BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CAO THỊ LIÊN HƯƠNG
VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................... 4
A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 6
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................................... 12
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu................................................................................ 12
5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 12
6. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 13
B. NỘI DUNG ................................................................................................................ 15
Chương 1 : VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU - NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG ................................................................................................................... 15
1.1. Các khái niệm ................................................................................................ 15
1.1.1. Khái niệm văn hóa .................................................................................. 15
1.1.2. Khái niệm ứng xử................................................................................... 21
1.1.3. Khái niệm văn hóa ứng xử ..................................................................... 23
1.2. Văn hóa ứng xử tiếp hợp nhiều yếu tố văn hóa ngoại lai.............................. 29
1.2.1. Tiếp hợp Nho giáo .................................................................................. 29
1.2.2. Tiếp hợp Phật giáo .................................................................................. 33
1.2.3. Tiếp hợp Đạo giáo................................................................................... 36
Chương 2: NGUYỄN DU VÀ THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU............................ 41
2.1. Nguyễn Du..................................................................................................... 41
2.1.1. Thời đại Nguyễn Du................................................................................ 41
2.1.2. Gia thế và cuộc đời Nguyễn Du.............................................................. 44
2.2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du .............................................................................. 49
Chương 3: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN
DU............................................................................................................................ 81
3.1. Ứng xử đối với bản thân ............................................................................... 81
3.2. Ứng xử với môi trường tự nhiên ................................................................... 88
3.2.1. Thiên nhiên tươi đẹp để hưởng thụ ngâm vịnh..................................... 866
3.2.2. Thiên nhiên kỳ quái khiến con người phải khiếp sợ............................... 95
3.3. Ứng xử với môi trường xã hội....................................................................... 75
3.3.1. Vua chúa ................................................................................................. 76
3.3.2. Quan lại ................................................................................................... 80
3.3.3. Những người nghèo khổ ......................................................................... 85
3.3.4. Người hiền, người tài .............................................................................. 89
3.3.5. Phụ nữ ..................................................................................................... 95
3.4. Ứng xử trong gia đình ................................................................................. 100
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................. 108
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 111
LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Đặc biệt là PGS.TS. LÊ THU YẾN đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và thực hiện luận văn.
BGH Trường Đại học Sư Phạm các quý Thầy Cô lãnh đạo Phòng Đào Tạo và các đồng nghiệp đã
tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt khóa học.
Gia đình, người thân, bạn hữu đã động viên ủng hộ, giúp đỡ mọi mặt và dành nhiều tình cảm nhất
giúp tôi vượt qua mọi khó khăn để hoàn thiện luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2010
Cao Thị Liên Hương
(cid:1)
(cid:1)
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, là linh
hồn sức sống của mỗi quốc gia dân tộc. Trong quá trình dựng nước và giữ nước văn hóa Việt Nam là một
thực thể, đồng thời hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam. Văn hóa dân tộc Việt Nam bao
gồm những giá trị bền vững những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên đó là: “lòng
nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý... sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...” [27,
tr 56].
Đó là bản sắc văn hóa dân tộc, mà bản sắc dân tộc là phần cốt lõi, tinh túy trong tâm hồn, tính cách
dân tộc, thì cái bản sắc đó được biểu hiện ra trong toàn bộ các hoạt động xã hội, từ các hoạt động sản xuất
tinh thần đến các hoạt động vật chất. Đúng như báo cáo chính trị Đại hội VII của Đảng đã nêu rõ: “Bản
sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm không chỉ trong công tác văn hóa
– văn nghệ, mà cả trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học,
công nghệ, giáo dục và đào tạo... sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm
vừa hiện đại, vừa mang sắc thái Việt Nam”[93, tr 286]. Có thể coi đây là một luận điểm quan trọng đòi
hỏi một sự đổi mới trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Bản chất của văn hóa tồn tại sâu
xa mang tính chất nhân bản và nhân văn. Văn hóa kết tinh phẩm giá, năng lực, sức sáng tạo của con
người. Văn hóa chăm lo chất lượng cuộc sống của con người, của xã hội ngày một nâng cao, sao cho con
người có ý thức trong các mối quan hệ của cá nhân và cộng đồng, giữa con người và tự nhiên, giữa hiện
tại, quá khứ và tương lai, biết giữ gìn phát huy giá trị của con người tạo ra nhiều thế hệ, chỉ có văn hóa
mới không quên con người, mới trân trọng cuộc sống phong phú của con người và đi sâu vào tâm hồn
riêng tư của con người, chia sẻ những dằn vặt, lo âu của con người về lẽ sống và cái chết, về những điều
thiêng liêng và cõi tâm linh.
Trong xu thế hiện nay, Việt Nam đang ở trong quá trình xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc văn hóa dân tộc, như nghị quyết V của Trung ương Đảng vừa nhấn mạnh, văn hóa Việt Nam
lại đang trên đà hội nhập với văn hóa thế giới. Một mặt mở ra khả năng to lớn để các dân tộc giao lưu văn
hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế, xã hội với nhau trên phạm vi toàn cầu tạo động lực cho quá trình đổi mới
và hiện đại hóa văn hóa của các dân tộc, mặt khác nó cũng đưa lại cho chúng ta những thách thức mới.
Mặt trái của cơ chế thị trường đã len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội, thậm chí vào cả thành trì bền
vững nhất của giá trị cá nhân khiến cho xã hội này đương đầu với mọi thách thức như lối sống ích kỷ thực
dụng, sự băng hoại, các giá trị tinh thần truyền thống… Chính sự suy thoái về lối sống đạo đức xã hội, có
nguy cơ ngày càng tăng làm phai nhạt sự tinh tế trong ứng xử của người Việt Nam mà ngàn đời vẫn luôn
nhắc tới.
Chính vì thế, người ta quan tâm đến một biểu hiện của văn hóa, được thể hiện trực tiếp thái độ của
con người, đó là ứng xử, ứng xử có văn hóa ở mức cao nhất là văn hóa ứng xử của con người. Văn hóa
ứng xử của con người Việt Nam cơ bản được thể hiện ở nếp ứng xử khoan dung thiên về hành động với tư
cách trực giác tổng hợp. Những hành động của ứng xử không ra ngoài nguyên tắc trọng tình, trọng đức,
trọng văn và cả trọng nữ. Bên cạnh đó, ai cũng biết đã là con người mang tính nhân loại phổ biến thì ai
cũng quan tâm đến mối quan hệ, thái độ ứng xử với những vấn đề lớn giữa người với người, với bản thân,
với gia đình, với xã hội, với tự nhiên. Vì vậy, việc nghiên cứu văn hóa ứng xử có một ý nghĩa rất to lớn,
giúp ta nhìn nhận, đánh giá nền tảng tinh thần như một thứ ghen nội sinh vững vàng để con người hiện
nay sẵn sàng đón nhận những giá trị mới giao lưu văn hóa mang lại.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du được nghiên cứu sâu sắc trên nhiều bình diện, lịch sử nghiên cứu vì
thơ chữ Hán của Nguyễn Du vô cùng phong phú. Tuy nhiên, như nhiều thơ chữ Hán khác, thơ chữ Hán
của Nguyễn Du là đối tượng luôn ẩn chứa nhiều điều mới mẻ, vì vậy khó có những công trình nghiên cứu
thật trọn vẹn. Do đó, nghiên cứu văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du để nhận thức và xử lý
đúng đắn và hiệu quả, góp phần làm rõ thêm những đóng góp văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập
hiện nay là một nhiệm vụ có ý nghĩa vừa cơ bản, vừa cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Xuất phát từ lí do trên chúng tôi chọn vấn đề Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du để
làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học ngành Văn học Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề:
Trong nhiều năm gần đây, các vấn đề văn hóa, văn hóa ứng xử mối quan hệ giữa văn hóa và văn
học thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, văn học nước nhà. Văn hóa là cội nguồn của
văn học và “văn học nghệ thuật có nhiệm vụ và có tác dụng to lớn trong việc sáng tạo nên những giá trị
văn hóa cao quý ấy” (Phạm Văn Đồng). Giá trị văn hóa, tính văn hóa luôn là một thước đo giá trị của tác
phẩm văn học.
Xung quanh đề tài luận văn Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du trong phạm vi tư
liệu sưu tầm được, chúng tôi điểm qua một số công trình, bài báo khoa học sau:
Về văn hóa, Đào Duy Anh đã đặt viên gạch đầu tiên cho lĩnh vực nghiên cứu văn hóa Việt Nam khi
cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” xuất bản năm 1938, Nxb Bốn Phương tái bản năm 1951. Từ đó đến
nay có rất nhiều công trình của các nhà nghiên cứu về văn hóa vùng, văn hóa miền, văn hóa dân tộc –
quốc gia Việt Nam hay văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á… của các tác giả nổi tiếng như
Trần Quốc Vượng, Phan Ngọc, Trần Ngọc Thêm, Toan Ánh, Chu Xuân Diên… Có thể kể đến Văn hóa
Việt Nam và cách tiếp cận mới (Phan Ngọc), Một thế kỷ nghiên cứu văn hóa Việt Nam (Nguyễn Chí Bền),
Xã hội học văn hóa (Đoàn Văn Chúc), Văn hóa và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa (Nguyễn Văn
Dân), Văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt (Nguyễn Đăng Duy), Tìm hiểu làng Việt (Diệp Đình Hoa),
Con người, môi trường, văn hóa (Nguyễn Xuân Kính), Văn hóa gia đình Việt Nam (Vũ Gia Khánh), Văn
hóa thẩm mỹ và nhân cách (Lương Quỳnh Khuê)… Điểm lại những thành tựu đã đạt được, ghi nhận công
lao của các nhà khoa học tiêu biểu của hướng tiếp cận văn hóa Việt Nam trong tính tổng thể cộng đồng
văn hóa dân tộc – quốc gia.
Hướng nghiên cứu đại cương về văn hóa Việt Nam, hoặc “tiếp cận văn hóa học về văn hóa Việt
Nam” theo quan niệm của Trần Ngọc Thêm và nhiều tác giả khác là nhằm làm sáng tỏ những đặc trưng cơ
bản cùng những quy luật hình thành và phát triển của nền văn hóa Việt Nam. Có thể chỉ ra một số chủ đề
chính của hướng nghiên cứu này:
- Quá trình hình thành và phát triển cộng đồng văn hóa dân tộc – quốc gia Việt Nam.
- Cá thể cộng đồng văn hóa cơ bản cấu thành nền văn hóa dân tộc – quốc gia Việt Nam: văn
hóa gia đình, văn hóa làng, văn hóa đô thị, văn hóa vùng.
- Văn hóa cá nhân: mẫu người Việt Nam trong lịch sử, tính cách con người, lý giải vấn đề con
người làng xã trong tính cách người Việt.
- Vấn đề bản sắc văn hóa con người Việt Nam, chiến lược xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
- Hệ tư tưởng với tư cách là yếu tố cốt lõi trong nền tảng tinh thần của xã hội.
- Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh khu vực và quốc tế.
Như vậy, hướng nghiên cứu nền văn hóa dân tộc – quốc gia, với tư cách một khoa học mới phát
hiện trong những năm cuối thế kỷ XX, nhưng những vấn đề của nó đã được các nhà khoa học đề cập từ
lâu. Vì vậy, những công trình nghiên cứu thuộc các khoa học chuyên ngành như ngôn ngữ học, văn học,
xã hội học, lịch sử nghệ thuật, triết học… vấn đề văn hóa Việt Nam sẽ là đối tượng khảo sát cần thiết của
chúng ta.
Về văn hóa ứng xử, trong nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, các tác giả đều có đề cập các
vấn đề liên quan đến văn hóa ứng xử. Tuy nhiên sự đề cập chỉ dừng lại ở nêu hiện tượng, nhìn nhận khái
quát.
Đầu tiên phải kể đến công trình Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt Châu Thổ Bắc Bộ qua
một số ca dao - tục ngữ của Trần Thúy Anh (2000) [2]. Công trình này tác giả nghiên cứu truyền thống
ứng xử của người Việt trong cái nôi văn hóa châu thổ Bắc Bộ được cô động và đúc kết qua ca dao – tục
ngữ. Tác giả đã lấy ca dao và tục ngữ làm điểm tựa để từ đó, hình dung một cách sinh động và sâu sắc bộ
mặt lịch sử, chiều sâu văn hóa và sắc thái riêng biệt, kể cả những tiếp nhận văn hóa của thế ứng xử xã hội
cổ truyền của người Việt Châu thổ Bắc Bộ.
Gần với công trình trên là Văn hóa ứng xử trong giáo dục gia đình của Nguyễn Văn Lê (2001)
[53], mọi ứng xử phải tuân theo những quy tắc văn hóa trong ứng xử “cha mẹ, ông bà trong ứng xử với
con cháu và con cháu trong ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị trong gia đình. Con cháu đối với những
người trên lấy sự tôn kính làm trọng. Bề trên đối với con cháu lấy sự yêu thương, lòng bao dung để răn
dạy. Đó là đạo lý của dân tộc”[53, tr 6 ].
Văn hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam của Lê Như Hoa (2002) [30]. Tác giả đã tiếp cận văn hóa
ứng xử của người Việt và phần nói về văn hóa ứng xử của các dân tộc ít người. Đặc biệt là góc độ văn hóa
học tác giả phân tích một cách logic về văn hóa ứng xử của người Việt “coi trọng tính tập thể, tính cộng
đồng, xã hội ”.
Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên, Nguyễn Viết Chức (2002) [13],
cùng với quá trình ngàn năm xây dựng, cải tạo và giữ gìn cảnh quan thiên nhiên Hà Nội, văn hóa ứng xử
của người Hà Nội đã kết tinh những tinh hoa văn hóa đặc sắc của cả nước và giao lưu với nước ngoài.
Hàng ngàn năm “người Hà Nội từ thế hệ nọ đến thế hệ kia đã lưu giữ được một cốt cách, một phương thức
ứng xử hòa đồng với thiên nhiên biến đổi tự nhiên theo quá trình hoàn thiện cuộc sống của mình. Những
thắng cảnh Hồ Tây, sức quyến rũ của hồ Hoàn Kiếm, những đường phố bạt ngàn cây xanh, những dòng
Kim Ngưu, Tô Lịch chạy dài vòng quanh thành phố là kết tinh những giá trị ứng xử với thiên nhiên của
cha ông ta tạo nên một truyền thống ứng xử văn hóa thông minh và thẩm mỹ của người Hà Nội” [13, tr 5
– 6 ].
Văn hóa ứng xử của người Giẻ Triêng, Nguyễn Hùng Khu (2006) [46], tác giả thông qua một
phong tục cụ thể - phong tục hôn nhân và cách tìm hiểu về văn hóa ứng xử của người Giẻ Triêng ở một
vùng văn hóa – văn hóa Tây Nguyên. Tìm hiểu tộc người Giẻ Triêng, Nguyễn Đình Khu góp phần vào
việc gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của tộc người Giẻ Triêng nói riêng, văn hóa Tây Nguyên
nói chung.
Văn hóa ứng xử còn phải kể đến, Văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt của Lê Văn Quán
(2007) [73], “người Việt Nam chú trọng sự tôn kính, trọng hiếu quý hòa, thờ phụng tổ tiên, thịnh hành
nguyên tắc chủ nghĩa danh phận uy quyền” [73, tr 7]. Vấn đề này được tác giả quan tâm và tập trung bàn
về văn hóa ứng xử gia đình, bạn bè, tình yêu…
Ngoài ra chúng tôi cũng quan tâm đến luận văn thạc sĩ Ngữ văn Văn hóa ứng xử người Việt trong
truyện thơ Nôm của Triệu Thùy Dương (2007) – Trường Đại học Sư Phạm Tp. HCM [21]. Triệu Thùy
Dương chỉ ra truyền thống văn hóa ứng xử của người Việt trên con đường văn hóa hiện đại chính là truyền
thống ứng xử xã hội, truyền thống văn hóa ứng xử được kết tinh từ đời sống văn hóa cổ truyền từ rất lâu
đời được thể hiện trong văn học trung đại, đặc biệt là trong các truyện thơ Nôm, “là một cách khẳng định
văn hóa ứng xử đồng thời cũng là một vấn đề cốt lõi, ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ sâu này” [ 21,
tr 4].
Nét đẹp phong tục các dân tộc thiểu số: trong văn hóa ứng xử, Vi Hoàng (2008) [32], tác giả đề
cập văn hóa ứng xử người với người, ứng xử con người với loài vật và ứng xử con người với thiên nhiên.
Hỏi đáp về văn hóa ứng xử của người Việt của Phạm Minh Thảo (2008) [80], tìm hiểu nghiên cứu
qua thực tiễn cuộc sống và muốn truyền lại cho thế hệ mai sau các kinh nghiệm ứng xử quý báu về vấn đề
“Người Việt phải ứng xử như thế nào để tồn tại và phát triển?” [80, tr 5]. Điều đó được đặt trong các thời
kỳ lịch sử đầy biến động và sóng gió như ngày nay.
Tất cả các công trình nêu trên đi vào nghiên cứu đặc trưng giao tiếp ứng xử với môi trường tự
nhiên và xã hội của người Việt Nam trong quan hệ gia đình và xã hội.
Riêng về lĩnh vực thơ chữ Hán, người viết chú ý điểm qua những công trình nghiên cứu:
Về văn bản công trình nghiên cứu đáng chú ý, đó là cuốn Nguyễn Du toàn tập do Mai Quốc Liên
chủ biên (Nxb Văn học 1996) có 250 bài thơ [62].
Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX [59] có
những nhận định xác đáng về tâm sự của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán “Buồn thương như một tiếng đàn
réo rắt, não ruột vang lên trong hầu hết các thi phẩm của ông” [59, tr 304].
Người đặt nền móng cho việc nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du là Đào Duy Anh. Trong bài viết
Thi tập của Nguyễn Du trong công trình Khảo luận về Kim Vân Kiều, lần đầu tiên vị trí của thơ chữ Hán
Nguyễn Du được khẳng định về hình thức cũng như về nội dung. Có thể nói đây là những ý kiến có giá trị
gợi mở cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình ở giai đoạn sau.
Năm 1960 nhà phê bình Hoài Thanh tìm hiểu tâm sự của Nguyễn Du trong bài viết Tâm tình của
Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán [26, tr 37]. Hoài Thanh khẳng định: “Cái điều rõ ràng là Nguyễn
Du không bằng lòng với toàn bộ cuộc đời lúc bấy giờ” [26, tr 39]. Song thái độ không dứt khoát đã không
thể làm mờ được tấm lòng cảm thông, xót thương của Nguyễn Du đối với những kiếp người đau khổ. Dù
chưa nhìn rõ nguồn gốc của những điều bất công của cuộc đời nhưng “thái độ của Nguyễn Du rõ ràng tình
cảm của Nguyễn Du chân thành, sâu sắc” [ 26, tr 45].
Cùng với quan điểm của Hoài Thanh, Xuân Diệu viết Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán
[26, tr 46] đã nghiêng hẳn về cái nhìn buồn thương, day dứt của Nguyễn Du trước cuộc đời. Xuân Diệu
cho rằng, giống như Khuất Nguyên xưa, Nguyễn Du “mang những vấn đề của ngàn năm, của triệu người,
nên cái đau khổ của ông là một đau khổ lớn có tính chất đại diện cho nhân loại” [26, tr 52]. Xuân Diệu
cũng đi sâu vào một số bài thơ tiêu biểu như Thái bình mại ca giả, Sở kiến hành, Phản chiêu hồn… tất cả
điều chứng tỏ một tấm lòng “yêu thương con người đến cháy gan cháy ruột”[26, tr 59].
Đây cũng là quan điểm đánh giá của Lê Trí Viễn trong Lịch sử văn học Việt Nam (tập III) [103],
ông đi sâu vào thế giới nhân vật đó là những người trung can nghĩa khí bị hãm hại, những kiếp người tài
hoa lỗi lạc lầm than, những kẻ hèn yếu đáng thương. Đặc biệt cảm thương những người phụ nữ như người
ca nữ đất Long Thành, Tiểu Thanh, Dương Phi…
Đến năm 1965, có bài viết của Nguyễn Huệ Chi, Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du, Tạp chí văn
học số 11 [9]. Bài viết này đã mở ra một hướng đi trên hành trình nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du đó
là tìm kiếm chân dung của chính tác giả. Ông viết “Nguyễn Du là con người tư tưởng” với bao mâu thuẫn
dằng xé trong tâm can. Nhưng vượt lên khối mâu thuẫn là nguồn cảm hứng nhân đạo lớn lao, sâu sắc.
Điều đó thể hiện trong thế giới nhân vật trong thơ chữ Hán. Nguyễn Du không dừng lại ở đó mà khái quát
bản chất sâu xa của xã hội phong kiến.
Hướng đi này được Vũ Đình Liên tiếp tục khai thác trong bài viết Nguyễn Du một tâm hồn lạc loài
trong xã hội phong kiến, Tạp chí Văn học số 2.1971 [60]. Tác giả đã bày tỏ sự tâm đắc và phát hiện của
Nguyễn Huệ Chi về “hình tượng tự họa” của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và muốn góp phần làm sáng
tỏ hơn về hình tượng nghệ thuật.
Ở bài viết, Theo gót Nguyễn Du trên đường đi sứ, Bùi Hữu Sủng, Bách khoa thời đại số 16 năm
1965 [78], tác giả viết khởi đầu của chặng đường từ Thăng Long đến Lạng Sơn, Nguyễn Du mang nặng
tâm trạng bi phẫn, nhưng lúc trở về thanh thản đôi chút có “bệnh khủng hoảng nước mắt vợi đi… Mâu
thuẫn dần dần được giải quyết phần lớn” [78]. Đó là tâm sự Nguyễn Du gởi trong Bắc hành tạp lục.
Cuối năm 1965, trong lễ kỉ niệm 200 năm, năm sinh Nguyễn Du, Thanh Lãng viết Nguyễn Du như
một huyền thoại (Bài viết này được đăng lại hai lần trên Tạp chí văn học số 4,5,6,7 năm 1971) [51].
Từ năm 1975 đến nay, sau khi đất nước thống nhất, các thi tập của Nguyễn Du vẫn tiếp tục thu hút
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Năm 1980, Phan Hữu Nghệ có bài viết Thực tiễn Trung Hoa và tư tưởng Nguyễn Du, Tạp chí văn
học số 6 [69], Nguyễn Du từ chỗ rãi đều tình thương cho thập loại chúng sinh giờ đây ông dồn tình cảm
đó cho những người cần lao. Bởi vì thực tiễn Trung Hoa cho nhà thơ nhìn rõ “chân tướng” của tầng lớp
thống trị vẫn dùng để biện minh cho sự “ngồi mát ăn bát vàng” của chúng.
Vấn đề này tiếp tục được bàn trong bài viết, Từ Truyện Kiều đến thơ chữ Hán Nguyễn Du, Đỗ Đức
Dục, Tạp chí Văn học tháng 6.1987 [17]. Tác giả đặc biệt quan tâm đến những biến đổi về tư tưởng xã hội
và triết học được Nguyễn Du thể hiện qua ba tập thơ. Nó phản chiếu những biến động dữ dội của cuộc đời
và thời đại ông. Song, vượt lên sự ngao ngán bế tắc vẫn là cái nhìn thấu suốt của ông trước số phận và
quyền sống của con người.
Giá trị to lớn của thơ chữ Hán Nguyễn Du, một lần nữa được Mai Quốc Liên khẳng định qua lời
mở đầu trong cuốn Nguyễn Du toàn tập (Tập 1), Nxb Văn học Trung tâm nghiên cứu Quốc học năm 1996.
Ông viết “Những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa mới lạ
và độc đáo trong một nghìn năm thơ ca của ông cha đã dành; mà cũng mới lạ và độc đáo so với thơ chữ
Hán Trung Quốc” [62, tr 7]. Bên cạnh đó, Mai Quốc Liên cũng nêu lên những vấn đề thi pháp thơ cần tiếp
tục khám phá như thanh vận, đối ngẫu, cú pháp, tự pháp.
Hướng nghiên cứu này đã được Lê Thu Yến viết trong cuốn Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán
Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên TP. Hồ Chí Minh năm 1999 [106]. Công trình này tiến hành những khảo sát
cụ thể, những chất liệu minh họa và phân tích phạm trù: hình ảnh con người nghệ thuật, không gian và
thời gian nghệ thuật. Qua đó, tác giả Lê Thu Yến nhận thấy “có rất nhiều Nguyễn Du trong một Nguyễn
Du”.
Gần đây, phải kể đến một số bài viết về tác phẩm cụ thể của Nguyễn Du:
- Góp phần tìm hiểu thêm về nội dung bài Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du, Nguyễn Danh
Đạt, Tạp chí Hán Nôm số 1 (14) năm 1993.
- Bàn thêm về bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du, Tạ Ngọc Liễn, Tạp chí Hán Nôm
số 3 (24) năm 1995.
- Thử tìm một cách hiểu bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du, Nguyễn Văn Hoàn,
Nghiên cứu Văn học số 9 năm 2006.
- Độc Tiểu Thanh Ký tư liệu và hướng nghiên cứu, Nguyễn Đăng Na, Nghiên cứu văn học số
6 năm 2006.
- Đạo ý – Một bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Dương Văn Kha, Tạp chí Hán Nôm số 3 (76)
năm 2006.
- …
Những phát hiện cụ thể những bài viết này góp phần không nhỏ vào việc tìm hiểu thơ chữ Hán của
Nguyễn Du.
Trên đây, là những phác thảo quá trình nghiên cứu về văn hóa, văn hóa ứng xử của người Việt và
thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Tất cả các công trình nghiên cứu về văn hóa đi sâu về bản sắc văn hóa Việt
Nam, phân vùng văn hóa, hay văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á… chưa có công trình
nghiên cứu nào để tiếp cận một tác phẩm văn học, một tác giả văn học. Về văn hóa ứng xử chủ yếu nghiên
cứu môi trường ứng xử với tự nhiên, ứng xử với xã hội, ứng xử trong gia đình của người Việt, nhưng chưa
có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về văn hóa ứng xử của người Việt qua văn học. Nhìn chung việc
nghiên cứu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du, các tác giả chủ yếu đi sâu thể loại, ngôn ngữ, nhân vật, cũng
chưa có công trình nào đi sâu vào vấn đề Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du như một
công trình chuyên biệt thì chưa có. Vì vậy, đề tài Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du kết
hợp hai mảng lại với nhau văn hóa, văn hóa ứng xử của người Việt nói chung và thơ chữ Hán nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn bước đầu thể nghiệm hướng tiếp cận giúp khám phá hiểu biết sâu hơn trên phương diện
văn hóa góp phần hiểu thêm quan niệm sống, nếp sống, lối hành động của con người trong xã hội
Luận văn mở ra một phạm vi rộng, các tác phẩm của Nguyễn Du đưa vào giảng dạy ở cả Trung học
cơ sở và Trung học phổ thông. Cùng với kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du còn để lại ba tập thơ chữ Hán
là Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Các thi tập này không chỉ góp phần làm
nên diện mạo thơ ca trung đại mà còn là nguồn tư liệu giúp chúng ta tìm hiểu thế giới nội tâm của chính
tác giả. Vì vậy, việc tìm hiểu thơ chữ Hán của Nguyễn Du có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu
và giảng dạy tác gia này. Hơn nữa, việc tìm hiểu Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du sẽ
đem đến nhiều hiểu biết cho con người về nét ứng xử trong cộng đồng người.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Tiếp thu những thành tựu có trước, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Đối tượng khảo sát: Đối tượng mà đề tài khảo sát toàn bộ các bài thơ trong ba tập thơ chữ Hán của
Nguyễn Du là Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục được lấy trong cuốn Nguyễn
Du toàn tập do Mai Quốc Liên chủ biên (Nxb Văn học 1996). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng so sánh thơ
văn của một số tác giả mà nội dung có liên quan để thấy được nét ứng xử tiêu biểu trong đời sống của
người Việt.
Phạm vi khảo sát, nghiên cứu: Đề tài chỉ chú trọng khảo sát về thơ chữ Hán của Nguyễn Du, từ đó
luận văn cố gắng chỉ ra và hệ thống những nét ứng xử tiêu biểu mà đã trở thành chuẩn mực trong đời sống
của người Việt.
Từ mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn chúng tôi cố gắng tìm hiểu thơ chữ Hán của
Nguyễn Du từ góc nhìn truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trước giới hạn rộng lớn
của truyền thống văn hóa Việt, chúng tôi chỉ xin đi vào văn hóa ứng xử, là những nét cư xử trong cuộc
sống hằng ngày của ông cha ta đã đi vào thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi có ý tiếp thu cách làm văn hóa so sánh để có thể chỉ
ra được đâu là nét văn hóa thuần Việt và đâu là ảnh hưởng văn hóa ngoại sinh đến văn hóa, đặc biệt là văn
hóa ứng xử của người Việt. Chúng tôi hi vọng rằng luận văn sẽ cung cấp phần nào một cách nhìn về thơ
chữ Hán của Nguyễn Du từ góc độ văn hóa ứng xử, cũng như những lý giải khá thú vị về văn hóa ứng xử
của người Việt qua thơ chữ Hán này.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp lịch sử: Khảo sát thơ chữ Hán của Nguyễn Du theo thời gian để nhận diện những
nét Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
- Phương pháp so sánh: So sánh Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du với văn hóa
ứng xử của một số danh nhân văn hóa trước và sau đó đề làm nổi bật những ứng xử thể hiện rõ bản sắc
văn hóa.
- Phương pháp thống kê: Thống kê những từ ngữ quan trọng được Nguyễn Du sử dụng trong
những sáng tác của ông nhằm góp phần làm rõ hơn tư tưởng, tình cảm cũng như những lựa chọn ứng xử
của ông.
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Xem xét thơ chữ Hán của Nguyễn Du với tư cách là một chủ
thể văn hóa toàn vẹn trong mối quan hệ với bối cảnh văn hóa – lịch sử của thời đại Nguyễn Du, xem xét
các bình diện Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du trong mối quan hệ, hệ thống.
6. Kết cấu của luận văn:
Do những đặc điểm về đối tượng và phương pháp nghiên cứu… như đã trình bày ở trên luận văn
Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du có kết cấu như sau:
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3. Mục đích nghiên cứu.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn.
B. NỘI DUNG
Chương 1: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm văn hóa
1.1.2. Khái niệm ứng xử
1.1.3. Khái niệm văn hóa ứng xử
1.2. Văn hóa ứng xử tiếp hợp nhiều yếu tố văn hóa ngoại lai
1.2.1. Tiếp hợp Nho giáo
1.2.2. Tiếp hợp Phật giáo
1.2.3. Tiếp hợp Đạo giáo
Chương 2: NGUYỄN DU VÀ THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU
2.1. Nguyễn Du
2.1.1. Thời đại Nguyễn Du
2.1.2. Gia thế và cuộc đời Nguyễn Du
2.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
Chương 3: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
3.1. Ứng xử đối với bản thân
3.2. Ứng xử với môi trường tự nhiên
3.2.1. Thiên nhiên tươi đẹp để hưởng thụ ngâm vịnh
3.2.2. Thiên nhiên kỳ quái khiến con người phải khiếp sợ
3.3. Ứng xử với môi trường xã hội
3.3.1. Vua chúa
3.3.2. Quan lại
3.3.3. Những người nghèo khổ
3.3.4. Người hiền người tài
3.3.5. Phụ nữ
3.4. Ứng xử trong gia đình
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
B. NỘI DUNG
Chương 1 : VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU - NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG
1.1. Các khái niệm:
1.1.1. Khái niệm văn hóa:
Trong bối cảnh của một thế giới mở cửa và đầy biến động như hiện nay, văn hóa là một lĩnh vực
luôn được hầu hết, quốc gia, dân tộc trên thế giới dành cho sự quan tâm đặc biệt tầm quan trọng của văn
hóa được nêu lên hàng đầu. Kể từ khi văn hóa trở thành một đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học
về văn hóa, khởi nguồn từ định nghĩa của E.B Taylor trong cuốn “Văn hóa nguyên thủy” xuất bản ở
London, năm 1871 cho đến nay đã có rất nhiều định nghĩa về văn hóa. Vào năm 1952 hai nhà nhân học
người Mỹ là A. Kroeber và C.Kuckhohn đã viết một cuốn chuyên bàn về các định nghĩa văn hóa “Văn
hóa: Tổng luận phê phán các quan niệm và định nghĩa” trong đó đã dẫn ra và phân tích 150 định nghĩa về
văn hóa [22, tr 8]. Trong lần xuất bản thứ hai của cuốn này số định nghĩa đã tăng lên 200. Hiện nay số
lượng định nghĩa có thể là 400 đến 500 [67, tr 19]. Việc xác định và đưa ra một khái niệm chung về văn
hóa không đơn giản bởi xuất phát từ cứ liệu riêng, mỗi một tác giả đưa ra một nhận định về văn hóa phù
hợp với lĩnh vực nghiên cứu của mình. Cùng với thời gian, khái niệm văn hóa tự làm phong phú thêm bởi
sự đóng góp của những nội dung mới [98].
Nghiên cứu từ gốc: Văn hóa – culture
Ở Phương Tây, người ta căn cứ vào chiết tự, từ nguyên culture của Tiếng Anh và Tiếng Pháp,
tiếng Đức có từ kultur, tiếng Nga có từ kultura, người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha có từ cutura… xuất
phát của nó từ tiếng Latinh culture để giải nguyên từ văn hóa là “gieo trồng”, “canh tác” - ở ngoài đồng
tức là nông nghiệp. Về sau chuyển thành “nuôi dưỡng, vun trồng, tinh thần, trí tuệ”. Ở đây là nói quá trình
giáo dục, bồi dưỡng về mặt tinh thần cho con người.
Ở Phương Đông, theo nhà nghiên cứu Từ Hồng Hưng ở Trung Quốc trong bài “Tổng luận về văn
hóa” thì từ văn hóa là do người Nhật Bản vào cuối thế kỉ XIX đã chuyển dịch từ chữ cutura của Phương
Tây mà dẫn vào Nhật, sau đó mới chuyển qua Trung Quốc. Ở Trung Quốc, từ văn hóa đã có ngay từ thời
Tây Hán. Nhà nghiên cứu cho biết văn hóa là “cai trị, giáo hóa, lễ nhạc, điểm chương, chế độ” cách giải
thích này vẫn được bảo lưu ở Trung Quốc cho đến ngày nay, đương nhiên nó vẫn hoàn toàn không giống
nghĩa từ cutura ở phương Tây hiện đại.
Căn cứ vào phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn mẫu văn hóa rất phong phú, đa dạng và được dùng
với nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng cách bao quát nhất quy về hai cách hiểu chính theo nghĩa rộng và
theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu hoặc chiều rộng theo không gian và thời
gian. Giới hạn theo chiều sâu được hiểu là những giá trị tinh hoa (nếp sống văn hóa, công trình văn hóa…)
Giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực (văn hóa giao tiếp,
văn hóa kinh doanh… Giới hạn theo không gian văn hóa được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng
vùng (văn hóa Tây Nguyên, văn hóa Nam Bộ…) Giới hạn theo thời gian, văn hóa được dùng để chỉ những
giá trị trong từng giai đoạn (văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn…)
Hiểu theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần đã được xã hội hóa trong lao
động sáng tạo của con người. Nhờ tiếp cận những giá trị ấy, con người trong cộng đồng trở thành con
người có năng lực và hoạt động của văn hóa luôn hướng tới giá trị “Chân –Thiện - Mỹ”. Với tư cách là
một phạm trù rộng, văn hóa luôn bao hàm nội dung và sự phản ánh thực tại của đời sống con người. Văn
hóa là tất cả những giá trị do con người sáng tạo ra và được trao quyền từ thế hệ này cho đến các thế hệ
sau, là sự thể hiện trình độ phát triển của con người trong mỗi thời đại lịch sử nhất định. Với sự phát triển
không ngừng của đời sống xã hội làm cho nội dung và khái niệm văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng
hơn. Và vì vậy, các nhà khoa học có thể tiếp cận khái niệm văn hóa ở nhiều lĩnh vực khác nhau như ngôn
ngữ học, tâm lý học, triết học, dân tộc học, xã hội học… Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa về văn hóa.
Vào nửa cuối thế kỉ XIX, Eduard Burnett Tylor, nhà văn hóa xã hội học người Anh là người đầu
tiên cấp cho văn hoá định nghĩa được chấp nhận một cách rộng rãi. “Văn hóa là một chỉnh thể phức tạp
bao gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và bất kỳ năng lực và thói quen
khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [24, tr 13].
Tiếp nhận quan điểm của Ward Goodnough, R.A.Hudson cho rằng “Văn hóa là một xã hội theo tôi
quan niệm, bao gồm tất cả những cái gì mà một người phải biết và phải tin để có thể hành xử theo cách
sao cho được các thành viên khác trong cộng đồng chấp nhận… Văn hóa vốn là những cái mà con người
phải học mới có được, khác với vốn thừa kế sinh vật học của mình, suy cho đến cùng là những hiểu biết –
sản phẩm của sự học tập, theo cách hiểu chung nhất của thuật ngữ này” [7, tr 1].
V. Gudinaf lại coi văn hóa “không phải là hiện tượng vật chất mà là một tổng thể nhất định các tri
thức và mô hình giải thuyết cái mà con người nói ra và làm ra”[79, tr 16].
Từ điển Triết học định nghĩa “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội – lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử, phát
triển phụ thuộc vào sự thay đổi theo các hình thái kinh tế xã hội” [38, tr 659 ]. Ông Federico Mayor
Zaragza - Tổng giám đốc UNESSCO nhận định “Văn hóa là tổng thể sống động, các hoạt động sáng tạo
trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị,
các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”[101, tr 10]. Hiện
nay UNESSCO đang nhìn nhận văn hóa với ý nghĩa rộng rãi hơn như một phức thể - tổng thể các đặc
trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, trí tuệ và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng, gia
đình, làng, xóm, vùng, miền, quốc gia. UNESSCO còn đưa ra cách hiểu hẹp hơn “Văn hóa là một tổng thể
những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng
ấy có đặc thù riêng. Văn hóa bao gồm các giá trị để đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu,
đạo đức hay vô luân, phải hay trái, đúng hay sai) theo cộng đồng ấy” [47, tr 863].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu dựa trên tính lịch sử, tính giá trị, nguồn gốc, tâm lý… hình thành
nên văn hóa của mỗi dân tộc. Mỗi định nghĩa thể hiện cho một tiêu chí nghiên cứu của mỗi ngành khoa
học khác nhau. Trước sự đa dạng về định nghĩa văn hóa, nhằm tạo sự thống nhất trong nghiên cứu,
UNESSCO đã đưa ra định nghĩa mang tính tổng quát. Trong định nghĩa của UNESSCO đặc biệt nhấn
mạnh đến tính riêng biệt của mỗi nền văn hóa nhưng vẫn đảm bảo đến nội hàm của định nghĩa về văn hóa
mà các tác giả đề cập.
Bên cạnh những định nghĩa về văn hóa đã nêu trên của các học giả nước ngoài, một số nhà nghiên
cứu Việt Nam cũng đưa ra một số khái niệm nhận thức cơ bản về văn hóa. Vào những năm 1942, Chủ
Tịch Hồ Chí Minh đã nêu định nghĩa về văn hóa “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích về cuộc sống, loại
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ
thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày ăn, mặc, ở cũng như các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng
tạo và phát minh tức là văn hóa. Văn hóa là tổng thể của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loại người đã phải sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống mà đòi hỏi của sự sinh tồn”
[98, tr 21].
Có thể thấy, định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh đã bao quát một phạm vi rộng lớn, bao gồm
toàn bộ hoạt động sáng tạo tinh thần cũng như sinh hoạt vật chất của xã hội, mang dấu ấn sâu sắc của một
trật tự văn minh, bản sắc của dân tộc. Định nghĩa về văn hóa trên còn nguyên giá trị. Từ truyền thống văn
hóa Việt Nam và phương Đông kết hợp với việc trực tiếp khảo sát chủ nghĩa thực dân, nghiên cứu phong
trào dân tộc, phong trào công nhân trên thế giới, tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã
đến với văn hóa Việt Nam trong tư tưởng của Người đó là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, tinh
thần “không có gì quý hơn độc lập tự do”, ý thức tự cường và lạc quan, thông minh và sáng tạo, ý chí
đoàn kết quyết chiến, quyết thắng kẻ thù; đó là lòng nhân ái, thủy chung, bao la, đạo làm người đấu tranh
vươn tới con người có nhân phẩm và trí tuệ. Chính Hồ Chí Minh từ năm 1924 đã báo cáo với quốc tế
Cộng Sản rằng, “phải bổ sung củng cố chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông” [65, tr 465, tập 1].
Gần đây một số độc giả Việt Nam cũng đưa ra một số quan niệm về văn hóa. Có quan niệm cho rằng tất
cả những gì không phải thiên nhiên đều là văn hóa “Văn hóa không phải là kỹ thuật, cũng không phải là
bản thân sản xuất, không phải là hoạt động tinh thần ở tự bản thân nó, không phải là hoạt động xã hội,
chính trị… cũng không phải là phong tục… Văn hóa là các dấu ấn của một thể cộng đồng này từ tín
ngưỡng, phong tục cho đến cả sản phẩm công nghệ, bán ra thị trường” [67, tr 20].
Phạm Xuân Nam thì khẳng định: Yếu tố hàng đầu của văn hóa là sự hiểu biết, bao gồm tri thức
khoa học, kinh nghiệm và sự khôn ngoan tích lũy được trong quá trình học tập, lao động sản xuất và đấu
tranh để duy trì và phát triển cuộc sống của mỗi cộng đồng dân tộc và các thành viên trong cộng đồng ấy.
Nhưng chỉ riêng sự hiểu biết không thôi chưa làm nên văn hóa. Sự hiểu biết chỉ trở thành văn hóa khi nó
làm nền và định hướng cho thế ứng xử (thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu, hành vi…) của mỗi
cá nhân và cả cộng đồng hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ với mình, với người, với môi
trường xã hội và môi trường tự nhiên [77, tr 27].
Trần Văn Giàu định nghĩa văn hóa theo nghĩa rộng. Theo ông văn hóa không chỉ là bao gồm kiến
thức chuyên môn, kiến thức nghiệp vụ, ngoại ngữ, năng lực sử dụng thiết bị tin học… mà phải bao gồm cả
đạo đức, tâm lý, nếp sống, sức khỏe…[77, tr 28].
Phan Ngọc trong “Bản sắc văn hóa Việt Nam” đã nêu ra định nghĩa về văn hóa “Văn hóa là mối
quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều
đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều kiện rõ
nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ nhận thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu
lựa chọn của cá nhân hay của tộc người khác”[68, tr 17 - 18]. Tác giả Phan Ngọc chú trọng tới kiểu lựa
chọn của mỗi nền văn hóa, Phan Ngọc xác định đối tượng của văn hóa là cái mô hình trong óc con người
với cái mô hình mà họ tạo ra trong hiện thực. Nghĩa là nghiên cứu văn hóa là nghiên cứu ở cấp độ quan hệ
chứ không phải ở cấp độ hiện tượng.
Nhìn chung, các nhà khoa học đều muốn cố gắng nêu bật tính bản chất của văn hóa trong mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với con người xã hội.
Theo Hồ Bá Thâm, khi tiếp xúc khái niệm văn hóa cần phải có đầy đủ bốn đặc trưng cơ bản: tiếp
cận hoạt động, tiếp cận giá trị, tiếp cận phát triển, tiếp cận công nghệ. Từ đó, ông đưa ra định nghĩa về văn
hóa “Văn hóa là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần theo tính chân – thiện – mỹ, do hoạt động của
con người sáng tạo ra thông qua các phương thức tồn tại của đời sống xã hội và ngày càng phát triển.
Văn hóa là sự phát triển, tiến bộ là phát triển, tiến bộ là văn hóa” [82, tr 15].
Đào Duy Anh đã nghiên cứu văn hóa: “Các điều kiện địa lý có ảnh hưởng lớn đối với các sinh hoạt
con người, song người là hạt giống hoạt động cho nên cũng trở lại cũng có thể dùng sức mình và xử trí và
biến những điều kiện ấy cho thích hợp với những điều kiện cần thiết của mình. Cách sinh hoạt vì thế mà
cũng biến chuyển mà khiến cho văn hóa cũng biến chuyển theo. Nghiên cứu xem như hoạt động để sinh
hoạt về các phương diện của các dân tộc xưa nay biến chuyển thế nào, là nghiên cứu văn hóa lịch sử của
dân tộc ấy” [1, tr 3]. Đào Duy Anh đã nhận thấy văn hóa cách sinh hoạt của con người nảy sinh trong quá
trình lao động trong quá trình sinh hoạt nhất định. Ông còn nhấn mạnh đến sự khác nhau giữa văn hóa của
các dân tộc. “Người ta thường cho rằng văn hóa chỉ là những học thuật tư tưởng loài người, nhân thế mà
xem xét văn hóa có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải là vậy. Học thuật tư tưởng cố nhiên
là ở trong phạm vi của văn hóa nhưng phận sự về sinh hoạt kinh tế, về chính trị, về xã hội cũng hết thảy
các phong tục tập quán thường lại không ở trong phạm vi văn hóa hay sao? Hay tiếng văn hóa chẳng qua
chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: Văn hóa tức là sinh
hoạt” [1, tr 13].
Trần Quốc Vượng nhận định: “Môn nghiên cứu tộc người đã được phương Tây khai thác trong
công cuộc khám phá và chinh phục thổ dân vùng đất mới, mở rộng thị trường và có thể cả trong việc kích
thích mâu thuẫn sắc tộc trong các quốc gia độc lập. Vào thời hiện đại các nước phương Tây đi từ “tộc
người học” đến “nhân học” ít chú ý đến văn hóa quốc gia – dân tộc, thậm chí vấn đề bản sắc dân tộc gắn
với độc lập quốc gia có vẽ như không thích hợp với chiến lược toàn cầu hóa. Trong khoa học phương Tây,
văn hóa là nội dung cơ bản của “xã hội học”. Từ lâu, thế giới khoa học Việt Nam đã nhận thấy “chúng ta
còn thiếu hẳn việc xây dựng một khung cảnh khái niệm và những công cụ lý luận, phân tích và tổng hợp
để áp dụng vào công cuộc nghiên cứu văn hóa Việt Nam dù là dưới nhãn quan đồng đại hay dưới nhãn
quang lịch đại” [99, tr 94].
Như vậy, việc áp dụng phương pháp nghiên cứu văn hóa phương Tây vào nền văn hóa Việt Nam
vẫn chưa có điểm phù hợp, đòi hỏi người nghiên cứu phải có những cơ sở nghiên cứu để áp dụng vào thực
tiễn nền văn hóa. Do đó, khi nghiên cứu đề tài, chúng tôi dựa vào những quan điểm nghiên cứu của tác giả
Trần Quốc Vượng và Trần Ngọc Thêm đó là những học giả xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu văn hóa
xuất phát từ đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam để khảo sát đề tài.
Theo Trần Quốc Vượng “cái văn hóa là sự biến đổi cái tự nhiên của từng cộng đồng người nhất
định. Văn hóa là sự phản ứng, sự chế ngự, sự trả lời của một cộng đồng người trước những thách đố của
mọi cái gì tự nhiên (kể cả môi trường tự nhiên lẫn cái được gọi là bản năng tự nhiên của con người). Văn
hóa là lối sống của một cộng đồng người, là thế ứng xử tập thể (hay công thể) của một cộng đồng người,
của một xã hội, là tổng thể những đồng nhất thể của các thành viên về các phương diện nhận thức, quan
điểm, chuẩn mực, biểu tượng và các hệ thống giá trị… Văn hóa hiểu như vậy thì có mặt bao la (toàn bộ
các thành tựu của con người) vừa có mặt chặt chẽ (phản ứng tập thể của từng cộng đồng người, do đó có
nhiều loại hình khác nhau” [94, tr 159].
Dựa vào định nghĩa trên, chúng tôi nhận thấy Trần Quốc Vượng đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên. Đặc biệt là ông chú ý đến mặt xã hội của con người trong quá trình nghiên cứu
văn hóa. Vì vậy, các nhà nghiên cứu cần tiếp nhận văn hóa Việt Nam cả phương diện lịch đại lẫn đồng
đại. Bởi với sự kết hợp như thế, người nghiên cứu sẽ có một cái nhìn toàn diện.
Đi liền với việc kế thừa những quan điểm trên, chúng tôi còn căn cứ vào cơ sở nghiên cứu về văn
hóa của tác giả Trần Ngọc Thêm. Ông đã đưa ra một định nghĩa ngắn gọn và bao quát về văn hóa: “Văn
hóa là một hệ thống hữu cơ có giá trị vật chất và tinh thần cho con người sáng tạo và tích lũy trong quá
trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình”[87 , tr 25].
Từ định nghĩa của Trần Ngọc Thêm, ta có thể xác định đặc trưng và chức năng của văn hóa:
Văn hóa có tính hệ thống: là một thực thể bao trùm mọi hoạt động xã hội nên văn hóa có chức năng
tổ chức xã hội, là nền tảng xã hội, làm ổn định và giúp xã hội ứng phó với môi trường tự nhiên và nội tại.
Văn hóa có tính giá trị: là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người nên văn hóa có chức
năng điều chỉnh xã hội định hướng vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, giúp xã hội duy trì trạng thái
cân bằng, không ngừng tự hoàn thiện vừa thích ứng với những biến đổi của môi trường.
Văn hóa có tính nhân sinh: là sợi dây nối liền con người nên văn hóa có chức năng giao tiếp liên
kết con người trong cuộc sống bình thường cũng như trong các biến động của xã hội, thiên nhiên.
Văn hóa có tính lịch sử: là một quá trình có bề dày tích lũy, được lưu truyền và tạo nên truyền
thống. Truyền thống tồn tại và phát triển thông qua giáo dục nên văn hóa có chức năng giáo dục, giáo dục
những giá trị truyền thống và cả những giá trị đang hình thành, tạo thành một hệ thống chuẩn mực, cho
con người hướng tới. Từ chức năng giáo dục văn hóa có chức năng tái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch
sử di truyền phẩm chất tốt đẹp của dân tộc cho các thế hệ mai sau.
Hình thức biểu hiện gồm có văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần hay văn hóa vật thể (tangible)
và văn hóa phi vật thể (intangible).
Quan điểm hệ thống cấu trúc văn hóa theo Trần Ngọc Thêm thì văn hóa là một hệ thống gồm
nhiều phân hệ trong hệ thống văn hóa (nền văn hóa) gồm 4 thành tố (tiểu hệ) cơ bản:
- Văn hóa nhận thức.
- Văn hóa tổ chức cộng đồng.
- Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên.
- Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.
Trên đây là kết quả của những phương diện chính của khái niệm văn hóa. Qua đó chúng ta có thể
hiểu “văn hóa là toàn bộ những hoạt động vật chất, tinh thần và loại người sáng tạo ra trong lịch sử của
mình trong quan hệ với con người, với tự nhiên và với xã hội được đúc kết lại thành hệ giá trị và chuẩn
mực xã hội”.
Như vậy, văn hóa có một số nội dung cơ bản sau:
- Văn hóa là thuộc tính bản chất của con người và xã hội loại người, có mặt hầu như trong tất cả
các hoạt động, các lĩnh vực của con người và xã hội.
- Đối với cộng đồng xã hội, văn hóa thường được thể hiện như một lối sống một kiểu ứng xử riêng
biệt và tương đối ổn định, được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Yếu tố cốt lõi văn hóa là một cộng đồng người là hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, thể hiện như là
bản sắc của cộng đồng nó có chức năng điều tiết hành vi của các thành viên, tạo nên sự thống nhất hoạt
động trong cộng đồng xã hội ấy.
Như vậy, văn hóa là một hệ thống được định hình và phát triển trong quá trình lịch sử, bao gồm
nhiều yếu tố hợp thành như hệ giá trị, tập quán, thói quen, lối ứng xử, các chuẩn mực xã hội, nó mang tính
ổn định, bền vững và có khả năng di truyền qua nhiều thế hệ “là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”.
1.1.2. Khái niệm ứng xử:
Khái niệm ứng xử theo “Từ điển Tiếng Việt” do GS. Hoàng Phê chủ biên thì nghĩa của từ “ứng”
mang lại hai nội dung chính sau. Thứ nhất là đáp lại, lên tiếng đáp lại kêu gọi. Thứ hai là mối quan hệ phù
hợp tương đối với nhau. Còn “xử” có nghĩa là hành động theo cách nào đó, thể hiện thái độ với người
khác trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định. Thuật ngữ ứng xử được sử dụng trong tiếng Nga
ΠΟΒеДеНИе, tiếng Anh behavior, tiếng Mỹ behavior, tiếng Pháp comportement hay conduit [2, tr 16].
Trong Bách khoa toàn thư Xô Viết có định nghĩa khá ngắn gọn về ứng xử: “Hệ thống các quan hệ
tương tác, các phản ứng được thực hiện bởi các vật thể sống để thích nghi với môi trường. Ứng xử (hành
vi, tập tính) của động vật và con người được nghiên cứu bởi các ngành Tập tính học, Tâm lý học, Xã hội
học” [2, tr 17]. Như vậy ứng xử là một quan hệ tương tác, phản ứng giữa tự nhiên, con người và cộng
đồng.
Các nhà nghiên cứu tâm lý, từ góc độ tâm lý học lại chủ yếu tìm hiểu, khai thác khái niệm ứng xử:
“Ứng xử ở khía cạnh những quan hệ giao tiếp, xuất phát từ vỏ ngôn ngữ, họ cho rằng ứng xử là sự phản
ứng của con người đối với tác động của người khác trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện
những chỗ con người không chủ động trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có lựa chọn, có tính
toán, thể hiện qua thái độ hành vi, cử chỉ, cách nói năng tùy thuộc vào tri thức kinh nghiệm cá nhân của
mỗi con người nhằm đạt hiệu quả cao nhất” [5, tr 11- 12]. Trên cơ sở đó, ứng xử được hiểu là cách xử thế
nhằm ứng phó với một hoặc nhiều đối tượng nào đó trong giao tiếp.
Từ góc độ nhân văn hóa học lại không chú trọng hành vi ứng xử có tính cá biệt mà nghiên cứu môi
trường xã hội văn hóa ảnh hưởng thế nào đến ứng xử con người [2, tr 19].
Từ góc độ sinh học, nhà khoa học cho rằng ứng xử có nghĩa “toàn thể những phản ứng thích nghi
có thể quan sát khách quan là một cơ chế, cơ chế có một hệ thống thần kinh thực hiện để đáp trả lại
những khích thích… Điều đáng chú ý là những phản ứng ấy (những ứng xử, xử lý để đáp ứng) được diễn
ra theo cách tương đối ổn định” [21, tr 43].
Dưới góc độ xã hội học, ứng xử dùng để chỉ “các hoạt động như thế nào đó của một vai trò xã hội
nào đối diện với một vai trò khác (tức một cặp vai trò như: vợ/ chồng, cha/ mẹ,…) Và đó là những hoạt
động hoặc gọi là phản ứng theo một cách tương đối. Ứng xử trong chỉ giới hạn những vai trò xã hội với
nhau còn ứng xử với mình, ứng xử với đồ vật, với tự nhiên” [21 ,tr 43].
Từ góc độ ngôn ngữ học, “ứng xử là một từ ghép hai từ ứng xử. Mà ứng xử lại bao gồm nhiều
nghĩa khác nhau như ứng phó, ứng đáp, ứng biến và xử sự” [21, tr 44].
Trong cuốn sách “Tâm lý ứng xử”, Lê Thị Bừng định nghĩa: “Ứng xử là sự phản ứng của con
người đối với sự tác động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở
chỗ con người không chủ động trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có tính toán,
thể hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng tùy thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của
mỗi người nhằm đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.” [5, tr 17].
Trong cuốn “Xã hội văn hóa” của tác giả Đoàn Văn Chúc đề cập đến khái niệm Ứng xử “là một
trừu tượng chỉ sự dính líu nhau của mỗi người, mỗi nhóm người trong cuộc sống xã hội. Liên hệ xã hội
chỉ trở thành hữu hình nắm bắt được mỗi khi con người hay nhóm người hoạt động như thế nào đấy là
khách thể hóa, cụ thể hóa một liên hệ xã hội. Hoạt động và nói thế nào đấy là ứng xử. “Ứng”: đáp lại,
đối lại. “Xử”: đối đãi” [12, tr 61]. Từ đó cho thấy, sự ứng xử được biểu hiện ở con người và các nhóm
người trong mọi hoạt động sinh tồn, trong đó là chủ yếu những người với người và tất nhiên gồm cả mối
quan hệ giữa chủ thể và đối tượng. Ứng xử với người gồm ba yếu tố tạo thành một tổng thể không tách
rời.
- Tính hữu thức thực tế, định hướng trong lao động như chủ thể cảm thấy, nhận thấy, hiểu
mình đang đứng trước tình huống và tổ chức hoạt động của mình.
- Những biểu hiện ra ngoài có khi quan sát được (những phản ứng sinh lý, cơ thể thực hành
vật chất).
- Mối liên hệ với môi trường sống, bao gồm hết thảy môi trường hữu thể và giới người xung
quanh gắn liền với tình huống.
Ứng xử theo cách này hay cách khác là chấp nhận một nếp ứng xử, là ứng xử theo nguyên tắc. Việc
thực hiện theo nguyên tắc về ứng xử thành nếp ứng xử. Sự lập đi lập lại việc thi hành những nguyên tắc
ứng xử sẽ tạo thành tập quán. Trong xã hội, con người có những cảm xúc, suy nghĩ và hành động tương
đối giống nhau theo một khuôn mẫu. Mà khuôn mẫu là cái hình thành ổn định – mô hình – dùng làm mực
thước tạo nên một cái gì đó. Cái đó là giá trị được xã hội đương thời thừa nhận. Cái khuôn mẫu khi nó
thường xuyên lập đi, lập lại bởi nhiều cá nhân trong xã hội.
Về phương diện cá nhân: Đời sống của con người bao giờ cũng được thực hiện bởi một hệ thống
toàn diện những ứng xử đến mức có thể nói rằng sống là ứng xử theo cách nào đấy, ứng xử với thiên
nhiên, ứng xử với đồng loại. Một con người muốn hòa nhập vào cộng đồng là phải nhập mình vào các mối
liên hệ xã hội chằng chịt, mà liên hệ xã hội thì không có cách thực hiện nào khác là ứng xử.
Về phương diện xã hội: Mỗi con người ứng xử theo cách nào đó là bởi các thế hệ trước dạy cho thế
hệ sau. Dạy bằng chính sự tiếp nhận ứng xử của họ cũng như bằng sự giảng giải, truyền dạy ý nghĩa giá trị
xã hội của mỗi ứng xử mà họ lựa chọn và đã chấp nhận.
Theo Đoàn Văn Chúc “Khuôn mẫu ứng xử là một trạng thái nhất trí về hoạt động và cảm nghĩ
được diễn ra ở một đa số người. Là ứng xử đã được tổng quát hóa tiêu chuẩn hóa và hợp thức hóa dùng
làm chuẩn mực hay chỉ nan để phân biệt, trong bất cứ xã hội nào, ứng xử chấp nhận được với ứng xử
không thể chấp nhận được” [12, tr 64].
Như vậy, ứng xử của con người (cá nhân hay cộng đồng) phản ứng các mối liên hệ cơ bản sau đây.
Thứ nhất, nói đến ứng xử là nói đến cách xử trí trong mối quan hệ giữa người với người hoặc giữa
cá nhân với cộng đồng trước những sự kiện hoặc sự việc cụ thể.
Thứ hai, ứng xử cũng là một phương diện cấu thành của văn hóa, là biểu hiện tổng hợp của văn
hóa.
1.1.3. Khái niệm văn hóa ứng xử:
Truyền thống văn hóa Việt Nam, ông cha ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề giao tiếp ứng xử. Các
câu danh ngôn được truyền dạy cho thế hệ sau “Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau”, “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Điều gì mà mình không muốn thì đừng gán cho người khác), “Phải
học ăn học nói học gói học mở”… những vẻ đẹp trong ứng xử đã được cha ông ta đã gìn giữ và phát triển
tạo thành truyền thống văn hóa của dân tộc.
Ứng xử của con người trong xã hội không diễn ra tùy tiện, ngẫu phát của mỗi cá nhân, mà chúng
lập đi lập lại thường xuyên bởi nhiều người trong cả không gian lẫn thời gian và do nó đã tạo thành những
khuôn mẫu. Cái khuôn mẫu ấy được coi là ứng xử có văn hóa. Vì khuôn mẫu ứng xử là khách thể hóa
những kiến thức, những tư tưởng tình cảm đã đạt được và mong ước đạt được một nền văn hóa. Ứng xử
của con người có rất nhiều, song không phải bất kì ứng xử nào cũng trở thành khuôn mẫu có văn hóa. Để
xác lập một ứng xử nào đấy có khuôn mẫu hay không thì phải có các yếu tố để đánh giá. Theo tác giả
Đoàn Văn Chúc có bốn yếu tố sau:
- Ứng xử được thường xuyên lập đi lập lại tức là tính thời gian của ứng xử.
- Ứng xử được thường xuyên lập lại tương đối theo cùng một cách bởi nhiều người, tức là
tính không gian của ứng xử.
- Ứng xử có tác dụng chỉ nam mẫu mực hay quy tắc cho các thành viên của một nhóm hay
một xã hội.
- Ứng xử ấy chứa đựng một ý nghĩa xã hội nào đấy, tức là nó biểu hiện kiến thức tư tưởng
hoặc tình cảm mà chủ thể đã đạt được, nói cách khác nó mang vác một giá trị (kinh tế, chính
trị, luân lý hay thẩm mỹ) [12, tr 66].
Bốn yếu tố trên có quan hệ thật thiết với nhau và không thể tách rời nhau tạo nên một khuôn mẫu
văn hóa.
Văn hóa ứng xử là “cầu nối, là sự đan xen yếu tố bên trong (nội tâm) và yếu tố bên ngoài (ngoại
tâm). Nó là điểm cuối cùng của những gì diễn biến trong tâm lý con người và là điểm bắt đầu của hành vi,
của ứng xử của hành động” [54, tr 74]. Văn hóa ứng xử thể hiện tính tích cực năng động, tính sáng tạo với
tư cách là một chủ thể. Từ đó thể hiện trình độ cao về văn hóa phản ánh trình độ về phát triển nhân cách
của người đó. Như vậy, văn hóa ứng xử tốt hay chưa tốt, sâu hay chưa sâu, tích cực hay thiếu tích cực thì
chất lượng cao của văn hóa ứng xử trước hết thể hiện ở tính tích cực trong ý thức, trong hành vi của các
mối quan hệ mà chất lượng này biểu hiện qua giao tiếp.
Theo tác giả Đỗ Long chất lượng của văn hóa ứng xử chỉ đạt được khi:
- Văn hóa ứng xử góp phần tổ chức các dạng hoạt động của cộng đồng nhằm đạt hiệu quả cao,
đạt đến những mục tiêu tốt đẹp.
- Văn hóa ứng xử góp phần thực hiện tốt các tác động qua lại giữa các thành viên và giữa các
nhóm có các hình thức tiếp xúc giao lưu.
- Văn hóa ứng xử góp phần củng cố các hình thức quan hệ, tác động qua lại với các cộng
đồng, qua đó phát huy tính tích cực của các thành viên và các bên tham gia.
- Văn hóa ứng xử góp phần xây dựng phát triển và củng cố tính tự ý thức của mỗi cá nhân –
với tư cách chủ thể có văn hóa cao – trong việc thực hiện các giá trị chung và những giá trị
riêng của chính mình.
- Văn hóa ứng xử góp phần tạo dựng chân dung văn hóa của mỗi con người cụ thể. Con người
đó nổi bật lên từ ý nghĩa đẹp đến ứng xử đẹp, từ khuôn mặt đẹp, ngôn ngữ đẹp đến quần áo
đẹp [54, tr 77 - 78].
Bản chất của văn hóa ứng xử thể hiện thông qua các biểu tượng trên.Vậy văn hóa ứng xử là một
trong những dạng thức của đời sống văn hóa, có thể hiểu “văn hóa ứng xử là một hệ thống thái độ hành vi
được xác định để xử lý các mối quan hệ giữa người với người trên các căn cứ pháp luật và đạo lý nhằm
thúc đẩy nhanh sự phát triển của cộng đồng, của xã hội” [54, tr 73].
Cùng với quan niệm nêu trên nhà nghiên cứu khác cũng đã đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh văn
hóa ứng xử của cộng đồng, của cá nhân trong quan niệm của họ về văn hóa. Có thể dẫn ra hàng loạt định
nghĩa về văn hóa có liên quan đến ứng xử.
Theo Trần Quốc Vượng “Văn hóa là thế ứng xử, năng động của một cộng đồng (ứng xử tập thể)
hay một cá nhân (ứng xử cá nhân), đứng trước thiên nhiên xã hội, to nhỏ và đứng trước chính mình. Văn
hóa là lối sống (mode di vie), là nếp sống (train de vie) tập thể và cá nhân “[98, tr 97].
Còn Bùi Thiết trên cơ sở quan niệm văn hóa là một phức hệ hay là đa phức hệ các hoạt động của xã
hội loài người đã được xem văn hóa ứng xử là một trong ba thành tố văn hóa (gần văn hóa vật chất, văn
hóa tinh thần, văn hóa ứng xử). Theo đó văn hóa ứng xử là cách ứng xử mà con người sáng tạo và xác lập
để duy trì các mối liên hệ người với người và giữa con người với thế giới xung quanh [90, tr 21]. Bùi
Thiết cũng xác định “Văn hóa ứng xử như ta biết, tồn tại phổ biến và rộng khắp mọi lĩnh vực hoạt động
của con người”[91, tr 23].
Tác giả Trần Thúy Anh trong cuốn “Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc Bộ
qua một số câu ca dao tục ngữ” cho rằng “Văn hóa ứng xử là toàn bộ những tín điều, truyền thống…
hướng dẫn hành xử mà các cá nhân trong một xã hội được xã hội đó trao truyền bằng nhiều hình thức học
tập” [2, tr 19].
Phạm Vũ Dũng cũng định nghĩa văn hóa ứng xử: “Văn hóa ứng xử là hệ thống tinh tuyển những
nếp ứng xử, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực ứng xử, trong mối quan hệ ứng xử giữa con người với những
đối tượng khác thể hiện qua ngôn ngữ, hành vi nếp sống tâm sinh lý… trong quá trình phát triển và hoàn
thiện đời sống, đã được tiêu chuẩn hóa xã hội hóa trở thành chuẩn mực của cá nhân, nhóm xã hội, toàn
bộ xã hội, phù hợp với đời sống xã hội, với đặc trưng bản sắc của văn hóa dân tộc, một quốc gia… được
cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, toàn bộ xã hội thừa nhận và làm theo”[20, tr 27].
Văn hóa ứng xử vừa có nghĩa rộng vừa có nghĩa hẹp của nó bao gồm nhiều tầng thứ môn loại,
nhưng điển hình là hệ thống ứng xử giữa con người với thế giới tự nhiên, hệ thống ứng xử giữa con người
với nhau hay trong xã hội người.
Hệ thống ứng xử giữa con người với thế giới xung quanh là một phức hệ như thái độ của con người
với mặt trời, mặt trăng, các hiện tượng sấm chớp giông bão, mưa gió thét gào, bờ sông sụp lỡ… Hiện
tượng đó thật đáng sợ, từ xưa đều gây cho con người lòng tôn kính và sợ hãi tất cả được coi là hành vi của
thần linh, đều được tôn thờ. Việc xây dựng những ngôi đền để thờ thần linh và quanh năm tổ chức nghi lễ
dâng cúng tế xét cho đến cùng đó là văn hóa ứng xử, là thái độ của con người với các hiện tượng bí ẩn.
Như vậy, chúng ta thấy rằng văn hóa ứng xử giữa người với thiên nhiên thật là phong phú, đa dạng.
Hệ thống ứng xử trong xã hội loài người lại càng tinh tế, từ cấp bậc trong từng đơn vị gia đình, thứ
bậc trong họ tộc, thứ bậc trong các lứa tuổi, cho đến các thứ bậc ngoài xã hội nói chung, đều được ổn định
trong hàng loạt các phong tục quy ước mang tính phổ quát trong xã hội. Cách ứng xử với những người bậc
trên (vua chúa, quan lại), cách ứng xử với những người nghèo khổ, cách ứng xử với những người hiền
người tài, cách ứng xử với những người trong gia đình (ông bà, cha mẹ, anh em, vợ, con…). Tất cả dường
như đều là hình mẫu được xác định bởi truyền thống ứng xử đã đạt đến ngưỡng chuẩn mực văn hóa.
Song văn hóa ứng xử chỉ thực sự có ý nghĩa, thực sự có phản ánh và trao quyền khi nó được cụ thể
hóa qua những khuôn mẫu, hành vi, lời nói, tư duy, tâm lý, chuẩn mực, biểu tượng… Các chủ thể hoạt
động nhằm ứng biến, ứng phó với các đối tượng khác. Cụ thể ấy có thể là một cá thể, một nhóm người,
một giới (nam hoặc nữ), cũng có thể là một cộng đồng, một dân tộc hay toàn bộ xã hội… Trong lý luận
cũng như trong thực tiễn, văn hóa ứng xử là những chủ thể được biểu hiện trên nhiều phương diện nhưng
tựu trung lại được nhìn nhận, đánh giá chủ yếu dưới các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa con người với tự
nhiên, quan hệ giữa con người với xã hội, quan hệ giữa con người với thế giới của bản thân với cá thể đó.
Từ đó có thể định nghĩa “Văn hóa ứng xử là hệ thống ứng xử giữa con người và thế giới tự nhiên –
vũ trụ và hệ thống ứng xử giữa con người với nhau hay trong xã hội con người” [91, tr 98].
Như vậy, những đặc trưng của văn hóa ứng xử gồm:
-Lòng nhân ái: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình bác ái” [65, tr 160, tập 4], Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc và chính Người là đỉnh cao, là tinh hoa
của tinh thần giàu lòng nhân ái Việt Nam.
Lòng nhân ái Việt Nam được thể hiện theo nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn và trọng nữ.
Nếp sống khoan hòa trong làng với tính cách là một cộng đồng xã hội tuy có lệ làng nâng lên thành
nguyên tắc trọng đức, trọng văn và mở rộng ra thành nguyên tắc trọng nữ.
Nguyên tắc trọng đức ở người Việt Nam hướng vào những giá trị nền tảng có tính bền vững của
đạo đức là luân lý. Vì thế, dễ dàng tiếp thu các học thuyết và tôn giáo như Nho, Phật, Lão, Thiên Chúa
giáo, những yếu tố tích cực của các học thuyết và tôn giáo đều được nhân dân ta khai thác, sử dụng, bổ
sung cho nhau để phục vụ cho sự hoàn thiện của con người. Nho giáo có tu thân trị nước, Phật giáo an ủi
đời sống tâm linh con người, Lão giáo kêu gọi mọi người sống hài hòa với thiên nhiên. Chúa Giêsu đề cao
lòng bác ái… Chính nhờ đó, con người Việt Nam đã đạt tới sự kết hợp hài hòa giữa con người với thiên
nhiên, cá nhân với cộng đồng… Đó cũng là cơ sở để hình thành nên tinh thần văn hóa nhân ái Việt Nam.
Song sở dĩ nhân nghĩa Việt Nam vẫn có bản sắc riêng bền vững, vì nó gắn với nguyên tắc trọng
phụ nữ. Nguyên tắc này được thể hiện nhất quán từ gia đình đến tín ngưỡng mẫu hệ và cả bộ luật Hồng
Đức dưới triều Lê.
Nếp sống khoan hòa thiên về hành động, với lối tư duy trực giác tổng hợp có tính biện chứng chất
phác được thể hiện trong tình nghĩa đối với con người theo các nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn
bằng triết lý nhân nghĩa. Nó thúc đẩy thành lối ứng xử nhân văn tập thể và dân chủ. Lòng nhân ái trở
thành một nét độc đáo, một chuẩn mực sống của con người Việt Nam trở thành lối ứng xử nhân văn, tập
thể và dân chủ.
-Khoan dung: Lòng nhân ái Việt Nam còn có sự bao dung, năm 1997 cộng đồng quốc tế phát động
năm bao dung quốc tế. Đối với Việt Nam, việc này không xa lạ gì vì truyền thống văn hóa Việt Nam là
khoan dung bằng việc thể hiện trong chính trị và trong ứng xử hàng ngày. Khoan dung là phẩm chất lớn
của dân tộc Việt Nam.
Tinh thần văn hóa bao dung Việt Nam là tiếp nhận và thâu hóa những giá trị tích cực, phù hợp cộng
đồng có sự tôn trọng, không kỳ thị, bài bác những giá trị khác với mình để cùng nhau chung sống, đoàn
kết, bảo vệ và xây dựng đất nước.
Trong cuộc sống hằng ngày, mọi người đều đối xử ôn hòa nghiêm khắc nhưng đầy khoan dung
“Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ chạy lại”. Khoan dung không chỉ bó hẹp trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam, mà đối với các dân tộc khác, thậm chí đối với giặc ngoại xâm. Trong lịch sử quân xâm lược
phương Bắc đã từng biết đến Nguyễn Trãi “cấp thuyền” cho chúng trở về nước sau khi chúng bị đánh bại
ở Việt Nam.
Khoan dung của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ lòng nhân ái, tức là trong quan hệ ứng xử giao tiếp
của người Việt Nam bao giờ cũng phải thực hiện nhân từ độ lượng với người khác.
-Trọng tình nghĩa và đạo lý: Ngoài lòng nhân ái và khoan dung, người Việt Nam thường nói đến
lối ứng xử trọng tình nghĩa và đạo lý thậm chí còn khái quát thành lối duy tình coi đó là một bản sắc nổi
bật của con người Việt Nam. Bản sắc văn hóa này thể hiện qua vô vàn sắc thái khác nhau như các nguyên
tắc sống “thương người như thể thương thân”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Nhiễu điều phủ lấy giá
gươm. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Trong đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ
kẻ trồng cây”, “Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Tình nghĩa thể hiện trong thể chế xã hội và thành luật nước, luật làng về an ninh xã hội. Tình nghĩa
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói phẩm chất sống của con người Việt Nam là “đối xử với nhau có tình
có nghĩa”.
Tình nghĩa của con người Việt Nam thể hiện trong chính trị và trong ứng xử hàng ngày. Đối với
những người trong gia đình thì phải hiếu thảo trách nhiệm lo cho cha mẹ, anh chị em phải hòa thuận “anh
em như thể tay chân”, “chị ngã em nâng”. Vợ chồng sống có tình có nghĩa, nhiều khi tình hết mà nghĩa
còn” vẫn sống với nhau, Hồ Xuân Hương nói “Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa”. Đối với bạn bè, tình
nghĩa là giúp đỡ vượt qua những khó khăn hoạn nạn “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Trong quan hệ làng
– xã – nước, tình nghĩa “thương người như thể thương thân”, sẵn sằng giúp đỡ lẫn nhau khi hoạn nạn, khó
khăn, nương tựa cho nhau mà không tiếc của, tiếc công, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Tình nghĩa trong
chính trị từ Nguyễn Trãi đến Hồ Chí Minh là “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn. Lấy chí nhân thay cường
bạo”, là mọi việc lớn lấy nghĩa làm đầu, có nhân nghĩa mọi việc trôi chảy. Người Việt Nam sống “vì
nghĩa” đặt Tổ quốc, lợi ích quốc gia lên trên hết. Vì nghĩa là tình cảm đáng gắn bó người với người trong
sinh hoạt gia đình, xã hội, dân tộc cho đến quốc tế. Trong tình nghĩa, đạo đức dân tộc Việt Nam còn thể
hiện rất rõ trong việc lập đền thờ đối với những người có công với nước, với làng xã…
Tình nghĩa trở thành một nét độc đáo, một chuẩn mực sống của con người Việt Nam. Với các thế
hệ người Việt Nam lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa đạo lý trở thành một tình cảm tự nhiên.
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
-Sự tinh tế trong ứng xử: thể hiện trên các bề mặt sinh hoạt vật chất và sinh hoạt tinh thần. Chính
cuộc sống đầy khó khăn và ít thay đổi của nền sản xuất nông nghiệp đã tạo nên con người Việt Nam có
đức tính giản dị, khiêm tốn, thẳng thắn thật thà, coi trọng bản chất ghét thói xu nịnh với quan niệm “Tốt
gỗ hơn tốt nước sơn”. Người trong làng ứng xử với nhau theo lối tình cảm “Một bồ cái lí không bằng một
tí cái tình”, kính già, yêu trẻ, quý trọng phụ nữ. Hàng xóm láng giềng sống cố định trong cộng đồng lâu
dài với nhau, người Việt Nam quý trọng sự hòa thuận, lấy tình nghĩa làm đầu.
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội của nền sản xuất nông nghiệp còn quy định thái độ dung
hòa mềm dẻo trong tiếp nhận. Trong lịch sử, dân tộc Việt Nam sống bên cạnh những quốc gia có nền văn
minh lớn lâu đời, để giữ được những nét riêng của dân tộc con người Việt Nam sớm biết giao tiếp ứng xử
một cách mềm dẻo, chọn lọc, những giá trị nhân loại một cách tài tình làm phong phú thêm bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam. Học người nhưng không hoàn toàn rập khuôn theo người mà phải “dân tộc hóa”
những điều được học. Chính vì thế mà dân tộc ta đã tiếp thu được những giá trị tinh hoa của nhân loại,
góp phần làm giàu thêm bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam.
Trong ứng xử với thiên nhiên, con người Việt Nam luôn gắn bó với thiên nhiên như máu thịt của
mình, để vào đó cả tâm huyết và tài năng, con người Việt Nam đã tạo môi trường thiên nhiên của mình
thành Tổ quốc thiêng liêng mà đời này qua đời khác tiếp nối nhau kiên quyết bảo vệ.
Những đặc trưng của văn hóa ứng xử gồm “lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý… sự
tinh tế trong ứng xử…” [27, tr 56] như đã nêu ở trên tuy chưa phải là tất cả, nhưng đó chính là “những giá
trị trường tồn của dân tộc, những nét chủ yếu, những nét nổi bật nhất” [27, tr 23] trong văn hóa ứng xử
của dân tộc Việt Nam được thể hiện rõ nét trong tất cả các bình diện cuộc sống bộc lộ rõ ràng tâm lý, tình
cảm, suy nghĩ, cách thức thích nghi trong các mối quan hệ với môi trường xã hội, môi trường tự nhiên,
giữa người với người. Trong suốt chiều dài lịch sử văn hóa ứng xử dân tộc, kể cả khi ứng phó lẫn thích
ứng với các môi trường trong tự nhiên, xã hội, gia đình… người Việt bao giờ cũng bộc lộ những nét độc
đáo và riêng biệt trong văn hóa ứng xử của mình.
1.2. Văn hóa ứng xử tiếp hợp nhiều yếu tố văn hóa ngoại lai
Giao lưu và tiếp xúc văn hóa là một hiện tượng tất yếu của con người trong quá trình ứng xử. Giao
lưu văn hóa bao gồm các hiện tượng mà các nhà nghiên cứu văn hóa gọi là “trao đổi văn hóa” hoặc “đan
xen văn hóa” hoặc “tiếp biến văn hóa”. Quá trình này làm biến đổi và phong phú nền văn hóa của mỗi
cộng đồng dân tộc, của mỗi quốc gia. Người Việt Nam cũng có hiện tượng giao lưu và tiếp biến với các
nền văn hóa khác đã được biểu hiện như một quy luật phổ biến.
Văn hóa Việt Nam cũng hòa đồng với văn hóa các dân tộc tôn giáo và văn hóa từ các dân tộc, chế
độ xã hội khác từ bên ngoài vào. Có thể nói hầu như các tôn giáo Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Hồi
giáo… đều là những tôn giáo sớm du nhập vào Việt Nam và ảnh hưởng rộng lớn các tinh thần của người
Việt. Bên cạnh tín ngưỡng bản địa như tín ngưỡng phồn thực, tục thờ Mẫu, thờ Thần, tín ngưỡng sùng bái
tự nhiên, tục thờ cúng ông bà... khi nghiên cứu văn hóa, văn học dân tộc, chúng ta không thể quên những
tư tưởng ảnh hưởng của các tôn giáo ngoại sinh. Các tôn giáo đến Việt Nam đều chuyển hóa cho hòa hợp
với tín ngưỡng bản địa, ảnh hưởng sâu sắc của chúng đến đời sống văn hóa, đặc biệt là văn hóa ứng xử
của người Việt.
1.2.1. Tiếp hợp Nho giáo
Trước hết là sự tiếp nhận những yếu tố Nho giáo nói riêng, văn hóa Trung Hoa nói chung. Văn hóa
Việt Nam tiếp nhận một quá trình Trung Hoa hóa lâu dài và toàn diện. Nước Việt Nam của nhà Triệu
thuộc vào nhà Hán từ năm 110 TCN [50, tr 65]. Ngay từ thời ấy, quan lại Trung Hoa đã thống trị và đem
lễ giáo của họ “khai hóa” cho cư dân các bộ lạc Giao chỉ. Sử cũ nói về việc Nhâm Diêm, Tích Quang dạy
dân Giao chỉ biết lễ nghĩa, lấy vợ lấy chồng theo đúng quy tắc lễ giáo. Dù muốn hay không, tư tưởng Nho
giáo cũng đã là hệ ý thức chính thống hàng ngàn năm của xã hội quân chủ quan lại Việt Nam. Tinh thần
thực tiễn đó đã bộc lộ khi người Việt tiếp thu văn hóa của tôn giáo nước ngoài, đó là khuynh hướng giao
tiếp hỗn dung văn hóa theo khuynh hướng Việt hóa chứ không phải là Hán hóa. Do đó, truyền thống văn
hóa Nho gia vẫn còn lưu giữ đậm nét trong văn hóa ứng xử của người Việt.
Văn hóa Nho gia là một loại văn hóa của chủ nghĩa đạo đức phổ biến, bản chất của học thuyết Nho
gia là một triết học, đạo đức luân lý gốc tu dưỡng tâm tính. Trong cuộc sống hiện thực, bên ngoài Nho gia
là quy phạm lễ nghĩa, bên trong là đức tính nhân ái và trật tự đẳng cấp khác nhau suy từ mình đến người,
có sức duy trì quan hệ tam cương (vua – tôi, cha – con, vợ - chồng), ngũ thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín)
và sự nương nhờ nhau của con người trong xã hội nông nghiệp, với nền kinh tế tự cung tự cấp của truyền
thống, khiến cho người Việt sống có tình có nghĩa. Người Việt thích tình cảm tự nhiên như trọng hiếu,
quý hòa, bổn phận, phụng thờ, thịnh hành nguyên tắc danh phận, chủ nghĩa uy quyền… Tất cả những điều
này chịu ảnh hưởng từ các phạm trù lễ giáo của Nho gia: trung, hiếu, tiết, nghĩa…
Chính hệ ý thức Nho giáo được các nhà Nho Việt Nam tiếp thu qua sách vở, trường học rồi sau đó
được truyền bá lưu truyền rộng rãi trong dân chúng. Vì thế, đạo Nho trở thành một phần truyền thống văn
hóa Việt Nam, có ảnh hưởng đậm nét trong thế ứng xử của người Việt.
Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử sau đó học thuyết này được phát triển bởi các nhân vật kế
tục như Mạnh Tử, Tuân Tử… Tư tưởng của Khổng Tử là thuyết định mệnh, ông nói: “Người quân tử chỉ
có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ vương công đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân”[21, tr 67]. Cái sợ đầu
tiên của con người là “mệnh trời”, vì trời quản lý cuộc sống trần thế của con người, con người may hay
rủi, vui hay buồn, giàu hay nghèo, họa hay phúc... tất cả đều do “mệnh trời” định. Trời quyết định mọi số
phận và chi phối mọi quá trình xã hội, mỗi người đều phải biết kính sợ trời dù trời có vẻ xa xôi, “mệnh
trời” có vẻ trừu tượng nhưng thân phận con người thì rất cụ thể.
Thân em thì trắng, phận em tròn. (Hồ Xuân Hương)
Phẩm chất cá nhân không thể cứu nổi cái số phận đã an bày trong mạng lưới thiên la địa võng trời
định. Mọi bất công nghiệt ngã của con người trần thế, biết đấy mà như không, vì thế con người bằng cách
quy tội cho “mệnh trời”.
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao (Nguyễn Du)
Trời của người Việt có khác, tục thờ ông Thiên ông Địa là của người Trung Hoa, Đàn Nam Giao tế
trời, Đàn xã tắc tế đất của nhà vua. Người Việt không thờ một ông trời mà thờ nhiều bà trời, trời của
người Việt không trừu tượng mà rất gần gũi. Trời là mưa nắng như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện phù hộ độ trì cho con cháu tai qua nạn khỏi, ăn nên làm ra, trời gần gũi và thực tế.
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng. (Ca dao)
Như vậy, trời chưa phải là to tát nhất “Nhất vợ nhì trời” hơn nữa con Cóc là cậu ông trời. Người
nhà trời có thể trừng phạt không tương tiếc.
Bắc thang lên hỏi ông trời
Bắt ông nguyệt lão đánh mười cẳng tay. (Ca dao)
Nhiều tục lệ và trò chơi trông lễ hội cầu mưa cho thấy quan niệm “có đi có lại mới toại lòng nhau”
trong mối quan hệ giữa trời và người. Vì vậy, người Việt không lệ thuộc tuyệt đối vào mệnh trời, ý thức
rất rõ người là hoa của đất, con người làm chủ số phận của mình.
Số cô không giàu thì nghèo
Ba mươi tết có thịt treo trông nhà
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông
Số cô có vợ có chồng
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai. (Ca dao)
Khổng Tử rất quan tâm đến đạo đức chủ trương dùng đạo đức để giữ gìn kỷ cương xã hội. “Khổng
Tử đề cập đến nhiều mặt nhân, lễ, nghĩa, trí, tín… nhưng nhiều nhất là chữ “nhân”. Hạt nhân của học
thuyết Khổng Tử là nhân ái, có thể nói Khổng Tử là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đề cập đến con
người (trên bình diện đạo đức chứ không phải trên bình diện nhân quyền). Khi phát hiện ra con người,
Khổng Tử cũng phát hiện ra nhân ái, phát hiện ra sức mạnh của đạo đức. Theo ông cốt lõi của nhân ái là
hiếu đễ cái gốc của nhân ái. Môi trường sống hiếu đễ là gia đình, gia đình không còn thì hiếu để chẳng ra
gì”[21, tr 68]. Nho giáo xem gia đình là một trong ba khâu không thể thiếu trong hoạt động của con người:
tu thân, tề gia, trị quốc.
Trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, nhân dân ta biến quan niệm cứng nhắc áp đặt của Nho giáo
thành các quan niệm gần gũi, giản dị trong đời sống thường ngày. Có nhiều yếu tố Nho giáo biến đổi cho
phù hợp truyền thống văn hóa Việt Nam. Vì trọng tình nghĩa nên khi tiếp nhận Nho giáo, người Việt tâm
đắc với chữ “nhân” hơn cả. Nhân là tình thương Thương người như thể thương thân, thấy đói rách thì
thương… Nhân còn gắn liền với nghĩa Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo, Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
(Nguyễn Trãi)…
Người Việt thích tình cảm tự nhiên: tình nghĩa, trọng hiếu, quý hòa… Tất cả những điều này chịu
ảnh hưởng từ các phạm trù lễ giáo của Nho gia: trung, hiếu, tiết, nghĩa…
- Chữ “trung”: Với Nho giáo trời là vua, trời đã nhường ngôi trị vì hạ giới cho con và vị hoàng đế
con trời ấy nắm quyền lực thống nhất toàn diện và tuyệt đối. “Đến xã hội có giai cấp song song với việc
xuất hiện Nhà nước và ông vua của quốc gia nô lệ, quyền lực tối cao của ông vua ấy cũng đã phản ánh vào
tôn giáo, tạo nên ông thần duy nhất và tối cao đó là đế hay thượng đế” [11, tr 88]. Vua “ban” chết là phải
chết, đội ơn mà chết, người Việt nhìn nhận một ông vua thẳng thắn và sòng phẳng hơn nhiều “Được làm
vua thua làm giặc”. Vì vậy, người Việt hiểu “trung quân” gắn với “ái quốc” nghĩa là trung với nước chỉ
có Tổ quốc là thiêng liêng. Vì trung với Tổ quốc nên khi quyền lợi của vua không đi cùng quyền lợi của
dân, của nước thì bề tôi có quyền nghe theo vua. Sử sách vẫn còn ghi câu nói bất hủ của danh tướng Trần
Quốc Tuấn: “Nếu bệ hạ muốn hàng thì hãy xin chém đầu thần trước đã”. Toàn bộ cách cai trị, cái thể chế
xã hội quân chủ của Nho giáo hầu như đã được định sẵn sách trời ấy, người Việt sẵn sàng xếp vào hàng
thứ hai “Phép vua thua lệ làng”. Chỗ khác nhau cơ bản ở đây là với những khái niệm: Trung, Hiếu, Tiết,
Nghĩa Nho giáo thiêng về trật tự xã hội, còn người Việt thiêng về mối quan hệ tình nghĩa giữa con người
với tự nhiên và con người với xã hội.
- Chữ “hiếu” của Trung Hoa ngoài hiếu với cha mẹ, gia tộc các thành viên con cháu không còn
hiếu với ai nữa. Chữ “hiếu” qua tâm thức các trí thức phong kiến Việt Nam là hiếu với dân, với nước. Ấy
là khi Nguyễn Phi Khanh khuyên dặn người con trai hiếu thảo Nguyễn Trãi đừng vì chữ hiếu hẹp hòi mà
khép mình lẽo đẽo theo cha mà hãy quay về lo “Trả thù cho cha, rửa nhục cho nước đó mới chính là đại
hiếu”. Có “đại hiếu” tức là cái đối lập với nó là “tiểu hiếu”, giữa “tiểu hiếu” và “đại hiếu” tri thức Việt
Nam chọn “đại hiếu”.
- Chữ “tiết” của phong kiến Trung Hoa nhất nhất buộc người phụ nữ, trong mọi hoàn cảnh, phải
“chính chuyên” phải một người chồng. Nho giáo là một thế lực siêu hình áp chế con người, biến con
người tự nhiên thành con người chức phận xã hội, hy sinh hạnh phúc cho nghĩa vụ Nho giáo, nhập nhằng
các khái niệm chính trị, đạo đức với tín ngưỡng biến thành một thứ lưới trời ràng buộc con người mà phụ
nữ chính là nạn nhân đau khổ nhất.
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.(Nguyễn Du)
Biết bao nhiêu người phụ nữ đã phải làm vật hy sinh để nêu cao những chuẩn mực xã hội như
những luật của Nho giáo. Chế độ phong kiến Việt Nam (bộ luật Hồng Đức) đưa ra điều luật để giải phóng
phụ nữ khỏi sự ràng buộc của những ông chồng “phạm trọng tội”, chính phụ nữ là những lực lượng phản
kháng quyết liệt nhất, sự phản kháng có khi thái quá, có vẻ như phá bỉnh, nhưng lại là sự hạ bệ hữu hiệu,
điều đó thể hiện rất rõ trong ca dao.
Trăm năm trăm tuổi trăm chồng
Phải duyên thì lấy, chẳng ông tơ hồng nào xe
Chính duyên lấy được chín chồng
Vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi
Không ngờ quang đứt lọ rơi
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng.(Ca dao)
Nho giáo rất xem thường phụ nữ nhất nam viết nữ, thập nữ viết vô, ngay cả Khổng Tử cũng cùng
quan điểm chỉ có phụ nữ và kẻ tiểu nhân là khó dạy nhất, gần họ thì họ nhờn, xa họ thì họ hờn. [21, tr 69].
Tuy vậy, người Việt lại bác bỏ quan niệm này.
Ba đồng một mớ đàn ông,
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.
Ba trăm một mụ đàn bà,
Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi. (Ca dao)
-Chữ “nghĩa”: Khi Nho giáo vào Việt Nam, nó đã được làm mềm đi bằng truyền thống dân chủ của
nền văn hóa nông nghiệp và đạo thờ Mẫu của người Việt. Chính vì thế mà trong tư tưởng người Việt Nam
vẫn đề cao vai trò người phụ nữ. Người phụ nữ là “nội tướng” tay hòm chìa khóa “lệnh ông không bằng
cồng bà” là người tổ chức cuộc sống vật chất thường ngày của cha mẹ chồng và chồng con. Không chỉ
vậy, người phụ nữ là “cột cái” là điểm tựa hạnh phúc gia đình. Người cha gầy dựng cơ nghiệp, tài sản
“công cha” lớn lắm nhưng vẫn có thể đo đếm được, “nghĩa mẹ” là khôn cùng. Chính mẹ là người để phúc
đức cho con cái “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Lý thuyết Nho giáo khoát thêm uy lực cho trật tự thế quyền, từng hấp dẫn mọi nhà nước chuyên
chế phương Đông. Nhưng Nho giáo đến với Việt Nam đặc biệt là người phụ nữ phải chịu nhiều biến đổi
đã trở thành những yếu tố văn hóa Việt Nam. Cơ chế ấy là quy luật chung cho mọi yếu tố văn hóa ngoại
nhập.
1.2.2. Tiếp hợp Phật giáo
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu Công nguyên, phát triển mạnh mẽ và trở
thành quốc giáo thời Lý – Trần. Vào Việt Nam chủ yếu là Phật giáo Đại thừa (ở phía Bắc) và muộn hơn là
Phật giáo Tiểu thừa (ở phía Nam). Phật giáo ở Việt Nam theo hai dòng dân gian và cung đình. Dòng Phật
giáo cung đình ở Việt Nam gắn với thời Lý – Trần làm nảy sinh một bộ phận văn học, bác học. Đến với
thời kỳ sau những chữ nghĩa gốc từ Phật như khổ, nghiệp, nhân, quả, từ bi, kiếp, duyên… cũng thường
gặp trong sáng tác của nhiều nhà văn cổ điển chủ yếu là đệ tử của Nho học. Thực chất đạo Phật là có
nhiều học thuyết Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Nhị thập nhân duyên, những học thuyết này đã chinh phục
được người Việt Nam không phải ở lý thuyết cao siêu mà ở lòng thương người bao la của Phật Tổ và
những chuẩn mực khuyên con người tu nhân, tích đức, làm điều lành, tránh điều ác. Ở Việt Nam, Phật
giáo ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân và trở thành nếp sinh hoạt văn hóa ứng xử của người
Việt.
Có thể nói trong tâm hồn của người Việt Nam đều chứa đựng ít nhiều yếu tố nhà Phật và hình ảnh
về ngôi chùa. Nếu không gian đền cơ bản là chốn linh thiêng, đình là nơi tôn nghiêm thì chùa trong con
mắt người Việt là cái đẹp trong cảnh làng quê.
Muốn cho gần chợ bán mua,
Gần sông tắm mát gần chùa nghe chuông.(Ca dao)
Việt Nam cũng có rất nhiều chùa chiền mọc lên khắp nơi, Nguyễn Dữ cũng viết trong Truyền kỳ
mạn lục, Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Triều “các chùa như Hoàng Giang, Đông Anh, An Sinh,
Yên Tử, Phổ Minh, Ngọc Thanh… dựng lên nhan nhãn khắp nơi… Nhất là huyện Đông Triều… Chùa
chiền dựng lên, làng xóm có đến mươi chùa, làng nhỏ cũng có chừng năm, sáu, ngoài bao bằng lũy, trong
tô bằng vàng son”.
Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt có nhiều lễ hội, mà lễ hội chùa chiếm tỉ lệ cao hơn hết.
-Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về…
-Nhớ ngày mùng bảy tháng ba,
Trở về hội Giống, trở ra hội Thầy.
-Dù cho cha mẹ đánh treo
Em không bỏ hội chùa keo hôm rằm…
Từ khi du nhập vào Việt Nam, người Việt tiếp nhận Đạo Phật không phải tiếp nhận một hệ thống lý
thuyết phức tạp, sâu sắc về cuộc đời là bể khổ mà những nguyên nhân của nỗi khổ nằm ngay trong chính
bản chất ham sống của con người, trong những khát vọng trần tục của họ, rằng con người giải thoát khổ
đau xa lánh cõi tục, khước từ mọi ham muốn vật chất dường như con đường đến với đức Phật cũng là con
đường của niềm cô đơn và nỗi khổ hạnh. Trái lại người Việt chấp nhận một ông Bụt (trực tiếp chuyển âm
từ Buddha tiếng Phạn) mà không có bà Bụt, khác hẳn sau này rất ít Phật Ông mà rất nhiều Phật Bà, Phật
Mẫu. Vì các vị Phật Ấn Độ vốn xuất thân từ đàn ông, sang đến Việt Nam biến Phật Ông thành Phật Bà.
Ông Bụt của người Việt không phải là ông Tổ của Phật giáo mà là một thần linh tiêu biểu có đức tính hiền
lành, giàu lòng thương người, luôn ở cạnh những người cô thế bất hạnh, bao giờ cũng nghe được tiếng kêu
của con người trần thế, sẵn sàng có mặt giúp đỡ, an ủi bất kỳ ai yếu đuối, nghèo khổ gặp hoạn nạn. Bụt chỉ
có lòng từ bi cứu nhân độ thế, không hề trừng phạt ai, tấm lòng của Bụt thật quảng đại, vị tha mà người
đời gắng noi theo.
Ngay trong truyện cổ tích lâu đời Bụt cũng hiện ra rõ ràng, có ảnh hưởng lớn đến quan niệm sống
và ứng xử của người dân. Đối với người dân, Bụt là một đấng quyền năng siêu phàm nhưng bình dị,
quảng đại. Truyện cổ tích Tấm Cám, Bụt được hình tượng hóa cưu mang, đùm bọc thương người, cứ mỗi
lần cô Tấm hiền lành, bị dì ghẻ và đứa em gái hành hạ thì Bụt hiện ra giúp đỡ, đúng vào lúc cô Tấm tuyệt
vọng chỉ còn biết khóc. Kết thúc truyện Tấm Cám cũng mang tư tưởng Phật giáo của nhân dân thiện thắng
ác, chính nghĩa thắng gian tà… Truyện Cây tre trăm đốt, Bụt hiện ra giúp đỡ anh Khoai thật thà, chất
phác, khi anh Khoai bế tắc trước lời thách cưới của lão phú hộ. Bụt không hóa phép để tạo ra cây tre trăm
đốt và chỉ cho anh chặt những đốt tre rời ghép lại thành câu thần chú “khắc nhập, khắc xuất”… Trong
truyện cổ tích của người Việt, ông Bụt xuất hiện khá nhiều. Có thể nói, quan niệm của nhà Phật, người
dân Việt lưu giữ một điều đơn giản Bụt thần thông quảng đại, thường xuyên giúp đỡ những người hiền
lành.
Người Việt tiếp nhận tư tưởng Phật giáo không biến tụng kinh niệm Phật thành phương thức thỏa
thuận với thần linh. Người Việt trước hết quan tâm đến cuộc sống thực tại ở thế giới bên này sẵn sàng
biến Phật Ông, Phật Bà vào hệ thống phúc thần luôn luôn che chở và phù hộ cho cuộc sống thực tại của
họ. Các yếu tố Phật giáo được tiếp nhận vào văn hóa Việt theo phương thức ứng xử làm giàu cho cuộc
sống tinh thần, làm đẹp hơn quan hệ tình cảm giữa người với người. Một bộ phận khá sớm những từ ngữ,
thuật ngữ, khái niệm của Phật giáo gia nhập vào lời ăn tiếng nói hằng ngày thành phương tiện diễn đạt
quan niệm đạo đức truyền thống của người Việt như cứu nhân độ thế, cứu một người phúc đẳng sa hà, ở
hiền gặp lành, ác giả ác báo, tu nhân tích đức, nhân nào quả ấy, cha mẹ hiền lành để phúc cho con…
không còn là khái niệm nguyên nghĩa lý thuyết Phật giáo mà do sự phù hợp của chúng với lẽ sống của
người Việt, chúng trở thành ngôn ngữ đạo đức thực tiễn, biểu hiện phương thức ứng xử nhân ái, hòa hợp
giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa con người với con người như những giá trị truyền thống
trong văn hóa của người Việt, một nền văn hóa lấy con người và cuộc sống trần thế thực tại của nó làm
mục đích.
Tinh thần đạo Phật còn thấm sâu và trở thành nếp ứng xử trong cộng đồng người Việt: ở nhà hiếu
với cha mẹ, ông bà, đễ với anh chị, kính trên nhường dưới, thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn,
hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau, trong có ấm thì ngoài mới êm…[19, tr 389]
Người Việt luôn đặt chữ hiếu lên trên vì công ơn trời biển của cha mẹ không sao kể hết trong suốt
quá trình dưỡng dục sinh thành, biết bao nhọc nhằn, gian khổ vì con. Chính vì vậy, người Việt coi trọng
truyền thống thờ ông bà, cha mẹ hơn thờ Phật.
Vô chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành.
Thương kính cha mẹ người Việt luôn “khấn nguyện” Phật phù hộ cho bậc sinh thần.
Đêm đêm khấn nguyện Phật trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Thực ra, hiếu tâm tức thị Phật tâm, hiếu hạnh vô phi Phật hạnh, làm trọn bổn phận của người con
đối với cha mẹ chính là một trong những pháp tu nhà Phật.
Chân như đạo Phật rất mầu,
Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân.
Cách nhìn của người Việt về vấn đề tu hành:
-Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
-Con về lập miếu thờ vua,
Đóng trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Cũng từ Phật giáo người Việt còn rút ra việc trao dồi đạo đức.
Thứ nhất là tu tại gia,
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Người Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều về giáo lý từ bi, hỷ xã, bác ái, thương yêu của Phật học.
Tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng, thấm sâu vào tâm hồn và lan tỏa ra thế ứng xử
của người Việt như thương người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách, nhiễu điều phủ lấy giá
gương, người trong một nước phải thương nhau cùng… Đó là những câu nói người Việt nào cũng thuộc
lòng, nói lên tinh thần nhân ái vị tha của người Việt.
Người Việt nhìn nhận tăng ni Phật tử với thái độ yêu mến, cảm thông giữa con người với người
nhiều hơn là kính nể, ngưỡng mộ những kẻ thông giao giữa người với thần linh. Người Việt đến với chùa
chiền, đền, miếu sử dụng một ngôn ngữ cầu cúng như nhau, quan tâm đến mong muốn của mình là chủ
yếu và hiểu rất chung chung về đối tượng cầu khẩn. Hàng loạt tượng Phật quan trọng nhất, phổ biến nhất
là Phật bà Quan Âm không chỉ có trong chùa, mà hiện hữu ở mọi nơi thờ cúng kể cả tại bàn thờ Tổ tiên ở
mỗi gia đình.
Phật giáo làm phong phú thêm ngôn ngữ của người Việt, hội nhập vào phong tục, nghi lễ và diễn
xướng dân gian như các trò chơi múa trống, múa rồng, múa hạc, rước kiệu nữ Thần tranh đua cướp nước,
cầu mưa là nội dung chính của lễ hội. Mặc khác cũng chính văn hóa dân gian là phương thức truyền tải
những yếu tố Phật giáo đã trở thành tín ngưỡng bản địa hóa, thành nếp ứng xử của con người với tự nhiên,
với xã hội và con người làm cho Phật giáo sức sống trường tồn trong văn hóa dân tộc.
1.2.3. Tiếp hợp Đạo giáo
Đạo giáo ở Trung Quốc và ở Việt Nam đã xuất hiện bài bản như một tôn giáo bản địa, trên cơ sở kế
thừa tín ngưỡng dân gian và dung nạp nhiều yếu tố của các trào lưu tư tưởng tôn giáo khác.
Lão Tử được tôn vinh làm giáo chủ của Đạo giáo Trung Hoa. Trong lịch sử hưng thịnh của Đạo
giáo, các triều đại phong kiến Trung Hoa không ngừng gia cố cho uy danh giáo chủ. Ngài được tôn là
Thái Thượng Lão Quân, Thái Thượng Huyền Nguyên Hoàng Đế, rồi Đại Thánh Tổ Cao Thượng Kim
Khuyết Nguyên Thiên Hoàng Đế [87]… Theo Lão Tử, Đạo là gốc cội của vạn vật trong vũ trụ, “sinh ra
trước trời đất, vừa trống không vừa yên lặng, đứng yên một mình mà không biến cải, trôi đi khắp mọi nơi
mà không ngừng, có thể làm mẹ của thiên hạ” (Lão Tử - Đạo Đức Kinh) [87]. Như vậy, Đạo là cái tự
nhiên nó có, Đạo có trước cả thượng đế trời đất – Đạo là cái khởi nguyên của vũ trụ.
Cũng như mọi tôn giáo khác, Đạo giáo xây dựng hình ảnh một kiểu thiên đường cực lạc mời gọi
mọi người, có điều hấp dẫn hơn thiên đường ấy không dành cho người chết mà dành cho người sống. Đạo
giáo khích lệ một cuộc sống thanh cao rũ bỏ những xiềng xích hư danh, trở về cái tự nhiên, kéo dài tuổi
thọ đến trường sinh bất lão. Con người tin vào phép màu mà kiên tâm tu luyện, noi gương chân nhân đạo
sĩ rồi sẽ có ngày đắc đạo. Khát vọng tu tiên chủ yếu dành cho các bậc cao sang quyền quý. Đối với tuyệt
đại đa số nhân dân, niềm tin ấy gởi gắm vào các vị thần tiên cứu nhân độ thế, các vị tiên thần thông quảng
đại, phép thuật diệu kỳ hô mưa gọi gió, sai khiến âm binh chữa bệnh cứu người, diệt trừ ma quỷ, vì cuộc
sống bình an của mọi người mới là nhu cầu thường trực.
Đạo giáo đã tồn tại những câu chuyện từ xa xưa còn lưu trong dân gian chuyện chàng Từ Thức gặp
tiên kết duyên vợ chồng, hoặc chuyện vua Lê Thánh Tông đi lễ chùa Ngọc Hồ gặp tiên nữ vua mời tiên
lên xe về cung, đến cửa Đại Hưng tiên bay lên trời biến mất, vua cho lập Vọng tiên lâu (Lầu ngóng tiên)
nay vẫn còn di tích ở Hà Nội, chuyện chàng Vương Chốt lên núi Tiên Du (Bắc Ninh) mãi xem tiên đánh
cờ, hết ván cờ quay lại cán búa bị mối xông mọt mất, chiều quay về nhà thì con cháu không còn ai nữa, ý
nói đến một ngày trên tiên bằng trăm năm dưới trần… thể hiện sự tiếp xúc phù hợp với Đạo giáo của tín
ngưỡng dân gian Việt Nam.
Người Việt cũng có một vị Đạo tổ thần tiên riêng mình, nhưng đạo phổ biến là đạo phù thủy. Thầy
phù thủy cao tay ấn, tinh thần pháp thuật trừ tà diệt quỷ vì nhu cầu an sinh phần hồn tuyệt đại đa số người
bình dân.
Vị Tổ Đạo của người Việt cũng bình dị, Chử Đồng Tử rất mực cần cù chăm chỉ, hiếu thảo, gia đình
nghèo đến nỗi hai cha con chỉ có một cái khố. Khi cha chết “người con không đan tâm để cha thân trần,
lấy khố quấn cho cha trước khi chôn”, còn mình đành ở trần chịu rét. [43]. Hợp với ước mơ của người
Việt ở hiền gặp lành, Chử Đồng Tử hoàn toàn đổi đời sau khi lấy vợ. Có điều, mối nhân duyên của hai
người đúng như Tiên Dung nói hẳn là do “ý trời”. Bởi Chử Đồng Tử là con của sông nước, cũng là nòi
thủy tộc có quan hệ thuyết thống với Lạc Long Quân. Còn Tiên Dung là con vua Hùng Vương, là nòi tiên
vốn sinh sôi nẩy nở từ 50 người con từ mẹ Âu Cơ. Thì ra, Tổ Đạo của người Việt có gốc gác nòi giống
Tiên Rồng. Đạo Tổ của người Việt là người lập công, lập nghiệp mà còn có cứu dân, cứu nước. Pháp thuật
của Chử Đồng Tử là cứu người chết sống lại bằng cách viết lên giấy những chữ màu đỏ rồi đốt thành tro
hòa vào nước là thành “thuốc thánh” chữ bách bệnh. Ngoài ra, Chử Đồng Tử có công khai phá đầm lầy
thành cánh đồng tươi tốt, trồng dâu, trồng tằm, dệt vải, phát triển ngành nghề đặc biệt là nghề buôn.
Người Việt đã biết tiếp nhận và linh hoạt biến đổi tư tưởng văn hóa ngoại sinh trên thành cơ sở
những tín ngưỡng bản địa. Đạo giáo trở thành đối tượng ứng xử cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, đa số
người Việt tự ý thức mình là người có Đạo, một thứ đạo làm người xử thế.
Thà đui mà giữ đạo nhà,
Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ. (Nguyễn Đình Chiểu)
Đạo của người Việt đơn giản vì chính cuộc sống, với tất cả cái thiện và cái ác, cái đẹp với cái xấu,
hạnh phúc và đau khổ, vốn có của Đạo giáo đã dạy cho người Việt. Niềm “cực lạc” của người Việt thật
đơn giản và thực tế.
Ăn chi ăn chẳng cơm lòn,
Vui chi chẳng kẻo vợ con ở nhà. (Ca dao)
“Cơm lòn” là cơm gạo tẻ, từ cây lúa nước. Xum vầy với vợ con hạnh phúc gia đình là niềm an lạc
của người Việt.
Trong thế ứng xử xã hội, người Việt tin những phép thuật, những quyền lực siêu nhiên người chết
có thể giao tiếp với người sống, linh hồn người chết cần được cầu cúng lập đàn giải oan, có những phép
thuật linh nghiệm có thể cứu giúp con người... Tất nhiên Đạo giáo nguyên thủy với tư cách là một triết lý
sống ít được người Việt biết đến. Đạo giáo đến với người Việt, từ vị trí là thành tố ngoại lai, Đạo giáo hội
nhập một cách tự nhiên với đời sống văn hóa dần trở nên khác hẳn Đạo gốc của Trung Quốc. Người Việt
nhà nào cũng có bàn thờ, cũng nhang đèn hương khói, cũng có lúc cần đến thầy chùa, thầy pháp để xin
xăm, làm gì thì làm nhưng tin hay không lại là chuyện khác. Tục ngữ ca dao không hiếm những câu:
Hòn đất mà biết nói năng,
Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn.
Phép thuật của thầy phù thủy cũng thật oái oăm:
Chập chập cheng cheng,
Con gà trống thiến để riêng cho thầy.
Đơm xôi thì đơm cho đầy,
Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng.
Tỉnh táo đến thực dụng như một ứng xử bắt buộc, xuất phát từ đời sống thực tế, người Việt không
đặt niềm tin tuyệt đối vào những kẻ buôn thần bán thánh, họ nhận diện rất rõ thực lực của những pháp sư
đạo sĩ này.
Nhà này có quái trong nhà
Có con chó đực cắn ra đằng mồm.
Điều đó không có nghĩa người Việt sống hoàn toàn vào thuần lý, từ xa xưa người Việt đã xây dựng
một hệ thống thánh thần đầy uy nghiêm của mình. Từ Phật Bà Quan Âm đến Chử Đồng Tử, từ Thánh
Mẫu Liễu Hạnh đến Đức Thánh Trần, tuyệt đại đa số thần linh của người Việt có hai đặc điểm cốt lõi.
Thứ nhất, các thần linh người Việt đều liên quan đến nòi giống tổ tiên, là sự biểu hiện thiêng liêng
của Tiên, Rồng.
Thứ hai, các thần linh của người Việt không lập ngôn, lập danh mà cơ bản lập công, lập nghiệp góp
phần vào sự nghiệp dựng nước, giữ nước.
Đạo giáo Việt Nam, không phát triển theo chiều hướng hình thành một thế giới thần linh mà khống
chế thế giới cái tục, hy sinh cuộc sống thực tại, kiếp này hy sinh cho cuộc sống kiếp sau. Người Việt
không chấp nhận thái độ bi quan yếm thế, bất lực và cam chịu “tư tưởng lạc quan là một đức tính truyền
thống lớn của dân tộc ta” [29, tr 225]. Lạc quan và thực tế, thích ứng hài hòa với môi trường tự nhiên và
thương người như thể thương thân, người Việt tìm nguồn vui cá nhân trong hòa thuận cộng đồng, không
cố chấp về lý mà nể nhau về lẽ, lấy nghĩa làm cốt lõi của tình, lấy thương làm cốt lõi của yêu. Quán xuyến
liên hệ của hiện tại với quá khứ và tương lai trong vận mệnh của cá nhân và của cộng đồng, lấy cuộc sống
hiện hữu làm điểm xuất phát.
Tiểu kết: Chính sự tiếp biến ba tư tưởng lớn Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo Việt Nam vẫn dung hòa
và phát triển từ đó cùng hình thành văn hóa ứng xử. Trong đó, sự dung hòa giữa Phật giáo và Đạo giáo là
mối quan hệ bền chặt và lâu đời nhất. Ngay từ đầu công nguyên Phật giáo đã được tín ngưỡng cổ truyền
tiếp nhận, liền sau đó là Đạo giáo và cuối cùng là Nho giáo tất cả tạo thành quan niệm Tam giáo đồng
nguyên (ba tôn giáo cùng phát nguyên từ một gốc) và Tam giáo đồng quy (ba tôn giáo cùng quy về một
mục đích). Ta gặp trong thực tế một thứ tôn giáo không thuần nhất đã luôn luôn dung hòa với tư tưởng âm
dương Phật, Đạo lại kết hợp với tín ngưỡng tập quán, tư tưởng địa phương nên khi tác động đến đời sống
của Việt Nam thì sắc thái Nho giáo của nó không còn nguyên vẹn mà đậm nhạt khác nhau [36, tr 28]. Vấn
đề Tam giáo đồng nguyên ở Việt Nam đã bị khúc xạ nhiều so với nguồn gốc để trở thành một thứ tôn giáo
bản địa, tôn giáo dân gian. Trước hết phải nói rằng các Đạo giáo là tôn giáo vào Việt Nam mang tới cho
đời sống của con người Việt Nam nhiều phần an ủi hơn là các tín đồ gay gắt như ở cội nguồn Ấn Độ và
Trung Quốc. Các nghi lễ thần bí của Đạo giáo cũng như các giáo chủ về một ông Phật, một ông Tiên, về
cuộc đời con người về thiên đường địa ngục rất mơ hồ. Ở Việt Nam các tôn giáo chưa kịp đúc kết thành lí
luận thì được dân gian hóa một thứ tôn giáo tình yêu, tình thương con người. Cái lý thuyết từ bi, hỷ xã,
bác ái, thương yêu là bình đẳng lẫn nhau, và đặc biệt là cái lý thuyết cho rằng tất cả các chúng sinh thành
Phật đã được một dân tộc từ nông dân đến bậc vua chúa lắng nghe và tin tưởng. Đạo Phật – Lão – Nho ở
Việt Nam mang tính nhân dân nhờ đó tâm hồn con người không bị sự hư vô và hủy diệt mà ngược lại nó
là một thứ tôn giáo đầy tình thương và đầy lạc quan hy vọng [35, tr 18 -19].
Tín ngưỡng tôn giáo từ khi du nhập vào Việt Nam ít nhiều trở nên bình dị theo phương châm tốt
đời đẹp đạo như ở Thiên chúa giáo. Nho giáo với bộ khung khái niệm thể hiện trong đạo tam cương, ngũ
thường đã có vai trò liên kết xã hội, xây dựng một xã hội kỷ cương, trọng các điều nhân nghĩa và đạo
trung tín. Đạo Phật chinh phục người nông dân Việt Nam không phải ở lý thuyết cao siêu của nó như: Tứ
diệu đế, Bát chính đạo, Nhị thập nhân duyên mà ở lòng người bao la của Phật Tổ, ở ngũ giới tức là những
chuẩn mực khuyên người ta tu nhân, tích đức, làm điều lành, tránh điều ác. Còn Đạo giáo được giới trí
thức xưa tiếp nhận vì nó khuyên người ta sống với lẽ đời, tức là hợp với quy luật của tự nhiên và xã hội.
Người Việt nhận thấy rằng, Nho – Phật – Đạo giáo lúc đầu có vẻ khác nhau, nhưng nhìn kỹ chỉ là một
cách diễn đạt khác nhau về khái niệm vì thế người Việt cần đến cả ba tôn giáo và sử dụng kết hợp chúng
với nhau, hòa quyện chung một cách hợp lý và sâu sắc trong văn hóa ứng xử của mình.
Trên đây là những vấn đề có tính khái quát về văn hóa ứng xử của người Việt trong quá trình tiếp
biến và dung hợp nhiều yếu tố văn hóa ngoại lai của các tôn giáo như Nho – Phật – Đạo giáo, đó là những
tiền đề nghiên cứu của người viết trong quá trình thực hiện đề tài.
Chương 2: NGUYỄN DU VÀ THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
2.1. Nguyễn Du
2.1.1. Thời đại Nguyễn Du
Nguyễn Du sống trong một thời đại vô cùng rối ren của nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ
XIX. Bức tranh toàn cảnh xã hội Việt Nam thời Lê mạt – Nguyễn sơ đầy rẫy những biến động, chế độ
phong kiến tập quyền ngày càng lộ rõ những ung nhọt, càng lún sâu hơn những căn bệnh trầm tra. Chiến
tranh, cát cứ và phân quyền giữa các tập đoàn phong kiến trung ương không khác nào một nạn dịch lớn.
Đặc biệt là cuộc đối đầu giữa hai dòng họ đó là họ Trịnh ở Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong kéo
dài hơn hai thế kỷ (từ năm 1570 đến 1786). Đất nước rơi vào cảnh Nam Bắc chia cắt, vừa có vua lại vừa
có chúa, năm bè bảy mối tranh quyền đoạt lợi, chém giết lẫn nhau.
Toàn thể bộ máy thống trị phong kiến từ trung ương đến địa phương đều suy đồi. Việc nước các
chúa thâu tóm hết mình, vua chỉ là bù nhìn nhu nhược, vô tích sự. Ngay cả khi bảo vệ mạng sống cho con
trai mình trước những thủ đoạn ám muội, bịa đặt, vu cáo rồi xử tội chết từ chúa Trịnh Sâm, Lê Hiển Tông
chỉ biết khóc lóc thở than. Nói đến Lê Chiêu Thống chỉ biết bám lấy ngai vàng, y đã không ngần ngại
“rưới voi về giày mả tổ” mà còn “mắt ngơ tai điếc” để cho giặc tàn hại đất nước.
Với những ông vua như vậy trách chi bọn dưới quyền đều vô dụng, hèn nhát. Cả hệ thống quan lại
chỉ biết hưởng bổng lộc từ vua nhưng có mấy ai dám nhận trách nhiệm khi quốc gia hữu sự. Không có gì
là lạ khi trong số quan lại đó mấy ai được tuyển chọn để tìm ra những người có tài, có đức. Việc mua bán
thi cử, mua quan bán tước đã chặn ngang con đường tiến thân, giúp nước của các nhân sĩ có tài lại xuất
thân từ tầng lớp nghèo. Trong khi đó, bọn người giàu bất tài lại tranh nhau nộp tiền cố gắng xoay xở làm
quan để mưu cầu lợi ích riêng. Quan tước của triều đình là một món hàng có thể trao đổi mua bán. Chính
vì vậy, nhân dân có câu vè:
Đô đốc tam thiên đô đốc
Chỉ huy bát vạn chỉ huy
Trung úy, vệ úy kể làm chi
Cai đội, phó đội lấy tàu mà chở
Mười quan thì đặng tước hầu
Năm quan tước bá, ai nào kém ai.
Bất tài, hèn nhát nhưng chúng lại thẳng tay tăng cường áp bức, bóc lột, vơ vét sạch của cải nhân
dân để phục vụ cho cuộc sống xa hoa, trụy lạc. Chúa thì “phàm bao nhiêu những loại trân cầm dị thú, cổ
mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian đều thu lấy không thiếu một thứ gì” [34, tr 12].
Quan thì “chỉ tối mắt ăn của đút gây thói gian tham, lại còn những thói dâm bôn vô sỉ ” [34, tr 64], “con
cháu họ hàng nhà chúa lại mạnh thế làm càng” [34, tr 120], mượn danh đục khoét, khấy nhiễu nhân dân,
không từ việc gì.
Đầu thế kỷ XIX, từ khi Gia Long lên ngôi vua, giai cấp thống trị phong kiến ngày càng phản động
hơn trước. Triều Nguyễn từ Gia Long, Minh Mạng đến Thiệu Trị, Tự Đức đã ra sức xây dựng chế độ quân
chủ chuyên chế đến mức cực đoan nhằm bảo vệ quyền hành tuyệt đối của mình, thậm chí rập khuôn của
triều đại Mãn Thanh, từ pháp luật, tổ chức chính quyền đến giáo dục, thi cử... đã có bao mệnh lệnh, luật
pháp khắc nghiệt phản dân, hại nước mà đến nay dân gian còn truyền lại đầy đủ bao nỗi oán thán bi
thương.
Mười lăm năm đức chính có ghi
Kho hình luật vẽ nên hùm có cánh
Ba mươi tỉnh nhân dân đều oán
Tiếng oan gào kêu dậy đất không lung.
Cai trị thì khắc nghiệt, vua chúa sống xa hoa phung phí không đời nào bằng, trong khi đó cuộc
sống của nhân dân cơ cực.
Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính hào đào máu dân.
Kinh tế đất nước từ đó bị suy sụp, nhân dân cơ cực thuế khóa nặng, quan lại tham nhũng, cường
hào áp bức. Thêm vào đó, hạn hán lụt lội, dịch bệnh đã làm cho làng xóm tiêu điều, xơ xác, dân phải bỏ
xứ phiêu tán, chết dần chết mòn trên các nẻo đường lưu vong. Nạn đói lan tràn, “Việt sử thông giám
cương mục” còn ghi lại cảnh tượng “Dân lưu vong bồng bế, dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường… Người
chết đói ngổn ngang, người sống không còn một phần mười. Làng nào có tiếng là trù mật cũng chỉ còn
năm ba hộ mà thôi”[3, tr 6].
Xã hội phong kiến Việt Nam lúc này thực sự bế tắc, đã đi vào con đường tự sụp đổ không gì cứu
vãn nổi. Giai cấp thống trị ngày càng tự đào hố chôn mình, giai cấp bị trị đi vào con đường bần cùng khốn
khổ. Trước tình hình đó, mâu thuẫn giữa hai giai cấp trở nên gay gắt. Người dân không chịu đựng nổi
cuộc sống như cũ. Mọi tầng lớp nhân dân đều mong muốn có một sự thay đổi cuộc sống của mình. Họ chỉ
có một con đường duy nhất là nổi dậy chống chính quyền phong kiến, đòi quyền sống, trước hết họ đòi
cơm ăn áo mặc.
Phong trào khởi nghĩa nông dân được tích tụ lâu nay khơi nguồn trong hoàn cảnh ấy. Chính vì vậy,
các cuộc khởi nghĩa của nông dân liên tiếp nổ ra, ngày càng nhiều hơn và quy mô rộng lớn hơn. Đó là
cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ (Hải Dương), Hoàng Công Chất (Sơn Nam), Nguyễn
Danh Phương – quận Hẻo (Sơn Tây)… Cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (Quận He) đã từng tham gia
với Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ khi phong trào thất bại, ông lại tập hợp lực lượng lớn hơn và lấy khẩu
hiệu “Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo” cuộc khởi nghĩa ở Hải Phòng thắng lợi, sau đó đến Hải
Dương, rồi từ Hải Dương lên Kinh Bắc, uy hiếp thành Thăng Long trước khi xuống Sơn Nam và vào đến
vùng Thanh Nghệ.
Phong trào nông dân ngày càng mãnh liệt, kéo dài liên tục từ miền xuôi đến miền ngược, từ Bắc
đến Nam, chỗ nào suy yếu chỗ khác bùng lên, kế tục nhau. Triều đình thẳng tay đàn áp dùng mọi cực hình
để chống trả nhưng phong trào vẫn tiếp tục sôi nổi, lan tràn khắp mọi nơi. Riêng triều Nguyễn lớn nhỏ có
đến 500 cuộc nổi dậy. Phong trào đã được sự ủng hộ của nhiều tầng lớp nhân dân, đông đảo là nông dân,
rồi thương nhân, thợ thủ công đến cả nhà nho nghèo, đứng đầu là những người yêu nước, thương dân có
học.
Đỉnh cao của phong trào nông dân khởi nghĩa là phong trào Tây Sơn, bùng nổ năm 1771. Phong
trào này cùng một lúc đã đánh tan hai tập đoàn phong kiến phản động trong nước và hai cuộc xâm lược
của ngoại bang Xiêm và Mãn Thanh, góp phần không nhỏ trong việc thực hiện thống nhất đất nước. Sau
khi thành công Nguyễn Huệ lên ngôi, bắt đầu công cuộc khôi phục nước nhà theo phương hướng mới.
Ông đã dựa vào những nguyện vọng của nhân dân để đưa ra những chính sách phù hợp. Những chính sách
ấy đã hé mở lối thoát cho xã hội Việt Nam. Tình hình bắt đầu ít nhiều thay đổi dưới thời Quang Trung.
Tiếc rằng, ông mất quá sớm khi chưa đầy 40 tuổi, nếu không có lẽ lịch sử Việt Nam đã khác.
Phong trào nông dân khởi nghĩa giai đoạn này có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Không chỉ giáng
những đòn sấm sét quyết liệt vào chế độ phong kiến, làm cho chính quyền lung lay tận gốc, góp phần phá
vỡ kỹ cương của xã hội phong kiến thối nát mà nó còn khơi dậy một trào lưu tư tưởng chống phong kiến,
khơi dậy một khát vọng mạnh mẽ con người phải có quyền sống, phải có cơm ăn áo mặc, có tự do hạnh
phúc cho mình. Như vậy, sự ra đời của phong trào nông dân là gắn liền với cuộc đấu tranh của quần chúng
nhân dân bị áp bức.
Chính thời đại ấy làm đảo lộn bối cảnh phong kiến xã hội bày ra một sự thối nát và bất lực của vua
chúa, mặt khác sự cùng cực và trổi dậy của nông dân. Đó là những hậu quả tập trung của ba loại chiến
tranh kế tiếp kéo dài suốt ba thế kỷ: chiến tranh phong kiến, chiến tranh nông dân và cuối cùng chiến tranh
dân tộc. Trong đó chiến tranh nông dân có tầm quan trọng đặc biệt là làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc và
thống nhất đất nước. Do đó bước đầu làm chớm nở ý thức và vai trò động lực lịch sử và quần chúng nhân
dân, như làm chao đảo hệ tư tưởng phong kiến nghìn năm.
Tóm lại, thời đại của Nguyễn Du là một thời kỳ giằng co quyết liệt giữa nhiều xu thế chính trị khác
nhau. Trong đời sống tư tưởng của xã hội, từng mảng nhỏ của hệ thống xã hội phong kiến cơ đồ bị tung
ra, bị lật đổ đến tận gốc rễ, tạo nên những cuộc khủng hoảng tinh thần. Chiến thắng hiểm hách của nông
dân khởi nghĩa, rồi sự phục thù của nhiều thế lực phản động, sức vang dội của những đòi hỏi tự do về
công lý, rồi việc lập lại một trật tự xã hội phong kiến đen tối… Tất cả những điều trái ngược đó khiến cho
không khí thời đại càng thêm phức tạp, lạc quan và bi quan lẫn lộn. Nguyễn Du ngơ ngác trước thái độ
ung dung của “triều đại Ngô Thời Nhiệm, trong khi ông xót xa cho tình cảnh “tan đàn sẻ nghé” của triều
đại Lê Trịnh” [9, tr 49]. Đồng thời, ông cũng nghe được tiếng vang từ chiến công của Nguyễn Huệ đánh
tan hai mươi vạn quân giặc ngoại xâm, cũng lúc ấy Nguyễn Du chưa có dịp làm quen những con người
“cờ đào áo vải” trong cương vị chủ nhân của xã hội, thì ông lại sửng sốt nhìn thấy tấn bi kịch đổ vỡ của
triều đại Tây Sơn.
Xét trên bình diện tính chất và xu thế thì những biến động của xã hội là bằng chứng cho một cuộc
khủng hoảng về cơ cấu mang tính chất toàn diện và dây chuyền, không chỉ ở bề mặt mà còn ở bề sâu.
Thời đại Nguyễn Du giống như một tia nắng cuối chiều dù cố gắng rất nhiều như phong trào Tây Sơn
cũng chỉ như một tia chớp lóe lên rồi hoàng hôn cứ từ từ buông xuống. Đó là một xu thế khách quan mà là
khách quan thì không bao giờ đảo ngược. Trong tiến trình lịch sử dựng nước của dân tộc từ thế kỷ X đến
thế kỷ XIX, thời đại Nguyễn Du là thời đại suy tàn. Thời đại đang thăng trầm trên những bước đi cuối
cùng để tiến đến đích.
2.1.2. Gia thế và cuộc đời Nguyễn Du
2.1.2.1. Gia thế
Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, “là dòng dõi một nhà thế phiệt trăm anh đệ
nhất trong nước lúc bấy giờ”[28, tr 21]. Như vậy, Nguyễn Du thuộc dòng họ lớn nhất ở huyện Nghi Xuân
lúc này.
Theo cụ Lê Thước, người có nhiều đóng góp trong việc tìm hiểu gia thế của Nguyễn Du, thì
Nguyễn Du có cùng một ông tổ xa với Nguyễn Trãi. Đây là vị anh hùng và nhà thơ lớn của dân tộc ta thế
kỷ XV.
Thời Lê sơ, họ Nguyễn ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Uy, tỉnh Sơn Nam (nay là tỉnh Hà Đông),
đã có một ông tổ là Nguyễn Doãn Địch đậu Thám hoa khoa Canh Tý niên hiệu Hồng Đức (năm 1480).
Đến thời Mạc, lại có Nguyễn Thiến (có bản chép là Thuyến) đậu Trạng Nguyên khoa Nhâm Thìn niên
hiệu Đại Chính (năm 1532) làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lại Đông Các Đại học sĩ, được phong tước
Thư Quận công. Hai người con của ông là Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn đều được phong tước Công.
Khi Nguyễn Thiến mất, hai người con ông không giúp gì cho nhà Lê mà lại trở về với nhà Mạc. Đến khi
nhà Mạc đỗ, hai người này quay trở về với nhà Lê nhưng có âm mưu làm phản. Việc bại lộ cả hai bị giết
hại, chỉ duy nhất Nguyễn Nhiệm (con trai Nguyễn Miễn) chạy thoát được vào làng Tiên Điền, huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh mai danh ẩn tích.
Nguyễn Nhiệm ra sức khai phá đất hoang để lập nghiệp, được người địa phương gọi là Nam Dương
Công và được coi là ông tổ của họ Nguyễn Tiên Điền. Từ đời Nam Dương Công, Nguyễn Nhiệm đến đời
Nguyễn Nghiễm thân sinh của Nguyễn Du tất cả là sáu đời.
Thân phụ của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm sinh ngày 14 tháng 3 năm Mậu Tý, niên hiệu Vĩnh
Thịnh thứ tư, tức ngày 14 tháng 5 năm 1708. Ông thông minh, học rộng, từng làm quan và giữ chức Tể
tướng trong triều đình. Ông mất ngày 17 tháng 11 năm Ất Mùi, tức ngày 7 tháng 1 năm 1776.
Thân mẫu ông là bà Trần Thị Tần (vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm), con gái của một vị quan làm
chức câu kê, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Bà sinh ngày 3 tháng 7 năm Canh Dần, niên hiệu Cảnh Hưng tức ngày 24 tháng 8 năm 1740, trẻ hơn
chồng ba mươi hai tuổi, vốn là một cô gái có nhan sắc và giỏi nghề hát xướng. Đặc biệt, Nguyễn Du chịu
ảnh hưởng sâu sắc từ người mẹ trong những ngày còn thơ bé [58].
Gia đình cũng như dòng họ của Nguyễn Du có rất nhiều người đỗ đại khoa và làm quan. Người địa
phương có câu ca dao về dòng họ này.
Bao giờ ngàn Hống hết cây,
Sông Rum hết nước, họ này hết quan.
Trước tiên phải kể đến gia đình của Nguyễn Du, anh đầu của Nguyễn Du Nguyễn Khản, đậu đồng
Tiến sĩ được bổ chức Thập nhị bồi tụng, rồi từng giữ chức Tả thị lang bộ Hình kiêm Hiệp trấn sứ Sơn
Tây… làm quan cùng một triều với thân phụ.
Anh thứ hai là Nguyễn Điều, trúng Tam trường thi Hội, làm quan đến chức thủ Hưng Hóa, được
phong tước Điền Nhạc Hầu.
Anh thứ ba là Nguyễn Dao, trúng Tứ trường thi Hương, chịu chức Hồng lô tự thừa.
Anh thứ tư là Nguyễn Luyện, trúng Tam trường thi Hương.
Anh thứ năm là Nguyễn Trước và anh thứ sáu là Nguyễn Đề đều trúng Tứ trường thi Hương
…
Ngoài ra Nguyễn Du có bác Nguyễn Huệ (anh của Nguyễn Nghiễm) đỗ Tiến sĩ, làm quan đồng
triều với Nguyễn Nghiễm…
Gia thế Nguyễn Du không chỉ có truyền thống làm quan mà có nhiều người viết sách, làm văn
nghĩa là một gia đình có truyền thống về văn học. Nguyễn Quỳnh, ông nội Nguyễn Du là một nhà triết học
chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Nguyễn Nghiễm, một sử gia, đồng thời là một nhà thơ. Nguyễn Khản giỏi
thơ Nôm, hay làm thơ đối đáp với Trịnh Sâm. Rồi Nguyễn Đề, anh cùng mẹ với Nguyễn Du, Nguyễn
Thiện, cháu gọi Nguyễn Du bằng chú ruột, Nguyễn Hành em ruột Nguyễn Thiện đều làm nhà thơ, nhà văn
nổi tiếng cả…[58, tr 144]. Nguyễn Du sống trong môi trường như thế, năng khiếu văn học của ông có điều
kiện nảy nở và phát triển rất sớm.
2.1.2.2. Cuộc đời Nguyễn Du
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26
đời vua Lê Hiển Tông. Theo một bản gia phả của họ Nguyễn Tiên Điền phát hiện năm 1966, có ghi chú
ngày sinh của Nguyễn Du là ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tính ra dương lịch là ngày 3 tháng 11 năm
1766. Ông là con thứ bảy của Xuân quận công Nguyễn Nghiễm [58, tr 144]. Tuy đỗ không cao (thi Hương
ở Sơn Nam, đỗ tam trường), nhưng ông là người thông minh, học rộng, thông hiểu cả ba tam giáo: Nho,
Phật, Đạo.
Nguyễn Du lúc nhỏ có tiếng là khôi ngô, gia phả chép chuyện Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc,
bạn của Nguyễn Nghiễm, có lần đến chơi nhà thông thấy tướng mạo Nguyễn Du thông minh, ông rất mến
có tặng Nguyễn Du một thanh bảo kiếm [58].
Những năm tháng tuổi thơ, Nguyễn Du được sống trong cảnh nhung lụa, giàu sang, phú quý.
Nguyễn Hành, cháu Nguyễn Du trong bài “Đồng Xuân ngụ kí” có ghi lại cảnh sống trong gia đình Nguyễn
Du lúc bấy giờ “Nhớ lại cảnh phú quý khi trước, nhà tôi một ông hai chú dự vào trong chính phủ, ơn nước
dồi dào, các nơi trong thành Bích Câu lâu đài san sát, những người xe ngựa võng lọng hàng ngày chầu
chực ở trước cửa. Trong nhà, hạng người nô bộc cũng được ăn thịt, mặc áo gấm. Tôi sinh sau đẻ muộn
vẫn còn kịp trong thấy cảnh tượng ấy” [59, tr 299]. Cuộc đời Nguyễn Du tưởng chừng như suôn sẻ, nhưng
biến cố của gia đình lại xảy ra khi Nguyễn Du còn thơ dại. Mười tuổi mất cha, mười ba tuổi mất mẹ. Bóng
tối cuộc đời đã bao trùm lên đầu nhà thơ khi tuổi đời còn non trẻ. Vậy là, Nguyễn Du sớm mồ côi cả cha
lẫn mẹ, không biết nương tựa vào đâu trông khi các anh em cùng mẹ với Nguyễn Du còn quá nhỏ, do đó
Nguyễn Du đành phải ở với người anh là Nguyễn Khản, Nguyễn Khản hơn ông 31 tuổi. Những năm tháng
sống chung với người anh sớm đỗ đạt, làm quan to trong triều, lại là một con người tài hoa rất mực, đã có
những ảnh hưởng rất lớn đến Nguyễn Du sau này. Cách sống hào hoa của Nguyễn Khản được Phạm Đình
Hổ viết “Ông Nguyễn Khản ham thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở, cũng cứ cho nó tiền bắt hát,
không lúc nào bỏ tiếng tơ tiếng trúc. Khi ông có tang quan Tư đồ (tức Nguyễn Nghiễm), ngày rỗi cũng vẫn
cứ sai con hát đồ khúc gọi là “ngâm thơ Nôm”. Bọn con em họ quý thích đều bắt chước chơi bời hầu như
thành thói quen” [26, tr 98]. Sống trong hoàn cảnh như vậy nên giải thích phần nào nỗi lòng trắc ẩn của
nhà thơ đối với phụ nữ nói chung, đối với ca nữ nói riêng. Số phận của phụ nữ trong xã hội cũ sao mà xót
xa, phũ phàng. Vì có chút nhan sắc và có giọng hát mà họ phải mua vui cho kẻ giàu sang. Cảnh tượng ấy
đem đến trong tâm trí nhà thơ cũng như sau này có dịp chứng kiến thêm nhiều cảnh tượng bất công ngang
trái của những kiếp người tài hoa bạc mệnh.
Cuộc sống của Nguyễn Du khi ở với anh cũng chẳng được yên ổn bao lâu vì trong thời gian này gia
đình của Nguyễn Khản có nhiều biến cố xảy ra, một trong những sự kiện diễn ra trong thời điểm ấy là vụ
án Canh Tí, Trịnh Sâm lập Cán thay Tông làm thế tử, Khản định giúp Tông nhưng việc bị bại lộ, Khản bị
bắt giam. Đến khi Tông lên ngôi Khản được phục chức nhưng cũng không thể cầm cự được, bọn kiêu binh
không phục chúng kéo đến đập phá nhà cửa, Khản đành bỏ trốn lên Sơn Tây rồi sau đó về quê vợ ở Hà
Tĩnh. Đó cũng là năm Nguyễn Du 18 tuổi, vừa thi Hương đậu Tam trường (tú tài) ở Sơn Nam [58]. Vậy là
gia đình Nguyễn Du từ đây mỗi người mỗi ngã.
Bước chân vào đời vì không đỗ cao, Nguyễn Du được kế chân ông bố nuôi họ Hà làm chức quan
Chánh thủ hiệu đội quân hùng hậu hiệu ở Thái Nguyên. Theo tài liệu thì trước kia, một ông quan họ Hà,
làm việc dưới quyền Nguyễn Nghiễm, do không có con trai nên nhận Nguyễn Du làm con nuôi. Sau khi
người họ Hà mất, Nguyễn Du được giữ chức quan ấy.
Năm 1789 Tây Sơn kéo quân ra Bắc phá tan hai mươi vạn quân Thanh, Lê Chiêu Thống bỏ nước
chạy theo đám tàn quân của giặc. Lúc này ba anh em cùng mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Đề, Nguyễn Du,
Nguyễn Ức chạy theo Lê Chiêu Thống nhưng không kịp. Nguyễn Du đành từ giã Nguyễn Đề, Nguyễn Ức
trở về quê vợ là xã Hải An, huyện Quỳnh Đôi, tỉnh Sơn Nam (Thái Bình), sống nhờ người anh vợ là Đoàn
Nguyễn Tuấn nhưng cũng chỉ một thời gian rồi trở về Hà Tĩnh.
Chiến tranh loạn lạc xảy ra, ông tận mắt chứng kiến cảnh thay đổi sơn hà, gia đình ly tán, anh em
lưu lạc mỗi người một nơi. Bản thân ông cùng từng có lúc đau khổ, trôi dạt từ đầu sông đến cuối bể, cơm
không đủ ăn, ốm không thuốc uống. Nhưng chính những bước đường thương đau ấy đã giúp ông thật sự
có dịp hiểu biết và sống gần nhân dân hơn.
Năm 1796 Nguyễn Du lên đường vào Gia Định nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An, ông đã bị
viên trấn tướng của Tây Sơn là Quận công Nguyễn Thận bắt giữ. Sau vì Quận công Nguyễn Thận nễ nang
vì anh ruột của Nguyễn Du là Nguyễn Đề làm quan cho Tây Sơn cũng là bạn của mình, lại mến tài của
Nguyễn Du nên tha. Nguyễn Du trở về Tiên Điền và sống một thời gian dài [58]. Lúc này, cơ nghiệp của
nhà họ Nguyễn ở Tiên Điền không còn gì. Cơ ngơi của Nguyễn Nghiễm để lại đã bị quân Tây Sơn phá
sạch vì một người anh khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh chống Tây Sơn bị thất bại. Nguyễn
Quýnh không chịu đầu hàng nên bị giết chết.
Tháng 6 năm 1802, Nguyễn Ánh lật đổ triều đại của Nguyễn Quang Toản lên làm vua lấy hiệu là
Gia Long. Vừa lên ngôi, Gia Long đem đại quân ra Bắc Hà. Gia phả chép “Mùa hạ tháng sáu năm Nhâm
Tuất (1802), vua Cao Hoàng (tức Gia Long) đi ra Nghệ An. Ông (Nguyễn Du) đón yết kiến vua và đem
thủ hạ đi theo ra Bắc”. Đến tháng 8, Nguyễn Du được bổ làm Tri huyện Phù Dung (Hà Nam Ninh). Đến
tháng 11, ông được đổi làm Tri Phủ Thường Tín (Hà Tây). Đến năm 1803, ông được cử lên ải Nam Quan
đón tiếp sứ thần Trung Quốc.
Năm 1803 Nguyễn Du được cử tiếp sứ Thanh ở Trấn Nam Quan.
Năm Gia Long thứ ba (1805), Nguyễn Du cáo bệnh từ quan. Nhưng chỉ một tháng sau, ông lại
được triệu ra thăng Đông các đại học sĩ, tước Du Đức Hầu.
Năm 1807, Nguyễn Du được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1808, ông lại cáo quan về quê.
Năm 1809, Nguyễn Du được bổ làm Cai bạ ở Quảng Bình và ở chức này bốn năm liền. Nguyễn Du
làm quan không nghĩ đến danh lợi, lúc nào cũng chăm lo đến đời sống của nhân dân. Gia phả chép “Khi
làm quan chức Cai bạ dinh Quảng Bình, phàm những việc công trong hạt như lính tráng, dân sự kiện
thưa, tiền nong, lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc thương lượng với các quan Lưu thủ, Ký lục
để thi hành. Ông giữ chức Cai bạ bốn năm, chính sự giản dị, không cầu tiếng tăm, nên được sĩ phu và
nhân dân yêu mến” [26, tr 105].
Năm 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử cầm đầu sứ bộ sang Trung Quốc.
Năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri bộ Lễ.
Năm 1819, ông được cử làm Đề điệu trường thi Quảng Nam. Dâng biểu cố từ, được vua chuẩn y.
Tháng 2 năm 1820, vua Gia Long băng hà, hoàng tử Đảm lên nối ngôi lấy niên hiệu Minh Mệnh,
cử Nguyễn Du làm Chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong, nhưng ông chưa kịp lên đường thì lâm bệnh.
Hôm ấy là ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn, dương lịch là ngày 15 tháng 9 năm 1820.
Cuộc đời làm quan của Nguyễn Du dưới triều Nguyễn từ năm 1802 cho đến khi mất (1820) tính
đúng là 19 năm. Trừ những thời gian xin về tạm nghỉ ở quê nhà có thể nói là không gián đoạn. Ông thăng
chức khá nhanh và có lúc giữ nhiều chức vụ tương đối khá quan trọng. Ông được lòng tin cậy của triều
Nguyễn còn với dân khi làm Cai bạ Quảng Bình ông được tiếng là “chính sự giản dị, sĩ dân yêu mến”. Gia
phả chép “dầu làm đến chức Á khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh nhã đơn giản như một người học trò
nghèo” [26, tr 103]. Quả thật điều đó đã làm không ít người yêu quý và cảm thấy gần gũi ông.
Nguyễn Du làm quan nhưng là một vị quan thanh liêm với khát vọng cao đẹp mong sao đất nước
ấm êm, nhân dân hạnh phúc. Thế nhưng khi làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du ít nói năng đến nỗi có
lần ông bị vua quở rằng “Nhà nước dùng người tài giỏi thì cất lên, không hề phân biệt người Bắc, người
Nam. Khanh (Nguyễn Du) với Ngô Vị đã được trẫm biết tài mà bổ dụng, làm quan đến chức Tham tri, biết
điều gì cứ nói, để làm hết chức trách của mình, sao lại cứ rụt rè, chỉ dạ dạ vâng vâng thế thôi?” [26, tr
111]. Hình như ông luôn mang trong mình nỗi buồn không thể nói cùng ai. Nỗi buồn ấy ông đành chôn
chặt tận đáy lòng ngay cả khi xuống dưới tuyền đài. Cảnh ông mất được sử sách ghi lại như sau “đến khi
ốm nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi, ông nói
“Được” rồi mất, không trối lại một lời”.
Nguyễn Du mất để lại hai người vợ và một người thiếp, mười hai con trai và sáu con gái. Người
con đầu của ông là Nguyễn Tứ, có theo ông đi sứ sang Trung Quốc, về nước được vài năm thì mất. Người
con thứ hai là Nguyễn Ngũ, dưới triều Minh Mệnh làm chức Tuần huyện. Người thứ ba là Nguyễn
Thuyến, con bà thiếp. Gia phả chép rằng Nguyễn Thuyến “giỏi văn học” nhưng không thấy có tác phẩm
lại để lại. Còn các con khác của Nguyễn Du không biết làm gì.
Nguyễn Du qua đời ở Kinh Đô, người nhà đem an táng ở làng An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên. Bốn năm sau mới dời về an táng ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Lúc Nguyễn Du mất,
quan lại ở Kinh đô nhiều người làm câu đối phúng viếng, hết lời ca ngợi con người tài hoa.
Nhất đại tài hoa, vi sứ, vi khanh sinh bất thiểm
Bách niên sự nghiệp, tại gia, tại quốc tử do vinh.
(Một kiếp tài hoa, đi sứ, làm quan, sinh chẳng thẹn
Trăm năm sự nghiệp, ở nhà, ở nước, chết còn vinh)
2.2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du
Bên cạnh “Truyện Kiều”, thơ chữ Hán của Nguyễn Du là châu báu của kho tàng dân tộc “Thơ chữ
Hán của Nguyễn Du là một áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý
nghĩa. Nó mới lạ độc đáo trong một nghìn bài thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so
với thơ chữ Hán Trung Quốc nữa” [62, tr 7]. Khác với “Truyện Kiều” là một bản trường ca tự sự, thơ chữ
Hán là cả một tập thơ ngắn, viết theo thể luật Đường. Ở mỗi bài thơ, thi nhân tự nhiên bộc lộ cái tôi trữ
tình của mình. Đó là cái tôi suốt cuộc đời trăn trở về thế thái nhân tình, về sự thay đổi của thời cuộc. Chất
trữ tình hòa quyện với chất thế sự làm nên những bài thơ mang màu sắc “trữ tình triết học” sâu sắc và
thấm thía [63, tr 8]. Mỗi bài thơ là một bức kí họa chân thực và 250 bài thơ hợp thành một bức chân dung
khá toàn vẹn về cuộc đời, tài năng và tâm hồn của nhà thơ.
Theo Lê Thước, Trương Chính và những người biên soạn cuốn “Thơ chữ Hán Nguyễn Du” xác
định tập thơ này được sáng tác trong một thời gian dài từ năm nhà thơ 21 tuổi (1786) cho đến năm 49 tuổi
(1814). Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có ba tập.
- “Thanh Hiên thi tập”
- “Nam Trung tạp ngâm”
- “Bắc hành tạp lục”.
2.2.1. “Thanh Hiên thi tập”
“Thanh Hiên thi tập” gồm 78 bài, sáng tác từ 1786 – 1804, giai đoạn từ năm Tây Sơn kéo quân ra
Bắc (1786) cho đến những năm kết thúc giai đoạn Nguyễn Du làm quan ở Bắc Hà (1804). Tập thơ ghi lại
tâm sự của một con người đầy hùng tâm, tráng chí nhưng thời vận lỡ làng, cảnh ngộ gặp nhiều điều bất
như ý, đành ôm trong lòng mối u uất không cách gì giải tỏa được. Bao trùm cả tập thơ là điệp khúc buồn,
u uẩn, day dứt khôn khuây. Các bài trong tập thơ “Thanh Hiên thi tập” được sáng tác trong ba giai đoạn.
“Mười năm gió bụi” (1786 – cuối 1795)
“Dưới chân núi Hồng” (1796 – 1802 )
“Làm quan ở Bắc Hà” (1802 – cuối 1804)
Nguyễn Du nói rằng mình có một tâm sự không thể ngõ cùng ai thẳm sâu như nước sông Lam dưới
chân núi Hồng (Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ - Hồng sơn sơn dạ Quế giang thâm). Tâm sự của Nguyễn Du
vào thời điểm đó, lúc ông viết Thanh Hiên thì cũng như tâm sự của các nhà thơ cổ của Việt Nam và Trung
Quốc dưới các triều đại phong kiến suy tàn, xã hội loạn lạc. Nghĩa là buồn chán, sầu mộng, muốn xa lánh
đời sống ô trọc để giữ cái thanh cao trong nhân cách của mình. Nhưng ở Nguyễn Du như có phần sâu sắc
hơn, dằn vặt hơn và được nói ra thành thật hơn, xúc động hơn. Đó là cuộc đời của chàng trai trẻ Nguyễn
Du, đã từng mang chí lớn muốn vượt lên sánh ngang tầm vóc của vũ trụ, muốn ngang dọc vẫy vùng.
Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên (Khuất thực)
(Kiếm dài ngạo nghễ hiên ngang tựa như trời xanh)
Nhưng tiếc thay, thời thế đã không chọn mặt anh hùng, kiếm dài nhưng không giúp gì cho trang
nam tử. Chí không đạt, mộng không thành, hùng tâm dần nguội lạnh theo năm tháng. Vì vậy mà bài thơ
nào, câu thơ nào dường như cũng thấm đượm một nỗi u uẩn. Cả ba tập thơ như ướp bởi một thứ hương
hoa tao nhã mà gợi buồn, thanh khiết mà vương vấn, day dứt và lay động lòng người.
Từ cuộc sống phong lưu, Nguyễn Du bị đẩy ra giữa gió bụi cuộc đời. Trong quãng thời gian “mười
năm gió bụi”, nhà thơ sống nghèo túng, ăn nhờ ở đậu, tình cảnh đáng thương.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên. (Quỳnh Hải nguyên tiêu)
(Chốn non Hồng không còn nhà, anh em tan tác,
Đầu bạc nhiều giận nỗi tháng ngày trôi.)
Sinh kế và hùng tâm không thành cho nên vào độ tuổi “tam thập nhi lập” nhà thơ đã tự thấy mình
đầu bạc chính tiếng thơ ấy vút lên bi phẫn.
Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp,
Tất cánh phiêu linh hà xứ quy ? (Tự thán)
(Một nhánh cỏ bồng đứt gốc trước gió tây thổi gấp
Cuối cùng sẽ trôi giạt về đâu ? )
Con người thất chí kia như muốn lao vào hưởng lạc, muốn tìm quên qua men say. Cũng có lúc cao
hứng, con người cất lên bài ca hành lạc (Hành lạc từ). Cũng có lúc thi nhân muốn tìm đến một sự giải
thoát, tìm đến một cuộc sống an nhàn, vô lo như mơ về chốn “cửu huyền”, về “người ẩn dật”, về chuyện
“học đạo thành tiên”, về “chiếc xe gió một ngày đi vạn dặm”, về đàn âu tự do “theo dòng nước mà trôi
đi”, về “vầng trăng sáng”… Con người càng muốn thoát khỏi vòng trần tục nhưng vòng trần tục càng xiết
chặt nên đành đối diện nỗi day dứt chính mình. Chính vì vậy, con người ấy đã trở thành “con người vô
ngôn” nỗi niềm tâm sự nén chặt trong lòng, nước mắt thấm ngược vào hồn, tất cả trở thành một nỗi u uẩn
trĩu nặng tâm tư.
Nhất sinh u tứ vị tằng khai (Thu chí)
(Suốt đời ôm mối u sầu chưa từng gỡ ra được)
“Mối u sầu” kia là những gì không ai biết được, chỉ biết rằng đó là “những chuyện nghìn năm”.
Đọc “Thanh Hiên thi tập” ta thấy nhà thơ nhắc nhiều đến “thế sự”, “trần thế”, “cổ kim” trong những câu
thơ đượm mùi triết lý.
Thế sự phù vân chân khả ai (Đối tửu)
(Việc đời như mây nổi thật đáng thương)
Cuộc đời của Nguyễn Du đã chứng kiến bao phen thay đổi sơn hà đến chóng mặt. Chuyện thay đổi
trước mắt, con người bị cuốn vào thực tại không sao cưỡng lại được nên chỉ thấy cuộc đời này đáng buồn,
đáng thương. Có thể nói ở Nguyễn Du nổi bật nhất là nét lo đời, lo cho tất cả mọi người - con người suốt
đời đau thế thái nhân tình. Nhà thơ chứng kiến giữa cuộc đời loạn lạc, ông càng hiểu rõ nỗi khổ của nhân
dân, càng đau đớn trước sự suy tàn của cuộc đời. Trên con đường đầy ngã rẽ, Nguyễn Du vẫn bế tắc
không thể chọn cho mình một hướng đi nhưng vượt lên tất cả là tấm lòng “sáng tỏ như vầng trăng” là nỗi
ưu ái dành cho cuộc đời và con người.
2.2.2.“Nam trung tạp ngâm”
“Nam trung tạp ngâm” gồm 40 bài sáng tác từ năm 1805 – 1812, giai đoạn từ lúc nhà thơ được
thăng hàm Đông các điện học sĩ vào làm quan ở kinh đô Phú Xuân (gần bốn năm) đến hết thời kỳ làm Cai
bạ dinh Quảng Bình (ba năm, năm tháng). Nhà thơ gửi gắm ở tập thơ này về nỗi thất vọng ở chốn quan
trường, nơi đây đầy những rối ren, ganh đua, lòng người hiểm ác khiến nhà thơ của chúng ta luôn phải cẩn
thận giữ gìn.
Năm 1802 Nguyễn Du bắt đầu ra làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du thăng chức nhanh và có
lúc giữ chức vụ quan trọng trong triều đình (theo gia phả chép lại). Làm quan là con đường có thể thỏa chí
nguyện tang bồng của thời trai trẻ mà sao giọng thơ vẫn rặt một nỗi bi thương? Chúng ta nghe lời bộc
bạch của Nguyễn Du về cuộc sống chốn quan trường.
Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc (Tống nhân)
(Những con oanh đẹp trong vườn thượng uyển
ghen nhau vì sắc đẹp)
Quan trường như vườn thượng uyển những con oanh ghen nhau sắc đẹp. Ở đó nhà thơ không có ai
làm bầu bạn nay trở thành con người cô độc. Con người cô độc ấy muốn gò mình trong thế giới sầu muộn
riêng, từ chỗ không ai để trò chuyện đã tự mình đóng cửa không muốn trò chuyện với ai. Chính cuộc sống
ấy, nhà thơ cất lên những câu thơ như ai oán.
Phàm sinh phụ kỳ khí,
Thiên địa phi sở dung. (Điệu khuyển)
(Phàm sinh ra mang khí phách khác thường,
Thì trời đất không có chỗ dung).
Có lúc tự mỉa mai mình:
Hữu hình đồ dịch dịch,
Vô bệnh cố câu câu. (Thu chí)
(Có thân hình chỉ vất vả
Không bệnh mà lưng lom khom).
Một mình cô đơn chốn chân trời, thân bị một chức quan cột chặt, nhà thơ không khỏi nuối tiếc
những năm tháng cũ. Vì vậy mà nhà thơ một mực ngoảnh về phía quê hương.
Vọng vọng gia hương tự nhật biên,
Hoành sơn chỉ cách nhất sơn điên (Nễ Giang khẩu hương vọng)
(Trông ngóng về quê nhà xa tựa như ở bên mặt trời,
Nhưng chỉ cách một ngọn núi trong dãy Hoành Sơn)
Không gian lúc này đâu còn là không gian của địa lý mà đã trở thành không gian của tâm tưởng.
Người càng trông ngóng thì càng xa diệu vợi, cố hương ở đây không đơn thuần là quê cũ. Đó là hình ảnh
một thế giới mà nhà thơ đang hiện diện, nơi đó nhà thơ có những ngày tự do bay nhảy cùng sông Lam núi
Hồng, cùng rau thuần cá vược, cùng đàn âu trắng… Cuộc sống ở đó đạm bạc, giản dị đã qua cho nên tấm
lòng nhớ quê càng tiếc nuối và ám ảnh, da diết.
Cuộc sống an nhàn, ấm áp không phải dành cho thi nhân. Nhà thơ luôn phải đau lòng vì “mười
miệng trẻ đói mặt càng xanh như rau” lo lắng đến thắt ruột vì “quê hương nắng hạn lâu ngày”, trong khi
mình thì “một thân nằm bệnh ở thành phía đông”. Cho nên ước mơ vẫn chỉ là ước mơ, hiện thực khô khan
giấc mộng phiêu bồng. Chuyện cơm áo của nhà thơ nay cột chặt nơi đất khách. Đành “thay cái cày bằng
cái lưỡi” (Y nguyên vận ký Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên) để sinh kế song không thể yên lòng trước cuộc
đời, trước những người hành khuất đến từ thành Thăng Long “áo rách nón xơ sắc mặt xám như tro” (Ngẫu
hứng V), trước “xương tàn trăm trận đánh nằm trong bãi cỏ xanh” (Độ Linh Giang). Nhà thơ cảm thấy hổ
thẹn “thẹn mình đã phụ làn mây núi Hồng” (Giản Công bộ thiêm sự Trần), đành nhờ hoa cúc vàng, chim
âu trắng gửi lời từ tạ.
Có thể nói, trong quãng thời gian làm quan ở phía Nam, Nguyễn Du không hề có giây phút thanh
thản. Nhìn hiện thực chốn quan trường, con người muốn thoát ra nhưng càng vùng vẫy thì càng bế tắc,
càng bế tắc càng đau khổ.
2.2.3.“Bắc hành tạp lục”
“Bắc hành tạp lục” gồm 132 bài, được sáng tác trong khoảng 1813 -1814, khi đó Nguyễn Du được
nhà Nguyễn cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc tuế cống. Đây là tập thơ được sáng tác trong thời gian
ngắn nhất song lại có số lượng nhiều nhất. Tập thơ ghi lại những điều tai nghe, mắt thấy trên đường đi sứ
“mỗi một cảnh, mỗi một di tích, mỗi một con người của quá khứ và hiện tại trên đất nước Trung Hoa như
xác nhận thêm một lần nữa những điều mà nhà thơ từng nghiền ngẫm, nung nấu”[58, tr 320]. Trên đường
đi sứ Nguyễn Du thấm nhuần những cảm xúc và chiều sâu chiêm nghiệm, được thể hiện bằng ngòi bút
trác tuyệt của bậc đại thi hào cho nên “Bắc hành tạp lục” vượt lên những tập thơ đi sứ khác về độ chín và
cảm xúc của sự tài hoa. Trong “Bắc hành tạp lục”, Nguyễn Du đề cập hai loại đề tài hiện thực và lịch sử.
Với đề tài hiện thực là niềm trăn trở trước số phận con người, Nguyễn Du từ cõi lòng ngỗn ngang
những thất vọng khổ đau của riêng mình đề cập đến với cõi người. Ẩn hiện trên trang giấy là những sắc
mặt ốm đói xanh xao, là cảnh hiện thực của nhân dân cùng khổ, tác giả đã dụng công vẽ lên những bức
tranh tả thực đầy sống động về tình cảnh những người dân nghèo trên bước đường tha phương. Bước vào
thế giới Bắc hành là bức tranh hiện thực, bức tranh thứ nhất về một người già cả, mù lòa, một em bé dắt đi
hát rong kiếm ăn ở thành Thái Bình.
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc,
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc.
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh,
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục.
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai,
Do thả hồi cố đảo đa phúc
(Thái bình mại ca giả)
(Miệng sùi bọt, tay rã rời,
Ngồi yên, cất đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong.
Dốc hết tâm lực gần một trống canh,
Mà chỉ được năm sáu đồng tiền.
Đứa bé dẫn được ra khỏi thuyền
Còn quay đầu lại chúc “đa phúc” )
Hình ảnh ông cháu người hát rong mù làm ta nhớ đến hình ảnh cảm động về hai ông cháu ăn xin
lão Arkhip và bé Lionka trong truyện ngắn của văn hào Nga M.Gorki. Thời đại nào cũng vậy thường gặp
nhau một điểm nhìn. Người già và em nhỏ là đối tượng của sự nâng niu, trìu mến và trân trọng. Vậy mà ở
đây, họ bị xô đẩy vào những ngõ hẻm lầy lội của cuộc đời. Hình ảnh ông lão dốc hết sức “gần một trống
canh” “miệng sùi bọt, tay rã rời” cuối cùng chỉ được “năm sáu đồng tiền” ám ảnh mãi tâm trí người đọc.
Vậy mà, ra khỏi thuyền còn quay lại chúc “đa phúc”. Có cái gì đó đến tội nghiệp, tội nghiệp đến chua xót.
Ông lão chúc “đa phúc” cho người đời, liệu ông có được chút phúc nào từ người đời chăng? Lẽ đời người
có áo cừu chăn bông làm sao biết lạnh! Lão Arkhip và bé Lionka bị xua đuổi đã chết tức tưởi trong một
đêm mưa lạnh ghê người. Vậy thì đâu là kết cục của ông cháu người hát rong mù?
Một bức tranh hiện thực có sức khái quát nữa là bức tranh một bà mẹ dắt ba con đi ăn xin Nguyễn
Du gặp trên đường.
Kiến nhân bất ngưỡng thị,
Lệ lưu khâm lang lang.
Quần nhi thả hỉ tiếu,
Bất tri mẫu tâm thương. (Sở kiến hành)
(Thấy người không dám ngước nhìn lên,
Nước mắt chảy ròng ròng trên vạt áo.
Bầy con vẫn cười vui,
Không biết lòng mẹ đau.)
Người mẹ đói rách khổ sở cùng ba người con lê la khắp đầu đường xó chợ. Khổ sở hơn khi thấy
người mà chẳng dám ngước nhìn lên, không dám ngước mắt khi biết mình đói, mình rách, mình hèn kém.
Thân phận kẻ nghèo, nhà thơ từng thốt lên chua chát “Phàm người ta thà muốn chết, không ai muốn
nghèo”, không muốn nhưng vẫn phải chịu. Vì vậy, mà tủi mà nghẹn ngào nước mắt rơi ướt vạt áo. Bên
cạnh, nước mắt cay đắng của người mẹ, bầy con vẫn hồn nhiên cười vui. Nụ cười trẻ nhỏ ngây thơ, trong
sáng quá đổi không khỏi làm người ta thắt lòng. Trẻ thơ như lá biếc chồi non, vậy mà chưa kịp hưởng mùa
xuân cuộc đời, mẹ của các em đã nhìn thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên ngòi rãnh, máu thịt nuôi sài lang.
“Thân mẹ” chết cũng không đáng tiếc, tấm lòng người mẹ từ ngàn xưa vẫn là biển cả. Nhưng còn các con,
những nụ cười hồn nhiên kia đâu có tội tình gì? Lại là câu hỏi lớn về số phận con người và ai là người có
thể trả lời? Chỉ biết rằng ở phía Tây “mặt trời cũng chỉ vì người mà vàng úa”.
Nếu ở “Thanh Hiên thi tâp” và “Nam trung tạp ngâm”, Nguyễn Du còn hoang mang giữa lẽ đổi
thay của cuộc đời thì ở “Bắc hành tạp lục”, nhà thơ băng khoăn về số phận của con người. Phải chăng số
mệnh tại trời? Nhà thơ không trả lời nhưng tự thân hiện thực trong tác phẩm có thể cất lên tiếng nói. Bên
cạnh hai ông cháu hát rong đáng thương là cảnh:
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ.
Hành nhân bão thực tiện khí dư,
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.(Thái Bình mại ca giả)
(Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt.
Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa thì vứt,
Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống đáy sông.)
Bên cạnh, bốn mẹ con đói rách phải phiêu dạt là cảnh:
Lân cẩu yểm cao lương (Sở kiến hành)
(Chó hàng xóm cũng ngán cao lương)
Nhà thơ không cần bình luận gì thêm, chỉ cần hạ một câu “chó hàng xóm cũng ngán cao lương” đủ
để thấy sự đối lập gay gắt. Sự đối lập của kiếp người và cái bất công của lẽ đời. Một chút phẫn nộ, một
chút châm biếm sâu cay ẩn đằng sau những câu thơ.
Thùy nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương (Sở kiến hành)
(Ai vẽ bức tranh này,
Đem dâng lên nhà vua.)
Lại là một câu hỏi lớn ném vào giữa cuộc đời, vậy ai là người có thể trả lời? Còn ai nữa đó chính là
xã hội phong kiến Trung Hoa “vốn ăn thịt người ngọt xớt như đường”. Xã hội ấy có gì khác với xã hội
Việt Nam, dân nghèo bỏ cửa nhà quê hương dắt díu nhau đi phiêu dạt. Vua chúa thì đắm chìm trong tửu
sắc trong khi đó người dân lao động thì cùng cực.
Nếu ở hai tập thơ đầu thi nhân rơi vào trạng thái u uất, triền miên đến nỗi có lúc muốn quay lưng
với thực tại để tìm tới chốn “cửu huyền” thanh nhàn thì ở tập thơ đi sứ, ta đã thấy một Tố Như gắn bó với
cuộc đời, con người bằng một thái độ yêu ghét rõ ràng, bằng cái nhìn đầy tình yêu thương. Thơ đi sứ
Nguyễn Du thấm đượm chất trữ tình mà cũng sắc bén tính hiện thực là vì thế.
Bên cạnh những bài thơ viết về đề tài hiện thực, Nguyễn Du có một số lượng lớn tác phẩm lớn viết
về đề tài các nhân vật lịch sử Trung Quốc. Lịch sử văn hóa ở đây là cả một thế giới phong phú, sống
động với bao cảnh đời, bao số phận, với bao di tích, mỗi một nhân vật của quá khứ trên đất nước Trung
Hoa lại một lần nữa được nhà thơ nghiền ngẫm, nung nấu. Chính vì vậy, khi viết về đề tài này Nguyễn Du
luôn sâu sắc và độc đáo. Trong “Bắc hành tạp lục”, Nguyễn Du viết 59 bài thơ về 46 nhân vật lịch sử
Trung Quốc. Qua khám phá nội dung, cảm hứng các bài thơ cũng như tìm hiểu một số nét về cuộc đời của
các nhân vật, người viết đã phân chia 46 nhân vật thành ba nhóm chính.
-Những tấm gương trung nghĩa tiết liệt: như Đỗ Phủ, Nhạc Phi, Văn Thiên Tường, Khuất
Nguyên… Nguyễn Du cảm thương cho những số phận của họ.
Khuất Nguyên một người ngay thẳng lại có một kết cục éo le.
Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh,
Tứ phương hà xứ thác cô trung ?
(Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu)
(Nghìn xưa, có ai thương người một mình tỉnh táo,
Bốn phương có chốn nào gởi được tấm lòng cô trung. )
Nhạc Phi người thời Nam Tống giỏi văn võ đời Tống Huy Tông có công đánh giặc. Nguyễn Du
khâm phục đây là một vị tướng có tài, tận trung báo quốc, Nguyễn Du viết:
Trung Nguyên bách chiến xuất anh hùng (Nhạc Vũ Mục mộ)
(Anh hùng xuất hiện trong trăm trận đánh ở Trung Nguyên)
Người trung đến mức mười năm chiến đấu xả thân vì nghĩa lớn, vậy mà bị chết oan một cách oan
uổng. Một vị tướng lừng danh cuối cùng chẳng còn được gì.
Tùng bách tranh tranh ngạo bắc phong
Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu. (Nhạc Vũ Mục mộ)
(Cây tùng cây bách vẫn hiên ngang ngạo nghễ lao vào trước gió bão
Buồn trông về lăng miếu cũ ở Lâm An.)
Đỗ Phủ là người có tài muốn đem tài trí của mình ra giúp đời, giúp nước nhưng đành bất lực trước
thời cuộc, trước nhân tình thế thái, trước cảnh đất nước lâm nguy, trước một xã hội đảo điên, người trung
có ít, kẻ nịnh quá nhiều.
Ông ca ngợi Giả Nghị có tài văn chương quân sự nhưng cái tài học của ông không được thi thố
“Lập đàn bất triển bình sinh học” cuối cùng bị lưu đày đến đất Trường Sa (Trường Sa Giả Thái phó)
Nguyễn Du phục tài thơ của người anh hùng dân tộc thời Nam Tống là Văn Thiên Tường cũng là
con người của “vầng chính khí”:
Ai trung xúc xứ minh kim thạch,
Oán huyết quy thời hóa đỗ quyên.
(Độ Hoài hữu cảm Văn Thừa tướng)
(Nỗi lòng bi thương đến chốn nào cũng thốt ra những lời thơ vàng đá,
Máu oán hờn khi trở về sẽ hóa thành chim đỗ quyên)
Văn Thiên Tường lúc bị giặc bắt, bị đày lên phía bắc, từng mơ ước hóa thành tiếng chim kêu ra
máu về đất Giang Nam. Câu thơ Nguyễn Du dùng lại ý ấy trong lời thơ của Văn Thiên Tường. Nguyễn
Du nói đến lòng cô trung, tiết nghĩa của những con người trí thức xưa, đây là những giá trị cho một lý
tưởng nhân văn cao cả về con người.
-Những bậc hiền tài bạc mệnh: Trong “Bắc hành tạp lục” vượt lên và chiếm một số lượng lớn
trong 132 bài thơ chữ Hán, Nguyễn Du thể hiện tình cảm yêu thương lẫn kính phục đối với những bậc
hiền tài, những người đã để danh tiếng cho lịch sử cho cuộc đời, cho dân tộc. Họ là những bậc hiền tài
được Nguyễn Du ca ngợi như Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm tuẫn tiết giữ thành, nghìn năm nằm đất tóc ông vẫn
dài nhất định không chịu hàng phục nhà Thanh (Quế Lâm Cù Các Bộ). Ông thương cho số kiếp đày đọa
của Liễu Tông Nguyên, thấu hiểu vì sao cây cỏ khe suối nơi ông ở đều có tên là Ngu (Vĩnh Châu Liễu Tử
Hậu cố trạch). Nguyễn Du nhớ Hàn Tín nhớ đến cử chỉ cao đẹp đối với vua... theo Nguyễn Du đó là nghĩa
trọng tình thâm (Độ Hoài hữu cảm Hoài âm hầu). Ông cũng ca ngợi Âu Dương, được mệnh danh là Hàn
Phi đời Tống. Âu Dương là người tài giỏi tính tình thẳng thắn, làm quan thanh liêm, không được lòng bọn
quyền quý bị giáng chức nhưng hết lòng can vua (Âu Dương Văn Trung công mộ). Bùi Tướng Công
tướng mạo tầm thường mà văn võ song toàn, một đời xã thân cống hiến nhưng cứ bị bọn hoạn quan lộng
hành, phải cáo quan về nghỉ (Bùi Tấn Công mộ). Tỷ Can, Liêm Pha, Dự Nhượng, Kinh Kha đều là bề tôi
trung nghĩa [106, tr 104]. Đây là những bậc hiền tài nhưng bạc mệnh, Nguyễn Du vẻ lên những bức chân
dung độc đáo bằng lịch sử thơ ca, qua đó ông gởi gắm tâm sự riêng của mình.
-Những người gian ác xấu xa: Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng đã vạch trần những hành vi
không biết bao nhiêu người xấu xa, tàn ác như Mã Viện, Minh Thành Tổ, Tào Tháo, Tần Cối, Tô Tần.
Tào Tháo hẳn là nhân vật làm ông suy tưởng nhiều. Tào Tháo là một nhân vật lịch sử, một nhà
quân sự, chính trị và văn chương. Đó là một nhân vật lịch sử phức tạp và độc đáo. Nhân vật này còn sống
một đời sống qua văn học đó là tiểu thuyết Tam quốc chí. Nguyễn Du mượn truyện Tào Tháo, chuyện đài
Đồng Tước, chuyện 72 ngôi mộ giả… Đồng Đài Tước đổ, hoang tàn đó là một thời của Tào Tháo không
còn một chút dấu vết, chỉ để lại tiếng là người gian xảo mà làm đau lòng nước sông Chương nghìn năm.
Nguyễn Du đau với nỗi đau của lịch sử, đau với nỗi đau của nhân loại. Ông đứng cao hơn Tào Tháo, trên
các thời đại mà phán xét.
Tần Cối, “kẻ đã hại người anh hùng Nhạc Phi”, cũng khiến cho Nguyễn Du để tâm nhiều. Triều
Nguyễn nếu như không có những tên nịnh thần thì cũng là một triều đại không vừa với tầm cỡ như
Nguyễn Du. Ông cũng đã chứng kiến bao thảm kịch trong triều cho nên viết về đề tài lịch sử làm ông tâm
đắc. Gian thần Tần Cối tạc tượng bên mộ Nhạc Phi, dù là để người đời phỉ nhổ. Nó có công làm cho bọn
nịnh thần ngàn năm phải sợ. Thống thiết nhất là câu:
Nhất thế tử tâm hoài đại độc,
Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan. (Tần Cối tượng II)
(Suốt đời trái tim chết chứa đầy nọc độc,
Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ.)
Nguyễn Du vạch trần bản chất của Tô Tần, một điển hình của kẻ mưu cầu danh lợi. Mưu hợp tung
của ông ta không phải để đánh quân Tào tàn bạo mà là để được phú quý, rồi lên mặt với người thân. Con
người ấy thật là bỉ ổi, Nguyễn Du lên án:
Tung hoành tự khả ngu dung chúa,
Phú quý hoàn năng cứ quả thê. (Tô Tần đình I )
(Kế lớn tung, hoành có thể lừa phỉnh được bọn vua chúa tầm thường,
Giàu sang còn có thể ngạo nghễ với đàn bà góa.)
Đối với những loại nhân vật, Nguyễn Du có cách nhìn nhận đánh giá những cung bậc cảm xúc khác
nhau. Với các bậc tài hoa, trung nghĩa Nguyễn Du thể hiện tấm lòng yêu mến trân trọng, xót thương. Song
đối lập với những nhân vật kể trên là hình ảnh của các nhân vật gian ác, xấu xa. Họ là những kẻ trực tiếp
hoặc gián tiếp gây ra đau khổ, bi kịch cho những bậc hiền tài. Viết về họ giọng điệu của nhà thơ sắc sảo,
gay gắt và không giấu được nụ cười mỉa mai, tiếng nói phê phán.
Nhìn chung trong mảng đề tài nhân vật lịch sử, Nguyễn Du am tường nhiều về sự kiện và nhân vật
lịch sử Trung Quốc đặc biệt nơi còn để lại dấu tích mà ông gặp trên đường. Ông hết lời ca ngợi các bậc
trung thần nghĩa sĩ và cũng phê phán những kẻ ác, kẻ xấu. Trên hết, ông không chỉ nêu bài học giáo huấn,
tấm gương đạo lý mà còn nhấn mạnh về những khía cạnh nhân văn, những nỗi niềm thế sự, những buồn
vui trong một đời người và cũng là chung cho mọi kiếp người. Chính vì thế, ông phê phán quyết liệt về
hiện tượng ngang trái của xã hội và đồng cảm với Khuất Nguyên, ông kêu hồn Khuất Nguyên đừng trở về
cõi dương gian.
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,
Thận vật tái phản linh nhân xi.
Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan,
Đại địa xứ xứ giai Mịch La.
Ngư long bất thực, sài hổ thực.
Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà? (Phản chiêu hồn)
(Hãy sớm thu tinh thần trở lại cõi thái cực,
Đừng trở về đây nữa, mà người ta mai mỉa.
Đời sau người đều là Thượng quan,
Mặt đất này đâu đâu cũng là sông Mịch La.
Cá rồng chẳng nuốt, hùm sói cũng ăn,
Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào?
Nguyễn Du triệt để khai thác các nhân vật lịch sử qua các sự kiện, các nhân vật trong không gian
và thời gian khác nhau. Chính vì thế mà trong thơ chữ Hán của ông luôn trở đi trở lại các môtíp nắm mồ,
đứng trước mồ, bóng chiều, bóng đêm, gió tây, trời tây ông luôn nhìn lại quá khứ với cảnh xưa, người cũ
luôn luôn đặt mình vào đó mà chiêm nghiệm lại những năm tháng đã qua. Qua các hình tượng nhân vật
lịch sử ông bày tỏ thái độ đúng – sai của chính bản thân mình qua từng nhân vật của ông.
Viết về đề tài lịch sử, Nguyễn Du thể hiện một cách nhìn mới mẻ, tích cực và có những lúc tiếp cận
đến chân lý của thời đại. Nhà thơ luôn thường trực ý thức nối kết quá khứ - hiện tại, lịch sử - hiện thực, vì
vậy khi nói về quá khứ cũng là nói về cả tương lai. Một điều đáng chú ý là khi bàn về các nhân vật lịch sử
Trung Hoa nhà thơ bao giờ cũng bắt nguồn từ lập trường dân tộc Việt Nam, đứng vững trên lập trường
dân tộc. Điều đó, làm nên giá trị đặc biệt có ý nghĩa nhân sinh và mang đậm màu sắc dân tộc.
Qua các bài thơ viết về các nhân vật văn hóa, lịch sử, Nguyễn Du thể hiện đầy đủ vẻ đẹp và ý nghĩa
của nó. Ấy là một hồn thơ nhạy cảm tinh tế với mọi thay đổi của kiếp sống con người, của những giá trị
nhân văn. Đằng sau những vần thơ ấy là tấm lòng khao khát muốn lưu giữ trong vĩnh hằng những giá trị
con người đẹp đẽ được kết tinh từ ý nghĩa lịch sử của nhân loại.
Như vậy, ba tập thơ cho ta thấy những chặng đường sáng tác phù hợp với các chặng đường đời và
tư tưởng của tác giả. Xuyên suốt nội dung thơ chữ Hán là tiếng nói trữ tình là tiếng nói nhân văn giữa một
thời tao loạn, tiếng nói khắc khoải tìm về ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người.
Chương 3: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN
DU
Đi vào văn hóa trong văn học là bước chân vào khu rừng già chất chồng thời gian với nhiều tầng
lớp, sắc độ. Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du chính là lối sống đang diễn ra trong đời
sống của con người hóa thành sắc thái chung của văn hóa Việt Nam.
Văn hóa là sản phẩm của con người, là sự thích ứng trước thiên nhiên đặt ra cho con người trước
thử thách. Cách ứng xử đó làm thành nét văn hóa đặc sắc trong nền văn hóa chung của nước Việt. Văn
hóa Việt đã hun đúc từ trong lịch sử, gắn chặt yếu tố cộng đồng, yếu tố cá nhân và trong quá trình phát
triển nó được tinh lọc thành bản sắc với những giá trị nổi bật tinh thần dân tộc, tình yêu thương con người.
Đó là cách gìn giữ và phát huy truyền thống của người Việt “Văn hóa là hiểu biết, để từng bước làm chủ
thiên nhiên, làm chủ xã hội và bản thân. Trong mọi điều hiểu biết, thì hiểu biết làm người, hiểu biết xử sự
và xử thế, đối với bản thân, gia đình, xã hội và thiên nhiên là biểu hiện đẹp đẽ nhất của văn hóa” [25, tr
43]. Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng phát huy truyền thống ấy, nổi bật lên trên
các quan hệ ứng xử: ứng xử đối với bản thân, ứng xử với môi trường tự nhiên, ứng xử với môi trường xã
hội, ứng xử trong gia đình.
3.1. Ứng xử đối với bản thân
Nói đến văn hóa ứng xử thì trước hết phải nói đến văn hóa ứng xử với chính mình là biểu hiện rõ
nhất, cơ bản nhất. Bởi vì theo tôi, văn hóa ứng xử là biểu hiện ở cấp độ cao nhất thông qua những ứng xử
cụ thể trong các hoàn cảnh cụ thể của nhận thức “bản thân văn hóa nhận thức có thể hiểu là sự chuyển hóa
những nhận thức kế thừa và tiếp thu để biến nó thành năng lực, những hiểu biết thành vốn sống con người
để từ đó tạo ra bản lĩnh con người, tạo ra phẩm chất với tính cách của con người. Con người có nhận thức,
có hiểu biết sâu rộng thì khả năng tồn tại càng lớn và cách ứng xử của nó có tính nhân văn cao” [6, tr 49].
Nguyễn Du sẵn mang trong mình dòng máu văn tài của cha ông, ông tỏ ra là một người đa tài.
Trước hết là ý thức tài năng:
Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn? (Tự thán I)
(Chân hạc dài là do tính trời, sao chặt ngắn được ?)
Bản chất của hạc là do “vốn sẵn tính trời” chân dài không thể chặt ngắn đi. Nếu chặt ngắn chân
hạc, thì hạc sẽ không còn là hạc nữa. Đôi lúc Nguyễn Du ý thức được bản thân mình, nói đến tài năng của
mình một cách rất thầm kín ông ví mình như “cánh hạc biển”, có tài nhưng không muốn để người khác
thấy tài năng của mình.
Hải hạc diệc hội vũ,
Bất dữ thế nhân tri. (Khổng Tước Vũ)
(Hạc biển cũng biết múa,
Nhưng không cho người đời biết.)
Nguyễn Du làm quan cho nhà Nguyễn, trên đường đi sứ sang Trung Quốc, nhân đi ngang qua nhà
cũ của Liễu Tông Nguyên, cảm khái văn tài của họ Liễu, Nguyễn Du nghĩ đến bản thân mình.
Tráng niên ngã diệc vi tài giả,
Bạch phát thu phong không tự ta.
(Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch)
(Thưở trẻ, ta cũng có tài ví như cây gỗ tốt,
Nay đầu bạc, chỉ luống tự mình than vãn trước gió thu)
Tự ý thức về giá trị bản thân mình, con người khát khao những gì? Tất nhiên là công danh, sự
nghiệp của xã hội. Nguyễn Du cũng vậy, ông càng ý thức về tài năng, càng khát khao cống hiến tài năng
của mình cho xã hội, nhưng Nguyễn Du sống trong thời đại “Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ
tai một vần”. Ở Nguyễn Du hùng tâm tráng chí muốn phò vua giúp nước trước đây theo thời gần như lụi
tàn, khiến thanh kiếm trở nên vô ích.
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm. (Tạp ngâm)
(Tấm lòng hùng tráng lụi tàn làm cây đoản kiếm thành vô dụng)
Ngay bản thân Nguyễn Du, vốn là một người nuôi mộng cao chí lớn, muốn tung hoành ngang dọc
như con chim hồng sải cánh tung bay. Nhưng rồi theo thời gian, cái hùng tâm tráng chí đó cũng đã nguội
lạnh dần, người tráng sĩ bây giờ trở thành một hình ảnh của quá khứ. Tất cả những nỗi đau đó dồn nén quá
lâu, không thể giải tỏa cuối cùng nó thoát ra thành câu hỏi lớn bi thương như chính hình ảnh của ông.
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Hùng tâm sinh tế lưỡng mang nhiên.(Tạp thi I)
(Người tráng sĩ đầu bạc bi thương nhìn trời,
Hùng tâm và sinh kế cả hai đều mờ mịt).
Sự nghiệp không thành, tài năng không được dùng đến, hùng tâm tàn lụi... là những nỗi đau và nỗi
ám ảnh chạy dọc xương tủy ông. Điều đó thể hiện rất rõ trong tập “Thanh Hiên” bài nào ta cũng bắt gặp
tráng chí, hùng tâm của thi nhân. Theo dõi dao động của nó dường như nó đi từ chỗ mạnh đến chỗ lụi tàn.
Trong thơ chữ Hán của ông, chúng ta bắt gặp đó đây hình ảnh thanh kiếm, dẫu có khi thanh kiếm chỉ là
“gậy” của một người “khất thực”, có điều người “khất thực” ấy không chỉ là đệ tử của cái bang, người
ngắm nhìn trời xanh ngạo nghễ, người ý thức về mình và tự hỏi cuộc đời.
Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên,
Triển chuyển nê đồ tam thập niên.
Văn tự hà tằng vi ngã dụng?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên. (Khất thực)
(Kiếm dài ngạo nghễ hiên ngang như tựa trời xanh,
Lăn lóc trong bùn lầy đã ba mươi năm.
Văn chương chữ nghĩa nào đã từng ích gì cho ta?
Không dè đói rét phải nhận lòng thương hại của người.)
Nếu hai câu thơ đầu tả cái chí ngạo nghễ của một lãng tử thì hai câu thơ sau mang âm điệu buồn.
Nguyễn Du đeo kiếm bên hông nhưng sao có vẻ hiu hắt quá, không có chất lãng tử của Lý Bạch múa
gươm đọc thơ sang sảng dưới ánh trăng, cũng không thấy chất du hiệp như Cao Bá Quát hay Nguyễn
Công Trứ mà chỉ thấy thanh trường kiếm của Nguyễn Du dường như mang tâm trạng của chính thi nhân
đeo nó. Cái tâm trạng u buồn của một con người thất chí, tâm trạng hắt hiu càng hiu hắt trước làn gió thu,
làm tăng nỗi bi hùng của Nguyễn Du với cái nhìn cuộc đời với đám mây nổi.
Nhãn để phù vân khan thế sự,
Yêu gian trường kiếm quải thu phong. (Ký hữu)
(Xem việc đời như mây nổi trong đáy mắt,
Kiếm dài đeo lưng treo trước gió thu.)
Tự tin, tự hào về giá trị bản thân nhưng trong mười năm lưu lạc gió bụi ấy, Nguyễn Du vẫn thường
ôm mối hận của kiếp nam nhi.
Thập niên vị tiết nam nhi hận (Ninh Công thành)
(Mười năm chưa rửa được mối hận nam nhi)
Trong khoảng “mười năm gió bụi”, Nguyễn Du sống trong tình trạng cô đơn không anh em, bạn bè,
khắp góc bể chân trời chẳng lấy ai làm bầu bạn. Lúc nào, Nguyễn Du cũng trông ngóng về quê nhà.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán (Quỳnh Hải nguyên tiêu)
(Chốn non Hồng không còn nhà, anh em tan tác.)
Cuộc sống lưu lạc, tha phương, ly biệt nơi đây, Nguyễn Du không bạn bè người thân, lưu lạc nơi
góc bể chân trời, nơi đất khách quê người là tâm trạng khiến con người ý thức bản thân mình. Da diết nhớ
quê nhà, Nguyễn Du càng khắc khoải nghĩ đến những người thân mà ông xa cách lâu nay, đó là anh em, là
bạn bè, là người vợ đã khuất. Tìm về quê hương Hồng Lĩnh, nhà thơ khao khát về một chốn bình yên. Nơi
đó nhà thơ có những ngày tự do bay nhảy cùng sông Lam núi Hồng, cùng rau thuần cá vược, cùng đàn âu
trắng… Có thể nói, quê hương như làm cho tâm hồn nhà thơ được hồi sinh, Nguyễn Du cảm thấy ấm áp
và an ủi hơn bội phần. Ngược lại, ông cũng ưu ái dành cho quê hương một tình cảm thiêng liêng, sâu đậm.
Trên mỗi bước đường xa quê, ông luôn hướng về Hồng Lĩnh.
Dao ức gia hương thiên lý ngoại (Mạn hứng)
(Xa nhớ quê hương ngoài nghìn dặm)
Tự ý thức về giá trị bản thân, nhưng đồng thời ông cảm nhận về thời gian luôn dài và vô hạn, trong
khi đó cuộc sống của con người thì lại ngắn ngủi và hữu hạn. Hùng tâm không được thực hiện mà thời
gian nào có dừng lại tuổi tác cứ ùa về mỗi phút giây trên tóc. Nguyễn Du than thở cho hùng tâm tráng chí
của mình không thành tóc thì bạc mà người thì cứ già đi.
Lưu lạc bạch đầu thành để sự. (U cư)
(Lưu lạc đến bạc đầu mà có nên chuyện gì đâu? )
Bằng cảm quan nghệ thuật nhạy bén cộng với trong hoàn cảnh xa quê hương. Nguyễn Du ý thức
sâu sắc về sự trôi chảy của thời gian, điều mà Nguyễn Du cảm nhận được là thời gian tựa như mũi tên bay
nhanh vun vút. Mũi tên ấy bay đi mang theo tất cả: niềm vui, tuổi xuân, cả công danh, sự nghiệp. Chính vì
vậy, Nguyễn Du ý thức được cái hữu hạn của kiếp người nên càng lo âu, chán chường. Tuổi già, tóc bạc
đã đến mà sự nghiệp đang còn dở dang.
Càng ý thức về thân phận con người, Nguyễn Du càng cảm thấy lẻ loi, cô độc nỗi niềm đó không
biết chia sẻ cùng ai.
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ (My trung mạn hứng)
(Ta có tất lòng không biết nói cùng ai)
Lý phát đương tri vị bạch tâm (Phúc thực đình)
(Gỡ tóc, nên biết còn tấm lòng chưa được giãi tỏ)
Tịch liêu lương dạ dữ thùy đồng (Trệ khách)
(Đêm đẹp và vắng lặng biết cùng ai tâm sự ? )
Ỷ biến lan can vô dữ ngữ (Giản Công bộ Thiêm sự Trần)
(Tựa khắp lan can không cùng ai trò chuyện)
Trung tình vô hạn bằng thùy tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri. (Hoàng hạc lâu)
(Biết cùng ai bày tỏ niềm cảm xúc từ trong đáy lòng?
Trăng trong gió mát cũng không biết được (nỗi niềm đó).)
Chính vì thế, Nguyễn Du càng xót xa khi ông ý thức được tài năng của mình, cái mà mình nâng
niu, quý trọng lại không có nghĩa lý gì đối với cuộc đời, nhà thơ cay đắng suy nghĩ.
Nhất sinh từ phú tri vô ích,
Mãn giá cầm thư đồ tự ngu. (Mạn hứng)
(Một đời từ phú biết là vô ích,
Sách đàn đầy giá chỉ làm cho mình thêm ngu.)
Bản thân là một người có tài nhưng không được dùng đến, ông càng cảm thấy bi quan chán nản.
Trước kia, các nhà Nho không dung hòa cuộc sống của xã hội thường quay lưng lánh đời theo Lão –
Trang để tìm cho mình sự thanh thản tâm hồn qua việc gần gũi với thiên nhiên. Nguyễn Du mang tâm
trạng đầy u uất cũng muốn lánh đời theo tư tưởng Lão – Trang, bản thân ông có thể hưởng cuộc sống an
nhàn hòa nhập với thiên nhiên nhưng xã hội có nhiều điều vướng bận, có những việc cần ông. Khi ông
sống trong xã hội đầy rối ren, có lúc ông muốn xuống tóc vào rừng.
Hà năng lạc phát qui lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân.(Tự thán II)
(Ước sao có thể xuống tóc vào rừng,
Nằm nghe tiếng thông reo lưng chừng mây.)
Có lúc Nguyễn Du muốn học đạo thần tiên cho tâm hồn thanh thản:
Phù lợi vinh danh chung nhất tán,
Hà như cập tảo học thần tiên. (Mộ xuân mạn hứng)
(Cái lợi bọt bèo, cái danh tươi tốt đều tiêu tan,
Sao bằng kịp thời sớm theo học đạo thần tiên.)
Nguyễn Du ý thức bản thân mình từ đó những ý nghĩa tiêu cực, thoát ly trần tục. Nguyễn Du muốn
tu tập theo Đạo Phật để giữ lòng bình lặng. Ông tưởng tượng nơi ông ở là một cảnh Đào nguyên cách xa
trần thế và ông mong ước được thoát ra ngoài vòng trần tục, vui chơi dưới gốc cây tùng (Sơn thôn). Có lúc
ông cảm nhận:
Diệp lạc hoa khai nhãn tiền sự,
Tứ thời lâm kính tự như như. (Tạp thi II)
(Lá rơi hoa rụng việc trước mặt
Bốn mùa tấm lòng như gương vẫn tự nhiên thư thái như không.)
Mãn cảnh giai không hà hữu tướng ?
Thử tâm thường định bất ly thiền.(Đề Nhị Thanh động)
(Mọi cảnh đều là không, thì làm gì có tướng,
Tâm này thường định, không xa rời đạo thiền.)
Không dừng ở lại đó, Nguyễn Du tìm đến Đạo Giáo để được tịnh tâm. Nguyễn Du đã xác định Tâm
chính là Đạo. Tâm thể thì thường hằng vắng lặng, dù sóng gió “ba đào” ông vẫn giữ lòng trong sạch như
việc lấy gàu múc nước, nước sẽ động nhưng quan trọng không phải là đục, sau khi đục vẫn là trong. Việc
ông sống chung với những con người mưu mô, xảo quyệt trong triều đình nhưng ông lúc nào cũng giữ
mình trong sạch, không lánh đời mà tìm đến chỗ an nhàn (Đạo ý).
Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Du muốn theo Phật giáo, Đạo giáo cụ thể ông không phải là một
kẻ tu hành mà chính ông muốn tìm sự an ủi, chia sẻ để bản thân ông bớt ưu phiền. Vì chốn quan trường
“gió bụi trần ai” đầy nguy hiểm, lòng người khúc khuỷu khó lường cho nên bản thân ông không quên
nhắc nhở mình luôn phải giữ lòng trong sạch.
Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,
Tỉnh thủy vô ba đào.
Trạm trạm nhất phiến tâm,
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.(Đạo ý)
(Trăng sáng soi giếng xưa,
Nước giếng không nổi sóng.
Một tấm lòng thanh trong,
Như trăng sáng chiếu giếng xưa.)
Đối diện chính bản thân mình, Nguyễn Du ý thức về mình ở nhiều khía cạnh. Đó là ý thức về giá trị
bản thân, đề cao phẩm giá cá nhân mình ví mình như “cánh hạc biển”, sự ngắn ngủi của đời người trước
vũ trụ vô cùng, về mọi nỗi thăng trầm bất hạnh của đời người... tất cả là những cảm xúc từ con tim khối óc
của con người có ý thức về bản thân mình vì có ý thức nên cảm quan trở nên sắc bén trước hiện thực cuộc
sống. Đối với Nguyễn Du sống ở đời cần phải suy nghĩ, cống hiến và nghĩ về thời cuộc.
3.2. Ứng xử với môi trường tự nhiên
Để sinh sống và phát triển, con người bắt buộc phải dựa vào thiên nhiên, phải có cách ứng xử đối
với thiên nhiên. Con người ra đời, tồn tại trong môi trường thiên nhiên, vì vậy cách ứng xử của con người
đối với thiên nhiên là vấn đề quan trọng không thể không nói đến. Qua việc ứng xử với môi trường thiên
nhiên, chúng ta có thể đánh giá được trình độ văn hóa của con người ở mức nào.
Trong ứng xử với thiên nhiên, một mặt con người phải thuận theo thiên nhiên, thích nghi với thiên
nhiên để tồn tại, mặt khác con người cần phải cải tạo thiên nhiên. Đây là một vấn đề không đơn giản và
trong thực tế, có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này.
Người phương Tây với quan niệm con người là sản phẩm của Chúa, còn thiên nhiên là sự hỗn
mang cần phải sắp xếp lại cho phù hợp với con người. Họ cho rằng con người là trung tâm của vũ trụ, còn
thiên nhiên phục vụ con người. Cho nên, phương Tây vừa thích nghi vừa cải tạo thiên nhiên nhưng họ
nghiêng về cải tạo thiên nhiên hơn.
Người phương Đông lại cho rằng “cuộc sống của con người nông nghiệp là gắn bó mật thiết với
thiên nhiên, con người và vũ trụ nằm trong một hệ thống nhất (thiên địa vạn vật nhất thể)” [87, tr 168].
Do vậy, con người là một tiểu vũ trụ, con người với trời đất là hợp nhất cho nên họ sống hài hòa cùng
thiên nhiên hơn là để thiên nhiên phục vụ cuộc sống của con người như phương Tây.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng ta thấy rất nhiều hình ảnh của thiên nhiên và ông ưu ái dành
cho thiên nhiên một vị trí đặc biệt.
3.2.1. Thiên nhiên tươi đẹp để hưởng thụ ngâm vịnh
Trước cảnh đẹp của thiên nhiên Tô Đông Pha phải thốt lên “Chảy hoài như dòng nước chẳng bao
giờ mất. Ánh trăng tràn ngập khắp trời mà chẳng kém hay hơn... Nhìn trời đất không muốn chớp mắt... gió
mát trên sông, trăng sáng đầu núi, tai nghe mà nên tiếng, mắt thấy mà thành màu, lấy đi không cấm, dùng
mãi vẫn còn. Kho tạo hóa là kho vô tận để chúng ta cùng hưởng” [83, tr 332]. Quả thật như vậy, thiên
nhiên tươi đẹp tạo nên nguồn cảm hứng của nhiều thi sĩ, trong đó có Phan Huy Chú đứng trước cảnh đẹp
của thiên nhiên đã viết một lúc hai bài.
Sông sâu sắc núi mờ mờ,
Con chèo vượt sóng tới bờ Tương Âm
Thuyền dừng, thành vắng mưa dần,
Tấm lòng muôn dặm, khôn cầm đêm nay.
(Nghỉ lại ở Tương Âm I)
Mưa xa khói sớm tan rồi,
Trên sông một nước, một trời liền nhau
Buồn đi gió đã thuận đâu
Tạm vào trong bóng liễu cao buộc thuyền.
(Nghỉ lại ở Tương Âm II)
Niềm sảng khoái, cảm giác lâng lâng trước cảnh Tương Âm được tác giả miêu tả như một bức
tranh lụa có sắc núi lờ mờ, có một mái chèo trong khói sóng, có mưa tạnh trên bãi cát, có dòng sông xanh
ngắt, nước tiếp giáp với trời.
Đứng trước cảnh đẹp của mùa xuân Nguyễn Trãi đã dâng trào cảm xúc.
Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phát thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
Cô châu trấn nhật các sa miên. (Trại đầu xuân độ)
(Đầu bến cỏ xuân xanh lục như khói
Lại thêm trời mưa xuân nước vỗ ngang trời
Đường ngoài nội vắng teo ít người qua lại
Thuyền lẻ loi suốt ngày gác đầu lên bến mà ngủ.)
Nguyễn Trãi miêu tả cảnh thật đặc sắc có bến nước, có cỏ xanh mướt, có mưa gió, có con đường
vắng và đặc biệt có con thuyền lẻ loi suốt ngày gác đầu lên bến mà ngủ.
Thiên nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du có khác. Tất nhiên Nguyễn Du cũng miêu tả thiên
nhiên nhưng thiên nhiên không chỉ làm nền cho con người mà còn là đối tượng để con người miêu tả
ngâm vịnh. Chính đặc điểm này làm cho thiên nhiên trong thơ ông trở nên hàm súc và gợi cảm hơn bao
giờ hết.
Mạc mạc thu quang bát nguyệt thâm,
Mang mang thiên khí bán tình âm.
Thu phong cao trúc minh thiên lại,
Linh vũ hoàng hoa bố địa câm (kim)
Viễn tụ hàn xâm du tử mộng,
Trừng đàm thanh cộng chủ nhân tâm.
Xuất môn từ bộ khan thu sắc,
Bán tại giang đầu phong thụ lâm.
(Tạp ngâm III)
(Tháng tám lặng lẽ ánh thu già,
Khí trời mênh mông nửa tạnh ráo nửa âm u.
Trúc cao đón gió, sáo trời thổi,
Hoa vàng được mưa, như rắc vàng trên đất.
Khí lạnh rặng núi xa thấm vào giấc mộng người du tử,
Nước đầm trong cùng với lòng chủ nhân,
Ra cửa bước thong dong nhìn sắc thu,
Thấy một nửa sắc thu ở tại rừng phong đầu sông.)
Thiên nhiên được Nguyễn Du miêu tả trên mặt đất như có một lớp sương mờ bao phủ. Gió thổi vi
vu vào những dãy trúc trước làng, những bông hoa cúc qua một đêm mưa rụng xuống như rắc vàng trên
mặt đất. Nguyễn Du bước “thong dong” đi trên cánh đồng. Mùa thu đã về trên những ao đầm, trên những
rặng núi xa.
Nguyễn Du cảm nhận thiên nhiên sau gần hai chục năm xa cách, Nguyễn Du trở lại Tiên Điền một
mình đi lang thang trên cánh đồng và ra phía bờ sông Lam. Bến Giang Đình, một trong tám cảnh đẹp của
Nghi Xuân mà sao thi sĩ cảm thấy vắng vẻ. Nguyễn Du đứng nhìn bến sông khói buổi chiều như từ những
ngọn cỏ lan dần ra khắp cánh đồng rồi lan ra xa mặt nước.
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi. (Giang Đình hữu cảm)
(Khói trên ngọn cỏ hai bờ sông khiến lòng khôn xiết bi thương.)
Từ Tiên Điền trở lại Phù Dung, Nguyễn Du được thăng chức Tri phủ Thường Tín, ông cảm thấy
nhớ da diết sông Lam núi Hồng, nơi đó đã in dấu vết sâu đậm vào ký ức của ông, đến nỗi những hình ảnh
đó luôn theo sát ông trên mỗi nẻo đường. Vì quá nhớ sông Lam núi Hồng, Nguyễn Du viết:
Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh,
Thiên lý Trường An thử dạ tình. (Ký hữu)
(Một vầng trăng tròn trên núi Hồng,
Ở kinh đô Trường An nghìn dặm tình đêm nay)
Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm. (Xuân dạ)
(Nghìn dặm nhớ quê, lòng gởi theo vầng trăng)
Thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Du đâu đâu cũng hiện lên với một thần thái tươi sáng linh
động tràn đầy sức sống. Nhưng dường như riêng đối với quê hương, ông có cái nhìn trìu mến đặc biệt như
một ánh trăng, một đám mây trôi, một làn gió, hươu nai... Trăng (nguyệt) được ông quan tâm, trăng rất
thân thiện và gần gũi.
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên (Quỳnh hải nguyên tiêu)
(Muôn dặm Quỳnh Châu đêm nay trăng tròn)
Nguyệt minh hồng nhạn tán (Biệt Nguyễn đại lang II)
(Trăng sáng chim hồng chim nhạn tản mác)
An đắc huyền quan minh nguyệt hiện (Ngọa bệnh II)
(Ước gì trước cửa huyền vầng trăng sáng hiện ra)
Thiên nhiên tươi đẹp không chỉ thể hiện ở ánh trăng, Nguyễn Du còn phác họa hình ảnh mây
(vân):
Cô thành nhật mộ khởi âm vân (Ngẫu đắc)
(Chiều tà trên thành lẻ loi mây đen nổi)
Sa trường nhật mộ trận vân thâm (Thành hạ khí mã)
(Chốn bãi cát trời chiều mây kéo dày đặc)
Trên đường đi sứ, Nguyễn Du bỗng dưng thấy bối rối trước sự xuất hiện màu đỏ của rừng phong
báo hiệu mùa thu về. Hình ảnh mùa thu được Nguyễn Du nhắc đến 81 lần trong 250 bài thơ [106, tr 126].
Mùa thu có những hình ảnh hoa cúc vàng rực, rừng phong giăng giăng lá đỏ. Đặc biệt là cây phong trong
quá trình vận động những chiếc lá xanh thay màu vàng rồi màu đỏ thẩm, gây nên một sức xúc động lạ
thường cho người ngắm cảnh.
Thu mãn phong lâm sương diệp hồng.(Nhiếp Khẩu đạo trung)
(Khí thu đầy rừng phong, sương nhuộm đỏ lá cây)
Nguyễn Du được triều đình tín nhiệm và làm Tri phủ Thường Tín chưa đầy năm lại cử ông lên ải
Nam Quan để tiếp sứ thần Trung Quốc [57,tr 145]. Trong chuyến đi sứ bộ Việt Nam đi qua Yên Kinh gồm
hai mươi bảy người vừa đặt chân đến Thái Bình trên con sông Minh Ninh thuộc tỉnh Quảng Tây, trên
đường đi đoàn người bất chợt gặp ngọn gió thổi tới. Người dẫn đầu sứ bộ là Nguyễn Du và ông xúc động
cầm bút ghi lại cuộc gặp gỡ cơn gió đó.
Thái Bình thành ngoại tây phong khởi,
Xuy trứu Ninh Minh nhất giang thủy.
Giang thủy trứu hề giang nguyệt hàn,
Thùy gia hoành địch bằng lan can.
Nhị thập thất nhân cộng hồi thư
Cố hương dĩ cách vạn trùng san.
(Thái Bình thành hạ văn xuy địch)
(Ngoài thành Thái Bình gió tây nổi,
Làm cho cả một dòng sông Minh Ninh gợn sóng.
Nước sông gợn sóng trăng sông lạnh,
Nhà ai (có người) tựa lan can thổi sáo?
Cả hai mươi bảy người (trên thuyền) đều quay đầu nhìn lại,
Quê nhà đã cách muôn trùng núi.)
Một ngọn gió Tây thổi tới, làm xáo động cả dòng sông, vầng trăng dưới nước cũng gợn sóng. Giữa
đất trời im lặng từ lan can nhà ai đã gọi dậy một điệu nhạc, một tiếng sáo, một tiếng lòng, một tình quê.
Tiếng sáo ấy làm cho hai mươi bảy người cùng một lúc ngoảnh đầu lại, nhìn về quê hương.
Quê hương Nguyễn Du ở làng Tiên Tiền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh vùng đất có dòng sông
Lam mượt mà, có ngọn núi Hồng hùng vĩ đã in sâu đậm vào ký ức của ông, đến nỗi những hình ảnh đó
luôn theo sát ông trên mỗi nẻo đường, trong mọi giai đoạn của cuộc đời.
Nhà thơ lúc nào cũng canh cánh một nỗi nhớ quê da diết, một nỗi khắc khoải mong về. Về đêm
trong không gian tĩnh mịch có mưa, có tuyết rơi, tiếng tù và, tiếng chuông, tiếng trống từ xa vọng đến lúc
khoan lúc nhặt cùng với tiếng gió thổi xào xạc trên cây cũng dậy lên nỗi niềm nhớ quê, day dứt.
Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai. (Thu chí)
(Tuyết rơi mịt mù nơi thôn xóm hẻo lánh,
tiếng tù và buổi sớm bi thương)
Vi vi chung cổ nguyệt trung văn
(Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn)
(Tiếng chuông tiếng trống văng vẳng trong ánh trăng)
Thêm vào đó trong không gian tĩch mịch có tiếng đàn bi ai, tiếng sáo thổi gấp trên thuyền vọng lại
làm cho Nguyễn Du nhớ về quê hương một cách da diết.
Cấp quản bi ti vạn bất đồng. (Ngẫu hứng II )
(Tiếng sáo gấp tiếng đàn bi ai không hợp điệu.)
Nguyệt trung hoành địch thái vô lại,
Bán dạ giang thành xuy “Lạc hoa”. (Đại tác cửu thú tư quy II )
(Cầm ngay chiếc sáo thổi dưới trăng, buồn thiu,
Nửa đêm bên giang thành, thổi khúc “Hoa mai rụng”. )
Ngọc địch lâu đầu thiên thượng khúc (Quảng Tế ký thắng)
(Sáo ngọc trên lầu thổi khúc nhạc trên trời)
Bên cạnh đó, trong thời gian sống ở quê nhà Nguyễn Du gần gũi hơn với dân quê mình. Những
buổi hát đối đáp, hát ví, hát phường vải ở tại nơi đây đã nuôi dưỡng tâm hồn nghệ sĩ vĩ đại. Và có lẽ chính
ở đây, Nguyễn Du nhận ra vẻ đẹp diệu kỳ, tao nhã, uyển chuyển trong thơ có lối thơ ngâm hoa vịnh
nguyệt.
Lam thủy Hồng Sơn túc vịnh ngâm (Tặng Thực Đình)
(Sông Lam núi Hồng đã đủ để ngâm vịnh )
Lam thủy Hồng Sơn vô hạn thắng,
Bằng quân thu thập trợ thanh ngâm (Phúc Thực Đình)
(Sông Lam núi Hồng đẹp vô hạn,
Nhờ anh thu lượm để góp thêm vào việc ngâm vịnh thanh tao)
Tình yêu thiên nhiên dường như trở thành một nét đẹp thẩm mỹ trong tình cảm con người Nguyễn
Du. Vì vậy, mỗi lần đi qua một địa danh, phong cảnh nào, cảm hứng của thi sĩ đều bừng dậy. Tứ thơ bay
bỗng lãng mạn thể hiện tình yêu niềm sảng khoái cảm giác lâng lâng trước thiên nhiên tươi đẹp.
Có thể nói, Nguyễn Du không chỉ nhìn thiên nhiên như vốn có của nó, không chỉ dùng thiên nhiên
để bày tỏ tình cảm mà ông luôn nhắc nhở bản thân mình lúc nào cũng phải sống hài hòa cùng thiên nhiên,
nơi đó có quê hương. Quê hương đã in sâu đậm vào ký ức từ thời thơ ấu, nơi đó Nguyễn Du có những
ngày tự do bay nhảy cùng sông Lam núi Hồng, cùng rau thuần cá vược, cùng đàn âu trắng…. Quê hương
như làm cho tâm hồn nhà thơ được hồi sinh. Vì thế, ông có cái nhìn trìu mến về quê hương đặc biệt như
một ánh trăng, một đám mây trôi, một làn gió, hươu nai, tiếng chuông, tiếng trống, tiếng sáo cất lên trong
đêm khuya... cho nên tất cả đều gợi lên tâm trạng nhớ về quê hương da diết khôn nguôi. Đó chính là nét
đẹp trong ứng xử văn hóa với thiên nhiên của Nguyễn Du.
Bên cạnh đó, thiên nhiên trong thơ ông chính là lực lượng đồng hành, thấu hiểu, chia sẻ để thi sĩ
bộc lộ tâm trạng, thân phận và thế ứng xử của mình trong mọi giai đoạn của cuộc đời.
3.2.2. Thiên nhiên kỳ quái khiến con người phải khiếp sợ
Thiên nhiên trong thơ chữ Hán không chỉ là vẻ đẹp diệu kỳ, tao nhã cho con người ngâm hoa vịnh
nguyệt mà còn kỳ quái khiến con người phải khiếp sợ. Trên đường đi sứ, Nguyễn Du nhận ra hết tất cả
những dấu hiệu đó.
“Trên đường Quỳnh Nhai” Nguyễn Quang Bích cảm nhận thiên nhiên vô cùng tinh tế.
Khe suối loanh quanh vòng dải áo
Núi non chồng chất bức tranh mây
(Trên đường Quỳnh Nhai – Nguyễn Quang Bích)
Núi non chồng chất, sóng nghiêng, thác đổ cũng làm cho Thế Lữ say đắm.
Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ. (Nhớ rừng -Thế Lữ)
Đứng trước dòng thác dữ cuồn cuộn dâng trào, Nguyễn Quang Bích khắc họa một cách sống động.
Nước reo sùng sục tựa trâu giống
Đá mọc lô xô tựa mũi tên
(Qua thác Chiến Than - Nguyễn Quang Bích)
Trong lộ trình đi sứ, Nguyễn Du nghỉ chân tại sông Ninh Minh. Đây là một con sông khá nổi tiếng
của Trung Quốc. Con sông này trong mắt Nguyễn Huy Oánh thì trù phú xinh đẹp như một bức tranh họa
đồ.
Cảnh như sơn thủy họa đồ trung (Minh Giang đăng chu)
(Cảnh đẹp như sơn thủy trong bức họa đồ )
Sông Ninh Minh, trong mắt Phạm Chi Hương sông này có vẻ đẹp diệu kỳ, lung linh, huyền ảo của
đêm trăng trên sông. Ánh trăng trong vắt nhô lên từ sắc màu biếc xanh của núi trải đều khắp bốn phương
trời.
Thuyền núp bóng tre xanh mát rượi,
Trăng soi dải núi biếc lung linh.
(Nhạc Dương lâu – Hoa Bằng dịch )
Có phải Nguyễn Du nhìn thấy ánh trăng trong vắt nhô lên từ màu xanh biếc của núi như trong mắt
Phạm Chi Hương chăng? Không phải thế. Ông thấy nước từ trên cao đổ xuống. Trên ghềnh nước chảy
mạnh hung hãn như con giao long nổi giận. Ở dưới nước chảy ào ào như tên bay, nỏ bắn khiến người kinh
hồn bạt vía. Sóng như gào thét dữ dội, vỗ tung bọt ầm ầm cả đêm lẫn ngày. Nhìn con sông từ xa như
những con thuồng luồng, long li hung ác ở vực sâu sẵn sàng nhe nanh ra để uy hiếp con người.
Tự cao nhi hạ như bát thiên,
Than thượng hà sở văn?
Ứng long kích nộ lôi điền điền
Than hạ hà sở kiến?
Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền .
(Ninh Minh giang chu hành)
(Nước như đổ xuống tự trời cao,
Trên thác nghe thấy gì?
Nghe như tiếng con rồng có cách nổi giận, sấm động ầm ầm.
Dưới thác thấy những gì?
Thấy như máy nỏ bật mạnh, tên lìa khỏi dây.)
Qua sông Ninh Minh gặp không ít khó khăn cồn đá cao, vực sâu với những hình thù kỳ lạ như
rồng, rắn cọp, beo, trâu, ngựa như đang chờ sẵn để mai phục con người.
Nhất tả vạn lý vô đình yên
Cao sơn giáp ngạn như tường viên.
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên,
Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền.
(Ninh Minh giang chu hành)
(Một dòng tuôn vạn dặm không ngừng
Núi cao giáp bờ như bức tường.
Giữa có những hòn đá kỳ lạ chen chúc nhau
Có những hòn hình rồng, rắn, cọp, beo, trâu,
ngựa bày la liệt trước mặt)
Trên đường công vụ Nguyễn Du phải qua lắm thác nhiều ghềnh, ông tận mắt chứng kiến những
cơn giận dữ của thiên nhiên.
Bạch ba chung nhật tẩu xà long,
Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ (Bất tiến hành)
(Sóng bạc suốt ngày như rắn rồng đua chạy,
Hai bên bờ núi xanh như sói, cọp )
Băng nhai quái thạch nộ tương hướng (Chu hành tức sự)
(Những bờ núi lỡ, những hòn đá kỳ quái giận dữ nhìn nhau)
Bách lý tản lưu vô định phái. (Hoàng Hà trở lạo)
(Một đợt sóng vọt cao lên là thành bãi)
Thiên nhiên thật kỳ vĩ nhưng cũng thật đáng sợ. Đi trên thuyền lúc nào cũng có cảm giác thấp
thỏm, lo âu. Lo bị sợ nước cuốn, lo bị thuồng luồng vồ, lo bị chìm không biết đâu là đáy.
Tâm huyền huyền đa sở úy,
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để. (Ninh Minh giang chu hành)
(Lòng chơi vơi vì sợ nhiều,
Nguy thay hiểm thay chìm sâu không đáy.)
Nước cuồn cuộn trắng xóa, nước đẩy đằng sau, cản đằng trước bên mạn thuyền như muốn cuốn
phăng đi tất cả như muốn nuốt cả con người. Chính vì điều đó, mọi người phải chuẩn bị dây thừng dài
trăm trượng, những người trai trẻ đi thuyền có kinh nghiệm nhưng lúc nào cũng có cảm giác lo lắng mà
bạc cả mái đầu. Nước chảy ào ào, sóng gào thét dữ dội nhưng mọi người cố gắng chèo thuyền để vượt
thác.
Chu tiếp phân phân đồng nhất lưu,
Há than nhân hỉ thướng than sầu.
Bách thượng trường thằng vãn bất tiến,
Chu trung niên thiếu giai bạch đầu. (Bất tiến hành)
(Thuyền chèo tới tấp đều cùng trong một dòng nước,
Người xuống khỏi thác thì vui mừng, người lên thác thì lo.
Dây thừng dài trăm thượng kéo mãi không lên được,
Trai trẻ trong thuyền đều bạc cả mái đầu.)
Nước chảy ào ào, sóng gào thét dữ dội, làm cho bờ sông lở sụt, thiên nhiên thật hung bạo có thể
dìm chết con người bất kỳ lúc nào. Chính vì điều đó, Nguyễn Du không chỉ lo cho bản thân mình mà ông
còn có mối lo, sợ sóng to gió lớn nước lũ tràn.
Lam Giang trướng thu thủy,
Ngư miết du khâu lăng,
Ngưu mã mê nhai sĩ.
Dĩ ngạn băng bạo lôi,
Hồng đào kiến kỳ quỉ.(Lam Giang)
(Sông Lam tràn đầy nước lụt mùa thu
Cá giải bơi đùa nơi gò đẫy
Trâu ngựa không nhận ra bờ nước
Bờ sông lở sụt ầm ầm như sấm dữ,
Sóng lớn thấy như có quỷ lạ.)
Đồng Lung giang thủy khứ du du (Đồng Lung giang)
(Nước sông Đồng Lung dằng dặc chảy)
Thi nhân chợt nhận ra rằng sự thống khổ lầm than bệnh tật, mất mùa, đói nghèo, cả cái chết… đang
bao trùm cuộc sống của chính họ là thiên tai đang hoành hành. Cuộc sống đó họ phải đối mặt với thiên
nhiên hung bạo, không còn cách nào khác chính con người hy vọng vào lời kêu gọi sự hỗ trợ của thần
linh, đức hiếu sinh của đất trời.
Đế đức bản hiếu sinh (Lam Giang)
(Trời vốn có đức hiếu sinh)
Thiên nhiên thật hung bạo, Nguyễn Du tận mắt chứng kiến những cơn giận dữ của thiên nhiên ông
thật sự hoảng sợ. Những bờ núi lỡ, nghiêng đổ, nước từ trên cao đổ xuống, nước chảy rất mạnh, nước như
trút xuống. Hai bên bờ sóng vỗ mạnh gào thét dữ dội, vỗ tung bọt ầm ầm cả đêm lẫn ngày. Nước cuộn
xoáy như muốn kéo phăng đi hết tất cả.
Vũ sư thế khấp Bằng Di nộ,
Ngũ chỉ sơn tiền thủy bạo chú.(Bất tiến hành)
(Thần mưa khóc sướt mướt, thần nước giận dữ
Trước núi Ngũ Chỉ, nước như trút xuống.)
Ngân hà tạc dạ tự thiên khuynh
(Văn há Đại Than tân lạo bạo trướng chư hiểm câu thất)
(Đêm qua dòng sông Ngân từ trên trời đỗ xuống)
Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyên
Hạ lạo sơ trướng phí như tiên ( Ninh Minh giang chu hành)
(Sóng vỗ bọt phun ngày đêm ầm ầm
Nước lụt mùa hè vừa dâng, nước sôi sục )
Phù vân sạ tán thạch dung sấu,
Tân tạo sơ sinh giang thủy hồn.(Minh Giang chu phát)
(Mây nổi chợt tan dáng núi gầy đi,
Lụt mới đổ về nước sông đục ngầu.)
Với tâm trạng bất an như thế, Nguyễn Du đã thốt lên:
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý(Ninh Minh giang chu hành)
(Nguy vong nghiêng đổ đều là do ý trời )
Nghiêng đổ, sụp lỡ, chìm lỉm… thiên nhiên hung bạo là như vậy, con người đứng trước sự nguy
hiểm lớn lao, phải tiếp nhận sự đối đầu sóng gió. Con người không thể chống lại chỉ còn cách phải phó
thác mệnh trời.
Trước sự hung bạo của thiên nhiên, Nguyễn Du thấy lo lắng cho kiếp người mong manh của những
con người đang sống. Vì cuộc sống nghèo khổ cho nên con người phải tìm kiếm miếng ăn trên sông hồ,
đồi núi con người đâu biết nguy hiểm đang rình rập họ. Nguyễn Du khi đi qua những vùng bão, nước lũ
dâng cao làm cho bờ sông sụp lỡ, tính mạng con người có thể chết ngay trong gang tất. Nguyễn Du hình
dung được cơn giận dữ của thiên nhiên sẽ trút xuống con người, có lẽ vì thế ông đi đến đâu thường đốt
nhang khấn vái trước các bậc thần minh, hiền nhân, thổ công ở địa phương đó để cầu xin sự bình an trên
đường. Đó là văn hóa ứng xử của người Việt Nam.
Nhất bôi không điện lâm giang miếu (Quá Thiên Bình)
(Một chén rượu làm lễ suông tại ngôi đền bên sông)
Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ (từ) (Hạ than hỷ phú)
(Thành tâm dâng hương cầu khẩn trước đền tướng quân)
Tục thờ cúng, tế lễ có thể xem là một đặc trưng của các dân tộc có nền văn minh lúa nước. Với sự
thành tâm khấn vái trước trời Phật, Thánh thần... có thể hóa giải mọi kiếp nạn cho con người. Con người
với số phận mong manh như con ong, cái kiến, như cọng rơm nhánh cỏ luôn khao khát vươn tới một cái gì
vững bền, chắc chắn... cho nên nếu như những điều ấy họ không đạt được trong cuộc sống thì họ khấn
nguyện cầu xin... như một thế cân bằng trong cuộc sống để vơi bớt những điều phiền muộn đau khổ. Đây
là tập tục ngàn đời của văn hóa Việt.
Như vậy, trước sự hung bạo của thiên nhiên có thể dìm chết con người. Ranh giới của con người
khi đứng trước sự sống và cái chết thì không ai không quan tâm, đặc biệt là bản sắc của cả cộng đồng dân
tộc không vì thế mà biến đổi. Dù ở nơi nào họ cũng bộc lộ những tính chất chung là nhân ái, thương
người.
Sinh mạng con người đứng trước thiên nhiên hung bạo, sự trợ giúp các thế lực siêu nhiên đó là
niềm tin của con người. Vì vậy, Phật giáo vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của con người
Việt Nam. Các giáo lý căn bản của nhà Phật là từ bi, nhân quả, luân hồi... thấm sâu vào đời sống tinh thần
của mỗi người dân, vừa rèn cho họ phương diện đạo đức, vừa là sự an ủi quý báu mà con người cần đến
lúc gặp khó khăn. Nguyễn Du hòa điệu cùng những đau khổ, những kiếp người có số phận mong manh ta
thấy được trái tim nhân đạo của nhà thơ. Bên cạnh những giá trị văn hóa mà niềm tin tôn giáo mang lại,
thơ chữ Hán còn thấm đẫm giá trị nhân đạo chủ nghĩa.
3.3. Ứng xử với môi trường xã hội
Đối với một cộng đồng dân cư, cuộc sống không chỉ gắn bó với môi trường thiên nhiên mà còn rất
gắn bó với môi trường cộng đồng, xã hội. “Cách thức ứng xử với môi trường xã hội là thành tố thứ ba của
hệ thống văn hóa” [87, tr 423].
Ứng xử môi trường xã hội là hình thức vận động cao nhất là đỉnh cao của quá trình tiến hóa của thế
giới vật chất. C. Mác đã viết ứng xử môi trường xã hội là “sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những
con người” [13, tr 20] hay có thể nói, đó là tổng hòa các quan hệ người – người.
Như vậy, ứng xử với môi trường xã hội là môi trường của các mối quan hệ tác động qua lại giữa
người với người. Từ các mối quan hệ và sự tác động đã hình thành cơ sở bản vị của thế ứng xử xã hội
truyền thống văn hóa Việt đó là Nhà – làng – nước. Ứng với một chuỗi các quan hệ ứng xử như một phổ
hệ lớn, bao gồm nhà – họ hàng – xóm làng – vùng – đất nước. Người dân Việt có truyền thống liên kết
chặt chẽ với nhau cụ thể “gần gũi nhất là làng xóm láng giềng trong cùng một làng. Làng là sự tràn ra của
nhà, là sự tràn ra của thế ứng xử trong gia đình, giữa người làng với nhau. Cùng sống ở làng có ý nghĩa
như là cùng sống trong một gia đình tộc. Lấy nhà làm gốc, con cái lấy chữ hiếu làm gốc với cha mẹ, thì
đối với xóm giềng, trong cách đối nhân xử thế, người Việt cũng lấy cái tình cảm để đối đãi với nhau ”[21,
tr 82]. Vì vậy, dễ dàng nhận thấy cách ứng xử xã hội của Nguyễn Du là hạt nhân tình cảm đó là trọng tình,
trọng nghĩa, trọng đức, trọng văn… Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bàn về vấn đề ứng xử trong xã hội là con
người cần “phải sống với nhau có tình có nghĩa” [6, tr 55]. Tình nghĩa vốn là một phẩm chất của Nguyễn
Du, góp phần xác lập tư tưởng nhân nghĩa và cách ứng xử của ông đối với từng loại người như vua chúa,
quan lại, những người nghèo khổ, người hiền người tài, phụ nữ.
3.3.1. Vua chúa
Thông thường vua chúa được nhắc đến với thái độ tôn kính, hoặc được coi như những thần tượng
thiêng liêng tôn quý thì ở trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, vua chúa là những con người đầy tham vọng
đáng lên án.
Có lần Nguyễn Du đi sứ nhà thơ thấy bên cạnh đường có tấm bia to cao năm thước, trên bia ghi ba
chữ lớn “Kỳ Lân mộ ”. Nguyễn Du hết sức ngạc nhiên: Tại sao sách vở xưa kia nói Kỳ Lân là giống vật
thiêng báo điềm lành ở trên trời mà bây giờ thịt xương nó lại chôn vùi ở chốn này?. Hỏi ra mới biết ngày
trước, đời Vĩnh Lạc năm thứ tư, người ta mang Kỳ Lân đi cống vua, và nó bị chết giữa đường, quan trên
sai chôn và cất bia. Theo sách cổ “Kỳ Lân là một con thú mình hươu, đuôi trâu, một sừng, cổ dài, con đực
gọi là Kỳ, con cái gọi là Lân, thường gọi chung là Kỳ Lân. Truyền thuyết nói đặc điểm của nó là gặp
những con vật nhỏ thì nó tránh ra, sợ giẫm chết, gặp cây cỏ tươi thì nó không nỡ ăn. Người ta cho là loài
thú này biết nhân nghĩa ” [10, tr 438]. Nhà thơ than thở:
Hu ta lân hề, hà do đổ ?
Hu ta lân hề, thiên thượng tường!
Cốt nhục ủy chi trùng nghĩ đố.
Lân hề, lân hề, nhĩ hà khổ ? (Kỳ Lân mộ)
(Than ôi, kỳ lân vì đâu mày hiện ra ?
Than ôi, kỳ lân là giống vật báo điềm lành ở trên trời !
Nay xương thịt bỏ cho sâu kiến đục.
Ôi kỳ lân ! ôi kỳ lân ! sao mày khổ thế ! )
Nhưng rồi nhà thơ lại trách nó, vì nó xuất hiện không đúng nơi, không đúng lúc.
Lân hề, quả vị thử nhân xuất,
Đại thị yêu vật, hà túc trân. (Kỳ Lân mộ)
(Ôi kỳ lân ! nếu mày vì kẻ ấy mà hiện ra,
Thì mày chỉ là đồ yêu quái, có gì đáng quí?)
Nhà thơ nói với con Kỳ Lân:
Nhược đạo năng vị thánh nhân xuất,
Đương thế hà bất nam du tường. (Kỳ Lân mộ)
(Nếu bảo kỳ lân vì thánh nhân mà hiện ra,
Thì thời ấy sao không lượn chơi sang phương Nam ?)
Phương Nam bấy giờ là Lê Lợi đang tập hợp lực lượng chống Minh Thành Tổ. Thánh nhân không
phải là phương Bắc mà ở phương Nam. Vậy thánh nhân không ai khác chính là Lê Lợi của nước Đại Việt
chứ đâu phải Minh Thành Tổ, một tên vua gian ác khét tiếng của Trung Hoa.
Thông thường, vua chúa thuộc tầng lớp trên có mối quan hệ tốt với những người thuộc tầng lớp
dưới, ở đây hiểu là những người nghèo khổ, vậy mà ở đây hai tầng lớp có những mâu thuẫn với nhau. Qua
những mâu thuẫn ấy, ta thấy được quan niệm của người Việt Nam về cách ứng xử đối với những điều đi
ngược với truyền thống đạo đức văn hóa của dân tộc. Vua chúa ở đây là những con người đầy tham vọng,
tranh quyền đoạt lợi như việc Tào Phi bắt Hiến Đế nhường ngôi cho mình vào năm 220 [62, tr 427], nước
Sở nước Tần là hai nước cường bạo dẫn đến chiến tranh xảy vào năm Quý Tỵ (208 TCN) [62, tr 357].
Những việc làm của vua chúa đi ngược với đạo lý của nhân dân, Nguyễn Du viết:
Hứa Châu thành, Hán đế đô,
Tào thị vu thử di Hán đồ.(Cựu Hứa Đô)
(Thành Hứa Châu, nơi vua nhà Hán đóng đô,
Họ Tào cướp cơ đồ nhà Hán ở chốn này đây.”
Bạo Sở cường Tần tương kế tru (Triệu Vũ đế cố cảnh)
(Nước Sở nước Tần là hai nước cường bạo
đã nối nhau diệt vong)
Nguyễn Du luôn luôn có thái độ phê phán xã hội cổ kim. Dưới mắt thi nhân các triều đại lần lượt
thay nhau suy sụp. Hết triều đại này rồi đến triều đại khác.
Cổ kim vị kiến thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh. (Vị Hoàng danh)
(Xưa nay chưa thấy triều đại nào dài được nghìn năm,
Hình thế đất này chỉ để lại cái danh đã trải qua trăm trận đánh)
Vua chúa – bậc trên là những người thay trời trị dân. Vậy mà họ có nhiều tham vọng để tranh dành
quyền lực của nhau dẫn đến chiến tranh xảy ra. Chiến tranh đưa đến sự tang thương, điêu linh, tang tóc
đau khổ cho những con người. Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,
Huyền lạc quy lai kỷ cá tri. (Ngộ gia đệ cựu ca cơ)
(Nhân vật phồn hoa từ khi loạn lạc đã khác trước,
Chim hạc đen về chốn xưa mấy người biết.)
“Dân tử tại tuế bất tại ngã”
Vật đắc khi tâm tế thánh minh. (Trở binh hành)
(“Dân chết vì gặp năm hạn, đâu phải tại ta?”
Chớ nên dối lành mà che mắt vua thánh)
Có quyền lực trong tay, bọn vua chúa tự cho phép mình làm những việc trái với luân thường, đạo lý
nhằm thỏa mãn dục vọng đen tối của mình. Nguyễn Du quá bức xúc khi biết được sự thật về vua Minh
Thành Tổ, một tên bạo chúa đê tiện gian ác và ông đã vạch trần bằng những lời lẽ phẫn nộ.
Đoạt điệt tự lập phi nhân quân
Bạo nộ nhất sính di thập tộc
Đại bổng cự hoạch phanh trung thần.
Ngũ niên sở sát bách dư vạn
Bạch cốt thành sơn địa huyết ân! (Kỳ Lân mộ)
(Cướp ngôi của cháu để tự lập làm vua, y không phải là bậc nhân quân
Để hả một cơn giận y giết hết cả mười họ (người ta),
Giết trung thần bằng cách đánh bằng gậy lớn và nấu trong vạc dầu lớn.
Trong năm năm giết trên trăm vạn mạng người,
Xương trắng chất thành núi, đất ngập máu)
Thông thường một vị vua bao giờ cũng là người giàu lòng thương dân, thương nước, thương cho số
phận con người. Vậy mà, vị vua này trái ngược hoàn toàn lại có hành động xảo quyệt cướp ngôi cháu để
tự lập làm vua.
Đối nội thì như thế. Còn đối ngoại, hắn huy động một lực lượng hùng hậu áp đảo các nước láng
giềng và các dân tộc nhỏ của Tây Nam. Chính hắn không ai khác, chủ trương đem quân sang xâm lược
nước ta âm mưu đồng hóa dân tộc ta bắt hàng vạn trai tráng phụ nữ và trẻ em ta về Trung Quốc làm nô lệ
xây dựng Bắc Kinh. Ngoài ra chúng có những thủ đoạn hết sức dã man đối với dân tộc ta, Nguyễn Trãi đã
kể tội hắn trong bài “Bình Ngô đại cáo”.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Những hành động của vua chúa, Nguyễn Du đã chú ý phản ánh hiện thực thông qua việc phê phán,
vạch trần bộ mặt tham lam bỉ ổi, độc ác của vua chúa, khiến cho cuộc sống của con người vô tội phải lao
đao, khốn khổ.
Người Trung Quốc vốn có quan niệm vua là người sở hữu đất nước và có toàn quyền hành động,
trong tâm thức người Việt, nước là của nhân dân, không phải là của vua, cũng không thuộc dòng họ nào
hết. Vua chỉ là người thay mặt nhân dân cai quản đất nước. Chính vì vậy, vua phải hành động theo đúng
pháp luật, theo lẽ phải và phù hợp với đạo lý của nhân dân. Vua trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du thực
chất chứa đầy tham vọng tranh giành địa vị lẫn nhau dẫn đến chiến tranh xảy ra liên miên, cuộc sống của
nhân dân chịu cảnh khốn khổ. Điều đó đi ngược với nguyện vọng của nhân dân, từ cảm xúc ấy đã nung
nấu thi sĩ từ lâu, rồi ông viết:
Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình,
Trung Hoa đạo trung phù như thị!
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm. (Ninh Minh giang chu hành)
(Mọi người đều nói đường trên đất Trung Hoa bằng phẳng,
Hóa ra đường Trung Hoa lại thế này !
Sâu hiểm quanh co giống lòng người)
Hay: Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bảo,
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân! (Thái Bình mại ca giả)
(Thường chỉ nghe ở Trung Hoa ai cũng no ấm,
Ngờ đâu Trung Hoa cũng có người như thế này.)
Có lúc Nguyễn Du đã lợm mùi vua quan, không biết làm sao được? Giữa thời thế như vậy thiên tử
được coi là biểu tượng của chân lý, người phán quyết cuối cùng. Vậy mà đúng như nhận lời nhận xét của
Lê Trí Viễn “Bọn thống trị dã man, lòng thương cảm mênh mông đằng sau cái nhìn hiện thực đối với nhân
dân nghèo khổ như có cái gì vượt quá tầm cảm xúc đối với một nạn nhân đã chết, một quốc gia và một
thời đại không còn nữa, mà trở thành những cảm khái, những nhận thức đối với bọn thống trị đương thời,
đối với cuộc đời trước mắt” [23, tr 160]. Hình ảnh đó cho ta thấy bản chất của vua chúa trong xã hội lúc
bấy giờ. Bao nhiêu căm giận bao nhiêu uất ức của Nguyễn Du gởi vào thơ.
Nguyễn Du thấy được cuộc sống của người dân sống trong xã hội lúc bấy giờ như chính bản thân
mình. Điều đó chứng tỏ thái độ của ông căm ghét cái ác, cái tàn bạo lòng luôn hướng về cái chính, cái
thiện vốn là ngọn nguồn của sức mạnh của con người. Chính vì thế mà trong cuộc sống hay trong chốn
quan trường, Nguyễn Du luôn ứng xử hướng về cái thiện như làm điều tốt, sống có nhân nghĩa. Đó là nét
đẹp ứng xử văn hóa của Nguyễn Du.
3.3.2. Quan lại
Với những vua chúa đầy tham vọng, tranh quyền đoạt lợi, trách chi bọn quan xấu đều bất tài, hèn
nhát, chỉ biết hưởng bổng lộc từ vua, “chỉ tối mắt ăn của đút gây thói gian tham, lại còn những thói dâm
bôn vô sỉ ” [34, tr 64] khi quốc gia hữu sự nhưng có mấy ai dám nhận trách nhiệm. Trong khi đó, những vị
quan tốt yêu nước thương dân, một đời vì nghĩa lớn lại bị đố kỵ, gièm pha, hãm hại, đọa đày cho đến chết.
Đối với những vị quan tốt đã hy sinh cả cuộc đời, cả mạng sống của cá nhân và gia đình để bảo vệ cho lý
tưởng, cho đạo đức, Nguyễn Du yêu thương lẫn kính phục.
Chính vì điều đó, thơ chữ Hán của Nguyễn Du đề cập đến hai đối tượng này thứ nhất đó là quan
xấu có bản chất xấu xa, tàn ác, thứ hai đó là quan tốt có bản chất trung thần vì nghĩa lớn.
Đối với quan xấu, Nguyễn Du đã vạch trần những hành vi không biết bao nhiêu tên quan có tâm
địa xấu xa, tàn ác như Tào Tháo, Tô Tần, Tần Cối… Điều này Lê Trí Viễn viết: chúng là một lũ xu danh
trục lợi, tư cách hết sức nhỏ nhen (Tô Tần đình). Bản thân chúng chỉ biết có giàu sang sung sướng chứ
không hay biết cuộc đời khốn khổ của dân chúng, chúng thường khoe khoang trung hiếu nhưng thực chất
toàn là bọn giả đạo đức, tệ hơn nữa là bọn ma quỷ náo loạn dân gian (Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu,
Ngũ nguyệt quan cạnh độ )[104, tr 429].
Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, bọn quan xấu hiện lên với hình ảnh như vênh váo, hống hách
với kẻ dưới, xu nịnh bợ đỡ bề trên, dèm pha, gian dối, lật lộng đối với mọi người và cuối cùng là “cắn xé
thịt người” bản chất ti tiện và tàn bạo của chúng là thế. Về những đối tượng này, Nguyễn Du viết:
Cự gian đáo thử ưng hàn tâm (Cựu Hứa Đô)
(Bọn đại gian hùng đến đây ắt phải thấy lạnh trong lòng)
Gian hùng quá thử thượng hồn tiêu (Dự Nhượng Kiều)
(Kẻ gian hùng qua chốn này còn mất hồn)
Thùy vân ư thế vô công liệt?
Vạn cổ do năng cụ loạn thần. (Tần Cối tượng)
(Ai bảo nó không có công trạng gì góp cho đời?
Nó vẫn (làm gương) cho bọn loạn thần muôn đời sau phải e sợ.
Bản chất xấu xa, tàn ác phải nói đến Tào Tháo, đây là một con người tung hoành ngang dọc, xem
thường nhà vua, lấn áp các vương hầu, oai hùng một cõi… còn là một người gian xảo, có cơ tâm độc ác.
Tư nhân thịnh thời, thùy cảm đương ?
Diểu thị hoàng đế, lăng hầu vương. (Đồng Tước đài)
(Người ấy lúc thịnh, nào ai dám chống lại?
Xem thường nhà vua, lấn lướt các vương hầu )
Trong khi sống gây nhiều thù oán, sợ rằng sau khi chết người ta sẽ phạm đến mộ mình, nên đắp 72
mộ giả để làm cho người đời sau không biết đâu là mộ thật của mình. Đối với việc làm như thế, Nguyễn
Du viết:
Xú xanh mãn quách tàng hà dụng
Tặc cốt thiên niên mạ bất tri. (Thất thập nhị nghi trủng)
(Tiếng xấu đầy trong quách thì còn chôn giấu kỹ để làm gì ?
Nắm xương tên giặc nghìn đời, bị chửi bới cũng chẳng hay biết.)
Ngay cả đến Tô Tần, là một điển hình của kẻ mưu cầu danh lợi. Mưu hợp tung của ông ta không
phải để đánh quân Tần tàn bạo mà là để được phú quý, rồi lên mặt với người thân. Vinh hoa phú quý là gì
mà làm ông ta khổ đến thế! Ông ta đâm dùi vào vế đọc sách chỉ là để mưu cầu danh lợi. Thật là nhỏ nhen,
không đáng mặt trượng phu. Lúc đầu chạy sang Tần bày kế liên hoàn chống sáu nước, không được dùng
lại chạy sang Triệu bày chước hợp tung liên kết chống Tần. Con người ấy thật là bỉ ổi, Nguyễn Du lên án:
Tung hoành tự khả ngu dung chúa,
Phú quý hoàn năng cứ quả thê. (Tô Tần đình I)
(Kế lớn tung, hoành có thể lừa phỉnh được bọn vua chúa tầm thường,
Giàu sang còn có thể ngạo nghễ với đàn bà góa.)
Hay:
“Tiền cứ hậu cung” ngôn thẩm bỉ
Hợp tung bất tại khước cường Tần,
Đãn hướng sở thân kiêu phú quý.
Thích cổ nguyên vị quyền lợi mưu,
Ta hồ, thử nhân tiểu tai khí. (Tô Tần đình II)
(“Trước sao khinh rẻ, sau sao cung kính” lời nói ấy thật hèn hạ
Kế hợp tung chẳng nhằm chống nước Tần hùng mạnh,
Mà nhằm để kiêu căng khoe giàu sang với người thân.
“Dùi đâm vế” vốn là để mưu quyền lợi,
Than ôi ! người ấy khí độ nhỏ mọn thay!)
Đặc biệt quan xấu là phải nói đến Tần Cối, “kẻ đã hại người anh hùng Nhạc Phi”. Đây là một quan
xấu “lưu phương”, “bất tử” nhờ “ăn theo” quan tốt! Quan xấu Tần Cối được tạc tượng bên mộ Nhạc Phi,
dù là để người đời phỉ nhổ. Nó “có công” làm cho quan xấu ngàn năm sau phải sợ [106, tr 112]. Thống
thiết nhất là câu:
Như thử tranh tranh chân thiết hán,
Nại hà mĩ mĩ sự kim nhân. (Tần Cối tượng I)
(Trong vẻ cứng cáp như thế kia, rõ là một con người sắt thép,
Mà sao lại khúm núm nhờ lũ người Kim)
Nhất thế tử tâm hoài đại độc,
Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan. (Tần Cối tượng II)
(Suốt đời trái tim chết chứa đầy nọc độc,
Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ.)
Tất cả những bọn người này đều không trừ một âm mưu, một thủ đoạn đen tối, hiểm độc nào để đạt
đến mục tiêu ích kỷ, đê hèn của mình. Chúng đã giày xéo lên những giá trị đạo đức, luân lý cơ bản nhất,
giày xéo lên tính mạng con người của biết bao nhiêu người vô tội. Đối với bọn quan xấu, Nguyễn Du có
thái độ rõ ràng. Ông căm ghét những tên quan xấu tham lam, gian xảo hại những con người vô tội. Chính
vì thế, Nguyễn Du tỏ ra thái độ phê phán đối với bọn quan xấu. Nguyễn Du đã ứng xử theo đúng quan
niệm “gieo nhân nào, gặp quả ấy” khi những kẻ độc ác, xấu xa bao giờ cũng phải nhận những hậu quả,
những hình phạt thích đáng cho tội lỗi gây ra.
Nguyễn Du là một người sống có nhân có nghĩa ngay bản thân ông lúc nào cũng có thái độ ứng xử
rõ ràng. Có những quan tốt yêu nước thương nòi, trọng dân kính chúa, một đời vì nghĩa lớn quên mình,
một lòng tận trung báo quốc nhưng lại bị quan xấu đố kỵ, gièm pha, hãm hại, đọa đày cho đến chết, còn
những quan xấu như Tào Tháo, Tô Tần, Tần Cối… phải hành xử đúng những gì chúng gây ra. Nhưng
Nguyễn Du là một người sống có nhân có nghĩa ngay bản thân ông nghỉ “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh
người chạy lại” đây là nét văn hóa ứng xử đáng quý của ông. Cách ứng xử của Nguyễn Du là bài học mà
ông nhắc nhở mọi chúng ta biết trọng nhân nghĩa để sống có nhân có nghĩa.
Đối lập với những bọn quan xấu kể trên là hình ảnh của các quan tốt có bản chất trung thần vì
nghĩa lớn. Nguyễn Du cảm thương cho số phận của họ như Liễu Tông Nguyên, Khuất Nguyên, Nhạc Phi,
Giả Nghị… ở cốt cách tài đức vẹn toàn, nhưng bị bọn quan xấu đố kỵ, gièm pha, hãm hại, đọa đày, lưu lạc
nơi đất khách. Hình ảnh ấy trở thành nỗi suy tư, khắc khoải trong tâm tưởng của Nguyễn Du.
Khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đến thăm mộ của Liễu Hạ Huệ, ông viết:
Bi tàn một tự mai hoang thảo,
Thiên cổ văn phong nhất há xa. (Liễu Hạ Huệ mộ)
(Bia tàn chữ mất chôn vùi trong cỏ hoang,
Nghìn năm sau, nghe danh tiếng ông,
tôi xuống xe (để tỏ lòng kính trọng).
Xuống xe để tỏ lòng tôn kính trước mộ của một tịnh nhân như Liễu Hạ Huệ, đối với một vị sứ thần
nhà Nguyễn như Nguyễn Du phỏng có mấy người?
Cũng với niềm kính trọng ấy, ông trách người đời sao không để tâm đến những bậc trung thần vì
nghĩa lớn. Và ông cảm thương cho tấm lòng cô trung tiết liệt của Tam Lư Đại Phu Khuất Nguyên, khi
những cái bắt chước đầy gượng gạo của người xưa:
Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh
Tứ phương hà xứ thác cô trung
Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng. (Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu II)
(Nghìn xưa, có ai thương người một người tỉnh táo,
Bốn phương có chốn nào gửi được tấm lòng cô trung?
Gần đây, mỗi khi người ta thích trang phục lạ,
Thì thứ hoa tiêu, hoa lan họ đeo chẳng giống ông chút nào).
Trên đường đi sứ, khi đi ngang qua nhà cũ của Liễu Tông Nguyên một trong tám nhà văn nổi tiếng
tự nghìn xưa, đỗ tiến sĩ năm 21 tuổi, nổi tiếng tài hoa. Nhưng vì chống tham ô, ông đang cầm quyền nên
bị lưu đày nơi đất khách. Một tài năng như Khuất Nguyên bị vùi dập, Nguyễn Du đã viết bài thơ để cảm
khái cho số phận của vị quan tốt nhưng không được trọng dụng.
Nhất thân xích trục lục thiên lý,
Thiên cổ văn chương bát đại gia.
Huyết chỉ hãn nhan thành khổ hỹ,
Thanh khê gia mộc nại ngu hà.
(Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch)
(Một tấm thân bị ruồng đuổi ra sáu nghìn dặm xa,
Văn chương để lại nghìn đời thuộc vào hàng tám văn hào lớn
Như người thợ ngón tay bầm máu, mặt đẫm mồ hôi, khổ đã tột bực vậy.
Khe nước trong, hàng cây đẹp cũng mang tiếng ngu lây, biết làm sao được!)
Ngang qua vùng sông Tương, nhớ đến quan tốt Khuất Nguyên, với một tâm hồn thanh cao, tình
cảm tha thiết với nước với dân. Cuối cùng cũng bị quan xấu hãm hại, bị lưu đày nơi đất khách. Nguyễn
Du cảm khái về tài năng của Khuất Nguyên, ông viết:
Tông quốc tam niên bi phóng trục,
Sở từ vạn cổ thiện văn chương.
Ngư long giang thương vô tàn cốt,
Đỗ nhược châu biên hữu chúng phương.
(Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu I)
(Bị đuổi xa tổ quốc ba năm khôn xiết đau buồn,
Muôn đời Sở từ vẫn là áng văn chương tuyệt tác.
Trên sông đầy cá, rồng, nắm xương tàn không còn nữa,
Trên bãi sông chòm đỗ nhược có thêm những giống hoa thơm.)
Xưa khi vì không muốn lấm bụi trần Khuất Nguyên đã chọn cho mình một lối đi riêng. Dòng sông
Mịch La – nơi Khuất Nguyên tự vẫn đã giang rộng vòng tay ôm lấy ông. Cứ vào ngày mồng năm tháng
năm hằng năm, nhân dân Trung Quốc tổ chức lễ đua thuyền rồng tượng trưng cho việc đi tìm thi thể cho
nhà thơ. Xem đua thuyền Nguyễn Du nhớ lại Khuất Nguyên, một người sống cách đây hơn hai ngàn năm
mà nhân cách mãi tỏa sáng mùi thơm của loài hoa lan.
Sở quốc từ nhân ký bội lan (Ngũ nguyệt quan cạnh độ)
(Nhớ người thơ nước Sở đeo hoa lan)
Vị quan tốt như Nhạc Vũ Mục - Nhạc Phi – Người thời Nam Tống giỏi văn võ đời Tống Huy Tông
– có công đánh giặc. Nguyễn Du khâm phục đây là một vị tướng có tài, tận trung báo quốc. Tiếc thay!
Một sớm một chiều bị hại chết dưới một tên quan xấu Tần Cối. Buồn rầu cho số phận của vị tướng có tài,
Nguyễn Du viết:
Trung Nguyên bách chiến xuất anh hùng (Nhạc Vũ Mục mộ)
(Anh hùng xuất hiện trong trăm trận đánh ở Trung Nguyên)
Huyết chiến thập niên thành để sự,
Phong Ba đình hạ tạ Kim nhân.
(Yển thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ)
(Mười năm huyết chiến để làm nên cái việc,
Bị giết ở đình Phong Ba để triều đình tạ tội với người Kim)
Người trung đến mức mười năm chiến đấu xả thân vì nghĩa lớn, vậy mà bị chết oan một cách oan
uổng. Một vị quan tốt cuối cùng chẳng còn được gì.
Tùng bách tranh tranh ngạo bắc phong
Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu. (Nhạc Vũ Mục mộ)
(Cây tùng cây bách vẫn hiên ngang ngạo nghễ lao vào trước gió bão
Buồn trông về lăng miếu cũ ở Lâm An.)
Đặc biệt, Nguyễn Du còn nói về nỗi bất hạnh của Giả Nghị phải chịu nhận về nỗi bất hạnh của
mình, khi Nguyễn Du đến vùng Trường Sa, nơi lưu đày của rất nhiều quan tốt trong đó có Giả Nghị. Giả
Nghị có tài văn chương và tài quân sự, nhưng bị bọn nịnh thần hãm hại, cả ông vua bất tài, hèn nhát dẫn
đến kết quả Giả Nghị bị lưu đày đến đất Trường Sa, để cái tài học của ông không được thi thố “Lập đàn
bất triển bình sinh học” (Đứng mà bàn luận không thể bày tỏ hết cái học một đời mình) (Trường Sa Giả
Thái phó).
Với quan tốt, Nguyễn Du nói đến sự khắc nghiệt của tài năng và số phận của con người một cách
rõ nét và đau đớn hơn “Thiên giáng kỳ tài vô dụng xứ” (Trời ban cho tài lạ mà không có chỗ dùng)
(Trường Sa Giả Thái phó). Nỗi niềm ấy, nào có khác gì với thời đại Nguyễn Du? Nào khác gì với tình
cảnh của Nguyễn Du? Bởi thế cho nên “Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi” (Cách hàng nghìn năm mà
tâm sự vẫn giống nhau). Nguyễn Du nhiều lần rỏ nước mắt khóc cho số phận cuộc đời của người xưa, dẫu
không cùng thời đại, không cùng dân tộc nhưng chỉ cùng hội quan tốt với nhau. Ông đồng cảm, hiểu cho
tài năng và số phận của họ đó chính là tình người.
Nguyễn Du cảm nhận được tâm tình của quan tốt bị bỏ rơi. Cái nỗi niềm ấy không cần nói nhiều
bằng lời mà chỉ bằng chiêm nghiệm, Nguyễn Du lấy lòng mình ra để nghiền ngẫm cái tình, cái lòng của
người xưa ấy. Ông cũng đặt mình vào hoàn cảnh của bao quan tốt xưa nay, chuyện đi sứ xa quê hương
nào khác một cuộc lưu đày? Người xưa sợ chuyện đi xa, nhưng chính những chuyến đi xa như thế lại là
những dịp thấy cách ứng xử của ông đối với những người trung nghĩa được thể hiện bằng tấm lòng của
ông đó là tình người. Đây là nét văn hóa ứng xử đáng quý của Nguyễn Du.
Nguyễn Du là người luôn suy tư trăn trở về kiếp người về “thân phận tinh thần của con người” (chữ
dùng của Lê Ngọc Trà) cũng không có gì quá đáng mà ngược lại rất đúng. Đó chính là nếp nghĩ trong suốt
cuộc đời của ông.
Đạo lý của Nguyễn Du hết sức coi trọng con người, tất cả đều được nhìn nhận từ giá trị của con
người đề cao con người và cuộc sống nên khả năng đồng cảm trước nỗi đau nhân tình thế thái. Chính vì
trọng tình trọng nghĩa mà Nguyễn Du có thái độ rõ ràng căm ghét cái xấu xa luôn hướng về điều thiện,
điều nhân, không hề có thái độ trả thù mà vẫn khoan dung, vì khoan dung cũng là một biểu hiện của việc
thực hành triết lý nhân nghĩa. Đó cũng chính là nét nhân hậu trong con người của Nguyễn Du.
3.3.3.Những người nghèo khổ
Nguyễn Du đã nhìn thấy rõ bản chất của giai cấp trong xã hội. Ông căm ghét bọn quan lại vì chúng
như những con thú “cắn xé thịt người ngọt xớt như đường”. Ông yêu thương, thông cảm cho những người
nghèo khổ vì họ là những người bị khinh rẻ, bị bóc lột trong xã hội cũ.
Những năm 70 của thế kỷ XVIII kinh tế đất nước bị suy sụp, nhân dân cơ cực, quan lại tham
nhũng, cường hào áp bức. Trước tình hình đó, từng đoàn người nghèo đói dắt díu nhau đi lang thang trên
những con đường lớn đi từ vùng này sang vùng khác để tìm đất sinh sống. Lại thêm hằng năm bị hạn hán,
trăm thứ thuế má, không thể sống được, đến nổi dân phải ăn rau cỏ. Nạn đói lan tràn, “Việt sử thông giám
cương mục” còn ghi lại cảnh tượng “Dân lưu vong bồng bế, dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường… Người
chết đói ngổn ngang, người sống không còn một phần mười”[3, tr 6]. Hiện thực trước mắt ngay từ quê nhà
đến khi đi sang Trung Quốc, Nguyễn Du nhận thấy những cảnh đời cơ cực, càng thấy rõ nỗi khổ đau ngập
tràn trong đời sống nhân dân không riêng gì đất Việt.
Nỗi đau đó thể hiện rõ trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, nghe như những điệp khúc não ruột nát
lòng điều đó nói lên tấm lòng lo đời, thương con người xót xa, mênh mông của nhà thơ. Nguyễn Du bộc
lộ trực tiếp, rõ ràng cho những người nghèo khổ, tấm lòng của ông càng nặng trĩu hơn, chuyển hóa thành
niềm cảm thông đồng cảm.
Hà xứ thôi xa hán
Tương khan lục lục đồng (Hà Nam đạo trung khốc thử)
(Anh chàng đẩy xe kia quê ở đâu nhỉ ?
Nhìn nhau thấy vất vả như nhau.)
Nguyễn Du không cần biết người đẩy xe kia là ai, họ ở đâu, chỉ thấy anh ta nghèo đói, vất vả. Họ
có phẩm chất tốt đẹp là chăm chỉ lao động nhưng cuộc đời khổ ải thật đáng thương.
Hiểu sắc hà thương mang,
Sơ nhật ẩn son phúc.
Lộ thượng nhân ký hành
Chi đầu điểu do túc.
Vạn cổ nhất hồng trần,
Kỳ trung giai lục lục. (Lý gia trại tảo phát)
(Sắc trời buổi sáng sao mà bát ngát mênh mang,
Mặt trời bắt đầu mọc còn nấp trong lòng núi.
Trên đường, người đã đi,
Đầu cành chim còn ngủ.
Muôn thưở vẫn đám bụi hồng,
Trong đó mọi người đều tất bật.
Đó chỉ là những nét phác họa chung chung về những điều tai nghe mắt thấy khi ông đến thượng
quốc. Còn đây là những nét đời thật cụ thể, thật riêng biệt và vô cùng xót xa. Ông đau lòng trước cảnh đi
xin ăn của bốn mẹ con hành khuất (Sở kiến hành) và ông lão ăn mày (Thái Bình mại ca giả) đi hát rong
kiếm cơm. Em bé dắt ông vào thuyền ngồi hát. Ông hát khô cả cổ, mỏi rời cả tay, trước cảnh tượng ấy ông
viết: Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc (Thái Bình mại ca giả)
(Miệng sùi bọt, tay rã rời)
Lao động cực khổ như vậy, nhưng ông vẫn nhẫn nại chịu đựng, hàng ngày hát rong xin tiền để ăn
cơm.
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh,
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục.
Mại ca khuất tiền cung thần xuy (Thái Bình mại ca giả)
(Dốc hết tâm lực gần một trống canh
Mà chỉ được năm sáu đồng tiền
Hát xong xin tiền để ăn cơm )
Gần một trống canh lao động, hát khô cả cổ, tay rã rời nhưng chỉ được trả năm sáu đồng tiền, ông
vẫn giữ thái độ nhã nhặn bình tĩnh. Lúc xuống thuyền còn quay lại chúc phúc cho mọi người hai ba lần
nữa.
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai,
Do thả hồi cố đảo đa phúc. (Thái Bình mại ca giả)
(Đứa bé dẫn được ra khỏi thuyền,
Còn quay đầu lại chúc “đa phúc”)
Nguyễn Du có cặp mắt “tinh đời” để nhận thức và thấu hiểu được tấm lòng của người lao động.
Đây là vẻ đẹp tâm hồn chân thực. Vì lẽ đó, Nguyễn Du cũng thấy được bản chất của bọn quyền quý.
Thử thời thuyền trung ám vô đăng,
Khí phạn bát thủy thù lang tạ. (Thái Bình mại ca giả)
(Lúc này trong thuyền tối không có đèn
Cơm thừa canh cặn đổ rất bừa bãi.)
Cảnh sống ấy, Nguyễn Du đã vạch rõ hai thế giới đối lập đó là kẻ giàu và người nghèo. Người lao
động dù làm đến kiệt sức thì họ cũng chỉ được ăn cám mà thậm chí thức ăn ấy không đủ ăn.
Nhất nhan kiệt dung lực,
Bất sung tứ khẩu lương
Lê hoắc tạp tì khang
Nhật án bất đắc thực (Sở kiến hành)
(Một người làm thuê đến kiệt sức
Không đủ nuôi bốn miệng ăn
Rau lê, rau hoắc lẫn với cám
Quá trưa rồi vẫn chưa được ăn)
Còn những quan lớn và bọn tùy tùng thì phè phỡn hoang phí:
Lộc cân tạp ngư xí,
Mãn trác trần trư dương.
Trưởng quan bất hạ trợ,
Tiểu môn chỉ lược thường (Sở kiến hành)
(Gân hươu cùng vây cá,
Đầy bàn thịt lợn, thịt dê
Quan lớn chẳng đụng đũa,
Tùy tùng chỉ nếm qua loa.)
Trong khi đó, cuộc sống của quần chúng thật bi thảm, sắc mặt tiều tụy của những người dân khốn
khổ chạy loạn, đói khát.
Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc,
Khang tì vi thực lê vi canh. (Trở binh hành)
(Trái lớn gái bé luôn có sắc mặt ốm đói,
Tấm cám làm cơm, rau lê làm canh)
Cái quý nhất của Nguyễn Du là xem những người nghèo khổ có nỗi bất hạnh giống nhau. Dù ông
là quan nhưng đối với họ ông là người gần gũi và thấu hiểu nhất về thân phận của họ. Vì Nguyễn Du đã
từng nếm những cảnh nghèo đói, cơ cực trong cuộc đời, đến mức “bếp suốt ngày không có lửa khói, nhìn
ra ngoài cửa sổ chỉ thấy hoa vàng đẹp tưởng có thể no được” [26, tr 112 -119]. Ông từng nhìn “mặt con
xanh như lá rau” và hiểu được nỗi đau của những người khốn cùng trong xã hội. Viết được như vậy, mới
thấy hết nỗi uất ức, căm phẫn trong lòng đối với bọn thống trị. Ông không chỉ tố cáo, lên án mà còn bóc
trần thói giả dối, gian lừa của bọn quan lại trước nạn đói đang hoành hành trong dân.
Tạc kiến Tân Trịnh thành môn niêm bảng thị
Án hộ cấp túc tô tàn manh
Hoàng Hà dĩ bắc mạch hựu thục,
Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sinh.
Qui lai qui lai vật tác tử.
Phủ thần huệ bảo như phụ huynh.
(Trở binh hành)
(Hôm trước thấy trong thành Tân Trịnh yết bảng cáo thị;
“Xét xem hộ mà cấp lúa cứu sống lũ dân sống sót.
Phía Bắc sông Hoàng Hà lúa mạch lại chín
Trăm ngày nữa thì vợ con các ngươi sẽ đều được sống
Về đi, về đi, chớ có liều chết,
Quan tuần phủ hãy giữ gìn cho dân như cha, anh !)
“Trăm ngày nữa thì vợ con các ngươi sẽ đều được sống”. Lời nói đó sao nghe phúc đức nhân từ
thế. Nhưng làm sao sống đến một trăm ngày. Chỉ ngày mai, ngày kia thôi họ đã ngã gục bên lề đường.
Có thể nói, thơ chữ Hán chứa đầy cái uất ức, nghẹn ngào của Tố Như. Ẩn sau từng câu từng chữ là
những suy nghĩ của ông về con người, về xã hội đang diễn ra trước mắt. Ông đau khổ, dằn vặt mình rất
nhiều thậm chí suốt đời mang một nỗi buồn thế sự. Những bế tắc trong tư tưởng của Nguyễn Du như
muốn dắt ông đến chỗ buông xuôi nhưng về mặt tình cảm lại kéo ông về với cuộc sống khi ông thao thức
không nguôi về nỗi thống khổ của con người.
Với những người nghèo khổ, Nguyễn Du ứng xử trọng tình trọng nghĩa chưa bao giờ ông cảm
thông suông. Ông nghiêng mình xuống để sớt chia cùng họ, chưa bao giờ ông bước đi một cách thản
nhiên, hờ hững khi nghe một câu chuyện thương tâm hay nhìn thấy một cảnh đau lòng. Đó là tình cảm tốt
đẹp của Nguyễn Du đối với những người nghèo khổ, tình cảm ấy mang đậm dấu ấn triết lý tình nghĩa.
3.3.4. Người hiền, người tài
Tình cảm của Nguyễn Du không chỉ dành riêng cho những người nghèo khổ mà ông còn có tình
cảm yêu thương lẫn kính phục đối với những bậc hiền tài. Họ chính là đối tượng mà Nguyễn Du quan tâm
nhiều nhất, dành tình cảm nhiều nhất. Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình gia phong, ngay từ nhỏ được
nuôi dưỡng bằng những cuốn sách Thánh hiền, lớn lên được đi khắp Trung Quốc nghe danh người tài và
rất hâm mộ họ. Họ là những Đỗ Phủ, Hoàng Sào, Cù Các Bộ, Hàn Tín, Văn Thiên Tường, Âu Dương Tu,
Tỷ Can, Lạn Tương Như, Liêm Pha, Dự Nhượng, Kinh Kha, Liễu Hạ Huê, Chu Lang, Hai ông họ Sơ …
Xưa nay, những người hiền tài thường hay bị trời đất ghen ghét. Điều này được Nguyễn Du nói
trong Truyện Kiều “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Chính vấn đề này làm cho ông day dứt, xót
thương và cũng đầy căm phẫn cho những bậc hiền tài. Vì họ là những người trung nghĩa, yêu nước thương
dân, trọng dân, kính chúa, một đời vì nghĩa lớn. Nguyễn Du muốn bày tỏ tấm lòng của mình đối với
những người trung nghĩa đã hy sinh cả cuộc đời, cả mạng sống của cá nhân và gia đình để bảo vệ cho lý
tưởng, cho đạo đức. Đối với người hiền tài, Nguyễn Du yêu thương lẫn kính phục.
Như việc Dự Nhượng, Kinh Kha và Nhiếp Chính đã thực hiện đúng nghĩa trung hiếu của bề tôi.
Chắc hẳn, trong lòng Nguyễn Du có nỗi niềm sâu kín viết lên những vần thơ đầy xót xa, cảm kích.
Quân thần chính luận kham thiên cổ,
Thiên địa toàn kinh tận nhất triêu.(Dự Nhượng Kiều)
(Lời bàn đúng đắn về nghĩa vua tôi đáng để muôn đời,
Làm trọn đạo trời đất trong một sớm mai.)
Tái hoạch, tái xả, tâm bất di
Lâm tử do năng tam kích y.
Lăng lăng kỳ chí thiên tiêu thượng
Tự thử kiều danh canh Dự Nhượng.
Quân thần đại nghĩa tối phân minh
Quốc sĩ chúng nhân các dị thượng.
“ Quí sát nhân thần hoài nhị tâm”
Thiên cổ văn chi sắc trù trướng.” (Dự Nhượng chủy thủ hành)
(Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần liền,
lòng vẫn không dời,
Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử.
Khí lạ cao ngất nghìn tầng mây,
Từ đó tên cầu đổi là Dự Nhượng,
Nghĩa lớn vua tôi cực rõ ràng.
Người quốc sĩ và người thường có cách ứng xử khác nhau,
Kẻ làm bề tôi mà hai lòng thật đáng hổ thẹn đến chết
Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi)
Những người trung nghĩa như Điền Quang, Phan Ô Kỳ vì nghĩa lớn đã hy sinh cả cuộc đời, cả
mạng sống của mình để thực hiện lý tưởng lớn lao, cao cả. Ngay bản thân Nguyễn Du, vốn là một người
nuôi mộng cao chí lớn, muốn tung hoành ngang dọc như con chim hồng sải cánh tung bay. Vậy mà cuộc
sống làm cho ông gặp biết bao phong ba bão tố. Ông càng thêm kính trọng và ngưỡng mộ người xưa. Tấm
lòng ấy, Nguyễn Du viết:
Quái để hành tung nguyên thị ẩn
Tằng dữ Yên Đan vô túc phận
Sát nhân chỉ vị thụ nhân tri
Đồ tắc Điền Quang khinh nhất vẫn
Khả liên vô cô Phàn Ô Kỳ,
Dĩ đầu tá nhân vô hoàn thì
Nhất triêu uổng sát tam liệt sĩ. (Kinh Kha cố lý)
(Lạ thay, vốn giấu kỹ hành tung giữa chợ,
Không từng có duyên nợ từ kiếp trước với Yên Đan
Liều thân chỉ vì được người biết đến mình,
Luống được Điền Quang nhẹ nhàng đâm cổ chết
Khá thương Phàn Ô Kỳ chẳng có tội tình gì
Đem đầu cho mượn không hẹn kỳ trả lại
Một sớm ba liệt sĩ đã chết oan.)
Đây như một tiếng thét bi phẫn, căm hờn sôi sục cho những liệt sĩ. Họ là những người trung nghĩa
đã chết đau đớn cùng một lúc, điều đó làm cho Nguyễn Du day dứt, xót thương cho họ.
Người hiền người tài như Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm không chịu hàng phục nhà Thanh một mình ra
sức giữ tòa cô thành dù biết đất Trung Nguyên đã suy đồi. Trong hành trình đi sứ đến Quảng Tây, Nguyễn
Du nghiêng mình tôn kính tấm lòng cô trung của ông. Đây là nét ứng xử văn hóa của ông đối với những
người hiền người tài.
Trung Nguyên đại thế dĩ đồi đường,
Kiệt lực cô thành khống nhất phương.
Chung nhật tử trung tâm bất động,
Thiên thu địa hạ phát do trường. (Quế Lâm Cù Các Bộ)
(Đại thế của Trung Nguyên đã sụp đổ rồi,
Ông vẫn dốc hết sức giữ tòa thành trơ trọi
để khống chế một phương
Suốt ngày trước cái chết, lòng không nao núng
Nghìn thu nằm dưới đất tóc vẫn dài)
Cù Thức Trĩ và Nguyễn Du không biết nhau và ở xa cách nhau nhưng thi sĩ cảm thấy Cù Thức Trĩ
vô cùng gần gũi, thân thương với mình. Nguyễn Du không cần bày tỏ tấm lòng mình bởi tự thân các câu
thơ đã nói lên tất cả. Không phải là sự ngợi ca, tán tụng mà tất cả là sự thành thật thốt lên từ những mất
mát, đắng cay trong cuộc đời mà ông từng nếm trải.
Người trung nghĩa như Hàn Tín vốn là một người hạng võ nhưng không được dùng, thi sĩ còn nhắc
đến cử chỉ cao đẹp có bà mẹ già cho Hàn Tín ăn “một bữa cơm tầm thường” mà ông nhớ đời. Theo
Nguyễn Du đây là một người trọng tình, trọng nghĩa. Cử chỉ đó ông hết sức ngưỡng mộ:
Tầm thường nhất phạn báo thiên câm,
Ngũ tải quân thần phận nghị thâm.
(Độ Hoài hữu cảm Hoài Âm hầu)
(Một bữa cơm tầm thường mà đền đáp ngàn vàng,
Tình nghĩa năm năm vua tôi thật sâu sắc.)
Nguyễn Du hết lời ca ngợi cách ứng xử trọng tình trọng nghĩa của những người hiền người tài như
Hàn Tín. Ở đây, Nguyễn Du tìm ra nét ứng xử chung trong mối quan hệ giữa những con người với nhau
trong cuộc sống hàng ngày.
Không chỉ có Hàn Tín mà Lạn Tương Như bậc đại dũng cũng có cách ứng xử rất khéo léo, mềm
dẻo với bậc trên – vua Tần không cần đến sức mạnh có thể đảm bảo cả nước Triệu, với bậc dưới tránh gây
thù oán ông “đi đường vòng tránh xe”.
Đại dũng bất dĩ lực,
Cận hữu Lạn Tương Như.
Kiểu hãnh năng hoàn bích,
Bồi hồi thiện tị xa. (Lạn Tương Như cố lý)
(Bậc đại dũng không cần đến sức mạnh,
Chỉ có Lạn Tương Như.
Cầu may đòi lại được ngọc bích,
Đi đường vòng khéo tránh xe.)
Cũng phải nhắc đến Văn Thiên Tường, tác giả của “Chính khí ca” nổi tiếng, là người anh hùng dân
tộc thời Nam Tống con người đầy nghĩa khí, không màng danh lợi, sống có tình có nghĩa. Văn Thiên
Tường sau khi bị giặc bắt tìm mọi cách dụ dỗ ông, nhưng ông cương quyết cự tuyệt và ung dung chịu
hành hình.
Sơn hà phong cảnh thượng y thiên,
Thừa tướng cô trung vạn cổ truyền.
(Độ Hoài hữu cảm Văn Thừa Tướng)
(Phong cảnh núi sông vẫn y nguyên như cũ,
Tấm lòng cô trung của Thừa Tướng lưu truyền mãi muôn đời )
Ngay cả với Âu Dương, Nguyễn Du cho rằng đây cũng là người hiền người tài. Âu Dương được
mệnh danh là Hàn Phi đời Tống có tấm lòng ngay thẳng cương trực. Ông không chỉ là một nhà văn đời
Đường Tống mà còn là một viên quan cương trực, thanh liêm, khẳng khái. Tuy biết rõ hiểm nguy, ông vẫn
can đảm, nhiều lần ông vẫn tìm cách can gián vua. Âu Dương là một viên quan, thuộc tầng lớp trên trong
xã hội nhưng lại ứng xử rất nhân nghĩa, ông lo cho người, cống hiến hết cuộc đời mình. Đây chính là
người vừa có tài, vừa có đức.
Bình sinh trực đạo vô di hám,
Thiên cổ trùng tuyền thượng hữu hương.
(Âu Dương Văn Trung công mộ)
(Suốt đời theo đường lối thẳng ngay không để lại điều gì đáng ân hận,
Nghìn xưa dưới suối vàng còn nức mùi hương.)
Người trung nghĩa như Tỷ Can – chú của vua Trụ một ông vua nổi tiếng tàn bạo cuối đời Thương,
Tỷ Can vì tội can gián vua mà bị mổ bụng moi gan. Thật đau xót cho những người hiền người tài khao
khát muốn đem tài ra phục vụ đất nước nhưng cuối cùng có kết cục bi thương.
Thất khiếu hữu tâm an ty phẫu,
Nhất khâu di thực tận thành nhân.
Mục trung sở xúc năng vô lệ,
Địa hạ đồng du khả hữu nhân. (Tỷ Can mộ)
(Có trái tim bảy lỗ thì làm sao tránh bị mổ?
Một gò cây cỏ đều thành “nhân”
Tận mắt nhìn, có thể nào không rơi lệ,
Dưới đất có người có thể cùng giao du.)
Người hiền người tài còn phải nhắc đến Bùi Tấn Công tướng mạo tầm thường nhưng văn võ song
toàn, một đời xã thân cống hiến nhưng cứ bị quan xấu hãm hại, cuối cùng phải cáo quan về ở ẩn nhưng
danh tiếng của ông vẫn được lưu truyền mãi.
Đan tâm nhất điểm lưu kim cổ,
Bạch cốt kim niên cách tử sinh.
Tẩn hữu du vi ưu tướng tướng,
Vô phương hình mạo yếm đan thanh. (Bùi Tấn Công mộ )
(Một tấm lòng son lưu tiếng xưa nay,
Nghìn năm xương trắng chia cắt người sống và người chết.
Ông có thừa mưu lược làm tướng văn tướng võ,
Còn về hình tượng không cần vẽ tranh xanh đỏ điểm tô làm gì.)
Đặc biệt, trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du nói đến người hiền người tài không thể quên Đỗ Phủ.
Đỗ Phủ được xem là bậc thầy thiên cổ về văn chương. Ông được đánh giá: Trên làm nhạt Phong, Tao,
dưới làm mờ Thẩm, Tống; lời thơ vượt cả Tô, Lý; khí thơ át cả Tào, Lưu; che khuất Nhan, Tạ đỉnh cao,
nhuộm đục Từ, Dữu dòng thắm, được tất cả cái thể thế của cổ kim, có tất cả cái độc chuyên của từng thi
sĩ, người làm thơ xưa nay chưa từng có ai như Đỗ Tử Mỹ (Nguyễn Chẩn). Nguyễn Du đánh giá Đỗ Phủ là
“Văn chương để lại muôn đời, bậc thầy của muôn đời” (Thiên cổ văn chương, thiên cổ si (sư) (Lỗi Dương
Đỗ Thiếu Lăng mộ I). Niềm kính trọng ấy chưa từng thôi nghỉ:
Mỗi độc nho quan đa ngộ thân,
Thiên niên nhất khốc Đỗ Lăng nhân.
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ II)
(Mỗi lần đọc câu “mũ áo nhà nho thường làm lụy thân mình”,
Lại một lần khóc thương người đất Đỗ Lăng sống nghìn năm trước).
Nguyễn Du có sự đồng cảm sâu sắc về nhà thơ lớn của đời Đường. Vì hoàn cảnh Đỗ Phủ và
Nguyễn Du rất giống nhau “một đời trôi giạt, nghèo đói, cầu thực, tha phương”, giỏi làm thơ và đặc biệt là
“lận đận chốn quan trường” [106, tr 107]. Từ cổ chí kim, có thi nhân nào có cuộc sống bấp bênh, đói rách,
ăn nhờ ở đậu như Đỗ Phủ, đến lúc qua đời cũng chẳng có chỗ yên thân, phải nằm lại trong một chiếc
thuyền nát thả trên sông Tương giữa lúc đang khó khăn đói rách… Nguyễn Du cũng đã từng hết “ăn nhờ ở
bến sông rồi ăn nhờ nơi bãi biển”, “bệnh đã ba năm, nghèo không thuốc”, “cuộc phù sinh ba mươi năm có
mối lo vì có thân” (Cảm hứng lan man I); “hết phía nam sông đến phía bắc sông với một chiếc túi rỗng”,
“tấm thân sáu thước sống nổi trôi giữa vòng trời đất” (Cảm hứng lan man II). Nguyễn Du chẳng bao giờ
quên những ngày tháng túng quẩn vụn vặt của gia đình Đỗ Phủ, đàn con thơ kêu đói, kêu rét, khi mái nhà
bằng tranh gió thổi tốc lên tận trời...
Cách nhau hàng mấy chục thế kỷ, Nguyễn Du vẫn tìm thấy ở Đỗ Phủ một tâm hồn đồng điệu với
mình. Đỗ Phủ vì sinh lỗi thời mà không thể đem tài trí của mình ra giúp đời, giúp nước nên đành bất lực
trước thời cuộc, trước nhân tình thế thái, trước cảnh đất nước lâm nguy. Ông muốn dấn thân mình vào cơn
nguy biến của đất nước, mong được cống hiến sức mình nhưng trong một “xã hội đảo điên, lòng người ly
tán, người trung có ít, kẻ nịnh quá nhiều. Giàu sang phú quý xưa, nay vẫn là miếng mồi cho sự tranh
đoạt… thì những kẻ sống trung thực, giàu lòng thương người, luôn trăn trở suy tư cho kiếp người chắc
chắn sẽ bị ném ra bên lề của cuộc sống” [106, tr 108 - 109]. Vì có sự đồng cảm, khi đi qua mộ Đỗ Phủ
ông ứa nước mắt và khóc:
Dị đại tương liên không sái lệ (Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I)
(Sống khác thời đại thương nhau chỉ biết rơi nước mắt)
Nguyễn Du với Đỗ Phủ là hai người “đồng cảnh, đồng bệnh”, cả hai cùng mang một nỗi đau, một
niềm trắc ẩn khi nhìn vào kiếp người. Nỗi đau ấy có lẽ xuất phát từ Đỗ Phủ mà thấm vào Nguyễn Du.
Cũng giống như xưa kia Đỗ Phủ yêu quý con người hơn yêu quý bản thân mình mà giờ đây Nguyễn Du
cũng thấy đó là nỗi đau vô bờ trước
sự khốn khổ của một kiếp người. Đã có lúc Nguyễn Du xem Đỗ Phủ như người bạn tri âm tri kỷ để chia sẽ
niềm vui nỗi buồn.
Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị,
Địa hạ vô linh quỉ bối xi. (Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I)
(Chứng lắc đầu cũ đã chữa khỏi được chưa?
Dưới đất đừng để cho lũ ma quỉ cười mình.)
Tóm lại, xã hội phong kiến dưới mắt Nguyễn Du là một xã hội đầy những bọn “nhai thịt người ngọt
xớt như đường”, đầy khốn khổ cho những kẻ bị áp bức, hèn yếu. Thái độ Nguyễn Du là đồng tình và
thông cảm sâu sắc với những người hiền, người tài, còn đối với những kẻ thống trị thì thái độ của ông mới
đến chỗ khinh bỉ, oán ghét, nhiều nhất là bi phẫn chứ chưa căm thù phẫn nộ.
Với người hiền, người tài Nguyễn Du không chỉ thương cảm cho số phận của họ mà ông còn khâm
phục tài năng của họ. Nguyễn Du nhiều lần rỏ nước mắt khóc cho số phận cuộc đời của người hiền, người
tài. Dẫu không cùng thời đại, không cùng dân tộc chỉ cần cùng hội cùng thuyền với họ nhưng đó chính là
tình người. Trong cuộc sống xã hội, con người đều hành động đối xử với nhau trên cơ sở đạo lý là trọng
tình trọng nghĩa. Có thể thấy cách ứng xử của Nguyễn Du chính là trọng tình nghĩa và đạo lý. Đây là nét
đẹp ứng xử văn hóa của Nguyễn Du.
3.3.5. Phụ nữ
Phần thương mến sâu sắc nhất của mình, Nguyễn Du dành cho phụ nữ bằng những lời trìu mến
nhất, thương cảm nhất. Thái độ thương mến trân trọng ấy, ông cũng đã nêu lên nỗi thống khổ của phụ nữ
trong xã hội. Chính vì phụ nữ là hạng người xấu số bị vùi dập nhiều nhất. Cho nên, Nguyễn Du xót
thương trước số phận người phụ nữ. Hai lần ông cất tiếng than đứt ruột, như một tiếng nấc “Đau đớn thay
phận đàn bà”. Khảo sát thế giới nhân vật trong ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du với 250 bài chúng tôi
nhận thấy Nguyễn Du viết nhiều về những người phụ nữ trong lịch sử Trung Hoa như các bà vợ của vua
Thuấn, chị em Tiểu Kiều, Đại Kiều thời Tam Quốc, Dương Quý Phi, Ngu Cơ, Ba người đàn bà ở núi Tam
Liệt…
Nhưng Nguyễn Du đặc biệt rỏ nước mắt cho hai đối tượng phụ nữ, thứ nhất là phụ nữ danh tiếng,
thứ hai là phụ nữ tài hoa nhưng bất hạnh cuối cùng đều phải chết yểu hay có kết cục vô cùng bi thảm.
Nguyễn Du đã từng nói “Ngựa hay không chết già, liệt nữ không chết bệnh, người có khí phách khác
thường thì trời đất không có chỗ dung” [106 , tr 99]. Quả đúng như vậy.
Đối với phụ nữ danh tiếng, Nguyễn Du có cách nhìn xót xa, thông cảm và đồng cảm sâu nặng đối
với họ. Nguyễn Du nhìn thấy nỗi thống khổ của những người phụ nữ danh tiếng. Vì chính họ cũng phải
gánh chịu nhiều mất mát, đau khổ trong đời. Đặc biệt dưới mắt của Nguyễn Du phụ nữ danh tiếng như
Dương Quý Phi, Nga Hoàng và Nữ Anh vợ vua Nghiêu – Thuấn... luôn là đối tượng được ông quan tâm.
Nguyễn Du thật sự ngưỡng mộ hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh vợ vua Nghiêu – Thuấn đi tìm
chồng ngồi khóc bên dòng sông Tương những giọt nước mắt nhỏ vào những cây trúc trở thành những vết
lốm đốm.
Ngu Đế nam tuần cánh bất hoàn,
Nhị phi sái lệ trúc thành ban. (Thương Ngô tức sự)
(Vua Ngu Thuấn đi tuần ở phương nam, không trở về nữa,
Hai bà phi khóc, nước mắt rưới vào khóm trúc thành vết lốm đốm.)
Hành động của hai bà làm cho nhà thơ thật xúc động. Trước hành động và cử chỉ cao đẹp đó, ông
dành cho hai bà bốn bài thơ trong tập thơ chữ Hán của ông (Thương Ngô tức sự, Thương Ngô mộ vũ,
Thương Ngô trúc chi ca III, VIII). Đến sông Tương, Nguyễn Du không quên viếng hai bà bằng chén rượu
và trầm ngâm tưởng tượng ra tiếng đàn của hai bà.
Bôi tửu bằng lan điếu thị nhi (Thương Ngô mộ vũ)
(Tựa lan can rót rượu viếng hai bà)
Thủy diện huyền thanh tự nhị phi (Thương Ngô Trúc Chi ca III)
(Tiếng đàn trên sông nước nghe như tiếng đàn của hai bà phi)
Tục thờ cúng, tế lễ có thể xem là một đặc trưng của các dân tộc có nền văn minh lúa nước. Sự cúng
bái trân trọng, kính cẩn nghiêng mình trước những vong linh mình tôn kính. Cho nên tín ngưỡng tôn giáo
trở thành đặc điểm quan trọng trong tâm thức dân tộc Việt, đây là dấu vết ảnh hưởng văn hóa bên ngoài,
từ Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Nhưng người Việt không chấp nhận những gì xa lạ với đặc điểm vốn có
của mình.
Ông thương tiếc kính trọng cho ba phụ nữ tiết liệt như Trương Thị, Quách Thị và Lưu Thị đời
Minh, kiên quyết chống lại bọn hung bạo và hy sinh để giữ mình được trong sạch. Tấm gương sáng đó
nghìn đời vẫn còn sáng mãi.
Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt,
Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn. (Tam liệt miếu)
(Bia kệ ngàn năm làm rạng danh ba người đàn bà tiết liệt,
Cương thường một thưở thuộc về một nhà.)
Dương Quý Phi, một quý phi được vua Đường Minh Hoàng vô cùng sủng ái, sắc đẹp nghiêng nước
nghiêng thành nhưng lại bị đỗ tội oan chỉ vì vua quan bất tài không đuổi được giặc, cuối cùng nàng phải
thắt cổ tự tử ở đèo Mã Ngôi. Người đời mắng chửi và nguyền rủa Quý Phi, xem nàng là tội nhân của đất
nước. Trong khi đó cả triều đình đều “phỗng đứng” nhưng chỉ có Nguyễn Du là người lên tiếng minh oan
cho người con gái họ Dương và những mỹ nhân ngày xưa mắc tội làm “khuynh thành vong quốc”.
Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành. (Dương Phi cố lý)
(Từ đấy cả triều đều là người đứng như phỗng,
Mà nghìn năm còn đổ tội oan cho người đẹp khuynh thành.)
Ở đây ta bắt gặp tư tưởng của Nguyễn Du tương tự như ý tưởng của Hoa Nhị phu nhân.
Quân vương thành thượng thụ hàng kỳ,
Thiếp tại thâm cung na đắc tri.
Tứ thập vạn nhân tề giải giáp,
Ninh vô nhất cá thị nam nhi?
(Thuật vong quốc thi)[55, tr 1098]
(Cờ hàng vua cắm khắp thành trì,
Thiếp ở trong cung nào biết chi.
Bốn chục vạn người cùng giải giáp,
Lẽ nào không một đấng nam nhi?)
Tình cảm của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở chỗ thông cảm mà còn đi đến chỗ đồng cảm với
những người phụ nữ phải gánh chịu nhiều mất mát, đau khổ trong đời. Cuộc đời Nguyễn Du trải qua nhiều
đau khổ và thất chí và hiểu những nỗi bất hạnh của cuộc đời gây ra cho mình cũng như những người phụ
nữ khác, Nguyễn Du đã viết về họ bằng những vần thơ chân thành. Quả thật, Nguyễn Du có con mắt “tinh
tế”, tấm lòng “nghĩ suốt nghìn đời” và tâm hồn nhạy cảm phong phú với mọi tầng lớp con người trong xã
hội.
Đối với phụ nữ tài hoa nhưng bất hạnh, Nguyễn Du còn nhỏ nước mắt thương cảm cho những số
phận con người như kỉ nữ, ả đào. Tất cả họ đều là người có tài, có sắc, danh tiếng một thời. Đó là người ca
nữ đất La Thành, người hầu cũ của em, cô Cầm ở đất Long Thành…
Cô Cầm trong bài (Long Thành cầm giả ca) là một cô gái có tài đàn nổi tiếng và dễ thương.
Hồng trang yểm ái đào hao diện,
Đà nhan hám thái tối nghi nhân.
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến,
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm.
Thanh như song hạc minh tại âm,
Liệt như Tiến phúc bi đầu toái tích lịch.
Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm,
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện.
(Long Thành cầm giả ca)
(Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào,
Má hồng men rượu, dáng thơ ngây, rất đáng yêu.
Năm cung réo rắc theo ngón tay đàn mà đổi điệu,
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông.
Tiếng trong như đôi chim hạc kêu lúc đêm khuya,
Tiếng mạnh như tiếng sét đánh tan bia Tiến Phúc.
Tiếng buồn như Trang Tích ngâm tiếng Việt lúc ốm đau,
Người nghe mê mệt không biết mỏi.
Quả thật tiếng đàn của cô Cầm là tinh hoa thuộc về trời đất. Tiếng đàn ấy đã gợi cho Nguyễn Du
biết bao nỗi niềm tâm sự. Vẫn là tiếng đàn tài hoa ngày xưa, nay ông gặp lại trong buổi tiệc đón tiếp
Nguyễn Du do quan Tuyên Phủ thiết yến. Giả như những người làm quan hiển đạt khác, ắt sẽ không chú ý
đến một người phụ nữ tóc đã hoa râm, nét mặt võ vàng khô khan thần sắc, đôi mày tàn tạ phạc phờ giữa
đám cô đào thẩy đều rất trẻ đẹp kia. Chỉ có Nguyễn Du mới có cái nhìn sắc sảo đầy lòng yêu thương, mới
có tiếng thở dài não ruột âm thầm kia “Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu” (Ai biết rằng
đó chính là người tài danh bậc nhất của kinh thành ngày xưa) (Long Thành cầm giả ca) và chỉ có Nguyễn
Du mới nghe được tiếng đàn của một người đau khổ. Nghe khúc đàn xưa đàn lên từng tiếng mà nước mắt
thi nhân thầm rơi, tai lắng nghe mà lòng đau xót.
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy,
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi. (Long Thành cầm giả ca)
(Khúc xưa giọng mới lệ thầm rơi,
Tôi lắng nghe, lòng đau xót)
Cô Cầm ngày xưa dễ thương mà giờ đây tàn tạ dung nhan, Nguyễn Du thông cảm được sự tàn phá
của thời gian, càng thương cho kiếp người nhỏ nhoi trong vũ trụ rộng lớn, trong cuộc đời dâu bể. Hình
ảnh ấy gây một mối thương tâm lớn lao trong Nguyễn Du. Trước sự thay đổi lạnh lùng và nghiệt ngã ấy,
nỗi đau trong ông hiện lên rất đời và rất thực.
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thương hải.
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong,
Ca vũ không di nhất nhân tại.
(Long Thành cầm giả ca)
(Thành quách đổi dời, việc người đã khác,
Biết bao nơi ruộng dâu đã biến thành biển xanh.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết cả rồi,
Chỉ còn sót lại một người ca múa!)
Nàng ca nữ ở đất La Thành đẹp như một cành hồng thắm từ cõi tiên sa xuống, sắc đẹp làm rung
động cả sáu khu trong thành nhưng cuộc đời lại bạc mệnh. Nàng chết trẻ, lúc sống đã không rửa được
nghiệp chướng phấn son chết đi còn để lại tiếng gió trăng. Nguyễn Du xót thương cho nàng.
Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh,
Trủng trung ưng tự hối phù sinh.
Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng,
Phong nguyệt không lưu tử hậu danh. (Điếu La Thành ca giả)
(Thiên hạ ai thương người bạc mệnh ?
Dưới mồ chắc hẳn cũng tự mình hối hận cho kiếp phù sinh.
Lúc sống đã không rửa được nghiệp chướng phấn son,
Sau khi chết chỉ để lại cái tiếng gió trăng.)
Người hầu cũ của em “ngày xưa xinh đẹp, giọng ca có một không hai, bây giờ đã lấy chồng, có ba
con”. Nàng giờ đây xơ xác, tiều tụy, khô héo “mà đáng thương thay nàng vẫn còn mặc chiếc áo cũ từ ngày
ra đi”[106, tr 99]. Đứng trước nỗi đau khổ ngổn ngang ấy Nguyễn Du viết lên những câu thơ:
Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển,
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly.
Phúc bồn dĩ hỉ nan thu thủy
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti!
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử,
Khả liên do trước khứ thời y.
(Ngô gia đệ cựu ca cơ)
(Đã từng nghe giọng ca uyển chuyển khi nàng mặc áo hồng,
Đầu bạc gặp nhau, khóc nỗi lưu ly.
Thôi rồi, chậu nước đã đổ, khó mà thu lại được,
Thương ôi, ngó sen tuy gãy, nhưng tơ vẫn chưa dứt.
Nghe nói nàng lấy người khác đã có ba con,
Đáng ái ngại là vẫn còn mặc chiếc áo ngày ra đi.)
Sợi tơ sen vấn vương hay cõi lòng ông đang luyến lưu không muốn rời đứt với những kỷ niệm xưa
đang ùa về. Ông khóc cho nàng, cho chiếc áo cũ, cho tiếng đàn xưa. Nàng bây giờ nhan sắc đã tàn phai,
tiều tụy, xơ xác…
Tóm lại, ở Nguyễn Du nổi bật nhất là nét lo đời, lo cho tất cả… vừa lo cho toàn thể cộng đồng, vừa
lo cho số phận cá nhân cụ thể. Tình cảm của ông vừa bao quát vừa riêng biệt, vừa chung cho cuộc đời,
vừa riêng cho con người. Ở đó tập trung nhiều trạng thái cảm xúc yêu thương con người cùng khổ, sống
trong xã hội phong kiến. Đây cũng là một đạo lý nhân nghĩa mang đậm truyền thống Việt. Đạo lý nhân
nghĩa nổi lên ở đây là đạo lý mang tầm vóc văn hóa dân tộc đạo lý thương người như thể thương thân,
một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ... Nguyễn Du cũng có một tâm hồn nhân nghĩa nhạy cảm phong phú với
mọi tầng lớp con người trong xã hội. Nguyễn Du như truyền vào tâm hồn chúng ta cái xót thương vô hạn
đối với những con người cùng khổ. Đó cũng là bài học mà Nguyễn Du đã kế thừa truyền thống văn hóa
lâu đời của dân tộc biết trọng nhân nghĩa để sống có nghĩa có nhân.
Trong quan hệ xã hội, tình nghĩa chính là điều phải, điều nhân, giúp đỡ lẫn nhau. Đạo lý Việt Nam
hết sức coi trọng con người, tất cả đều được nhìn nhận từ giá trị của con người đề cao con người và cuộc
sống nên khả năng đồng cảm trước nỗi đau nhân tình của người Việt rất nhạy bén. Chính vì vậy trong
quan hệ xã hội, người Việt luôn lấy tấm lòng ra đối đãi với nhau thiên về tình hơn thiên về lý Một bồ cái
lý không bằng một tí cái tình, Hợp tình hợp lý... Chính vì trọng tình trọng nghĩa mà người Việt không hề
có tư tưởng trả thù mà họ vẫn khoan dung, tha thứ cho nhau để giữ được cái tình, cái nghĩa, để tích phúc,
tích đức cho con cháu về sau. Họ không hề có ý nghĩa trả thù những kẻ đã gây nên bao điều ác độc cho
mình. Đây cũng chính là nét nhân hậu, khoan dung trong ứng xử xã hội của người Việt.
Trên đây là một trong những nét ứng xử của người Việt có thể nhận thấy trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Du. Những nét ứng xử trên xứng đáng được xem là nét đẹp của văn hóa dân tộc hòa chung với
nền văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
3.4. Ứng xử trong gia đình
Gia đình là cái gốc của con người, nơi con người sinh ra và bắt đầu cuộc sống. Trong suốt cuộc đời
gia đình là điểm tựa, là cội nguồn tình cảm, là yếu tố vô cùng cần thiết cho cuộc sống cá nhân và xã hội.
Gia đình là một phạm trù mang tính lịch sử. Cho đến nay có khá nhiều khái niệm khác nhau về gia đình
tùy theo góc độ nghiên cứu của mỗi ngành khoa học.
Gia đình trong buổi bình minh của loài người “quan hệ gia đình là duy nhất”, Liên Hiệp Quốc đã
khẳng định [70]. Quan hệ này cho thấy gia đình thuở ban đầu chiếm vị trí độc tôn trong tác nhân xã hội
hóa. Ngoài gia đình, lúc ấy nhân loại chưa biết đến một tổ chức xã hội nào khác. Khi điều kiện kinh tế
ngày càng phát triển dân số càng tăng thì quan hệ về gia đình có nhiều thay đổi. Gia đình từ chỗ “quan hệ
duy nhất” trở thành quan hệ phụ thuộc với tư cách là một bộ phận trong tổng thể. Liên Hiệp Quốc cũng đã
khẳng định “Gia đình là một thể chế có tính toàn cầu”[70]. Tuy nhiên thể chế này lại mang hình thức và
chức năng không giống nhau ở mỗi quốc gia, dân tộc. Do đó, quan niệm gia đình lại mang đặc trưng riêng
của mỗi nước.
Ở Việt Nam, gia đình là người có cùng quan hệ huyết thống gắn bó mật thiết với nhau. Mối quan
hệ này gắn bó chặt chẽ với nhau trong tổ chức cộng đồng huyết thống và đời sống tinh thần cho nên gia
đình gắn kết với gia tộc. Loại hình gia đình có thể gồm ông bà, cha mẹ và con cái cùng chung sống (gia
đình nhiều thế hệ). Quan niệm về gia đình không chỉ đóng khung trong quan hệ về huyết thống mà gia
đình là một phạm trù rộng lớn trên cơ sở những người cùng có tinh thần dân tộc, tình yêu thương.
Như vậy, gia đình là một nhóm xã hội nhỏ, một tổ chức xã hội và một thiết chế xã hội đặc thù. Các
thành viên trong gia đình ràng buộc nhau bởi quan hệ huyết thống, quan hệ pháp luật, bởi tính cộng đồng
và quan hệ đạo đức. Có thể nói gia đình là một xã hội thu nhỏ với tất cả các quan hệ xã hội ràng buộc với
nhau.
Vì vậy, người viết chỉ đi vào tìm hiểu cách ứng xử của các thành viên trong gia đình đó là quan hệ
ứng xử đối với cha mẹ, với anh em, với vợ, với con cái.
Đối với cha mẹ, Nguyễn Du là một người con, ông rất hiểu nghĩa vụ của mình và đó là những
nguồn gốc ông sinh ra.
Nhắc đến ứng xử tình nghĩa trong gia đình là phải nhắc đến hầu hết tác phẩm văn học Việt Nam,
thơ ca cũng như văn xuôi chứ không riêng gì thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Nhưng tình nghĩa trong thơ
chữ Hán có lẽ làm cho bạn đọc phải thấm thía bởi sự quan tâm, sự kính yêu, nhớ thương của từng thành
viên trong gia đình. Văn hóa ứng xử truyền thống trong thơ chữ Hán, phù hợp với truyền thống của người
Việt, coi trọng tình nghĩa là trên hết.
Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, ta thấy nhà thơ hay buồn, hay khóc, những giọt nước mắt ông
nhớ về người thân, nhớ về gia đình cũng thật cảm động.
Tiêu điều lữ muộn đối thời ca. (Tạp ngâm)
(Nghe khúc ca đương thời khiến cho nỗi buồn
lữ khách càng thêm tiêu điều)
Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân. (Xuân tiêu lữ thứ)
(Dưới Đoàn thành, nước mắt thấm khăn)
Nguyễn Du là người rất giàu tình cảm, là một tâm hồn nhạy bén trước những âm thanh, màu sắc
của cuộc đời và rất hay xúc động. Dọc đường đi sứ, nhà thơ lúc nào cũng nghĩ về quê hương và những
người thân, lòng như thắt lại.
Biệt hậu quan sơn tư đệ muội,
Vọng trung nham tụ kiến nhi tôn.
Nhật tà mạc hướng Hoa Sơn quá,
Phạ hữu thanh thanh trường đoạn vôn (viên).
(Minh giang chu phát)
(Sau khi chia tay trên bước đường quan san
nhớ đến em trai em gái,
Nhìn giữa đá núi, tưởng như trông thấy đàn con cháu.
Mặt trời đã xế chớ có vượt qua Hoa Sơn,
Sợ nghe tiếng vượn kêu buồn đứt ruột.)
Đặc biệt, tình cảm của Nguyễn Du dành cho người cha thân yêu được ông gợi lại trong bài Giang
Đình hữu cảm về hình ảnh lẫy lừng của phụ thân được tiếp rước trọng thể ở bến Giang Đình.
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi
Tiên chu kích thủy thần long đấu
Bảo cái phù không thụy lạc phi
(Giang Đình hữu cảm)
(Ở bến sông này phơi phới xe bồ ngựa tứ
Thuyền tiên cuộn nước như rồng thần đấu nhau
Chiếc lộng quý phấp phới trên không như chim hạc lành bay.)
Đứng trước bến Giang Đình những hình ảnh đó, Nguyễn Du nhớ lại người cha đã từng đi xe, đi
thuyền, đi ngựa cùng với chiếc lộng quý phấp phới tưng bừng tại bến sông này.
Lòng hiếu thảo của Nguyễn Du thể hiện bằng lòng thương nhớ về cha mẹ. Đó là bài học về cách
sống, về đạo lý làm người của ông đối với các bậc sinh thành.
Nếu như đối với cha mẹ Nguyễn Du là người con có hiếu thì đối với anh em, ông là người quan
tâm, lo lắng.
Từ xa xưa, trong các câu ca dao, tục ngữ của người bình dân mối quan hệ anh em, chị em trong gia
đình đã được đề cập đến Chị ngã em nâng, Anh em như chân với tay, Khôn ngoan đối đáp người ngoài.
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau… Mối quan hệ giữa anh em, chị em trong gia đình người Việt vẫn
không đi ra ngoài quỹ đạo của ứng xử theo triết lý nghĩa tình. Đó là tình cảm yêu thương thắm thiết giữa
anh em…
Đối với anh em, Nguyễn Du dành tình cảm chân thành thể hiện rất rõ trong thơ chữ Hán. Cuộc
sống của Nguyễn Du phiêu bạt nay đây mai đó.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán. (Quỳnh Hải nguyên tiêu)
(Chốn non Hồng không còn nhà, anh em tan tác)
Không nhà cửa, không người thân, anh em xiêu lạc mỗi người một ngã ông cảm thấy buồn vì đã
lâu lắm rồi ông không có tin tức gì về Tiên Điền. Không biết từ ngày Tây Sơn lên cầm quyền có gì thay
đổi? Nguyễn Du chưa bao giờ sống lâu ở Tiên Điền nhưng hình ảnh nơi quê cha đất tổ cứ gợi dậy trong
lòng ông những khoắc khoải. Điều đặc biệt trong thơ ông thường hay nhắc về họ, lúc nào cũng lo lắng,
quan tâm. Không biết mọi người bây giờ ra sao? Đang làm gì? “Trong số các anh em của mình, Nguyễn
Du nghe nói, sau một thời gian về quê mẹ, Nguyễn Đề được nhà Tây Sơn gọi ra làm quan trở lại. Ông
được cử làm Hàn lâm viện thị thư, rồi được cử làm phó sứ trong phái bộ của Phan Huy Ích sang dự lễ bát
tuần đại khánh của vua Thanh. Nguyễn Ức thì vẫn ở Thuận Thành”[57, tr 80]. Số anh em trong quê hoàn
toàn không tin tức.
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư. (Sơn cư mạn hứng)
(Em trai em gái nơi quê nhà bặt hẳn tin tức,
Chẳng thấy một bức thư báo bình an.)
Em trai em gái ở quê nhà lâu nay không có một tin tức gì, cũng không có một lá thư nào cho biết có
bình an hay không? Nguyễn Du thường sống xa nhà cách Trường An nghìn dặm, cuộc sống xa quê hương
xa người thân, không ai thân thích. Ban ngày yên tĩnh mây núi che kín cổng tre, nỗi lòng nhớ quê khi
tiếng nhạn đầu mùa khơi thêm tiếng lòng biệt ly từ bao năm nay.
Nguyễn Du có người anh Nguyễn Đề lúc này đã làm quan với Tây Sơn. Ở nơi đó, đường đi khó
khăn núi non lởm chởm muốn qua phải vượt đèo Hải Vân, khí trời đầy khí độc, tiết trời tháng hai lạnh lẽo,
xa quê hương chắc anh nhớ nhà da diết?
Lục Tháp thành nam hệ nhất quan,
Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan.
Cùng xu lam chướng tam niên thú,
Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn.
Nhất biệt bất tri hà xứ trú?
(Ức gia huynh)
(Một chức quan buộc anh ở phía nam thành Lục Tháp,
Ban đêm vượt qua đèo Hải Vân đá lởm chởm.
Nơi cùng tịch đầy lam chướng anh đồn thú ba năm,
Chốn cố quốc tôi nhìn hoa khói của tiết tháng hai lạnh lẽo.
Một lần từ biệt nay không biết ở nơi nào.)
Biển trời mênh mông, đường xa vạn dặm, anh em gặp chỉ có trong giấc mộng cũng rất khó khăn.
Hải thiên mang diểu thiên dư lý,
Thần phách tương cầu mộng diệc nan. (Ức gia huynh)
(Trời biển mênh mang đường xa nghìn dặm,
Hồn phách tìm nhau trong mộng cũng khó.)
Nhớ anh có lần Nguyễn Du lên kinh đô thăm anh, hai anh em gặp nhau vui mừng khôn xiết,
Nguyễn Đề mỗi lần nhớ em, lại thương em lưu lạc không biết em giờ đang ở nơi nào, tình thương ấy
Nguyễn Đề thể hiện qua thơ.
Tố Như hà xứ trú,
Linh lạc tối kham ai.
Tự hữu lăng vân chí,
Hoàn vô thế thiệp tài…
(Tố Như ở nơi nào? Lưu lạc thật đáng thương. Người vốn có chí cưỡi mây, nhưng lại không có tài
giao thiệp với đời… Hoài Tố như đệ).
Với anh em, Nguyễn Du thể hiện tình thương mến chân thành. Tình cảm đó đáng được trân trọng,
đáng được đề cao. Như vậy, ứng xử của Nguyễn Du đều dựa nguyên tắc anh em phải biết yêu thương, lo
lắng, quan tâm đùm bọc lẫn nhau. Đây cũng là bài học ứng xử mà Nguyễn Du muốn gởi đến người đọc.
Nguyễn Du cũng dành một phần thơ chữ Hán và tình thương đối với vợ. Vợ ông để lại cho ông
nhiều ấn tượng sâu sắc. Do đó tình cảm của ông đối với vợ cũng là tình cảm sâu đậm nhất, sắc son nhất.
Từ xưa đến nay người Việt Nam cho rằng chữ thủy chung là yếu tố hàng đầu trong tình nghĩa vợ
chồng. Ca dao dân gian có rất nhiều câu, ca ngợi tình nghĩa vợ chồng thủy chung son sắt.
-Thương nhau bất luận giàu nghèo,
Dù cho lên ải, xuống đèo cũng cam.
-Ở cho chung thủy vẹn toàn,
Lên non lên dõi, xuống thuyền xuống theo.
-Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn.
Nổi bật nhất trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du là tình nghĩa vợ chồng minh chứng rất rõ ràng cho
văn hóa ứng xử tình nghĩa của người Việt. Từ vai trò làm nền tảng gốc rễ cho thế ứng xử nói chung của
người Việt, tình nghĩa đã đơm bông tươi thắm, tỏa ngát hương thơm và vẻ đẹp giản dị nhưng hết sức tinh
khiết của mình trong tình cảm vợ chồng. Điển hình cho tấm lòng của Nguyễn Du đối với người vợ thể
hiện trong thơ chữ Hán của ông.
Đối với vợ, Nguyễn Du dành nhiều tình thương vì vợ ông để lại cho ông nhiều ấn tượng sâu sắc.
Do đó tình cảm của ông đối với vợ cũng là tình cảm sâu đậm nhất. Mỗi lần nói tới vợ, ông đều nói với
một giọng nói rất trìu mến, chân thành điều đó được thể hiện trong bài Kí mộng. Lâu năm xa cách vợ,
khiến ông nhớ thương về người vợ hiền chắc chắn đang “chờ đợi héo hon. Ông đã hình dung ra điều ấy.
Gặp lại vợ trong giấc mơ, bao nhiêu nỗi niềm trong tưởng tượng được dịp tuôn chảy dạt dào”[106, tr 101].
Dẫu chỉ gặp vợ trong mơ nhưng lời thơ đầy hình ảnh và cảm xúc chân thành.
Mộng trung phân minh kiến,
Tầm ngã giang chi mi.
Nhan sắc thị trù tích,
Y sức đa sâm mi,
Thỉ ngôn khổ bệnh hoạn,
Kế ngôn cửu biệt ly.
(Ký mộng)
(Trong mộng thấy rõ ràng,
Tìm ta ở bến sông.
Nhan sắc vẫn như xưa.
Áo quần thì lếch thếch,
Thoạt đầu nói khổ vì bệnh hoạn,
Kế đó nói xa nhau lâu)
Vì nhớ chồng, người vợ bất chấp tất cả những khó khăn:
Điệp Sơn đa hổ trĩ,
Lam thủy đa giao ly.
Đạo lộ hiểm thả ác,
Nhược chất tương hà y ?
(Ký mộng)
(Núi Tam Điệp nhiều hổ báo
Sông Lam nhiều thuồng luồng
Đường đi hiểm và dữ,
Thân yếu đuối dựa vào đâu? )
Lần đầu tiên người vợ đến núi Tam Điệp một thân một mình đường xa cách trở, không biết đường
xá mà núi Tam Điệp nhiều hổ báo, sông Lam lắm thuồng luồng đường đi hiểm trở. Huống chi thân đàn bà,
con gái biết nhờ cậy ai?. Nguyễn Du vẽ ra bao nhiêu chuyện đi tìm chồng cực kỳ khó khăn nhưng vì nhớ
nhau người vợ đành phải liều. Tình cảm ấy thật đẹp! Người vợ Nguyễn Du vượt qua tất cả chỉ để nói lên
tiếng nói tình yêu. Và người chồng càng tuyệt vời hơn tưởng tượng ra tất cả những điều ấy trong giấc
mộng.
Nhớ thương vợ, Nguyễn Du càng không thể quên được tình nghĩa thủy chung. Đó là lý do mà ông
thường nói đến sự chung thủy. Phải yêu thương vợ biết bao thì Nguyễn Du mới có những dòng chân
thành, xúc động đến như vậy!
Đối với vợ, Nguyễn Du là một người chồng thủy chung, nhân hậu. Vợ chồng sống với nhau phải
nặng tình trọng nghĩa. Ông luôn coi vợ là điểm tựa tinh thần cho mình (điều mà ít Nhà nho cùng thời với
ông có được). Đây cũng là tấm lòng đáng trân trọng như những lời tri ân, tri kỷ đối với vợ. Đó là ứng xử
văn hóa của Nguyễn Du gởi đến cho chúng ta.
Đối với con, Nguyễn Du là một người cha rất mực thương con và luôn nghĩ đến trách nhiệm. Do đó
tình cảm của ông đối với con cũng là tình cảm nhân ái, độ lượng.
Có thể thấy rằng cái cốt lõi của mối quan hệ trong gia đình, với họ hàng, hàng xóm láng giềng...
của người Việt đều xây dựng trên nền tảng lấy tình yêu thương làm cơ sở cho cách xử thế. Chúng ta vẫn
nói tình cha con, tình mẹ con, tình vợ chồng, tình anh em, tình bà con thân thuộc, tình làng xóm láng
giềng... Tất cả đều bắt đầu bằng chữ tình. Từ tình đưa đến nghĩa, tình trước nghĩa sau, tình sâu mà nghĩa
thì nặng. Tình luôn luôn gắn với nghĩa cho nên gộp lại mà gọi là tình nghĩa. Trong mối quan hệ cha mẹ
đối với con cái của người Việt thì thương yêu là một tình cảm tự nhiên. Đó là một thứ tình cảm yêu
thương đầm ấm. Người cha, người mẹ với hình ảnh hiền từ, độ lượng, rất mực thương con. Điều này được
thấy rất rõ trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Thơ chữ Hán, ta thấy Nguyễn Du không những có khẩu khí của một ông quan, có những chuyện
“tu, tề, trị, bình”… mà còn thấy trong đó những nỗi niềm, những day dứt lo âu về no, đói, về nhân tình thế
thái, về những sự được mất của cuộc đời… Ngoài ra ông còn quan tâm đến cuộc sống của gia đình với
những đứa con thơ.
Con người vất vả quanh năm không biết xuân là gì. Nguyễn Du ý thức, lo lắng về cái nghèo. Cái
nghèo của chính thân mình, ông nói một cách cay đắng:
Văn tự hà tằng vi ngã dụng ?
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên. (Khuất thực)
(Văn chương chữ nghĩa nào đã từng ích gì cho ta ?
Không dè đói rét phải nhận lòng thương hại của người.)
Văn chương quang diệm thành hà dụng
Nam nữ thân ngâm bất khả văn.
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ II )
(Văn chương ngời sáng dùng được việc gì ?
Trai gái rên khóc chẳng đành lòng nghe.)
Văn chương chữ nghĩa cũng trở thành vô ích trước cái đói, cái nghèo. Khi những đứa con thơ của
mình miệng rên rỉ kêu đói, kêu rét. Con người trong thơ đã quặn lòng khi bất lực nhìn cảnh đói rét của các
con mình. Ông đã xót xa viết:
Thập khẩu đề cơ Hoành lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông (Ngẫu đề )
(Mười miệng kêu đói ở cửa bắc Hoành Sơn,
Một thân nằm bệnh ở phía đông Hoàng thành)
Và ở một bài khác:
Cố hương cang hạn cửu phương nông
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng (Ngẫu hứng IV )
(Quê hương nắng hạn lâu làm hại việc nông
Mười miệng trẻ đói mặt cùng xanh như rau)
Tình cảnh của Nguyễn Du thật không khác tình cảnh của Đỗ Phủ đời Đường. Cùng chung cảnh
nghèo. Đỗ Phủ thì “trai rên gái khóc” trong tuyết giá, phải vác mai đi đào củ mài cho đỡ đói. Còn Nguyễn
Du “mười miệng kêu đói ở cửa bắc Hoành Sơn” “mười mặt con thơ như lá úa”. Thật là đau xót.
Trong văn hóa ứng xử của Nguyễn Du, tình sâu nghĩa nặng, trọn tình vẹn nghĩa đã trở thành một
trong những phẩm giá nhân văn cao quý nhất. Tình và nghĩa làm thành một hệ thống hai đầu mối, thường
xuyên đi với nhau, quan hệ mật thiết với nhau. Đó là sự kết hợp hài hòa tình cảm thương yêu với tinh thần
trách nhiệm. Sự bền vững của gia đình được duy trì bằng sự hài hòa tình nghĩa. Cái tình làm cho lễ giáo
phong kiến gia đình luôn hướng vào sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của các thành viên. Tình nghĩa lại
càng được trân trọng qua sự hiếu thảo hết mực của con cái với cha mẹ, qua tấm lòng thương yêu của cha
mẹ dành cho con, qua sự yêu thương đùm bọc, kính trên nhường dưới của anh em, qua tình yêu chân
thành và sự thủy chung son sắc của vợ chồng, qua sự yêu thương của người cha hiền từ, nhân ái, độ lượng
đối với con… Nguyễn Du sống và cư xử đều thống nhất theo triết lý tình nghĩa.
Trong tâm thức của Nguyễn Du, ý thức làm người vô cùng quan trọng nỗi lo lớn nhất là không
thành người, không nên người. Chính vì thế trong cuộc sống, Nguyễn Du luôn phải sống sao cho có đạo
đức, có nhân cách, có nghĩa, có hiếu, có tình, phải biết tha thứ khoan dung... Đó là quan niệm ứng xử của
Nguyễn Du trong cuộc sống.
Ứng xử trên bình diện đối với bản thân, với tự nhiên, với xã hội, với gia đình trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du có ý nghĩa sâu sắc về việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nguyễn Du chính là
tấm gương sáng trong việc bảo vệ giữ gìn đạo đức, phong tục của nước Việt.
C. KẾT LUẬN
Trong bối cảnh của một thế giới mở cửa và đầy biến động như hiện tại, văn hóa là một lĩnh vực
luôn được hầu hết, quốc gia, dân tộc trên thế giới dành cho sự quan tâm đặc biệt, tầm quan trọng của văn
hóa được nâng lên hàng đầu. Bởi văn hóa là thuộc tính cơ bản của con người và xã hội loại người. Văn
hóa là một hình thái ý thức xã hội, biểu hiện các năng lực bản chất của con người trong xã hội ấy.
Cũng như bất kỳ lĩnh vực văn hóa nào, văn hóa ứng xử hình thành và phát triển cùng với sự hình
thành và phát triển nền văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Tiếp cận văn hóa ứng xử truyền thống là tìm về
cội nguồn của mỗi lĩnh vực, văn hóa từ đó chọn lọc, kế thừa để xây dựng lối ứng xử hiện đại, phù hợp với
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc của dân tộc. Văn hóa ứng xử của người Việt có sự giao lưu và tiếp
biến với văn hóa Ấn Độ và văn hóa Trung Hoa. Du nhập vào Việt Nam từ đầu công nguyên chỉ qua một
thời gian ngắn Phật giáo đã thâm nhập vào đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Trong suốt một
ngàn năm Bắc thuộc thái độ của người dân tiếp nhận Phật giáo với tinh thần bao dung luôn rộng mở, Phật
giáo làm nền linh hồn của thời đại Lý – Trần. Thời kỳ Lý – Trần đã chứng minh cho sự hưng thịnh nhất
của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo du nhập vào Việt Nam trong sự phát triển đồng hành, tác động qua lại
cùng với Nho giáo và Đạo giáo, tất cả tạo thành quan niệm Tam giáo đồng nguyên (ba tôn giáo cùng phát
nguyên từ một gốc) và Tam giáo đồng quy (ba tôn giáo cùng quy về một đích).
Văn hóa ứng xử truyền thống Việt Nam có nguồn gốc từ lao động là một nước có điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt, nền nông nghiệp truyền thống là trồng lúa nước, nên cộng đồng người Việt có mối liên
hệ chặt chẽ tạo nên văn hóa ứng xử truyền thống tốt đẹp của người Việt. Văn hóa ứng xử với những giá trị
tiêu biểu và bao quát là khoan dung nên có khả năng hấp thụ các giá trị phù hợp, tích cực, có lợi cho sự
tồn tại và phát triển của con người Việt Nam. Văn hóa ứng xử Việt Nam mang đậm nét nhân ái “Thương
người như thể thương thân” không phân biệt chủng tộc dân tộc, sự khái biệt thân phận cá nhân... người với
người là đồng chủng loại, cho nên dù là khác giới, khác nòi thì người Việt Nam vẫn khuyên nhau “Bầu ơi
thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Văn hóa ứng xử coi trọng giá trị cuộc
sống đặc biệt là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, người Việt Nam không bao giờ quên ơn cha mẹ, tổ tiên,
người có công với dân tộc, với đất nước. Đồng thời văn hóa ứng xử của Việt Nam còn coi trọng sự hiếu
hòa trong gia đình. Văn hóa ứng xử Việt Nam đồng thời là kết quả của sự giao lưu, tiếp biến những tinh
hoa của nhiều nền văn hóa trên thế giới tạo nên những giá trị văn hóa có những đặc trưng chung của văn
hóa ứng xử Việt Nam đó là “lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý… sự tinh tế trong ứng
xử…”[27, tr 56] đây chính là “những giá trị trường tồn của dân tộc, những nét chủ yếu, những nét nổi bật
nhất”[27, tr 23].
Qua việc tìm hiểu thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng tôi nhận thấy văn hóa của Nguyễn Du thể
hiện theo bốn mối quan hệ chính: ứng xử của bản thân, ứng xử với môi trường tự nhiên, ứng xử với môi
trường xã hội và ứng xử với gia đình.
Tìm hiểu thơ chữ Hán, ta thấy cách ứng xử của bản thân Nguyễn Du là “khởi động những suy cảm
cá nhân”[75, tr 11] tức là những con người biết hành động, suy nghĩ... cho chính bản thân mình trước hết
là ý thức giá trị của bản thân, đề cao phẩm giá cá nhân mình. Khi con người có ý thức về mình thì ý thức
ấy lớn hơn và luôn suy nghĩ về mình sống cần phải cống hiến và nghĩ về thời cuộc.. Theo triết lý Nho gia
đó là gốc của phép xử thế. Văn hóa ứng xử được bắt nguồn từ bản thân con người có nhận thức. Con
người có nhận thức, có hiểu biết sâu rộng thì khả năng tồn tại càng lớn và cách ứng xử của nó có tính nhân
văn cao. Chính bản thân Nguyễn Du có ý thức đã tạo nên phong cách văn hóa ứng xử mẫu mực được thể
hiện trong thơ chữ Hán của ông.
Nguyễn Du đã dành cho thiên nhiên một vị trí đặt biệt, ông không chỉ nhìn thiên nhiên như nó vốn
có, không chỉ dùng thiên nhiên để bày tỏ tình cảm mà ông luôn nhắc nhở bản thân mình lúc nào cũng phải
nhớ về quê hương. Quê hương, ông có cái nhìn trìu mến đặc biệt như một ánh trăng, một đám mây trôi,
một làn gió, hươu nai... tất cả đều rất thân thiện và gần gũi với con người. Có khi một tiếng trống, tiếng
sáo... cũng làm cho thi sĩ chợt nhớ quê hương. Thiên nhiên trong thơ ông như người bạn luôn luôn thấu
hiểu, chia sẻ trong mọi giai đoạn và cuộc đời để thi sĩ bộc lộ tâm trạng, thân phận và thế ứng xử của mình.
Đó chính là nét đẹp trong ứng xử văn hóa với thiên nhiên của Nguyễn Du.
Nhưng cũng có khi thiên nhiên hiện ra như một lực lượng huyền bí, siêu phàm điều kiển cuộc sống
của con người, trước sự hung bạo của thiên nhiên có thể dìm chết con người. Con người với số phận mong
manh như con ong, cái kiến, như cọng rơm nhánh cỏ... Ranh giới của con người khi đứng trước sự sống và
cái chết thì không ai không quan tâm, đặc biệt là bản sắc của cả đồng đồng dân tộc không vì thế mà biến
đổi. Nguyễn Du cũng bộc lộ những tính chất chung là nhân ái, thương người... Dù đi bất cứ nơi đâu, ông
cũng cúng bái trân trọng, kính cẩn nghiêng mình trước trời Phật, Thánh thần... là lực lượng có quyền pháp
và có lòng nhân từ độ lượng có thể hóa giải mọi kiếp nạn. Và như vậy, thiên nhiên không còn là một lực
lượng thần bí, siêu phàm để điều kiển cuộc sống của con người mà hầu hết để hội nhập, liên hệ làm bật lên
thế ứng xử của con người.
Tình nghĩa là truyền thống ứng xử của Nguyễn Du kết tinh thành một giá trị độc đáo của văn hóa
dân tộc – văn hóa tình nghĩa. Đây là sự kết hợp hài hòa tình cảm thương yêu và tinh thần trách nhiệm của
truyền thống gia đình. Trong quan hệ hàng xóm láng giềng Nguyễn Du luôn giữ cách ứng xử tốt đẹp như
tình ruột thịt. Trong quan hệ xã hội, tình nghĩa chính là cách sống trong sạch, làm điều phải, điều nhân,
giúp đỡ lẫn nhau. Đạo lý của Nguyễn Du hết sức coi trọng con người, tất cả đều được nhìn nhận từ giá trị
của con người đề cao con người và cuộc sống nên khả năng đồng cảm trước nỗi đau nhân tình thế thái.
Chính vì trọng tình trọng nghĩa mà Nguyễn Du có thái độ rõ ràng căm ghét cái xấu xa luôn hướng về điều
thiện điều nhân, không hề có thái độ trả thù mà vẫn khoan dung, tha thứ cho nhau vì ông quan niệm làm
điều tốt để tích phúc, tích đức cho con cháu sau này. Đây cũng chính là nét nhân hậu, khoan dung trong
ứng xử xã hội của con người ông.
Trong văn hóa ứng xử của dân tộc ta, tình nghĩa đã trở thành một trong những phẩm giá nhân văn
cao quý nhất. Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình hạnh phúc, xã hội phồn vinh. Gia đình được duy
trì bằng sự hài hòa tình nghĩa đó là luôn hướng vào sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của các thành viên
trong gia đình. Tình nghĩa lại càng được tôn kính và yêu thương qua sự hiếu thảo hết mực của con cái với
ông bà, cha mẹ, qua tấm lòng thương yêu của cha mẹ dành cho con, qua sự yêu thương đùm bọc, kính trên
nhường dưới của anh em, qua tình yêu chân thành và sự thủy chung son sắc của vợ chồng... đạo lý tốt đẹp
của mỗi thành viên trong gia đình cần phải biết sống vì nhau, loại bỏ những mẫu thuẫn không đáng có
trong mối quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, dòng tộc… xây dựng gia đình trên dưới thuận hòa, giàu
lòng nhân ái, yêu thương. Đó là quan niệm ứng xử của Nguyễn Du trong cuộc sống gia đình.
Ứng xử trên bình diện bản thân, với tự nhiên, với xã hội, với gia đình trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Du là một trong những nét ứng xử của người Việt. Những nét ứng xử trên xứng đáng được xem là
nét đẹp của văn hóa dân tộc hòa chung với nền văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc là việc con người phát triển toàn diện về thể lực, trí tuệ, tình cảm, có đạo đức và
tài năng. Vì vậy phát huy giá trị tư tưởng lớn trong văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du vào
việc giáo dục các công dân hiện nay, đặc biệt là thế hệ trẻ là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Những
giải pháp mà luận văn nêu ra là những giải pháp có tính khả thi góp phần khẳng định giá trị lớn lao của
những giá trị này trong việc bồi dưỡng và xây dựng đạo đức, phẩm chất và nhân cách cho thế hệ công dân.
Đây cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của các thế hệ công dân Việt Nam hiện nay nhằm kế tục và phát huy
tư tưởng vĩ đại của Nguyễn Du vào xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, tạo động lực thúc đẩy quá trình phát triển đất nước ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Nguyễn Du xứng đáng là một nhà văn hóa lớn của UNESCO đã từng tôn vinh. Văn hóa ứng xử
trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du là một bài học lớn về nhân cách tài năng. Việc nghiên cứu và phổ biến
rộng rãi văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du có ý nghĩa giáo dục to lớn, góp phần vào việc
hình thành nhân cách cho thế hệ mai sau.
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1951), Việt Nam Văn hóa sử cương, Nxb Bốn Phương.
2. Trần Thúy Anh (2000), Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt Châu Thổ Bắc Bộ qua một số
ca dao tục ngữ, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội.
3. Lê Bảo (1996), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường phổ thông Nguyễn Du, Nxb Giáo dục.
4. Nguyễn Chí Bền (2002), “Một thế kỷ nghiên cứu văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật
Bộ Văn hóa Thông tin thực hiện.
5. Lê Thị Bừng (2000), Tâm lí học ứng xử, Nxb Giáo Dục Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Cẩn (2007), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo Dục.
7. Đỗ Hữu Châu (2000), “Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ”, Tạp chí ngôn ngữ số 10.
8. Dương Châu (1965), “Một vì sao chói lọi trên nền văn học Việt Nam Nguyễn Du”, Tạp chí Phổ
Thông số 157.
9. Nguyễn Huệ Chi (1965), “Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học số 11.
10. Trương Chính (1997), Văn học Việt Nam trung đại, Tuyển tập Trương Chính (Tập 1), Nxb Văn
bản Hà Nội.
11. Ngô Vĩnh Chính (chủ biên) (1994), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, nhóm Lương Duy Thứ
dịch, Nxb Văn hóa Thông Tin.
12. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học Văn Hóa, Nxb Bộ Văn Hóa Thông Tin Hà Nội.
13. Nguyễn Viết Chức (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên, Nxb
Văn hóa thông tin Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Dân (2006), Văn hóa và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội
15. Đỗ Đức Dục (1982), “Văn thơ ký sự thời đại Nguyễn Du”, Tạp chí Tổ Quốc số 7.
16. Đỗ Đức Dục (1984), “Tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học số 2.
17. Đỗ Đức Dục (1987), Từ Truyện Kiều đến thơ chữ Hán Nguyễn Du, Tạp chí Văn học tháng 6.
18. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nxb Văn học.
19. Nguyễn Đăng Duy (2004), Văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt, Nxb Hà Nội.
20. Phạm Vũ Dũng (1996), Văn hóa giao tiếp, Nxb Văn hóa Thông Tin Hà Nội.
21. Triệu Thùy Dương (2007), Văn hóa ứng xử người Việt Nam trong thơ Nôm, Luận văn do PGS. TS
Lê Thu Yến hướng dẫn, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
22. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
23. Ngô Viết Dinh (chủ biên) (2000), Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên.
24. E.B.Tylor (2002), Văn hóa nguyên thủy, Nxb Văn hóa Thông Tin.
25. Phạm Văn Đồng (1991), Hồ Chí Minh – quá khứ - hiện tại và tương lai, Nxb ST, Hà Nội.
26. Trịnh Bá Đĩnh (1998), Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục.
27. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương khóa
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (2001), “Nguyễn Du, cuộc đời và tác phẩm”, Nxb Văn hóa
Thông tin Hà Nội.
29. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
30. Lê Như Hoa (2002), “Văn hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam”, Văn hóa nghệ thuật số 2 (212).
31. Nguyễn Văn Hoàn (1964), “Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung
Quốc”, Tạp chí Văn học số 4.
32. Vi Hoàng (2008), Nét đẹp phong tục các dân tộc thiểu số: trong văn hóa ứng xử, Nhà xuất bản văn
hóa dân tộc.
33. Kiều Thu Hoạch (1981), “Giai thoại đi sứ - âm vang của tiếng chuông văn hiến Đại Việt”, Tạp
chí Văn học số 1.
34. Phạm Đình Hổ (1989) Bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến – Nguyễn Quảng Tuân khảo
chính và chú giải, Vũ trung tùy bút, Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu Giảng dạy văn học.
35. Đoàn Hương (2004), Văn luận, Nxb Văn học.
36. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
37. Đỗ Văn Hỷ (1966), “Mấy ý kiến về bản dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học số
12.
38. Rô Den Jan (1986), Từ điển Triết học, Nxb sự thật, Hà Nội.
39. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con Người, Môi trường, Văn hóa, NXb Khoa học Xã hội.
40. Lê Đình Kỵ (1970), Nguyễn Du qua thơ chữ Hán trích Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du, Nxb Khoa học Xã hội.
41. Lê Đình Kỵ (1990), “Nguyễn Du qua thơ chữ Hán”, Kiến thức Ngày nay số 28.
42. Lê Định Kỵ (1994), “Quan niệm về con người và nghệ thuật của Nguyễn Du”, Kiến thức Ngày
nay số 153.
43. Vũ Ngọc Khánh, Ngô Đức Thịnh (1994), Tứ bất tử, Nxb Văn hóa dân tộc.
44. Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Giáo dục.
45. Vũ Ngọc Khánh (2008), Văn hóa gia đình Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin.
46. Nguyễn Hùng Khu (2006), Văn hóa ứng xử của người Giẻ Triêng, Nxb Văn hóa Dân tộc.
47. Lương Quỳnh Khuê (1995), Văn hóa thẩm mỹ và nhân cách, Nxb Chính Trị quốc gia.
48. Vũ Khiêu (chủ biên) (2000), Văn hóa Việt Nam – xã hội con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. KXT & NP (1960), “Khai phá tâm tình Nguyễn Du”, Giáo dục Phổ Thông Tân Niên số 55.
50. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học.
51. Thanh Lãng (1971), “Nguyễn Du như một huyền thoại”, Tạp chí Văn học số 4,5,6,7.
52. Phong Lê (2005), Đời đọc Nguyễn Du và Nguyễn Du cho đời đọc…, Tạp chí Văn học số 11.
53. Nguyễn Văn Lê (2001), Văn hóa ứng xử trong giáo dục gia đình, Nxb Tp. Hồ chí Minh.
54. Đỗ Long (2008), Tâm lý học với văn hóa ứng xử, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa.
55. Lý Trường Lộ (1993), Toàn Đường thi tuyển thích, Bắc kinh xuất bản xã.
56. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX,
tập 2, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Hội.
57. Nguyễn Lộc (1986), Nguyễn Du, Nxb Đà Nẵng.
58. Nguyễn Lộc (1996), Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu
thế kỷ XIX, Nxb Huế.
59. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX , Nxb Giáo
Dục.
60. Vũ Đình Liên (1971), “Nguyễn Du một tâm hồn lạc loài trong xã hội phong kiến (Tìm hiểu
Nguyễn Du qua thơ chữ Hán”), Tạp chí Văn học số 2.
61. Mai Quốc Liên (1979), “Thơ đi sứ khúc ca của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu”, Tạp chí Văn
học số 3.
62. Mai Quốc Liên (chủ biên) (1996), Nguyễn Du toàn tập (Tập 1), Nxb Văn học Trung tâm nghiên cứu
Quốc học.
63. Mai Quốc Liên (1998), Phê bình và tranh luận văn học, Nxb Văn học.
64. Mai Quốc Liên (chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX ( Thơ ca chữ Hán Việt Nam đầu
thế kỷ XX) (Quyển 4, Tập 1), Nxb Văn học.
65. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập – tập 1, tập 3, tập 4, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
66. Nguyễn Thị Nương (2007), “Sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật Nguyễn Du qua bài thơ Tự
Thuật”, Nghiên cứu văn học số 5.
67. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa Thông Tin.
68. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội.
69. Phan Hữu Nghệ (1980), “Thực tiễn Trung Hoa và tư tưởng Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học số 6.
70. Nhiều tác giả (1994), Sự phát triển cấu trúc gia đình, Liên Hiệp Quốc phát hành năm Quốc tế gia
đình 1994.
71. Nhiều tác giả (1996), Kỷ niệm 200 năm sinh của Nguyễn Du (1765 - 1965), Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
72. Huỳnh Như Phương (2006), Lê Đình Kỵ tuyển tập, Nxb Giáo Dục.
73. Lê Văn Quán (2007), Văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt, Nxb Văn hóa Thông tin.
74. Vũ Tiến Quỳnh (1997), Phê bình bình luận văn học Nguyễn Du, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
75. Nguyễn Hữu Sơn (1993), “Vấn đề con người cá nhân trong văn học cổ nhìn từ góc độ lý thuyết”,
Tạp chí văn học tháng 3.
76. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du từ thơ chữ Hán đến kiệt tác Truyện Kiều, Nxb Trẻ
Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh.
77. Đặng Đức Siêu (2002), Hành trình văn hóa Việt Nam (giản yếu), Nxb Lao Động, HN.
78. Bùi Hữu Sủng (1965), “Theo gót Nguyễn Du trên đường đi sứ”, Bách khoa Thời đại số 16.
79. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa – dân tộc ngôn ngữ và tư duy ở người Việt
(trong sự so sánh với những dân tộc khác ), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
80. Phạm Minh Thảo (2008), Hỏi đáp về văn hóa ứng xử của người Việt, Nxb Quân đội Nhân dân.
81. Nguyễn Bá Thành (2006), Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
82. Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội.
83. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thế giới thi ca Nguyễn Du, Nxb Kinh Thi.
84. Đỗ Lai Thúy, Hoàng Vinh, Huyền Trang…, “Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa” Tạp chí văn
học nghệ thuật, số 2. 2009.
85. Trần Ngọc Thêm (1997), Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục.
86. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục.
87. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục.
88. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Tiếng Việt, Nxb Tổng hợp TP. HCM.
89. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo Dục.
90. Ngô Đức Thịnh (2005), “Một cách tiếp cận về lịch sử văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Văn học Dân
gian, số 2.
91. Bùi Thiết (2000), Cảm nhận về văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin.
92. Lê Ngọc Trà (2003), Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo Dục.
93. Lê Quang Trang – Nguyễn Trọng Hoàn (2001), Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại, Nxb
Giáo Dục.
94. Trần Quốc Vượng (1981), Góp phần dựng lại nền văn minh Việt cổ - những vấn đề khoa học lịch
sử ngày nay – Thông báo khoa học của ngành Sử của các Trường Đại học, Nxb Đại học và Trung
học Chuyên nghiệp.
95. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb
KHXH Hà Nội.
96. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1996), Văn hóa - Khái niệm và thực tiễn, Nxb KHXH Hà Nội.
97. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1996), Văn hóa mới Việt Nam - Sự thống nhất và đa dạng, Nxb
KHXH Hà Nội.
98. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo Dục.
99. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam – Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc và Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
100. Trần Quốc Vượng (2005), Môi trường, con người và văn hóa, Nxb Văn hóa Thông Tin.
101. Hoàng Vinh (chủ biên) (1996), Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Sĩ Vịnh (1998), Văn hóa văn học một hướng tiếp cận, Nxb Văn học Văn hóa.
103. Lê Trí Viễn (chủ biên) (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, (tập III), Sách Đại học Sư Phạm, Nxb
Giáo Dục.
104. Lê Trí Viễn (2006), Một đời dạy văn viết văn (tập 2, 5), Nxb Giáo Dục.
105. Nguyễn Vỹ (1965), “Nguyễn Du đã sống hai trăm năm 1967 – 1965”, Tạp chí Phổ Thông số
157.
106. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên TP. Hồ
Chí Minh.