhà khoa học lớn, nhà tu hành v.v… Chính họ đã trở thành

những người “kề vai sát cánh” với những người cộng sản, cùng góp sức để

chống giặc ngoại xâm. Năm 1947, trong chuyến đi công tác các tỉnh miền

Trung, chứng kiến khí thế và sức mạnh toàn dân đoàn kết kháng chiến, cụ

Huỳnh Thúc Kháng nhận xét: “Trước kia các nhà cách mạng chỉ dựa vào trí

thức, tư sản, ít để ý đến quần chúng nhân dân cho nên thất bại. Nay thì khác,

toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến… sức thực dân có máy bay, tàu

39

lặn, có bao nhiêu bom đạn cũng thua” (Tài liệu lưu tại bảo tàng Hồ Chí Minh).

Sau năm 1954, miền Bắc nước ta tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, chủ tịch

Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: chế độ chủ nghĩa xã hội là chế độ do nhân dân tự

xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cho nên, khi trả lời câu hỏi: “Bao giờ

miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội?”, Người khẳng định: “Tiến lên chủ nghĩa

xã hội mau hay không không phải do Bác, do Trung ương mà do các cô các chú

có chịu khó giải thích cho nhân dân hiểu không” [66, 345]. Nếu tất cả nhân

dân, ai cũng đều cố gắng thì sẽ “tiến mau”, còn nếu “ai cũng nghĩ đó là việc của

Bác Hồ thì tiến chậm” [61, 227].

Nhận thức sâu sắc sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân, đồng thời chủ

tịch Hồ Chí Minh cũng nhận thức được mối quan hệ biện chứng giữa sức mạnh

dân tộc với sức mạnh thời đại, giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan.

Người cho rằng sự kết hợp đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, phát huy sức

mạnh của dân tộc và thời đại để đánh thắng kẻ thù chung chính là một chân lý

của thời đại. Trong đó, đoàn kết dân tộc giống như là “vòng trong”, đoàn kết

quốc tế là “vòng ngoài” để tạo nên sức mạnh. Người khẳng định rất rõ ràng:

Dân tộc Việt Nam phải “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” [63, 554] song

“Đảng của chúng tôi cũng hiểu rằng, không thể nào hạn chế những hoạt động

hiện nay và tương lai của chúng tôi trong khuôn khổ dân tộc thuần tuý, rằng

những hoạt động đó có muôn vàn sợi dây liên hệ với cuộc đấu tranh chung của

thế giới tiến bộ” [70, 595]. Cho nên, theo chủ tịch Hồ Chí Minh, việc giải quyết

những vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam không chỉ xuất

phát từ tình hình cụ thể của đất nước, mà còn phải biết gắn liền với những biến

đổi của thời đại, với điều kiện quốc tế, phải biết tranh thủ những điều kiện

khách quan có lợi. Trước bối cảnh thế giới chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến

giai đoạn tột cùng là chủ nghĩa đế quốc, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh

mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa.

Người ví: Chủ nghĩa đế quốc giống như một “con đỉa” có hai vòi, một vòi bám

vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở

40

thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy thì đồng thời phải cắt cả hai cái

vòi của nó đi. Vì thế, Người coi cách mạng thuộc địa là một trong những cái

cánh của cách mạng vô sản thế giới, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận

của cách mạng thế giới, có liên quan mật thiết với phong trào dân chủ trên thế

giới. Đặc biệt, trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở nước ta

(đầu thế kỷ XX), chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến nội tình của nước

Pháp và phe đế quốc, đến phong trào cách mạng thế giới. Người nói: “Sự chiến

đấu của chúng tôi không nhằm vào nước Pháp, cũng không nhằm đánh vào

những người Pháp lương thiện mà chỉ chống lại sự thống trị tàn bạo ở Đông

Dương của thực dân Pháp” [62, 65]. Cho nên, cùng với sự nỗ lực của bản thân

đất nước, Người đã đi sang Trung quốc và Liên Xô (1950 và 1952) đồng thời

nhiều lần gởi thư cho chính phủ nhân dân các nước, nhằm tập hợp lực lượng,

củng cố quan hệ quốc tế, cô lập kẻ thù. Nhờ thế, cuộc kháng chiến của nhân ta

đã giành được sự ủng hộ to lớn của nhân dân thế giới, đặc biệt là cả nhân dân

tiến bộ Pháp. Đúng như một nhà báo nước ngoài đã từng nói: Không chỉ có

thanh niên Việt Nam đứng dưới lá cờ của Hồ Chí Minh mà thanh niên thế giới

và cả thanh niên Mỹ cũng dứng dưới lá cờ của Người. Trên tinh thần nêu cao

vấn đề đoàn kết quốc tế: “giúp nhân dân nước bạn tức là tự giúp mình” [65,

64], chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc tăng cường đoàn kết, liên minh với

các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Người nói: “Nhân dân Việt Nam hiểu rõ

rằng đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi. Cho nên, muốn giành được

thắng lợi trong cuộc đấu tranh vĩ đại ấy, điều quan trọng nhất là sự đoàn kết

nhất trí giữa các lực lượng tiến bộ trên thế giới, trước hết là sự đoàn kết trong

phe xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản quốc tế” [59, 70]. Đối với

mối quan hệ với Lào, Campu chia, Người cũng chỉ rõ: Việt Nam kháng chiến

có thành công thì Lào, Miên mới thắng lợi, và Lào, Miên có thắng lợi thì Việt

Nam mới hoàn toàn thắng lợi. Chính vì thế, Người luôn nhìn nhận vai trò cách

mạng của Việt Nam gắn liền với nghĩa vụ quốc tế, nhìn nhận cuộc kháng chiến

chống Mỹ ở miền Nam Việt Nam “chẳng những là vì nhiệm vụ của chúng ta,

41

mà còn nghĩa vụ của ta đối với cách mạng thế giới” [70, 15 - 16]

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: “Mỗi khi giải quyết vấn đề phải

có quan điểm toàn diện, tránh cục bộ địa phương. Chúng ta thấy Việt Trì, Phú

Thọ…, nhưng cũng phải thấy cả thủ đô Hà Nội, thấy toàn quốc. Thấy địa

phương phải thấy cả Trung ương…” [24, 60]. Cho nên, nói về mối quan hệ

biện chứng giữa các giai đoạn lịch sử kế tiếp nhau trong lịch sử phát triển của

đất nước, Người chỉ rõ: Chúng ta phải hiểu rằng, giai đoạn này có dính líu với

giai đoạn khác, nó kế tiếp giai đoạn khác, gây ra những mầm mống cho giai

đoạn sau. Vì thế, theo chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể xét tình hình

chung mà định ra từng giai đoạn lớn, song không thể tách hẳn từng giai đoạn

dứt khoát như người ta cắt cái bánh. Bởi mỗi giai đoạn dài hay ngắn phải tuỳ

theo tình hình trong nước và thế giới, tuỳ theo sự biến đổi trong tương quan lực

lượng giữa địch và ta.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí

Minh luôn có cái nhìn toàn diện, sáng suốt khi đánh giá kẻ thù cũng như khi

nhìn nhận các lực lượng cách mạng của cuộc kháng chiến. Trên cơ sở đó,

Người đã đề ra được những chủ trương, đường lối đúng đắn, tránh tổn thất cho

cách mạng.

Sau khi giành được độc lập năm 1945, Việt Nam đứng trước những khó

khăn rất lớn: thù trong, giặc ngoài. Trước tình thế quân Tưởng kéo vào nước ta,

Người chủ trương: trước hết cần phải nhận thức về ta (biết mình), về địch (biết

người), về số lượng và vũ khí, về bối cảnh xã hội, về tính năng… Người chỉ rõ:

Xét về điều kiện của ta, ta thế nào thì biết rồi, còn kẻ địch, chúng cũng đi “giày

cỏ”, “ăn gạo lứt”, cũng luồn rừng lội suối, chịu đựng gian khổ không kém gì ta.

Nếu chiến tranh xảy ra, có thể trong mấy chục vạn Hoa kiều trên đất nước ta sẽ

có một bộ phận trở thành đội quân thứ 5 của chúng. Hơn nữa, xét ở góc độ địa

lý, cộng với kỹ thuật hiện đại, giao thông tiếp tế của họ cũng không phải là khó

khăn lắm. Điều quan trọng nữa là quân Tưởng vào Việt Nam trên danh nghĩa

quân đồng minh cho nên, nếu ta đánh họ, sẽ khó có được sự đồng tình ủng hộ

42

của thế giới. Do đó, theo chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu chúng ta phát động một

cuộc chiến tranh như vậy là không thích ứng các yếu tố: thiên thời - địa lợi -

nhân hoà. Người cho rằng điều cần kíp nhất đối với ta lúc bấy giờ là: cần phải

tập trung lực lượng chống kẻ thù chính, kẻ thù lâu dài là thực dân Pháp. Còn

đối với quân Tưởng, ta phải khôn khéo, kiên nhẫn đối phó, phải ngăn chặn sự

tàn phá của chúng đối với ta. Trước khi ký hiệp định sơ bộ (6 - 3 - 1946), ngày

24 - 2 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì hội nghị Ban thường vụ Trung

ương Đảng, bàn về Chỉ thị về tình hình và chủ trương. Trong chỉ thị đã chỉ rõ:

Vấn đề lúc này không phải là muốn hay không muốn đánh (với Pháp). Vấn đề

là biết mình, biết người, nhận định một cách khách quan những điều kiện lợi,

hại trong và ngoài nước để chủ trương cho đúng. Trên tinh thần ấy, Bác và

Trung ương đã quyết định chọn con đường hoà với Pháp, nếu chúng công nhận

Đông Dương tự chủ chứ không phải là tự trị. Người coi đó là cách cân nhắc kỹ

lợi, hại, trên cơ sở ấy chọn cái nào ít hại nhất thì làm. Cho nên, việc ký hiệp

định sơ bộ ngày 6 - 3 - 1946 của ta thật sự là một sự quyết đoán kịp thời, đúng

lúc. Có thể nói, Hiệp định ấy đã “hội tụ” đủ các yêu cầu và điều kiện cho phép

việc ký kết, nó giúp cho chúng ta tránh được những khó khăn phức tạp và đạt

hiệu quả cao nhất trong khả năng thực tế.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Việt Nam, chủ tịch Hồ

Chí Minh luôn thể hiện một cái nhìn toàn diện, từ đó đánh giá đúng bản chất,

thực lực của kẻ thù. Người nói: “Ta thấy chỗ mạnh của nó, vũ khí của nó mới,

tiền của nó nhiều, nhưng ta cũng biết những khuyết điểm của nó, mà là khuyết

điểm lớn, cơ bản. Bây giờ tất cả đều chống nó, nhân dân Mỹ, thanh niên Mỹ, trí

thức Mỹ cũng chống nó, đã có những thanh niên tự đốt mình để chống lại chính

sách xâm lược của chính phủ Mỹ. Xưa nay chưa từng thấy, bây giờ thấy như

thế” [59, 21].

Nắm vững nguyên lý “chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ

đoạn bạo lực”, đồng thời nhận thức rõ: không có cuộc chiến tranh nào không

mang mục đích chính trị, chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc giải quyết

43

đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị và quân sự. Người quan niệm “trong cuộc

đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc cần dùng bạo lực

cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo

vệ chính quyền [70, 304]. Tuy nhiên, ở Hồ Chí Minh, bạo lực không đồng nhất

với lực lượng vũ trang và hình thức đấu tranh vũ trang. Theo Người, bạo lực

cách mạng là bạo lực của quần chúng, bao gồm cả lực lượng chính trị và lực

lượng vũ trang. Bạo lực thể hiện bằng khởi nghĩa vũ trang, là công cụ để đập

tan chính quyền của bọn đế quốc và tay sai. Trong đó, đấu tranh vũ trang không

tách biệt với đấu tranh chính trị mà có mối quan hệ chặt chẽ với đấu tranh

chính trị. Người cho rằng “Quân sự mà không có chính trị như cây không có

gốc, vô dụng lại có hại” [64, 318]. Bởi chính thắng lợi quân sự đem lại thắng

lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn. Nếu

như các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị

càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến

hành đấu tranh vũ trang. Do vậy, mặc dù rất coi trọng những yếu tố tạo nên sức

mạnh của lực lượng vũ trang song chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn nhắc nhở các

chiến sỹ: ngoài quân sự còn phải ra sức học tập “chính trị” và “văn hoá”.

Nhận thức một cách sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa các mặt, các

lĩnh vực trong xã hội, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp là cuộc chiến tranh toàn dân, đồng thời đó cũng là “chiến tranh

toàn diện”. Toàn diện để tạo tiền đề cơ bản cho sức mạnh tổng hợp của kháng

chiến toàn dân; là huy động cao sức mạnh toàn dân để đánh bại chiến tranh

tổng lực của địch. Người nhấn mạnh: “Chiến tranh ngày càng phức tạp và hết

sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó thì

không thể nào chiến thắng được” [63, 419]. Đồng thời chúng ta phải chiến đấu

chống kẻ thù trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại

giao. Mỗi mặt trận đều có vị trí riêng, song chúng có mối quan hệ chặt chẽ và

hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên sức mạnh tổng hợp có thể đánh tan đội quân xâm lược,

đè bẹp ý chí của kẻ thù. Cho nên, Người phê phán tư tưởng quân sự đơn thuần.

44

Người cho rằng làm như thế chẳng khác nào người “đứng một chân”, không có

lợi, lại có hạị. Vì vậy, trong kháng chiến, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ

trương: chúng ta không chỉ làm kháng chiến mà phải vừa kháng chiến, vừa kiến

quốc. Cách mạng muốn thành công, phải có cái nhìn toàn diện, phải đánh địch

bằng mọi cách (khi tập trung, khi phân tán, phải biết kết hợp tác chiến với địch

vận), mọi quy mô (từng người đánh, từng đơn vị đánh; đánh to, đánh nhỏ), có

thể sử dụng nhiều hình thức tác chiến như đánh du kích, đánh vận động, đánh

trận địa…

Nhận thấy mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hôi, ngay khi hoà bình lập lại ở miền Bắc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương

đưa miền Bắc nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng nước

độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập đó cũng chẳng

có nghĩa lý gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của độc lập khi họ được “tự do”, được “ăn

no”, “mặc ấm”, được “sung sướng”. Cho nên, tiến hành cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân rồi phải tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong việc xây

dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, Người luôn xem c«ng nghiÖp

v¯ n«ng nghiÖp nh­ “hai ch©n” cða mét nÒn kinh tÕ. Không những thế, Người

cßn rất chó ý tíi mäi mÆt cña ®êi sèng vËt chÊt vµ ®êi sèng tinh thÇn, c¶ vÒ kinh

tÕ lẫn chÝnh trÞ, c¶ ®èi néi vµ ®èi ngo¹i, tõ ®êi sèng toµn thÓ x· héi ®Õn ®êi sèng

mçi gia ®×nh.

Trong viÖc xem xÐt, ®¸nh gi¸ c¸n bé, chñ tÞch Hå ChÝ Minh lu«n thÓ hiÖn

mét c¸ch nh×n toµn diÖn. Ng êi thường hay phán phª ph¸n nh÷ng c¸n bé cã

c¸ch nh×n thiªn lÖch, phiÕn diÖn, hÑp hòi. Bởi vì họ chØ nhìn thÊy lîi Ých bé

phËn mà kh«ng biÕt ®Õn lîi Ých toµn thÓ, chØ biÕt cã m×nh, biÕt bé phËn m×nh mµ

quªn c¶ Đảng, chỉ thấy mçi “địa phương” mà không thấy cả “Trung ương”.

Cho nên, dù rÊt coi träng lîi Ých c¸ nh©n chÝnh ®¸ng cña con ng êi song Chñ

tÞch Hå ChÝ Minh l³i lu«n lªn ²n “chð nghÜa c² nh©n”, “bÖnh hÑp hßi”. Vì thế,

Người cho rằng: mỗi khi “xem xÐt c²n bé”, chúng ta kh«ng chØ xem xÐt mÆt

ngo¯i m¯ cßn ph°i xem “tÝnh chÊt” cða hä; kh«ng chØ xem mét viÖc, mét lòc m¯

45

cßn ph¶i xem toµn thÓ lÞch sö, toµn bé c«ng viÖc cña hä. Bëi qu¸ khø, hiÖn t¹i,

t ¬ng lai cña mçi ng êi kh«ng ph¶i lu«n gièng nhau. Xuất phát từ cách nhìn

tổng thể ấy, khi đất nước còn chiến tranh cũng như trong thời kỳ tiến lên xây

dựng chủ nghĩa xã hội, Người luôn chủ trương xây dựng con người mới vừa

“hồng” lại vừa “chuyên”, vừa có đức lại vừa có tài để có thể gánh vác được

trách nhiệm mà nhân dân uỷ thác.

Có thể nói, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có cái nhìn toàn diện khi xem xét

và giải quyết các công việc, các vấn đề của cuộc cách mạng. Tuy nhiên, trong

tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn diện không có nghĩa là tràn lan, ôm đồm, tham

nhiều, “không nắm trọng điểm mà cái gì cũng muốn nắm hết, muốn cho mau”

[65, 27] mà không tính toán, không phân biệt trước sau. Theo quan niệm của

chủ tịch Hồ Chí Minh: toàn diện song phải có trọng tâm, trọng điểm, “quý hồ

tinh bất quý hồ đa”. Vì thế, trên cơ sở cái nhìn tổng thể bao giờ Hồ Chí Minh

cũng xác định được những vấn đề cốt lõi nhất, chủ yếu nhất. Từ đó, Người đề

ra những chủ trương, đường lối đúng đắn, thích hợp, chèo lái con thuyền cách

mạng đi tới thành công. Nhận thức được rằng đoàn kết là mẹ của thành công,

chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất,

đoàn kết lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Song, trong sự

đoàn kết rộng rãi ấy, Người xác định, lực lượng nòng cốt là công – nông (sau

này Người bổ sung thêm lao động trí óc). Công – nông là “chủ” cách mệnh,

công – nông là “gốc” cách mệnh. Các giai cấp, tầng lớp khác chỉ là bầu bạn

cách mệnh của công – nông thôi. Bởi theo Người: vì bị áp bức mà sinh ra cách

mệnh, cho nên ai bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách

mệnh càng quyết.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân cũng như khi hoà bình lập lại,

Hồ Chí Minh luôn nhận thức được cần phải có sự kết hợp giữa sức mạnh dân

tộc với sức mạnh thời đại. Người cho rằng thắng lợi của cách mạng Việt Nam

luôn cần sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế. Tuy nhiên, trong mối quan hệ ấy,

Người chỉ rõ: Nhân tố bên trong là nhân tố quyết định, nhân tố bên ngoài thông

46

qua nhân tố bên trong để phát huy tác dụng. Chúng ta tranh thủ sự giúp đỡ quốc

tế nhưng phải trên cơ sở biết phát huy đầy đủ sức mạnh đoàn kết chiến đấu của

cả dân tộc. Vì thế, theo chủ tịch Hồ Chí Minh, phải “tự lực cánh sinh”, dựa vào

sức mình là chính, phải “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Sự nghiệp của

cách mạng Việt Nam phải do chính nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của

Đảng cộng sản quyết định. Chúng ta phải có thế, có lực thì bên ngoài mới ủng

hộ, giúp đỡ, và sự ủng hộ, giúp đỡ đó mới mang lại hiệu quả. Cho nên, Người

luôn chỉ ra: phải “lấy tự lực cánh sinh làm gốc để ứng phó với mọi sự phát triển

của tình hình” [64, 451]. Độc lập, tự do không thể đạt được bằng việc cầu xin

mà phải bằng sự đấu tranh, bằng lực lượng bản thân. Người cho rằng dân tộc

nào mà ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng giành được nền

độc lập. Bởi vậy, khi trả lời các nhà báo nước ngoài vào năm 1949, Hồ Chí

Minh đã nói: Độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ lực lượng của Việt Nam bởi

“chúng tôi bao giờ cũng trông ở sức mình. Chúng tôi không sợ ai cả. Không có

nước nào có thể thống trị được chúng tôi” [63, 647].

Có thể nói, nhờ việc tiếp thu và vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa

Mác – Lênin vào lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có

được cách nhìn toàn diện và khoa học trong xem xét và giải quyết các vấn đề

cách mạng. Với cái nhìn bao quát, đồng thời lại xác định được đúng vai trò, vị

trí mỗi nhân tố trong chiến tranh cũng như trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã

hội, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra được những chủ trương đúng đắn, chèo lái

con thuyền cách mạng Việt Nam cập đến bến bờ thắng lợi.

2.2. Quan điểm lịch sử cụ - thể

Muốn đánh giá đúng được bản chất sự vật, hiện tượng phải có quan điểm

toàn diện. Song, để có được quan điểm toàn diện đòi hỏi phải có sự kết hợp với

quan điểm lịch sử - cụ thể.

V.I. Lênin đã từng nói: Điều căn bản nhất của chủ nghĩa Mác, linh hồn

sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể. Phương pháp

cụ thể đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu các mặt, các mối liên hệ của bản thân

47

sự vật, hiện tượng, đồng thời đặt nó trong mối liên hệ chằng chịt với các sự vật,

hiện tượng khác, đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể của nó, trong không gian và

thời gian nhất định.

Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chñ tÞch Hå ChÝ Minh

lu«n cã quan ®iÓm lÞch sö - cô thÓ trong ho¹t ®éng c¸ch m¹ng. Người đã đưa ra

cách làm việc đúng đắn, khoa học: khi xem xét và giải quyết bất cứ việc gì,

chúng ta đều phải điều tra, nghiên cứu tình hình thực tế khách quan, phải tìm

hiểu quy luật của nó để đề ra đường lối, chính sách phù hợp với những đặc

điểm cụ thể.

Phép biện chứng duy vật đã chỉ ra rằng: sự vật nào cũng bao hàm trong

nó những mâu thuẫn vốn có. Bản chất của sự vật là do mâu thuẫn cơ bản của nó

quy định. Mâu thuẫn chính là nguồn gốc, là động lực làm cho sự vật vận động,

biến đổi. Vì thế, quan điểm cụ thể đòi hỏi phải tìm hiểu và giải quyết những

mâu thuẫn của sự vật.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú

trọng đến việc phân tích và giải quyết mâu thuẫn. Người quan niệm việc đánh

giá đúng nguyên nhân của tình hình, việc phân tích và nhận thức đúng vai trò

của các mâu thuẫn (gắn với sự việc cụ thể) có ý nghĩa to lớn đối với sự tồn tại

và phát triển của chúng. Người viết: "Khi cã viÖc cã m©u thuÉn, khi ph¶i t×m

c¸ch gi¶i quyÕt, tøc lµ cã vÊn ®Ò. Khi ®· cã vÊn ®Ò ta ph¶i nghiªn cøu cho râ c¸i

gèc m©u thuÉn trong vÊn ®Ò ®ã lµ g×. Ph¶i ®iÒu tra, ph¶i nghiªn cøu c¸i m©u

thuÉn ®ã. Ph¶i ph©n tÝch râ rµng vµ cã hÖ thèng, ph¶i biÕt râ c¸i nµo lµ m©u

thuÉn chÝnh, c¸i nµo lµ m©u thuÉn phô, ph°i ®Ò ra c²ch gi°i quyÕt” [63, 302].

Theo quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thực tiễn cách mạng, khi gặp

bất cứ một thành công hay thất bại nào, chúng ta cũng phải bình tĩnh phân tích

“cội rễ” vấn đề, phải thấy được những điều kiện khách quan và chủ quan, phải

tìm đủ nguyên nhân để rút ra những kinh nghiệm, tiến hành công việc tốt hơn.

Đó chính là bí quyết của mọi thắng lợi. Người nhận thấy mâu thuẫn chỉ trở

thành động lực của sự phát triển một khi nó được phân tích đúng, được giải

quyết kịp thời, hợp quy luật. Trái lại, nếu nhận thức và vận dụng không đúng

phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn sẽ dẫn đến những hành động 48

sai lầm, gây ra những tốn thất cho xã hội. Cho nên, ở chủ tịch Hồ Chí Minh,

việc xác định mâu thuẫn bao giờ cũng gắn với sự vật cụ thể, đồng thời việc giải

quyết mâu thuẫn luôn dựa trên hoàn cảnh cụ thể chứ không đề cập và giải quyết

một cách chung chung. Người chỉ rõ: Làm cách mạng không thể xuất phát từ ý

muốn chủ quan mà phải xuất phát từ thực tế khách quan từng lúc, từng nơi để

đề ra đường lối, chính sách phù hợp. V× thÕ, ë mçi thêi ®iÓm lÞch sö - cô thÓ,

Ng êi lu«n t×m c¸ch x¸c ®Þnh râ m©u thuÉn c¬ b¶n nhÊt, ®Ó tõ ®ã x¸c ®Þnh ® îc

®óng môc tiªu, huy ®éng ® îc lùc l îng c¸ch m¹ng cÇn thiÕt.

Vào nh÷ng n¨m đầu thế kỉ XX, trên cơ sở phân tích, đánh giá chính xác

tình hình khách quan và chủ quan, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đúng hai

mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam bấy giờ. Đó là mâu thuẫn giữa toàn

thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa

chủ phong kiến. Từ đó, Người ®· x¸c ®Þnh môc tiªu cña c¸ch m¹ng ViÖt Nam:

chèng ®Õ quèc, chống phong kiÕn. Trong đó, Người chỉ ra mâu thuẫn chủ yếu,

mâu thuẫn nổi lên hàng đầu đó là: mâu thuẫn giữa giữa toàn thể nhân dân ta với

thực dân Pháp. Trong thời kỳ này, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc ở Việt

Nam đã trở thành một vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của dân tộc

và sự phát triển của đất nước. Việc đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục lại chủ

quyền quốc gia đã trở thành lí tưởng sống, trở thành đạo đức cao đẹp nhất của

tất cả những nhà yêu nước có tâm huyết. Trong những người cách mạng tiên

tiến thuộc lớp người đi trước và cùng thời với chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội

Châu và Phan Chu Trinh là những người đã sớm nói đến con đường, phương

pháp cách mạng để giúp đất nước thoát khỏi những đám mây đen u ám của chế

độ thực dân, đế quốc. Tuy nhiên, họ đều thất bại. Hạn chế cơ bản của các nhà

chí sỹ yêu nước đó là họ đã không nhận thức rõ được bản chất của kẻ thù dân

tộc (thực dân đế quốc), đặc biệt, họ không nhận thức rõ bản chất của thời đại đế

quốc, “thời đại tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Nói cách khác, họ đã không xác

định được những mâu thuẫn đặc trưng n¶y sinh tõ ®iÒu kiÖn lÞch sö thùc tÕ cña

49

d©n téc vµ thêi ®¹i. Vì thế, Phan Bội Châu đã chủ trương "mang ng êi, mang

cña ®Õn c¸i ®Êt Phï Tang, cÇu cøu nghÜa ®ång v¨n, ®ång chñng", dùa vµo NhËt

®Ó ®¸nh ®uæi Ph¸p (bài Pháp phục Việt trong giai đoạn đầu). Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã đánh giá: con đường cứu nước của ông chẳng khác gì “đưa hổ cửa

trước, rước beo cửa sau”. Rốt cuộc, cuối đời ông đã phải thốt lên: Đời tôi một

trăm lần thất bại, không một lần thành công. Cßn đối với Phan Chu Trinh, do

® îc tiÕp xóc víi chñ nghÜa t b¶n Ph¸p víi cuéc c¸ch m¹ng t s¶n Ph¸p n¨m

1789 (mét cuéc c¸ch m¹ng t s¶n ®iÓn h×nh ®· xo¸ bá chÕ ®é phong kiÕn ë

Ph¸p) cho nªn «ng lại chủ trương dùa vµo Ph¸p để đánh đổ nền quân chủ (vua),

xây dựng dân quyền, đi theo xu hướng cải lương. Đó cũng là điều sai lầm,

chẳng khác nào “xin giặc rủ lòng thương”. Người đã nói với nhà yêu nước

Phan Chu Trinh: “Nếu bác luôn luôn tin cậy vào sự quan tâm của chính phủ (ý

nói thực dân Pháp – TG) để cải thiện mọi tình hình hiện nay, thì Bác sẽ phải

đợi đến muôn đời” [69, 16]. Bởi thế, ông vẫn không thể thoát khỏi “khói độc,

mây mù”, “trời khuya, đất ngủ”.

Trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta, ở mỗi thời điểm lịch

sử, chủ tịch Hå ChÝ Minh bao giờ cũng xác định một cách cụ thể những mâu

thuẫn chính, mâu thuẫn cơ bản nhất. Trong những mâu thuẫn ấy, mét bªn lµ

nh©n d©n ViÖt Nam, bªn kia - qua mçi thêi kú lại có sự chuyển biến mới: cã

lóc lµ NhËt, cã lúc lại lµ ®Õ quèc Mü vµ bän tay sai. ViÖc chØ ra c¸c m©u thuÉn

cô thÓ đó có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó ®· gióp cho c¸ch m¹ng ViÖt Nam luôn

x¸c ®Þnh được môc tiªu cô thÓ, c« lËp ® îc kÎ thï, tranh thñ ® îc c¸c lùc l îng

yªu chuéng hoµ b×nh vµ tiÕn bé trªn thÕ giíi. Người lấy đó làm cơ sở, làm tiền

đề cho việc vạch ra sách lược, những nhiệm vụ cấp thiết phù hợp với những

diễn biến phức tạp và sinh động của thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: Muốn làm cách mạng thắng lợi thì

phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù? Ở đầu thế kỉ XX (thời kì khát vọng giải

phóng dân tộc đã trở thành vấn đề sống còn của đất nước), Người xác định: Sự

chiến đấu của chúng tôi không nhằm vào nước Pháp, cũng không nhằm vào

50

những người Pháp lương thiện, chỉ nhằm chống lại sự thống trị tàn bạo của

thực dân Pháp. Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Tư

bản bản xứ không có thế lực gì, ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc

được, chỉ có bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ

nghĩa. Đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, Người nhấn mạnh: mọi người yêu

nước và tiến bộ là bạn của ta, đế quốc Mỹ, bọn tay sai của Mỹ, bọn phản cách

mạng là kẻ thù của ta. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc phân tích, xem xét

mâu thuẫn không phải chỉ để thấy những khuynh hướng biến đổi trái ngược

nhau của các mặt đối lập của sự vật, mà điều quan trọng là phải thấy được mối

quan hệ giữa các mặt đó để có phương pháp giải quyết phù hợp.

Trong việc vạch ra chiến lược cách mạng để giải phóng dân tộc khỏi ách

đế quốc và thực dân mới, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem xét đặc thù của cách

mạng Việt Nam một cách cụ thể nhất. Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau,

Người đề ra nh÷ng môc tiªu thÝch hîp với tình hình đất nước trong tõng thêi

®iÓm lÞch sö - cô thÓ. Năm 1921, Người viết: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô

sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là

sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” [59, 416]. Khi

thành lập Đảng, Người chủ trương: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa

cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tháng 11 – 1930, Người đã đưa ra nhận

định: Dân tộc cách mạng vẫn là một nhiệm vụ trong giai cấp cách mạng; sự

chuyển biến lối này hay lối khác đó là do hoàn cảnh từng nơi, từng lúc, chứ

không phải hai đường đi trái với nhau. §Õn thêi kú 1936-1939, B¸c Hå vµ

§¶ng ta ®· ®Ò ra môc tiªu trùc tiÕp lóc ®ã lµ: Chèng ph¶n ®éng thuéc ®Þa,

chèng ph¸t xÝt vµ nguy c¬ chiÕn tranh ®ang ®Õn gÇn, ®Êu tranh ®ßi tù do, d©n

chñ, c¬m ¸o vµ hoµ b×nh, chø ch a ph¶i lµ ®¸nh ®æ nÒn thèng trÞ thùc d©n nãi

chung. Khi chiÕn tranh thÕ giíi lÇn thø hai bïng næ, ph¸t xÝt NhËt ®· nh¶y vµo

§«ng D ¬ng, Ph¸p ®· quú gèi d©ng §«ng D ¬ng cho NhËt, Héi nghÞ ban chÊp

hµnh Trung ¬ng §¶ng lÇn thø b¶y ®· chØ râ: Lóc nµy khÈu hiÖu c¸ch m¹ng

ph¶n ®Õ, c¸ch m¹ng gi¶i phãng d©n téc cao h¬n vµ thÝch ®¸ng h¬n.

Năm 1941, chủ tịch Hồ Chí Minh trở về nước lãnh đạo cách mạng Việt

Nam. Tại hội nghị Trung ương lần thứ Tám (5 – 1941), Người chỉ rõ: C¸ch 51

m¹ng §«ng D ¬ng hiÖn nay kh«ng ph¶i lµ mét cuéc c¸ch m¹ng t s¶n d©n

quyÒn, cuéc c¸ch m¹ng gi¶i quyÕt hai nhiÖm vô: Ph¶n ®Õ vµ ®iÒn ®Þa n÷a, mµ lµ

cuéc c¸ch m¹ng gi¶i quyÕt mét vÊn ®Ò cÇn kÝp “d©n téc gi¶i phãng". V× thÕ,

Ng êi kªu gäi: Trong lúc này quyền lợi giải phóng dân tộc cao hơn tất thảy;

nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập,

tự do cho toàn thể dân tộc, thì “chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu

mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không

đòi lại được” [67, 447]. Khi Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, khai

sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - nhà nước dân chủ nhân dân đầu

tiên ở Đông Nam Á, Người đã nêu ra ba nguyên tắc phấn đấu của toàn Đảng,

toàn dân là: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc

Tháng 10 – 1967, tổng kết phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại

đế quốc chủ nghĩa nhân kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng Tháng Mười Nga,

Người nói: “Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ

phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng

giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới

giành được thắng lợi hoàn toàn” [70, 305]. Nhận thức được đặc điểm của chiến

tranh ở Việt Nam là chiến tranh của dân tộc nhỏ chống tên đế quốc to, chủ tịch

Hồ Chí Minh nhấn mạnh: cần phải có lối đánh rất tài giỏi, có nghĩa là cần phải

nắm vững thuật chiến tranh phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước mình.

Với những kẻ thù lớn mạnh, Người chủ trương sử dụng phương châm

đánh lâu dài: “Địch muốn tốc chiến tốc thắng ta lấy kháng chiến trường kỳ để

trị nó thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng” [62, 485]. Bởi vì theo Người:

“Kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải

chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị về toàn diện của toàn dân” [64, 164].

V.I. Lênin đã từng nói: Nguyên lí cơ bản của phép biện chứng là không

có chân lí trừu tượng, chân lý bao giờ cũng là cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh

quan niệm: “Lãnh đạo phải cụ thể, phải kịp thời, phải thiết thực, phải có trọng

điểm và nắm điển hình” [71, 565]. Người luôn phê phán bệnh chủ quan trong

xem xét và giải quyết những công việc của cách mạng. Người cho rằng: Nếu 52

chúng ta chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà không căn cứ vào điều kiện

khách quan, không tuân theo những quy luật khách quan của sự vật, không biết

nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy, kết

quả thường thất bại. Chính vì thế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, chủ tịch

Hồ Chí Minh luôn lÊy thùc tiÔn ViÖt Nam lµm ®iÓm xuÊt ph¸t, từ đó định ra

những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể, thích hợp với tình hình đất

nước. Người thường nói: Ta biết rõ địch thì thắng - địch biết rõ ta thì bại. Cho

nên, trong các cuộc kháng chiến, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn vận dụng sắc bén

những đối sách cụ thể với từng kẻ địch.

Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, quân Tưởng đã ồ ạt kéo vào nước

ta với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật. Song, thực chất chúng lại nhằm thực

hiện một âm mưu đen tối: “Diệt Cộng cầm Hồ”, thành lập chính phủ quân sự

theo các triều đại phong kiến trước kia để chiếm đóng lâu dài nước ta. Chúng

đã gây bao tội ác khiến nhân dân cả nước căm giận sục sôi, ai cũng muốn đứng

lên quyết liều một phen. Mặc dù rất cảm thông với những đau thương, mất mát

đó song căn cứ vào nhận thức khách quan những điều kiện lợi - hại trong và

ngoài nước, biết mình, biết người, chủ tịch Hồ Chí Minh không đồng tình với

khuynh hướng nóng vội, muốn “đánh to”, “ăn to” khi chưa có đủ điều kiện.

Người chủ trương: Đối với quân Tưởng, ta phải khôn khéo, kiên nhẫn đối phó,

phải ngăn chặn sự tàn phá của chúng đối với ta, ta phải xác định được kẻ thù

lớn và lâu dài của nước ta thời kỳ này là thực dân Pháp. Cùng một lúc, chúng ta

không thể đánh được hai thế lực ngoại xâm. Cho nên, trong điều kiện lịch sử

mới, ngày 24 – 2 –1946 (Trước khi ký hiệp định sơ bộ 6 - 3 - 1946), bàn về Chỉ

thị về tình hình và chủ trương, cân nhắc kỹ lợi, hại, Bác và Trung ương đã

quyết định chọn con đường hoà với Pháp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ: trong công tác cách mạng,

khi đặt ra và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm

cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương. Trong cuộc kháng chiến

53

chống giặc ngoại xâm, Người luôn chú trọng vào tình hình, hoàn cảnh, để định

ra phương pháp đấu tranh. Xuất phát từ việc nhận thức một cách sâu sắc đặc

điểm của chiến tranh ở Việt Nam là chiến tranh của “dân tộc nhỏ” chống tên

“đế quốc to”, Người nhấn mạnh: cần phải có lối đánh rất tài giỏi, nghĩa là cần

phải nắm vững nghệ thuật chiến tranh phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của đất

nước. Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi đòi hỏi chúng ta phải biết tổ chức

lực lượng thích hợp, chỉ đạo cách đánh sáng tạo để có thể hạn chế chỗ mạnh

của kẻ địch, khoét sâu chỗ yếu của chúng, bảo toàn và rèn lực lượng. Cho nên,

với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người đưa ra chủ trương đánh lâu

dài để đối phó với âm mưu của địch. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: Pháp

muốn dùng cách “đánh mau”, “thắng mau” cho nên nếu như chúng ta kéo dài

chiến tranh, làm “hao binh tổn tướng” thì chúng sẽ thất bại. Vì thế, Người cho

rằng ta cần phải dùng “chiến lược trường kỳ kháng chiến để phát triển lực

lượng, tăng thêm kinh nghiệm”, “dùng chiến thuật du kích để cho địch hao

mòn, chờ đến ngày ta tổng phản công để quét sạch lũ chúng” [63, 15].

Dựa trên cơ sở phân tích một cách cụ thể tình hình khách quan trong

nước cũng như trên thế giới, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy: sự thống trị

tàn bạo của chủ nghĩa thực dân là hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với một

kẻ yếu. Từ đó, Người đưa ra chủ trương: cần phải dùng phương pháp bạo lực

cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, phát huy sức mạnh tổng hợp

của lực lượng chính trị và lực lượng quân sự. Tuy nhiên, “Tuỳ tình hình cụ thể

mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng

và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để

giành thắng lợi cho cách mạng” [63, 304]. Người th êng xuyªn nh¾c nhë c¸n

bé: muèn l·nh ®¹o cho ®óng tÊt ph¶i theo ® êng lèi chung. Song, c¸ch lµm ph¶i

tuú theo chç, tuú theo mïa, tuú theo hoµn c¶nh thùc tÕ ®Þa ph ¬ng, ®Êt n íc.

Nói về vấn đề này, Pinô Tagưliaducchi Perugia, nhà sử học Itali đã nhận xét:

“Ở Hồ Chí Minh, lý luận không bao giờ trừu tượng, nó luôn là một cách nhìn

sâu sắc và cụ thể những con người và những vấn đề. Là một nhà chính trị có

tầm cỡ, Người có khả năng phân biệt các gì có tính chất sống còn bắt buộc phải

chiến đấu và cái gì có thể đàm phán, dù là đau đớn. Điều đó đã tạo thành năng 54

lực đúng vững trên đường lối chiến lược, đồng thời chuyển động giữa những sự

cản trở cực kỳ to lớn” [37, 126 - 127].

Ở chủ tịch Hồ Chí Minh, người ta luôn thấy cách nhìn biện chứng. Người

cho rằng không thể máy móc, cứng nhắc, giáo điều; không thể trừu tượng, thoát ly

đặc điểm lịch sử của từng dân tộc; không thể có phương pháp, giải pháp duy nhất

nào áp dụng đồng loạt cho mọi nơi, mọi lúc. Người đòi hỏi những người cộng sản

các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn

cảnh từng lúc và từng nơi. Trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người luôn chủ

trương dùng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin mà

tổng kết kinh nghiệm của Đảng, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của

nước ta, định ra những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể thích hợp với tình

hình đất nước. Theo quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh, những nguyên lý cơ bản

của chủ nghĩa Mác - Lênin là cái chung, là sự tổng kết phong trào cách mạng của

các nước vô sản trên thế giới. Tuy nhiên, những quy luật chung của cách mạng xã

hội chủ nghĩa không tồn tại độc lập, chúng chỉ tồn tại dưới những dạng cụ thể ở

trong từng cuộc cách mạng riêng biệt. Do đó, ở những nước khác nhau, sự vận dụng

những nguyên lí ấy vào hoàn cảnh cụ thể của từng nước là khác nhau. Nói cách khác

phải biết “Đo bò làm chuồng, đo người may áo”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Làm cách mạng không thể xuất phát từ

ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ thực tế khách quan từng lúc, từng nơi để

đề ra đường lối, chính sách. Nhận thức rất rõ đặc điểm của Việt Nam: tiến lên

xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh

tàn phá, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Việt Nam đi theo con đường quá độ

gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì theo Người: “tuỳ hoàn cảnh mà các dân

tộc phát triển theo con đường khác nhau” [65, 247]. Song, có định hướng rồi,

cách mạng muốn thành công phải có những bước đi cụ thể, không hấp tấp,

nóng vội. Người luôn trăn trở, nghĩ suy về những biện pháp, phương pháp xây

dựng đất nước sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của Việt Nam. Người

55

nói: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có

lịch sử địa lí khác” [66, 22]. Do đó, Người cho rằng chủ trương đường lối rất

“kêu” nhưng không có biện pháp cụ thể thì không có ý nghĩa thực tiễn gì. Các

biện pháp, các hình thức chính là khâu trung gian để chuyển hoá đường lối

thành hành động cách mạng. Vì thế, theo chủ tịch Hồ Chí Minh, việc tìm ra

những hình thức, những biện pháp cụ thể không chỉ là nhiệm vụ của đội quân

tiên phong mà còn là sự sáng tạo của quần chúng.

Có thể nói, chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt

Nam, là người thầy của cách mạng Việt Nam. Dựa trên quan điểm lịch sử - cụ

thể, thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng tài tình những nguyên lý phổ

biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt

Nam, Người đã đưa ra những chủ trương, đường lối phù hợp với tình hình đất

nước. Nhờ đó, con thuyền cách mạng Việt Nam đã vượt qua những phong ba

bão táp để cập đến bến bờ thắng lợi.

2.3. Quan điểm phát triển

Phép biện chứng duy vật đã chỉ ra: muốn đánh giá được bản chất của sự

vật, phải xem xét sự vật trong điều kiện lịch sử của nó, trong quá trình phát

sinh, phát triển của nó. Vì thế, quan điểm cụ thể gắn liền với quan điểm phát

triển.

V.I. Lênin đã từng chỉ dẫn cho chúng ta một phương pháp khoa học:

Điều kiện quan trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa học là không nên quên

sự liên hệ lịch sử căn bản; là nhận xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một

hiện tượng nào đó đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, các giai đoạn phát

triển chính của nó là những gì và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để

xét xem hiện nay, hiện tượng đó đã trở nên như thế nào?

Tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh

luôn có quan điểm vận động - phát triển trong việc nhìn nhận, đánh giá, giải

quyết các vấn đề cách mạng trong đấu tranh cũng như trong thời kỳ xây dựng

đất nước. Người quan niệm: trong thế giới, cái gì cũng “biến hoá”. Sự biến hoá

56

của sự vật, hiện tượng (trong đó có con người) tuân theo quy luật “âm cực

dương hồi”, “bỉ cực thái lai”… Cho nên, sự vận động, phát triển không ngừng

của xã hội, của thế giới cũng là một xu hướng tất yếu khách quan: “Không có

lực lượng gì ngăn trở được mặt trời mọc, không có lực lượng gì ngăn trở được

lịch sử loài người tiến lên”. [66, 556 - 557]. Vì thế, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn

nhìn sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển không ngừng.

Để làm một cuộc cách mạng thành công, theo chủ tịch Hồ Chí Minh,

phải có đường lối cách mạng đúng đắn. Giữa “bao nẻo đường” cứu nước khác

nhau, Người đã chọn con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người cho rằng

đó là chủ nghĩa “chân chính nhất”, “chắc chắn nhất”, “cách mạng nhất”. Song,

V.I. Lênin đã từng nãi: chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng,

một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch,

mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động, chính vì thế nên nó không

thể không phản ánh sự biến đổi đặc biệt mạnh mẽ của điều kiện sinh hoạt xã

hội. Cho nên, chñ tÞch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở: chúng ta kh«ng nªn coi

triÕt häc M¸c - Lªnin lµ mét c¸i g× ®· xong xu«i, hoµn thiÖn vµ bÊt kh¶ x©m

ph¹m mà cÇn ph¶i ph¸t triÓn h¬n n÷a.

Trong quá trình tìm đường cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tiếp

thu, suy ngẫm những quan điểm, tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăng ghen, V.I.

Lªnin vµ vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Với

Người, lí luận chính là kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Song, lí luận

không phải là giáo điều, nó không phải là một cái gì cứng nhắc mà đầy tính

chất sáng tạo. Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới

rút ra từ trong thực tế sinh động của cuộc sống.

Sống ở thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph.

Ăngghen luôn nhấn mạnh vấn đề giải phóng giai cấp, coi giải phóng giai cấp là

nhiệm vụ trung tâm của cuộc cách mạng, không đề cập đến con đường giải

phóng dân tộc. Đặc biệt, trong quan niệm của các ông, cách mạng ở các nước

lạc hậu, chậm phát triển chỉ có thể thành công khi giai cấp vô sản ở các nước

tư bản phát triển giành được chính quyền. Khác với C. Mác, Ph.Ăng ghen, V.I.

Lênin là người sống trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai đoạn của sự thôn 57

tính và xâm chiếm thuộc địa, cho nên ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề giải

phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy tư tưởng vĩ đại ở V.I.

Lênin: không chỉ giải phóng dân tộc mình mà còn muốn giải phóng các dân

tộc thuộc địa trên thế giới. Trong cuộc đấu tranh ấy, ông đòi hỏi giai cấp vô

sản ở chính quốc phải giúp đỡ các dân tộc thuộc địa. Tuy nhiên, trong điều

kiện lịch sử đó, V.I. Lênin vẫn chưa thấy hết được tính chủ động, chưa thấy

được khả năng tự giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Theo ông, đa số dân cư

trên trái đất bị một số thiểu số bóc lột bởi đa số này cho đến nay vẫn hoàn toàn

đứng ngoài bước tiến của lịch sử.

Đặc biệt, sau khi V.I. Lênin mất, lãnh đạo giai cấp vô sản chính quốc tỏ

ra thờ ơ với vấn đề thuộc địa, họ không quan tâm vì sự cực đoan và sự thiếu

hiểu biết. Với họ, thuộc địa chỉ là một nơi trên là mặt trời, dưới là cát trắng với

vài cây dừa xanh và vài người khác màu da. Cho nên, theo họ, cách mạng giải

phóng dân tộc phải phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, phải chờ đợi cách

mạng vô sản ở chính quốc thành công. Trong Tuyên ngôn thành lập của Quốc

tế cộng sản năm 1919 có đoạn viết: “Sự giải phóng dân tộc thuộc địa chỉ có thể

có được cùng với sự giải phóng giai cấp công nhân ở chính quốc. Công nhân

và nông dân không những ở An Nam, Angieri, Benganlia mà ở Ba Tư hay ở

Ácmênia, chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân nước Anh và nước

Pháp lật đổ được Looit Giooocgio và Clêmăngxô, giành chính quyền nhà nước

trong tay mình” [36, 77].

Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy đã nhận thấy mối liên hệ khăng khít giữa

cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa song, quan trọng hơn, Người

còn thấy rõ tính chủ động của các dân tộc thuộc địa trong việc lật đổ chủ nghĩa

thực dân để tự giải phóng. Người quan niệm các dân tộc thuộc địa không nhất

thiết phải chờ cho đến khi giai cấp công nhân chính quốc giành được thắng lợi

mới có thể thực hiện được công cuộc giải phóng hoàn toàn. Người cho rằng

con đường cách mạng của chúng ta không phải là làm cách mạng thế giới, chờ

58

sự giúp đỡ của thế giới để giải phóng Việt Nam. Theo người, cách mạng Việt

Nam muốn giành được thắng lợi trước hết, phải bằng sự nỗ lực và sức mạnh

của chính mình; phải tự “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Người nhận

định: “Khi giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức ở các nước thuộc

địa đã giành được độc lập cả về chính trị và kinh tế, họ sẽ hình thành một lực

lượng khổng lồ”. Và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của

chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ sẽ có thể giúp đỡ những ngươi anh

em của mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” [59, 36].

Người đã nhìn thấy sức mạnh tiềm ẩn bên trong những người dân thuộc địa,

thấy được đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái

gì đó đang “sục sôi’, đang gào thét và sẽ “bùng nổ dữ dội” khi thời cơ đến. Vì

thế, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận. Cách mạng thuộc địa không

những không phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính quốc mà

còn cần được tiến hành chủ động, sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước

giai cấp vô sản chính quốc.

Sớm nhận thức được chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và tính thời đại của

cách mạng vô sản thế kỷ XX, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: phải làm “tư sản

dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [61, 1].

Ngay từ năm 1921, Người đã nhận thấy “chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng

vào Châu Á, dễ dàng hơn là ở Châu Âu” [61, 35]. Cho đến năm 1930, tư tưởng

ấy đã trở thành đường lối chiến lược của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở

một nước thuộc địa, mà cốt lõi là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hộị. Đây

chính là sự vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa

Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với tầm nhìn chiến lược,

chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức được xu thế vận động, phát triển của lịch

sử, chủ động chuẩn bị sẵn sàng để đất nước có thể bước vào cuộc chiến. Người

nhắc nhở: “Bất kỳ hoà bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững, chủ

động, phải thấy trước, chuẩn bị trước” [65, 317]. Trong nhận thức của chủ tịch

59

Hồ Chí Minh, tất yếu lịch sử luôn xem là một nhân tố “động”. Người cho rằng

những điều kiện cần và đủ cho tính tất yếu lịch sử không phải là cái sẵn có,

đầy đủ ngay một lúc, mà nó được hình thành dần dần, từng phần, từng bước,

do hoạt động có tổ chức, có kế hoạch của nhân dân. Vì thế, nếu chúng ta ý

thức được tất yếu lịch sử, tạo ra được điều kiện cần và đủ, có phương pháp

hành động đúng đắn thì xu thế “tất yếu” sẽ bộc lộ và được hiện thực hoá. Tuy

nhiên, những điều kiện để tất yếu lịch sử được thực hiện cũng như những giải

pháp sử dụng để tạo ra những điều kiện đó không tồn tại và vận động một cách

riêng rẽ mà tác động lẫn nhau, kết hợp với nhau, tạo ra hiệu quả. Cho nên, theo

chủ tịch Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, chúng ta cần ý

thức được điều đó mà vận dụng, như vậy mới có thể phát huy được sức mạnh

tổng hợp, giành thắng lợi cho cách mạng.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng nói: “Khi một sự việc đã xảy ra rồi,

người ta thường dễ nhìn thấy những gì tất yếu đã dẫn dắt nó từ chỗ còn là khả

năng đến chỗ trở thành hiện thực. Ta cũng dễ nói một cách đơn giản: Đúng là

nó phải xảy ra như thế không thể khác được…Việc dự kiến chính xác, khoa

học chiều hướng phát triển của sự vật, những chiều hướng lớn sẽ xảy ra trong

tương lai vô cùng quan trọng trong công tác cách mạng… Những điều tiên tri

đó thuộc về thiên tài” [37, 126 - 127]. Có thể nói, chủ tịch Hồ Chí Minh chính

là thiên tài của đất nước. Thiên tài của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo cách mạng

Việt Nam là ở chỗ: Người luôn biết phân tích một cách sáng suốt những tình

hình cụ thể, biết “nhìn xa trông rộng”, thấu suốt và nắm chắc yêu cầu, nhiệm

vụ của cách mạng, quyền lợi, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Từ đó,

Người đã đưa ra những quyết định kịp thời, chính xác, đánh giá đúng bản chất

khách quan, chiều hướng phát triển về mọi mặt của tình hình thực tiễn, chèo

lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua gió to sóng cả, cập đến bến bờ

thắng lợi. Ở Người, người ta thấy có một năng lực dự báo mang tính chất tiên

tri, có tầm nhìn chiến lược.

Trong mỗi cuộc chiến, chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng đánh giá sức

60

mạnh quân sự của đôi bên trên cơ sở xem xét mối tương quan giữa con người

và vũ khí, chính trị và kỹ thuật, chất lượng và số lượng. Vì thế, Người luôn

thấy được chiều hướng vận động của cuộc cách mạng. Người cho rằng, cách

mạng là việc khó, song, việc gì khó đến mấy nếu “quan tâm” thì làm “chắc

được”. Ít người làm không nổi, nhưng nhiều người đồng tâm hiệp lực thì phải

làm xong. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, ở thời điểm nóng bỏng nhất

của chiến tranh thế giới thứ II, đồng thời cũng là thời kỳ cường thịnh nhất của

chủ nghĩa phát xít, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán được sự thất bại của

chúng và nhìn thấy thời cơ cho Việt Nam giành lại độc lập. Trong Hội nghị

TƯ Đảng lần thứ 8 (tháng 5 – 1941), Người nhận định: “Nếu cuộc chiến tranh

đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc chiến

tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách

mạng nhiều nước thành công” [64, 644]. Vì thế, Người đã ra lời kêu gọi toàn

dân: “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy” [61, 198].

Từ trong “đêm tối” của chế độ thực dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy

trước viễn cảnh của ngày mai tươi sáng. Người đã thấy được sức mạnh của chủ

nghĩa dân tộc Việt Nam. Người coi đó là động lực vĩ đại của đất nước, là vấn

đề then chốt bảo đảm thắng lợi. Người ví phong trào cách mạng như nước thuỷ

triều khi lên khi xuống, trung kiên cũng như những hàng cọc, cọc đóng có chắc

thì mới giữ được phù sa phòng khi nước xuống. Cho nên, theo chủ tịch Hồ Chí

Minh, cách mạng phải gian khổ, việc cách mạng là việc lâu dài, song cách

mạng nhất định sẽ thắng. Trong cuốn Lịch sử diễn ca viết năm 1941 (Việt

Minh tuyên truyền Bộ xuất bản 1942), Người đã tiên đoán ngày cách mạng

thành công. Ở phần phụ lục, Người viết: 1945: Việt Nam độc lập.

Ngay khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Người đã dự đoán một

cuộc chiến tranh đầy máu lửa sẽ diễn ra. Người nói: giữa ta và Pháp nhất định

có đánh nhau. Trong bối cảnh chính quyền còn non trẻ, lại chịu cảnh “thù

trong”, “giặc ngoài”, đất nước ta cần có thời gian chuẩn bị đủ về “lượng”.

Song, có những tư tưởng nóng vội thời kỳ này lại cho rằng: Mấy thằng Tây

61

quèn quỳ gối đầu hàng Nhật, ló mặt ra là phải quét ngay. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã chỉ rõ: mấy thằng Tây quèn, nhưng cả đế quốc Pháp thì nó chưa quèn.

Nhất định là nó lăm le cướp lại nước ta. Và nhất định là ta sẽ đánh lại, nhưng

phải đánh như thế nào cho thắng, phải tích luỹ lực lượng, không đánh theo

kiểu một trận anh hùng rồi ra sao thì ra.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng nguyên lí “phải biết xét đoán

trước”, tức là nguyên lí tiên tri của binh pháp Tôn Tử. Trước cũng như sau khi

kháng chiến bùng nổ trong cả nước, Người luôn nêu cao mệnh đề quân sự “tri

bỉ, tri kỷ”, “biết mình, biết người”. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, trước khi khai

chiến, phải biết mình, biết người, biết tình hình thiên thời, địa lợi để định kế

hoạch hành động, mới có thể thắng được. Người coi đó là cốt tử của mọi cuộc

chiến tranh.

Ngay từ khi giặc Pháp gây hấn với ta ở Nam Bộ và cả khi chiến tranh

bùng nổ trong cả nước, Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá và thấy được tương

quan so sánh lực lượng giữa ta và địch. Người chỉ rõ: Lúc đầu, lực lượng ta còn

yếu, quân đội mới tổ chức, trang bị thô sơ, kinh tế nghèo nàn, khó khăn, song,

chúng ta cũng có nhiều thuận lợi: ta có chính nghĩa, có khối đại đoàn kết toàn

dân, đặc biệt, chúng ta đánh địch ngay trên đất nước mình. Hơn nữa, cuộc chiến

đấu của ta lại được các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới (trong đó có nhân

dân Pháp) ủng hộ. Còn kẻ địch, chúng có quân đội nhà nghề, trang bị hiện đại,

có công nghiệp tiên tiến, song chiến tranh của chúng lại là phi nghĩa, nội bộ

chúng bị chia rẽ, bị nhân dân trong nước và nhân loại tiến bộ phản đối, tinh thần

binh sỹ bạc nhược… Nhận thức được mâu thuẫn ấy, Người tìm ra cách thức giải

quyết mâu thuẫn. Người chủ trương: giữ hoà bình càng lâu càng có lợi, đã đánh

thì nhân dân ta phải quyết thắng. Song, theo chủ tịch Hồ Chí Minh, mục đích

của việc giải quyết mâu thuẫn là nhằm đạt tới sự đoàn kết hoà hợp cùng phát

triển chứ không phải là sự chia rẽ, hận thù, sự tiêu diệt lẫn nhau. Người cho

rằng: hai hòn đá chống chọi nhau thì hai hòn đá đều vỡ, hai cái trứng cùng chọi

nhau thì hai cái trứng đều vỡ, cần phải một cái cứng, một cái mềm, như thế khi

62

chọi nhau một cái mới còn. Cho nên, Người chủ trương: ta cần phải cùng dùng

mưu trí. Nó có vũ khí tối tân thì ta đánh du kích, nó trên trời thì ta dưới đất, nó

đánh chớp nhoáng thì ta trường kỳ kháng chiến, trường kỳ kháng chiến nhất

định sẽ thắng lợi. Tuy nhiên, cũng có những quan điểm cho rằng đánh trường kỳ

như vậy rất hại người, tốn của. Người giải thích: Sức ta bây giờ như chàng trai

16, còn thế giặc bây giờ như lão già quỷ quyệt, độc ác. Nếu ta cậy sức “đánh

bừa” thì sao chắc thắng được. Ta phải vừa đánh, vừa nuôi cho sức mình khoẻ

lên, trường kỳ kháng chiến là để phát triển lực lượng. Khi sức ta đã khoẻ, giặc

suy yếu dần, ta mới lừa thế quật ngã nó, có như vậy mới chắc thắng.

Dựa trên quan điểm vận động - phát triển, từ quá khứ, chủ tịch Hồ Chí

Minh luôn tìm thấy “ánh sáng” cho tương lai của đất nước. Ở Người, người ta

luôn nhận thấy một niềm tin vào tương lai chắc thắng. Người khẳng định:

Thấy gian khổ là để vượt qua chứ không phải để lùi bước. Vì thế, Người đã

tuyên bố với Mutê và Xanhtơni: “Nếu chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu thì

chúng tôi sẽ chiến đấu, các ông có thể giết được của chúng tôi 10 người, mà

chúng tôi chỉ giết được 1 người của các ông, nhưng cuối cùng các ông sẽ phải

nản chí” [24, 67]. Thực tiễn kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đã khẳng

định tư tưởng đó của Người hoàn toàn đúng đắn.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, với vai trò của một người cầm lái,

chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở: phải chèo chống thế nào để đưa chiếc

thuyền Tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng gió, mà an toàn đi đến bến bờ

hạnh phúc của nhân dân? Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội thắng lợi là

vì họ biết sẽ chắc thắng rồi họ mới ra đánh, quân đội thất bại thì ra đánh rồi

mới cầu thắng. Cho nên, người làm tướng mưu trí bao giờ cũng phải lo đến

lợi - hại. Bởi lo đến lợi mới có đủ tin tưởng làm tròn nhiệm vụ, lo đến hại

mới tìm được mưu kế để bài trừ được gian nguy. Nói cách khác, trong bất

kỳ hoàn cảnh nào, dù hòa bình hay chiến tranh, chúng ta phải luôn nắm

vững thế chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước, phải “kiên quyết không

ngừng thế tấn công”. Trong bút ký Công việc khẩn cấp bây giờ, Người

63

khích lệ: Cố ráng sức qua khỏi mùa đông lạnh lẽo thì ta sẽ gặp mùa xuân.

Người cho rằng: “không quân đội nào không khí giới nào có thể đánh ngã

được tinh thần hy sinh của toàn thể dân tộc” [62, 77]. Ở những thời điểm

khó khăn của cuộc kháng chiến, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện niềm

tin tưởng vào tương lai tốt đẹp. Người nói: “Khi chỉ có hai bàn tay trắng, với

một số đồng chí bí mật leo lói trong rừng, địa thế khó, chuẩn bị kém, ta còn

gây nên cơ sở kháng Nhật, kháng Pháp. Huống gì bây giờ, ta có quân đội, có

nhân dân Nam Bộ, địa thế khó, chuẩn bị kém mà kháng chiến đã được hơn

một năm. Địa thế tốt, lực lượng nhiều hơn, nhất định kháng chiến được mấy

năm, đến thắng lợi” [62, 434].

Trong kháng chiến chống Pháp, có một vấn đề lớn đặt ra cho dân tộc

Việt Nam là: Làm thế nào mà một nước thuộc địa, kinh tế nghèo nàn, trình

độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, chưa có quân đội và vũ khí hiện đại có thể

đánh thắng được kẻ thù đế quốc hung bạo có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn

mạnh, lại dựa trên một nền công nghiệp cao? Để chèo lái con thuyền cách

mạng Việt Nam cập bến bờ thắng lợi, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng

đến vấn đề nắm bắt thời cơ, tận dụng được thời cơ khởi nghĩa.

C. Mác đã chỉ ra rằng “khởi nghĩa là một nghệ thuật”, “phải có thời cơ

thuận lợi chắc chắn”. V.I. Lênin cũng đã nhấn mạnh: khởi nghĩa là một nhiệm

vụ đòi hỏi phải có nghệ thuật chọn thời cơ để khởi nghĩa và một tinh thần anh

dũng gấp bội. Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh

khẳng định: cách mạng nổ ra phải có thời cơ thuận lợi. Muốn thấy rõ được thời

cơ, hiểu rõ cái thế của cách mạng, đánh giá đúng các lực lượng trên trận tuyến

đấu tranh, chúng ta phải có tầm nhìn xa trông rộng, bao quát được tình hình

trong nước và thế giới, phải thấy rõ được xu thế chung của thời đại. Từ đó phải

tìm cách làm cho lực ngày càng mạnh, thế ngày càng vững và thời cơ không bị

bỏ lỡ. Bởi vì thời cơ cách mạng rất quý hiếm, ít xảy ra, có xảy ra cũng chỉ xảy

ra trong thời gian ngắn. Vì thế, Người đòi hỏi Đảng và nhân dân ta không được

64

ỷ lại, chờ đợi thời cơ mà phải đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng cho cách

mạng, “phải thúc đẩy cho thời cơ mau đến”, tạo ra thời cơ cách mạng, làm cho

thời cơ cách mạng xuất hiện và chín muồi, giúp cho khởi nghĩa giành thắng lợi

toàn vẹn, chắc chắn, bảo toàn lực lượng, tránh tổn thất cho cách mạng và nhân

dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: phải có quyết tâm tranh thủ thời cơ để

giành thắng lợi bởi: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí. Gặp thời một tốt cũng thành

công” [61, 287]. Cho nên, trong chiến tranh, chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng

việc kết hợp lực, thế, thời để giành chiến thắng. Người chỉ rõ: thế, lực vận động

sẽ tạo ra thời: “Quả cân chỉ một kilôgam, ở vào thế lợi thì lực của nó tăng lên

nhiều, có sức mạnh làm bổng được một vật nặng hàng trăm kilôgam. Đó là

thắng lực” [70, 455]. Điều đó cũng có nghĩa: trong chiến tranh, không phải cứ

có một lực lượng quân đội lớn mạnh là sẽ nắm chắc phần thắng. Nếu như người

ta không biết sử dụng lực lượng quân sự đúng thời, thế, họ vẫn có thể thất bại.

Ngược lại, dù lực lượng quân sự của chúng ta nhỏ hơn, trang bị kém hơn song

được sử dụng đúng thời, đúng thế thì có thể biến ít thành nhiều, biến nhỏ thành

lớn, biến yếu thành mạnh, và nhất định sẽ giành thắng lợi. Tuy nhiên, theo chủ

tịch Hồ Chí Minh, để phát huy được hiệu quả của lực, thế, thời phải dùng mưu,

phải “lập thế” đánh địch. Nếu biết dùng mưu thì ta sẽ phát huy được chỗ mạnh

của mình, hạn chế được chỗ mạnh của địch, tạo điều kiện dẫn đến sự chuyển

biến về chất ở thời điểm quyết định, đi đến giành thắng lợi. Trong bài Phương

pháp tác chiến đăng trên báo Cứu Quốc 14 - 6 - 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh đã

chỉ rõ: phải quyết đoán, dũng cảm, tiến đánh cho thật nhanh, nếu trù trừ, do dự

sẽ mất cơ hội. Song, đánh nhanh, không phải là vội vàng hấp tấp mà quên cơ

mưu, phải vừa đánh nhanh, vừa có cơ mưu, cơ động, linh hoạt mới có thể thắng

lợi. Người quan niệm, phép dùng binh là phải “thiên biến”, “vạn hoá”. Nhưng

đó không phải là sự thay đổi tuỳ tiện, thiếu cơ sở, thiếu căn cứ mà bao giờ cũng

phải tích cực, chủ động, sẵn sằng đánh địch trong mọi tình huống. Cho nên,

muốn thắng được địch thì phải biết “dụ quân giặc vào bẫy” để đánh, phải biết

65

“tránh chỗ mạnh”, “đánh chỗ yếu”, “náo phía đông”, “đánh phía tây”. Người

cho rằng cách đánh “du kích” cũng giống như cách “đánh cờ” vì thế phải có

mưu cao, “kế khéo”, phải “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II,

tháng 2 - 1951 tại Tuyên Quang, Người chỉ rõ: Địch âm mưu đánh chớp

nhoáng, muốn đánh mau, thắng mau, giải quyết mau thì ta chủ trương kháng

chiến lâu dài, địch âm mưu chia rẽ thì ta nêu khẩu hiệu đoàn kết toàn dân. Do

đó, cho dù lúc đầu sức địch mạnh, sức ta yếu, song ta kiên quyết kháng chiến,

nhất định sẽ thắng lợi.

Theo quan niệm của chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công

bên cạnh việc “tạo lực”, “lập thế”, “tranh thời”, “dùng mưu”, còn phải có

những yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Đó là những nhân tố quyết định

thắng lợi của cuộc cách mạng, trong đó nhân hoà được coi là nhân tố quan

trọng nhất. Người cho rằng có “nhân hoà” mới có lực lượng, mới tạo ra được

“thế trận”, mới tạo ra được “thời cơ” và tranh thủ thời cơ. Cho nên “trong hai

phe giao chiến, phe nào có đầy đủ điều kiện nhân hoà là phe ấy thắng” [62,

463]. Song, Người cũng chỉ rõ, chỉ phe nào có chính nghĩa, vì chính nghĩa mà

chiến đấu thì phe đó mới có đủ điều kiện nhân hoà. Đối với nhân dân Việt

Nam, lòng yêu nước của đồng bào, nhập với hình thế của núi rừng thành một

lực lượng vô địch, nó đánh tan cuộc tiến công của thực dân. Vì thế, trong hoàn

cảnh buổi đầu kháng chiến còn nhiều khó khăn, tuy cái gì cũng thiếu, song

Người đã quả quyết với những người lừng chừng và bi quan rằng: “Nay tuy

châu chấu đấu voi, ngày mai voi sẽ bị lòi ruột ra” [64, 164]. Sau sự kiện Nhật

đảo chính Pháp, trước những điều kiện khách quan thuận lợi, Bác Hồ và Trung

ương đã đặt vấn đề giải phóng dân tộc thành nhiệm vụ cách mạng cần kíp và

coi việc chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn dân tộc. Người

nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp: Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh

tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho

được độc lập. Trên thực tế, trong lịch sử dân tộc, ngày 19 - 8 - 1945 mà Bác và

66

các đồng chí lựa chọn đã trở thành ngày lịch sử thiêng liêng của dân tộc Việt

Nam, minh chứng cho sự tiên đoán chính xác, thấy được sự vận động của cuộc

cách mạng, sáng suốt chớp thời cơ cho Việt Nam giành được độc lập. Có thể

nói, trong những giờ phút “gay go” của cuộc chiến, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn

là “người cầm lái” dạn dày kinh nghiệm. Chính những quyết định có tầm chiến

lược của Người (về chính trị cũng như quân sự) “đã đưa con thuyền cách mạng

của Việt Nam cập đến bến bờ thắng lợi” (Võ Nguyên Giáp).

Đối với chủ tịch Hồ Chí Minh, trong thế giới, cái gì cũng biến hoá. Vì

thế, Người luôn nhìn nhận sự vật, hiện tượng, các vấn đề của cuộc cách mạng

trong xu hướng vận động, phát triển. Nếu như trong đấu tranh giành chính

quyền, Hồ Chí Minh không chờ cách mạng Pháp thành công, không chờ các

lực lượng vũ trang có đầy đủ vũ khí rồi mới tiến hành khởi nghĩa, tiến hành

kháng chiến thì đến khi hoà bình lập lại ở Miền Bắc, Người cũng không chờ có

đủ lực lượng sản xuất tiên tiến, không chờ Miền Nam giải phóng mới tiến hành

xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội

từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đất nước tạm thời bị chia cắt, lại có chiến

tranh nên chúng ta phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa chống Mỹ cứu

nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc. Đây được coi là một nét độc

đáo, sáng tạo của chủ tịch Hồ Chí Minh. Sigo Shibata, nhà khoa học Nhật Bản

đã nhận xét: Một trong những cống hiến quan trọng của Đảng cộng sản Việt

Nam là đã đề ra lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội, khi vẫn còn tiến hành chiến

tranh nhân dân. Trong khi các nhà lí luận mác xít cho rằng chỉ có thể xây dựng

chủ nghĩa xã hội khi chiến tranh đã kết thúc, thì nhân dân Việt Nam đã xây

dựng chủ nghĩa xã hội ngay trong chiến tranh.

Đặc biệt, khi nói về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta,

chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: chủ nghĩa xã hội có mục tiêu, nguyên lý

chung giống nhau song mỗi nước lại có đặc điểm lịch sử - cụ thể khác nhau. Vì

thế, phương thức, biện pháp, bước đi, cách làm chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước

không giống nhau. Người nhắc nhở: chúng ta phải biết học tập kinh nghiệm

67

dồi dào của các nước anh em để phát triển đất nước, song không thể áp dụng

những kinh nghiệm đó một cách máy móc, chống rập khuôn. Người phê phán

một số cán bộ chỉ biết học sách vở Mác – Lênin mà không học tinh thần Mác –

Lênin, học chỉ để “trang sức” chứ không phải học để vận dụng vào công việc

cách mạng. Theo Người, nếu cứ thấy người ta làm thế nào mình cũng một

mực bắt chước làm theo thế ấy, như thế nhất định thất bại. “Ta không thể

giống Liên Xô,… ta có thể đi theo con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã

hội”.

Đối với việc đánh giá cán bộ, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thể hiện một

cách nhìn biện chứng trong sự vận động, phát triển. Người cho rằng mét ng êi

c¸n bé tr íc kia cã thÓ sai lÇm nh ng kh«ng ph¶i v× thÕ mµ sai lÇm m·i. Ng îc

l¹i, cã nh÷ng ng êi c¸n bé ®Õn nay ch a bÞ sai lÇm nh ng ch¾c g× sau nµy ®·

kh«ng ph¹m ph¶i: “Cã thÓ cã nh÷ng ng­êi khi kh²ng chiÕn th× rÊt anh dñng,

tr íc bom ®¹n ®Þch th× kh«ng chÞu khuÊt phôc, nh ng khi vÒ thµnh thÞ l¹i bÞ

tiÒn b¹c, g¸i ®Ñp quyÕn rò, mÊt lËp tr­êng, sa v¯o téi lçi” [65, 346]. V× thÕ,

xem xÐt c¸n bé kh«ng nªn ®Þnh kiÕn, nhÊt nhÊt tr íc sau nh mét. Trong quá

trình lãnh đạo cách mạng đi tới thành công, Người luôn ý thức được vai trò

quan trọng của nhân tố con người đối với sự phát triển của đất nước. Người

cho rằng: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có con người xã hội chủ

nghĩa. Vì thế, Người chủ trương: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì

lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [67, 222]. Người luôn tin vào lực lượng

thanh niên, những người chủ nhân tương lai của đất nước, họ sẽ là những

người “đào núi”, “lấp bể”, giúp Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc

năm châu trên thế giới.

***

Kết luận chương 2: Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,

từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, chủ

tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo các nguyên lý

của chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa con

thuyền cách mạng Việt Nam cập đến bến bờ thắng lợi. Sự vận dụng phép biện

chứng duy vật ở Hồ Chí Minh không phải là sự vận dụng từng nguyên lí riêng 68

biệt là là sự vận dụng tổng hợp các nguyên lí, tạo nên sự đan xen, gắn bó với

nhau giữa các quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm

phát triển.

Chương 3

bµi häc vËn dông quan ĐIỂM biÖn chøng duy vËt cña Hå

ChÝ Minh ®èi víi sù nghiÖp ®æi míi Ở VIỆT NAM hiÖn nay

3.1. Khái quát một số nét cơ bản về tình hình thế giới và Việt Nam trong

những năm gần đây

3.1.1. Tình hình thế giới hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh bước lên vũ đài chính trị trong bối cảnh thế giới

chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn tột cùng là chủ nghĩa đế quốc. Sau sự

thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga, lịch sử loài người đã chuyển sang một

thời kỳ mới: thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm

vi toàn thế giới. Ở thời kỳ mà chủ tịch Hồ Chí Minh sống, các trào lưu cách

mạng trên thế giới đang phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành quả to

lớn, chủ nghĩa xã hội ngày càng mở rộng, phát triển và trở thành một hệ thống

thế giới. Song, thế giới ngày nay đang trải qua một thời kỳ biến đổi cực kỳ

69

nhanh chóng với những diễn biến phức tạp và thay đổi khó lường:

Thứ nhất: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đặc biệt là công nghệ

thông tin, đã có bước phát triển nhảy vọt chưa từng thấy trong lịch sử, dẫn đến

những thay đổi lớn lao trong xã hội loài người. Ngày nay, nhân loại đang bước

vào nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản: xã hội thông tin và kinh tế tri

thức. Trong thế giới hiện đại, cách mạng khoa học và công nghệ đã trở thành

một động lực xuyên quốc gia. Nó đang tạo cơ sở vật chất cho quá trình toàn cầu

hoá, thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế, cơ cấu kinh tế và làm thay đổi nhiều quan

niệm cũ về một số các lĩnh vực trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Toàn cầu hoá

đã trở thành một xu thế khách quan trên thế giới. Trong cuộc cạnh tranh để tồn

tại và phát triển, xu hướng liên kết, hợp tác giữa các nước đang diễn ra mạnh

mẽ với nhiều cấp độ, trên các lĩnh vực kinh tế - chính trị, an ninh quốc phòng.

Tuy nhiên, sự liên kết ấy bao hàm vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa liên kết, vừa

cạnh tranh.

Thứ hai: Cục diện chính trị thế giới đã có sự thay đổi căn bản. Sự khủng

hoảng và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã làm

thay đổi căn bản cục diện chính trị quốc tế: chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào

thoái trào song chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn đang tiếp tục tự điều chỉnh. Nó

vẫn còn khả năng phát triển nhất định do nắm được và sử dụng các thành tựu

khoa học và công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, nó vẫn không khắc phục được

những mâu thuẫn vốn có. Bên cạnh đó, nhiều quốc gia độc lập trên thế giới thời

kỳ này đang bị phân hoá mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, tư tưởng và lợi ích quốc

gia, dân tộc. Ở một số nước đang có sự đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định

con đường phát triển của mình, chống lại sự can thiệp, áp đặt và xâm lược từ

bên ngoài.

Có thể nói, trong những năm gần đây, các mâu thuẫn cơ bản trên thế

giới vẫn tồn tại và phát triển, đặc biệt có mặt lại có phần sâu sắc hơn. Người ta

nhận thấy đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục diễn ra dưới

nhiều hình thức, lúc hoà hoãn, lúc gay gắt. Lịch sử thế giới đang trải qua những

70

bước thăng trầm, quanh co, phức tạp.

Thứ ba: Trên thế giới thời kỳ này, tuy chiến tranh lạnh đã kết thúc song

chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, sắc tộc, chạy đua vũ

trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố quốc tế vẫn diễn ra ở nhiều nơi,

ngày càng phức tạp. Cùng với nó, cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hoà bình

phát triển, độc lập dân tộc, tiến bộ và công bằng xã hội trên thế giới vẫn đang

tiến bước.

Thứ tư: Đặc điểm khu vực Đông Nam Á, Châu Á – Thái Bình Dương:

sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, khu vực đang từng bước phục hồi và

tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, trong đó vẫn tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định,

có thể tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của nước ta.

Tóm lại: Tình hình thế giới ngày nay so với thời kỳ chủ tịch Hồ Chí

Minh sống đã có nhiều đổi thay với những diễn biến hết sức phức tạp. Song, xu

thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá, hoà bình - hợp tác, phát triển đang trở thành xu

thế lớn của thời đại.

3.1.2. Thực trạng đất nƣớc sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ IX và sau 20 năm đổi mới

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ ra tình hình

Việt Nam sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX

của Đảng: Năm năm qua, bên cạnh những thuận lợi do tiến trình đổi mới đem

lại, nước ta cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức do thiên tai, dịch

bệnh, do những yếu kém vốn có của nền kinh tế trình độ thấp, do ảnh hưởng

của tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực với những diễn biến phức

tạp, đặc biệt là sau sự kiện ngày 11 - 9 - 2001 ở Mỹ. Tuy nhiên, chúng ta cũng

đạt được những thành tựu quan trọng:

 Về kinh tế: Đất nước ta đã vượt qua được thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ

tăng trưởng khá cao, phát triển tương đối toàn diện. Bình quân trong 5

năm (2001 – 2005) đạt 7, 51% và đạt mức kế hoạch đề ra.

 Văn hoá - xã hội: Đất nước ta đã đạt được sự tiến bộ trên nhiều mặt;

71

việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có nhiều

chuyển biến tốt, đặc biệt là trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Cơ

cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại

hoá.

 Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường; quan

hệ đối ngoại có bước phát triển mới (chủ động, tích cực tham gia các

diễn đàn thế giới; tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế và khu

vực tại Việt Nam).

 Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên

cả 3 lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội có những đổi

mới quan trọng trong công tác lập pháp, cải tiến quy trình xây dựng

luật, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước, vận hành nền

kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nhu cầu

hội nhập quốc tế. Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được phát huy, hoạt

động của Mặt trận Tổ Quốc và các đoàn thể nhân dân ngày càng thiết

thực.

 Công tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực, có nhiều chuyển

biến mới. Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên phong, năng

động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất, đạo đức.

Bên cạnh những thành tựu trên, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X của Đảng cũng chỉ ra những khuyết điểm và yếu kém:

1. Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả,

sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế còn chưa hợp lý,

chuyển dịch chậm. Các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế chưa thật vững

chắc, dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động từ bên ngoài. Nhiều nguồn lực

và tiềm năng trong nước chưa được huy động và khai thác tốt. Đầu tư của

Nhà nước dàn trải, hiệu quả chưa cao, thất thoát nhiều, lãng phí trong chi

tiêu ngân sách nhà nước. Lĩnh vực dịch vụ phát triển chậm. Hoạt động

kinh tế đối ngoại còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chưa đủ sức vượt qua

72

những khó khăn về cạnh tranh và thị trường.

2. Cơ chế, chính sách về văn hoá – xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội

bức xúc chưa được giải quyết tốt. Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật

vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Chất lượng giáo dục và đào tạo còn

thấp. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng.

3. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Sức

mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang

chưa được phát huy đầy đủ. Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về

quốc phòng, an ninh, đối ngoại chưa theo kịp diễn biến của tình hình.

4. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Quốc hội còn lúng túng trong

việc thực hiện chức năng giám sát. Dân chủ trong xã hội còn bị vi phạm.

5. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu. Tình trạng suy thoái

về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và

tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức

diễn ra nghiêm trọng.

Đại hội đã chỉ rõ: những khuyết điểm và yếu kém trên là do “nhiều nguyên

nhân khách quan và chủ quan”. Tuy nhiên, trong đó nguyên nhân chủ quan là

nguyên nhân chủ yếu, do tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực “chậm đổi

mới”; sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt; một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể

cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực.

Cùng với việc kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, nhìn lại

chặng đường 20 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng

đã khái quát những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước: Trong

những năm qua, đất nước ta “đã ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - xã hội, có sự

thay đổi cơ bản và toàn diện” [20, 67]. Nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. “Đời sống nhân dân được cải thiện rõ

rệt” [20, 67]. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố

73

và tăng cường. Tình hình chính trị - xã hội ổn định, vấn đề “quốc phòng và an

ninh giữ vững”. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức

mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho

đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.

“Đạt được những thành quả to lớn” song “cho đến nay nước ta vẫn trong

tình trạng kém phát triển” [20, 69] ở cả lĩnh vực kinh tế lẫn văn hoá, xã hội.

Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh

vực xây dựng hệ thống chính trị còn nhiều yếu kém… Đặc biệt, “Lý luận chưa

giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở nước ta” [20, 69], nhất là trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc

độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện

công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa đổi mới với

ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh

tế quốc tế…

3.2. Quán triệt quan điểm biện chứng duy vật của Hồ Chí Minh trong giai

đoạn hiện nay ở Việt Nam

Lịch sử tư tưởng và thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm qua

đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng: khi nào chúng ta nắm vững lí luận phép biện

chứng duy vật, biết vận dụng các nguyên tắc, phương pháp của nó một cách

sáng tạo, phù hợp vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước, biết lấy “cái bất biến”

ứng vào “cái vạn biến” theo Hồ Chí Minh thì vai trò và hiệu lực của việc cải

tạo tự nhiên, biến đổi xã hội được nâng cao. Ngược lại, khi nào chúng ta có

cách làm chủ quan, duy ý chí, siêu hình là chúng ta lại phạm phải những sai

lầm, khuyết điểm nghiêm trọng, gây tổn thất to lớn không chỉ cho cách mạng

mà còn cho cả quá trình phát triển xã hội nói chung. Do đó, học tập, nghiên cứu

và vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật mácxít, những tư tưởng biện

chứng của Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước càng là một nhu cầu bức thiết. Nói như Tiến sỹ Bùi Đình Phong,

nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời

74

kỳ Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam thôi thì chưa đủ. Vấn đề quan trọng là

ở chỗ chúng ta phải biết gắn nó với cái hôm nay, với xu thế của thời đại để đi

tìm lời giải cho sự nghiệp đổi mới và tương lai ngày mai của đất nước từ trong

tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thực tiễn đổi mới của đất nước ta ngày nay đang đặt ra những vấn đề

mới đầy phức tạp mà ở thời kỳ của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh chưa có điều

kiện đề cập đến. Do đó, nhận thức rõ bối cảnh lịch sử của thời đại, đặc điểm

tình hình của đất nước, nghiên cứu, bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo tư

tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới hiện nay là nhiệm vụ quan trọng và

cấp thiết trong công tác tư tưởng và lý luận.

Trên cơ sở tổng kết những thành tựu cũng như mặt hạn chế của đất nước

ta, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã rút ra những bài

học kinh nghiệm xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, trong đó có các bài học về quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể,

quan điểm phát triển.

3.2.1. Quan điểm toàn diện

Một trong những bài học lớn rút ra sau 20 năm đổi mới trong Văn kiện

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta là: “Đổi mới toàn diện, đồng

bộ” [20, 70]. Đảng ta đã chỉ ra, trong bối cảnh lịch sử mới, chúng ta phải đổi

mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối

ngoại đến tất các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng,

quản lý của nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống

chính trị… Song, “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã

từng nhắc nhở: toàn diện không có nghĩa là tràn lan, ôm đồm mà phải có trọng

tâm, trọng điểm. Cho nên, bên cạnh việc nhấn mạnh chủ trương tiếp tục đổi

mới của các kỳ đại hội trước, Đảng ta xác định: phải lấy đổi mới kinh tế làm

trọng tâm.

Nói về mục tiêu và phương hướng tổng quát 2006 – 2010, trong Văn

kiện Đại hội X, Đảng ta đã đề ra chủ trương: phát huy và sử dụng tốt mọi

75

nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển văn hoá, thực

hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng

quan hệ đối ngoại. Bên cạnh đó, Đảng ta còn khẳng định: Trong công cuộc xây

dựng xã hội mới cần phải biết kết hợp cả sức mạnh vật chất lẫn sức mạnh tinh

thần; sức mạnh truyền thống và hiện đại; “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại” [20, 71]. Trong xu thế hội nhập, liên doanh, liên kết, toàn cầu

hoá, quốc tế hoá trên thế giới, Việt Nam có nhiều cơ hội thuận lợi, song cũng

phải đối mặt với không ít nguy cơ và thách thức mới. Vì thế, Đảng ta chủ

trương: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, “khép lại quá khứ, mở ra

tương lai”; “thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế” tranh thủ ngoại lực nhằm

tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở

giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa [19, 71]. Đặc biệt,

chúng ta phải biết “Thu hút mạnh nguồn lực các nhà đầu tư nước ngoài” [20,

25] bằng cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hoá các hình thức và

cơ chế thu hút vào ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan niệm: “Mình giúp nhân dân nước bạn

tức là mình tự giúp mình” [65, 64]. Cho nên, ngay từ thời kỳ kháng chiến

chống giặc ngoại xâm, Bác và Đảng ta đã khẳng định tư tưởng kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: “Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các

nước dân chủ” trên thế giới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng

ta đã chỉ rõ: nhận thức vai trò đại đoàn kết, hoà bình, ổn định, hợp tác để phát

triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên

thế giới. Vì thế, chủ trương của Đảng thời kỳ này là: “Việt Nam muốn là bạn

với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và

phát triển” [18, 58]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã

tổng kết: Việt Nam có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn

bán với trên 100 nước, có các công ty của trên 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu

tư vào Việt Nam. Những “thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan

trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và

76

nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công

cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước” [18, 63]. Trong văn kiện Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ IX, Đảng thể hiện phương châm: KÕt hîp søc m¹nh d©n téc

víi søc m¹nh thêi ®¹i, ph¸t huy n¨ng lùc néi sinh, t¨ng c êng héi nhËp, t¹o nªn

søc m¹nh tæng hîp, kh¾c phôc c¸c nguy c¬, ®Êu tranh víi mäi ©m m u cña kÎ

thï d©n téc vµ chñ nghÜa x· héi. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: Về chính sách đối ngoại, ta cần phải mở rộng đa

dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập

kinh tế quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác nhau; “Việt

Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích

cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” [20, 113]; tiếp tục mở rộng quan

hệ với các Đảng cầm quyền khác ở các nước trên thế giới; khai thác có hiệu

quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên

tổ chức thương mại thế giới WTO.

Sự kiện ngày 11 - 1 - 2007, Việt Nam đã chính thức gia nhập và trở

thành thành viên thứ 150 của WTO là một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt, nó

khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, mở ra cho Viêt Nam nhiều cơ

hội mới. Theo đánh giá của PGS. TS Nguyễn Văn Đặng và Lương Văn Tự

trong chuyên đề: Kinh nghiệm thành công và không thành công của một số

nước gia nhập WTO: từ năm 1995 đến nay, sau khi WTO được thành lập, nền

kinh tế thế giới đã có một thời kỳ tăng trưởng cao và ổn định. Các quốc gia mở

cửa kinh tế, thường là các thành viên WTO, đã phát triển nhanh hơn nhiều so

với các quốc gia có nền kinh tế đóng cửa. Hầu hết các nước gia nhập WTO đã

đạt được sự tăng trưởng thương mại, cải thiện được thực lực về kinh tế. Một số

nước đã đạt được tăng trưởng kinh tế thần kỳ như Nhật Bản, các nước NICS ở

Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Khi Việt Nam gia nhập WTO, nền kinh tế của

đất nước ta đã hội nhập với nền kinh tế của khu vực và thế giới. Điều đó đòi

hỏi chúng ta cần phải có tư duy toàn cầu hoá về phát triển kinh tế, chuyển từ tư

duy quốc gia sang tư duy toàn cầu. Sau khi gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam

77

đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Vì thế, mọi sự thay đổi của

tình hình thế giới sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Đồng thời những biến

động của nền kinh tế Việt Nam cũng sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới. Tư

duy toàn cầu đặt ra vấn đề: lựa chọn cơ cấu kinh tế phải nghĩ đến việc chuyển

dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu, theo sự phân công lao động quốc tế. Do đó, chúng

ta cần phải thường xuyên theo dõi biến động thị trường thế giới, nghiên cứu, dự

báo tình hình thị trường thế giới.

Gia nhập vào WTO thế giới, chúng ta có những thuận lợi để thực hiện

đường lối đối ngoại của Đảng: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước

trong cộng đồng quốc tế”, phát huy vai trò của nước ta trong các tổ chức khu

vực và quốc tế, xây dựng quan hệ đối tác bình đẳng với các nước trên thế giới.

Song, chúng ta cũng phải nhận thức được rằng: WTO không phải “chỉ có hoa

thơm và sắc thắm”, không phải cứ vào WTO là có thể “cất cánh bay xa được

ngay”. Gia nhập vào WTO là sức ép đổi mới toàn diện hơn cho phù hợp với

nền kinh tế thế giới, nhờ đó sẽ có thêm cơ hội đẩy nhanh quá trình phát triển.

Tuy nhiên, lợi ích sẽ không tự đến, sự gia nhập đó chỉ là cơ hội để nước ta tiếp

tục đi lên nhanh hơn. Bên cạnh những cơ hội lại là các thách thức, chúng có

mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Cơ hội - bản thân nó – không tự phát

huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của mỗi nước. Nếu

chúng ta biết tận dụng cơ hội tốt sẽ tạo ra thế và lực mới, giúp chúng ta vượt

qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Và ngược lại, nếu chúng ta không biết

nắm bắt cơ hội, tận dụng được cơ hội thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ

tăng lên, lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Mặt khác, thách thức tuy là sức ép

trực tiếp, nhưng sự tác động của chúng đến đâu lại tuỳ thuộc vào nỗ lực và khả

năng vượt qua thử thách của chính chúng ta. Vì thế, kết hợp sức mạnh dân tộc

với sức mạnh thời đại song phải “tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là chính”;

phải “phát huy cao nội lực” - phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, chế độ chính

trị, tài lực, nhân lực, vật lực của đất nước; xem đó là nhân tố quyết định đối với

sự phát triển. Quán triệt quan điểm biện chứng của chủ tịch Hồ Chí Minh trong

78

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta khẳng định:

“Dựa vào nguồn lực trong nước là chính”, “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với

mở rộng hợp tác quốc tế”; “phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc” [20, 84].

Bởi vì “có phát huy được nội lực mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực”

[20, 179]. Chúng ta “tranh thủ các nguồn lực bên ngoài” mục đích là để “phát

huy nội lực mạnh hơn”. Nội lực được tăng cường mới có thể đảm bảo được sự

độc lập, tự chủ về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công.

Cho nên, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước,

tiếp thu những tinh hoa của nhân loại song chúng ta phải luôn biết coi trọng

những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không được tự đánh mất

mình, trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác; “hoà nhập”

nhưng “không hoà tan”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Vì lợi ích 10 năm thì phải trồng cây,

vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Nhận thức một cách sâu sắc về vấn

đề này, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định:

Phát huy nội lực là phát huy nguồn lực của toàn dân tộc, song “trước hết là

phải phát huy nguồn lực con người” [20, 179]. Đối với chủ tịch Hồ Chí Minh,

cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, không có nhân dân giúp đỡ thì chính

phủ không thể làm gì được. Cho nên, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng

Việt Nam, Người luôn nhắc nhở: Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lí này:

dân rất tốt, lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh

mấy họ cũng không sợ. Người khẳng định: “Trong thời đại chúng ta, một dân

tộc đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh kiên quyết, hoàn toàn có thể đánh bại bọn đế

quốc xâm lược hung hãn gian ác và có nhiều vũ khí” [69, 247]. Do đó, Người

chủ trương: phát huy sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc. Thấm nhuần tư tưởng

Hồ Chí Minh, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta

đã nhấn mạnh: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân, do nhân

dân” [18, 73]. Phát triển tư tưởng ấy trong bối cảnh lịch sử mới của dân tộc và

thế giới, đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã khẳng

79

định: “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá” là sự nghiệp của toàn dân. Song, để

phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, điều quan trọng là phải

“biến đường lối của Đảng thành quyết tâm của quần chúng”; phải xây dựng

được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, để cho quần chúng được tham gia thảo luận

những vấn đề quan trọng của đất nước; phải có cơ chế và cách làm cụ thể để

thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; phải chú

trọng công tác tuyên truyền giáo dục để tự quần chúng phát hiện và giải quyết

các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn; phải phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự

quản và năng lực làm chủ của nhân dân.

Hồ Chủ tịch đã từng nói: “Muốn có chủ nghĩa xã hội cần có con người

xã hội chủ nghĩa”. Nắm vững tư tưởng đó trong công cuộc xây dựng và phát

triển đất nước, Đảng ta đã chỉ ra: để phát huy các yếu tố nội sinh của con

người, trước hết cần phát huy mặt tích cực của con người Việt Nam như yêu

nước, cần cù, tiết kiệm, hiếu học, nhạy cảm với cái mới; khắc phục những mặt

còn yếu, thiếu: tác phong công nghiệp, lối sống theo pháp luật, học vấn hiện

đại, truyền thống dân chủ. Chúng ta phải chú trọng giải quyết hài hoà mối quan

hệ giữa cá nhân và xã hội, nhu cầu và lợi ích; kết hợp tốt giữa tự học - tự rèn

luyện với sự giáo dục, rèn luyện của tập thể; nêu cao tự phê bình và phê bình,

chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên mọi người sống có lý

tưởng, niềm tin, đạo đức cách mạng, làm giàu chính đáng, vươn lên vì tiền đồ

của bản thân và tương lai dân tộc; phấn đấu xây dựng con người mới vừa hồng

lại vừa chuyên. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã đề đường lối: “Đổi mới toàn diện

giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn lực chất lượng cao” [20, 87]; trọng dụng

nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề,

công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá,

bên cạnh việc đề ra chính sách thu hút các nhà khoa học công nghệ ở trong

nước, chúng ta còn phải có những chính sách thu hút “các nhà khoa học ở các

nước khác”, đặc biệt là các nhà khoa học trong cộng đồng người Việt Nam định

cư ở nước ngoài, tránh tình trạng chảy máu chất xám. Bởi vì “Đồng bào định

80

cư ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng

đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ

hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước” [20, 123]. Vì thế,

chúng ta phải có chính sách khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài hướng

về quê hương, góp phần xây dựng đất nước. Trong đó, Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, vận

động đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Cuộc thi “Hoa hậu thế giới người

Việt” được tổ chức năm 2007; việc tổ chức trao giải thưởng và danh hiệu cho

các doanh nghiệp kiều bào ở nước ngoài hàng năm; việc cải tiến thủ tục hành

chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các kiều bào Việt Nam quay trở về đất

nước… là những nhân tố đóng góp quan trọng trong việc phát huy sức mạnh

toàn dân tộc.

Để phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng

ta chủ trương phải phát triển toàn diện: Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các

mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với

tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát

triển; không để diễn ra chênh lệch quá mức về mức sống và trình độ phát triển

giữa các vùng, các tầng lớp dân cư; phát triển nhanh phải đi đôi với phát triển

bền vững. Trong giai đoạn hiện nay, chủ trương của Đảng là: Phát triển nền

kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (theo định hướng xã

hội chủ nghĩa), trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng

vững chắc quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế. Kinh tế

nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của

nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những

động lực của nền kinh tế. Xuất phát từ quan điểm toàn diện, Đảng ta khẳng

định: phải phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị

trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Cùng với việc phát triển mạnh

thị trường hàng hoá, dịch vụ và thị trường sức lao động, chúng ta cần phải phát

triển vững chắc thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa

81

học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để nghiên cứu phục vụ

xây dựng đường lối, chiến lược, chính sách phát triển quốc phòng và an ninh

trở thành hàng hoá toàn diện. Đối với các chính sách phát triển công nghiệp thì

chúng ta phải lưu ý gắn kết chặt chẽ với chính sách và giải pháp phát triển các

ngành, các lĩnh vực khác, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau, tạo nên sự phát triển

đồng bộ đời sống, kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, Đảng ta còn chủ trương giải

quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, phát triển toàn

diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn

theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến

và thị trường. Đặc biệt, trong toàn thể các vùng kinh tế của cả nước, chúng ta

phải thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế có trọng điểm, tạo động lực, tác động

lan toả đến các vùng khác [19, 92].

3.2.2. Quan điểm lịch sử - cụ thể

Linh hồn của phép biện chứng là “phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”.

V.I. Lênin đã chỉ ra rằng: Người cộng sản phải có dũng khí nhìn vào sự thật,

phải có gan vứt bỏ những nhận thức của ngày hôm qua không còn phù hợp với

tình hình diễn biến của ngày hôm nay; phải biết thay đổi sách lược, chọn một

con đường khác để đi tới đích của chúng ta, nếu con đường cũ, trong một thời

gian nhất định nào đó xem ra không thích hợp nữa, không đi theo được nữa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Mục đích bất di bất dịch của chúng ta vẫn

là hoà bình, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của chúng ta phải vững chắc, nhưng

sách lược chúng ta phải linh hoạt” [65, 319]. Thực tiễn cách mạng Việt Nam

trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc đã chỉ cho chúng ta thấy: Một chủ

trương đúng, một chính sách đúng sẽ có vai trò định hướng cho hoạt động thực

tiễn. Và ngược lại, chủ trương và chính sách không đúng, không phù hợp với

thực tiễn sẽ cản trở hoạt động thực tiễn, cản trở tiến bộ xã hội. Nói cách khác,

xuất phát từ những hoạt động thực tiễn cụ thể, nhằm thực hiện một đường lối

cụ thể, để đạt những mục tiêu cụ thể đòi hỏi phải có những phương pháp cụ thể.

Thùc tr¹ng ®Êt n íc ta vµo gi÷a thËp kû 80 víi nh÷ng khã kh¨n míi gay g¾t vµ

phøc t¹p ®· ®Æt ra mét yªu cÇu kh¸ch quan, bøc xóc cã ý nghÜa sèng cßn ®èi víi

sù nghiÖp c¸ch m¹ng n íc ta lµ: §¶ng cÇn ph¶i nh×n th¼ng vµo sù thËt, nãi râ sù 82

thËt, ®¸nh gi¸ ®óng t×nh h×nh, tõ ®ã x¸c ®Þnh môc tiªu vµ nhiÖm vô trong thêi

gian tr íc mÆt cho thËt s¸t hîp, ®Ò ra nh÷ng chÝnh s¸ch vµ biÖn ph¸p chÝnh

x¸c, h÷u hiÖu.

Trªn c¬ së tæng kÕt thùc tiÔn c¸ch m¹ng ViÖt Nam, tõ nh÷ng sai lÇm vµ

h¹n chÕ, §¶ng ta ®· chÝnh thøc ®Ò ra ® êng lèi ® êng lèi ®æi míi ®Êt n íc tõ

®¹i héi ®¹i biÓu toµn quèc lÇn thø VI. §¹i héi nµy ®· ®¸nh dÊu mét mèc son

míi trong sù nghiÖp x©y dùng x· héi chñ nghÜa cña nh©n d©n ta. T¹i ®¹i héi VI,

§¶ng ®· khëi x íng sù nghiÖp ®æi míi víi néi dung phï hîp víi hoµn c¶nh

ViÖt Nam. §iÒu ®ã mét mÆt chøng tá c¸ch m¹ng ViÖt Nam vËn hµnh trong xu

thÕ chung cña thêi ®¹i; mÆt kh¸c nã thÓ hiÖn t duy ®éc lËp, tù chñ, s¸ng t¹o,

kh«ng rËp khu«n theo m« h×nh “c°i c²ch”, “c°i tæ” cða c²c n­íc trªn thÕ giíi.

Tõ ®¹i héi lÇn thø VI, §¶ng ta ®· tù phª b×nh, rót ra nh÷ng bµi häc kinh nghiÖm

cã ý nghÜa quan träng ®èi víi ho¹t ®éng l·nh ®¹o, chØ ®¹o thùc tiÔn cña §¶ng tõ

®©y vÒ sau. Mét trong nh÷ng bµi häc ®ã lµ: Ph¶i xuÊt ph¸t tõ thùc tÕ; ph¶i t«n

träng vµ ho¹t ®éng theo c¸c quy luËt kh¸ch quan. Kinh nghiÖm lÞch sö cña

§¶ng cho ta thÊy: khi nµo ® êng lèi cña §¶ng xuÊt ph¸t tõ thùc tÕ, t«n träng

quy luËt kh¸ch quan th× ® êng lèi ®ã ®i vµo ®êi sèng vµ soi s¸ng ® îc thùc tiÔn.

Ng îc l¹i, lóc nµo chóng ta gi²o ®iÒu, rËp khu«n kiÓu “m« h×nh” cña c¸c n íc

kh¸c, hoÆc chñ quan duy ý chÝ, lóc ®ã c¸ch m¹ng gÆp khã kh¨n, khñng ho¶ng,

thËm chÝ thÊt b¹i. Trong lÞch sö, ®· cã lóc chóng ta ph¶i tr¶ gi¸ ®¾t chØ v× qu¸

nhÊn m³nh ®Õn “tiÕn nhanh, tiÕn m³nh” m¯ kh«ng häc tiÕp B²c Hå ë vÕ sau l¯

“chí phiªu l u, lµm Èu”. Chð tÞch Hå ChÝ Minh ®± chØ râ nhiÖm vó cða c²ch

m¹ng ViÖt Nam lµ: “ho¯n th¯nh c²ch m³ng gi°i phãng d©n téc, x©y dùng chÕ

®é d©n chð nh©n d©n, tiÕn dÇn lªn chð nghÜa x± héi”. Song, muèn thùc hiÖn

® îc ®iÒu ®ã, theo Ng êi, ta ph¶i chó träng c¶ c«ng nghiÖp vµ n«ng nghiÖp nh

“hai ch©n” cða nÒn kinh tÕ. Trong ®ã, n«ng nghiÖp ph¶i ® îc coi lµ mÆt trËn

hµng ®Çu. ThÕ nh ng, cã nh÷ng lóc chóng ta qu¸ nhÊn m¹nh c¸c ngµnh c«ng

nghiÖp nÆng, mµ kh«ng ®¸nh gi¸ ®óng møc vai trß cña n«ng nghiÖp n«ng th«n.

83

Vì thế, Đảng ta nhận định, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm: cần tránh sai

lầm chủ quan, nóng vội, quá thiên về công nghiệp nặng, ham quy mô lớn, phải

coi trọng công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn.

Tổng Bí thư Lê Duẩn đã từng nói: Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, điều

quan trọng trước hết là phải xác định đúng phương hướng và mục tiêu chiến

lược chung cũng như phương hướng và mục tiêu cụ thể cho mỗi thời kỳ. Quán

triệt tinh thần đó, ở những thời kỳ khác nhau, Đảng ta đã đưa ra những chủ

trương, chính sách khác nhau, tương ứng với yêu cầu và trình độ phát triển ở

mỗi thời kỳ nhất định. Nói về các hình thức sở hữu trong phát triển kinh tế ở

thời kỳ quá độ, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã chỉ ra:

nước ta tồn tại 3 hình thức (hoặc 2 loại hình) sử hữu cơ bản: Sở hữu toàn dân,

sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,

Đảng ta chỉ ra: nước ta có 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp

tác mà nòng cốt là hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân,

kinh tế cá thể, tiểu chủ. Xuất phát từ tình hình thực tế những năm gần đây, Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã bổ sung thêm một thành phần

kinh tế nữa đó là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong Văn kiện Đại hội IX

đã chỉ rõ: sở dĩ chúng ta bổ sung thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước

ngoài là vì thực tế những năm gần đây, bộ phận đầu tư kinh doanh nước ngoài

chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế của đất

nước.

Dựa trên quan điểm lịch sử - cụ thể, Đảng ta luôn chỉ ra: chúng ta phải có

cách nhìn nhận, xem xét và đánh giá mọi diễn biến cách mạng phù hợp với

từng thời điểm lịch sử. Nói về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, trong Báo

cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã chỉ rõ: không

phải đổi mới là thủ tiêu đấu tranh giai cấp, hiện nay và cả thời kỳ quá độ của

nước ta vẫn còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp.

Song, đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay phải được nhận thức cho đúng. Bởi

vì, cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội, cơ cấu giai cấp, tính chất,

84

vị trí của các giai cấp trong xã hội cũng có sự thay đổi nhiều, khác với thời kỳ

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hay những năm đầu đất nước mới giành

được độc lập. Do đó, trong điều kiện mới, đấu tranh giai cấp diễn ra với những

nội dung mới và hình thức mới. Văn kiện §¹i héi IX của Đảng đã kh¼ng ®Þnh:

“Néi dung chð yÕu cða ®Êu tranh giai cÊp trong giai ®o³n hiÖn nay l¯ thùc hiÖn

th¾ng lîi sù nghiÖp c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ theo ®Þnh h íng x· héi chñ

nghÜa, kh¾c phôc t×nh tr¹ng n íc nghÌo, kÐm ph¸t triÓn; thùc hiÖn c«ng b»ng x·

héi, chèng ¸p bøc bÊt c«ng, ®Êu tranh ng¨n chÆn vµ kh¾c phôc nh÷ng t t ëng

vµ hµnh ®éng tiªu cùc, sai tr¸i; ®Êu tranh lµm thÊt b¹i mäi ©m m u vµ hµnh

®éng chèng ph¸ cña c¸c thÕ lùc thï ®Þch; b¶o vÖ ®éc lËp d©n téc, x©y dùng n íc

ta thµnh mét n íc x· héi chñ nghÜa phån vinh, nh©n d©n h³nh phòc” [19, 23].

Thùc tÕ ngày nay kh«ng ph°i cø tuyªn bè ®Êu tranh “ai th¾ng ai” gi÷a v« s°n

vµ t s¶n, gi÷a “chð nghÜa x± héi v¯ chð nghÜa t­ b°n” míi l¯ ®Êu tranh giai cÊp

mµ điều quan trọng là ph°i “l¯m thÕ n¯o ®Ó nh÷ng giai cÊp cÇn lao ViÖt Nam

x©y dùng ®­îc x± héi míi theo lý t­ëng cða m×nh”. “L¯m thÕ n¯o ®Ó chð nghÜa

x· héi th¾ng ® îc chñ nghÜa t b¶n trªn ®Êt n íc ViÖt Nam”. §¹i héi IX cña

§¶ng ®· h íng nh©n d©n ta ®i vµo cuéc ®Êu tranh giai cÊp thiÕt thùc, cô thÓ,

phï hîp víi bèi c¶nh míi.

Nói về vai trò của phương pháp, N.K Crupxcai khẳng định: Phương pháp

nếu đặt ra một cách đúng đắn sẽ phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng.

Xuất phát từ thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước ta qua 20 năm đổi mới với

những thành tựu và hạn chế, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã

rút ra bài học là: Phải xuất phát từ thực tiễn, phải hoàn thiện chủ trương, chính

sách của Đảng cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Do đó, Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra chủ trương, đường lối phát

triển ở từng lĩnh vực cụ thể là: Trong phát triển kinh tế, xã hội cần “có cơ chế

chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời tạo ra

sự liên kết giữa các vùng và nội vùng” [20, 92]; trong lĩnh vực giáo dục phải

“tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát

triển của Việt Nam”, “có cơ chế quản lí phù hợp với các trường do nước ngoài

85

đầu tư hoặc liên kết đào tạo” [20, 98]; trong việc phát huy những giá trị truyền

thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, phải phát huy để “thích ứng với những

đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá” [20, 103]. Đối với vấn

đề đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng phải “cụ thể hóa

Cương lĩnh, Hiến pháp và Điều lệ Đảng”, “xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,

mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân” [20,

306]; trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí phải nhận thức

sâu sắc tính “cấp thiết, lâu dài, phức tạp và khó khăn” [20, 287], xác định đó là

nhiệm vụ trung tâm trong công tác xây dựng Đảng...

Đặc biệt là hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, chúng ta

đang có được những điều kiện thuận lợi song cũng phải đối mặt với nhiều nguy

cơ và thách thức mới, Đảng ta càng cần phải quán triệt quan điểm lịch sử - cụ

thể, phải có sự điều chỉnh chính sách sao cho phù hợp, không gây ra những

biến động bất lợi đối với các vấn đề khác như xã hội, môi trường, bản sắc văn

hoá truyền thống, lối sống, đạo đức.

3.2.3. Quan điểm phát triển

Thế giới nằm trong một quá trình vận động, phát triển không ngừng.

Trong quá trình ấy, cái cũ không ngừng bị tiêu vong, cái mới không ngừng xuất

hiện. Vì vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đòi hỏi Đảng ta phải có quan điểm phát triển

trong việc nhìn nhận, đánh giá và giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra cho

cách mạng Việt Nam.

Trước tình hình thế giới phức tạp: Chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng

hoảng, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng

định: Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến

chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, song điều đó không làm thay đổi tính chất

của thời đại. Loài người vẫn đang trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên

chủ nghĩa xã hội. Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật đã

chỉ ra rằng: trong quá trình phát triển, có thể có những bước quanh co, phức

86

tạp, có những bước thụt lùi tạm thời, song khuynh hướng chung vẫn là đi lên.

Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi

về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất. Trong nghệ thuật lãnh đạo cách mạng

Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương: phải biết giành thắng lợi

từng bước, phải tích luỹ dần về lượng để tiến tới tạo ra sự biến đổi về chất.

Quán triệt quan điểm đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong những năm

qua, chúng ta đã đạt được những thắng lợi to lớn qua hai cuộc kháng chiến:

chống Pháp và chống Mỹ và một số thành quả trong xây dựng chủ nghĩa xã

hội. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ có thắng lợi mà không

khi nào thất bại, chỉ có được mà không có mất, chỉ có tiến mà không có lúc

dừng, thậm chí lùi lại. Bởi phát triển bao giờ cũng có những bước quanh co,

phức tạp. Chúng ta làm cách mạng xã hội chủ nghĩa là tiến hành một sự nghiệp

cách mạng lớn lao, vô cùng gay go và phức tạp. Vì thế, chúng ta sẽ không thể

tránh được những sai lầm chủ quan như: nhận thức không đúng tình hình,

không đúng quy luật khách quan, có những chủ trương không sát, không đúng,

v.v… Do đó, vấn đề quan trọng là: khi tạm thời có những thất bại, mất mát,

thậm chí có những lúc phải dừng hoặc lùi lại, chúng ta phải biết bình tĩnh phân

tích tình hình chủ quan, khách quan, tìm ra nguyên nhân, rút ra những bài học

cần thiết để sau đó tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên phía trước và

giành cho được thắng lợi. Rõ ràng, nếu không có quan điểm vận động, phát

triển, nếu không có một thế giới quan duy vật khoa học, nói như V.I. Lênin,

chúng ta sẽ không khỏi rơi vào sự dao động nhiều khi tệ hại nhất. Do đó, khi

mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tại Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta vẫn khẳng định: xu thế phát triển tất yếu của

lịch sử loài người là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Nh÷ng th¾ng lîi to lín trong thùc tiÔn cách mạng Việt Nam dưới sự chèo

lái cña chñ tÞch Hå ChÝ Minh, cùng với những thành tựu và hạn chế hơn 20

năm qua ®· m¸ch b¶o chóng ta r»ng: c¸ch m¹ng lµ s¸ng t¹o, lµ ®æi míi, chñ

nghÜa x· héi cã thÓ vµ cÇn ph¶i ®æi míi. Ng êi céng s¶n ch©n chÝnh kh«ng

87

® îc b¶o thñ, rËp khu«n, m¸y mãc. Đổi mới là nhu cầu cấp thiết, là vấn đề cã ý

nghÜa sèng cßn ®èi víi sù nghiÖp c¸ch m¹ng n íc ta. §¶ng ph¶i ®æi míi sù

l·nh ®¹o vµ chØ ®¹o mét c¸ch m¹nh mÏ, chống trì trệ, bảo thủ; ph¶i ®æi míi t

duy, tr íc hÕt lµ t duy kinh tÕ; phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ

chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường

có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. C«ng cuéc ®æi

míi toàn diện đất nước 20 năm qua, bằng những chủ trương, chính sách phù

hợp với đặc điểm dân tộc, hoàn cảnh đất nước cũng như xu thế chung của thời

đại, ®· mang l¹i cho chóng ta nh÷ng thµnh tùu to lín. Nó kh«ng nh÷ng đã giúp

chóng ta ®øng v÷ng mµ cßn v ît qua ® îc c¬n b·o t¸p lµm sôp ®æ mét lo¹t c¸c

n íc x· héi chñ nghÜa.

Trong lịch sử dân tộc, chúng ta luôn phải đương đầu với kẻ thù mạnh

hơn ta về quân sự, giàu hơn ta về kinh tế song chúng ta luôn giành được thắng

lợi. Có được điều đó là bởi chúng ta đã biết nhận thức và vận dụng đúng quy

luật khách quan của chiến tranh, biết tận dụng thế có lợi, khoét sâu những mâu

thuẫn cũng như những điểm yếu của kẻ thù. Ngày nay, khi Việt Nam trở thành

một thành viên của WTO, một thế mới đang đặt ra trong mối quan hệ giữa ta và

các nước trên thế giới. Song, thời cơ, vận hội vẫn đang ở phía trước, nó đòi hỏi

chúng ta phải nắm bắt cho đúng thời, lợi dụng cho kịp thời; phải phát huy cao

độ tinh thần cách mạng tiến công, kịp thời giải quyết các mâu thuẫn; tiếp tục

đẩy mạnh công việc đổi mới toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn

dân tộc, đưa đất nước tiến lên vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã dự báo: Trong những

năm sắp tới, trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.

Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển song vẫn tiềm ẩn

những yếu tố bất trắc, khó lường… Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội nhưng

cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các

quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển…

Nói về tình hình trong nước, Đảng ta nhận định: Trong những năm tới,

đất nước ta có cơ hội để tiến lên tuy nhiên khó khăn vẫn còn nhiều. Tình trạng

suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, 88

Đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí… là nghiêm trọng.

Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội vẫn chưa được khắc phục.

Thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn,

lật đổ, sử dụng các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, hòng làm thay đổi chế độ

chính trị ở nước ta. Quán triệt quan điểm phát triển trong tư tưởng Hồ Chí

Minh ở thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra mục tiêu và phương hướng tổng

quát phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006 – 2010) là: “Nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy

mạnh toàn diện công cuộc đổi mới…, phát triển văn hóa, thực hiện công bằng

xã hội, …, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định

chính trị - xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền

tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo

hướng hiện đại” [20, 23].

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã đề ra chủ trương,

đường lối thể hiện quan điểm phát triển trên tất cả các lĩnh vực:

 Trong lĩnh vực kinh tế, Đảng ta đã đề ra tốc độ tăng trưởng kinh tế trong

5 năm (2006 – 2010): GDP bình quân đạt 7,5 – 8 %, phấn đấu đạt trên 8

%/ năm [15, 188]. Tư tưởng chỉ đạo về chuyển hướng phát triển kinh tế

là: Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông

thôn và nâng cao đời sống nhân dân [20, 190]; phát triển nhanh hơn công

nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng sức cạnh tranh và

hiện đại hóa [20, 196], tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ

[15, 201], tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh

tế đối ngoại [20, 204].

 Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, Đảng ta khẳng

định: Phải “tạo được bước chuyển biến cơ bản về phát triển giáo dục và

đào tạo” [20, 206], “phát triển mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động

89

khoa học và công nghệ” [20, 210].

 Trong lĩnh vực văn hóa, Đảng ta nhấn mạnh: “phải xây dựng nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát

triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và hội nhập kinh tế” [20, 213].

 Đối với lĩnh vực chính trị, Đảng ta đã nêu lên chủ trương: nâng cao sức

chiến đấu của Đảng; “phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” [20, 125].

Có thể nói, quyết tâm phấn đấu: sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém

phát triển - mà Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đề ra -

đã thể hiện một sự nhìn nhận khách quan, nghiêm túc về tình hình đất nước

hiện nay theo quan điểm vận động, phát triển. Đồng thời, nó cũng có ý nghĩa to

lớn trong việc cổ vũ nhân dân ta quyết tâm đưa đất nước vươn lên, để có thể

“sánh vai với các cường quốc năm châu” trên thế giới bằng tinh thần tự tôn dân

tộc

* * *

Kết luận chương 3: Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam

mấy chục năm qua, từ những bài học kinh nghiệm rút ra qua thực tiễn, Đảng ta

luôn chú trọng việc quán triệt và vận dụng những nguyên lý của phép biện

chứng duy vật, quan điểm biện chứng của Hồ Chí Minh vào việc giải quyết các

vấn đề thực tiễn do cách mạng Việt Nam đặt ra. Nhờ đó, Đảng ta đã đưa ra

được những chủ trương đúng đắn, phù hợp với bối cảnh lịch sử mới của dân tộc

và thời đại, vững tin và quyết tâm đưa đất nước đi lên theo con đường mà chủ

tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Vì thế, qua 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt

được một số thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta vẫn còn có

những hạn chế nhất định. Cho nên, trong bối cảnh mới hiện nay, để tiếp tục đưa

đất nước Việt Nam tiến lên, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải nghiên cứu,

vận dụng và phát triển những nguyên lý của phép biện chứng duy vật, quan

điểm biện chứng của Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới đất nước tốt hơn

90

nữa, đúng đắn hơn nữa.

KẾT LUẬN

Với những phần trình bày trên của luận văn, tác giả đã đi vào giải quyết

những vấn đề sau:

1. Tác giả đã đi vào trình bày một số nét cơ bản về lịch sử hình thành của

phép biện chứng duy vật, định nghĩa về phép biện chứng duy vật, nội

dung của phép biện chứng duy vật, tính khoa học của phép biện chứng

91

duy vật với tư cách là công cụ hữu hiệu để cải tạo thực tiễn. Trên cơ sở

đó, tác giả đã đi vào phân tích một cách khá rõ nét nguyên lý về mối liên

hệ phổ biến và về sự phát triển của phép biện chứng duy vật. Ở nguyên

lý về mối liên hệ phổ biến, tác giả đã chỉ ra định nghĩa mối liên hệ theo

quan điểm duy vật biện chứng, tính chất của mối liên hệ phổ biến: tính

khách quan, tính tất yếu, tính đa dạng nhiều vẻ. Ở nguyên lý về sự phát

triển, tác giả đã chỉ ra phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ

quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ

kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Phát triển bao giờ cũng

mang tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, đi theo đường xoáy

ốc. Nguồn gốc của sự phát triển là do sự thống nhất và đấu tranh giữa các

mặt đối lập.

Tuy nhiên, vấn đề quan trọng của triết học nói chung, lí luận về

nguyên lý của phép biện chứng duy vật nói riêng không phải chỉ là đi

giải thích thế giới mà là cải tạo thế giới. Cho nên, từ việc nghiên cứu

quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về sự phát

triển, tác giả đã rút ra phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo

thực tiễn. Đó là quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan

điểm phát triển. Thứ nhất: Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải

nhận thức sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận,

giữa các yếu tố, giữa các mặt trong bản thân sự vật và trong sự tác động

qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với các sự vật khác. Song, toàn diện

nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm. Thứ hai: Quan điểm lịch sự - cụ

thể đòi hỏi chúng ta khi xem xét, đánh giá và tác động vào sự vật, hiện

tượng phải chú ý đến điều kiện hoàn cảnh lịch sử - cụ thể trong đó sự

vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại và phát triển. Thứ ba: Quan điểm phát

triển đòi hỏi khi xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào chúng ta cũng

phải đặt chúng trong sự vận động - phát triển, vạch ra những xu hướng

92

biến đổi, chuyển hoá của chúng, phải thấy được những biến đổi có tính

chất thụt lùi tạm thời, khái quát để vạch ra khuynh hướng biến đổi chính

của sự vật; phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến.

2. Ở nội dung chương 2, tác giả đã đi vào phân tích sự vận dụng hai nguyên

lý trên của phép biện chứng duy vật ở Hồ Chí Minh trong cách mạng

Việt Nam. Đó không phải là sự vận dụng từng nguyên lý riêng lẻ mà là

sự vận dụng tổng hợp các nguyên lý, tạo thành các quan điểm nhất quán,

gắn bó chặt chẽ với nhau, đan xen nhau trong chỉ đạo cách mạng Việt

Nam. Nó thể hiện trong việc xác định lực lượng cách mạng; trong việc

nhận thức về vai trò của đại đoàn kết dân tộc, về sự kết hợp sức mạnh

dân tộc với sức mạnh thời đại, về mối quan hệ giữa chính trị và quân sự,

độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nó thể hiện một tư duy mềm dẻo,

linh hoạt: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn nhận thấy được chiều hướng

phát triển của cuộc cách mạng, kịp thời đưa ra những chủ trương phù

hợp với những biến đổi sinh động của thực tiễn, vững tin chèo lái con

thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua được gió to, sóng cả, cập đến bến

bờ thắng lợi.

3. Ở chương 3, tác giả đã đi vào phân tích sự quán triệt các quan điểm trên

của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thời kỳ công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lịch sử tư tưởng và thực tiễn cách

mạng Việt Nam trong những năm qua đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng:

khi nào chúng ta nắm vững lí luận phép biện chứng duy vật, biết vận

dụng các nguyên tắc, phương pháp của nó một cách sáng tạo, phù hợp

vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước, biết lấy “cái bất biến” ứng vào “cái

vạn biến” theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì vai trò và hiệu lực cải tạo tự

nhiên, biến đổi xã hội được nâng cao. Ngược lại, khi nào chúng ta có

cách làm chủ quan, duy ý chí, siêu hình là chúng ta lại phạm phải những

sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng, gây tổn thất cho cách mạng và quá

trình phát triển xã hội nói chung. Do đó, học tập, nghiên cứu và vận dụng

93

sáng tạo phép biện chứng duy vật mácxít, những tư tưởng biện chứng

của Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là khi Việt

Nam gia nhập WTO - càng là một nhu cầu bức thiết.

* * *

Trong suốt 77 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường

cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành những giá trị

bền vững của Đảng, của dân tộc Việt Nam, góp phần xứng đáng vào kho tàng

94

lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ph. Ăngghen, (2004), Chống Đuyrinh, C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập

20, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

2. Ph. Ăngghen, (2004), Biện chứng của tự nhiên, C. Mác và Ph. Ăngghen

toàn tập, tập 20, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

3. Ban dân vận Trung ương, (1995), Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

4. Bảo tàng Hồ Chí Minh, (2007), Biên niên sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh với

tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào

5. Hoàng Chí Bảo, ( 2005), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, NXB Lí luận

chính trị

6. Nguyễn Khánh Bật (chủ biên), (2000), Những bài giảng về môn học tư

tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

7. Nguyễn Đức Bình, (1994), Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng và bức thiết, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

8. Bộ công nghiệp - Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2000), Chủ

tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

9. Phạm Hồng Chương, (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ

bản của cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

10. Thành Duy, (2000), Danh nhân Hồ Chí Minh, NXB Lao động, Hà Nội

11. Thành Duy, Vũ Khiêu, (2000), Hồ Chủ tịch những vấn đề quân sự của cách

mạng Việt Nam, NXB Khoa học xã hội

12. Thành Duy, (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con

95

người Việt Nam phát triển toàn diện, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

13. Thành Duy, (2000), Danh nhân Hồ Chí Minh, NXB Lao động, Hà Nội

14. Ngô Thành Dương, (1986), Một số khía cạnh về phép biện chứng duy vật,

NXB Sách giáo khoa Mác – Lênin

15. Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê

Khả Phiêu, Võ Nguyên Giáp, (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi

sáng con đường chúng ta đi, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

16. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội

17. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội

18. Đảng Cộng sản Việt Nam, (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

19. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

20. Đảng Cộng sản Việt Nam, (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

21. NguyÔn §øc §¹t, (2005), Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh, NXB ChÝnh

trÞ Quèc gia, Hà Nội

22. Nguyễn Khoa Điềm, (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 3, Viện

Hồ Chí Minh, Hà Nội

23. Phạm Văn Đồng, (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí

Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

24. Trần Đường, (2006), Hồ Chí Minh nhà dự báo thiên tài, NXB Nghệ An

25. Võ Nguyên Giáp, (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách

mạng Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

26. Võ Nguyên Giáp, (1994), Tư tưởng Bác Hồ soi sáng sự nghiệp đổi mới của

96

chúng ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

27. Võ Nguyên Giáp, (1994), Tư tưởng Hồ Chí Minh - Quá trình hình thành và

phát triển, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

28. Võ Nguyên Giáp, (2005), Một số vấn đề về nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí

Minh, NXB Công an Nhân dân

29. Lê Mậu Hãn, (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh rọi sáng con đường tự do của

dân tộc Việt Nam, NXB Nghệ An

30. Lê Mậu Hãn, (2001), Sức mạnh của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư

tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

31. Nguyễn Bích Hạnh, Nguyễn Văn Khoan, (1999), Tư tưởng Hồ Chí Minh về

đại đoàn kết và mặt trận đại đoàn kết dân tộc, NXB Lao động

32. Vũ Văn Hiền, Đinh Xuân Lí, (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp

đổi mới ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

33. Trung Hiền, (2005), Những tiên tri thiên tài của Bác Hồ, NXB Nghệ An –

Vinh

34. Học viện CTQG Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của

Đảng, (2003), Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh với vấn đề phát huy sức

mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội

35. Hội đồng TW các Bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

(2002), Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

36. Hội đồng TW các Bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

(2002), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

37. Hội thảo quốc tê về Chủ tịch Hồ Chí Minh, (1990), NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội

38. Nguyễn Quốc Hùng, (2006), Hồ Chí Minh - Người chiến sĩ quốc tế, NXB

97

Chính trị Quốc gia, Hà Nội

39. Phạm Văn Khánh, (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh toả sáng trong thực tiễn

cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

40. Đặng Xuân Kì, (1997), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội

41. Vũ Kỳ (kể), Huyền Tín và Tử Nên ghi, (2002), Truyện kể về Bác Hồ -

Những chặng đường trường kỳ kháng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

42. Kỷ yếu hội thảo khoa học, (2005), Vai trò của Hồ Chí Minh đối với cách

mạng Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, TTĐT và BD giảng viên lý luận

chính trị

43. V.I. Lênin, (2006), Các Mác ( Sơ lược tiểu sử, kèm theo sự trình bày chủ

nghĩa Mác), V.I. Lênin toàn tập, tập 26, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

44. V.I. Lênin, (2006), Bút ký triết học, V.I. Lênin toàn tập, tập 29, NXB Chính

trị Quốc gia, Hà Nội

45. Phan Ngọc Liên, (2002), Hồ Chí Minh - Từ nhận thức lịch sử đến hành

động cách mạng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

46. Phan Ngọc Liên, (1993), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại, NXB

Lao động

47. Phan Ngọc Liên (chủ biên), (1995), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về một

số vấn đề quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

48. Phan Ngọc Liên – Đinh Xuân Lâm, (1998), Hoạt động của Bác Hồ ở nước

ngoài, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

49. Phan Ngọc Liên, (1999), Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động

cách mạng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

50. Phan Ngọc Liên (chủ biên), (2005), Hồ Chí Minh những chặng đường lịch

sử, NXB Hải Phòng

51. Nguyễn Bá Linh, (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nội dung cơ bản,

98

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

52. Nguyễn Bá Linh, (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc -

Con đường dẫn đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

53. Nguyễn Bá Linh, (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

54. Nguyễn Phúc Luân, (1999), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Trí tuệ lớn của nền

ngoại giao, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

55. Đinh Xuân Lý, (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng

của Đảng trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

56. Đinh Xuân Lý (Chủ biên), (2006), Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh đối

với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

57. Đinh Xuân Lý, Vũ Văn Hiền, (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp

đổi mới ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

58. C. Mác, (1993), Tư bản. Phê phán khoa kinh tế chính trị - tập thứ nhất, C.

Mác và Ph. Ăng ghen toàn tập, tập 23 , NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

59. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, (2003), .NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội

60. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

61. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

62. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

63. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nôi

64. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

65. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

66. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

67. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

68. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

99

69. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

70. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

71. Hồ Chí Minh toàn tập, (1960), NXB Sự thật, Hà Nội

72. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 5, (2003), NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội

73. Vũ Viết Mỹ, (2002), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội

74. Phạm Chí Nhân, (2004), Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của chủ tịch Hồ

Chí Minh, NXB Quân đội Nhân dân

75. Phạm Chí Nhân, (2004), Nhà chiến lược quân sự Hồ Chí Minh, NXB Chính

trị Quốc gia, Hà Nội

76. Phạm Chí Nhân, (2006), Bác Hồ với cuộc kháng chiến chống Mỹ, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội

77. Trịnh Nhu, Vũ Dương Ninh, (1995), Về con đường giải phóng dân tộc của

Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

78. Lê Hữu Nghĩa, (2000), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, NXB Lao động,

Hà Nội

79. Nguyễn Duy Niên, (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, NXB Chính

trị Quốc gia, Hà Nội

80. Nguyễn Duy Niên, (2002), Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh thực hiện

đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn mới, NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội

81. Lê Khả Phiêu, (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta

và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

82. Lê Khả Phiêu, (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta

100

và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

83. Lê Khả Phiêu, (2006), Mãi mãi đi theo con đường Đảng và Bác Hồ đã

chọn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

84. Bùi Đình Phong, (2000), Hồ Chí Minh tầm nhìn thời đại, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

85. Bùi Đình Phong, (2004), Giải phóng dân tộc và đổi mới dưới ánh sáng tư

tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

86. Lam Phong, Như Bách, (1946), Biện chứng pháp với đại chúng, NXB Nhà

sách đại chúng, Hà Nội

87. Phùng Hữu Phú, (1995), Tư tưởng chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí

Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

88. Tạp chí triết học, (2001), Số 4

89. Trần Dân Tiên, (1994), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ

Tịch, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

90. Lê Văn Thái, (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ

trang cách mạng Việt Nam trong thời kỳ 1930 – 1945, NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội

91. Phạm Quốc Thành, (2007), Tư tưởng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh

những năm 20 của thế kỷ XX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

92. Song Thành, (1997), Một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp

nghiên cứu Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

93. Hoàng Minh Thảo, (2003), Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

94. Trần Phúc Thăng, (2004), Những nguyên lí của triết học Mác – Lênin, Giáo

trình trung cấp lí luận chính trị, NXB Lí luận chính trị

95. Nguyễn Vĩnh Thắng, (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước đi đôi

101

với giữ nước, NXB Quân đội Nhân dân

96. Đàm Văn Thọ, Vũ Hùng, (1997), Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư

tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

97. Chu Đức Tính, (2002), Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề

dân tộc dân chủ trong cách mạng Việt Nam (1930 - 1954), NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội

98. Hoàng Trang, (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội, NXB Lao động

99. Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh, (2004), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh

với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội

100. Hồ Kiếm Việt, (2002), Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí

Minh, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội

101. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện triết học, (1998), Lịch sử phép biện

chứng, tập 5 , NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội

102. Phạm Xanh, (2002), Hồ Chí Minh - Dân tộc và thời đại, NXB Chính trị

Quốc Gia, Hà Nội

103. Lê Văn Yên, (1999), Một số tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế

102

trong cách mạng giải phóng dân tộc, NXB Thanh niên.