BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THUÝ KIỀU
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA
CA DAO VỀ BÁC HỒ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP
TP. HỒ CHÍ MINH - 2010
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Điệp – Trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh đã rất tận tâm, nhiệt tình chỉ dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời
gian thực hiện luận văn.
Ngoài ra, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của :
Quý thầy cô giáo -
Phòng sau Đại học trường ĐHSP TP.HCM -
- Các cơ sở cung cấp dữ liệu (thư viện-trang web-các bài báo-các cá nhân có tài
liệu hỗ trợ)
- Gia đình, người thân
- Bạn bè gần xa, đồng nghiệp …
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2010
Tác giả
Nguyễn Thị Thúy Kiều
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ca dao là một thể loại của văn học dân gian Việt Nam, là những sáng tác trữ tình biểu
hiện tình cảm, nỗi niềm của con người trong cuộc sống như tình bạn, tình yêu, tình cảm gia
đình, quê hương, đất nước,…Những tâm tư ấy xuất phát từ trái tim của con người. Đối tượng
mà ca dao hướng đến có thể là người bạn, người yêu, người thân, người anh hùng dân tộc…
Chủ tịch Hồ Chí Minh là đề tài vô tận cho thơ ca. Tìm hiểu về Bác bao giờ cũng là một
nhu cầu lớn và khẩn thiết của nhân dân. Hàng loạt các bài viết, các công trình nghiên cứu về
cuộc đời Bác, tấm gương đạo đức của Bác, sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp thơ văn của
Bác…ra đời. Hình tượng Bác được xây dựng chân thật và đẹp đẽ trong nhiều loại hình nghệ
thuật như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc, sân khấu, …nhưng có lẽ thành công nhất là
thơ ca, trong đó có ca dao.
Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật lịch sử thời hiện đại được ca dao hướng đến
để nhận thức. Ca dao về Bác chiếm số lượng khá lớn trong mảng ca dao hiện đại. Thế nhưng,
hiện nay bộ phận ca dao về Người chưa được nghiên cứu bao nhiêu. Để hiểu sâu hơn mảng ca
dao này, chúng tôi chọn đề tài Đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ.
Ca dao bày tỏ tình cảm, nguyện vọng, suy nghĩ của nhân vật trữ tình nhưng không phải
chỉ bày tỏ tình cảm cá nhân mà còn đại diện cho quảng đại quần chúng nhân dân. Cho nên,
khảo sát đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về tình cảm
của nhân dân đối với Bác.
Nghệ thuật ca dao nói chung và ca dao về Bác nói riêng rất đa dạng. Thể thơ, kết cấu,
ngôn ngữ, hình ảnh, thời gian, không gian…tất cả những đặc điểm ấy đã được các tác giả dân
gian vận dụng khá linh hoạt, góp phần làm nổi bật tình cảm của Bác đối với nhân dân cũng như
tình cảm của nhân dân đối với Bác.
Hơn nữa, đặc điểm nghệ thuật của ca dao thì hầu như đã được các nhà nghiên cứu chú ý
tới từ lâu, phân tích, mổ xẻ rất nhiều. Riêng về đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác thì rải
rác chỉ một số bài viết. Chính vì thế, người viết mong muốn với đề tài luận văn này có thể góp
một phần nhỏ vào việc nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật của bộ phận ca dao nói trên.
2. Lịch sử vấn đề
Việc tìm hiểu ca dao về Bác đã và đang được nhiều người quan tâm. Liên quan đến đề tài
“Đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ” có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau đây:
Thi Nhị có bài “Bác Hồ và nguồn ca dao mới” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian số
4/1984. Bài viết chủ yếu nói về tình cảm mãnh liệt, sâu đậm của nhân dân đối với Bác Hồ kính
yêu qua ca dao. Tác giả cũng đề cập đến một đặc điểm về ngôn ngữ của mảng ca dao này, đó là
việc sử dụng phương pháp tỉ dụ quen thuộc của ca dao cổ truyền để khắc họa một cách chân
thực, gần gũi, mộc mạc hình ảnh của lãnh tụ. “ …với phương pháp tỉ dụ quen thuộc của ca dao
truyền thống, đã khắc họa một cách chân xác và nghệ thuật song lại rất gần gũi, mộc mạc hình
ảnh của lãnh tụ: Tháp Mười đẹp nhất bông sen / Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” [ 64,5]
Với hai công trình “ Suy nghĩ về cảm quan dân gian qua hình tượng Bác Hồ” đăng
trên Tạp chí Văn hóa dân gian , số 1/1990 và “ Một nét đẹp trong bức tranh văn hóa dân gian
đương đại: ca dao về Bác Hồ” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian số 4/1991, Nguyễn Xuân
Lạc đã đề cập đến cảm quan dân gian đối với Bác qua ca dao. Tác giả cho rằng hình tượng Bác
Hồ trong ca dao đã được sáng tác theo cảm quan “ thần thánh hóa”. Với cảm quan này, ca dao
tìm đến những biểu trưng của cái đẹp tuyệt đối, cái đẹp toàn bích, lý tưởng để thể hiện lãnh tụ.
Và chính cảm quan ấy đã chi phối bút pháp nghệ thuật của ca dao về Bác. Đó là bút pháp thiên
về tượng trưng, khái quát hơn là miêu tả những chi tiết sống thật của con người Bác, cuộc đời
Bác.
“Để diễn tả một con người có “tầm vóc thế kỷ” như Bác, thì sử dụng bút pháp tượng
trưng và khái quát là thích hợp, bút pháp này có nhiều khả năng để tôn cao đối tượng thẩm mỹ
theo cảm quan “thần thánh hóa” của nhân dân ta. Bằng bút pháp ấy, ca dao quần chúng đã
dựng lên những hình ảnh cao đẹp, rộng lớn, hùng vĩ, thiêng liêng về Bác với nghệ thuật so sánh
ví von truyền thống đậm đà: mặt trời, vầng Thái Dương, sao Bắc Đẩu, gương Hồ Thủy, hòn
Thái Sơn, trời đất, sông bể, hoa sen, hương quế, hương trầm…bởi vì chỉ có những hình ảnh ấy
thì mới xứng đáng với tầm vóc vĩ đại của Bác và mới thỏa tấm lòng ngưỡng mộ, tôn kính, biết
ơn của nhân dân ta đối với Bác”.[34, 9]
Trần Gia Linh với bài viết “Bốn mươi lăm năm ca dao dâng Bác” đăng trên Tạp chí
Văn hóa dân gian số 1/1990 đã khẳng định: “ Ca dao diễn tả về Người như một sự thống nhất
tuyệt diệu giữa cái vĩ đại trong sự bình dị; giữa những hình ảnh kì vĩ có tính chất thần thoại với
những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với mọi người; giữa cái tượng trưng cao độ với cái hiện
thực sâu sắc trong phương pháp biểu hiện.” [ 39,30]
Với tiểu luận “Tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với Bác Hồ qua ca dao” trong
công trình biên soạn “Ca dao về Bác Hồ”, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội-2003, Trần Quang
Nhật đã có những đóng góp đáng kể trong việc khẳng định ca dao về Bác đa số sử dụng lối so
sánh. Hướng so sánh thứ nhất là “so sánh hai cuộc đời: cuộc đời lầm than của người dân mất
nước trong xiềng xích nộ lệ, dưới hai tầng áp bức bóc lột của thực dân phong kiến và cuộc đời
sống trong độc lập tự do hòa bình mà Bác và Đảng đã dành lại cho đất nước” [58, 15]. Hướng
so sánh thứ hai là “so sánh công ơn của Bác với những gì thiêng liêng nhất, kì vĩ nhất trong
cuộc sống trần gian và trong thiên nhiên vũ trụ”[ 58, 17]. “Để tỏ rõ niềm tin của mình đối với
Bác Hồ, một lần nữa qua ca dao, nhân dân ta đã dùng thủ pháp nghệ thuật so sánh. So sánh
Bác như sao Bắc Đẩu, như vầng Thái Dương soi đường chỉ lối cho nhân dân ta đi lên” [58, 30]
Với bài viết “Tìm hiểu công thức truyền thống trong một số bài ca dao mới Nam Bộ về
hình ảnh Bác Hồ” đăng trên website http://cadaotucngu.daitudien.com, Trần Tùng Chinh đã
cho thấy ca dao về Bác có sự kế thừa một số công thức truyền thống của ca dao cổ truyền. “Các
bài ca dao mới nói chung và ca dao về Bác nói riêng còn thiếu sự trau chuốt nhưng lại thừa sự
mộc mạc tự nhiên. Tuy nhiên, những công thức truyền thống quen thuộc của ca dao xưa vẫn in
dấu và làm nên chất dân gian trong những bài ca” [4]
Theo Hà Công Tài trong bài viết “Vấn đề sưu tầm nghiên cứu thơ ca dân gian hiện
đại” đăng trong cuốn “Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian”, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội – 2001, thì mảng ca dao về Bác chưa được nghiên cứu bao nhiêu, dù đây
là bộ phận có khối lượng lớn nhất trong ca dao hiện đại. Khi nghiên cứu về bộ phận này, Hà
Công Tài nhận thấy rằng chúng có nhiều đặc điểm rất tiêu biểu cho ca dao thời hiện đại, từ cách
cảm nhận và phản ánh cuộc sống tới đặc điểm thi pháp, từ hoàn cảnh lưu truyền tới sự gắn bó
với truyền thống ca dao của dân tộc trong suốt trường kỳ lịch sử.
Nhìn chung, ở các công trình nghiên cứu trên, bên cạnh việc bàn về nội dung thì cũng
bàn đến thi pháp của ca dao về Bác, trong đó có một số đặc điểm nghệ thuật như kết cấu, ngôn
ngữ, hình ảnh. Tuy nhiên, vẫn chưa có một chuyên luận nào về đặc điểm nghệ thuật của ca dao
về Bác, nếu có thì có lẽ chúng tôi chưa đọc được. Đa phần, khi bàn về nghệ thuật của mảng ca
dao này, các nhà nghiên cứu nói về sự kế thừa các công thức truyền thống trong kết cấu, các
biện pháp tu từ trong ngôn ngữ và các hình ảnh thiên nhiên đã trở thành biểu tượng. Còn các
đặc điểm nghệ thuật khác thì người nghiên cứu ít chú ý.
Kế thừa thành tựu của người đi trước, chúng tôi phát triển thành một chuyên luận về Đặc
điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ. Chúng tôi hi vọng đề tài sẽ góp thêm một tiếng nói
mới về đặc điểm nghệ thuật của bộ phận ca dao này.
3. Mục đích nghiên cứu
Đây là một đề tài chưa được nghiên cứu chuyên sâu, vì thế, mục đích của việc nghiên
cứu đề tài này là hệ thống một số đặc điểm nghệ thuật chủ yếu để từ đó nhận thức rõ hơn giá trị
của bộ phận ca dao về Bác. Luận văn góp phần cung cấp một cái nhìn đầy đủ hơn về nghệ thuật
của ca dao về Bác ở ba phương diện: thể thơ, kết cấu và ngôn ngữ. Từ đó làm rõ hơn giá trị đặc
sắc của mảng ca dao này, hiểu thêm về thể loại ca dao, hiểu thêm mối tương quan giữa ca dao
về Bác với ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại.
4. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi khảo sát đề tài dựa trên một số công trình sưu tầm, tuyển chọn ca dao, cụ thể
sau đây:
- Công trình sưu tầm ca dao Nam bộ về Bác Hồ của Bùi Mạnh Nhị mang tên “Sen Tháp
Mười” do Nxb TPHCM xuất bản năm 1980. Với công trình này, tác giả đã sắp xếp ca dao theo
các chủ đề: Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ, Miền Nam ơn Bác muôn vàn Bác ơi, Lòng dân
với Bác vuông tròn thủy chung và phần cuối tác giả còn giới thiệu thêm một số bài ca dao của
các dân tộc ít người với mong muốn giới thiệu sự đa dạng, độc đáo của hệ thống ca dao về Bác
ở nhiều dân tộc trong đại gia đình Tổ quốc Việt Nam. Bộ sưu tập này gồm 145 bài của dân tộc
Kinh và 16 bài của dân tộc ít người ở Nam bộ.
- Công trình “Ca dao về Bác Hồ” của Trần Hữu Thung do Nxb Hà Tĩnh, 1981. Công
trình này bao gồm hai phần. Phần thứ nhất là một vài cảm nhận của tác giả nhân đọc ca dao về
Bác Hồ. Phần thứ hai tác giả giới thiệu các bài ca dao đã sưu tầm được nhưng không sắp xếp
theo một trật tự nhất định nào. Tất cả gồm 227 bài ca dao.
- Công trình sưu tầm “Ca dao về Bác Hồ” của Trần Quang Nhật, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội, 2003. Tập sách gồm hai phần chính: tiểu luận và sưu tầm. Trong phần sưu tầm, để
độc giả tiện tra cứu, tác giả đã sắp xếp các bài ca dao theo chủ đề: Bác Hồ - công ơn trời biển,
Bác Hồ - mối quan hệ máu thịt với quần chúng, Bác Hồ - niềm tin tất thắng của dân tộc, Bác
Hồ - động lực thúc đẩy toàn dân thi đua chiến đấu và sản xuất, Bác Hồ trong lòng đồng bào dân
tộc ít người. Tuy nhiên, tác giả cho rằng cách sắp xếp trên đây chỉ là tương đối, bởi vì các khía
cạnh tình cảm của nhân dân đối với Bác Hồ thường đan chéo với nhau. Trong một bài ca dao
nhiều khi có cả khía cạnh này, và khía cạnh kia, cái này là nguyên nhân, cái kia là sự thể hiện
và ngược lại, khó mà phân định rạch ròi được. Tổng số bài ca dao trong tập này là 253.
- Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo những quyển như: “ Ca dao Bảo Định Giang”, “ Tục
ngữ ca dao Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan, “ Ca dao chống Mỹ -tập 2”, “ Ca dao chiến sĩ -tập
5”,“ Ca dao chiến sĩ -tập 6”, “ Ca dao Đồng Tháp Mười”, “ Ca dao sưu tầm - Từ 1945 đến nay”,
ca dao Nam bộ, ca dao Nam Trung bộ, ca dao dân ca đất Quảng, ca dao Hải Hưng, ca dao ngoại
thành…
Sau khi tổng hợp, loại bỏ những bài trùng lặp, chúng tôi thống kê được tất cả 521 bài. Ở
luận văn này, người viết chỉ khảo sát ca dao về Bác Hồ của người Kinh không khảo sát ca dao
của dân tộc thiểu số.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, người viết sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: hệ thống,
so sánh, liên ngành, thống kê.
Mỗi bài ca dao được sản sinh và tồn tại theo hệ thống ca dao cùng thể loại. Do vậy,
phương pháp hệ thống và so sánh được tiến hành dựa trên nguyên lý về mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, dùng cái chung (ca dao) để hiểu cái riêng (ca dao về Bác) và từ cái riêng (ca
dao về Bác) để hiểu cái chung (ca dao), thấy được sự phong phú đa dạng và hấp dẫn của ca dao.
Đặt ca dao về Bác trong hệ thống của nó để phát hiện ra các đặc điểm chung và nét độc đáo
riêng về nghệ thuật của nó. Cụ thể là đặt ca dao về Bác vào hệ thống ca dao nói chung, hệ thống
ca dao hiện đại nói riêng. Phương pháp này giúp xác định vị trí hay “tọa độ” của ca dao về Bác
trong mối quan hệ với các bộ phận ca dao khác như ca dao cổ truyền, ca dao hiện đại để giúp
đánh giá đầy đủ giá trị và ý nghĩa của bộ phận ca dao về Bác. Những đặc điểm chung của thể
loại chi phối bộ phận ca dao này rất nhiều về mặt nghệ thuật. Từ những đặc điểm nghệ thuật
của thể loại ca dao mà nhận ra được những đặc điểm nghệ thuật phổ biến nhất của bộ phận ca
dao về Bác (chẳng hạn về dung lượng, đề tài, thủ pháp nghệ thuật). Đồng thời bộ phận ca dao
này chắc chắn có những đặc điểm riêng về mặt nghệ thuật. Từ những điểm chung và điểm riêng
đó mà xác định vị trí của nó trong một hệ thống và đánh giá được ý nghĩa của nó trong hệ thống
đó. Ca dao về Bác không tồn tại biệt lập trong nền văn học dân gian nên không thể thiếu
phương pháo so sánh khi nghiên cứu. Người viết sẽ tiếp cận đa diện để hiểu rõ bản chất và vị
trí của bộ phận ca dao này trong mối tương quan đa chiều với các bộ phận ca dao khác. Nhìn từ
nhiều góc độ sẽ giúp đánh giá chính xác và toàn diện về đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác.
Trước hết người viết so sánh đặc điểm nghệ thuật giữa các bài ca dao về Bác với nhau để tìm ra
nét chung tiêu biểu. Sau đó, còn so sánh với ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại về mặt kết cấu,
thể loại và ngôn ngữ.
Phương pháp liên ngành (phương pháp ứng dụng khoa học liên ngành) là một phương
pháp đặc biệt quan trọng. Nhìn chung phương pháp này được diễn ra theo hai hướng song song.
Một là người viết tiếp cận ca dao về Bác bằng những kiến thức ngữ văn học, cụ thể là những lý
luận về phương diện nghệ thuật. Đối với hướng tiếp cận này, người viết sử dụng các phương
pháp phân tích văn học, vận dụng một cách tổng hợp các tri thức và kĩ năng cần thiết của văn
(gồm lý luận văn học, lịch sử văn học, ngôn ngữ học). Đặc biệt, ca dao về Bác là những tác
phẩm nghệ thuật ngôn từ nên phải được tiếp nhận, cảm thụ và “giải mã” thông qua ngôn ngữ
học. Đồng thời tiếp cận tác phẩm trong đời sống dân gian của nó. Hai là người viết tiến hành lí
giải, cắt nghĩa đặc điểm nghệ thuật ca dao về Bác bằng kết quả nghiên cứu của các ngành khoa
học tương cận là dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, lịch sử học, địa lý học, văn hóa
học…Những dữ kiện đó là truyền thống, phong tục, tập quán, những đặc điểm tự nhiên, những
sử kiện lịch sử, …nhất là lịch sử dân tộc trong giai đoạn 1945 – 1975. Từ những đặc điểm tự
nhiên, lịch sử, văn hóa có liên quan đến ca dao về Bác để truy tìm, lí giải căn nguyên, cách thức
và ý nghĩa của thể loại, kết cấu, ngôn ngữ, nêu lên những chức năng tư tưởng và chức năng
nghệ thuật của chúng. Nhưng cuối cùng tất cả sẽ được xử lí theo góc độ tiếp cận của ngành ngữ
văn học, cụ thể là bộ môn Văn học dân gian.
Người viết còn sử dụng phương pháp thống kê để thống kê tần số xuất hiện của các thể
thơ, kết cấu, hình ảnh, từ ngữ. Dựa vào kết quả và những số liệu thống kê đó, người viết có thể
khái quát thành những đặc điểm nghệ thuật cụ thể.
Các phương pháp trên được kết hợp đan xen chứ không phải sắp xếp chúng kế cận nhau,
để giúp khảo sát đặc điểm nghệ thuật ca dao về Bác theo một trình tự khoa học hợp lý và có thể
nhận ra thuộc tính của đối tượng. Bởi vì, ca dao về Bác không phải là một đối tượng biệt lập mà
luôn nằm trong hệ thống ca dao nói chung và có mối quan hệ tương tác với các bộ phận ca dao
khác. Mặt khác, nghệ thuật ca dao về Bác luôn có nhiều khía cạnh, đặc điểm khác nhau mà một
phương pháp không bao quát hết được. Các phương pháp trên sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần đem lại một cái nhìn gần về phương diện nghệ thuật của ca dao về
Bác. Luận văn chỉ ra đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Người ở ba phương diện: đặc điểm thể
loại, kết cấu và ngôn ngữ. Người đọc có thể thấy được những nét đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật
cũng như những đóng góp không kém phần quan trọng của bộ phận ca dao này cho thể loại ca
dao, đặc biệt là ca dao hiện đại. Lí giải vì sao bộ phận văn học này lại có sức sống mạnh mẽ
trong lòng quần chúng nhân dân hơn 70 năm qua. Đến nay, bộ phận ca dao này vẫn còn sống
động và giúp chúng ta hiểu thêm, yêu thêm đời sống tâm tư, cách nghĩ, lối sáng tác tài hoa của
nhân dân trong việc ca ngợi người anh hùng.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngòai phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung luận văn có 3 chương:
Chương 1 : Khái quát về ca dao và ca dao về Bác Hồ.
Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một cách chung nhất về khái niệm ca dao; giá trị
nội dung cũng như nghệ thuật của ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại; khái niệm ca dao về Bác
Hồ, nội dung, đối tượng sáng tác, hoàn cảnh sáng tác, số lượng tác phẩm của ca dao về Bác Hồ.
Chương 2 : Thể thơ và kết cấu của ca dao về Bác Hồ.
Đặc điểm thể thơ được triển khai với 3 nội dung: thể lục bát, thể song thất lục bát và thể
hỗn hợp. Đặc điểm kết cấu gồm 3 nội dung: kết cấu đối thoại và kết cấu trần thuật; kết cấu đối
lập và kết cấu song hành tâm lý; kết cấu thu hẹp dần hình tượng và kết cấu miêu tả trực tiếp.
Chương 3 : Ngôn ngữ của ca dao về Bác Hồ
Chúng tôi tiếp tục đề cập đến một số đặc điểm về ngôn ngữ: sự kết hợp giữa ngôn ngữ
toàn dân và ngôn ngữ địa phương; sự kết hợp giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời
thường; cách sử dụng tên riêng chỉ địa điểm; cách sử dụng ngôn ngữ trùng lặp và cách sử dụng
các biện pháp tu từ.
Cuối luận văn có Phụ lục gồm: giới thiệu đầy đủ các văn bản ca dao khảo sát và các bảng
thống kê số liệu có liên quan đến đề tài:
- Phụ lục 1 thống kê tổng số những bài ca dao về Bác Hồ, kết quả tổng số bài ca dao
không trùng lặp là 521 bài.
- Phụ lục 2 là bảng thống kê các số liệu về thể thơ của ca dao về Bác và ca dao hiện đại
- Phụ lục 3 là bảng thống kê tần số xuất hiện của ngôn ngữ trùng lặp trong ca dao về Bác
- Phụ lục 4 là bảng thống kê tần số xuất hiện các hình ảnh: tự nhiên, thực vật và nhân tạo
trong ca dao về Bác.
Chương 1
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CA DAO VÀ CA DAO VỀ BÁC HỒ
1.1. Ca dao
1.1.1. Khái niệm
Trong sinh hoạt văn học dân gian, có một bộ phận quan trọng là sinh hoạt ca hát, trong
đó tiêu biểu nhất là việc diễn xướng ca dao, dân ca. Để chỉ lĩnh vực ca hát dân gian, nhân dân
sử dụng các từ: ca, hò, ví, lý, hát giao duyên, hát đối đáp, hát huê tình…
Ca dao có nguồn gốc từ dân ca và có mối quan hệ chặt chẽ với dân ca. Thế nên trước khi
nêu khái niệm về ca dao, chúng ta cần hiểu dân ca là gì? “Dân ca là những bài hát và câu hát
dân gian trong đó có cả phần lời và phần giai điệu” [ 29, 411]. Khi nói đến dân ca Việt Nam,
không phải là nói đến những bài, những câu hát nhất định, mà còn là nói đến những hình thức
sinh hoạt dân ca nhất định nữa. Hay nói cách khác, đời sống tồn tại của dân ca rất đa dạng và
phong phú. Trước hết, dân ca gắn với các sinh hoạt của người bình dân như: nghi lễ, lao động
và sinh hoạt gia đình, xã hội. Ngoài ra, dân ca còn gắn với nhiều môi trường diễn xướng như:
trên cạn, dưới nước. dân ca gắn với nhiều thời điểm trong năm như: cúng tế, lễ hội, ngày
thường; gắn với mọi giai đoạn của đời người như: sinh ra, trưởng thành, cưới hỏi, tang ma…
Và dĩ nhiên, dân ca tồn tại khắp các vùng miền: Bắc, Trung, Nam, khắp các dân tộc trên đất
nước.
Bàn về khái niệm ca dao, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra ý kiến của mình. Tuy nhiên, ở
đây chúng tôi chọn những ý kiến tâm đắc nhất.
Chu Xuân Diên nhận định: “Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán -Việt. Theo cách hiểu
thông thường thì ca dao là lời của các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng
láy…hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể “bẻ” thành những làn điệu dân ca”[29, 436].
Nguyễn Xuân Kính cho rằng: “Ca dao là những sáng tác văn chương được phổ biến
rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ mang những đặc điểm nhất định và bền vững về mặt
phong cách. Và ca dao đã trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian”[32, 79].
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học thì nhận
định: "dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân
ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi).” [24,26].
Ở mỗi tác giả, tuy cách diễn đạt có khác nhau nhưng cùng thống nhất nhau về quan điểm:
ca dao là tiếng hát tâm tình về cuộc sống của nhân dân lao động, là những sáng tác có vần điệu
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, giữa ca dao và dân ca không có ranh giới rõ rệt. Sự phân biệt giữa ca dao và
dân ca chỉ là ở chỗ khi nói đến ca dao, người ta thường nghĩ đến những lời thơ dân gian, còn
khi nói đến dân ca người ta nghĩ đến cả những làn điệu, những thể thức hát nhất định nữa.
Dựa vào thời điểm xuất hiện, có thể chia ca dao làm hai bộ phận chính: ca dao cổ truyền
và ca dao hiện đại.
Bàn về khái niệm ca dao cổ truyền, Chu Xuân Diên cho rằng: “…đó là bộ phận những
câu hát đã trở thành cổ truyền của nhân dân. Gọi là cổ truyền bởi vì những câu hát này được
phổ biến rộng rãi và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Gọi là cổ truyền, bởi vì những câu hát này
mang những đặc điểm nhất định và bền vững về phong cách…trở thành khuôn mẫu cho việc
sáng tác thơ ca của nhân dân ở các thế hệ sau”[29, 437]
Nguyễn Hằng Phương nhận định: “ ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền) là khái niệm chỉ
riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ của dân ca (không kể tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi)
được sáng tác từ cách mạng tháng Tám trở về trước”[71].
Tóm lại có thể nói: ca dao cổ truyền (hay còn gọi là ca dao cổ, ca dao truyền thống, ca
dao cũ, ca dao xưa) là những bài ca dao sáng tác trước cách mạng tháng Tám, mang những đặc
điểm nhất định trở thành khuôn mẫu cho việc sáng tác ca dao của nhân dân ở các giai đoạn sau.
Về khái niệm ca dao hiện đại, trong Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại, Chu
Xuân Diên cho rằng “Chúng tôi dùng khái niệm văn học dân gian hiện đại hay văn học dân
gian mới để chỉ văn học dân gian thời kỳ từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 trở lại
đây.”[10,34]. Ca dao hiện đại (hay ca dao mới) là một bộ phận của văn học dân gian hiện đại.
Cho nên ca dao hiện đại là loại ca dao xuất hiện từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945.
Bên cạnh đó, chúng tôi xin nhắc lại ba tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại của Nguyễn
Hằng Phương trong “ Một cách nhận diện ca dao hiện đại” để từ đó xác định khái niệm ca dao
hiện đại:
Thứ nhất: ca dao hiện đại là những tác phẩm ca dao mang đặc điểm nghệ thuật dân gian
truyền thống, phù hợp với quan niệm nghệ thuật mới và hiện thực đời sống của nhân dân trong
thời kỳ hiện đại.
Thứ hai: ca dao hiện đại là những tác phẩm ca dao mang tâm lý sáng tác tập thể. Nói
cách khác, đối tượng được phản ánh trong tác phẩm là những hiện tượng đời sống gây tác
động vào một tập thể nhất định chứ không chỉ gây tác động vào từng cá nhân.
Thứ ba: ca dao hiện đại có thể ra đời từ nhiều nguồn: từ những sáng tác mô phỏng của
các tác giả chuyên nghiệp, từ những sáng tác của phong trào văn nghệ nghiệp dư, từ trong sinh
hoạt văn hóa dân gian. Điều quan trọng là, những tác phẩm ca dao hiện đại ấy phải được lưu
truyền rộng rãi trong dân gian bằng phương thức truyền miệng, mang ý nghĩa thẩm mỹ của
tính truyền miệng. [74,4]
Dựa vào tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại như trên của tác giả Nguyễn Hằng Phương và
quan điểm của Chu Xuân Diên trong vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại, chúng tôi
mạnh dạn đưa ra cách hiểu khái niệm ca dao hiện đại. Ca dao hiện đại là những tác phẩm ca
dao ra đời từ sau cách mạng tháng Tám, mang đặc điểm nghệ thuật ca dao truyền thống, phù
hợp với quan niệm nghệ thuật mới và hiện thực đời sống của nhân dân trong thời kỳ hiện đại.
Hay nói cách khác đó là những tác phẩm ca dao mang những đặc điểm nghệ thuật truyền thống
của ca dao cổ truyền được cải biên và những truyền thống nghệ thuật mới được định hình trên
cơ sở tiếp thu những truyền thống nghệ thuật cổ truyền.
Tại sao lại chọn mốc cách mạng tháng Tám để chia ra hai bộ phận ca dao như trên? Theo
người viết, cách mạng tháng Tám thành công đánh dấu một bước phát triển mới của dân tộc.
Đất nước được giải phóng, nhân dân thoát khỏi chế độ phong kiến hơn nghìn năm, giành lại
chính quyền, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó cũng là khoảng thời gian nhân
dân được học hành, được tự do học tiếng mẹ đẻ mà không sợ bị đàn áp. Từ sau cách mạng
tháng tám lực lượng và hình thức sáng tác của ca dao có sự thay đổi. Sau cách mạng, công tác
diệt giặc dốt, bình dân học vụ phát triển làm cho hành chục triệu người dân biết đọc, biết viết
trong thời gian ngắn sau cách mạng cùng với truyền thống yêu thích thi ca vốn có lâu đời của
dân tộc, đã tạo khả năng và điều kiện sáng tác cho nhiều người trong mọi tầng lớp nhân dân.
Phần lớn người sáng tác ca dao sau thời kì này là nông dân, bộ đội. Bên cạnh đó là công nhân,
trí thức, các tầng lớp khác kể cả các em thiếu nhi, các cụ phụ lão, các bà mẹ chiến sĩ, các chị
dân quân du kích, tự vệ… Sáng tác ca dao được truyền miệng hoặc viết thành văn, có hoặc
không có tên tác giả viết trên báo liếp, báo tường, báo tay của bộ đội, của các đoàn thể nhân
dân hoặc in trên báo chí của Trung ương hoặc địa phương trong cả nước. Như vậy, hình thức
sáng tác khác biệt nhất của ca dao hiện đại và ca dao cổ truyền chính là có một số bài ca dao
được sáng tác dưới hình thức là chép lại rồi sau đó mới truyền miệng.
1.1.2. Giá trị nội dung
Ca dao cổ truyền là những sáng tác ca dao ra đời từ cách mạng tháng Tám trở về trước.
Trước cách mạng, đất nước ta chịu sự đô hộ nặng nề của chế độ phong kiến. Trong giai đoạn
đó, ca dao chủ yếu phản ánh tình yêu nam nữ, lên án tố cáo những mặt trái của xã hội cũ, không
có những bài ca ngợi lãnh tụ, người anh hùng. Còn ca dao hiện đại là những sáng tác ra đời sau
cách mạng tháng Tám. Thời kì này, dân tộc ta đã thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến phương
Bắc nhưng lại chịu sự đàn áp của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cho nên, ca dao giai đoạn này
chủ yếu phản ánh cuộc kháng chiến chốnh Pháp, Mỹ của dân tộc và bước đầu tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Tóm lại, vai trò của ca dao cổ truyền là nhằm giải tỏa nỗi lòng của người bình
dân. Từ đó, những con người lao động hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Đồng thời, qua ca
dao, người bình dân cũng muốn lên án cái xấu, cái ác, đề cao cái tốt, cái thiện. Phải nói rằng,
đến giai đoạn ngày nay, mảng ca dao cổ truyền vẫn còn nguyên giá trị của nó. Ca dao hiện đại
tiếp tục kế thừa và phát huy ca dao cổ truyền nhưng lồng vào đó những nội dung mới phù hợp
với điều kiện và hoàn cảnh mới.
Ca dao cổ truyền phản ánh những sinh hoạt hằng ngày, những tâm tư, tình cảm của nhân
dân lao động bị áp bức bóc lột. Đó là tâm trạng đau khổ, uất ức, thái độ phản kháng của nhân
dân lao động bị đè nặng dưới ách thống trị nặng nề của giai cấp địa chủ và chính quyền phong
kiến: Gánh cực mà đổ lên non / Còng lưng mà chạy cực còn theo sau; Trời sao trời ở không
cân / Kẻ ăn chẳng hết người lần chẳng ra;…
Ca ngợi cảnh đẹp, sản vật của quê hương, đất nước: Đường vô xứ Nghệ quanh quanh /
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ; Đồng Đăng có phố Kì lừa / Có nàng Tô Thị, có chùa
Tam Thanh; Muốn ăn mật rú vọ Trèn / Muốn xơi ốc đực thì lên Thác Đài; Lụa này thật lụa Cổ
Đô / Chính tông lụa cống các cô hay dùng;…
Tình yêu nam nữ là bộ phận phong phú nhất trong ca dao cổ truyền. Ở đây, ca dao đã
phản ánh mọi biểu hiện của tình yêu trong tất cả những chặng đường của nó: giai đoạn gặp gỡ
ướm hỏi nhau: Đến đây mận mới hỏi đào / Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? / Mận hỏi thì
đào xin thưa / Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào; Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng / Tre
non đủ lá đan sàng nên chăng?…giai đoạn gắn bó trao đổi những lời thề nguyền, những tặng
vật cho nhau: Yêu nhau cởi áo cho nhau / Về nhà mẹ hỏi, qua cầu đánh rơi;…giai đoạn hạnh
phúc với những niềm ước mơ, những nỗi nhớ nhung: Ngó em không dám ngó lâu / Ngó qua một
chút đỡ sầu mà thôi;… hoặc sự thất bại, đau khổ với những lời than thở oán trách: Đôi ta là bạn
thong dong / Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng / Bởi chưng thầy mẹ nói ngang / Cho nên
đũa ngọc mâm vàng xa nhau;…
Ca dao cổ truyền còn phản ánh những mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình:
ông bà với con cháu: Ngó lên nuộc lạt mái nhà / Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy
nhiêu;…cha mẹ và con cái: Ân cha nặng lắm con ơi / Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu
mang; Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ
kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con;…vợ chồng: ; Áo vá vai vợ ai không biết / Áo vá
quàng chí quyết vợ anh; Chồng em áo rách em thương / Chồng người áo gấm xông hương mặc
người;...anh em, chị em, họ hàng: Anh em như chân với tay / Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ
đần …Đó là tình cảm gia đình thiêng liêng cao quí: sự mẫu mực của cha mẹ đối với con cái,
lòng hiếu thảo của con cái dành cho ông bà, cha mẹ, anh em yêu thương, hòa thuận giúp đỡ
nhau, tình cảm thủy chung, son sắt của vợ chồng.
Dĩ nhiên ca dao cổ truyền còn nhiều nội dung khác nhưng người viết chỉ nêu vài nội
dung tiêu biểu như trên để làm nền cho việc khảo sát đối tượng chính của luận văn.
Ca dao hiện đại lên án, tố cáo tội ác của giặc Pháp, Mỹ. Những hành động đốt nhà, cướp
của phá hoại mùa màng, giết người, móc mật, ăn gan, được ca dao kể lại với lòng căm thù, uất
hận: Con ơi, mẹ dặn điều này / Mỹ Diệm một bầy giết hại bà con; Chén cơm thuốc độc hãy còn
/ Mối thù Phú Lợi núi mòn không phai… Toàn dân ta không phân biệt già, trẻ, trai, gái; dân tộc
ít người hay nhiều người; miền xuôi hay miền ngược; thành thị hay nông thôn; ở tiền tuyến hay
hậu phương,… ai ai cũng thể hiện lòng nồng nàn yêu nước, căm thù giặc sâu sắc: Thù nhà, thù
nước, thù chung / Chung vai đấu cật một lòng giết Tây; Bao giờ hết cỏ Tháp Mười / Thì dân
Nam mới hết người đánh Tây; Cho dù Mỹ Ngụy trăm tay / Quyết không chia được nước này
làm hai; Cho dù cạn nước Đồng Nai / Nát chùa Thiên Mụ không phai lòng vàng…
Cùng với phong trào chống giặc ngoại xâm, toàn dân ta còn chống giặc đói và giặc dốt.
Ca dao về tăng gia sản xuất cũng như ca dao về Bình dân học vụ trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp rất nhiều.
“Thống kê chưa đầy đủ, tỉ lệ ca dao về tăng gia sản xuất, tiết kiệm chiếm 10,35% và về
bình dân học vụ, học hành, diệt giặc dốt chiếm 10,15 % tổng số ca dao chống Pháp” [9, 28]:
Thu về ngọn cỏ đơm hoa / Người ra mặt trận thì ta ra đồng / Người ra trận đổ máu hồng / Ta
ra cánh đồng ta đổ mồ hôi / Rằng Hồ Chủ tịch bảo ta / Tăng gia sản xuất cũng là đánh Tây;
Chữ không có phấn có hồ / Mà sao khéo điểm khéo tô mặt người…
Sẽ là thiếu sót nếu không nói đến ca dao về thuế nông nghiệp, giảm tô, cải cách ruộng đất
và những hoạt động khác ở hậu phương. Mảng ca dao này có số lượng khá nhiều: Nông dân đã
nói là làm / Đã đi phải đến, đã bàn phải thông / Đã quyết là quyết một lòng / Đã phát là động,
đã vùng là lên / Đã lật, lật dưới lên trên / Đã chuyển là chuyển bốn bên chân trời; Bà con trong
xóm đổi công / Đêm đêm tát nước ngoài đồng vui ghê; Vì ai nên vợ xa chồng / Dân cày xa
ruộng đòn dông xa kèo;…
Một nội dung nữa khá nổi bật của ca dao hiện đại là tình cảm sâu sắc của nhân dân đối
với Đảng và nhất là đối với Bác Hồ. Đây là mảng cao dao chiếm số lượng lớn nhất trong ca dao
hiện đại: Nhớ ngày mồng ba tháng ba / Chính là ngày của Đảng ta ra đời / Đảng ra đời sáng
ngời mọi chỗ / Đảng ra đời lúa trổ nhiều bông; Bác, Đảng lập thành tên nước / Con cháu ta
tiến bước dưới cờ / Ta là con cháu Bác Hồ / Đánh tan Mỹ Ngụy cơ đồ về ta; Cụ Hồ ở giữa lòng
dân / Tuy xa, xa lắm, nhưng gần gần ghê…
Có lẽ bộ đội là người làm nhiều ca dao nhất trong hai cuộc kháng chiến. Họ viết về mình
và trước hết cho mình. Cho nên ca dao là tự tình, tự thuật, tự truyện của họ: Thằng Tây chớ cậy
xác dài / Chúng tao người nhỏ nhưng dai hơn mày; Con đi độc lập con về / Mẹ yên tâm nhé,
con về mẹ vui; Em về lo liệu việc nhà / Để anh yên dạ xông pha trận tiền; Ta đi trăng cũng đi
theo / Đường ta dốc núi đỉnh đèo trăng soi / Bây giờ trăng đã ngủ rồi / Ta đi lòng vẫn sáng
ngời ánh trăng;…
Ca dao hiện đại cũng nói nhiều đến người phụ nữ. Chiến tranh bao giờ cũng là thách thức
đối với con người, nhưng có lẽ đối với phụ nữ, thách thức đó gần như toàn diện và nặng nề
nhất, đặc biệt về mặt tình cảm riêng tư. Tuy nhiên, họ đã vượt qua những thách thức đó bằng
tinh thần làm chủ bản thân mình. Họ không than vãn như ca dao xưa: Con ơi nhớ lấy câu này /
Đầu quân cứu nước sáng ngời chí trai / Hoa thơm nhất có hoa nhài / Người thơm danh nhất là
trai chiến trường; Kề vai gánh vác sơn hà / Sao cho nổi tiếng đàn bà Việt Nam; Em về lo việc
hậu phương / Anh lo giết giặc chiến trường lập công; Anh đi gìn giữ nước non / Tóc xanh em
đợi, lòng son em chờ;…
Nội dung của ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại có những nét tương đồng nhưng cũng
có những nét khác biệt. Tương đồng ở điểm cả hai bộ phận ca dao đều thể hiện tâm tư, tình cảm
của người bình dân: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tình yêu nam nữ, đồng
thời lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên con người. Điểm khác biệt, ca dao hiện đại thể
hiện một số nội dung mới phù hợp với hoàn cảnh xã hội hiện đại như tăng gia sản xuất, bình
dân học vụ, thuế nông nghiệp, giảm tô, cải cách ruộng đất, đặc biệt là tình cảm đối với Đảng và
Bác Hồ. Như vậy, về nội dung, ca dao hiện đại là sự nối kết, phát triển của ca dao cổ truyền chứ
không phải là một bộ phận hoàn toàn tách biệt.
1.1.3. Giá trị nghệ thuật
Ca dao cổ truyền sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, phổ biến vẫn là thể lục bát: Thân em
như tấm lụa đào / Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai;…và song thất lục bát: Lụa làng Trúc vừa
thanh vừa bóng / May áo chàng cùng sóng áo em / Chữ tình cùng với chữ duyên / Xin đừng
thay áo mà quên lời nguyền;… Thể vãn (vãn bốn, vãn năm…) rất đắc dụng trong đồng dao:
Chi chi chành chành / Cái đanh thổi lửa / Con ngựa đứt cương / Ba vương ngũ đế… Ngoài ra,
các dạng biến thể của thể lục bát và song thất lục bát: Yêu em tam tứ núi cũng trèo / Thất bát
sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua; Nghĩ rằng em đã có chồng rồi / Sao em chưa
có đứng ngồi vân vi / Ới thầy mẹ ơi ! cấm đoán em chi ! / Mười lăm, mười tám sao chả cho đi
lấy chồng;…cũng hay được dùng trong ca dao cổ truyền. Mỗi một thể loại đều có những tác
dụng nhất định. Nhưng nhìn chung, tất cả các thể thơ nói trên đều nhằm làm nổi bật nội dung
của văn bản ca dao.
Kết cấu chủ yếu trong ca dao cổ truyền là kết cấu theo lối đối thoại. Hầu hết ca dao về
tình yêu nam nữ là hình thức trao đổi tình cảm giữa nam và nữ. Trai gái ở nông thôn thường
gặp gỡ, tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong những khi cùng nhau lao động, trong
những ngày hội hè, vui xuân. Hình thức thể hiện tập trung của sự giao duyên đó là những cuộc
hát đối đáp nam nữ. Ví dụ:
Đối đáp hai vế :
- Vào vườn hái quả cau non
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên.
Hai má có hai đồng tiền
Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ưa.
- Anh đà có vợ con chưa
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào.
Mẹ già anh để nơi nao
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
Đối đáp một vế :
- Hỡi cô cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.
Song song đó là kết cấu trần thuật: Đói lòng ăn hột chà là / Để cơm nuôi mẹ mẹ già yếu
răng;…Bên cạnh đó, ca dao cổ truyền cũng hay sử dụng kết cấu đối lập: Tưởng rằng chị ngã
em nâng / Ai ngờ chị ngã, em bưng miệng cười;… và kết cấu đối ngẫu tâm lý: Lên non mới biết
non cao / Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy;… kết cấu thu hẹp dần hình tượng: Anh đi anh
nhớ quê nhà / Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương / Nhớ ai dãi nắng dầm sương / Nhớ ai
tát nước bên đường hôm nao;…
Ca dao không chỉ bắt gặp những cách nói trau chuốt, mượt mà, ý nhị, đầy chất thơ: Đêm
trăng thanh anh mới hỏi nàng / Tre non đủ lá đan sàn nên chăng? / Đan sàng thiếp cũng xin
vâng / Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng?; Nước chảy liu riu, lục bình trôi líu ríu / Anh thấy
em nhỏ xíu, anh thương…mà còn gặp những lời nói bình dân, đầy tính khẩu ngữ: Gánh cực mà
đổ lên non / Còng lưng mà chạy, cực còn chạy theo; Chồng con là cái nợ nần / Chẳng thà ở vậy
nuôi thân béo mầm; Giàu thì thịt cá cơm canh / Khó thì lưng rau đĩa muối, cúng anh tôi đi lấy
chồng;…
Một số hình ảnh trong ca dao cổ truyền đã trở thành biểu tượng. Các nhà nghiên cứu đã
kết luận “ trong ca dao, người dân lao động Việt Nam đã mượn đời sống con cò để biểu hiện
đời sống của mình” [ 32, 339]. Các hình ảnh thuyền biển, trúc mai, mận đào,…tượng trưng cho
đôi lứa yêu nhau…
Ca dao hiện đại sử dụng nhiều thể thơ khác nhau: lục bát: Bao giờ hết cỏ Tháp Mười /
Thì dân Nam mới hết người đánh Tây…, song thất lục bát: Chiếc khăn xanh viền quanh chỉ đỏ /
Bàn tay nhỏ thêu họ thêu tên / Anh vào nhập ngũ Tây Nguyên / Trao khăn em tặng tình yêu kết
tình… và thể hỗn hợp: Gió đánh cành tre / Gió đập cành tre / Chị ra mặt trận em về tải thương
/ Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Xót tình cá nước thì thương nhau cùng / Gió đánh cành hồng /
Gió đập cành hồng / Chị về gặt lúa nuôi chồng thương binh / Chồng em vì nước hi sinh / Cánh
tay mất nửa, mối tình còn nguyên...
Ca dao hiện đại kế thừa phổ biến các dạng kết cấu của ca dao cổ truyền: kết cấu đối thoại
và trần thuật, kết cấu đối lập và đối ngẫu tâm lý, kết cấu thu hẹp dần hình tượng và miêu tả trực
tiếp.
Kết cấu đối thoại chủ yếu là kết cấu một vế:
Con ơi con ngủ cho say,
Mẹ đi phục kích canh hai mẹ về.
Kết cấu trần thuật chủ yếu thuật lại tội ác của kẻ thù:
Cắc bụp, cắc bụp, xòa,
Ba thằng giặc Pháp bắt gà bắt heo.
Cắc bụp, cắc bụp, xèo,
Ba thằng giặc Pháp bắt heo, bắt gà.
Kết cấu đối lập:
Ban ngày em học trường này,
Ban đêm đến lượt mẹ thầy của em.
Ban ngày nắng rực khăn em,
Ban đêm mát dịu ánh đèn sáng soi.
Đảng đem ánh sánh ban ngày,
Soi lên cuộc sống cả hai: trẻ già.
Kết cấu thu hẹp dần hình tượng:
Cái cò cái vạc cái nông,
Nhặt cỏ ruộng đồng tát nước dùm tao.
Mồ hôi càng đổ tạt rào,
Khoai lúa thu vào càng trội hơn lên.
Tất cả cho Tổng động viên,
Phản công thắng lợi mau yên nước nhà.
Kết cấu đối ngẫu tâm lý:
Bể đông có lúc vơi đầy,
Mối thù đế quốc có ngày nào quên.
Ca dao hiện đại sử dụng nhiều hình ảnh: tự nhiên, thực vật, động vật và nhân tạo. Đặc
biệt, một số hình ảnh nhân tạo trong đời sống sinh hoạt thường nhật như: súng, cờ,
thuyền…xuất hiện với tần số cao. Tuy nhiên phổ biến nhất vẫn là hình ảnh tự nhiên.
Ngôn ngữ ca dao hiện đại có sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa
phương, ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường. Cách kết hợp ấy tạo ra nhiều bài hay,
đẹp, thi vị: Đêm nay bóng núi nghiêng che / Anh canh, em gặt có ông trăng hiền sáng soi; Phá
Tam Giang nối đàng ra Bắc / Đèo Hải Vân hướng mặt vào trong; Trị Thiên đò dệt sang ngang /
Dệt thương, dệt nhớ, dệt đàng núi sông;…
Ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại không chỉ bấy nhiêu giá trị nghệ thuật. Do phạm vi
đề tài, chúng tôi chỉ điểm xuyết vài giá trị cơ bản có liên quan trực tiếp đến đề tài, làm nền cho
việc nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ.
1.2. Ca dao về Bác Hồ
1.2.1. Khái niệm
Ca dao về Bác Hồ là những bài ca dao do nhân dân khắp mọi miền đất nước sáng tác về
Bác từ sau cách mạng tháng Tám. Đây là một bộ phận của ca dao hiện đại. Ở đây, người viết
quan niệm ca dao về Bác là mảng ca dao bao gồm những bài ca trực tiếp bộc lộ tình cảm của
nhân dân đối với Bác: Có ai về chốn quê nhà / Gửi lời chúc thọ Cha già mến yêu; Đếm sao cho
hết vì sao / Kể sao hết được công lao Bác Hồ;… và cả những bài ca gián tiếp nói đến Bác, tức
nói về sự việc khác nhưng có liên hệ tới Bác: Hôm qua anh đến chơi nhà / Thấy mẹ dệt vải thấy
cha đi bừa / Thấy em mải miết xe tơ / Thấy cháu i-tờ ngồi học bi bô / Thì ra vâng lệnh Cụ Hồ /
Cả nhà yêu nước thi đua phen này;…
Qua bộ phận ca dao về Bác, người thưởng thức có thể cảm nhận được lòng kính yêu, lòng
biết ơn, nỗi mong chờ, tình cảm thủy chung, niềm tin son sắt của nhân dân đối với Bác. Bên cạnh
đó, người đọc cũng bắt gặp một số nội dung khác tuy không trực tiếp hướng về Bác nhưng cũng có
liên hệ đến Bác.
Tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ - người lãnh tụ kiệt xuất của Đảng và của dân
tộc, trước hết bắt nguồn từ lòng kính yêu, tự hào và biết ơn sâu sắc về những công lao vô
cùng to lớn của Bác. Công ơn to lớn ấy được nhân dân ta so sánh với những gì thiêng liêng
nhất, kỳ vĩ nhất trong thiên nhiên nhiên vũ trụ: Núi cao là núi Thái Sơn / Ơn cao nghĩa cả là ơn
Cụ Hồ; Đếm sao cho hết vì sao / Kể sao cho hết công lao Bác Hồ; Cụ Hồ ơn đức biết bao / Ơn
dày sánh đất, đức cao sánh trời;…
Nhân dân biết ơn Bác bởi tấm lòng yêu thương mênh mông của Bác dành cho đồng bào.
Bác đã từng nói:“ Tôi có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành” [ 17, 20]. Cùng với lòng biết ơn sâu sắc, nhân dân ta cũng yêu thương Bác vô
vàn, xem Bác như người Cha trong đại gia đình, tự hào vì dân tộc ta có Bác: Tháp Mười đẹp
nhất bông sen / Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ; Cụ Hồ là đuốc sáng soi / Nhắc đến tên Cụ
muôn người yêu thương; Cây quế Thiên Thai mọc trên núi đá / Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa
sơn lâm / Tên Bác Hồ thơm hơn hương quế, hương trầm / Nhìn ra phương Bắc mà thương Bác
Hồ; Dù ai đi đông đi tây / Mỗi năm tháng chín nhớ ngày mồng ba / Dù ai đi gần đi xa / Chớ
quên ngày giỗ Cha già kính yêu;…
Lòng biết ơn lãnh tụ và mối quan hệ gắn bó với lãnh tụ tất nhiên dẫn đến một niềm tin
mãnh liệt vào lãnh tụ. Nhân dân tin tưởng vào sự dẫn dắt, sụ lãnh đạo sáng suốt của Người:
Cụ Hồ yêu nước thương dân / Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù / Giặc Tây, giặc đói, giặc mù /
Cả ba thứ giặc Bác Hồ vượt qua; Sóng thần thì mặc sóng thần / Có Cha bẻ lái, có dân chống
chèo; Dân cày mà có Bác Hồ / Như thuyền có lái, như cờ gió bay;…
Sức khỏe của Bác là mối quan tâm sâu sắc của toàn dân ta. Đó là một lẽ tự nhiên như
chúng ta quan tâm , chăm sóc đến sức khỏe của ông bà, cha mẹ mình. Song, Bác là linh hồn của
dân tộc, là người cầm lái con thuyền dân tộc nên mối quan tâm đến sức khỏe của Bác còn thể
hiện lòng yêu nước của chúng ta. Vì thế, mối quan tâm ấy còn tăng gấp bội: Đường ra Việt Bắc
/ Xa lắc, xa lơ / Ai đi tôi gửi bức thư mấy hàng / Chúc Hồ Chủ tịch anh khang / Lãnh đạo dân
tộc trên đường đấu tranh; Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe, vui tươi / Dắt dìu kháng chiến, giành độc
lập cho người Việt Nam; Chúng con ở bốn phương trời / Quay về hướng Cụ muôn lời chúc
mong / Dài lâu như suối như sông / Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con;…
Kính yêu Bác, mong Bác mạnh khỏe sống lâu, hi vọng có một ngày nào sẽ được gặp
Bác… Đó là tình cảm, nguyện vọng chung của toàn dân ta. Nhưng có lẽ niềm mong mỏi ấy tha
thiết nhất ở đồng bào miền Nam. Nhân dân miền Nam khao khát được gặp Bác trong ngày
thống nhất đất nước: Đêm nằm con thấy chiêm bao / Thấy Hồ Chủ tịch đã vào nơi đây; Ngày
mai giải phóng quê mình / Miền Nam đón Bác thỏa tình ước mong; Mong ngày độc lập Cụ vô /
Thỏa lòng mong đợi, ước mơ đêm ngày; Miền Nam nhớ Bác vô cùng / Mong ngày đón Bác vào
trong Khánh Hòa;…
Như đã nêu trên, ca dao về Bác có những bài trực tiếp nói lên tình cảm của nhân dân đối
với Bác nhưng cũng có những bài nói về sự việc khác, qua đó gián tiếp nói về Bác.
Ca dao về Bác cũng nói nhiều đến anh bộ đội Cụ Hồ. Nhân dân ca ngợi anh bộ đội Cụ Hồ
cũng là ca ngợi Bác: Đồng bào trông thấy hoan hô / Hoan hô anh lính Cụ Hồ ngoan ghê / …Cụ
Hồ dân kính, dân yêu / Nên anh bộ đội dân chiều dân thương; Ai về yên Dưỡng, Hoành Mô /
mà xem quân lính Cụ Hồ sang sông / Đêm ngày mê mải chiến công / Thoáng trông như có cả
chồng em kia; Hôm qua sinh nhật Cụ Hồ / Bộ đội đánh thắng ăn to hai đồn;…
Tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng cũng được đề cập đến trong bộ phận ca dao này.
Tuy nhiên, tình yêu ấy trong ca dao về Bác không thấy có sự cấm đoán của giai cấp thống trị,
không có những quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân” “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” …gây nên
những đau khổ bất hạnh cho đôi lứa mà tình cảm ấy vừa trong sáng, thủy chung, đậm đà vừa
gắn liền với tình yêu lãnh tụ, tình yêu nhân dân: Ai ơi chớ lấy chồng non / Chờ ngày độc lập lấy
“con Cụ Hồ”; Anh đi gìn giữ nước non / Tóc xanh em đợi lòng son em chờ / Anh đi làm lính Cụ
Hồ / Đò xưa, bến cũ đợi chờ đón anh; Cắt tấm lục đào em đề ba chữ/ Chữ trung với Bác, chữ
hiếu với mẹ, chữ nghĩa với anh / Dù xa xôi em vẫn giữ lòng thành / Có Bác chỉ đường dẫn lối
thì hai đứa mình sẽ gặp nhau;…
Cũng như ca dao hiện đại, ca dao về Người cũng thấy xuất hiện nội dung tăng gia sản
xuất. Trong những ngày đầu độc lập, dân tộc ta gặp vô vàn khó khăn. Khó khăn lớn nhất chính
là nạn đói. Vấn đề cấp bách nhất của Chính phủ lâm thời là cứu đói. Ngoài giải pháp nhường
cơm sẻ áo thì tăng gia sản xuất là giải pháp giải quyết vấn đề từ gốc. Bác đã kêu gọi: “Tăng gia
sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó
là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập” (Hồ Chí Minh toàn tập). Cho
nên, ca dao về Bác không thể không đề cập đến vấn đề này: Chúng con quyết chí thi đua / Sản
xuất, tiết kiệm cho vừa lòng Cha; Cụ Hồ đã dạy dân ta / Thi đua sản xuất cũng là đánh Tây;Cụ
dạy chúng ta thi đua để mà đoàn kết / Có đoàn kết rồi mới thiệt thi đua / Anh em nông dân
mình chăm bón làm mùa / Công nhân đúc nhiều súng đạn / Bộ đội đánh mạnh giặc thua chạy
dài; …
Khó khăn thứ hai là nạn dốt. Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
phát động phong trào bình dân học vụ nhằm xóa nạn mù chữ trong toàn dân. Trong suốt thời
Pháp thuộc, hơn 90% dân Việt Nam mù chữ, đây là một trong các quốc nạn. Chính vì thế, Bác
đã kêu gọi nhân dân "chống nạn mù chữ", “diệt giặc dốt” vì "Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu". Ca dao về Bác xuất hiện hàng loạt các bài cổ động cho phong trào này: Hôm qua anh đến
chơi nhà / Thấy mẹ dệt vải thấy cha đi bừa / Thấy nàng mải miết xe tơ / Thấy cháu "i - tờ" ngồi
học bi bô / Thì ra vâng lệnh Cụ Hồ / Cả nhà yêu nước "thi đua” học hành; Giỏi như đến mức
Cụ Hồ / Người còn phải học huống hồ chúng ta; Không đèn thì lấy ánh trăng / Mực bằng đậu
cút, giấy bằng lồ ô / Quyết tâm học chữ Bác Hồ / Nước nhà độc lập, tự do có ngày;…
Tóm lại, qua ca dao về Bác, người đọc có thể cảm nhận được một bức tranh tình cảm
muôn màu muôn vẻ của toàn dân đối với Bác, đồng thời có thể hình dung ra bức tranh cuộc
sống sinh động của nhân dân trong giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
1.2.2. Lực lượng sáng tác
Trong lịch sử văn học nước ta, hiếm thấy một hiện tượng độc đáo nào như thơ ca viết về
Bác. Độc đáo là bởi một dòng sông thơ đã ra đời và chảy mãi từ Một – con – Người – Đẹp. Bởi
vì, “Con người đó đã hóa thân vào dân tộc và thời đại; hơn thế nữa, con người đó đã hòa làm
một với từng người dân Việt Nam, đã sống sâu sắc trong trái tim họ…Con người đó là Chủ tịch
Hồ Chí Minh” [ 35,11]. Vâng, Bác Hồ mãi mãi là nguồn cảm hứng, là đối tượng mà nhân dân
hướng đến để bày tỏ tình cảm của mình. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến một dòng chảy nhỏ,
khiêm tốn nhưng dạt dào tình cảm hòa vào dòng sông lớn của thơ ca viết về Bác Hồ, đó là dòng
ca dao về Bác.
1.2.2.1. Theo vùng miền
Từ Cao-Bắc-Lạng đến mũi Cà Mau, từ Tây Nguyên đến Bình Trị Thiên, đâu cũng có
những câu ca dao về Bác, đâu cũng có lời hát nhắc nhở đến công ơn Người. Từ đỉnh núi cao
của rừng Việt Bắc, chúng ta nghe hát: Em về giã gạo ba giăng / Anh lên múc nước Cao Bằng
về ngâm / Đến ngày mười chín tháng năm / Gói thành đôi bánh đem dâng Bác Hồ. Giữa lòng
Thủ đô Hà Nội, tiếng hát về Bác lại cất lên Một chiều nắng ấm Thủ đô / Vui sao được thấy
Bác Hồ trồng cây. Đồng bào Quảng Bình, Vĩnh Linh, Đông Anh lúc nào cũng đinh ninh lời
dạy của Bác: Ca rằng: dân tuyến Vĩnh Linh / Ghi sâu lời Bác đinh ninh đời này; Bạc màu là đất
Đông Anh / Làm theo lời Bác vẫn xanh ruộng đồng. Người Tây Nguyên muôn đời nhớ ơn Bác:
Rừng Tây Nguyên muôn đời nhớ Bác / Đã khắc tên lên bạc đeo tay; Hòa Bình dốc thẳm non
cao / Có đi tiếp vận mới biết công lao Cụ Hồ; Trường Sơn dậy tiếng Bác Hồ / Đánh cho Mỹ
cút, đánh cho Ngụy nhào; Dù cho biển cạn non mòn / Lòng dân Thuận Hóa vẫn còn trơ trơ /
Vẫn là dân của cụ Hồ / Trọn đời theo mãi ngọn cờ vàng sao.Bình Trị Thiên : Đất Trị Thiên là
đất của Cụ Hồ / Đất cha ông chi thằng Bảo Đại mà kéo Tây qua đóng đồn. Trong kho tàng ca
dao-dân ca Đà Nẵng, hình ảnh Bác Hồ chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Điều đó có được là do tư
tưởng cách mạng của Bác đã gắn với cuộc sống và chiến đấu của người dân Đà Nẵng, gắn với
những biến đổi to lớn diễn ra trên quê hương "Trung dũng kiên cường" và đồng thời gắn với
những biến cố trọng đại, hào hùng của lịch sử dân tộc nói chung và Đà Nẵng nói riêng. Người
Đà Nẵng với Bác trước hết là lòng kính yêu, ngưỡng mộ: Những đêm đại hội quê hương/ Cháu
ngồi nhớ Bác tình thương ngọt ngào / Cháu nhìn vầng trán cao cao / Nhìn đôi mắt Bác như sao
sáng ngời / Bác nhìn cháu nhỏ khắp nơi / Soi gương bóng tối cho đời thắm tươi; Bác Hồ trong
trái tim dân / Tuy xa nghìn dặm nhưng gần gần ghê…và sau đó là niềm tự hào, tin tưởng: Giặc
kia khủng bố lu bù / Lòng dân vẫn một mùa thu Bác Hồ / Tình quân dân, nghĩa đồng bào /
Ngàn câu cổ vũ ghi vào trong tim; Ngày nay được thống nhất sơn hà / Nhìn xem cờ đỏ thật là
vinh quang / Đồng bào ơi, nhớ lời Bác dặn đinh ninh / Quân dân đoàn kết, độc lập, hòa bình
muôn năm;… Bình Định: Nước sông Trà in hình núi Ấn / Dừa Trung Lương soi bóng Lại
Giang / Nhìn lên cờ đỏ sao vàng / Lòng dân ơn Bác muôn vàn Bác ơi. Phú Yên: Từ Vạn Ninh
đến Can Lâm / Lòng dân đồng điệu đồng tâm với Cụ Hồ. Khánh hòa: Gió nào bằng gió Tu
Bông / Sức nào bằng sức nhân dân Cụ Hồ;…
Ca dao miền Nam về Bác là một bộ phận không nhỏ trong dòng chảy của ca dao Bác Hồ.
Công ơn của Đảng, Bác Hồ luôn luôn canh cánh trong lòng mỗi người: Việt Nam chỉ một cơ đồ
/ Miền Nam treo ảnh Bác Hồ trong tim; Miền Nam muôn thuở một lòng / Ngày đêm luôn nhớ
công ơn Bác Hồ. Sống dưới nanh vuốt của kẻ thù, đồng bào càng thấm công ơn này. Đồng bào
miền Nam cũng như đồng bào trên khắp mọi miền đất nước đều bày tỏ nỗi nhớ thương và lòng
biết ơn vô hạn về Người. Nhân dân khắp các tỉnh thành miền Nam đều có ca dao về Người: Bao
giờ thống nhất non sông / Cần Thơ gửi vú sữa kính dâng lên Bác Hồ; Ta là con cháu Bác Hồ /
Nghe tin đồng khởi reo hò đi ngay (Bến Tre), Ai xây, ai đắp, ai bồi / công ơn của Bác chói
ngời Bạc Liêu; Đêm qua nằm ngủ con mơ / Thấy tàu của Bác cập bờ Cà Mau. Đồng Tháp có
một vinh dự lớn là được cụ Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh của Bác Hồ kính yêu chọn làm nơi
hoạt động yêu nước trong những năm tháng cuối đời và yên nghỉ tại đó. Nhân dân ở đây đã thay
mặt cho đồng bào cả nước đưa tiễn Người và hết sức bảo vệ ngôi mộ, chống mọi âm mưu xảo
quyệt của kẻ thù. Phải chăng, trong nỗi niềm khao khát chờ trông ngày thống nhất, người dân
Đồng Tháp Mười còn có mong đợi riêng: Ngày ấy được đón Bác về viếng thăm nơi yên nghỉ
cuối cùng của người cha thân yêu. Và niềm tin ấy bật lên thành lời, thành nỗi trông ngóng:
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông ngày đón Cụ vui vầy Bắc Nam.
Không chỉ nhân dân trong nước mà cả kiều bào ở nước ngoài cũng có ca dao về Bác.
Dù ở xa nhưng lúc nào họ cũng hướng về quê hương, đất tổ, nơi có Cụ Hồ đang dắt dìu kháng
chiến với nhân dân Chúng con ở bốn phương trời / Quay về hướng Cụ muôn đời chúc mong;
Cụ Hồ yêu nước thương nhà / Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù;…Em Nguyễn Ở, một em bé ở
Xa-côn bên Thái Lan đã viết nhân kỉ niệm ngày sinh của Bác: Hôm nay mười chín tháng năm /
Chúng em sung sướng hơn rằm Trung Thu;…
Như vậy, trên đất nước ta đâu đâu cũng có ca dao về Bác Hồ. Nhân dân ở khắp các tỉnh
thành, từng khu vực, miền, vùng đất đều có nhu cầu thổ lộ tình cảm của mình đến Bác. Mỗi địa
phương có một cách biểu hiện tình cảm khác nhau đối với lãnh tụ. Tất cả những khía cạnh tình
cảm ấy đã hòa vào, góp vào làm phong phú hơn cho nội dung mảng ca dao về Bác Hồ nói
chung. Đó là sự kế thừa và tiếp nối truyền thống của ca dao - dân ca trong việc ca ngợi lãnh tụ,
những nhân vật lịch sử vĩ đại mà Bác Hồ là một người như thế.
1.2.2.2. Theo tầng lớp
Tác giả những bài ca dao về Bác không phân biệt tầng lớp, địa vị, ngành nghề. Họ là bộ
đội, dân công, thiếu snh quân, công nhân, nông dân, thầy giáo, học sinh,…
Có lẽ đối tượng làm ca dao về Bác nhiều nhất chính là các anh bộ đội, mà ngày ấy nhân
dân ưu ái, tin yêu gọi là anh bộ đội Cụ Hồ. Các anh sáng tác ca dao về Bác trong mọi hoàn
cảnh: lúc hành quân ra mặt trận, mặc dù “đường xa, súng nặng oằn vai”, “gian nan cơm vắt
muối vừng”, mặc dù phải đi “trăm núi ngàn khe”, “qua mấy dốc mấy đèo”, nhưng vẫn luôn
nghe “lời Bác vang vọng non sông”, luôn “thấy Bác mãi còn dõi theo”, tâm hồn luôn rực sáng
lý tuởng cách mạng cao cả mà Bác và Đảng đã truyền thụ, lại thương “Bác vì đất nước, vì niềm
vui chung” mà “tóc xanh bạc trắng đôi miền” nên anh đã hạ quyết tâm: Dù cho giọt máu cuối
cùng / Con tin vào Bác vững lòng tiến lên / Con thề: diệt sạch xâm lăng / Hai miền Nam Bắc
cùng xanh đất trời; Bác ơi cháu quyết cắm cờ / Lên trên đồn giặc như thơ Bác mừng. Cũng
vậy anh bộ đội ở xa, giữa bốn bề mênh mông sông nước, thiếu thốn mọi thứ, vẫn tâm niệm
những lời giáo huấn của Bác, vững vàng cầm chắc tay súng canh giữ biển trời cho Tổ quốc:
Đảo xa sóng dội bốn bề / Lắng nghe lời Bác vọng về biển khơi.
Tinh thần đó được thể hiện ở người dân công tiếp vận: Ta là con cháu Bác Hồ / Nghe tin
tiếp vận đan bồ đi ngay; Ngày nay vâng lệnh Bác Hồ / dân công “dô hò” bạt núi ta đi / mấy
năm kháng chiến trường kì / Vai gánh càng dẻo, chân đi càng bền . Em thiếu sinh quân nói
riêng với Bác rằng: Cháu là em bé phương xa / Theo anh vệ quốc xa nhà đã lâu / Qua bao vực
thẳm truông dài / Giúp anh vệ quốc diệt loài thực dân. Người công nhân cầu đường thấy rõ
trách nhiệm của mình: Cầu này ta bắc chóng xong / Cho xe chóng chạy, cho lòng Bác vui; Bạt
rừng xẻ núi mở đường / Chở hàng vào tận chiến trường, Bác vui; Cầu đường mạch máu chúng
ta / Giặc mà phá đứt thì ta nối liền… / Tuân theo lời dạy Cha già / Cầu đường giữ vững, dân ta
thắng thù;…
Thấm nhuần lời dạy của Bác “thi đua sản xuất cũng là đánh Tây”, vừa ích nước, vừa lợi
nhà, người nông dân ngày đêm lăn lộn trên đồng ruộng không quản mưa nắng nhọc nhằn,
quyết tâm làm ra nhiều thóc gạo chi viện cho tiền tuyến để bộ đội ăn no đánh thắng: Qua nương
xuống ruộng lên đồi / Ta cuốc, ta xới, ta cười, ta ca / Rằng: Hồ Chủ tịch dạy ta / Tăng gia sản
xuất cũng là đánh Tây;…
Với nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng “trăm năm trồng người”, người thầy giáo vẫn thấm
nhuần lời khuyên của Bác trong từng trang giáo án: Chúng con khuya sớm chuyên cần / Nguyện
vì lợi ích trăm năm trồng người / Trống trường báo một ngày vui / Từng trang giáo án thấm lời
Bác khuyên. Noi gương thầy, cảm thụ những lời truyền dạy của thầy, các bạn học sinh cũng
làm ca dao bày tỏ tình cảm của mình đến với Bác: Mái trường ngói đỏ hây hây / Cây cao bóng
cả tình này Bác che;...
Tóm lại, dù là người nông dân hay công nhân, bộ đội hay dân công, học sinh hay thầy
giáo, nhưng ở họ đều có một điểm chung đó là tình yêu thương chân thành dành cho Bác. Họ đã
thổ lộ điều đó bằng ca dao với tất cả tấm lòng của mình.
1.2.2.3.Tuổi tác
Nhân dân ta, ai ai cũng có thể làm ca dao về Bác. Họ không phân biệt tuổi tác, từ cụ già
tóc bạc đến các em nhỏ đều cất lên tiếng nói tình cảm của mình về Bác bằng ca dao.
Đây là ước mơ có ngày được gặp Bác của một cụ già cao tuổi: Ước gì đời sống thêm
năm / Ước gì mắt sáng để trông Bác Hồ / Đêm khuya chợp mắt tôi mơ: / Lúa vàng thêm mát Cụ
Hồ đứng bên. Qua cuộc đối đáp với anh dân công, một ông lão đã cho biết vì sao tuổi đã cao
mà lão vẫn tham gia vào đội dân công. Lão cho rằng con trai đã đi dân công, rồi dâu, cháu cũng
đi nên lão cũng đan vội đôi bồ để đi vận tải coi như đó là chút nghĩa đền đáp với Cụ Hồ: Lão
đan vồi vội đôi bồ / Sắm sanh cái gậy lão dô hò lão đi.
Dù chưa một lần được gặp Bác nhưng những bà mẹ miền Nam vẫn khẳng định một lòng
một dạ đi theo con đường cách mạng mà Bác đã vạch ra: Con ra thưa với Bác Hồ / Đất này chỉ
một lá cờ vàng sao. Ngày giải phóng Sài Gòn, Bác đã đi xa, đồng bào miền Nam không còn
được đón Bác vào thăm cho thỏa lòng âm thầm mong đợi bấy lâu. Nhưng được tự do ngắm
nghía ảnh Bác từ lâu phải cất giấu, nay đột nhiên xuất hiện, đồng bào cũng cảm thấy sung
sướng lắm, tưởng như Bác vẫn còn đó với non sông, đất nước. Một bà má miền Nam đã thay
mặt nhân dân nói lên điều đó: Giữa ngày giải phóng thành đô / Bỗng đâu tấm ảnh Bác Hồ hiện
ra / Lần đầu được gặp Cha già / Muôn ngàn con mắt trẻ già nhìn no / Má rằng: thương tiếc Cụ
Hồ / Hôm nay thấy Cụ, hết lo, hết sầu / Cụ Hồ tài lớn, đức cao / Nghìn năm vẫn sáng như sao
trên trời
Chúng ta hãy nghe mấy lời tâm huyết của người vợ nông thôn nhắn gửi chồng qua bài ca
dao Nghe lời Bác dạy thi đua / Thử xem ai được, ai thua phen này / Chàng đi ra trận đánh Tây
/ Ruộng để em cày, thóc lúa em gieo / Nghèo thì em biết phận nghèo / Nắng sớm mưa chiều, em
chẳng quản công / Sao cho lúa tốt đầy đồng / Bộ đội no lòng yên chí xông pha / Con thơ cùng
với mẹ già / Chàng cứ tin chắc ở nhà có em…
Một anh lính coi kho đã sáng tác ca dao hứa với Bác rằng: Tôi là anh lính coi kho /
Quanh năm chỉ việc cân, đo, giữ hàng / Nhà kho lại ở trong hang / Bốn bề núi thẳm rừng
hoang mịt mù / Chẳng tu mà cũng là tu / Tu sao cho vẹn Bác Hồ khuyên răn: / Nếu không lo
kiệm, lo cần / Khó mà liêm chính, khó mà vô tư / Một mình hang tối âm u / Mà lòng dạ vẫn
sáng như ban ngày…
Và đây là lời của cô gái khi tiễn chàng trai ra trận. Cô không quên khẳng định tấm lòng
son sắt, thủy chung của mình đồng thời đó cũng là tình cảm chân thành đối với Bác Hồ kính
yêu Anh đi gìn giữ nước non / Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ / Anh đi ra lính Cụ Hồ / Khúc
sông, đỉnh núi, con đò tiễn anh.
“Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng”. Đúng vậy! Thiếu nhi Việt Nam
ngoài tình cảm đối với ông bà cha mẹ, anh em, bạn bè cón có thêm một tình cảm rất thiêng
liêng: tình cảm đối với Bác Hồ. Vì sao có tấm lòng yêu mến tha thiết như vậy ở các em? Thông
qua những người xung quanh như ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, chú bộ đội, anhcán bộ…các
em đã thấy Bác là người đã mang lại cơm no áo ấm cho gia đình, đem lại cuộc sống vui tươi,
hạnh phúc cho các em. Nhưng nếu chỉ vậy thôi thì chưa đủ, tình cảm của các em còn gần gũi và
sâu sắc hơn nhiều. Các em không chỉ thấy Bác là một lãnh tụ mà còn thấy Bác là một người
ông, người cha. Các em yêu Bác bởi Bác luôn luôn có một tình cảm tha thiết đối với các em
như Bác đã viết:
Ai yêu các nhi đồng
Bằng Bác Hồ Chí Minh
Trước tấm lòng yêu mến của Bác đối với các em như vậy, chúng ta không ngạc nhiên
chút nào khi thấy các em rất yêu mến Bác. Ca dao về Bác không thể không kể đến đối tượng
thiếu nhi này. Trong những bài ca dao các em sáng tác về Bác, nội dung thường xoay quanh
niềm kính yêu, mong nhớ Bác, mong muốn được gặp Bác. Đây là lời của em Nguyễn Ở, một
em bé ở Xa-côn bên Thái Lan đã sáng tác ca dao về Bác nhân kỉ niệm ngày sinh nhật Bác: Hôm
nay mười chín tháng năm / Chúng em sung sướng hơn rằm Trung thu. Hay đây là lời hứa riêng
của em thiếu sinh quân với Bác: Cháu là em bé phương xa / Theo anh vệ quốc xa nhà đã lâu /
Qua bao vực thẳm truông dài / Giúp anh vệ quốc diệt loài thực dân.
Bài ca dao này nối tiếp bài ca dao khác ra đời để giãi bày, thổ lộ tình cảm của nhân dân
khắp nơi với Bác. “Cuộc đời của Bác đã hòa vào núi sông đất nước. Vì vậy, mỗi hình ảnh của
đất nước, từ sắc nước sông Trà đến hình núi Ấn, từ vẻ ngọt vú sữa Cần Thơ đến hương tràm U
Minh…đều gợi nỗi nhớ thương Người.” [61, 3]
Tóm lại, chính lực lượng sáng tác ca dao về Bác phong phú như thế đã tạo nên những
giọng điệu, sắc thái tình cảm khác nhau của mảng ca dao về Bác. Mỗi cá nhân, địa phương,
vùng miền bằng những cảm nhận rất riêng đã có những cách diễn đạt, thổ lộ khác nhau góp
phần làm phong phú hơn nội dung và nghệ thuật của ca dao về Bác.
1.2.3. Hoàn cảnh sáng tác
Lực lượng sáng tác ca dao Bác Hồ đông đảo như thế nên hoàn cảnh sáng tác cũng phong
phú và đa dạng không kém. Tới đâu cũng đều được nghe, được đọc.
1.2.3.1. Trong chiến đấu
Như đã nói trên, bộ đội là đối tượng sáng tác ca dao về Bác nhiều nhất nên có lẽ hầu hết
ca dao về Bác được sáng tác trong hoàn cảnh chiến đấu. Trong gian khổ, trong chiến đấu, các
anh cảm thấy Bác như vẫn ầm thầm dõi theo bước anh: Gian nan cơm vắt muối vừng / Mà sao
con thấy sáng trưng cuộc đời; Con đi trăm núi, ngàn non / Vẫn trông thấy Bác mãi còn ngó
theo / Con qua mấy dốc, mấy đèo / Còn nghe lời Bác vọng theo ân cần . Anh bộ đội trân trọng
chép thơ Bác vào sổ tay, đem theo trên đường ra trận: Hành quân với cháu hôm nay / Có thơ
của bác chép tay mấy bài / Cháu đi mải miết đường dài / Đọc thơ Bác thấy nhẹ vai, ấm lòng.
Sau khi bắn cháy máy bay địch, anh pháo thủ ngồi ung dung trên mâm pháo ngâm thơ của Bác:
Máy bay giặc Mỹ cháy rồi / Đồng xanh lại thắm, ruộng đồng lại xanh / Niềm vui rộn rã trong
lòng / Ngồi ngâm thơ Bác những dòng kính yêu. Còn đây là ca dao của những người lính đang
đứng giữa chiến hào đánh giặc: Đêm nay đứng giữa chiến hào / Nghe lời Bác gọi dạt dào niềm
tin / Ngày mai giải phóng quê mình / Miền Nam đón Bác thỏa tình ước mơ; Ngắm cho trúng,
bắn cho tinh / Làm quà thắng lợi dâng lên Bác Hồ;...
Trần Hữu Thung trong “Ca dao về Bác”, Nxb Hà Tĩnh, đã kể lại rằng trong một đêm
trăng xuôi dòng sông Lam để đi công tác vào Bình Trị Thiên, ông đã được nghe câu hò trên một
chiếc thuyền vận tải: Thuyền ai xuôi chợ Vực / Thuyền ai ngược Đô Lương / Thuyền anh chở
khách chở phường / Thuyền em chỉ chở công lương cho Cụ Hồ. Và tác giả cho biết thêm ngày
ấy cán bộ bộ đội và dân công cuốc bộ hành quân lấy đêm làm ngày. Phải hàng tháng trời từ
Bình Trị Thiên mới đi thấu ra Việt Bắc. Dân công từ Thanh Nghệ ra Hòa Bình cũng phải đi
hàng chục ngày đêm. Mà cuộc sống dọc đường hành quân mới phong phú làm sao ! Những vần
ca dao, những câu hò cứ thế nở rộ trên đường dài ra tiền tuyến: Ai ra Việt Bắc / Xa lắc xa lơ /
Đường dài ngúc ngoắc / Trục trục trặc trặc / Lòng thành son sắt / Vắn tắt đôi lời / Chúc Cụ Hồ
mạnh khỏe vui tươi / Dắt dìu kháng chiến, giành độc lập cho người Việt Nam. Bằng những câu
ca dao ứng khẩu, hàng vạn dân công đã nói lên khí thế hào hùng của mình. Và cũng bằng
những câu hò ấy, những câu ca dao ấy, họ đã ghi lại tấm lòng kính yêu, tin tưởng đối với Đảng,
với Lãnh tụ: Ta là con cháu Cụ Hồ / Nghe tin tiếp vận đan bồ đi ngay.
Dù con đường đấu tranh đầy cam go, nguy hiểm, khó khăn nhưng các anh bộ đội vẫn
quyết tâm thực hiện lời dạy, lời khuyên của Bác để thống nhất nước nhà: Chiều chiều lại nhớ
chiều chiều / Nhớ câu Bác dạy, nhớ điều Bác khuyên / Nhớ lời vàng ngọc, không quên / Con
đường thống nhất càng bền đấu tranh. Cho nên, trong kháng chiến chống Pháp cũng như chống
Mỹ, các anh không hề nao núng trước mọi vũ khí hiện đại của kẻ địch: Thằng Tây có trăm máy
bay / Không bằng một cái móng tay Cụ Hồ; Bác ơi khẩu súng cầm tay /Dù muôn gian khổ
chẳng lay được lòng / Lòng còn hẹn với muôn lòng / Bắc Nam thống nhất thành công mới về.
Anh hùng Tạ Thị Kiều, trong buổi tọa đàm với những người làm công tác văn học nghệ
thuật miền Bắc, đã kể lại câu chuyện dùng thơ ca quần chúng trong đấu tranh chính trị ở Bến
Tre. Một lần trong cuộc biểu tình kéo vào thị xã , nhân lúc chị em đang ngồi nghỉ bên đường,
bọn lính Ngụy mon men đến gạ gẫm. Chúng nó rủ các chị “làm văn nghệ” cho vui. Các chị ra
điều kiện trước là không được khủng bố. Bọn lính Ngụy bằng lòng và chúng mở đầu châm chọc
các chị:
- Hò ơ… Lấy lính “quốc gia” vàng đeo đầy cổ
Lấy lính cụ Hồ cực khổ muôn năm!
Các chị ứng khẩu đáp lại:
- Hò ơ… Lấy lính “quốc gia” như gông đeo cổ
Lấy lính cụ Hồ rực rỡ muôn năm!
Bị một đòn bất ngờ, bọn lính Ngụy cứng họng, không dám làm gì các chị, đành lờ đi, tìm
đường chuồn mất. Thế đấy, ngay khi biểu tình, nhân dân ta cũng sáng tác ca dao về Người. [75,
67]
Bùi Mạnh Nhị trong “Sen Tháp Mười” cũng cho biết hòan cảnh diễn xướng của ca dao
miền Nam về Hồ Chí Minh vô cùng đặc biệt. Đặc biệt là ở chỗ hoàn cảnh diễn xướng ấy không
phải là cảnh thanh bình mà là cuộc chiến đấu gian lao diễn ra từng giờ, từng phút. Những bài ca
dao về Bác vút lên từ những vùng giặc bình định, từ những chiến hào còn nồng khói bom, thuốc
súng, trở thành sức mạnh tiêu diệt kẻ thù. Có thể nói thời điểm nở rộ ca dao về Người là những
năm tháng miền Nam sống trong thời kỳ đen tối nhất, dưới sự đàn áp khủng bố tàn bạo của Mỹ
Ngụy và những năm tháng cách mạng miền Nam chuyển sang thế tấn công. Trong những thời
điểm nói trên, lúc vui cũng như lúc buồn miền Nam nôn nao hướng về Đảng, về Bác với nhiều
tâm sự. Bài ca dao này tiếp bài ca dao khác ra đời, nén chặt những tâm cảnh, những nỗi lòng,
âm thầm truyền trong trái tim người như một thứ truyền đơn vô hình và đầy tính thuyết phục:
Tội ác Mỹ Diệm tày trời / Kể sao cho hết được / Miền Nam nguyền sau trước / Cùng đoàn kết
một lòng / Theo Đảng Bác tiến bước / Dù cho gian khổ hi sinh / Thù quân Mỹ Diệm đấu tranh
đến cùng; Giôn- xơn, Bốt-lốt, Tay- lo / Hung hăng hổ giấy làm trò gì đâu / Căm thù như lửa
thêm dầu / Nghe lời Bác ta đánh Mỹ dập đầu tan thây; Cho dù san phẳng Trường Sơn / Bác ơi
cháu chỉ sắt son một lòng / Đấu tranh thống nhất non sông / Giấc ngàn thu thỏa ước mong Bác
Hồ;…
1.2.3.2. Trong lao động sản xuất
Ngày mới giành được chính quyền cách mạng cũng là những ngày nhân dân ta phải trải
qua nạn đói khủng khiếp do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây nên. Cho nên, Chính phủ và
Bác Hồ kêu gọi đồng bào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm: “Ngót trăm năm thằng Tây
sang vơ vét hết ghế hết đòn / Việt Nam ta nay độc lập nỏ còn miếng chi”.
Hưởng ứng lời kêu gọi đó, người nông dân trên đồng ruộng, người công nhân trong
xưởng máy thi đua đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Người nông dân nhắc nhở nhau: Nghe lời Bác
dạy thì no / Đừng để đất nghỉ, đừng cho máy ngừng / Đừng để ao cá vắng tăm / Chuồng gà
vắng trứng, buồng tằm vắng tơ. Các chị em và bà con nông dân ở những vùng sát địch thương
Bác lo nghĩ trăm đường nên để có thóc gạo nuôi quân đã phải cấy vội, gặt vội, cất giấu vội, đề
phòng địch cướp phá, khủng bố: Đồng Diên Canh cắt nhanh, giấu vội / Đồng Phú Nội cắt vội,
giấu nhanh / Bớ o, bớ chị, bớ anh / Lúa bên nách giặc ta giành về ta / Chờ ngày triêng nặng
gánh ra / Thuế ta đóng càng già thóc lương / Thương Cha lo nghĩ trăm đường / Việc nhà, việc
nước, chiến trường chưa yên; Nắng về cho lựu nở hoa / Người ra mặt trận thì ta ra đồng /
Người ra trận đổ máu hồng / Ta ra cánh đồng ta đổ mồ hôi / …Rằng Hồ Chủ tịch dạy ta / tăng
gia sản xuất cũng là đánh Tây...
Đối với anh chị em công nhân, Bác chăm lo đủ thứ: Bác Hồ yêu mến thợ thuyền / Bác lo
chăm sóc thường mọi người / Lo ăn, lo mặc, lo chơi / Lo chốn làm việc, lo nơi học hành / Bác
lo chăn ấm, áo lành / Bác dìu dắt thợ đấu tranh từng giờ...Hiểu tình yêu thương đó của Bác, thấm
nhuần lời dạy của Bác, Người công nhân như thấy mình tăng thêm sức mạnh nên càng hối hả tăng
gia sản xuất: Con nghe lời Bác vọng về / Rừng xanh nắng dậy, bốn bề gió reo / Con nghe đỉnh núi
lưng đèo / Tiếng than hối hả, sớm chiều khoan xoay.
1.2.3.3. Trong sinh hoạt
Trong bất cứ hoàn cảnh sinh hoạt nào, nhân dân cũng bày tỏ tình cảm của mình đối với
Bác: trong lớp học bình dân xóa nạn mù chữ, học viên là các ông các bà đã quá nửa đời sống
kiếp nô lệ lần đầu tiên được học chữ Cụ Hồ cũng có ca dao về Bác: Trường đây không ghế
không bàn / Chung dầu chung bấc chung đèn / Chung lòng thực hiện lời khuyên Bác Hồ; trong
phong trào trồng cây xanh: Một cây bạch đàn / Hai cây bạch đàn / Bác ơi quê cháu cả làng
trồng cây; lúc cả nhà thi đua kháng chiến kiến quốc: Hôm qua anh đến chơi nhà / Thấy mẹ dệt
vải, thấy cha đi bừa / Thấy nàng mải miết xe tơ / Thấy cháu i-tờ ngồi học bi bô / Thì ra vâng
lệnh Bác Hồ / Cả nhà yêu nước thi đua phen này; lúc khuyên bảo nhau sống sao cho xứng đáng
với lời dạy của Bác Hồ: Em ơi cố gắng thi đua / Đoạt giải Cụ Hồ mới thật là ngoan; Cụ Hồ
rông lượng anh ơi / Đừng theo giặc nữa kẻo đời nhuốc nhơ...lúc về thăm quê Bác: Bác ơi, nhà
Bác cũng nghèo / Quê hương Bác cũng như nhiều quê hương; Chõng tre Bác ngủ còn đây /
Ngọt lành nước lọc vẫn đầy chum xưa;...
Ngày 2-9-1969, Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta. Bác mất là một tổn thất lớn lao nhưng tên
tuổi và sự nghiệp của Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp của dân tộc. Trong dịp tang Bác, biết
bao bài ca thấm thía, xúc động lòng người: Bạc phơ mái tóc phong trần / Quên mình chỉ nghĩ
nhân dân đồng bào / Bác đi xa mãi rồi sao / Nghĩa sâu ơn cả thấm vào chúng con; Nhất xanh
là bạch đàn chanh / Bác đi để lại hương lành cho con / Nhất xanh là tán đa tròn / Bác đi để
bóng mát trùm nghìn sau / Nhất thẳng là ngọn phi lao / Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ;...
Tóm lại, ca dao về Bác ra đời trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Điều đó vừa phản ánh
hoàn cảnh sáng tác, môi trường diễn xướng của ca dao nói chung, ca dao về Bác nói riêng rất đa
dạng và sinh động vừa giúp người đọc hình dung được cuộc sống sinh hoạt, lao động, chiến
đấu của nhân dân trong giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc. Đồng thời, qua đây, chúng
tôi thấy có mối quan hệ giữa hoàn cảnh sáng tác và đối tượng sáng tác. Mỗi một môi trường,
một lĩnh vực có một số đối tượng nhất định. Hoàn cảnh càng phong phú thì đối tượng sáng
cũng phong phú không kém.
1.2.4. Số lượng
Dựa trên những tài liệu sưu tầm và giới thiệu mà chúng tôi đã nêu trong phần phạm vi
khảo sát, qua thống kê, loại bỏ những bài trùng lặp, chúng tôi thấy số lượng ca dao về Bác khá
phong phú, khoảng 521 bài, 59 dị bản. Tuy nhiên, theo người viết, đó chưa phải là con số cuối
cùng vì trong quá trình lưu truyền ca dao về Bác ít nhiều đã bị thất lạc và trong khả năng giới
hạn của mình, người viết vẫn chưa khảo sát hết được. Như lời của một nhà nghiên cứu cho rằng
“Ca dao về Bác như lá xanh trên rừng khó mà đếm hết và chính xác được. Đồng thời con số ấy
cũng cho thấy ca dao viết về Bác là một hiện tượng vô cùng độc đáo” [82, 7]. Sau khi thống kê
số lượng, chúng tôi đã tiến hành sắp xếp chúng theo thứ tự A,B,C. Những bài nào có dị bản,
chúng tôi chỉ xem như có một bài. Ví dụ:
1. Con ra thưa với Bác Hồ,
Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao.
Con ra thưa với Bác Hồ,
Đất này chỉ một lá cờ vàng sao.
2. Chúng con ở bốn phương trời
Quay về hướng Cụ muôn lời chúc mong
Dài lâu như núi như sông
Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con.
Chúng con ở bốn phương trời
Quay về hướng Bác muôn lời chúc mong
Dài lâu như núi như sông
Bác Hồ sống mãi trong lòng chúng con.
Một điều đặc biệt mà chúng tôi cũng xin được nói thêm. Ấy là trong rừng ca dao bao la
xanh tốt về Bác Hồ cũng thấy có nhiều tác giả kí tên. Tuy nhiên, những câu ca dao văn học đó
nhanh chóng được dân gian hóa bởi trước hết là do ngôn ngữ câu ca dao gần với tiếng nói của
nhân dân. Sau nữa là dù tác giả có là ai đi nữa Nguyên Hồ, Huyền Tâm, Bảo Định Giang, Minh
Hiệu...thì những bài ca sáng tác về Bác của các đồng chí, các anh chị dường như không còn
thấy bản sắc riêng của một ai cả. Tất cả đã hòa làm một và cùng mang cái tên chung là ca dao
của nhân dân về Hồ Chủ tịch. Mọi người đều thấy như của riêng mình và cũng đều thấy như
của chung tất cả [82,28].
Chẳng hạn bài cao dao sau:
Tháp Mười đẹp nhất bông sen,
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
Có thể nói đây là một trong những bài ca dao hay nhất trong toàn bộ ca dao về Bác Hồ.
Nhưng đến nay, có lẽ vẫn còn một số người không biết rằng ấy là của Bảo Định Giang.
Như đã nói trên , đã có cả một hệ thống ca dao lịch sử ghi lại tên tuổi, sự nghiệp, chiến
công của những con người như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung…Tuy nhiên, chỉ với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta mới sáng tác một lượng ca dao
ca ngợi nhiều đến thế, sâu đậm tình nghĩa đến thế. Ca dao ca ngợi các anh hùng dân tộc chủ yếu
nảy sinh từ quê hương và địa bàn hoạt động của họ rồi dần dần lan truyền sang các địa phương
khác nhưng ca dao về Bác lại khác: nó nở rộ khắp nơi. Trong “Cảm nhận nhân đọc ca dao về
Bác Hồ”, Trần Hữu Thung có viết : “Ca dao về Bác Hồ đúng là một hiện tượng đặc biệt của
dân tộc Việt Nam cũng đặc biệt như chúng ta có Bác, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc:
Hòa bình độc lập tự do
Nghìn năm ơn đức Cụ Hồ không quên.”
[82, 17]
Nguyễn Hằng Phương khi khảo sát các lời ca dao in trong cuốn ca dao Việt Nam 1945-
1975 đã phát hiện một điều thú vị. Đó là trong số 745 lời ca dao có 93 lời viết về đề tài Hồ Chủ
tịch ( chiếm tương đương 13%). Từ kết quả khảo sát ấy, tác giả cũng nhận xét rằng số lời ca
dao trực tiếp nhắc đến Hồ Chủ tịch chiếm một số lượng đáng kể. Điều đó nói lên sức hút mạnh
mẽ của đề tài Hồ Chủ tịch đối với chủ thể sáng tạo-tác giả dân gian. Vấn đề nảy sinh ở đây là :
tại sao đề tài Hồ Chủ tịch lại lôi cuốn đến như vậy? Và tác giả cũng cho rằng đó là do cảm hứng
sáng tạo của tác giả dân gian được khơi nguồn từ hiện thực cuộc sống mà đề tài Hồ Chủ tịch là
một “loại” hiện thực chân thực của giai đoạn lịch sử sinh động 1945-1975. Ở đây người viết
cũng hoàn toàn nhất trí với cách giải thích của tác giả bởi trong quá trình khảo sát mảng ca dao
về Bác, chúng tôi cũng đã nhận thấy điều đó. Chúng tôi xin dẫn vài ví dụ: trong 521 bài ca dao
về Bác có nhiều bài phản ánh chân thực giai đoạn lịch sử 1945-1975- một giai đoạn lịch sử vừa
đấu tranh vừa xây dựng đất nước và hình tượng Hồ Chủ tịch nổi lên như một mảng hiện thực
sinh động: Bác Hồ tranh đấu vì dân / Đã bao gian khổ phong trần vượt qua; Bác luôn chăm sóc
đến dân / Nhất là nông nghiệp ân cần hỏi han…
Nhưng dĩ nhiên làm sao chúng ta được đọc hết và nghe hết những bài báo tường, những
bản tin, những bài ca báng súng. Càng không thể nào nghe và ghi hết được những câu hát lên,
hò lên khắp các nẻo đường đất nước suốt hàng chục năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngay cả những người đã từng sưu tầm ca dao
về Bác như Trần Hữu Thung, Trần Quang Nhật cũng có nói như thế. Trần Hữu Thung cho biết
ngày ấy được nghe tiếng hò giữa đoàn dân công trên đường ra mặt trận ông cũng có phần coi
nhẹ. Mà nếu có gặp câu hay thì cũng làm sao mà ghi được trong đêm tối đường rừng? Ngày ấy,
được đọc trên báo tường của các đơn vị vệ quốc khi hành quân ghé nghỉ, ông cũng chưa có ý
thức nhặt lấy những câu hay. Giấy bút đâu mà chép cho xuể? …
Tóm lại, với số lượng 521 bài, ca dao về Bác là bộ phận chiếm số lượng tương đối lớn
trong ca dao hiện đại. Đồng thời, con số ấy cũng cho thấy truyền thống nhớ ơn của dân tộc là
truyền thống tốt đẹp xuyên suốt qua bao thế hệ, từ quá khứ đến hiện tại và chắc chắn sẽ còn tiếp
diễn trong tương lai.
Chương 2
THỂ THƠ VÀ KẾT CẤU CỦA CA DAO VỀ BÁC HỒ
Mảng ca dao về Bác tồn tại vững bền trong lòng dân tộc Việt Nam không chỉ ở mặt nội
dung mà còn nhờ vào hình thức nghệ thuật vô cùng đa dạng, phong phú và đặc sắc. Khi tiếp cận
ca dao về Bác, người viết nhận thấy bộ phận ca dao này vừa kế thừa vừa phát huy những yếu tố
nghệ thuật truyền thống của ca dao cổ truyền. Trước hết là ở thể thơ và kết cấu.
2.1. Thể thơ
Khảo sát ca dao về Bác Hồ, chúng tôi nhận thấy mảng ca dao này đã kế thừa hầu hết các
thể thơ của ca dao cổ truyền như lục bát, song thất lục bát và hỗn hợp. Chúng tôi đã tiến hành
thống kê tần số xuất hiện của các thể thơ, sắp xếp theo thứ tự giảm dần. Kết quả thể lục bát chiếm số
lượng nhiều nhất 427 bài, các thể song thất lục bát và thể tự do xuất hiện ít nhất rải rác từ 10 đến 35
bài.
Bảng thống kê tần số xuất hiện các thể thơ trong ca dao về Bác
STT Các thể thơ Số lần xuất hiện Tỉ lệ
Chính thể 386 74.1% 1 Lục bát Biến thể 41 7.9%
Chính thể 14 2.7% Song thất lục 2 bát Biến thể 21 4.0 %
3 Hỗn hợp 49 9.4%
4 Tự do 10 1.9%
TC 521 100%
2.1.1. Thể lục bát
Lục bát là thể thơ khá phổ biến trong ca dao về Bác nói riêng và ca dao Việt Nam nói
chung. Trong quá trình khảo sát mảng ca dao về Bác, chúng tôi thấy xuất hiện cả lục bát chính
thể và biến thể.
2.1.1.1. Lục bát chính thể
Nguyễn Xuân Đức đã đúc kết ý kiến của các nhà khoa học về đặc điểm chính của thể thơ
lục bát người Việt như sau: đơn vị hạt nhân của thể lục bát là 2 dòng (trên sáu, dưới tám); luật
bằng (B), trắc (T) trong cả hai dòng lục và bát vần bằng (có cả lục bát vần trắc nhưng số lượng
không đáng kể) phải đảm bảo 2B, 4T, 6B và 8B, như thế cũng có nghĩa là lục bát hiệp vần bằng
ở tiếng thứ 6 cả hai dòng; tiếng thứ 6 và 8 ở dòng bát tuy đều cùng vần bằng nhưng phải khác
thanh: hoặc là huyền- ngang, hoặc ngang- huyền (không có h-h, n-n); phần lớn lục bát ngắt
nhịp chẵn [ 21,1].
Trong số 427 bài làm theo thể lục bát, có đến 386 bài là lục bát chính thể, chiếm 74,1 %.
Tại sao đa số các lời ca dao về Bác lại được sáng tác theo thể lục bát? Ca dao về Bác đã kết
thừa trọn vẹn thể thơ này của ca dao cổ truyền. Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng thể thơ lục
bát trong ca dao cổ truyền chiếm hơn 90 %. Các nhà nghiên cứu ấy cũng đã đưa ra nhiều lí do
giải thích hiện tượng trên và đó cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự chiếm lĩnh ưu thế của
thể thơ này trong mảng ca dao về Bác.
Nguyễn Xuân Kính trong chuyên luận Thi pháp ca dao, xuất bản năm 1992 đến lần tái
bản gần đây nhất, năm 2004 cho rằng nhịp thơ lục bát uyển chuyển vô cùng kết hợp với cách
gieo vần khéo léo nên có khả năng diễn đạt được nhiều sắc thái tình cảm khác nhau của con
người, thể hiện các nội dung hết sức đa dạng của hiện thực. Với trường hợp ca dao về Bác,
người viết hoàn toàn tán đồng cách lí giải đó của tác giả. Bởi nhờ hình thức kết hợp đó mà
người đọc có thể cảm nhận được phong phú, đa dạng các sắc thái tình cảm mà nhân dân đối với
Bác.
Đó là nỗi nhớ nhung da diết, khát khao mong mỏi được gặp Bác. Niềm ao ước ấy đã bật
thốt lên thành lời Đêm qua nằm ngủ con mơ / Thấy tàu của Bác cập bờ cà Mau; Miền Nam
thương nhớ trông ra / Mong ngày chung hát bài ca: Bác về; Trông trời, trông đất, trông mây /
Trông ngày đón Cụ sum vầy Bắc Nam;…
Đó là cảm xúc vui mừng khi được gặp Bác. Được gặp Bác, được Bác về thăm là một
niềm vui sướng lớn của cuộc đời bởi vì được sống bên Bác dù chỉ trong một thời gian ngắn, ai
cũng cảm thấy ấm áp, yên lòng và như được tiếp thêm sức mạnh: Trông Cha biết mấy năm trời
/ Cha về là cả cuộc đời nở hoa; Bác về sung sướng biết bao / Tầng trên, tầng dưới, tầng nào
cũng vui / Vui vì được gặp mặt Người / Được trông thấy rõ nụ cười, nước da / Vui vì thấy Bác
đã già / Nhưng còn khỏe mạnh như là công nhân;Đời tôi được gặp Cha già / Như con được mẹ
mang quà về cho / Như cá gặp nước sông to / Như thuyền gặp được bến đò thân yêu;… Niềm
sung sướng của mọi người như òa vỡ, tràn trề vì niềm mong mỏi được một lần gặp Bác bấy lâu
nay đã thành sự thật. Chỉ cần trông thấy khuôn mặt, thấy nụ cười và nước da của Bác đã là vui,
là hạnh phúc. Càng hạnh phúc hơn khi thấy Người tuy già nhưng vẫn khỏe mạnh, dẻo dai.
Đó là tình cảm nhớ ơn thắm thiết mà nhân dân luôn hướng về Người, dành cho Người .
Nhân dân ơn Bác vì Bác đã mang đến cho họ cuộc sống ấm no, mang đến cái ăn, cái mặc, cái
chữ Cụ Hồ hơn mẹ, hơn cha / Ơn cao nghĩa cả gấp ba bốn lần; Đố ai lên được trời cao / Đố ai
đáp được công lao Bác Hồ; Đố ai múc hết nước sông / Đố ai chép hết được công Bác Hồ;
Ngày xưa, ngày xửa ngày xưa / Chữ nhất chẳng biết, chẳng ưa chữ nào / Chữ nào cũng đã
ngồi cao / Chữ ở quan lớn, chữ vào triều vua / Nặng tiền muốn chữ thì mua / Khố rách chỉ có
chút chua thôi mà / Từ ngày có cả sơn hà / Bác Hồ cho chữ đượm đà hương sen;…Ơn cha mẹ
đã cao, ơn Bác còn cao gấp ba bốn lần. Ơn ấy chẳng ai đo được, trả được, đếm được, kể được
hay chép hết được. Cho nên, nhân dân mãi mãi ghi sâu công ơn này Trăm năm bia đá thì mòn /
Ngàn năm ơn Bác vẫn còn ghi sâu; Trọn đời em cũng chẳng quên / Có Đảng, có Bác, em nên
thân người / Sao còn có lúc đổi ngôi / Ơn Đảng, ơn Bác đời đời ghi sâu;…
Rõ ràng, nhịp điệu uyển chuyển (dòng lục: 2/2/2, dòng bát: 2/2/2/2/) cùng với sự xen kẽ
của vần lưng và vần chân, vần bằng và vần trắc làm cho các câu thơ quấn quýt lấy nhau, câu nọ
kéo theo câu kia một cách liên tục như không thể cưỡng lại được. Và nội dung cứ thế mà tuôn
trào.
Và Nguyễn Xuân Kính cũng cho rằng vì sự không gò bó, không hạn chế về độ dài ngắn
của tác phẩm ( số lượng cặp lục bát tùy thuộc vào tác giả) nên thể thơ này đã diễn đạt được
phong phú các cảm xúc, thể hiện được đa dạng các nội dung. Trước cách mạng tháng Tám,
Nguyễn Đình Thi đã nhận xét về đặc điểm này như sau:“Dùng một hình ảnh, ta có thể ví lối thơ
Đường luật như một chiếc bình pha lê kết tinh trong suốt nhưng không đủ sức lôi cuốn của một
dòng sông. Thơ lục bát trái lại, vì hợp với tiếng nói nước ta hơn nên có thể dung được cảm
hứng tràn lan, đó là thể thơ ca hát, kể chuyện của dân chúng”[ 32, 219]. Đúng! Chính do khả
năng dung được nguồn cảm hứng tràn lan nên thể thơ này đã trở thành thể tiêu biểu nhất trong
ca dao Việt Nam nói chung và mảng ca dao về Bác nói riêng. Tìm hiểu một số ví dụ sau, ta dễ
dàng nhận ra điều đó.
Ví dụ 1: Ai ngoài muôn dặm trùng dương / Cùng thường nhận được tình thương Cụ Hồ;
Ai ơi đừng lấy chồng non / Chờ ngày độc lập lấy con Cụ Hồ; Anh là chiến sĩ Cụ Hồ / Đánh cho
Mỹ cút, cơ đồ mới êm;…Mỗi bài ca dao trên chỉ gồm hai dòng thơ và thường thể hiện một nội
dung. Như vậy, với số dòng ngắn gọn như thế thì ca dao chỉ có thể truyền tải nội dung một cách
cô đọng, súc tích và có giới hạn.
Ví dụ 2: Bác về năm ngoái năm xưa / Năm nay đất mỏ được mùa hoa than / Còi reo máy
hát trên tầng / Ước gì lại đúng mùa xuân Bác về. Với bốn dòng thơ, bài ca trên lại bao quát đến
hai nội dung: nhắc lại kỉ niệm năm nào Bác về thăm khu mỏ của công nhân; ước sao năm nay
Bác lại về đúng vào dịp mùa xuân, mùa “ hoa than” của vùng mỏ để giới công nhân có dịp dâng
lên Bác những thành quả mà cả đội đã gắng công, gắng sức thực hiện theo lời dạy “ tăng gia sản
xuất” của Bác trong suốt thời gian qua. Số lượng dòng thơ tăng cho phép tác giả dân gian của
bài ca dao trên diễn đạt được đầy đủ và phong phú các nội dung nêu trên.
Ví dụ 3: Ai về nhớ ghé Bạc Liêu / Ăn chùm nhãn ngọt chín riu mật vàng / Rồi xuôi xuống
chợ Cây Bàng / Đi thăm bãi cát trải vàng biển khơi / Ai xây, ai đắp, ai bồi / Công ơn của Bác
chói ngời Bạc Liêu. Bài ca dao vừa là lời mời gọi mọi người hãy đến thăm Bạc Liêu vừa là lời
ngợi ca công đức Bác Hồ. Bạc Liêu vừa có sản vật “ nhãn ngọt” đậm đà khó quên, vừa có
phong cảnh hữu tình “ bãi biển cát vàng” níu chân. Để rồi, nhân dân Bạc Liêu ai cũng như ai
đều khẳng định có được cuộc sống no đủ, tươi đẹp như thế là nhờ công ơn Cụ Hồ. Phải chăng
với sáu dòng thơ như trên thì người dân Bạc Liêu mới thổ lộ hết những tâm tình của lòng mình?
Ví dụ 4: Từ ngày giải phóng quê tôi / Mít- tinh lại họp, rợp trời cờ bay / Trẻ em đi học
ban ngày / Nhân dân đi cấy, đi cày mừng vui / Thuyền bè xuôi ngược, ngược xuôi / Có chè Phú
Thọ có sồi Bắc Ninh / Cây đa bóng mát đầu đình / Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng / Từ
nay mặc sức vun trồng / Nước giàu dân mạnh, vợ chồng ấm no / Hòa bình, độc lập, tự do /
Nghìn năm ơn đức Cụ Hồ không quên. Đến ví dụ này thì rõ ràng, chúng tôi hoàn toàn đồng tình
với ý kiến cho rằng sự không hạn chế về độ dài ngắn của tác phẩm đã giúp thể thơ lục bát diễn
đạt được phong phú các cảm xúc, đa dạng các nội dung. Bài ca dao gồm mười hai dòng miêu tả
niềm vui sướng khôn tả của nhân dân vùng mới được giải phóng. Tác giả dân gian đã khéo léo
lột tả hết được niềm sung sướng của mọi tầng lớp nhân dân: trẻ em không phải len lén học cái
chữ vào ban đêm mà nay hớn hở, tung tăng đến trường giữa ban ngày; nông dân mừng vui đi
cày, đi cấy trong tự do, làm chủ; thương lái nô nức ngược xuôi, xuôi ngược trao đổi, buôn bán.
Một không khí thanh bình, yên ả khắp xóm thôn: đa che bóng mát, lúa xanh ngoài đồng. Từ đó,
ai ai cũng hăng hái vun trồng, tăng gia sản xuất để được cuộc sống ấm no, dân giàu nước mạnh.
Niềm vui sướng ấy cứ lan tỏa từ câu nọ kéo sang câu kia như không muốn dứt. Để rồi cuối
cùng, nhân dân nhắc nhở nhau nghìn năm công đức Cụ Hồ không được quên bởi chính Người
đã mang đến cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, mang đến niềm vui cho mọi người.
Về hiện tượng gieo vần ở tiếng thứ tư của câu bát: ca dao về Bác cũng như ca dao cổ
truyền vẫn xuất hiện hiện tượng gieo vần này. Dĩ nhiên hiện tượng này là không nhiều. Nhưng
điều đó cũng đồng nghĩa ca dao cũ có những hình thức nào thì ca dao mới mà ca dao về Bác là
đại diện cũng xuất hiện những hình thức đó. Chẳng hạn: Ai về nhắn bạn đường xa / Nón đẹp
tỉnh nhà là nón Tam Dương / Kim Thành trồng mía làm đường / Đũi dẹt Cát Tường vừa ý
nhiều cô / Ai lên thưa với Bác Hồ / Quê em nghề phụ bốn mùa vui tươi; Cắn tay cho vọt máu
hồng / Vẽ đóa hoa hồng lên vách hầm gai / Nếu ta về với cỏ cây / Đất giữ hoa này dâng tặng
Cha ta;…. Ca dao hiện đại : Cô kia cấy lúa bên cồn / Tai nghe tiếng đồn, chữ nghĩa nhấp
nhem; Chùm gởi là gởi thân dâu / Dâu héo lá sầu dâu cũng héo theo;…
Trong công trình nghiên cứu về âm nhạc và dân gian “Bàn về lục bát và ca khúc Việt
Nam”, nhạc sĩ Phạm Quang Tuấn cho rằng nhịp lục bát rất đều đặn. Tuy nhiên, chính sự đều
đặn ấy lại làm cho thể thơ này trở nên đơn điệu, tẻ nhạt. “Nếu phải nghe cái nhịp đều đều này
mấy ngàn lần liên tiếp trong một tác phẩm lục bát dài thì quả là cực hình” [21,2]. Chúng tôi
không tán thành ý kiến đó của nhạc sĩ. Bởi chúng tôi nghĩ dường như tác giả chỉ nghiên cứu lục
bát như một thể thơ thuộc nghệ thuật ngôn từ thuần túy, tách khỏi nguồn gốc sinh thành của nó
là dân ca. Nhưng nếu Phạm Quang Tuấn hay một vài người khác có cho rằng thể lục bát có
phần đơn điệu, tẻ nhạt thì chính việc thay đổi vị trí hiệp vần trong ca dao lục bát sẽ mang đến
một trạng thái mới tránh được sự đơn điệu, tẻ nhạt ấy.
Ngoài ra, chính sự không gò bó, không hạn chế về độ dài ngắn của tác phẩm đã mang đến
cho ca dao về Bác một đặc điểm mà trong quá trình khảo sát người viết đã nhận thấy: đó là số bài
ca dao gồm hai dòng thơ ( một cặp lục bát) chiếm số lượng khá ít mà thường là nhiều hơn hai dòng.
Tiến hành thống kê tần số xuất hiện của các dòng thơ, chúng tôi thu được kết quả như sau.
Bảng thống kê tần số xuất hiện các dòng thơ trong các bài ca dao theo thể lục bát của ca
dao về Bác
Số bài Hai dòng Bốn dòng Sáu dòng Tám dòng Mười dòng Mười hai dòng trở lên TC Số lượng 79 113 76 40 35 43 386 Tỉ lệ 20.5% 29.3 % 19.7 % 10.3 % 9.1 % 11.1 % 100%
Nguyễn Xuân Kính đã thống kê trong số 973 bài ca dao theo thể lục bát trong cuốn Ca
dao Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, tần số xuất hiện các dòng thơ như sau:
Số lượng 620 242 70 21 12 8 973 Tỉ lệ 63 % 24 % 7 % 2 % 1 % ~ 1% 100 %
Số bài Hai dòng Bốn dòng Sáu dòng Tám dòng Mười dòng Mười hai dòng trở lên Tổng cộng
Nhìn vào kết quả bảng thống kê trên, ta thấy có sự tỉ lệ nghịch: số bài có số lượng dòng
càng ít thì tỉ lệ càng cao và ngược lại số bài có số dòng càng cao thì tỉ lệ càng thấp. Đơn cử, số
bài hai dòng số lượng là 620 bài tỉ lệ 63 % còn số bài từ mười hai dòng trở lên thì chỉ có 8 bài tỉ
lệ chưa đến 1 %.
Tiến hành so sánh với nghiên cứu của Nguyễn Xuân Kính, chúng tôi thấy có sự đối lập:
với ca dao trước cách mạng, số bài được sáng tác theo thể lục bát có số dòng là hai chiếm tỉ lệ
khá cao 63 %, số bài từ mười hai dòng trở lên chiếm gần 1%; trong khi đó ca dao về Bác số
bài có số dòng là hai chỉ chiếm 20.5 %, còn lại là nhiều hơn hai dòng, trong đó số bài từ mười
hai dòng trở lên chiếm 11.1%.
Bên cạnh đó, khi so sánh thể thơ lục bát trong mảng ca dao về Bác Hồ với thơ trữ tình
của bộ phận văn học thành văn thì lại thấy có sự tương đồng. Trong bài “Bước đầu tìm hiểu sự
khác nhau giữa ca dao và thơ lục bát”, Hoàng Tiến Tựu đã nhận xét: “…thơ lục bát của
Nguyễn Bính đều dài trên 20 dòng, có bài dài tới 220 dòng như Lỡ bước sang ngang; thơ lục
bát của Tố Hữu cũng tương đối dài: Đêm giao thừa 24 dòng, Bà má Hậu Giang 196 dòng, Bầm
ơi 86 dòng, Việt Bắc 296 dòng.” [32,81]
Song song đó, chúng tôi cũng tiến hành đối chiếu với tần số xuất hiện các dòng thơ trong
những bài ca dao theo thể lục bát của ca dao hiện đại
Ca dao về Bác Ca dao hiện đại
Số lượng 79 113 76 40 35 43 Tỉ lệ 20.5 % 29.3 % 19.7 % 10.3 % 9.1 % 11.1 % Số lượng 169 206 115 70 20 41 Tỉ lệ 27.2 % 33.2 % 18.5 % 11.3 % 3.2 % 6.6 %
Số bài Hai dòng Bốn dòng Sáu dòng Tám dòng Mười dòng Mười hai dòng trở lên Tổng cộng 386 100% 621 100 %
Từ sự so sánh với các nghiên cứu nêu trên, chúng tôi cho rằng mảng ca dao về Bác có sự
kế thừa, phát huy thể thơ lục bát trong ca dao cũ và tương đồng với ca dao mới. Lí giải hiện
tượng ca dao về Bác có số dòng nhiều hơn hai, chúng tôi tán đồng ý kiến: “Tính chất ngắn gọn
của ca dao là một đặc điểm chứ không hẳn là ưu điểm. Hiện thực thì phong phú, đa dạng,
nhiều khi phức tạp, tâm hồn, cảm xúc của con người cũng rất lắm cung bậc, trong khi đó dung
lượng của một lời ca dao rất hạn chế, số lời có từ hai cặp lục bát (bốn dòng) trở lên không
nhiều. Mỗi một lời chỉ phản ánh được một khía cạnh của hiện thực…” [32, 222]. Hơn nữa, tình
cảm của nhân dân đối với Bác thì lại vô cùng phong phú nên chỉ có những bài ca dao với số
lượng nhiều dòng thì mới thể hiện hết, bộc lộ hết. Ngoài ra, ca dao về Bác được sáng tác từ sau
cách mạng tháng Tám, lúc này chữ viết đã hình thành, nhiều bài ca dao được tác giả dân gian
sáng tác bằng hình thức viết rồi sau đó mới lưu truyền bằng miệng. Chính vì viết nên người
sáng tác có thời gian suy nghĩ thấu đáo, nảy sinh nhiều ý tưởng, nhiều nội dung vì thế mà số
lượng dòng thơ tăng lên. Ngược lại, trong xã hội cũ, đôi khi để ứng tác kịp thời trong lúc đối
đáp nên nhân dân khó có khả năng ứng tác một bài dài lên đến vài chục dòng thơ. Cho nên,
lượng bài trong ca dao cổ truyền có số dòng ít là đặc điểm phù hợp với hoàn cảnh sáng tác,
hình thức diễn xướng, đối đáp của người bình dân. Còn một đặc điểm nữa, theo người viết cũng
không kém quan trọng đó là ngày trước trong quan hệ nam nữ, tình yêu rất khó mở lời. Những
người yêu nhau thường bộc lộ tình cảm một cách kín đáo, tế nhị, bóng gió, xa xôi nên hình thức
bộc lộ thường dùng cách nói ẩn dụ mang tính chất ngắn gọn, cô đọng. Ngược lại, tình cảm của
nhân dân đối với Bác cũng như tình cảm đối với ông bà, cha mẹ, quê hương, đất nước là loại
tình cảm thiêng liêng, cao quí mà ai cũng có nhu cầu nói rõ, nói thẳng, nói trực tiếp không ngại
ngần. Phải chăng vì thế mà trong ca dao về Bác, lượng bài ca dao theo thể lục bát nhiều hơn hai
dòng xuất hiện với tần số dày đặc?
Tóm lại, về thể thơ lục bát, ca dao về Bác kế thừa dường như trọn vẹn đặc điểm của ca
dao cổ truyền. Chỉ có điểm khác là các tác giả dân gian hiện đại thường sáng tác các bài ca dao
có số lượng nhiều hơn hai dòng để có thể diễn tả được hết những điều muốn gửi gắm đến Bác.
2.1.1.2. Lục bát biến thể
Ở đây người viết chọn cách hiểu của Mai Ngọc Chừ: “ Lục bát biến thể ở đây được quan
niệm là những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng không khít khịt trên sáu dưới tám mà có
sự co giãn nhất định về số lượng âm tiết.”[32, 222].
Ca dao về Bác Hồ cũng có một số lời lục bát biến thể, trong đó khuôn hình về vần vẫn
được giữ, còn số tiếng trong mỗi lời thơ có thể thay đổi. Đúng như phân loại của Mai Ngọc
Chừ, lục bát biến thể ở đây có ba loại: Dòng lục thay đổi, dòng bát giữ nguyên:
Dân Cụ Hồ chỉ một lời thề (7 tiếng)
Mạng thì đổi mạng bám quê đến cùng. (8 tiếng)
Dường như, dòng lục của bài ca dao trên phải đến 7 tiếng thì mới diễn tả đầy đủ, trọn vẹn
lời thề của nhân dân trong quyết tâm đánh giặc, giữ làng, giữ nước. Nếu bớt đi bất kỳ từ nào
của dòng lục để giữ đúng khuôn hình của dòng lục là sáu tiếng thì nội dung, ý nghĩa của dòng
thơ cũng sẽ thay đổi. Cho nên việc thay đổi số lượng âm tiết ở đây là có cơ sở chính đáng.
Dòng lục giữ nguyên, dòng bát thay đổi:
Dù cho Mỹ Diệm ỳ ra (6 tiếng)
Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải thành công. (14 tiếng)
Dòng bát thay đổi dài đến 14 tiếng nhằm đề cao, khẳng định sự lãng đạo sáng suốt của
Bác. Có Bác chắc chắn con đường cách mạng sẽ thành công, nước nhà sẽ thống nhất. Nhân dân
ta tin tưởng mạnh mẽ, mãnh liệt vào điều đó.
Sài Gòn rực đỏ cờ sao (6 tiếng)
Miền Nam giải phóng càng nhớ công lao Cụ Hồ. (10 tiếng)
Thêm một lần nữa, việc kéo dài số tiếng ở câu bát nhằm nhấn mạnh lòng biết ơn của
nhân dân miền Nam đối với Bác.
Cả hai dòng đều thay đổi:
Sông không khô nhờ nguồn dự trữ nước (8 tiếng)
Việt Nam mạnh giàu nhờ phước Cụ Hồ cho. ( 9 tiếng)
Số tiếng của hai dòng thơ kéo dài hơn 6 – 8 cùng với hàng loạt các thanh bằng như kéo
dài nguồn nước dự trữ của dòng sông, như mở rộng phước đức của Cụ Hồ đối với nhân dân
Việt Nam.
Con chim không ăn quả hai cành (7 tiếng)
Miền Nam sau trước vẫn giữ tấm lòng thành với Đảng Bác kính yêu.
(14 tiếng)
Câu bát sử dụng đến 14 tiếng. Dụng ý của tác giả chính là khẳng định tấm lòng thành,
tấm lòng chung thủy, sắt son, không dời, không đổi của đồng bào miền Nam đối với Đảng, với
Bác kính yêu.
Cắt tấm lụa đào em đề ba chữ (8 tiếng)
Chữ trung với Bác, chữ hiếu với mẹ, chữ nghĩa với anh. (12 tiếng)
Dù xa xôi em vẫn giữ tấm lòng thành, (9 tiếng)
Có Bác chỉ đường dẫn lối thì hai đứa mình sẽ gặp nhau. (13 tiếng)
Trong ví dụ trên, các câu thơ dài quá khổ có tác dụng thể hiện đa dạng, phong phú tình
cảm của cô gái: trung với Bác, hiếu với mẹ, nghĩa với anh. Đặc biệt là câu bát thứ nhất gồm 12
tiếng chia đều cho ba đối tượng như muốn khẳng định tình cảm của cô gái dành cho Bác, cho
mẹ và cho anh là đồng nhau. Nhưng phải chăng cách sắp xếp theo thứ tự Bác đến mẹ rồi đến
anh như đã phần nào nói lên tình cảm của cô gái đối với Bác là nhất? Trong trường hợp của cô
ấy chúng ta sẽ hiểu, sẽ thấy suy nghĩ của cô gái là rất đúng trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Không
có Bác lãnh đạo, soi sáng con đường cách mạng, không có Bác dẫn đường chỉ lối thì mẹ với
con chắc gì được bên nhau, anh và em chắc gì sẽ gặp nhau?
Việc sử dụng lục bát biến thể trong diễn xướng là rất phổ biến. Người ta hát hò với nhau
cũng là đang trò chuyện với nhau, vì vậy, có thể kéo dài câu thơ để thể hiện rõ tâm tình của
mình. Lục bát biến thể trong ca dao về Bác thể hiện đa dạng và phong phú các nội dung khác
nhau. Nếu như cho đến nay các nhà nghiên cứu đã chỉ ra bốn chức năng của hình thức lục bát
biến thể trong việc thể hiện nội dung: chì chiết, đay nghiến, bộc lộ khó khăn; lòng quyết tâm
vượt qua trở ngại; châm biếm trào phúng và tranh luận đấu lí thì ở mảng ca dao này, người viết
thấy rằng nội dung thể hiện của chúng là nhằm khẳng định, khắc ghi công ơn to lớn của Bác đối
với nhân dân; niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo, chỉ đường của Bác; tấm lòng thủy
chung, trung thành của toàn dân với Đảng, với Bác kính yêu; đồng thời cũng thể hiện quyết tâm
của nhân dân vượt qua mọi khó khăn trở ngại để đi theo con đường mà Bác đã vạch ra…
Sự xuất hiện của lục bát biến thể cũng là nguyên nhân lí giải vì sao thể lục bát được nhân
dân ưa dùng hơn các thể khác. Việc kéo dài số tiếng (số chữ) giúp người sáng tác bộc lộ được
nhiều hơn rõ hơn những gì mà mình muốn gửi gắm qua ca dao.
Tóm lại, lục bát là thể thơ có nhạc tính cao, có lợi thế trong lựa chọn nhịp (chẵn/lẻ), trong
ứng dụng lại có khả năng lệch thể, biến thể khá rộng và linh hoạt trên nhiều phương diện (hiệp
vần, thay đổi số chữ trong mỗi dòng, số dòng trong mỗi đơn vị tác phẩm,…) đáp ứng được nhu
cầu biểu đạt sâu sắc, phong phú, đa dạng ý tình của người sáng tạo. Điều đó góp phần giải thích
trọn vẹn vì sao thể lục bát chiếm số lượng tuyệt đối trong ca dao truyền thống nói chung, ca dao
hiện đại mà tiêu biểu là ca dao về Bác nói riêng và đã tồn tại, phát triển hàng trăm năm nay
trong bộ phận văn học viết Việt Nam.
2.1.2. Thể song thất lục bát
Cũng như thể lục bát, song thất lục bát chia làm hai loại: chính thể và biến thể.
2.1.2.1. Song thất lục bát chính thể
Chúng tôi chọn ý kiến của Nguyễn Xuân Kính dưới đây để làm cơ sở khi khảo sát thể
Tác giả quan niệm rằng: “ một khổ thơ bao gồm bốn dòng ( hai dòng 7 tiếng + một dòng
song thất lục bát trong ca dao về Bác.
6 tiếng + một dòng 8 tiếng ) là đơn vị tế bào của thể song thất lục bát” [ 32, 248]. Về vần, chữ
cuối câu thất trên vần với chữ thứ 5 câu thất dưới, chữ cuối câu thất dưới vần với chữ cuối câu
lục, tiếng cuối câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát.
Như kết quả khảo sát ở bảng thống kê tần số xuất hiện các thể thơ trong ca dao về Bác
(trang 42), chúng tôi nhận thấy số lượng bài ca dao sáng tác theo thể song thất lục bát là chính
thể khá ít, chỉ có 14/521 bài, chiếm tỉ lệ 2.7 %. Kết qủa này hoàn toàn phù hợp với nhận định
của Phan Ngọc: “Giai đoạn từ năm 1932 đến nay: thể song thất lục bát thưa vắng trên thi
đàn.” [32, 247]. Mặc dù theo Phan Ngọc, cấu trúc từng khổ 7 + 7 + 7 + 6 + 8 tiếng cho phép
thể thơ này nói lên sự đi về của cảm xúc như những đợt sóng lên cao xuống thấp rồi lại dàn ra
đón lấy một đợt sóng khác nhưng sự xuất hiện của thể thơ này vẫn rất ít.
Đặc điểm của thể song thất lục bát là thường lặp đi lặp lại, cuộn trào như ngọn sóng, phù
hợp cho việc diễn tả tâm trạng buồn đau của nhân vật trữ tình. “Ở thể song thất lục bát hoàn
chỉnh, vần trắc và tiết tấu theo nhịp 3/4 của những câu bảy lại có khả năng nhiều hơn trong
việc diễn tả những tình cảm khúc mắc, những đau khổ uất ức…” [29, 480]
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân,
Nụ tầm xuân / nở ra xanh biếc,
Em có chồng / anh tiếc lắm thay
- Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu / biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng / biết thuở nào ra?
Đặc điểm này ta cũng thấy rất rõ trong thơ trung đại mà tiêu biểu là bản dịch “Chinh phụ
ngâm” của Đoàn Thị Điểm. Khúc ngâm đã diễn tả tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn,
buồn khổ như lời oán trách, than vãn, sầu muộn trong thời gian dài người chồng đi đánh trận,
không có tin tức, không rõ ngày trở về:
Trời thăm thẳm / xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng / đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun
Tuy nhiên thể song thất lục bát trong ca dao về Bác lại không diễn tả tâm trạng sầu khổ,
đau đớn, uất ức như trên mà ngược lại dùng để diễn tả niềm vui sướng: Đêm hai mốt nghe tin
đình chiến / Xưởng vang lên muôn tiếng reo hò / Lòng vui như thể mở cờ / Miệng không ngớt
tiếng : Bác Hồ muôn năm; niềm tự hào, tin tưởng vào sức mạnh của Đảng Bác, của nhân dân:
Đèn nào cao bằng đèn mặt trận / Sức nào mạnh bằng sức nhân dân / Theo lời Đảng Bác vùng
lên / Xây đời hạnh phúc hòa bình, ấm no; tinh thần khẩn trương sản xuất: Đồng Diên Canh cắt
nhanh dấu vội / Đồng Phú Nội cắt vội dấu nhanh / Bớ o, bớ chị, bớ anh / Lúa bên nách giặc ta
dành về ta; lòng biết ơn đối với Bác: Đồng nào cao bằng đồng Thi Phổ / Thổ nào cao bằng thổ
Ba Tơ / Ơn nào sâu bằng ơn Cụ Hồ / Nguồn bao nhiêu nước ơn Cụ Hồ bấy nhiêu; Đêm năm
canh em nằm em nghĩ / Ơn Bác Hồ ví tựa Bắc Sơn / Lòng em ghi tạc công ơn / Căm thù Mỹ
Diệm đánh lộn sòng trắng đen; Nam Hải sâu ta còn đo được / Trường Sơn dài ta vượt cũng qua
/ Công Hồ Chủ tịch bao la / Ơn Bác mãi mại dân ta ghi lòng; tình yêu thương thiết tha, trọn
vẹn của nhân dân miền Bắc dành cho Bác và cho miền Nam: Đây Tháp Rùa nhớ chùa Thiên
Mụ / Chợ Đồng Xuân nhớ chợ Bến Thành / Nhớ lời Bác dạy đinh ninh / Đồng quê, xưởng máy
nặng tình Bắc Nam / Tình Bắc Nam chứa chan, thắm thiết / Giục mỗi người làm việc bằng hai /
Đua nhau gái giỏi, trai tài / Thép gang vượt mức, lúa khoai được mùa.
Một điều đặc biệt ở mảng ca dao này là có sự xuất hiện của thể song thất lục bát có độ dài
từ hai khổ trở lên. Trong ca dao cổ truyền, Nguyễn Xuân Kính cho rằng “ Làm theo thể thơ
này, mỗi lời ca chỉ gồm một khổ (bốn dòng thơ); cực kì hiếm hoi nếu không muốn nói rằng
không có bài nào có từ hai khổ trở lên” [ 32,250]. Như vậy, sự xuất hiện này có thể xem là sự
đổi mới của ca dao hiện đại mà ca dao về Bác là đại diện. Nhân dân ta luôn có nhu cầu nói
nhiều về Bác. Dường như, Bác là đề tài không bao giờ dứt, không bao giờ cạn đối với nhân dân.
Cho nên, nếu chỉ dùng một khổ song thất lục bát thì e rằng khó mà diễn đạt hết cảm hứng đang
tuôn trào ấy. Thế nên, tác giả dân gian của bài ca sau đã vận dụng liên tiếp hai khổ:
Đây Tháp Rùa nhớ chùa Thiên Mụ
Chợ Đồng Xuân nhớ chợ Bến Thành
Nhớ lời Bác dạy đinh ninh
Đồng quê, xưởng máy nặng tình Bắc Nam.
Tình Bắc Nam chứa chan, thắm thiết
Giục mỗi người làm việc bằng hai
Đua nhau gái giỏi, trai tài
Thép gang vượt mức, lúa khoai được mùa.
Bài ca dao ra đời trong hoàn cảnh Bắc Nam còn chia cắt. Miền Bắc đang tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội còn miền Nam thì vẫn còn trong bom đạn của đế quốc Mỹ. Chính vì thế,
nhân dân miền Bắc luôn hướng về miền Nam ruột thịt như lời dạy của Bác Hồ: ra sức sản xuất
để trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam, giúp miền Nam giải phóng, thống nhất đất
nước. Có lẽ phải dùng đến hai khổ song thất lục bát như thế này thì nhân dân miền Bắc mới nói
hết tình cảm của mình dành cho Bác, dành cho miền Nam.
Hay bài ca sau cũng vậy.
Uống nước là nhớ đến nguồn
Cơm no, áo ấm nhớ ơn Bác Hồ
Ơn Bác Hồ sâu hơn Nam Hải
Công Bác Hồ bằng dải Trường Sơn
Nam Hải sâu ta còn đo được
Trường Sơn dài ta vượt cũng qua
Công ơn Bác Hồ bao la
Nhân dân ta kể đến bao giờ cho xong.
Tác giả dân gian đã khéo léo kết hợp khổ lục bát gián thất (hai câu lục bát rồi mới đến hai
câu thất) và khổ song thất lục bát để làm nổi bật truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân
tộc. Nguồn ấy chính là Bác Hồ. Ơn Bác Hồ sâu hơn biển, dài hơn núi. Biển sâu ta còn đo được,
núi dài ta vượt cũng qua nhưng công ơn của Bác thì chẳng biết đến bao giờ mới kể cho xong.
Có thể nói, thể song thất và lục bát kết hợp với nhau khiến cho tình cảm vốn đa chiều,
phức tạp được thể hiện có hiệu quả rõ rệt với cách nói đa giọng, nhiều cung bậc và gam màu.
Chính những đặc trưng của thể thơ góp phần thể hiện nội dung của bài ca dao được sâu sắc và
diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Một lần nữa, chúng ta lại thấy ca dao về Bác đã kế thừa ca dao cổ truyền về thể thơ -
song thất lục bát. Tuy nhiên, cái khung là song thất lục bát nhưng nội dung và giọng điệu hoàn
toàn mới, phù hợp với tình cảm của nhân dân dành cho Bác: vui sướng, hạnh phúc, tự hào khi
có Bác, tin tưởng, biết ơn vào sức mạnh và tình thương của Người.
2.1.2.2. Song thất lục bát biến thể
Người viết cho rằng song thất lục bát biến thể cũng như lục bát biến thể, đó là những câu
ca dao có hình thức song thất lục bát nhưng không khít khịt trên bảy bảy dưới sáu tám mà có sự
co giãn nhất định về số lượng tiếng.
Chu Xuân Diên cho rằng: “Ở những câu ca dao đã thành cổ truyền thì song thất lục bát
biến thể lại thường có dụng ý rõ rệt về mặt nghệ thuật, làm tăng sức mạnh thể hiện của nội
dung lên” [ 29, 482]. Song thất lục bát biến thể trong ca dao về Bác cũng có tác dụng đó. Có
hai dạng song thất lục bát biến thể:
- Dạng thứ nhất: biến thể ở cặp lục bát:
Núi Trường Sơn không sờn mưa nắng ( 7 tiếng )
Biển Thái Bình chắc chắn không khô ( 7 tiếng )
Nước ta đã có Bác Hồ ( 6 tiếng )
Hỡi toàn dân đứng lên kháng chiến xây dựng cơ đồ Việt Nam. (13 tiếng)
Câu bát thay đổi từ 8 tiếng kéo dài ra đến 13 tiếng để diễn đạt đầy đủ lời kêu gọi toàn dân
đứng lên kháng chiến.
- Dạng thứ hai: biến thể ở cặp song thất:
Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn ( 7 tiếng )
Cửa Hàm Luông mây cuốn cánh buồm xuôi ( 8 tiếng )
Hương sen tỏa khắp đất trời ( 6 tiếng )
Bác ơi, tên Bác sáng ngời miền Nam. ( 8 tiếng )
Câu thất thứ nhất giữ nguyên, câu thất thứ hai thay đổi. Việc thay đổi số tiếng ở đây là để
diễn tả nội dung cho trọn vẹn.
Chiến thắng quê ta vang trời dậy đất ( 8 tiếng )
Năm châu bốn biển tới tấp chào mừng ( 8 tiếng )
Nghe lời Bác dạy dốc lòng ( 6 tiếng )
Chiến công nối tiếp chiến công rộn ràng. ( 8 tiếng )
Cả hai câu thất đều thay đổi số tiếng nhằm kéo dài niềm vui chiến thắng, mở rộng niềm
tự hào đến bốn biển năm châu.
Bạc Đông Dương kẻ thương người ghét (7 tiếng)
Bạc Cụ Hồ kẻ nhét người thu (7 tiếng)
Già tay thêm nặng oán thù (6 tiếng)
Dù là bay có xé hết, thì đã có chiến khu ta chở về. (13 tiếng)
Câu cuối đến 13 tiếng như lời thách thức của quần chúng nhân dân đối với kẻ thù: Dù kẻ
thù có cấm dân ta sử dụng bạc Cụ Hồ, dù có xé hết bạc Cụ Hồ nhân dân vẫn không sợ, vẫn
không sử dụng bạc Đông Dương. Giọng điệu không chỉ thách thức mà còn là giọng oán ghét
tận cùng bọn thực dân cướp nước, muốn đồng hóa dân ta.
Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy thể song thất lục bát biến thể chiếm 21/521 bài, tỉ lệ 4 %.
Như vậy, số lượng bài song thất lục bát biến thể còn nhiều hơn cả song thất lục bát chính thể
(14/521). “Trong thời hiện đại, thể song thất lục bát hướng theo truyền thống trở nên giảm sút
về sức sống, ít có cơ hội hòa nhập vào đời sống chung của thơ ca” [73,209] . Phải chăng vì lí
do trên mà để tồn tại được, thể song thất lục bát buộc phải phá vỡ khuôn hình xưa nay của
mình?
Tóm lại, sự xuất hiện của song thất lục bát biến thể một lần nữa nói lên sự đa dạng của
các thể thơ trong mảng ca dao về Bác. Các tác giả dân gian khi bộc lộ tình cảm của mình đối
với Bác, luôn tìm tòi, khám phá và kết hợp khéo léo các thể thơ để có thể diễn đạt một cách đầy
đủ nhất những khía cạnh tình cảm của cá nhân nói riêng và của quần chúng nhân dân nói chung.
Chính điều đó góp phần làm cho bộ phận ca dao về Bác sinh động và tồn tại lâu dài hơn trong
lòng nhân dân.
2.1.3. Thể hỗn hợp
Hỗn hợp là sự kết hợp các thể thơ lại với nhau nhằm diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc
của nhân vật trữ tình. Trong ca dao về Bác, số bài được sáng tác theo thể hỗn hợp có 49/521,
chiếm 9,7 %. Sự hỗn hợp này cũng khá đa dạng. Tuy nhiên qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy
hình thức kết hợp chủ yếu của thể hỗn hợp trong mảng ca dao này là sự kết hợp giữa thể thơ
bốn hoặc năm chữ (thể vãn) với thể lục bát . Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu một số trường hợp:
Ai ra Việt Bắc
Xa lắc xa lơ
Đường đi ngoéo ngoắc
Lòng thành son sắt
Vắn tắt đôi lời
Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe vui tươi
Dắt dìu kháng chiến, dành độc lập cho người Việt Nam.
Bài ca dao trên gồm năm câu bốn chữ và một cặp lục bát biến thể. Sự luân phiên thay đổi
luật bằng trắc của thể thơ bốn tiếng (tiếng thứ 2 bằng thì tiếng thứ 4 trắc; ngược lại, tiếng thứ 2
trắc thì tiếng thứ 4 bằng) đã tạo cho bài ca dao có âm điệu trầm bổng, cân xứng, hài hòa, nhịp
nhàng. Bên cạnh đó, việc kéo dài hơn số tiếng quy định của hai câu lục bát biến thể cho phép
người viết diễn đạt nhiều hơn, đầy đủ hơn những gì muốn gửi gắm. Như vậy, tác dụng của bài
ca dao theo thể hỗn hợp này đúng như nhận định của Chu Xuân Diên “Trong những trường
hợp này, tiết tấu và âm điệu phong phú của câu thơ có khả năng diễn tả được những cung bậc
và sắc thái khác nhau của tình cảm” [ 29, 480]. Sắc thái tình cảm của bài ca dao trên chính là
tấm lòng của nhân dân hướng về Bác, chúc Bác, mong Bác mạnh khỏe để dắt dìu kháng chiến,
đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ toàn thắng, vinh quang.
Còn đây là bài ca dao kết hợp giữa thể vãn 5 và thể lục bát:
Đường vào Nam trục trặc
Đường ra Bắc gập ghềnh
Ai đi mà gửi lúa mình
Đem ra nhờ Cụ trao tình quân dân.
Tương tự như vãn 4, trong vãn 5, âm điệu cho bài thơ thường được tạo nên bởi sự luân
phiên thay đổi luật bằng trắc ở tiếng thứ 2 và thứ 5 của mỗi dòng. Sự tiếp nối hai thanh bằng
trắc, trắc bằng của hai câu năm tiếng cùng với nhịp (2/2/2-2/2/2/2) của cặp lục bát đã tạo nên
nhạc điệu đều đặn, nhịp nhàng cho bài ca dao. Nhịp điệu ấy diễn đạt những cảm xúc nhẹ nhàng,
êm ái mà cụ thể ở bài ca dao này là tình cảm chan hòa, gắn bó giữa nhân dân và Cụ Hồ, giữa
dân và quân.
Thể hỗn hợp trong ca dao về Bác đa số kết hợp theo hai hình thức trên: Con đò nho nhỏ /
Sóng đỏ phù sa / Nghe tin Bác đã đi xa / Đò chìm đáy nước, nắng nhòa bóng mây / Con đò nho
nhỏ / Nắng đỏ ngọn cây / Nghe tin Bác vẫn còn đây / Đò rời đáy nước chở ngay vào bờ; Cụ Hồ
với dân / Như chân với tay / Như chày với cối / Như cội với cành / Toàn dân dốc một lòng
thành / làm tròn nghĩa vụ đáp tấm tình của Cụ thương dân; Em yêu Bác Hồ / Em ghét tổng Ngô
/ Bác Hồ hiền lành / Tổng Ngô độc ác / Tổng Ngô như chim cắt / Bác Hồ tựa Thái Sơn / Chim
cắt chết yểu chết mòn / Thái Sơn muôn thuở vẫn còn Thái Sơn; Nhiều tay vỗ nên độp / Nhiều
cột dựng nên nhà / Dù cho Mỹ Diệm ỳ ra / Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà sẽ
thành công;…
Ngoài hai hình thức phổ biến trên, thể hỗn hợp trong ca dao về Bác còn có các hình thức
kết hợp khác. Trường hợp dưới đây gồm một câu năm tiếng, hai câu bốn tiếng và một cặp lục
bát. Kiểu kết hợp này cũng có tác dụng như hai hình thức kết hợp nêu trên:
Bước chân lên Đèo Cả
Trông sang Vạn Giã
Ngó lại Tu Bông
Miền Nam nhớ Bác vô cùng
Mong ngày đón Bác vào trong Khánh Hòa.
Một hình thức khác hay gặp của thể hỗn hợp là những cặp lục bát có xen vào hai câu thất.
Vị trí hai câu thất khá linh hoạt: khi thì hai câu thất nằm giữa hai cặp lục bát:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Công Bác Hồ hơn cha hơn mẹ
Công Bác Hồ trời biển không tày
Nhờ Bác ta có ruộng cày
Có manh áo mới, có đầy bát cơm.
khi thì hai câu thất đầu rồi đến các cặp lục bát:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công
Bác đi trăm núi ngàn sông
Bài ca đoàn kết hát cùng chúng con
Lời Bác dạy, tiếng nước non
Mở trang lịch sử, vang dồn chiến công
Đại đoàn kết, đại thành công
Chúng con xin nguyện một lòng nhớ ghi.
Dù ở vị trí nào thì tác dụng của hai câu thất cũng là nhằm nhấn mạnh nội dung được nói
đến. Ở ví dụ trước nhấn mạnh công ơn trời biển của Bác, ở ví sau nhằm nhấn mạnh tinh thần
đoàn kết của quân dân theo lời dạy của Bác.
Còn trong bài ca dao hỗn hợp dưới đây, mở đầu bằng hai cặp lục bát, kết thúc bằng một
câu lục và chính giữa là hai cặp lục bát biến thể. Bên cạnh nhịp điệu uyển chuyển của những
cặp lục bát, nhịp điệu ngân dài của những cặp lục bát biến thể rất tiện cho việc diễn tả được dễ
dàng, nhanh chóng và không gò bó nhiều tư tưởng tình cảm của nhân dân. Cụ thể, bài ca dao
nhằm nêu lên những khó khăn trùng điệp trong cuộc kháng chiến chống lại kẻ thù nhưng nhân
dân miền Nam vẫn thể hiện lòng quyết tâm vượt qua không vì gian nguy mà lùi bước để đáp lại
tình cảm và lòng mong muốn của Cụ Hồ:
Trời còn khi nắng khi mưa,
Miền Nam thương nhớ Bác Hồ không nguôi.
Dù cho vật đổi sao dời,
Bác Hồ như ánh mặt trời mùa xuân.
Đất Dương Hòa còn vang câu ca chiến thắng
Núi Hòa Mỹ còn nhớ khi gánh đạn khiêng bom
Ơn Cụ Hồ gắn bó tám chín năm tròn
Nay không vì gian nguy mà lùi bước
Sóng dập dồn mà nghỉ chân.
Tất cả các kiểu kết hợp trên đều nhằm một mục đích là diễn tả nội dung được đầy đủ và
phong phú. Bởi vì, mỗi một thể thơ đều có một công dụng riêng, nếu nhiều thể loại kết hợp với
nhau chắc chắn sẽ diễn đạt được nhiều khía cạnh nội dung khác nhau. Những khía cạnh tình
cảm của nhân dân đối với Bác vì thế mà thêm sâu sắc, đong đầy.
Nhìn chung, thể hỗn hợp trong bộ phận ca dao về Bác khá đa dạng, nhiều hình thức kết
hợp. Mỗi hình thức đều có tác dụng riêng, góp phần chuyển tải tốt nhất cho nội dung. Đồng
thời, qua sự kết hợp đó cho thấy tác giả dân gian cũng khá dụng công trong việc tìm tòi, sáng
tạo và vận dụng linh hoạt các thể thơ để thể hiện tình cảm của nhân dân đối với Bác.
Nếu như thể hỗn hợp trong ca dao cũ diễn tả những tình cảm khúc mắc, nỗi đau khổ uất
ức, những trở ngại, éo le, khó khăn trùng điệp trong tình yêu và thể hiện lòng quyết tâm vượt
khó thì thể thơ này trong ca dao về Bác cũng nói lên những khó khăn và quyết tâm vượt khó
nhưng lồng vào đó nội dung mới phù hợp với hoàn cảnh cuộc sống mới : vượt khó trong đấu
tranh chống đế quốc.
Tóm lại, ca dao về Bác kế thừa hầu hết các thể thơ của ca dao cổ truyền: lục bát, song
thất lục bát và hỗn hợp. Điều này đã khẳng định sự linh hoạt của các tác giả dân gian hiện đại
trong quá trình sáng tác. Trước hết là thể thơ lục bát, số lượng nhiều nhất đã nói lên được vị trí,
tầm quan trọng không thể thiếu trong ca dao cũ cũng như ca dao về Bác. Tiếp đến là việc vận
dụng thể song thất lục bát và sự kết hợp khéo léo thể hỗn hợp đã diễn tả phong phú các sắc thái
tình cảm của nhân dân. Hay nói cách khác, vai trò chính của các thể thơ là góp phần làm nổi bật
những nội dung chủ yếu của bộ phận ca dao về Bác.
Bên cạnh sự kế thừa là sự phát huy và đổi mới. Ca dao về Bác đã mượn hình thức ca dao
cũ nhưng lại lồng vào đó nội dung mới phù hợp với cuộc sống mới. Việc thể thơ lục bát có số
dòng nhiều hơn hai cũng đã nói lên sự đổi mới của ca dao hiện đại mà ca dao về Bác là đại
diện. Hoàn cảnh xã hội thay đổi, chữ viết xuất hiện, một số bài ca dao xuất hiện dưới dạng chữ
viết rồi sau đó mới lưu truyền bằng miệng. Tác giả dân gian hiện đại có thời gian suy nghĩ
nhiều hơn, ý tưởng nảy sinh, nhiều nội dung cùng lúc xuất hiện…Đặc điểm này dẫn đến sự đổi
mới tất yếu của ca dao hiện đại: số lượng bài ca dao lục bát nhiều hơn hai dòng thơ xuất hiện
với tần số dày đặc. Tuy nhiên, đổi mới dựa trên nền tảng cái cũ chứ không làm mất đi những
đặc điểm truyền thống của thể loại.
2.2. Kết cấu của ca dao về Bác Hồ
Nói đến kết cấu ca dao, nhiều nhà nghiên cứu dựa vào các tiêu chí khác nhau để phân
loại. Một số tác giả khác dựa vào các vế trong bài ca dao để chia ra các hình thức: đối đáp một
vế, đối đáp hai vế, đối đáp nhiều vế… Dựa vào tiêu chí có hoặc không có đối thoại, trong luận
văn, chúng tôi đề cập đến kết cấu đối thoại, kết cấu trần thuật; dựa vào tiêu chí có hoặc không
có đối lập, chúng tôi chia ra kết cấu đối lập và kết cấu song hành tâm lý; dựa vào tiêu chí cách
diễn đạt ý tưởng của tác giả, chúng tôi phân thành hai loại: kết cấu thu hẹp dần hình tượng và
kết cấu miêu tả trực tiếp.
2.2.1. Kết cấu đối thoại và kết cấu trần thuật
2.2.1.1. Kết cấu đối thoại
Ca dao sinh ra, tồn tại, truyền đi và biến đổi chủ yếu là thông qua sinh hoạt dân ca. Chính
vì vậy mà trên phần lớn ca dao trữ tình còn in rất rõ khuôn dấu của dân ca. Khuôn dấu ấy là lối
đối đáp, do các kiểu hát tập thể (ghẹo ví, trống quân, cò lả, phường cấy, phường vải, quan
họ…) của dân tộc ta mà có. “Hát đối đáp là nói chuyện bằng lời thơ, điệu hát giữa đôi trai gái,
giữa hai họ, hai phường…” [16,10]. Chính lối đối đáp ấy tạo nên kết cấu đối đáp (đối thoại)
trong ca dao. Có hai dạng: đối đáp một vế và đối đáp hai vế. Đối thoại một vế là chỉ có người
đối mà không có người đáp hoặc người đáp có mặt ở đấy nhưng im lặng không trả lời. Đối
thoại hai vế là có cả người đối - người đáp, người hỏi - người trả lời.
Hình thức đối đáp thể hiện rất rõ trong ca dao cổ truyền, nhất là trong các cuộc đối đáp
giao duyên nam nữ. Trong ca dao dân ca cổ truyền về tình yêu nam nữ, đa số các câu hát của
chàng trai và cô gái được kết cấu theo lối đối thoại giữa hai nhân vật ấy. Cách xưng hô hay
được dùng nhất là “mình – ta”, “anh – em”, “thiếp – chàng”…và những hình ảnh tượng trưng:
“mận – đào”, “thuyền – bến”, “rồng – mây”, “trúc – mai”, “loan – phượng”,…Trước hết là hình
thức đối thoại có đủ cả hai vế (có người hỏi và có người đáp): - Gặp đây mận mới hỏi đào: /
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? - Mận hỏi thì đào xin thưa: / Vườn hồng có lối nhưng chưa
ai vào; - Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng: / Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng? / - Trầu
vàng nhá với cau xanh / Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời…
Tuy nhiên nhìn chung, hình thức đối thoại chủ yếu vẫn là đối thoại một vế (chỉ có người
đối mà không có người đáp): Đường xa thì thật là xa / Mượn mình làm mối cho ta một người /
Một người mười chín đôi mươi / Một người vừa đẹp vừa tươi như mình; Thuyền về có nhớ bến
chăng? / Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền…
Rất nhiều những câu mở đầu của ca dao về tình yêu nam nữ là những lời nhân vật “chàng
trai” và “cô gái” hoặc tự nói về mình hoặc nói về người đối thoại với mình trong cái dạng đối
đáp ấy: Anh chờ em từ thuở mô tê…, Em là con gái Kẻ Mơ…, Em thấy anh em cũng muốn
chào…, Em về thưa mẹ cùng cha…, Chàng về thiếp cũng xin về…, Mình về ta chẳng cho về…,
Mình rằng mình chỉ lấy ta…, Đôi ta như thể con tằm…, Đấy vàng đây cũng đồng đen…, Đấy
với đây chẳng duyên thì nợ…
Mảng ca dao về Bác cũng vận dụng linh hoạt kết cấu đối thoại này. Tuy nhiên, không
như ca dao xưa, nhân vật đối đáp thường là chàng trai và cô gái, đối tượng đối thoại trong ca
dao về Bác được mở rộng: chàng trai – cô gái, mẹ - con, vợ - chồng, người dân – Bác, người
dân – người dân, anh lính – Bác, anh lính – anh lính;… Chính đối tượng thay đổi dẫn đến cách
xưng hô cũng thay đổi. Cách xưng hô hay dùng nhất trong mảng ca dao này là: mẹ - con, chúng con
– Bác, chúng cháu – Bác, Cháu – Bác, con – Bác, anh – em, tôi – anh,… Cũng như ca dao xưa, lối
đối thoại trong ca dao về Bác chủ yếu là hình thức đối thoại một vế. Đây là lời người mẹ nói với con
khi tiễn con tập kết ra Bắc:
Con ra thưa với Bác Hồ,
Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao.
Thoạt nghe qua bài ca dao, có lẽ người đọc dễ nhầm tưởng đây là bài ca dao theo kết cấu
trần thuật miêu tả. Thế nhưng khi dựa vào từ xưng hô “con” trong văn bản, chúng tôi cho rằng
đây có thể là cuộc đối thoại giữa hai mẹ con. Dù không xuất hiện lời đáp của nhân vật người
con nhưng chúng ta vẫn biết rằng người mẹ miền Nam ấy đang nhắc nhở con khi ra Bắc, gặp
Bác Hồ nhất định phải nói cho Bác hiểu tấm lòng thủy chung, trung thành của của đồng bào
miền Nam, dù xa xôi cách trở nhưng vẫn luôn hướng về ngọn cờ cách mạng mà Đảng, Bác đã
đề ra.
Để phân biệt với kết cấu trần thuật, khi khảo sát các bài ca dao theo hình thức kết cấu đối
thoại một vế, chúng tôi thường căn cứ vào từ xưng hô trong văn bản mà từ đó xác định đối
tượng đối đáp. Chẳng hạn, ở ví dụ sau là lời của cô gái nói với chàng trai khi tiễn chàng trai ra
trận:
Anh đi gìn giữ nước non,
Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ.
Anh đi ra lính Cụ Hồ,
Đò xưa bến cũ đợi chờ đón anh.
Nhân vật đối thoại trong bài ca dao trên chính là nam và nữ, những người đang yêu nhau.
Đây là lời ru con mà cũng là lời tâm sự của mẹ: mong muốn đời con sẽ ấm no, hạnh phúc, vui
tươi hơn dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ kính yêu:
Con ơi con ngủ đi con
Thương con mẹ giữ lòng son đợi chờ.
Con ơi con chớ có hờn,
Bác Hồ đã dặn mẹ còn tăng gia…
Còn ở những ví dụ sau đây có lẽ là lời người dân với người dân. Họ đối thoại với nhau,
nhắc nhở, khuyên bảo, động viên nhau trong mọi việc: Ai ơi đừng lấy chồng non / Chờ ngày
độc lập lấy con Cụ Hồ; Anh về giã gạo Ba Giăng / Em lên gánh nước Cao Bằng về ngâm /
Đến ngày mười chín tháng năm / Gói thành đôi bánh đem dâng Bác Hồ; Mấy cô gánh lúa đi
mô? Rằng em gánh lúa nuôi quân Cụ Hồ; Em ơi, cố gắng thi đua / Đoạt giải Cụ Hồ mới thật là
ngoan; Anh ơi tôi nhắn câu này…; Tôi là anh lính coi kho…; Tôi là vận tải dân quân;…
Hình thức đối thoại có đủ cả hai vế cũng thấy xuất hiện trong một số bài. Trước hết là lời
đối thoại giữa dân ta và kẻ địch:
- Trước đây là cháu Bác Hồ
Bây giờ là cháu “cụ” Ngô rõ rồi.
- Ai thèm làm cháu thằng Ngô
Còn vài năm nữa Bác Hồ vô đây.
Đó là lời đối đáp giữa bọn tay sai của địch và thiếu nhi miền Nam. Dù bọn chúng có tác
động tinh thần đến đâu các em vẫn quyết giữ vẹn tình cảm của mình cho Bác.
- Lấy lính quốc gia vàng đeo đầy cổ
Lấy lính Cụ Hồ chịu khổ muôn năm.
- Lấy lính quốc gia vàng đeo có lúc
Lấy lính Cụ Hồ rực rỡ muôn năm.
Trên đây là cuộc đối đáp giữa chị em tham gia biểu tình và bọn lính Ngụy. Qua lời đối
đáp ấy, ta thấy tinh thần, ý nguyện của toàn dân luôn hướng về Cụ Hồ.
Sau đó là người dân đối đáp với nhau. Cuộc hỏi đáp giữa một một cán bộ trong tổ dân
công và một ông lão hăng hái tham gia dân công: - Cụ ơi là cụ / Mắt cụ đã mờ / Chân cụ đã rũ /
Cháu rồi con từng đàn từng lũ / Cả xóm làng đông đủ đi đây / Cụ hờn chi mấy thằng Tây / Mà
cũng nững cũng sọt ra đây cho mệt nào? / - Con lão cũng đi / Dâu lão cũng đi / Cháu lão cũng
đi đây / Nhưng muốn trông mặt thằng Tây / Coi cái tài ông Giáp / Và gọi là đền đáp / Chút
nghĩa Cụ Hồ / Lão đan vồi vội đôi bồ / Sắm sanh cái gậy / Lão do hò lão đi.
Dù là lời của một hay hai người (một vế hay cả hai vế đối đáp), dù bóng gió xa gần, ví
von đến đâu, chúng ta vẫn thấy thấp thoáng hai nhân vật đang nói chuyện với nhau. Rất nhiều
những câu mở đầu của ca dao về Bác là những lời của hai nhân vật “ hoặc tự nói về mình hoặc
nói về người đối thoại với mình trong cái dạng đối đáp ấy” [29, 485].
Tóm lại, kết cấu đối thoại giúp người đọc hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn tình ý của từng người,
không phải là sự diễn đạt mơ hồ chung chung mà rất cụ thể, gắn với từng đối tượng. Ca dao về
Bác có cả các hình thức đối thoại một vế, hai vế như ca dao xưa nhưng đối tượng đối đáp được
mở rộng ra. Đó là sự kế thừa và đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Hơn nữa, kết cấu này
còn giúp người đọc hình dung và cảm nhận thế giới nhân vật trong mảng ca dao về Bác khá
sinh động và phong phú; hoàn cảnh diễn xướng thì đa dạng góp phần tái hiện lại một giai đoạn
lịch sử hào hùng của dân tộc.
2.2.1.2. Kết cấu trần thuật
Ngoài kết cấu đối đáp, ca dao về Bác cũng tiếp tục phát huy kết cấu trần thuật của ca dao
cổ. Qua khảo sát, chúng tôi thấy dạng kết cấu trần thuật chiếm số lượng nhiều nhất với 329 bài,
chiếm tỉ lệ 63.1 %.
Kết cấu trần thuật là kể, tả lại một sự việc hoặc một hiện tượng nào đó mà người sáng tác
đã chứng kiến, đã trải qua hoặc nghe kể lại. Trong mảng ca dao này, kết cấu trần thuật có rất
nhiều công dụng: từ việc miêu tả tình cảm của Bác đối với nhân dân và tình cảm của nhân dân
đối với Bác đến tường thuật lại những việc làm của Bác đối với dân và của dân đối với
Bác…Tuy nhiên, điều người viết tâm đắc nhất chính là nhờ có kết cấu này mà người đọc, người
nghe có thể hình dung và khái quát lại cả một chặng đường dài hoạt động cứu nước của Bác, cả
quá trình lãnh đạo, dìu dắt dân tộc Việt Nam kháng chiến như thế nào.
Hành trình dài của Bác có thể kể bắt đầu từ ngày Người từ Bến Nhà Rồng ra đi tìm
đường cứu nước. Ca dao đã kể lại thật xúc động cái ngày lịch sử ấy: Năm nào đất nước quặn
đau / Mênh mông sóng trắng chân tàu Bác đi; Thương nhà phải tạm rời nhà / Xa quê năm
tháng không nhòa tình quê / Hướng về đồng ruộng, bờ tre / Xót tình non nước bốn bề lao đao /
Bao phen sóng vỗ thuyền chao / Đinh ninh tấc dạ mai sau lại về; Nhà Rồng bến cũ tối tăm / Ra
đi cho sáng trăng rằm nước non / Nhìn về một dải giang sơn / Càng cao sóng biển căm hờn bấy
nhiêu; Nhớ đêm nổi sóng Nhà Rồng / Bến xưa sương gió bềnh bồng Người ra;…Đất nước đang
rên xiết, quặn đau dưới ách thống trị tàn khốc của kẻ thù. Xót xa trước tình cảnh ấy, Người
quyết ra đi tìm con đường để giải thoát cho quần chúng cần lao. Ngày ra đi thật buồn nhưng
“thương nhà phải tạm rời nhà”, Người như cố thu hết vào tầm mắt của mình hình ảnh của quê
hương đất nước “đồng ruộng, bờ tre”, gói gọn vào hành trang nhỏ bé của Người trên cuộc hành
trình dài đầy gian lao, vất vả. Những đêm đầu trên con tàu xa quê, sóng vỗ mạn tàu “bao phen
sóng vỗ thuyền chao” mà lòng Người như đang dậy sóng. Ngọn sóng nhớ thương đã chuyển
thành ngọn sóng của lòng quyết tâm, “đinh ninh tấc dạ mai sau lại về”.
Rời quê nhà đến với những vùng đất xa lạ, Người đã phải lăn lộn nhiều nơi, làm nhiều
nghề để sống, để tồn tại từ những công việc tay chân như rửa bát, phụ bếp, bồi bàn, cào tuyết
đến những công việc trí óc thư ký, dịch thuật, phóng viên…Người đều kinh qua. Ca dao cũng
đã thuật lại sống động những ngày dài gia khổ đó: Đêm dài thăm thẳm Châu Phi / Công Poanh
tuyết trắng, Pa-ri gió cồn / Sương mù mờ mịt Luân Đôn / Thương đôi dép nhỏ đã mòn chông
gai / Giữa trời băng giá Quảng Đông / Bác nhen nhóm ngọn lửa hồng mai sau; Nỗi lòng đau
đáu canh thâu / Trời Tây tuyết giá mây sầu tứ giăng / Tình dân dây đã buộc ràng / Nỗi riêng
gác lại gió sương quản gì / Con đường cứu nước nhiêu khê / Bồi bàn, quét tuyết, việc chi cũng
làm…
Và rồi trời chẳng phụ người có ý chí, nghị lực và lòng quyết tâm, trong gian khổ ấy,
Người đã tìm ra chân lí sáng ngời: đó là Chủ nghĩa Mác Lênin: Canh dài tâm sự ngổn ngang /
Đồng bào giai cấp, tìm đường tiến lên / Sáng lòng nhờ Mác – Lênin / Đầu rơi máu đổ vẫn tin
một ngày…/ Khắp nơi đỏ rực cờ bay / Bình minh xua bóng đêm dài tối tăm;…Từ ngày bắt gặp
tư tưởng Mác Lênin, Người nhận ra rằng đây chính là con đường giải phóng dân ta và Người
tin tưởng chắc chắn một ngày không xa “bình minh xua bóng đêm dài tối tăm”. Quả đúng như
vậy, áp dụng tư tưởng Mác Lênin vào công cuộc kháng chiến của dân tộc, nhân dân ta đã từng
bước giành lại độc lập chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Có kim chỉ nam dẫn đường
– chủ nghĩa Mác-Lê, Người đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến. Đầu tiên là thành lập Đảng
Cộng Sản Việt Nam vào ngày 2/3/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc: Đảng Cộng Sản – Hồ
Chí Minh / Sinh ra giữa buổi dân tình lao đao / Gió sương hôm ấy hôm nào / Chào đời giữa
khoảng mây sầu tứ giăng;…Đảng là tổ chức cao nhất lãnh đạo toàn dân kháng chiến.
Trong cuộc kháng chiến ấy, Người luôn song hành, theo sát nhân dân. Mọi đối tượng,
mọi giai cấp, mọi tầng lớp, Bác đều chỉ dẫn tận tình, thương yêu, lo lắng vô bờ: Cụ Hồ lo lắng
sớm chiều / Dân công vất vả bấy nhiêu thấm gì; Cụ Hồ lo lắng quanh năm / Anh đắp chăn ấm,
anh nằm chiếu êm / Cụ Hồ lo nghĩ ngày đêm / Cho anh Vệ quốc có thêm đôi giày; Bác Hồ yêu
mến thợ thuyền / Bác lo chăm sóc thường xuyên mọi người; Đường ra trận tuyến hôm nay / Bác
đang đạp núi tẽ mây đi cùng; Bác lo chăn ấm óa lành / Bác dắt dìu thợ đấu tranh từng giờ;…
Mọi nỗ lực của Bác, Đảng và toàn dân ta đã được đền đáp xứng đáng. Ngày 2/9/1945, tại
quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa: Đời đời ta nhớ Bác Hồ / Ba Đình một sớm – cơ đồ nghìn năm; Ba Đình Bác
đứng vẫy tay / Giục đàn con cháu ngày ngày tiến lên; Tháng tám một chín bốn lăm / Cách
mạng bùng nổ ầm ầm khắp nơi / Cờ sao vàng đỏ rực trời / Đưa đời nộ lệ sang đời tự do / Nhờ
ơn công đức Bác Hồ / Ơn Đảng Cộng Sản cứu cho dân mình;…
Tuy nhiên, trong những ngày đầu độc lập, đất nước ta còn nhiều vấn đề cần phải giải
quyết. Một trong những vấn đề cấp bách của chính phủ và toàn dân đó là diệt giặc đói và giặc
dốt. Bác đã kêu gọi mọi người “nhường cơm sẻ áo”, “tăng gia sản xuất” để cứu đói, kêu gọi
mọi người tham gia các lớp “bình dân học vụ” để xóa nạn mù chữ. Và nhân dân hưởng ứng lời
kêu gọi một cách tự nguyện, nhiệt tình. Ca dao đã kể lại sinh động và cụ thể các hoạt động đó:
Gạo này là gạo canh nông / Dậy mùi cơm mới trắng bông hoa nhài / Chữ đề nắn nót ngoài bì /
“Làm tăng năng suất theo lời Bác răng”; Làm dân một nước cộng hòa / Phải lo biết chữ mới là
đáng dân; Mỗi ngày hai nắm cỏn con / Nhiều ngày góp lại thành lon gạo đầy / Khi xưa cũng
lon gạo này / Góp phần đánh Nhật, đánh Tây tơi bời; Một cây làm chẳng nên non / Ba cây
chụm lại nên hòn núi cao / Một đồng chẳng đáng là bao / Nhiều người tiết kiệm gửi vào cũng to
/ Nhớ ghi lời dạy Bác Hồ / sản xuất, tiết kiệm phải lo thực hành / Chi tiêu kế hoạch nhớ dành /
Nước nhà đang lúc chiến tranh cần tiền / Tiền xây xã hội tiến lên / Tiền nơi tiền tuyến vang rền
chiến công / Ai ơi, tiết kiệm từng đồng / Góp phần xây dựng, góp công diệt thù;…
Đất nước chưa thoát đói nghèo, thực dân Pháp cay cú, bạo ngược quay trở lại xâm lược
nước ta lần hai. Bác lại cùng nhân dân tiếp tục cuộc kháng chiến đầy gian khổ. Thực dân Pháp
vừa rút lui, đế quốc Mỹ đã tràn vào. Con Người nhỏ bé kia lại phải trằn trọc bao đêm không
ngủ để lo cho vận mệnh của nước nhà. Mỹ Diệm tìm mọi cách hòng chia rẽ dân ta. Thế nhưng,
dù chúng có lắt léo đến đâu, xuyên tạc đến đâu nhân dân vẫn một lòng hướng về Đảng, Bác
kính yêu: Dù ai xuyên tạc lắt lay / Sắt son nguyện giữ lòng này sắt son / Ấu khoe ấu tròn / Bồ
hòn nào bồ hòn lại méo / Mỹ Diệm lắt léo nỏ ai nghe / Dù bay xuyên tạc chán chê / Đồng bào
vẫn nhớ Cụ Hồ thì trăm việc ngàn bề mới yên; “Cụ” Ngô là đứa mô mô / Dân ta chỉ biết Cụ Hồ
mà thôi; Qua cầu không khéo bổ trúc “Ngô” / Dòng nước trăm khe chảy về “Hồ”…
Thế nhưng, chưa kịp nhìn đất nước mừng vui trong ngày thống nhất, trong ngày đại
thắng, Người đã mãi mãi ra đi. Bác mất là một tổn thất lớn của dân tộc Việt Nam. Người ra đi
để lại bao nỗi đau thương trong lòng đồng bào cả nước. Ca dao cũng đã ghi lại những giây phút
nghẹn ngào ấy: Tang chung ảm đạm đất trời / Một lời Di chúc ngàn đời để thương / Hẹn lòng
giải phóng quê hương / Hai miền Tổ quốc sống chung một nhà / Đàn con nhớ mãi lời Cha /
Quyết tâm thống nhất sơn hà Việt Nam; Nước nhà kháng chiến lâu dài / Mong cho Nam Bắc
thống nhất một nhà vui thay / Thái Phiên nổi dậy đủ đầy / Tây Tàu Nhật Mỹ bỏ nước ta đây rút
về / Mấy mươi năm kháng chiến thật ghê / Tiếc thay sáu chín Cụ về thiên cung…
Tóm lại kết cấu trần thuật là kết cấu tiêu biểu nhất trong ca dao về Bác. Mục đích chính
của loại kết cấu này là thuật lại diển biến sự việc, tái hiện lại trạng thái của sự việc và nhân vật
góp phần giúp người đọc hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra với Người. Người đã đi đâu, làm gì,
cuộc sống ra sao… bằng kết cấu trên, ca dao đã kể lại tương đối đầy đủ và súc tích. Đồng thời,
tác giả dân gian cũng đã khéo léo vận dụng kết cấu trần thuật- cũng như kết cấu đối thoại - để
ghi lại sinh động một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc mà Bác là hình tượng trung tâm
trong suốt chiều dài lịch sử ấy.
2.2.2. Kết cấu đối lập và kết cấu song hành tâm lý
2.2.2.1. Kết cấu đối lập
Dựa vào tiêu chí có đối lập hoặc không có đối lập, người ta chia ra hai loại kết cấu: kết
cấu đối lập và kết cấu song hành tâm lý.
Đối lập là tương phản, là sự khác nhau về hoàn cảnh, thời gian, không gian, tình cảm,
tâm trạng…
Chúng tôi thấy kết cấu đối lập xuất hiện trong bộ phận ca dao về Bác tuy không nhiều
nhưng tác dụng lại không nhỏ. Số lượng bài ca dao được tác giả dân gian sáng tác theo kết cấu
này chiếm 26/521 bài, tỉ lệ 5%. Tuy số lượng ít nhưng các hình thức đối lập lại rất phong phú.
Thứ nhất là đối lập về mặt hoàn cảnh.
Với kết cấu đối lập, bài ca dao sau đã làm nổi bật sự tương phản giữa hai cuộc đời, hai
hoàn cảnh: cuộc đời lầm than của người dân mất nước trong xiềng xích nô lệ, dưới hai tầng áp
bức bóc lột của thực dân, phong kiến và cuộc đời độc lập tự do, hòa bình mà Bác và Đảng đã
dành lại cho đất nước:
Hai tay bưng bát cơm thơm
Con ơi, nhớ lấy công ơn Bác Hồ.
Nhờ ai khoai thúng đấy bồ
Nhờ ai ruộng đất cơ đồ về ta?
Non dài biển rộng bao la
Đời đời ơn Bác thiết tha mặn nồng.
Ngày xưa nước mắt lưng tròng,
Thương con khát sữa xót chồng ngược xuôi.
Bây giờ no ấm vui tươi,
Con đi bộ đội chồng ngồi ủy ban.
Ngày xưa đói rách cơ hàn,
Ruộng vườn chẳng có một gang cắm cày.
Bây giờ ruộng đất về tay,
Tăng gia sản xuất ơn này nhờ ai?
Ơn này mẹ để hai vai,
Một vai ơn Đảng, một vai Bác Hồ.
Rõ ràng chúng ta thấy ở đây một sự đổi đời tận gốc của người nông dân lao động, một
giai cấp chiếm đến chín mươi phần trăm dân số thời Pháp thuộc. Xưa, đói rách, cơ hàn, tủi
nhục. Nay, nhờ Đảng, Bác, không những có bát cơm ăn, tấm áo mặc no ấm, mà còn là người
làm chủ ruộng đồng, làm chủ đất nước, “con đi bộ đội, chồng ngồi ủy ban”, cùng nhau xây
dựng và bảo vệ cơ đồ. Chỉ nói việc học hành thôi cũng đủ thấy nhờ Đảng, Bác, người nông dân
lao động nghèo khổ ngày xưa chẳng biết đến một chữ nào nay đã thoát khỏi cảnh tối tăm để
vươn lên cuộc đời mới có ánh sáng văn hóa:
Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa
Chữ nhất chẳng biết chẳng ưa chữ nào
Chữ nào cũng đã ngồi cao
Chữ ở quan lớn, chữ vào triều vua
Nặng tiền muốn chữ thì mua
Khổ rách chỉ có nhút chua thôi mà
Từ ngày có cả sơn hà
Bác Hồ cho chữ đượm đà hương sen.
Những bài ca dao có cùng kết cấu đối lập: Nhớ xưa nợ gánh ba đời / Chiều ba mươi tết
mẹ ngồi nhìn con / Gánh cực mà đổ lên non / Co chân mà chạy cực còn chạy theo / Giờ đây hết
cực hết nghèo / Vui lên ra ruộng, mừng theo về nhà / Này con, này mẹ, này cha / Chiều ba
mươi tết một nhà ấm no / Qua sông nhớ bến nhớ đò / Ơn này nhớ đức Bác Hồ thương dân; Nhớ
xưa trời tối như bưng / Bán mặt cho đất bán lưng hco trời / Mồ hôi đổ xuống ruộng người /
Ôm rơm rặm bụng, gặt rồi tay không / Nằm mơ cũng chẳng dám mong / Bốn phía ruộng đồng
lắm lúc về ta / Mịt mờ cay đắng năm xưa / Còng lưng nuôi hắn tưởng là hắn nuôi / Quanh năm
nghèo rớt mồng tơi / Tưởng là tại số tại trời gây nên / Từ ngày xóm dưới làng trên / Tố ra hết
khổ vùng lên một lòng / Cụ Hồ mở mắt cho trông / Mới thấy ruộng đồng bốn phía của ta; Quê
em ngụy đến đóng đồn / Chuồng gà hết trứng, cây vườn héo khô / Từ ngày giải phóng đến giờ
/ Đồng hoang lúa mọc, bụi bờ cây xanh; Ngày xưa bưng bát cơm đầy / Nhớ thầy nhớ mẹ
phong sương cấy cày / Ngày nay bưng bát cơm đầy / Ơn Bác ơn Đảng ngày ngày không
quên;...đã giúp người đọc hiểu hơn, xót xa cho hoàn cảnh bị áp bức, bóc lột của nhân dân ta
dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến. Đồng thời người đọc cũng cảm thấy hân hoan,
vui mừng thay khi nhân dân dưới sự dẫn dắt của Đảng và Bác đã từng bước thay đổi, cuộc đời
đã sang trang mới.
Bên cạnh đối lập về hoàn cảnh, ca dao về Bác cũng kế thừa kết cấu đối lập về thời gian,
không gian của ca dao cổ truyền:
Khi đi không biết một nghề
Đường kim mũi chỉ khi về đã quen.
Khi đi lạ bến lạ thuyền,
Khi về chở lúa đồng chiêm đến tài.
Khi đi cày chẳng bằng ai,
Khi về cấy cả xóm Đoài chịu thua.
Năm năm làm lính Cụ Hồ,
Ruộng đồng sông nước bây giờ kém ai.
Với cặp từ đối lập chỉ thời gian “khi đi / khi về”, bài ca dao đã làm nổi bật sự khác nhau
đến mức tương phản trong nhận thức của người lính. Khi đi anh chẳng biết gì “ chẳng biết một
nghề, lạ bến lạ thuyền, cày chẳng bằng ai”, vậy mà khi về, sau năm năm làm lính Cụ Hồ, cái gì
anh cũng biết “ đường kim mũi chỉ đã quen, chở lúa đồng chiêm đến tài, cấy cả xóm Đoài chịu
thua”. Mục đích chính của tác giả dân gian khi vận dụng kết cấu đối lập ở đây không chỉ để nêu
bật sự tương phản trên mà qua đó muốn ca ngợi cái hay, cái tài của những anh lính Cụ Hồ.
Hay bài ca dao sau cũng thế. Sự đối lập của cặp từ “ ngày xưa / ngày nay” giúp cho
người đọc hiểu được tâm trạng của con người trong hai khoảng thời gian khác nhau. Ngày xưa,
dân công nghe đến rừng rú là sợ ma “chân tay bủn rủn, bạt vía xiêu hồn” nhưng ngày nay lại
khác, từ khi vâng lệnh Cụ Hồ, dân công phấn khởi, mạnh mẽ hơn “Vai gánh càng dẻo chân đi
càng bền”, hoàn thành tốt công việc của mình:
Ngày xưa nghe núi nhiều ma
Chưa vô cửa rú lòng đà thấy run
Chân tay bủn rủn bùn rùn
Bạt vía xiêu hồn nên ốm ngẩn ngơ
Ngày nay vâng lệnh Bác Hồ
Dân công dô hò bạt núi ta đi
Mấy năm kháng chiến trường kì
Vai gánh càng dẻo chân đi càng bền.
Song song với thời gian là đối lập về không gian:
Ngoài kia rồng lửa hiên ngang
Trong này bão nổi đập tan quân thù
Ai ơi uống nước nhớ nguồn
Miền Nam thắng Mỹ nhớ ơn Bác Hồ
Tuổi già tóc Bác bạc phơ
Vẫn luôn theo dõi từng giờ ta đi.
Cặp từ chỉ không gian đối lập “ngoài kia / trong này” đã hình thành nên kết cấu đối lập
của bài ca dao. Ngoài kia, chính là miền Bắc xa xôi. Còn trong này là miền Nam. Kết cấu đối
lập này giúp chúng ta hiểu hơn hoàn cảnh hai miền Nam Bắc trong giai đoạn chống đế quốc
Mỹ.
Bác Hồ trong trái tim dân,
Tuy xa nghìn dặm nhưng gần gần ghê.
Đây là bài ca dao của người dân Quảng Nam. Với người dân đất Quảng, về khoảng cách
địa lý thì đúng là Bác Hồ ở rất xa họ “xa nghìn dặm” nhưng về tình cảm thì ngược lại, Bác ở
rất gần bởi ai cũng đặt tình yêu thương Bác trong trái tim mình “ Bác Hồ trong trái tim dân”.
Cặp từ chỉ sự tương phản về không gian “ xa / gần” đã nhấn mạnh tình cảm đó của người dân
Quảng Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.
Những bài ca dao có kết cấu đối lập về thời gian, không gian: Đêm nay đứng giữa chiến
hào / Nghe lời Bác gọi dạt dào niềm tin / Ngày mai giải phóng quê mình / Miền Nam đón Bác
thỏa tình ước mong; Mỗi ngày hai nắm cỏn con / Nhiều ngày góp lại thành lon gạo đầy / Khi
xưa cũng lon gạo này / Góp phần đánh Nhật, đánh Tây tơi bời / Bây giờ giặc Mỹ ma trơi / Gây
nên tội ác khắp nơi quê mình / Nghe lời Bác gọi chí tình / Lại nhắn nhủ mình tiết kiệm thường
xuyên / Bớt từng nắm gạo đồng tiền / Góp phần đánh Mỹ giữ yên quê nhà;…không chỉ giúp
người đọc có cái nhìn thấu đáo về nội dung bộ phận ca dao về Bác mà còn góp phần làm cho
kết cấu đối lập thêm phong phú. Từ đó, mảng ca dao này trở nên đa dạng hơn trong cách diễn
đạt, để lại ấn tượng sâu sắc hơn trong lòng độc giả. Sự tương phản lúc nào cũng có tác dụng
nhấn mạnh điều cần diễn đạt. Cho nên, điều cần diễn đạt càng được nhấn mạnh, càng đa dạng
thì điều đọng lại trong lòng người đọc càng lâu bền.
Tuy nhiên, hình thức đối lập chủ yếu trong bộ phận ca dao này là đối lập về mặt tư tưởng,
tình cảm. Bên cạnh tình cảm yêu thương, kính trọng, biết ơn Bác Hồ, nhân dân ta đồng thời bộc
lộ thái độ căm ghét đối với kẻ thù và nhất là bọn tay sai, bù nhìn. Tình cảm yêu ghét ấy thể hiện rất
rõ trong bài ca dao:
Em yêu Bác Hồ
Em ghét Tổng Ngô
Bác Hồ hiền lành
Tổng Ngô độc ác
Tổng Ngô như chim cắt
Bác Hồ tựa Thái sơn
Chim cắt chết yểu chết mòn
Thái Sơn muôn thuở vẫn còn Thái Sơn.
Tuy là lời nói của một em nhỏ nhưng chúng ta vẫn nhận ra đó chính là tình cảm, thái độ
của nhân dân nói chung. Bài ca dao không chỉ bộc lộ sự tương phản trong thái độ “yêu / ghét”
của nhân vật trữ tình mà còn chỉ ra sự tương phản về đặc điểm, tính cách của đối tượng miêu tả:
Bác Hồ hiền lành / Tổng Ngô độc ác. Để rồi từ sự tương phản ấy, tác giả dân gian đã khẳng
định một điều như chân lí, cũng bằng một sự tương phản, kẻ độc ác thì “chết yểu, chết mòn”,
người hiền lành thì “muôn thuở vẫn còn” trơ trơ.
Yêu quí Bác bao nhiêu, nhân dân càng tin tưởng và nguyện một lòng sắt son theo Bác
bấy nhiêu. Cho nên, dù Ngô Đình Diệm có lôi kéo, dụ dỗ bao nhiêu, người dân vẫn chỉ biết Cụ
Hồ mà thôi. Hàng loạt bài ca dao theo kết cấu đối lập đã nêu bật lên sự tương phản, trái ngược
trong hành động của Tổng Ngô và Bác Hồ: Cứu quốc là Cụ Hồ / Phản quốc là tên Ngô / Sự thật
đã rõ ràng / Tuyên truyền làm sao vô; Cụ Ngô là đứa mô mô / Dân ta chỉ biết Cụ Hồ mà
thôi;…Hiểu rõ hành động phản quốc của Tổng Ngô nên thái độ của nhân dân là rất rõ ràng: Ăn
cơm bên Tống uống nước bên Ngô / Khi đi bỏ phiếu thì Cụ Hồ Chí Minh; Xa Cha gần Diệm
mặc dầu / Lòng con chẳng phút giây nào quên Cha; Theo Cụ Ngô gông đeo đầy cổ / Theo Cụ
Hồ cực khổ tiêu tan;…
Không chỉ có thái độ thù ghét rõ ràng vói chính quyền Ngô Đình Diệm mà nhân dân còn
bộc lộ sự căm thù sâu sắc với bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tất cả những hành động trái
ngược của nhân dân trong các bài ca dao sau đã nói lên điều đó: Bạc Đông Dương kẻ thương
người ghét / Bạc Cụ Hồ kẻ nhét người thu / Già tay thêm nặng oán thù / Dù bay có xé hết đã có
chiến khu ta chở về; Dù cho giặc chiếm đất đai / Chiếm sao cho được lòng người Việt Nam; Dù
cho Mỹ Diệm ỳ ra / Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải thành công; Thằng
Tây có trăm máy bay / Không bằng một cái móng tay Cụ Hồ;…
Những hành động tương phản của nhân dân đã dẫn đến thái độ, tình cảm đối lập chặt chẽ
của người dân đối với lãnh tụ và kẻ thù. Một lần nữa kết cấu đối lập đã phát huy tác dụng của
nó khi khẳng định hai loại tình cảm tồn tại song song trong lòng dân tộc giai đoạn chống thực
dân và đế quốc: yêu kính Cụ Hồ - thù ghét giặc ngoại xâm và bọn tay sai bán nước.
Lí do vì sao nhân dân lại yêu quí Cụ Hồ đến như vậy có lẽ mọi người ai ai cũng hiểu
thông qua các hành động trái ngược của Bác và thực dân, đế quốc, tổng Ngô. Bác Hồ ra sức
cứu nước, cứu dân, trong khi đó Ngô Đình Diệm là tên tay sai bù nhìn, bán nước, Pháp Mỹ là
bọn cướp nước. Bên cạnh đó, tác giả dân gian hiện đại còn miêu tả sự tương phản giữa Bác và
người thường để thấy được sự hi sinh to lớn ở Bác mà không một người dân thường nào có
được. Bài ca dao sau với kết cấu đối lập đã giúp người đọc hình dung và thấu hiểu điều đó:
Người thường cực khổ đôi ba / Cụ Hồ cực khổ tính ra tới mười / Người thường ngày tháng vui
chơi / Cụ Hồ mãn có lo đời ấm no / Người thường toan tính so đo / Cụ Hồ thương nước nên
thờ nước thôi / Người thường chỉ biết cái tôi / Cụ Hồ yêu mến khắp người trần gian / Người
thường nhà cửa cao sang / Cụ Hồ lắm lúc nằm hang, ở gò / Người thường rượu thịt say no /
Cụ Hồ có lúc không thường chén cơm / Người thường là lụa đầy rương / Cụ Hồ bô vải tầm
thường đủ thay / Người thường nệm ấm loay hoay / Cụ Hồ nhiều tối gối tay mà nằm / Người
thường sợ nhọc tấm thân / Cụ Hồ dầu dãi phong trần vẫn vui / Cụ Hồ của chúng con ơi / Bao
giờ Cụ mới thảnh thơi bằng người;…
Với kết cấu đối lập, bài ca dao đã đúc kết gần như hết thảy các lí do khiến nhân dân ta
yêu kính Người. Người chẳng nghĩ gì cho bản thân, chỉ biết hi sinh cho tất cả. Ở đây, sự đối lập
không nhằm phê phán cách sống, thái độ sống của người thường mà qua đó nhằm khẳng định
hơn nữa tình cảm yêu thương của mọi người dành cho Bác.
Tóm lại, sự đối lập lúc nào cũng nhằm nhấn mạnh đối tượng miêu tả. Cho nên, kết cấu
đối lập càng phong phú thì đối tượng miêu tả càng hiện lên rõ ràng, chân thực. Đối tượng mà ở
đây ca dao hướng tới không ai khác chính là Bác Hồ. Như vậy, kết cấu đối lập vừa giúp người
đọc hiểu rõ hơn về Bác, về tình cảm của nhân dân dành cho Bác vừa thấy được thái độ của nhân
dân đối với kẻ thù.
2.2.2.2. Kết cấu song hành tâm lý (kết cấu đối ngẫu tâm lý)
Phạm Thu Yến trong “Những thế giới nghệ thuật ca dao” quan niệm: “Trong các bài
hát được xây dựng theo nguyên tắc đối ngẫu bao giờ cũng theo một trình tự có tính chất nguyên
tắc như sau: trước tiên, bức tranh tự nhiên được đưa ra, tiếp sau đó là bức tranh hình ảnh từ
cuộc sống con người. Cả hai bức tranh đồng thời này biểu trưng cho sự nhất quán, tương ứng
trong tư tưởng, cảm xúc và nguyên tắc, nhưng chúng không hoàn toàn đồng giá trị.”[98,40]
Trong các bài hát được xây dựng theo nguyên tắc đối ngẫu, bức tranh biểu tượng thứ
nhất bao giờ cũng thực hiện chức năng trình bày cảm xúc riêng của mình. Nó tạo ra một cảm
xúc nhất định và ám chỉ nội dung “bức tranh con người” của bài hát. Trong bức tranh thứ hai,
“con người”, nội dung cơ bản về cuộc sống mở ra, những cảm xúc, tư tưởng cụ thể của nhân
vật trữ tình này hay nhân vật trữ tình khác được biểu đạt. Ví dụ, ca dao cổ truyền có bài theo kết
cấu đối ngẫu tâm lý như:
Năng mưa thì giếng năng đầy,
Anh năng đi lại, mẹ thầy năng thương.
Việc trời mưa thường xuyên thì giếng sẽ mau đầy nước song hành với việc anh thường
xuyên đến chơi nhà thì mẹ thầy sẽ mau có cảm tình hơn, thương anh nhiều hơn. Vì thế, mà tình
cảm của đôi ta sẽ thuận lợi hơn. Rõ ràng bức tranh thiên nhiên trong dòng đầu là nền tảng gợi
hứng, dẫn dắt người đọc đến với hình ảnh con người trong dòng thơ thứ hai. Thiên nhiên góp
phần khắc sâu và làm nổi bật nội dung về con người. Nhiều bài ca dao cổ truyền có kết cấu này:
Sen xa hồ, sen khô hồ cạn / Liễu xa đào, liễu ngả đào nghiêng / Anh xa em như bến xa thuyền /
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên tái hồi; Quế càng già càng tốt / Mía càng đốt càng
ngon / Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn / Mấy sông cũng lội, mấy hòn cũng leo…
Tương tự như thế, trong ca dao về Bác, người viết cũng thấy xuất hiện kết cấu đối ngẫu
tâm lý. Chẳng hạn:
Dây trầu quấn chặt thân cau,
Toàn dân chiến đấu trước sau quanh Người.
Phải chăng hình ảnh gắn bó, quấn quýt giữa trầu và cau đã giúp tác giả dân gian liên
tưởng đến hình ảnh toàn dân đang quấn quýt chiến đấu trước sau quanh Người? Rõ ràng, thiên
nhiên ở đây chính là hình ảnh gợi hứng, gợi sự suy nghĩ, liên tưởng đến con người. Từ bức
tranh thiên nhiên “dây trầu quấn chặt thân cau”, người đọc sẽ dễ dàng hình dung được cuộc
sống, chiến đấu của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Bác, người người luôn hướng theo Bác, theo
con đường cách mạng mà Bác và Đảng đã vạch ra.
Cây xanh nhờ có mặt trời,
Cá mà sống được cũng thời nhờ sông.
Việt Nam một dải mênh mông,
Toàn dân no ấm công ơn Bác Hồ.
Cũng như vậy, bài ca dao trên nêu lên sự gắn bó mật thiết không thể tách rời giữa toàn
dân và Bác qua hình ảnh cây xanh và mặt trời, cá và sông: cây xanh sống được, xanh tươi là
nhờ ánh sáng mặt trời, cá sống được, tồn tại được là nhờ vào môi trường sông nước như toàn
dân có ấm no, hạnh phúc là nhờ công ơn của Bác Hồ.
Những bài ca dao có kết cấu song hành tâm lý : Ngôi sao sáng giữa cờ hồng / Hình Cha
rực rỡ giữa lòng chúng con; Sông không khô nhờ nguồn dự trữ nước / Việt Nam mạnh nhờ
phước Cụ Hồ cho; Sen xa hồ, sen khô hồ cạn / Liễ xa đào, liễu ngả đào nghiêng / Anh xa em
đừng nhớ đừng phiền / Như Cụ Hồ Chủ tịch biết mấy niên xa nhà …một lần nữa cho thấy sự đa
dạng của các dạng kết cấu trong bộ phận ca dao này. Cùng một đối tượng miêu tả mà ca dao về
Bác đã hướng đến và diễn đạt bằng nhiều kết cấu khác nhau khiến cho đối tượng trở nên sống
động, linh hoạt và nhiều ý nghĩa hơn.
2.2.3. Kết cấu thu hẹp dần hình tượng và kết cấu miêu tả trực tiếp
Dựa vào tiêu chí cách diễn đạt ý tưởng trực tiếp hay vòng vo, dông dài mà người ta chia
kết cấu làm hai loại: kết cấu thu hẹp dần hình tượng và kết cấu miêu tả trực tiếp.
2.2.3.1. Kết cấu thu hẹp dần hình tượng
Kết cấu thu hẹp dần hình tượng là kết cấu diễn đạt, trình bày theo lối từ xa đến gần, từ
rộng đến hẹp, từ những vấn đề thứ yếu đến vấn đề trọng tâm. Kết cấu này nói nôm na giống
như cách diễn đạt quy nạp trong cách hành văn nói chung. Tác giả dân gian thường diễn giải,
miêu tả, trần thuật sự việc rồi sau đó khái quát lên nội dung chính, trọng tâm.
Chẳng hạn những bài ca dao cổ truyền sau thuộc dạng kết cấu thu hẹp dần hình tượng:
- Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen…
- Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân…
Các chàng trai trong những ví dụ trên đã khéo léo mượn cớ nào đó để giãi bày tâm trạng
với biện pháp nghệ thuật đi từ xa đến gần, từ rộng đến hẹp, từ câu chuyện cái áo bị bỏ quên dẫn
đến trình bày cảnh ngộ neo đơn. Bằng biện pháp “nói vòng vo” chàng trai đã dần dần bộc lộ ý
tình ở điểm kết của bài ca khi chàng hứa trả công vá chiếc áo “sứt chỉ đường tà” bằng cả một đồ
sính lễ đầy đủ của câu chuyện hôn nhân nghiêm chỉnh với cô gái. Phải chăng kết cấu từ xa đến
gần như thế giúp chàng trai tự nhiên hơn trong việc ngỏ lời mà cũng tránh được cảm giác ngại
ngùng cho cô gái?
Kế thừa ca dao cũ, ca dao về Bác cũng xuất hiện kết cấu này:
Từ ngày giải phóng quê tôi / Mít tinh lại họp rợp trời cờ bay / Trẻ em đi học ban ngày /
Nhân dân đi cấy đi cày mừng vui / Thuyền bè xuôi ngược ngược xuôi / Có chè Phú Thọ, có sồi
Bắc Ninh / Cây đa bóng mát đầu đình / Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng / Từ nay mặc
sức vun trồng / Nước giàu dân mạnh, vợ chồng ấm no / Hòa bình, độc lập, tự do / Ngàn năm
ơn đức Cụ Hồ không quên.
Mười câu thơ đầu diễn giải sự việc một cách trực tiếp mang tính chất trần thuật, song
dường như nó lại là khởi hứng cho hai câu sau để từ đó toát lên nội dung chính của bài thơ: mọi
khó khăn, cực khổ, mọi tủi hờn, căm giận đều đã qua đi, giờ đây quê hương đã được giải
phóng, nhân dân lại được tự do, khắp chốn chốn nơi nơi đều mừng vui, no ấm vì vậy mong mọi
người hãy nhớ đừng quên công ơn của Cụ Hồ.
Ai về nhớ ghé Bạc Liêu / Ăn chùm nhãn ngọt chín riu mật vàng / Rồi xuôi xuống chợ Cây
Bàng / Đi thăm bãi cát trải vàng biển khơi / Ai xây, ai đắp ai bồi / Công ơn của Bác chói ngời
Bạc Liêu.
Bài ca dao trên cùng chung nội dung. Bốn dòng đầu là lời mời chân thành, mộc mạc: hãy
đến với sản vật và cảnh trí thiên nhiên hữu tình của Bạc Liêu. Thông qua cảnh vật, sản vật đặc
thù của địa phương mình, người dân Bạc Liêu muốn nhắc nhở nhau phải ghi nhớ công ơn của
Bác Hồ bởi chính Bác đã mang đến cuộc tươi đẹp và phong phú hơn xưa.
Ngó lên chùa Bồng Lai cây cao bóng mát,
Ngó xuống bãi biển Cảnh Dương rào rạt xôn xao.
Quê mình biển rộng non cao,
Nhờ cụ Hồ lãnh đạo đồng bào ta được tự do.
Vẻ đẹp dung dị của thiên nhiên hay niềm vui được tự do hạnh phúc đã làm người dân nào
đó cảm thấy cảnh chùa Bồng Lai như mát mẻ, thanh thoát hơn, bãi biển Cảnh Dương như xôn
xao, nhộn nhịp, đông vui hơn. Cảnh và tình hòa quyện với nhau, tâm hồn con người rạo rực
trước cảnh đẹp của thiên nhiên, thiên nhiên hòa cùng niềm vui hạnh phúc của con người. Tất cả
mọi khổ đau đã qua đi chỉ còn lại bóng mát của cây xanh, tiếng rì rào của sóng biển và nhiều
hơn nữa là vẻ mặt hạnh phúc đến viên mãn của người dân đã qua thời kỳ nô lệ.
Những bài ca dao có kết cấu thu hẹp dần hình tượng về điểm kết: Cua đờng ngọt nước
mồng tơi / Cơm trắng đầy nồi chồng xới vợ chan / Dẻo thơm hạt gạo tám xoan / Cả nhà ghi
nhớ công ơn Bác Hồ; Mỗi xuân mỗi tết trồng cây / Cây trùm bóng mát, cây dày quê hương /
Gái trai lớp lớp lên đường / Chiến công tô thắm quê hương mấy lần / Mỗi năm một lớp cây
xuân / Đâm chồi nảy lộc cây vươn lá cành / Ai ơi, trăm nghĩa trăm tình / Bác đi để lại màu
xanh cho đời; Muối mặn ba năm còn mặn / Gừng cay chín tháng còn cay / Dù ai xuyên tạc lắt
lay / Sắt son nguyện giữ lòng này sắt son / Ấu khoe ấu tròn / Bồ hòn nào bồ hòn lại méo / Mỹ
Diệm lắt léo nỏ ai nghe / Dù bay xuyên tạc chán chê / Đồng bào vẫn nhớ có Cụ Hồ thì trăm
việc ngàn bề mới yên;…giúp người đọc rất nhiều trong việc cảm thụ nội dung của văn bản.
Tóm lại, kết cấu thu hẹp dần hình tượng về điểm kết có tác dụng lớn nhất là giúp
người đọc, người nghe khái quát lại nội dung chính, hình dung được vấn đề trọng tâm mà bài ca
dao mang đến. Hay nói cách khác, người nghe dễ cảm nhận được tình cảm mà tác giả muốn gửi
gắm qua bài ca dao. Kết cấu thu hẹp dần hình tượng gây sự chú ý, tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn cho
lời hát, tạo tâm thế cho người tiếp nhận từ từ, tránh đột ngột. Đồng thời, kết cấu này cũng giúp
cho người nói thì dễ nói, người nghe thì dễ tiếp nhận. Nói chung là tạo tâm thế tốt cho cả hai.
Đặc biệt, kết cấu này trong tình yêu thì rất phù hợp bởi nó không tạo sự bất ngờ, đột ngột. Cuối
cùng làm cả bài ca sáng lên, quy về một mối. Chính phần cuối cùng của bài ca sẽ đọng lại lâu
hơn trong lòng nười đọc.
2.2.3.2. Kết cấu miêu tả trực tiếp
Đây là dạng kết cấu đối lập với kết cấu thu hẹp dần hình thương. Nghĩa là, tác giả không
phải vòng vo, xa gần mà nói thẳng, nói trực tiếp vào vấn đề..
Nói về tình thương, sự quan tâm của Người đối với mọi người, một tác giả dân gian nói
thẳng:
Bác Hồ tranh đấu vì dân,
Đã bao gian khó phong trần vượt qua.
Bác mong dân được ấm no,
Bác mong đất nước tự do, hòa bình.
Suốt Trung Nam, Bắc dân mình,
Người bao nhiêu đó nặng tình bấy nhiêu.
Người khác cũng không ngần ngại bộc lộ nỗi thương nhớ, sự mong chờ, tình thương yêu
đến với Bác:
Những đêm đại hội quê hương
Cháu ngồi cháu nhớ tình thương ngọt ngào
Cháu nhìn vầng trán cao cao
Nhìn đôi mắt Bác như sao sáng ngời
Bác nhìn cháu nhỏ khắp nơi
Soi gương bóng tối cho đời thắm tươi.
Còn đây là niềm vui sướng hân hoan của một người dân khi được gặp Bác:
Đời tôi được gặp Cha già
Như con được mẹ mang quà về cho
Như cá gặp nước sông to
Như thuyền được cập bến bờ thân yêu.
Anh lính coi kho thì hứa trực tiếp với Bác rằng:
Tôi là anh lính coi kho
Quanh năm chỉ việc cân, đo, giữ hàng
Nhà kho lại ở trong hang
Bốn bề núi thẳm, rừng hoang mịt mù
Chẳng tu mà cũng là tu
Tu sao cho vẹn Bác Hồ khuyên răn:
Nếu không lo kiệm, lo cần
Khó mà liêm chính, khó mà vô tư
Một mình hang tối âm u
Mà lòng dạ vẫn sáng như ban ngày.
Còn nhiều nữa những cách nói trực tiếp như vậy: Tôi là vận tải dân quân / Tôi đi tải gạo
nuôi quân Cụ Hồ / Quân Cụ Hồ ăn no đánh thắng / Giết giặc nhiều, giải phóng quê hương / Tôi
đi ngày nắng đêm sương / Quyết tâm gìn giữ quê hương vẹn toàn; Trên đường ra trận hôm nay
/ Chúng con đi dưới hàng cây Bác trồng / Con đường dài suốt non sông / Hàng cây Bác tỏa
xanh vòng ngụy trang / Những khi lội suối băng ngàn / Vẫn như có Bác dẫn đàn con đi; Vĩnh
Linh ta làm theo lời Bác / Mặc cho máy bay, đại bác chúng bắn suốt ngày / Cùng nhau chiến
đấu hăng say / Thi đua sản xuất, đôi tay vững vàng; Xa xa pháo nổ giao thừa / Nước non nghe
tiếng Bác Hồ mừng xuân / Giữa rừng mưa lạnh hành quân / Đọc câu thơ Bác âm ran cả
người;…
Sự nói thẳng, nói trực tiếp cũng có cái hay của nó là giúp người đọc hiểu ngay vấn đề,
không phải suy nghĩ gì nhiều. Và cách diễn đạt như vậy cũng dễ đi vào lòng người hơn. Tuy
nhiên, nếu lạm dụng quá cách diễn đạt trên thì e rằng ca dao sẽ mang đến sự khô khan, tẻ nhạt.
Nói chung, sự phân chia các kiểu kết cấu như trên chỉ mang tính chất tương đối. Mỗi bài
ca dao, xét ở nhiều tiêu chí khác nhau có thể thuộc nhiều kiểu kết cấu khác nhau. Ví dụ: Từ
ngày giải phóng quê tôi / Mít tinh lại họp rợp trời cờ bay / Trẻ em đi học ban ngày / Nhân dân
đi cấy đi cày mừng vui / Thuyền bè xuôi ngược ngược xuôi / Có chè Phú Thọ, có sồi Bắc Ninh /
Cây đa bóng mát đầu đình / Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng / Từ nay mặc sức vun trồng
/ Nước giàu dân mạnh, vợ chồng ấm no / Hòa bình, độc lập, tự do / Ngàn năm ơn đức Cụ Hồ
không quên. Bài ca dao được người viết xếp vào loại kết cấu thu hẹp dần hình tượng nhưng xét
ở nhiều tiêu chí khác nhau thì bài ca còn có thể xếp vào kết cấu trần thuật, miêu tả. Hay là bài:
Sen xa hồ, sen khô hồ cạn / Liễ xa đào, liễu ngả đào nghiêng / Anh xa em đừng nhớ đừng phiền
/ Như Cụ Hồ Chủ tịch biết mấy niên xa nhà… vừa là kết cấu đối ngẫu tâm lý vừa là kết cấu trần
thuật, miêu tả, kết cấu đối thoại…
Tóm lại, mỗi một kết cấu có một vị trí, tác dụng khác nhau. Thế nhưng tất cả đã góp phần
tạo nên một bức tranh kết cấu đa dạng và phong phú sắc màu trong ca dao về Bác nói riêng và
ca dao nói chung. Đồng thời qua đó, chúng ta một lần nữa thấy được sự công phu của các tác
giả dân gian trong việc vận dụng các dạng kết cấu để truyền đạt nội dung, ý tưởng. Bất kể họ là
ai, người bình dân hay người tri thức, họ đều có một ý thức chung đó là làm sao diễn đạt được
đầy đủ và trọn vẹn tình cảm, nghĩ suy của mình mà cũng là của tập thể nhân dân đối với vị lãnh
tụ kính yêu.
Chương 3
NGÔN NGỮ CỦA CA DAO VỀ BÁC
Ngôn ngữ là một thành tố nghệ thuật không thể thiếu của ca dao. Ngôn ngữ của tác phẩm
trữ tình dân gian này có sự kết hợp rất độc đáo, sáng tạo giữa ngôn ngữ của đời sống với ngôn
ngữ của thơ ca. Vì thế, ngôn ngữ ca dao rất tinh tế, uyển chuyển. Ngôn ngữ ca dao về Bác cũng
mang những đặc điểm như vậy. Trong luận văn, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát ngôn ngữ ca
dao về Bác ở một số khía cạnh.
3.1. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa phương
Ca dao về Bác được nhân dân trên cả nước sáng tác nên ngôn ngữ trong mảng ca dao này
vừa mang tính toàn dân vừa mang đậm sắc thái địa phương.
Từ ngữ toàn dân là từ ngữ phổ biến chung của dân tộc Việt Nam. Đây là loại từ ngữ mà
khi sử dụng ai ai cũng hiểu, địa phương nào cũng biết. Ca dao về Bác Hồ là tiếng nói tình cảm
của nhân dân đối với Bác nên ngôn ngữ toàn dân được nhân dân vận dụng triệt để và linh hoạt.
Với tính chất trong sáng, giản dị, mộc mạc, trôi chảy, ngôn ngữ toàn dân trong ca dao về Bác đã
tạo nên nhiều lời đẹp, thi vị: Bác về đồng lúa thêm xanh / Mái nhà lại ấm, sân đình lại vui / Nụ
cười em bé thêm tươi / Nhân dân nô nức, người người thi đua; Cầm trên tay ngọn lúa vàng /
Nghe câu em hát mênh mang trên đồng / Hò ơ…Hương lúa thơm nồng / Người dân đất Mũi
nhớ công ơn Cụ Hồ;…
Từ ngữ toàn dân giúp cho ca dao về Bác thêm dễ hiểu, dễ đi vào lòng dân. Tuy nhiên,
vẫn có không ít những bài ca sử dụng từ địa phương. Từ địa phương là từ ngữ chỉ sử dụng ở
một hay một số địa phương nhất định nào đó. Một số từ ngữ địa phương miền Trung xuất hiện
trong bộ phận ca dao này như: o (cô), nốc (thuyền), chi (gì), mô (đâu), nỏ (không), ngái (xa),
bầy tui (chúng tôi)… Cụ thể: Bình Trị Thiên: Đất này là đất Cụ Hồ / Đất cha ông chi thằng
Bảo Đại mà kéo Tây qua đóng đồn; Gió nam từ biển thổi vào / Gió nam thổi nốc lộn nhào cụ
Ngô / Cụ Ngô là đứa mô mô / Dân ta chỉ biết Cụ Hồ mà thôi… Huế: Bớ o, bớ chị, bớ anh Lúa
bên nách giặc ta giành về ta;...
Đà Nẵng: Bác Hồ trong trái tim dân / Tuy xa nghìn dặm nhưng gần gần ghê.
Phương ngữ Nam bộ cũng xuất hiện với tần số cao: vô (vào), phai lạt (phai nhạt), má (mẹ), nè
(này), ngó (nhìn), coi (xem), té ra (thì ra), ơn ngãi (ơn nghĩa), minh minh (mênh mông),…Đọc
những câu sau chúng ta dễ dàng nhận ra sắc thái rất riêng của người dân Nam Bộ: Bác vô,
nghe Bác, Bác ơi! / Bác vô cho được Tháp Mười Bác coi; Ngó qua dãy núi gập ghềnh / Lòng
Hồ Chủ Tịch, lòng mình không xa / Ngày mai thống nhất nước nhà / Chúng ta vui đóm Cha già
vào thăm…
Việc sử dụng từ ngữ địa phương góp phần thể hiện sắc thái riêng của từng địa phương
đồng thời qua đó cũng bộc lộ tình cảm của nhân vật trữ tình: chân chất, mộc mạc như chính
ngôn ngữ của địa phương ấy. Đồng thời, cách sử dụng từ ngữ địa phương giúp người đọc xác
định được chính xác bài ca dao ra đời ở địa phương nào, vùng miền nào. Qua đó, có thể cảm
nhận được sắc thái tình cảm rất riêng của địa phương ấy, vùng miền ấy.
3.2. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường
Ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ thơ ca, gọt giũa, trau chuốt, bóng bẩy, chỉn chu. Ngôn
ngữ văn chương là ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm, có chức năng thông tin và thẩm Mỹ. Ví dụ ca
dao cổ có bài:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ngôn ngữ trong bài ca dao này không chỉ để thông tin về nơi sinh sống, cấu tạo, hương vị
và sự trong sạch của cây sen, mà quan trọng là khẳng định và nuôi dưỡng một tư tưởng, một
cảm xúc thẩm Mỹ: cái đẹp có thể hiện hữu và bảo tồn ngay trong môi trường có nhiều cái xấu.
Thế nhưng chức năng thẩm mỹ nêu trên nổi bật là nhờ vào tính hình tượng mà ngôn ngữ bác
học mang đến. Cũng trong bài ca dao về cây sen ở trên, nội dung tư tưởng tình cảm, cảm xúc về
cái đẹp không phải được biểu hiện trực tiếp qua từ ngữ và câu văn thông thường mà qua các
hình tượng cụ thể (lá xanh, bông trắng, nhị vàng) và cả các lớp lang trong ngoài để gợi
tả,…Hơn nữa, bao trùm lên tất cả là hình tượng sen như là một tín hiệu thẩm mỹ về phẩm chất
thanh cao, đẹp đẽ trong tự nhiên và cả trong xã hội loài người.
Ngôn ngữ ca dao về Bác bóng bẩy, tượng hình không kém:
Cụ Hồ như cột trụ đồng,
Muốn lay chẳng ngã, muốn rung chẳng rời.
Cụ hồ như cái gương soi,
Soi người trung liệt, soi người tinh ma.
Cụ Hồ như biển bao la,
Ao hồ, sông rạch đổ ra trăm đồng.
Cụ Hồ như cái khánh chuông,
Khua vọng đánh thức những người mê man.
Cụ Hồ như chiếc đò ngang,
Đưa ta đến bến vinh quang đời đời.
Tính hình tượng, tính thẩm mỹ của bài ca dao được hình thành và khắc sâu chính là do
thành công của biện pháp tu từ so sánh và điệp ngữ. Cho nên, bài ca dao vừa có tác dụng gợi
hình vừa có tác dụng gợi cảm cao, giúp người đọc cảm nhận công ơn của Bác cũng như cảm
nhận được niềm tôn kính của nhân dân đối với Bác.
Nhìn sông lại nhớ đến nguồn,
Nhìn cây nhớ cội nhìn non nhớ rừng.
Dù cho xa cách muôn trùng,
Tình dân với Bác vuông tròn thủy chung.
Ngôn ngữ ca dao thật mượt mà, đầy hình ảnh. Ngôn ngữ của bài ca là ngôn ngữ của sự
liên tưởng sông liên tưởng đến nguồn, cây liên tưởng đến cội. Rồi từ đó liên tưởng đến sự gắn
bó thủy chung giữa tình dân và Bác.
Bên cạnh những lớp từ trau chuốt, bóng bẩy, đầy hình tượng, ca dao về Bác vẫn mộc
mạc, chân chất với những từ ngữ đời thường. Ngôn ngữ đời thường là khẩu ngữ, là lời nói trong
đời sống hằng ngày, ít được trau chuốt, gọt giũa, ít được tỉa tót, công phu.
Đọc bài ca dao sau, chúng ta dễ dàng nhận thấy lời ăn tiếng nói của người bình dân:
Tuy rằng Tây phá nơi nơi,
Nhưng mà chúng cháu không đời nào lo.
Có Bác thì ấm, thì no,
Có Bác thì giặc phải thua, chắc rồi.
Tính khẩu ngữ thể hiện trong ca dao trước hết là ở hình thức thêm, bớt âm tiết đối với
những thể thơ truyền thống. Hình thức này rất hay gặp ở thể thơ lục bát biến thể, song thất lục
bát biến thể. Tính khẩu ngữ trong bộ phận ca dao về Bác cũng thể hiện chủ yếu ở hình thức này.
Chẳng hạn: Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe vui tươi / Dắt dìu kháng chiến, giành độc lập cho người
Việt Nam; Chỉ có quân hám sữa cặn, rượu tàn / Mới nói quấy nói quá hòng làm mất thanh
danh Cụ Hồ; Dù cho Mỹ Diệm ỳ ra / Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải
thành công; Con chim không ăn quả hai cành / Miền Nam trước sau vẫn giữ tấm lòng thành với
Đảng Bác kính yêu; Dân ta được ấm được no / Nhờ ơn Hồ Chủ Tịch đưa đến bến bờ vinh
quang; Lòng ta ơn Bác đời đời/ Như rừng không đếm được lá, như trời không đếm được sao;…
Việc thêm bớt âm tiết như trên làm cho ca dao gần với lời nói hằng ngày của quần chúng
lao động. Chính vì gần gũi như thế mà ca dao về Bác trở nên dễ hiểu hơn và dễ đi vào lòng
người hơn.
Ngoài ra, tính khẩu ngữ còn thể hiện ở cách sử dụng các lớp từ, đặc biệt là những đại từ
nhân xưng anh, tôi, chúng bay, thằng, đứa;…Anh ơi tôi nhắn câu này / Than kia lẫn đá xúc đầy
sao đang; Dù chúng bay xuyên tạc chán chê / Đồng bào vẫn nhớ có Cụ Hồ thì mọi bề mới yên;
Cụ Ngô là đứa mô mô / Dân ta chỉ biết Cụ Hồ mà thôi; Chúng ta hứa với Bác rằng / Còn Mỹ
còn đánh một thằng chẳng tha; Bạc Đông Dương kẻ thương người ghét / Bạc Cụ Hồ kẻ nhét
người thu / Già tay thêm nặng oán thù / Dù là bay có xé hết, thì đã có chiến khu ta chở về; …
Rõ ràng những đại từ nhân xưng trên mang nặng tính chất khẩu ngữ. Chúng ta cũng chẳng
ngạc nhiên khi những từ xưng hô trên chỉ nhằm vào bọn cướp nước và bán nước với một thái độ căm
ghét mạnh mẽ và quyết liệt vô cùng.
Tóm lại, lực lượng sáng tác ca dao về Bác vô cùng phong phú, trong đó có lớp người
bình dân, lớp người lao động nên việc xuất hiện ngôn ngữ đời thường là điều tất yếu. Hơn nữa,
ngôn ngữ ca dao có tính chất truyền miệng nên còn phản ánh “lời ăn tiếng nói” của quần chúng
lao động bình dân. Chính đặc điểm này đã làm ca dao về Bác không chỉ xuất hiện những cách nói
bóng bẩy, mượt mà, ý nhị, đầy chất thơ mà còn gặp những cách nói đầy tính khẩu ngữ.
3.3. Cách sử dụng tên riêng chỉ địa điểm
“Từ lâu, các nhà nghiên cứu đã công nhận rằng tên riêng chỉ địa điểm (địa danh), nhất
là những tên gọi ít quen thuộc có khả năng tạo ra một thứ ma thuật âm thanh và nhiều nhà thơ
đầu thế kỷ XX đã sùng bái thủ pháp sử dụng các tên gọi này” [82, 283]. Nguyễn Xuân Kính
thống kê trong 4600 bài ca dao cổ truyền có 377 bài sử dụng tên riêng chỉ địa điểm (chiếm
8,2% ). Trong số 377 bài, số lần địa danh xuất hiện là 615.
Cũng theo nguyễn Xuân Kính, trong số 1100 bài thơ của các tác giả Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương, số bài
chỉ địa danh là 194, chiếm 17,6%.
Ca dao về Bác cũng xuất hiện ngôn ngữ dùng tên riêng chỉ địa điểm. Kết quả thống kê
trong số 521 bài ca dao về Bác có 151 bài sử dụng tên riêng chỉ địa điểm, chiếm 29%. Trong
151 bài, số lần địa danh xuất hiện là 280.
So sánh với ca dao cổ truyền và thơ, tỉ lệ bài ca dao chỉ địa danh trong ca dao về Bác
chiếm tỉ lệ cao hơn cả. Điều này cho thấy đây là một hiện tượng khá đặc biệt của mảng ca dao
này.
Khảo sát những tên riêng này, chúng tôi thấy xuất hiện các loại:
Tên các đơn vị hành chánh (làng, xã, huyện, tỉnh, miền, nước...) xuất hiện 220 lần chiếm
78,6 %. Trong đó xuất hiện nhiều nhất là tên Miền Nam 56 lần (10,7%): Miền Nam chiến đấu
gian nan / Bác là sức mạnh vững vàng niềm tin; Dầu cho bão tố phong ba / Miền Nam vẫn có
Cha già đứng bên; Đấu tranh là lửa thử vàng / tên Người khắc giữa miền Nam sáng ngời; Dây
trầu quấn chặt thân cau / Miền Nam chiến đấu trước sau quanh Người; Ngày mai giải phóng
quê mình / Miền Nam đón Bác thỏa tình ước mong; bác thương các cháu khổ nghèo / Miền
Nam xa Bác sớm chiều trông ra; Miền Nam ghi mãi trong lòng / Tháng năm mười chín, ngày
sinh Cha già;…
tên nước Việt Nam 27 lần (5,2%): Dù cho giặc chiếm đất đai / Chiếm sao cho được lòng người
Việt Nam; Dù cho giặc lắm mưu mô / cũng không chia nổi cơ đồ Việt Nam; Nhớ công ơn của
Cha già cứu tinh / Cuộc đời thống nhất hòa bình Việt Nam; Trên trời có ông sao Rua / Việt
Nam ta có Bác Hồ em ơi; Trèo truông mới biết truông cao / Việt Nam kháng chiến mới biết
công lao Cụ Hồ; Việt Nam có Hồ Chí Minh / Ai ơi, bác đã hi sinh trọn đời…
Tên những địa điểm vốn là đối tượng lao động và những địa điểm phục vụ giao thông:
sông (18), đầm (1), giếng (1), núi (13), rừng (1), đèo (2), hang (1), mũi (2), biển (3), cầu (1), bãi
bến (2), đảo (1): Ngọn Tây Phong Lĩnh Bác trèo / Để giờ có núi có đèo con qua; Núi cao là
núi Thái Sơn / Ơn cao nghĩa cả là ơn Cụ Hồ; Núi Trường Sơn không sờn mưa nắng / Biển
Thái Bình chắc chắn không khô; Núi Mẫu Sơn cao biết bao nhiêu trượng / Sông Nhật Lệ sâu
biết bao nhiêu tầm; Rừng Tây Nguyên muôn đời ơn Bác; Trơ trơ như cụm núi Sầm / Thản
nhiên như mặt nước đầm Ô Loan; Tàu đi qua đảo Cô Tô / Đẹp sao thấy tượng Bác Hồ trên
cao;…
Tên những địa điểm thực hiện sinh hoạt xã hội và những địa điểm sinh hoạt văn hoá, tín
ngưỡng: chợ (4), chùa (1), đồng (3), đồn (1): Ngó lên chùa Bồng Lai cây cao bóng cả / Ngó
xuống bãi biển Cảnh Dương rào rạt sóng xao / Quê mình biển rộng non cao / Nhờ Cụ Hồ lãnh
đạo đồng bào ta được tự do; Đồng Diên Canh cắt nhanh dấu vội / Đồng Phú Nội cắt vội dấu
nhanh; Thuyền ai xuôi chợ Vực / Thuyền ai ngược Đô Lương / Thuyền ai chở khách chở
phường / thuyền em chỉ chở công lương cho Cụ Hồ;…
Trong ba loại kể trên, loại tên các đơn vị hành chánh xuất hiện nhiều hơn cả: 220 lần
trong tổng số 280 lần.
Những bài ca dao chỉ địa danh nói trên phản ánh hai chủ đề. Thứ nhất là phản ánh tình
cảm của nhân dân cả nước đối với Bác. Qua thống kê 151 bài có địa danh, có 62 bài (chiếm
41%) được sáng tác và lưu truyền với chủ đề này. Địa danh gắn với nỗi niềm thương nhớ Bác,
đặc biệt là nỗi nhớ mong của đồng bào miền Nam: Miền Nam chúng cháu đang chờ Bác đây;
Tháp Mười chúng cháu đang chờ Bác đây; Miền Nam thương Bác trong lòng; Miền Nam đau
khổ sớm chiều trông ra; Miền Nam mới hết nhớ thương Bác Hồ; Bắc Nam sum họp một nhà;
Mong ngày đón Bác vào trong Khánh Hòa; Việt Nam ta có Bác Hồ / Việt Nam ta có ngọn cờ
vàng sao; Miền Nam đón Bác, thỏa lòng ước mong;... Địa danh còn dùng để thể hiện lòng
quyết tâm của nhân dân, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn trở ngại trong cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc, quyết tâm thực hiện theo lời Bác dạy, quyết tâm đi theo con đường mà
Đảng, Bác đã đề ra để thống nhất nước nhà: Tiếng Bác vọng đến non Hồng / Sông Lam, núi
Quyết đều cùng reo vui / Ghi từng tiếng, nhớ từng lời / Pháo tung lưới lửa, giữa trời Nghệ An
/ Chúng cháu thề quyết đánh tan quân thù; Trường Sơn nguyện, Cửu Long thề / Quyết tâm
giết giặc đồng quê mong chờ; Từ Vạn Linh đến Can Lâm / Lòng dân đồng điệu, đồng tâm với
Cụ Hồ; Mũi Cà Mau nhắn với Mục Nam Quan / Sông Thao nhắn với sông Trà / Hai dòng
một nước dân ta một nòi; Cửu Long nước chảy xuôi dòng / Miền Nam chung sức chung lòng
đánh Tây; Dẫu cho tan núi Chóp Chài / Lòng dân với Bác chẳng đời nào tan;...
Ca ngợi cảnh vật và truyền thống địa phương là chủ đề phổ biến thứ hai. Tuy nhiên,
thông qua việc ngợi ca cảnh đẹp ấy, tác giả dân gian muốn nhấn mạnh đến ơn đức của Bác Hồ.
Nhờ Bác lèo lái con thuyền cách mạng đến bến bờ vinh quang nên cuộc sống và thiên nhiên
Việt Nam mới tươi đẹp đến như vậy: Ai về nhắn bạn đường xa / Nón đẹp tỉnh nhà là nón Tam
Dương / Kim Thành trồng mía lắm đường / Đũi dẹt Cát Tường vừa ý nhiều cô / Ai lên thưa
với Cụ Hồ / Quê em nghề phụ bốn mùa vui tươi; Ai về nhớ ghé Bạc Liêu / Ăn chùm nhãn ngọt
chín riu mật vàng / Rồi xuôi xuống chợ Cây Bàng / Đi thăm bãi cát trải vàng biển khơi / Ai
xây, ai đắp ai bồi / Công ơn của Bác chói ngời Bạc Liêu; Ngó lên chùa Bồng Lai cây cao
bóng cả / Ngó xuống bãi biển Cảnh Dương rào rạt sóng xao / Quê mình biển rộng non cao /
Nhờ Cụ Hồ lãnh đạo đồng bào ta được tự do; Vú sữa Cần Thơ vỏ hồng như cà tím / Cần Thơ
gửi vú sữa kính dâng Bác Hồ;...
Ca dao về Hồ Chí Minh nằm trong dòng phát triển của thơ ca dân gian về nhân vật lịch
sử. Về điều kiện phát sinh và lưu truyền, nếu như trong thời kỳ quốc gia phong kiến, ca dao lịch
sử thường xuất hiện ở nơi xảy ra sự kiện lịch sử đó, rồi dần dần lan truyền ra nhiều địa phương
và truyền tụng từ đời này sang đời khác, thì ca dao về Bác Hồ có ở khắp mọi nơi trên đất nước.
Từ miền núi Trường Sơn Tây Nguyên đến đồng bằng ven biển. Từ Bắc vào Trung tới chót mũi
Cà Mau Nam bộ. Từ trong nước đến đồng bào xa Tổ quốc. Nghĩa là ở đâu có người Việt Nam
yêu nước ở đó có ca dao về Bác Hồ. Đặc điểm đó đưa đến một đặc điểm nghệ thuật là sự xuất
hiện tên địa phương. “Tên địa phương vốn là đặc điểm phổ biến trong thơ ca ở mọi thời đại,
không phải là đặc điểm riêng của thơ ca dân gian. Song chỉ với ca dao lịch sử tên địa phương
mới trở thành yếu tố độc lập trong thể loại”. [79, 189]. Đó là vì mục đích miêu tả tự sự để ghi
nhớ những chiến công lịch sử. Chẳng hạn, Rạch Gầm ( Rạch Gầm ghi dấu muôn đời oai
danh...), Biện Thượng Lam Sơn ( Ai lên Biện Thượng Lam Sơn, Nhớ lê Thái Tổ chặn đường
quân Minh.)...là những yếu tố như thế. Tác giả Hà Công Tài trong Vấn đề nghiên cứu thơ ca
dân gian hiện đại đã nhận xét rất đúng khi cho rằng trong ca dao về Bác, tên quê, tên đất không
còn là miêu tả tự sự mà bộc lộ tâm trạng con người. Nó gây ra những liên tưởng, tình cảm, ý
nghĩ, và tất cả những cái gì tạo ra đời sống tinh thần của chủ thể. Nó thực hiện sự thống nhất lại
giữa quê hương với Bác Hồ: Tháp Mười đẹp nhất bông sen/ Nước Nam đẹp nhất có tên Cụ
Hồ...
Việc sử dụng tên riêng chỉ địa điểm trong ca dao về Bác cho ta thấy một điều kỳ thú nữa
xảy ra trong văn học Việt Nam là một con người yêu quê hương đất nước vô cùng (Quê hương
nghĩa nặng tình cao...Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi) lại được thơ ca nhận thức bằng chính
hình ảnh của quê hương đất nước. Phải chăng đó là sự kế thừa truyền thống biểu lộ niềm tự hào
về đất nước giang sơn gấm vóc qua lời thơ ngợi ca cảnh sắc, sản vật, con người của đất nước,
của nhân dân ta từ ngàn xưa. Kết quả trên khẳng định một lần nữa về đối tượng sáng tác ca dao
về Bác là rất nhiều, rất phong phú. Họ ở khắp mọi miền trên Tổ quốc, khắp các tỉnh thành, suốt
Bắc Trung Nam.
3.4. Cách sử dụng ngôn ngữ trùng lặp
Trong “ Những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình”, Đặng Văn Lung quan niệm:
“Thuật ngữ trùng lặp ở đây hoàn toàn không có nghĩa xấu của chữ “lặp lại” (lặp lại một cách
đơn giản, máy móc) mà trái lại để chỉ những nét đã định hình, đã là truyền thống của ca dao”
[43 , 112]. Như vậy, trùng lặp theo quan niệm trên thì rõ ràng là tốt, mang tính chất tích cực.
Theo tác giả có một số mặt trùng lặp sau: hình ảnh, kết cấu và ngôn ngữ.
Đọc ca dao về Bác, ta thấy một số từ ngữ được lặp đi lặp lại mãi. Chúng tôi thống kê một
loạt các từ ngữ trùng lặp, sắp xếp theo thứ tự giảm dần tần số xuất hiện
Bảng thống kê các từ ngữ trùng lặp
Số thứ tự Từ được lặp lại Số lần xuất hiện
1 Ơn, nhớ ơn, công ơn, công lao 115
2 thương, yêu thương, nhớ thương 42
3 Mong, chờ, trông 33
Theo bảng trên, các từ ngữ ơn, công ơn, nhớ ơn, công lao được lặp lại nhiều nhất: Con
ơi nhớ lấy công ơn Bác Hồ; Đời đời ơn Bác thiết tha mặn nồng; Ơn này mẹ để hai vai; ơn cao
nghĩa cả là ơn Cụ hồ; Kể sao cho hết công lao Bác Hồ; Cụ Hồ ơn đức biết bao; Ơn dày sánh
đất, đức cao sánh trời; Đố ai đếm được công lao Bác Hồ; Ơn sâu nghĩa nặng gấp ba bốn lần;
Công lao Cụ Hồ đậm đà mưa nắng; Công ơn Đảng, Bác còn dày, còn to; công ơn Bác như trời
cao biển rộng; Công ơn của Bác bao la; cả nhà ghi nhớ công ơn Bác Hồ; lòng ta ta giữ, ơn Cụ
Hồ ta ghi;…
Hiện tượng lặp lại này đã làm nổi bật nội dung của mảng ca dao kể trên. Đó chính là
lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với công lao vô cùng to lớn của Bác.
Bên cạnh lòng biết ơn sâu sắc, nhân dân đồng thời còn bộc lộ tình yêu thương, kính trọng
Người vô cùng. Các từ thương, yêu thương, nhớ thương, yêu, kính yêu cứ lặp đi lặp lại trong
các câu ca dao về Bác như một lời khẳng định mạnh mẽ tình cảm chân thành, sâu sắc của nhân
dân đối với Bác: Cụ Hồ là đuốc sáng ngời / Nhắc đến tên Cụ muôn người yêu thương; Ai ra
miền Bắc xa xôi / Xin cho nhắn gửi đôi lời nhớ thương; Miền Nam thương Bác trong lòng /
Giữa bom đạn, giữa những vòng thép gai; Khai Long mà hết cá đường/ Miền Nam mới hết nhớ
thương Bác Hồ; Thương Cha lo nghĩ trăm đường; Vì thương Bác quyết đạp bằng khó khăn;
Em yêu Bác Hồ;...
Tình thương ấy đong đầy như thế là bởi tình thương của Bác dành cho muôn dân cũng
đong đầy, lai láng. Người quan niệm ”Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn
không ngon, ngủ không yên.” [18,54]. Trong đời hoạt động cách mạng cũng như trong đời sống
hằng ngày của mình, Hồ Chủ tịch luôn đối xử tốt với mọi người. Bác Hồ là muôn vàn tình thân
yêu đối với đồng bào, đồng chí. Trong tình thương yêu đó, có chỗ cho mọi người, không quên,
không sót một ai: Cụ Hồ yêu nước thương nhà / Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù; Bác thương
dân thợ bao nhiêu / Thì ta sản xuất càng nhiều đạn bom; Tình thương của Bác mênh mông /
Ân cần tha thiết, ấm lòng chúng con; Tình thương Bác để đời đời cho con; Thương dân lòng
Cụ vô bờ; Bác thương các cháu khổ nghèo;...
Trong lòng Bác, đồng bào miền Nam chiếm một vị trí đặc biệt. Những lúc vui mừng nhất
của Bác là lúc nhận được tin chiến thắng ở miền Nam; và nghĩ đến những đau khổ của đồng
bào miền Nam là Bác lại bùi ngùi, xót thương vô hạn. Chính vì thế, Bác cũng chiếm một vị trí
đặc biệt trong lòng Nhân dân miền Nam. Ca dao miền Nam về Bác cứ trở đi trở lại những từ
mong, nhớ mong, mong chờ, đón chờ, đón vô...Đó là niềm mong mỏi tha thiết, mong ước đến
cháy lòng: đó là được một lần đón Bác vào thăm để thỏa lòng mong nhớ: Thỏa lòng ngày ước
đêm mơ / Miền Nam hồi hộp đón chờ Bác vô / Ngày mai giải phóng quê mình / Miền Nam đón
Bác thắm tình ước mong; Mong ngày đón Bác vào trong Khánh Hòa; Trẻ, già, trai, gái, đều
mong Bác về; Miền Nam đón Bác thỏa lòng ước mơ; Mong ngày độc lập Cụ vô; Chúng ta vui
đón Cha già vào Nam; Mong ngày, mong tháng Bác vô; Miền Nam mở hội đón mừng Bác vô;
trông cho thống ngất nước nhà / Để mừng đón tiếp Cha già vào đây; Trông ngày đón Cụ sum
vầy Bắc Nam; Sài Gòn vui sướng đón Người vô thăm;...
Ngoài ra, trong ca dao về Bác, hàng loạt những từ đinh ninh, ghi tạc, một lòng, một
dạ... cũng lặp lại nhiều lần nhằm khẳng định lòng chung thủy, son sắt đối với Đảng, với Bác.
Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, khó khăn, khổ cực, tủi nhục nào, nhân dân cũng nhớ ghi lời
Bác, một lòng theo Bác, theo con đường cách mạng mà Bác đã vạch ra: Dù cho biển cạn non
mòn / Lòng dân với Bác vuông tròn thủy chung; Lòng miền Nam tròn vành vạnh như chiếc
nón bài thơ đội đầu; Miền Nam một dạ theo đường Bác đi; Ghi sâu lời Bác đinh ninh đời này;
Ngàn năm con cháu đinh ninh nhớ lời; Một lòng cháu nguyện theo lời Bác răng; Đấu tranh
gian khổ lời Cha ghi lòng; Chúng con vẫn giữ lời khuyên Cha già; Một lòng Bác dạy tạc ghi;
Chúng con ghi tạc những lời sắt son; Trước sau một dạ, một lòng / Muôn đời ghi tạc công ơn
của Người;...
Không chỉ lòng dân với Bác vuông tròn thủy chung mà đồng bào còn tin tưởng hoàn toàn
vào khả năng lãnh đạo cùa Bác, niềm tin chắc chắn rằng có sự dìu dắt, chỉ dẫn của Bác thì
thắng lợi nhất định sẽ về ta, đất nước sẽ được thống nhất, tự do: Con dù gian khổ đến đâu /
Vững tin vì biết trên đầu có Cha; Gian nan cực khổ mặc dầu / Lòng tin Đảng Bác càng sâu
càng nồng; Miền Nam chiến đấu gian nan / Bác là sức mạnh vững vàng niềm tin;...
Kết cấu đối thoại của ca dao cổ truyền khiến cho một số từ ngữ xưng hô cứ lặp đi lặp lại
như: chàng-nàng, chàng-thiếp, thuyền-bến, mình-ta: chàng ơi phụ thiếp làm chi / Thiếp như
cơm nguội đỡ khi đói lòng; Em ơi ngoảnh mặt lại đây / Anh nhìn thấy mặt cho khuây tấm lòng;
Thuyền về có nhớ bến chăng? / Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền; Mình về ta chẳng cho
về / Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ;...
Trong ca dao về Bác, các cặp từ xưng hô: Bác-chúng con, Bác-chúng cháu, Bác-cháu,
Bác-con, Cha-con...cứ trở đi trở lại: Bác Hồ ơi! / Cháu là em bé phương xa; Bác ơi, dù Bác đi
rồi / Một lòng cháu nguyện theo lời Bác răng; Ước gì Bác lại thăm luôn / Bóng đa che nắng,
dừa tươi con mời; Cháu đi lòng Bác theo cùng; Bác đi cháu tiếc ngẩn ngơ trong lòng; Chúng
con đây đó xa gần / Noi gương liêm chính, kiệm cần của Cha; Chúng con giành lúa nuôi quân
/ Sản xuất tiết kiệm cho vừa lòng Cha; Chúng con khuya sớm chuyên cần / Từng trang giáo án
thấm lời Bác khuyên; Chúng con vượt đỉnh đèo cao / Bỗng nghe thơ Bác gọi vào mừng xuân;...
Kế thừa cách xưng hô trong ca dao cũ nhưng ca dao về Bác lồng vào đó nội dung mới, từ xưng
hô mới có tác dụng nhấn mạnh mối quan hệ ruột thịt giữa Bác và nhân dân. Nhân dân gọi
Người là Bác, là Cha và xưng mình là con, là cháu. Dường như, khoảng cách giữa lãnh tụ và
nhân dân đã bị xóa bỏ, thay vào đó là mối quan hệ Cha-con, Bác-cháu ruột thịt thân thiết,
không tách rời.
Tóm lại, hiện tượng trùng lặp từ ngữ nêu trên cho thấy bộ phận ca dao về Bác có sự kế
thừa ca dao cổ truyền. Đó là sự kế thừa về đề tài. Các đề tài mà thể loại ca dao nói chung lựa
chọn phần lớn xoay quanh gia đình, làng xóm, quê hương và đất nước. Ca ngợi lãnh tụ, ca ngợi
các anh hùng dân tộc thuộc vào đề tài ngợi ca quê hương, đất nước. Cách giải quyết chung của
tác giả dân gian là thường xoáy vào khẳng định tình cảm và củng cố tình cảm tốt đẹp đối với
đối tượng mà họ hướng đến để bày tỏ. Ca dao về Bác cũng thế. Việc lặp đi lặp lại liên tiếp
những từ ngữ biểu lộ cảm xúc, trạng thái như yêu thương, biết ơn, kính trọng, mong chờ,...
chính là cách mà nhân dân muốn khắc sâu tình cảm của mình với Bác. Hơn nữa việc lặp lại như
vậy cũng làm cho những tình cảm ấy của nhân dân đối với Bác càng trở nên đậm đà hơn.
Trong quá trình khảo sát mảng ca dao nói trên, người viết còn phát hiện một điều thú vị
khác, đó là bộ phận ca dao này đã kế thừa một số công thức quen thuộc của ca dao xưa:
Công thức “ chiều chiều”
“Chiều chiều” trong ca dao là một công thức thời gian quen thuộc. Lấy thời điểm cuối
ngày với nhiều tâm trạng, ca dao truyền thống đã có hàng trăm bài lựa chọn công thức thời gian
này để thể hiện tâm tư tình cảm của mình, ở đây là nỗi nhớ thương da diết, sâu nặng. “Chiều
chiều” là thời khắc tụ họp trở về, gặp gỡ đoàn viên nên thời khắc này như chạm vào sợi dây
lòng vốn đang rất nhạy cảm của tâm hồn nhân vật trữ tình. Đó là nỗi nhớ nhà, nhớ quê (Bâng
khuâng nhớ mẹ chí chiều ruột đau), nỗi nhớ người yêu ( Nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai),
nỗi nhớ bạn (Ta đây nhớ bạn bạn rày nhớ ai/)…Và giờ đây trong ca dao về Bác, một nỗi nhớ rất
mới, rất hiện đại, đó là nhớ Bác, nhớ lời dạy của Bác được truyền tải và làm phong phú thêm
cho nỗi nhớ “chiều chiều” trong ca dao nói chung: Chiều chiều nhớ lại chiều chiều / Nhớ lời
Bác dạy nhớ điều Bác khuyên / Những lời vàng ngọc không quên / Con đường thống nhất càng
bền đấu tranh; Chiều chiều ra tắm giếng Vàng / Ngó về Ngũ Phúc, ngó sang Thiên Cầm / Mẹ
già cuốc bẫm cày sâu / Vụ chiêm gặt hái đã gần xong chưa? Đêm qua trời đổ cơn mưa / Đắp
bờ giữ nước vụ mùa ai lo / Ai bàn kế hoạch giúp cho / Kịp ngày sinh nhật Bác Hồ dâng lên;…
Công thức “ đêm nay”
Cũng là công thức thời gian nghệ thuật, nhưng “đêm” là yếu tố thời gian biểu thị một
trạng thái xúc cảm khác của nhân vật trữ tình. Đêm là thời khắc vạn vật đã đi vào giấc ngủ,
cảnh vật yên ắng, tĩnh mịch. Con người thấy rõ mồn một tâm trạng của mình như được phơi
bày ra trong đêm. Đêm để thương nhớ cũng có (Đêm năm canh anh ngủ được một canh đầu,
Còn bao canh nữa buồn rầu không nguôi), đêm để cô đơn cũng có (Đêm nằm lưng chẳng bén
giường, đêm nằm vuốt bụng thở dài…), đêm để hò hẹn gặp gỡ, để thề nguyền ước hẹn ( Đêm
trăng thanh anh mới hỏi nàng…)…
Trong bài ca dao dưới đây, nhân vật trữ tình xưng “con” cho ta thấy nỗi lòng của một
người con nhớ cha, khao khát được gặp cha, nhân dịp rất đặc biệt là ngày 19 tháng 5- ngày sinh
nhật của người Cha kính yêu. Lấy tâm hồn ví như ánh trăng sáng để đối lập với màn đêm, nhân
vật trữ tình hẳn là một người dân đang bị cầm tù, cất tiếng nói đại diện cho hàng triệu đồng bào
miền Nam ruột thịt chúc thọ Bác Hồ, hướng về Bác và cảm nhận như chính hình ảnh Bác đã soi
sáng vào tâm hồn mình, nhớ Bác để tâm hồn mình thanh lọc, trong sáng hơn: Đêm nay mười
chín tháng năm / Hồn con sáng tợ trăng rằm trung thu / Con đang chúc thọ trong tù / Con đang
dựng một rừng cờ trong tim / Đêm nay mộng hóa thành chim / Tung qua cửa sắt con tìm đến
Cha. Và nhiều nữa những bài ca dao có cùng công thức: Đêm nay ngồi dưới chiến hào… Đêm
nay trăng sáng đầy trời… Đêm nay trăng tỏ mặt người …
Công thức “ ai đi”, “ai về”, “ai lên”
ở nhóm chủ đề ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, ta gặp rất nhiều những công thức
quen thuộc như ai đi, ai về… Các công thức này thường đứng ở đầu câu, gắn với một địa danh
cụ thể. Và câu ca dao như một lời mời gọi, rủ rê, “dụ dỗ” ai đó về với quê mình. Để từ đó mở ra
một loạt các hình ảnh về phong cảnh, sản vật, con người…như để chỉ ra nét đặc trưng rất riêng
làm nên màu sắc, làm nên dấu ấn địa phương.
Ca dao xưa:
Ai đi Châu Đốc, Nam Vang
Ghé qua Đồng Tháp, bạt ngàn bông sen.
Ca dao mới về Bác cũng có trường hợp như thế, cũng giới thiệu vẻ đẹp của địa phương
nhưng rồi mục đích cuối cùng lại là đề cập đến lòng biết ơn của nhân dân địa phương ấy đối với
Bác Hồ:
Ai về nhớ ghé Bạc Liêu,
Ăn chùm nhãn ngọt chín riu mật vàng.
Rồi xuôi xuống chợ Cây Bàng,
Đi thăm bãi cát trải vàng biển khơi.
Ai xây, ai đắp, ai bồi,
Công ơn của Bác chói ngời Bạc Liêu.
Và hàng loạt các bài khác mở đầu bằng công thức trên: Ai ra Việt Bắc… Ai lên Việt
Bắc… Ai ra miền Bắc… Ai về đất tuyến Vĩnh Linh…Ai về An Dưỡng, Hoàng Mô… Ai về nhắn
bạn đường xa… Ai về thưa với Bác Hồ…
Không chỉ kế thừa công thức mở đầu, ca dao về Bác còn kế thừa cả dòng mở đầu của ca
dao cổ truyền. Ca dao về Bác mượn nguyên dòng đầu quen thuộc của ca dao xưa và lắp vào đó
nội dung mới. Chẳng hạn:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Bác Hồ hơn mẹ hơn cha,
Ơn cao nghĩa cả bao la biển trời.
Hai câu đầu bài ca dao cũ đề cao công lao sinh thành và nuôi dưỡng của cha mẹ để từ đó
hai câu sau nhắc nhở con cháu phải trọn đạo làm con, phải hiếu thảo, yêu kính cha mẹ. Ca dao
về Bác lặp lại hai câu đầu nhưng qua đó nhân dân khẳng định, ngợi ca công ơn biển trời của
Bác Hồ, công ơn ấy còn hơn cả cha mẹ.
Ca dao cũ:
Còn người, còn nước, còn non,
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.
Câu đầu chỉ mang tính chất gợi hứng. Nội dung câu sau là cảm xúc say sưa ngây ngất của
chàng trai đối với cô bán rượu.
Còn non, còn nước, còn người
Tình thương Bác để đời đời cho con.
Cũng lặp lại nguyên câu đầu của ca dao cổ, nhân dân một lần nữa khẳng định tình thương bao
la của Bác dành cho các thế hệ con cháu Việt Nam.
Ca dao cũ:
Bao giờ chạch đẻ ngọn cây
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.
Câu ca dao biểu hiện lời thề “bất hợp tác” giữa ta với mình. Hay đó có thể là lời từ chối
khéo léo của cô gái bởi đó là điều kiện mà sẽ chẳng bao giờ xảy ra.
Ca dao về Bác:
Bao giờ chạch đẻ đọt cây
Người không uống nước, gậy tày sinh con
Thì lòng tin tưởng Cụ Hồ,
Vẫn không phai lại xóm đò bầy tui.
Cũng mượn câu đầu, mượn cái điều kiện không bao giờ xảy ra ấy, tác giả dân gian muốn
khẳng định niềm tin tưởng sắt son của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt
của Bác Hồ.
Hình thức này xuất hiện khá phổ biến trong ca dao về Bác cũng như ca dao hiện đại: Đèo
cao thì mặc đèo cao / Tinh thần tiếp vận còn cao hơn đèo; Gió đưa gió đẩy bông trang / Ai
đưa ai đẩy cho chàng xuất chinh / Ngày sau đặng chữ hòa bình / Anh về em vẫn chung tình với
anh; Gió đưa bụi chuối sau hè / Không đi Vệ quốc, bạn bè cười chê;Dù ai nói ngả nói
nghiêng / Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân / Dù ai rào giậu ngăn sông / Lòng ta vẫn giữ
là dân Cụ Hồ; Còn người, còn nước, còn non / Còn anh du kích nước non an bình; Con ơi,
con ngủ đi con / Ngày mai khôn lớn nước non cậy nhờ; …
Ngoài ra, ca dao về Bác còn kế thừa một số khung kết cấu của ca dao cổ truyền. Ca dao
cổ truyền có những khung kết cấu có sẵn để lồng những hình ảnh cũng có sẵn. Chẳng hạn:
Nước Ngọc sơn vừa trong vừa mát /Đường Nam giang lắm cát dễ đi. (Nghệ An); Nước Trịnh
Tôn vừa trong vừa mát / Đường Trịnh Tôn lắm cát dễ đi. (Thanh Hóa); Nước Thổ Hà vừa trong
vừa mát / Đường Thổ Hà lắm cát dễ đi. (Hà Bắc)
“Đặc điểm có sông nước có cát bồi là chung cho tất cả những làng xóm định cư theo dọc
sông. Ở đâu có đặc điểm ấy đều có thể sử dụng cái khung miêu tả này mà thay tên địa phương
mình vào” [43, 115].
Ca dao về Bác và ca dao hiện đại cũng kế thừa hình thưc lặp như trên. Ca dao về Bác đã
kế thừa khung kết cấu “Thấy…thì nhớ…/Thấy…thì thương…”
Cũng nói về địa danh – phong cảnh, sản vật, con người, ca dao còn có khung kết cấu liên
tưởng “Thấy…thì nhớ…/ Thấy…thì thương…” . Ca dao mới mượn toàn bộ khung kết này của
bài ca , biến thành thể hứng để tạo ra sự liên tưởng mới. Ta có thể thấy câu:
Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười.
Hay từ câu ca dao:
Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông lúa đẹp thương về Cần Thơ.
Ta có cả bài ca dao về Bác dưới đây được sáng tạo thêm hai dòng từ bài ca dao quen
thuộc nêu trên :
Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông lúa đẹp thương về cần Thơ.
Miền Nam mong nhớ Bác Hồ
Dừa Bến Tre ngọt nước, lúa Cần Thơ trĩu vàng.
Dù chất kết nối nội dung trong bài có phần chưa chặt chẽ nhưng có hề gì. Bởi lẽ cái giản
dị mộc mạc nhiều khi mang lại cho bài ca dao rất nhiều nét nghĩa. Ta có thể hiểu, từ thể hứng
nói về nỗi nhớ và gợi sự liên tưởng giữa địa danh và sản vật, tác giả dân gian đã lồng vào bài ca
cũng sắc điệu của một nỗi nhớ, ở đây là nỗi nhớ Bác. Và nỗi nhớ cùng hình ảnh của Bác lúc
nào cũng hiện hữu bên cạnh các địa danh đặc trưng vùng miền, làm cho địa danh thêm đẹp,
thêm giàu, thêm tình, thêm nghĩa…
Khung kết cấu “…nào cao bằng…/…nào sâu bằng…”
Cũng xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước, xuất phát từ những tự hào về quê mình,
về cảnh và người quê mình, một cách rất tự nhiên lời ăn tiếng nói của nhân dân đã biến thành
lối nói có vần có điệu, thành những bài ca trữ tình tự nhiên và nóng hổi hơi thở của đời sống.
Dù cách nói có chút phô trương, cường điệu, có chút phóng đại, nhưng chỉ có bằnh cách nói đó
thì tính đề cao nội dung biểu đạt mới được phát huy tối đa tác dụng.
Đèn nào cao bằng đèn Thủ Ngữ
Gió nào dữ bằng gió Đồng Nai
Nhưng ít ai nghĩ từ cách nói ấy mà tác giả dân gian đã có một sự liên tưởng hết sức bất
ngờ. Cái cao, cái đẹp, cái giỏi, cái khôn…ít nhiều đều phát lộ ra bên ngoài và dễ nhận thấy (
nhận thấy mới đáng được đề cao như là một niềm tự hào vô biên). Còn cái sâu của ơn Cụ Hồ,
theo cách diễn đạt đề cao”ơn nào sâu hơn” như một thách đố, quả thật đã trở thành cách so sánh
nhất. Rằng không còn có ơn nào có thể sâu hơn ơn Cụ. Tính từ “sâu” để đo chiều hữu hạn (sông
sâu, ruộng sâu, vực sâu…) giờ đã trở thành chiều kích để đo cái vô hạn của ơn Bác. Thế mới
thấy sự sáng tạo của tác giả thật giản dị không thô sơ, mộc mạc mà vô cùng thâm thúy. Điều
này cho thấy tình cảm chân thành đã dẫn dắt sự sáng tạo đến thật tự nhiên và đi vào trái tim
người tiếp nhận bài ca dao một cách đầy thuyết phục:
Đồng nào cao bằng đồng Thi Phổ
Thổ nào cao bằng thổ Ba Tơ
Ơn nào sâu bằng ơn Cụ Hồ
Nguồn bao nhiêu nước ơn Cụ Hồ bấy nhiêu.
Có lẽ sẽ còn nhiều nữa những bài ca dao như thế. Ở đâu chúng tôi chỉ muốn liên hệ từ
những khung kết cấu truyền thống đến những bài ca dao mới ca ngợi Bác để thấy sự sáng tạo
của dân gian vừa quen vừa lạ, vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa có những ý nghĩa nội dung
mới mẻ vừa liền mạch một cách tự nhiên với tâm tư tình cảm của những người bình dân từ quá
khứ đến hiện tại và cả tương lai.
Có thể nói, cách sáng tác dựa vào khung có sẵn là cách sáng tác truyền miệng phổ biến
khắp nước ta. Người sáng tác cần thuộc nhiều, nhất là thuộc những câu có kết cấu khác nhau để
vận dụng khi ứng khẩu, vừa nhanh vừa thích hợp. Dù vậy, bài ca dao mới sáng tác vẫn hay.
Những tình cảm mới được lồng vào những khung chung có tính chất tiêu chuẩn mà mọi người
đã thừa nhận làm cho bài ca dao dễ thành “của chung”. Việc ca dao về Bác kế thừa các hình
thức kết cấu trên một lần nữa cho thấy sự dụng công của các tác giả dân gian trong việc bày tỏ
tình cảm đối với Bác. Hình thức thể hiện đa dạng nên nội dung cũng đa dạng và phong phú
không kém. Chính vì thế mảng ca dao về Bác càng dễ thuộc, dễ nhớ và dễ đi sâu vào lòng
người, để lại ấn tượng sâu sắc, đậm đà khó quên.
Tóm lại, hiện tượng trùng lặp ngôn ngữ là một trong những hiện tượng thiên về mặt hình
thức. Nhưng hình thức luôn gắn chặt với nội dung. Hình thức thể hiện nội dung. Vì vậy, hiện
tượng một số từ ngữ cứ trở đi trở lại như đã phân tích trên chính là góp phần thể hiện nội dung
chính của mảng ca dao về Bác: lòng biết ơn của nhân dân đối với Bác, tình yêu thương của Bác
dành cho nhân dân và ngược lại, sự gắn bó thủy chung, một lòng một dạ theo lời dạy, lời
khuyên của Bác. Tình cảm của nhân dân với Bác từ đó mà trở nên đậm đà hơn. Như vậy, ca dao
về Bác và cả ca dao mới đều có hiện tượng kế thừa các công thức truyền thống quen thuộc của
ca dao cổ truyền.
Ca dao có nội dung và hình thức vô cùng phong phú, phản ánh cuộc sông nhiều màu,
nhiều vẻ của nhân dân trên khắp đất nước, trải qua nhiều thế hệ. Ca dao là sáng tác của tập thể,
tất cả mọi người đều mang tài năng của mình làm cho ca dao đẹp đẽ, trong sáng, đa dạng.
Nhưng cũng vì thế mà nó lại mang những yếu tố trùng lặp nhau không thể nào cưỡng lại được.
Ca dao về Bác cũng không tránh khỏi quy luật này. Hơn thế nữa, chúng còn kế thừa ca dao cổ
truyền trọn vẹn hình thức trùng lặp trên.
3.5. Cách sử dụng các biện pháp tu từ
Biện pháp tu từ là biện pháp sử dụng từ ngữ một cách nghệ thuật nhằm nhấn mạnh điều
cần diễn đạt. Trong ca dao về Bác, các biện pháp tu từ được vận dụng khá phong phú nhưng
chúng tôi chỉ khảo sát những biện pháp xuất hiện với tần số cao còn những trường hợp khác
chúng tôi không đề cập.
3.5.1. So sánh
Phải nói rằng thành công nhất của bộ phận ca dao này về mặt biện pháp tu từ chính là
việc sử dụng biện pháp so sánh. So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật sự việc khác
có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
- Cụ Hồ như núi Thái Sơn…
- Cụ Hồ như nước, như non…
- Cụ Hồ như ánh sao trời…
- Cụ Hồ là vị Cha chung
Là sao Bắc Đẩu, là vừng thái dương.
- Công ơn Bác như trời cao, biển rộng…
- Ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời…
Con người Bác, công ơn Bác được nhân dân ví với các hình ảnh kỳ vĩ của thiên nhiên:
núi non, trời đất, ánh sao, ánh dương…Phải chăng nhân dân đã tạc Người vào sông núi? Bác đã
hóa thành núi sông vĩ đại, vững bền, trường tồn mãi với các thế hệ con cháu Rồng Tiên. Cách
so sánh như thế càng làm nổi bật cái vĩ đại của Bác. Bác cao cả, lớn lao như một vị thánh. Và ở
đây, chúng tôi tán thành ý kiến của Nguyễn Xuân Lạc: “Trong ca dao Bác Hồ, đối tượng thẩm
mỹ đã được hư hóa để trở thành biểu tượng của một Con Người Đẹp Tuyệt Đối, một Con Người
Đẹp Vĩnh Cửu trong lòng nhân dân ta…cao cả, thiêng liêng, nhuốm màu sắc huyền thoại” [34,
9] cũng như quan điểm của Trần Gia Linh: “ Ca dao nói tới Người là nói tới hình ảnh tượng
trưng cho sông núi Việt Nam và nghĩa lớn của dân tộc” [39, 31].
Ca dao nói: “Cụ Hồ như núi, như non”, “ Cụ Hồ như ánh sao trời” nhưng cũng lại nói:
- Cụ Hồ với dân
Như chân với tay
Như chày với cối
Như cội với cành
- Cụ Hồ như chiếc đò ngang…
- Cụ Hồ như chiếc kiếng soi…
- Cụ Hồ như cái khánh chuông…
- Cụ Hồ như cột trụ đồng…
Ca dao so sánh Người với những hình ảnh kỳ vĩ nhưng vẫn đặt Người ở trong lòng của
quần chúng nhân dân. Cho nên, những hình ảnh chiếc đò ngang, chiếc kiếng soi, cái khánh
chuông, cột trụ đồng gần gũi và giản dị như chính con người Bác, cuộc đời Bác. Thế đấy, Bác
vừa vĩ đại, lớn lao vừa rất gần gũi, giản dị. “ Hình tượng Bác trong ca dao đương đại không chỉ
mang màu sắc huyền thoại…là “vị thánh”… mà còn là người Cha già gần gũi, thân thương đối
với toàn thể dân tộc, thân quen, gắn bó mật thiết với nhân dân” [35, 9].
Nhân dân đã mượn hàng loạt các hình ảnh trong giới tự nhiên, thực vật và nhân tạo để
sánh với Bác, công ơn Bác và tình thương của Bác.
Hình ảnh tự nhiên
Phổ biến nhất trong ca dao về Bác là hình ảnh sẵn có trong tự nhiên, nhất là những hình
ảnh gần gũi xung quanh con người. Bùi Mạnh Nhị khẳng định: “Cảm xúc thẩm mỹ đối với thiên
nhiên được qui định bởi một số điều kiện trong đó có khoảng cách giữa con người và thiên
nhiên, phương thức cư trú, thái độ thưởng thức” [1,78]. Quả thật, thiên nhiên đã ảnh hưởng
không nhỏ đến những sáng tác ca dao về Bác. Đối tượng làm ca dao về Bác rất đa dạng phong
phú, chủ yếu là anh bộ đội, dân công, nông dân, công nhân. Môi trường hoạt động chủ yếu của
họ là vùng rừng núi, đồng ruộng, hầm mỏ...Cho nên, giữa con người và thiên nhiên dường như
không có khoảng cách, thiên nhiên hữu tình là người để bầu bạn, sẻ chia.
Khảo sát 521 bài ca dao của dân tộc Việt, chúng tôi tổng kết được tác giả dân gian đã
dùng 24 hình ảnh (có tự nhiên, thực vật và nhân tạo). Chúng tôi sắp xếp theo tần số xuất hiện
giảm dần, chia làm các nhóm sau
Hình ảnh tự nhiên
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 TC HÌNH ẢNH Núi/non Biển Sông Ánh dương/mặt trời Trời Ánh sao / vì sao Nước Sông Đất TẦN SỐ XUẤT HIỆN 19 11 9 9 5 4 3 2 62
Trăng, sao là những hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, mang đến cho con người bao nguồn
cảm hứng thi vị. Đặc điểm chung nhất của trăng, sao ấy là đem lại ánh sáng, soi sáng mọi vật
trong đêm tối. Bên cạnh đó, nhiều lúc chúng lại trở thành những người bạn để con người giãi
bày tâm sự, đặc biệt là những đôi lức yêu nhau. Ca dao cổ truyền đã có nhiều bài như thế: Đêm
qua ra đứng bờ ao / Trông cá cá lặn, trông sao, sao mờ / Buồn trông con nhện giăng tơ / Nhện
ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai? / Buồn trông chênh chếch sao mai / Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao
mờ?; Đêm nằm ở dưới bóng trăng / Thương cha, nhớ mẹ không bằng nhớ em; Đêm qua trời
sáng trăng rằm / Anh đi qua cửa , em nằm không yên;...Ca dao về Bác Hồ tiếp tục kế thừa
những hình ảnh và cách biểu hiện trên của ca dao cổ truyền. Nhân dân lao động mượn trăng,
sao như vật gợi hứng để nói lên tình cảm, nghĩ suy của mình đối với Bác: Đêm nay trăng sáng
đầy rời / Trung thu nhớ Bác cháu ngồi cháu trông; Đêm nay trăng tỏ mặt người / ta ra vun xới
một vài luống ngô / Ngày mai sinh nhật Bác Hồ / Viết thư chúc Bác từng giờ khỏe thêm; Đêm
nay ngồi dưới chiến hào / Bên nòng đại pháo, ngắm sao trên trời / Gió về rắc nhẹ sương rơi /
Nghe thơ Bác vọng giữa trời quê hương / Đoàn quân giải phóng lên đường / Mừng sinh nhật
Bác, chiến trường lập công;...Tuy nhiên, nhân dân không chỉ mượn trăng, sao để thổ lộ tình
cảm với Bác mà đôi khi còn ví Bác với cả sao, trăng. Trên trời có ông sao Rua / Việt Nam ta có
Bác Hồ em ơi; Đếm sao cho hết vì sao / Kể sao cho hết công lao Bác Hồ; Ngó lên trời có vì sao
dẫn lối / Ngó ra Hà Nội có Bác Hồ Chí Minh; Ngôi sao sáng giữa cờ hồng / Hình Cha rực rỡ
giữa lòng chúng con; Nhờ mặt trời cộng với mặt trăng / Soi sáng đất nước đêm ngày / Nhờ
Chính phủ và Hồ Chí Minh / Lãnh đạo các dân tộc chúng mình; Xa xôi nhớ tới Cụ Hồ / Đêm
đen trời sáng cũng nhờ ánh trăng;...
Một trong những nội dung chủ yếu của ca dao về Bác là lòng biết ơn của toàn dân đối với
Bác. Công ơn của Bác đối với nhân dân là vô tận vô cùng. Nhân dân được hạnh phúc, được ấm
no, được học cái chữ ấy cũng là nhờ ơn Bác. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà nhân dân
thường so sánh Bác với những hình ảnh kỳ vĩ của thiên nhiên, tạo hóa như sông dài, biển rộng,
non cao. Có lẽ vì vậy mà trong ca dao về Bác hình ảnh núi, non, biển, trời xuất hiện với tần số
cao hơn cả. Đúng như nhận định của Bùi Mạnh Nhị: “Các tác giả dân gian đã mượn những
hình ảnh sông dài, biển rộng, non cao để so sánh với Bác. Hình như lấy tầm vóc vũ trụ cũng
không nói hết sự to lớn của Người.” [61,3]
Núi Thái Sơn, sao Rua, ánh dương, trời cao, biển rộng, nhiều biểu tượng thường được
dùng xưa nay trong văn học để so sánh với công cha nghĩa mẹ, so sánh với các bậc anh hùng có
công dựng nước và giữ nước, nay cũng được ca dao nhận thức để so sánh với Bác Hồ. Ấy là
lòng dân kính yêu Bác, muốn ví Bác với sự bao la, vĩ đại, với sự trường tồn, bất diệt của thiên
nhiên, vũ trụ. Phải chăng trong tâm khảm người dân Bác mãi trường tồn, bất tử cùng với núi
non hùng vĩ? Cụ Hồ là vị cha chung / Là sao Bắc Đẩu là vừng Thái Dương; Cụ Hồ là nước là
non / Hình Người in giữa cờ son sao vàng; Cụ Hồ như núi Thái Sơn / Cơm kia, chữ nọ công ơn
nào tày; Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Bác Hồ hơn
mẹ hơn cha / Tình sâu, nghĩa nặng bao la biển trời.
Chúng tôi thấy ở đây ca dao về Bác chịu ảnh hưởng của ca dao cổ truyền. Ca dao xưa
thường sử dụng hình ảnh núi Thái Sơn, nước trong nguồn, nước ở ngoài biển Đông để so sánh
với công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như
nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con; Ơn
cha như biển / Nghĩa mẹ như trời / Thương nhờ, ghét sợ không dám trao lời thở than; Ơn cha
rộng thênh thênh như biển / Nghĩa mẹ dài dằng dặc bằng sông; Ân cha nặng lắm ai ơi! / Nghĩa
mẹ bằng trời chín tháng cưu mang; Ơn cha núi chất trời Tây / Nghĩa mẹ lai láng nước đầy biển
Đông; Ơn cha trượng lắm cha ơi / Nghĩa mẹ bằng trời mang nặng đẻ đau;... Những hình ảnh so
sánh ví von quen thuộc để nói lên công cha nghĩa mẹ thật vô cùng to lớn, mãi mãi không cùng.
So sánh công cha, nghĩa mẹ với núi sông, trời biển là rất phù hợp và hay vì đây là những so
sánh với những đại lượng khó xác định cụ thể phạm vi. Hơn nữa cha - đàn ông, thuộc dương,
cứng rắn so sánh với núi; mẹ - đàn bà, thuộc âm, mềm mại dịu dàng so sánh với nước, tạo thành
bộ đôi sơn - thủy vừa linh hoạt vừa bền vững. Cách so sánh như vậy thật thấu tình đạt lí, lại
dường như chẳng chút khiên cưỡng nào khiến lời thơ trong suốt, đẹp tự nhiên như núi sông, trời
biển. Từ đó, lời răn dạy, bảo ban về chữ hiếu của đạo làm con được bài ca dao đặt ra trở nên
thấm đượm tình cảm như từ trong lòng phát ra, tránh được tính công thức giáo điều thường thấy
ở các lời khuyên. Nhưng không phải bao giờ cũng có sự phân định rằng hễ cha thì nghiêm còn
mẹ thì từ mà trong một số trường hợp phải đổi lại, hoặc chia đều mới đúng.
Mặt trời có một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. Mặt trời đem lại
ánh sáng cho vạn vật. Mặt trời đem lại sự sống cho muôn loài. Không có mặt trời cũng có nghĩa
muôn vật không còn sự sống. Qua việc so sánh Bác với mặt trời, tác giả dân gian muốn khẳng
định vai trò, tầm quan trọng không thể thiếu của Bác đối với dân tộc Việt Nam. Bác Hồ chẳng
phải đã dẫn đường soi sáng cách mạng đến cho toàn dân tộc sao? Bác Hồ chẳng phải đã tìm
đường cứu nước mang lại độc lập tự do cho đất nước Việt sao? Không có Bác đất nước ta sẽ
chìm mãi trong bóng tối của đô hộ, phải chịu ách gông cùm, xiềng xích của nô lệ. Bác Hồ -
vầng thái dương lớn nhất, rực rỡ nhất của đất nước, dân tộc Việt, xua tan những bóng tối của
khổ đau, đói nghèo Người như là mặt trời cao / Tỏa muôn ánh sáng soi vào lòng dân; Cụ Hồ là
vị cha chung / Là sao Bắc Đẩu là vừng Thái Dương; Dù cho vật đổi sao dời / Bác Hồ như ánh
mặt trời mùa xuân;...Ở đây, chúng tôi thấy có sự tương đồng trong việc sử dụng hình ảnh giữa
ca dao về Bác và thơ hiện đại viết về Bác. Trong bài thơ ” Viếng lăng Bác”, nhà thơ Viễn
Phương cũng ví Bác với hình ảnh mặt trời:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
(Viếng lăng Bác, Viễn Phương)
Trong cái nhìn của tác giả, hình ảnh Bác sáng lòa, rực rỡ như vầng thái dương. Hai câu
thơ với hai hình ảnh mặt trời sóng đôi – mặt trời thật với hành trình không bao giờ dứt, không
bao giờ dừng và mặt trời trong lăng là một biểu tượng về Bác. Hình ảnh ẩn dụ ”mặt trời trong
lăng” thật giàu sức biểu cảm. Cái cách nói ẩn dụ chính là biểu hiện đẹp nhất của lòng yêu kính
lẫn với niềm tự hào không chỉ của riêng Viễn Phương mà của cả dân tộc Việt dành trọn cho
Bác.
Trời, đất, những hình ảnh vĩnh cửu của thiên nhiên, vũ trụ, cũng là hình ảnh được nhân
dân dùng để so sánh với Bác. Trời cao rộng bao trùm vạn vật, đất mênh mông ôm gọn mọi sinh
linh, kiếp người. Trời, đất là môi trường sống không thể thiếu của muôn vật, muôn loài. Sự liên
tưởng của nhân dân thật thú vị: Bác Hồ chẳng kể công ơn / Mà công của Bác bằng non bằng
trời; Cụ Hồ ơn đức biết bao / Ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời...Đúng thế! Công đức của
Bác dày như đất, cao như trời. Nhân dân kể đến bao giờ cho xong. Hình ảnh thực vật
Bảng thống kê tần số xuất hiện các hình ảnh thực vật
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 TC HÌNH ẢNH Sen Vú sữa Quế Trầm Phi lao Bạch đàn Đa Dừa TẦN SỐ XUẤT HIỆN 5 1 1 1 1 1 1 1 12
Trong thế giới thực vật, sen là hình ảnh được tác giả dân gian sử dụng nhiều nhất để ví
với Bác. “Trong tự nhiên hoa sen là loại hoa đẹp. Loài hoa này đặc biệt gắn bó với đời sống
con người ở cả giá trị thẩm mỹ và giá trị sử dụng. Hoa sen đẹp từ màu sắc, dáng hoa cho đến
từng cánh hoa, nhụy hoa” [1,53].
Trong ca dao, hoa sen được biểu tượng cho sự trong sạch, thanh cao, cho sự thẳng thắn
vươn lên:
Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Ngoài ra sen còn mang nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp người con gái:
Ngó lên lỗ miệng em cười
Như búp hoa sen nở như mặt trời mới lên.
Sen là hình ảnh trữ tình trong các tác phẩm văn học. Từ cổ đến kim, rất nhiều nhà thơ,
nhà văn…đã lấy hoa sen làm hình tượng cho tác phẩm của mình. Chẳng hạn, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy hoa sen biểu tượng cho khí tiết của người quân tử, chỉ người quân tử
mới có được vẻ đẹp cao quí của hoa sen và cũng chỉ có người quân tử mới theo được sự cao quí
ấy một cách bền vững:
Thế sự dầu ai hay buộc bện
Sen nào có bén trong lầm.
Trong thơ văn bác học, hoa sen không chỉ biểu tượng cho người phụ nữ giống ca dao mà
còn biểu tượng cho những con người có đức độ, có tài năng xuất chúng. Phan Bội Châu đã
mượn hoa sen để đề cao về con người nhà thơ Hàn Mặc Tử- đời người và đời thơ của thi sĩ luôn
để lại sự ngưỡng mộ cho biết bao nhiêu người yêu thơ:
Lòng sen đằng đẵng tơ sen vướng
Mưa gió bao phen gốc chẳng tàn.
Cũng biểu tượng cho con người vĩ đại, vị lãnh tụ kính yêu , con người ưu tú của toàn dân
tộc Việt Nam được nhân dân ta gắn với biểu tượng hoa sen. Biểu tượng hoa sen được gắn với
Bác không chỉ vì quê hương Bác là làng sen-Kim Liên mà chính ở ý chí kiên cường, sự thanh
cao, trong sạch, hết lòng lo cho dân, cho nước của Bác. Hoa sen chính là biểu tượng cho sự cao
quí của con người:
Tháp Mười đẹp nhất bông sen,
Nước Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ
Tác giả dân gian của bài ca dao trên đã có công phát hiện một vẻ đẹp mang ý nghĩa kết
tinh vô cùng giản dị, thân thuộc mà cũng thật là kỳ diệu. Kỳ diệu bởi sự gắn bó hài hòa mới hồn
nhiên làm sao, chân thực làm sao, giữa cái “đẹp nhất” của thiên nhiên và của con người, của
lịch sử ngàn năm và của cách mạng hiện đại. Một vẻ đẹp tinh khiết, thơm thảo, vừa cụ thể vừa
tượng trưng, mênh mang hương sắc cổ truyền mà cũng giàu tính biểu tượng mới mẻ. Tác giả
dân gian đã sáng tạo bằng ngôn ngữ bình dân trong sáng, nhuần nhuyễn cái khung liên tưởng
đối tỉ rất đẹp, rất Việt Nam, cổ kính mà hiện đại:
Tháp Mười – Sen Đồng Tháp
Việt Nam – Tên Cụ Hồ
Chính sự so sánh trên đã tạo cho hình ảnh lãnh tụ một sắc thái dân gian thân thiết, không
hề mảy may nhuốm màu siêu nhân, thần thánh. Như vậy, chỗ đứng của Cụ Hồ là chỗ đứng của
một bông sen cao đẹp nhất trong sự kết tinh nhựa sống và hương sắc của triệu triệu bông sen
khác, và trong sự nuôi dưỡng của đất nước, của truyền thống văn hóa Việt Nam.
Hình ảnh nhân tạo
Ngoài những hình ảnh tự nhiên, tác giả dân gian còn sử dùng cả những hình ảnh nhân
tạo. Trương Thị Nhàn nhận định trong bài viết của mình “ Thế giới vật thể nhân tạo trong ca
dao cổ truyền Việt Nam là một thế giới đa dạng và phong phú…có khoàng 660/790 lần chúng
xuất hiện cùng với ý nghĩa hàm ẩn chiếm tỉ lệ 82 %” [57,46]. Trong ca dao về Bác, tác giả dân
gian cũng sử dụng nghĩa hàm ẩn của vật thể nhân tạo để ví với Bác. Tuy nhiên, hình ảnh nhân
tạo xuất hiện không nhiều. Khảo sát 521 bài, có 8 hình ảnh nhân tạo chiếm 25%. Với 14 lần
xuất hiện, các hình ảnh tần số xuất hiện rải rác từ 1 đến 4 lần.
Hình ảnh nhân tạo
STT HÌNH ẢNH TẦN SỐ XUẤT HIỆN
1 Dép 4
2 Kiếng/gương 2
3 Đò 2
4 Chuông 2
5 Cột trụ đồng 1
6 Chày 1
7 Cối 1
8 Đuốc 1
TC 14
Nhìn chung, những hình ảnh nhân tạo này gắn liền với đời sống sinh hoạt của người bình
dân. Đó là những vật dụng cá nhân, đồ dùng gia đình, dụng cụ lao động sản xuất,…Mỗi vật
nhân tạo có đặc trưng riêng của nó, tác giả dân gian mượn những tính chất ấy để xây dựng nên
những phẩm chất đáng quí của Bác.
Đò là phương tiên phổ biến nhất để đi lại trên sông nước. Nó cũng được đi vào ca dao
cùng với con người, khắc họa tính cách con người. Đặc điểm, công dụng của chiếc đò ngang là
giúp người đi lại trên sông ngòi, kênh rạch. Dùng đặc điểm của hình ảnh này nhân dân ví Bác
như chiếc đò ngang đưa toàn dân tộc đến bến bờ vinh quang Cụ Hồ như chiếc đò ngang / Đưa
ta qua bến gian nan chống chèo; Cụ Hồ như chiếc đò ngang / Đưa ta đến bến vinh quang đời
đời.
Cũng hình thức trên, nhân dân dùng đặc điểm của cái kiếng (gương) soi để ví với Bác.
Bác chính là tấm gương sáng để nhân dân noi theo. Đạo đức của Người, phẩm chất của Người
sẽ mãi mãi là truyền thống, đạo đức quí báu cho bao thế hệ con cháu học tập và noi gương Cụ
Hồ như cái gương soi / Soi người trung liệt, soi người tinh ma; Tình Cha tỏa rộng nơi nơi /
Lượng Cha bát ngát sáng ngời như gương.
Tác giả dân gian đã dùng nhiều hình ảnh khác nhau từ tự nhiên, đến các hình ảnh nhân
tạo để ví với Bác và công ơn to lớn của Bác. Trong đó, một số hình ảnh đã trở thành biểu
tượng. Trong thiên nhiên, hình ảnh núi non đã trở thành biểu tượng cho công cha cao ngất. Nay
trong ca dao về Bác, hình ảnh ấy lại tượng trưng cho Bác, cho công ơn vời vợi của Bác. Rõ
ràng ở đây, các tác giả dân gian hiện đại ấy đã kế thừa các hình ảnh quen thuộc của ca dao cổ
truyền để ví với Bác. Ca dao về Bác không lạm dụng các hình ảnh này mà trái lại các nghệ sĩ
dân gian đã sử dụng những hình ảnh đó rất linh hoạt, thể hiện được những tâm trạng hết sức tế
nhị , hết sức cụ thể. Song bên cạnh đó, nhân dân cũng lồng vào đó những hình ảnh mới mẻ
nhưng gắn liền với cuộc đời quần chúng lao động, gắn liền với Bác.
So sánh chính là nhằm nhấn mạnh sự diễn đạt, tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt.
Đọc ca dao về Bác ta thấy hình ảnh mà tác giả dân gian dùng để ví với Bác thật đa dạng, phong
phú và khá sinh động. Từ chỗ so sánh đối chiếu song song hai hình ảnh như vậy cho thấy tác
giả dân gian cũng khá khéo léo và linh hoạt trong việc diễn đạt tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của
mình. Kết quả của sự dụng công ấy là làm cho mảng ca dao về Bác sinh động hơn, giàu màu
sắc, giàu hình ảnh hơn. Từ đó, để lại ấn tượng đậm nét hơn nơi người đọc.
3.5.2. Ẩn dụ
Ẩn dụ là gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác có nét tương đồng
với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Có thể nói đề tài về tình yêu nam nữ trong ca dao cổ truyền vận dụng khá đa dạng và
thành công biện pháp tu từ này. Chẳng hạn khi đề cập đến vấn đề hôn nhân, thì bài ca dao sau
có lẽ là kín đáo và tế nhị hơn cả:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng:
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Ca dao về Bác kế thừa hình thức thể hiện này. Nhiều chi tiết trong cuộc đời hoạt động
cách mạng của Người đã khơi nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian nói về cái đại dũng của
lãnh tụ. Một trong những chi tiết, hình ảnh đó là đôi dép cao su- đôi dép Bác Hồ. Đôi dép đã trở
thành hình tượng nghệ thuật đẹp mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc cho nghị lực phi thường của
người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh: Đôi dép đơn sơ / Đôi dép Bác Hồ / Bác đi từ ở chiến
khu về / Phố phường, trận địa / Nhà máy, đồng quê / Đều in dấu dép Bác về, Bác ơi! / Dép này
Bác trải đường dài / Dép này Bác mở tương lai nước nhà / Đường đi chiến đấu gần xa / Dấu
dép Cha già dẫn lối con đi;…
Đôi dép với hành trình đầy chông gai, gian khổ đã mở ra một tương lai tươi sáng cho
nước nhà. Không những thế, đôi dép giản dị của Bác còn nâng bước những anh chiến sĩ trên
đường hành quân, trên đường ra trận: Đẹp sao đôi dép cao su / Đế dầy, quai dẻo, bền như tình
người / Bác mang đôi dép trọn đời / Chông gai chẳng sợ, đường dài chẳng nao / Con đi chiến
đấu gian lao / Chân mang dép nhẹ vượt bao dặm trường / Đá mòn nhưng dép chẳng mòn / Ta
đi giết giặc, dép còn thủy chung / Trường Sơn mấy núi trập trùng / Hoa in dấu dép trên đường
quân đi;…
Mượn đặc điểm tính chất của đôi dép đế dầy, quai dẻo để nói lên ý chí và nghị lực phi
thường của Bác. Đôi dép ấy đã cùng Bác vượt qua bao chông gai, thử thách trên chặng đường
dài đấu tranh. Dùng hình ảnh gần gũi quen thuộc để làm nổi bật phấm chất ý chí sáng ngời của
Người, các tác giả dân gian quả thật khéo léo và dụng công.
Đôi dép cao su cũng là đề tài vô tận cho các nhà thơ viết về Bác, ca ngợi Bác. “Trong thơ
viết về Bác, hình ảnh đôi dép cao su thường được nhắc đến như một biểu tượng đẹp đẽ của con
đường cách mạng, của nghị lực sắt đá, của tinh thần tiến công, của ý chí chiến thắng” [35,50].
Hình ảnh đôi dép trong thơ còn được nhắc đến nhiều hơn cả ca dao. Qua khảo sát sơ bộ trong
cuốn Thơ dâng Bác do Nguyễn Xuân Lạc tuyển chọn và giới hiệu, chúng tôi nhận thấy đôi dép
cao su, mà nhân dân và cả các nhà thơ hay gọi là đôi dép chiến trường xuất hiện 7 lần trong các
bài thơ khác nhau. Về “Viếng Bác”, nhà văn miền Nam Hưởng Triều đã có một cảm giác đặc
biệt khi cầm đôi dép của Bác:
Mân mê đôi dép chiến trường
Tưởng rằng theo Bác trên đường hành quân.
(Viếng Bác, Hưởng Triều)
Liên Nam thấy rõ đó là đôi dép của nghị lực, của dũng khí cách mạng:
Chông gai Bác có sá gì
Vẫn đôi dép lốp trường kì hành quân.
(Con mang cả trái tim Người, Liên Nam)
Thu Bồn nhớ đến hình ảnh đôi dép của Bác bởi chính đôi dép đó đã truyền dũng khí cho
nhà thơ, cho cả nhân dân Việt Nam:
Hành trang Bác chẳng có gì
Một đôi dép mỏng đã lì chông gai
Cho con núi rộng sông dài
Cho con lưỡi kiếm đã mài nghìn năm
(Gởi lòng con đến cùng Cha, Thu Bồn)
Ngoài việc mượn hình ảnh đôi dép cao su để ngợi ca ý chí, nghị lực của Người, ca dao
còn mượn hình ảnh bóng mát cây xanh để nói đến tình thương mà Bác dành cho mọi người: Ba
mươi năm đẹp một ngày / Hàng cây đã hóa rừng cây bạt ngàn / Từ Lạng Sơn bước thênh thang
/ Qua Hiền Lương đến xóm làng Cà Mau / Đẹp tươi xanh mát một màu / Con đi lòng nặng ơn
sâu Bác Hồ; Còn non, còn nước, còn người / Cây xanh để lại cho đời nở hoa / Nhớ lời Di chúc
của Cha / Chúng con ra trận hái hoa dâng Người; Hành quân dưới rặng cây xanh / Tưởng như
đi dưới ân tình Bác che / Con đi bóng mát che đầy / Đếm sao hết được rừng cây Bác Hồ; Ai ơi
trăm nghĩa trăm tình / Bác đi để lại màu xanh cho đời; Mái trường ngói đỏ hây hây / Cây cao
bóng cả tình này Bác che; Một chiều nắng âm Thủ đô / Vui sao được thấy Bác Hồ trồng cây /
Mai này cây Bác lên xanh / Bao nhiêu rễ bấy nhiêu cành lá xanh / Cây xuân tỏa bóng khắp trời
/ Bóng cây bóng Bác đời đời vươn cao / Nghìn năm sau nhớ công lao / Trồng cây, bóng Bác
che bao nhiêu người;…
Cây xanh là hình ảnh gần gũi với quần chúng lao động. trong cuộc sống thường nhật của
mình, người dân cảm nhận được những ích lợi mà cây xanh mang đến. Những buổi trưa hè oi ả,
sau một buổi cấy cày mệt nhọc ngoài đồng sâu thì bóng mát của lùm tre bên đường là nơi lý
tuởng nhất cho bà con nông dân nghỉ ngơi. Không chỉ có thế cây xanh còn cho một bầu không
khí trong lành, tinh khiết, đem lại cảm giác tươi mát, sảng khoái cho bao người. Mượn đặc điểm
về công dụng, tính chất của cây xanh, người dân liên tưởng đến tình thương mà Bác mang đến
cho toàn dân. Tình thương của Người tỏa rộng đến nơi nơi. Đâu đâu cũng nhận được sự quan
tâm của Người. Mượn hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống để ví với Bác, làm nổi bật
tình thương của Bác, đúng là rất phù hợp với bản chất mộc mạc, tự nhiên của lớp người bình
dân.
Chúng tôi nhận thấy tần số xuất hiện biện pháp tu từ này không nhiều như ca dao cổ
truyền (mà đặc biệt là trong tình yêu nam nữ). Phải chăng chuyện tình yêu là chuyện cần sự tế
nhị, kín đáo nên việc mượn sự vật, hiện tượng, khái niệm khác để diễn đạt, để biểu lộ tình yêu
là điều dễ hiểu? Riêng tình cảm của nhân dân đối với Bác Hồ giống như những loại tình cảm
đối với quê hương, đất nước, ông bà, cha mẹ, thầy cô…Đó là những tình cảm thiêng liêng, cao
quý nhất của con người nên mọi người luôn muốn nói thẳng, nói trực tiếp, không muốn vòng
vo, dài dòng làm gì. Phải chăng đó là lí do mảng ca dao về Bác rất ít sử dụng biện pháp tu từ ẩn
dụ nói trên?
3.5.3. Hoán dụ
Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật, hiện tượng,
khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Có bốn cách hoán dụ thường gặp: lấy một bộ phận để gọi toàn thể; lấy vật chứa đựng để
gọi vật bị chứa; lấy dấu hiệu sự vật để gọi sự vật; lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng. Tuy
nhiên, qua khảo sát, người viết nhận thấy, bộ phận ca dao về Bác chủ yếu sử dụng kiểu hoán dụ
thứ hai, lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa: Miền Nam chiến đấu gian nan / Bác là sức mạnh
vững vàng niềm tin; Rừng xanh lắm cội lắm cơn / Bản nghèo biết lắm công ơn Bác Hồ; Miền
Nam muôn thưở một lòng / Nnhớ ơn cách mạng, nhớ công Bác Hồ; Trèo truông mới biết
truông cao / Việt Nam kháng chiến mới biết công lao Cụ Hồ; Bao giờ thống nhất nước non /
Cần Thơ gửi vú sữa kính dâng Bác Hồ; Vĩnh Linh ta làm theo lời Bác / Mặc cho máy bay
chúng bắn suốt ngày / Cùng nhau chiến đấu hăng say / Thi đua sản xuất, đôi tay vững vàng;…
Ở đây, rõ ràng tác giả dân gian đã vận dụng kiểu hoán dụ lấy vật chứa đựng để gọi vật bị
chứa. Việt Nam, miền Nam, hay bản nghèo, Cần Thơ, Vĩnh Linh… thật ra đều ám chỉ nhân dân
ở đất nước ấy, địa phương ấy, vùng miền ấy, bản làng ấy…Tất cả họ đều hướng tình cảm của
mình về Bác. Cách nói vừa sinh động lại giàu sức biểu cảm, làm cho mảng ca dao về Bác đọng
lại sâu sắc trong lòng dân tộc.
Hầu hết vật chứa đựng ở đây là xóm, làng, bản, xã, huyện, tỉnh, miền, nước. Vật bị chứa
chính là người dân ở các nơi ấy. Như vậy việc dùng kiểu hoán dụ này cho thấy tình cảm đối với
Bác không còn là của riêng một cá nhân nào mà nó đã trở thành tình cảm chung của tập thể
nhân dân ở một làng, một xã, một huyện mà cao hơn là một tỉnh, một một miền và trên cả nước.
Cái tình cảm riêng ấy đã hòa thành cái tình chung của tập thể nhân dân. Cho nên khi đọc bài ca
dao như vậy, ai ai cũng có cảm giác như của mình, như thấy tình cảm của mình trong đó. Chính
vì thế mà ca dao về Bác dễ nhớ, dễ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc nói riêng, trong
lòng quần chúng nhân dân nói chung.
3.5.4. Nói quá
Nói quá (thậm xưng, cường điệu) là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất
của sự vật hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
Ơn đức Cha già biết bao
Ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời
Tình Cha tỏa rộng nơi nơi
Lượng Cha bát ngát sáng ngời như gương
Lòng Cha như Thái Bình Dương
Yêu quí nhân loại, mến thương giống nòi
Bác là cuộc sống sáng tươi
Bác là hạnh phúc muôn đời nở hoa
Bác là muôn vạn lời ca
Bác là hình ảnh quê ta thanh bình
Bác là muôn ánh bình minh
Xé màn nộ lệ mở trời tự do.
Rõ ràng, cách nói “ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời”, “Lòng Cha như Thái Bình
Dương”, “Bác là muôn ánh bình minh, xé màn nộ lệ mở trời tự do” tất cả đều là nói quá.
Nhưng chính cách cường điệu này mới tạo được ấn tượng, gây được cảm xúc, tạo được chú ý
cho người nghe, người đọc. Với biện pháp cường điệu, tác giả bài ca dao không chỉ khẳng định
công ơn vô cùng to lớn của Bác mà còn bày tỏ niềm tự hào, biết ơn đối với Bác. Bài ca dao
không chỉ bộc lộ tình cảm của riêng cá nhân nữa mà đó cũng là tình cảm của muôn dân nói
chung dành cho Bác. Cái hay của ca dao là ở chỗ đó, nó không phải của riêng bất kỳ cá nhân
nào mà nó đã mang tính tập thể, tính cộng đồng chung.
Hay bài ca dao sau:
Nhất thơm là bạch đàn chanh,
Bác đi để lại hương lành cho con.
Nhất xanh là tán đa tròn,
Bác đi để bóng mát trùm ngàn sau.
Nhất thẳng là ngọn phi lao,
Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ.
Chúng ta biết rằng ở Việt Nam nhiều cây còn thơm hơn cả bạch đàn chanh, xanh hơn cả
tán đa, thẳng hơn cả ngọn phi lao thế nhưng đối với tác giả dân gian ở địa phương nào đó thì
thấy bạch đàn chanh thơm nhất, tán đa tròn xanh nhất, ngọn phi lao thẳng nhất. Cho nên mới có
trường hợp người khác lại cho rằng xanh nhất là tán vú sữa tròn, thẳng nhất là dáng đước cao:
Nhất xanh tán vú sữa tròn
Bác đi để bóng mát trùm nghìn sau
Nhất thẳng là dáng đước cao
Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ.
Nhưng dù là cây nào thơm nhất, xanh nhất, thẳng nhất điều đó không quan trọng. Điều
mà tác giả muốn gửi gắm ở đây chính là những cái nhất ấy được dùng để ví với Bác, tình
thương của Bác. Đối với nhân dân thì Bác là nhất trong lòng họ. Biện pháp khoa trương nói quá
đã khẳng định suy nghĩ đó của người dân.
Biện pháp thậm xưng xuất hiện không ít trong ca dao về Bác: Đường ra trận tuyến hôm
nay / Bác đang đạp núi rẽ mây đi cùng; Đối với chúng tôi / Cụ Hồ cao hơn núi, rộng hơn biển,
sáng hơn mặt trời / Bởi vì Cụ làm được chuyện Phật dạy / Mọi người đều có ruộng; Nam Hải
sâu ta còn đo được / Trường Sơn dài ta vượt cũng qua / Công Hồ Chủ Tịch bao la / Ơn Bác mãi
mãi dân ta ghi lòng; Bao giờ chạch đẻ ngọn cây / Người không uống nước, gậy tày sinh con /
Thì lòng tin tưởng Cụ Hồ / Vẫn không phai lạt xóm đò bầy tui; Bao giờ hết đước Năm Căn / Ông
Trang hất cá, Viên An hết rừng / Khai Long mà hết cá đường / Miền Nam mới hết nhớ thương Bác
Hồ;... góp phần đề cao và khẳng địng công lao của Bác đối với muôn triệu người dân Việt Nam.
Như vậy, chúng ta thấy nói quá không phải là nói xạo, nói dối hay nói bậy mà nói dựa
trên những cơ sở thực tế có thật rồi từ đó nâng quy mô, tính chất, mức độ của sự việc, hiện
tượng lên nhằm nhấn mạnh đặc điểm hay tính chất của sự việc, hiện tượng ấy mà thôi. Dựa trên
những gì mà Bác đã làm cho đất nước và nhân dân, các tác giả dân gian mới nâng những hành
động, việc làm hay tình cảm của Người lên một tầm cao hơn. Đó chính là cách mà nhân dân
muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của họ đến với Bác.
3.5.5. Nói giảm, nói tránh
Nói giảm nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh
gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
Bác Hồ qua đời cũng là đề tài trong ca dao về Bác. Đề cập đến đề tài này, nhân dân
thường sử dụng lối nói giảm, nói tránh: Bác ơi, dù Bác đi rồi ? Một lòng cháu nguyện theo lời
Bác răn; Bác đi? Không Bác vẫn còn / Tiếp dòng máu nóng cho con sớm chiều; Không! Ai bảo
Bác đi rồi? / Bác còn ở khắp nơi nơi nhà nhà; Mấymươi năm kháng chiến thật ghê / Tiếc thay
sáu chín Cụ về thiên cung;…
Đi là mất, là chết, là qua đời…Bác đã mất nhưng không một người dân nào muốn tin vào
điều đó. Ai ai cũng như thấy Bác hiện diện ở khắp mọi nơi, mọi nhà. Đồng bào ai cũng đau
đớn, xót xa nên dường như ai cũng muốn tránh đi nỗi đau đớn tột cùng, giảm đi sự đau thương,
mất mát.
Nói về sự ra đi của Bác, ca dao và thơ ca viết về Bác đều có cùng cách diễn đạt này. Có
lẽ, nhà thơ có nhiều cách nói sáng tạo để miêu tả cái chết của lãnh tụ đó là Tố Hữu: Bác đã đi
rồi sao Bác ơi! / Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời; Bác đã lên đường nhẹ bước tiên / Mác –
Lênin, thế giới người hiền (Bác ơi); Chắc như thường lệ, Người đi vắng; Bảy mươi chím tuổi
xuân trong sáng / Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay; Thôi đập rồi chăng một trái tim? / Đỏ
như sao Hỏa, sáng sao Kim. Nhưng có lẽ hay nhất, sâu sắc nhất, hàm chứa nhiều ý nghĩa nhất
là câu:
Cứ nghĩ: Hồn thơm đang tái sinh
Ngôi sao ấy lặn hóa bình minh.
(Theo chân Bác)
Bác mất nhưng một trời ánh sáng lại hiện ra trước mắt chúng ta, hồn thơm của Bác đang
tái sinhcho dân tộc, mang lại ánh sáng cho đời. Hình ảnh này gợi nhớ câu thơ của Phạm Tiến
Duật:
Mặt trời lặn mặt trời mang theo nắng
Bác ra đi để ánh sáng cho đời.
(Bác ra đi)
Cách diễn đạt trong ca dao về Bác có nét tương đồng với cách diễn đạt chung của nhân
dân Việt Nam. Khi đề cập đến chuyện đau buồn, người ta không nói thẳng, nói trực tiếp mà
thường vòng vo, xa gần để tránh cảm giác đau đớn đột ngột. Nói giảm, nói tránh là một trong
những cách nói xa gần ấy để tránh nỗi đau cho người đối diện, thậm chí là của chính bản thân
mình. Ngay cả Bác cũng dùng cách diễn đạt này. Trong Di chúc, Người có viết: Vì vậy tôi để
sãn mấy lời này, phòng khi tôi đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê nin và các vị cách mạng đàn anh
khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột
ngột. Cho nên, đề cập đến cái chết thì không có biện pháp nào hữu hiệu bằng nói giảm nói
tránh.
Nói tóm lại, qua những gì đã khảo sát về ngôn ngữ ca da về Bác, chúng tôi nhận thấy đặc
điểm ngôn ngữ của mảng ca dao này khá đặc sắc, giàu sắc thái biểu cảm. Sự kết hợp giữa ngôn
ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa phương, ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường trong ca
dao về Bác vừa phản ánh được cách nói trau chuốt, bóng bẩy, mượt mà của thơ ca vừa phản ánh
được lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng lao động; vừa cho thấy ca dao về Bác là một
hiện tượng không chỉ xuất hiện ở một địa phương vùng miền nào mà là hiện tượng đặc biệt
chung của quảng đại quần chúng nhân dân. Hiện tượng dùng tên riêng chỉ địa điểm trong bộ
phận ca dao này là sự kế thừa và tiếp nối mảng ca dao ca ngợi quê hương đất nước của ca dao
cổ truyền. Sự kế thừa ca dao cổ truyền còn thể hiện rõ nét hơn qua cách sự dụng từ ngữ trùng
lặp, sử dụng các công thức, các khung kết cấu truyền thống trong ca dao về Bác. Nhưng có lẽ
đặc biệt nhất chính là sự vận dụng khéo léo và dụng công các biện pháp tu từ của các tác giả
dân gian hiện đại. Các biện pháp tu từ ấy đã góp phần hoàn thiện bức tranh vô cùng sinh động
của ca dao về Bác mà nhân dân lao động đã vẽ nên bằng tất cả tình yêu thương và sự biết ơn,
kính trọng của mình đối với Bác kính yêu.
KẾT LUẬN
Ca dao về Bác thoạt nhìn rất mộc mạc, dân dã nhưng những nét độc đáo trong nghệ thuật
vẫn đấy ắp và sinh động.
Ca dao về Bác là sáng tạo của nhân dân ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam nước ta. Được
hình thành trong môi trường giàu bản sắc văn hóa, ca dao về Bác chứa đựng nội dung phong
phú, giàu tính nhân văn. Đây là một hiện tượng văn hóa và văn học độc đáo, có thể xem là hiếm
có trong văn học truyền miệng Việt Nam. Có thể nói, trong lịch sử văn học Việt Nam, chưa một
nhân vật lịch sử nào lại có khối lương thơ ca hướng tới để tìm hiểu và nhận thức nhiều như Bác.
Dòng thơ ca đó tiếp nối và được kết tinh từ nguồn thơ ca dân gian về nhân vật lịch sử và về đất
nước giàu đẹp, anh hùng. Được sản sinh và lưu truyền ở khắp mọi nơi, ca dao về Bác vẫn còn
tiếp tục tồn tại và phát huy trên mọi miền đất nước. Sức sống trường tồn của bộ phận ca dao
này trong đời sống của nhân dân lao động đã khẳng định được ý nghĩa và giá trị vượt thời đại
của chúng.
Thông qua việc tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật của bộ phận ca dao này, ta thấy được tài
năng của quần chúng nhân dân trong việc sáng tạo và lưu truyền những bài ca dao đặc sắc, thú vị.
Bằng nhiều biện pháp và mỗi biện pháp lại được vận dụng linh hoạt, khéo léo, tự nhiên, ca dao về
Bác đã mang lại bao tình cảm yêu thương, tình nghĩa gây bao xúc động cho người thưởng thức.
Ca dao về Bác kế thừa trọn vẹn hình thức và đặc điểm của thể lục bát trong ca dao cổ
truyền bởi đây là thể thơ có cách ngắt nhịp, gieo vần phong phú, đa dạng khiến cho bộ phận ca
dao về Bác dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thuộc và từ đó dễ đi vào lòng người, đọng lại trong lòng người
đọc những rung cảm, những âm vang khó phai. Ngoài ra, trường hợp lục bát và song thất lục
bát biến thể xuất hiện với tần số cao cùng với việc vận dụng khéo léo thể hỗn hợp cho thấy
nhân dân luôn muốn nói nhiều hơn nữa những tình cảm của mình đối với Bác Hồ kính yêu.
Là một bộ phận của ca dao hiện đại, kết cấu của 521 bài ca dao về Bác đã kế thừa hầu hết
các dạng kết cấu của ca dao cổ truyền: kết cấu đối đáp và kết cấu trần thuật; kết cấu đối lập và
kết cấu đối ngẫu tâm lý; kết cấu thu hẹp dần hình tượng và kết cấu miêu tả trực tiếp. Các biểu
hiện khá đa dạng của kết cấu đã cho thấy quá trình sáng tạo và lưu truyền độc đáo, linh hoạt của
ca dao về Bác. Kết cấu đối đáp dù một vế hay hai vế, chúng ta vẫn thấy thấp thoáng hai nhân
vật đang tâm sự, trò chuyện, trao đổi với nhau mà nội dung của những cuộc trao đổi ấy thường
xoay quanh con người của Bác hoặc những vấn đề có liên quan đến Bác. Kết cấu trần thuật
giúp người đọc hình dung và hiểu sâu sắc hơn một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, giai
đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ, mà Bác là hình tượng
trung tâm xuyên suốt quá trình ấy. Bằng kết cấu đối lập, nhân dân đã phản ánh được sự tưởng
phản trong cách bộc lộ tình cảm đối với Bác Hồ và bọn bán nước, cướp nước; phản ánh được
trái ngược của hai cuộc đời của nhân dân lao động: khổ đau, tủi nhục dưới ách thống trị của chế độ
phong kiến thực dân, hạnh phúc, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác. Kết cấu đối ngẫu tâm lý
một lần nữa khẳng định tài hoa của các tác giả dân gian hiện đại:
Có thể nói ngôn ngữ của mảng ca dao về Bác khá đa dạng và độc đáo. Ngôn ngữ ở đây
có sự kết hợp giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa phương, ngôn ngữ văn chương và ngôn
ngữ đời thường. Chính sự kết hợp giữa ngôn ngữ gọt giũa, trau chuốt, bóng bẩy với ngôn ngữ
mộc mạc, giản dị, là lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng lao động đã góp phần làm cho
bộ phận ca dao này trở nên sinh động và giàu màu sắc biểu cảm hơn. Đặc biệt nhất chính là
cách dùng tên riêng chỉ địa điểm. Những tên quê, tên đất, tên nước, tên xóm, tên làng, tên vùng,
tên miền ấy đã gây nên một trường liên tưởng về những tình cảm cao quí của nhân dân ở khắp
mọi miền đất nước dành cho Bác. Đâu đâu, ai ai cũng thấy trong đó tình cảm yêu thương, trân
trọng, biết ơn của mình đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Việc lặp lại một số từ ngữ trong ca
dao về Bác như nhớ ơn, thương yêu, mong chờ cũng nói lên điều đó. Các hình thức trùng lặp
khung kết cấu, trùng lặp công thức, dòng thơ mà tiêu biểu là nhóm từ mở đầu, dòng đầu của
mỗi bài ca dao là hình thức khá phổ biến của ca dao cổ truyền. Ca dao về Bác Hồ đẽ kế thừa
trọn vẹn hình thức này. Có thể nói đây là hiện tượng giao thoa và tiếp nối của ca dao hiện đại,
đặc biệt là ca dao về Bác với ca dao cổ truyền. Mượn dòng đầu của ca dao cổ, cái khung kết cấu
của ca dao cổ để thể hiện những nội dung mới phù hợp với thời đại.
Nhân dân đã vận dụng khéo léo các hình ảnh trong tự nhiên và trong cuộc sống hằng
ngày để ngợi ca Bác, công ơn Bác. Những hình ảnh núi non, trời biển đã trở thảnh biểu tượng
ca ngợi công lao sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ trong ca dao cổ truyền, nay được quần
chúng nhân dân dùng để sánh với Bác, ví với công lao của Bác. Đó là sự kế thừa có phát huy
của ca dao hiện đại. Kế thừa những hình ảnh truyền thống để ngợi ca con người thời đại, con
người của gia cấp vô sản. Bên cạnh đó, các tác giả dân gian cũng mượn những đặc điểm, tính
chất của các vật thể nhân tạo trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày như chiếc đò ngang, cái
gương soi, ngọn đuốc sáng… để ca ngợi những phẩm chất đạo đức cao quí của Người mà các
thế hệ con cháu ngày nay đang ra sức phấn đấu học tập và làm theo tấm gương đạo đức sáng
ngời ấy.
Có thể nói, ca dao về Bác vừa kế thừa và phát huy ca dao truyền thống vừa là đại diện
tiểu biểu của ca dao hiện đại. Từ thể thơ, kết cấu cho đến hình ảnh, ngôn ngữ chúng tôi đều
thấy sự tương đồng giữa ca dao về Bác và ca dao hiện đại. Từ mối tương đồng này người viết
mạnh dạn cho rằng ca dao về Bác Hồ có nhiều điểm tiêu biểu cho ca dao hiện đại, từ cách cảm
nhận và phản ánh cuộc sống tới tới sự gắn bó với truyền thống ca dao cổ truyền. Chúng tôi biết
không ít bài ca dao hiện đại được phổ biến trên sách báo và các phương tiện thông tin khác
trước khi tồn tại với hình thức truyền miệng. Đó là đặc điểm mang tính thời đại, làm nên những
sắc thái khác nhau giữa ca dao trong thời hiện đại với ca dao thời cổ. Duy có một đặc điểm
không bao giờ thay đổi và nhất quán qua mọi thời đại thơ ca. Đó là ca dao hiện đại luôn phát
triển gắn liền với những công thức ca dao truyền thống. Mỗi thời đại với nội dung chủ yếu của
nó tạo cho ca dao những công thức khác nhau. Song thi pháp và phong cách luôn gắn liền với
quá khứ, luôn mang tính truyền thống. Trong những khung mẫu sẵn có, ca dao hiện đại mới
nhanh chóng được phổ biến, được chấp nhận và lưu truyền rộng rãi. Quá trình đó làm nó trở
nên phong phú hơn, nhiều biến thể hơn. Và đó chính là quá trình sáng tạo đặc thù.Ở đó, nó biểu
hiện rõ nguyên tắc kế thừa, đồng thời lại vượt bỏ quá khứ để vươn tới một cách biểu hiện nghệ
thuật mới hơn. Ca dao về Bác chính là nguồn tài liệu phong phú mà qua khảo sát chúng tôi thấy
bộ phận ca dao này đã phản ánh được điều đó.
Điểm lớn nhất mà bộ phận ca dao này mang lại là những nét đẹp và độc đáo, đặc sắc
trong tâm hồn, tình cảm của nhân dân. Tình cảm đong đầy, lai láng của nhân dân khắp mọi
miền đất nước vẫn còn giao tiếp được với các thế hệ người đọc mãi về sau này, trong hiện tại và
tương lai, bởi vì tình cảm đối với Bác Hồ là tình cảm không bao giờ cạn của dân tộc. Qua việc
khảo sát những bài ca dao về Bác, ta thêm kính yêu Bác, thêm yêu quần chúng lao động cần lao
dù trong bộn bề khó khăn gian khổ vẫn không quên dành những tình cảm thân thương, trìu mến
nhất đến vĩ lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Tóm lại, xét về mặt thể loại, ca dao tồn tại từ xưa đến nay. Sự tồn tại đó không phải
không thay đổi. Ca dao giống như một sinh thể luôn luôn vận động và phát triển không ngừng.
Tùy vào hoàn cảnh, thời gian mà ca dao có sự thay đổi nhất định. Tuy nhiên, sự thay đổi đó là
không hoàn toàn. Đổi mới nhưng vẫn giữ lại những yếu tố cổ truyền. Qua trường hợp của ca
dao Bác Hồ, đặc biệt là thể thơ, kết cấu và ngôn ngữ, có thể thấy sự vận động và thích nghi của
văn học dân gian nói chung, ca dao nói riêng trong những điều kiện, hoàn cảnh mới. Từ đó, cho thấy
sức sống mãnh liệt của ca dao qua mọi thời đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Phương Châm (2000), Biểu tượng hoa sen trong văn hóa Việt Nam, Tạp chí
Văn hóa dân gian, số 4, tr 53-61.
2. Nguyễn Phương Châm (2003), Tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ của ca dao sưu tầm ở Nam
bộ, Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 4.
3. Hà Châu (1988), Cách so sánh trong ca dao ngày nay, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6,
tr.75
4. Trần Tùng Chinh, Tìm hiểu công thức truyền thống trong một số bài ca dao mới Nam Bộ
về hình ảnh Bác Hồ, http://cadaotucngu.daitudien.com,
5. Nguyễn Đình Chú - Nguyễn Lộc (chủ biên)( 2000), Văn học 10 (Tập 1), Nxb Giáo dục.
6. Mai Ngọc Chừ (1989), Vần, nhịp, thanh điệu và sức mạnh biểu hiện ý nghĩa của lục bát biến
thể, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, tr. 16-18.
7. Mai Ngọc Chừ (1991), Ngôn ngữ ca dao Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 2, tr. 24-28.
8. Nguyễn Cừ (2008), Hồ Chí Minh-Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb Văn Học, Hà Nội.
9. Nguyễn Nghĩa Dân (2009), Ca dao Việt Nam 1945-1975, Nxb Khoa học xã hội.
10. Chu Xuân Diên (1969), Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại, Tạp chí Văn hóa
dân gian, số 4, tr.34-53.
11. Chu Xuân Diên (1981), Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian, Tạp chí Văn hóa
dân gian, số 5, tr.19-26.
12. Vũ Dung (1994), Ca dao trữ tình Việt Nam, Nxb Giáo dục.
13. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Đôi nét về nhóm biểu tượng hoa trong ca dao, Tạp chí
Nguồn sáng dân gian, số 4, tr. 46-49.
14. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2001), Tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng trong ca dao Việt Nam,
Thông báo Văn hóa dân gian 2001, tr. 328-341.
15. Đinh Văn Định (1981), Về những phương thức thể hiện hình tượng Bác Hồ trong thơ,
Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr. 13-21.
16. Cao Huy Đỉnh (1966), Lối đối đáp trong ca dao trữ tình, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 9,
tr. 10-14.
17. Phạm Văn Đồng (1975), Hồ Chủ Tịch tinh hoa của dân tộc lương tâm của thời đại, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
18. Hà Minh Đức (1983), Ca dao về Bác Hồ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3,4.
19. Hà Minh Đức (1997), Hồ Chí Minh-Nhà thơ lớn của dân tộc, Nxb Giáo dục.
20. Nguyễn Xuân Đức (2002), Về thể thơ lục bát trong ca dao, Tạp chí Văn hóa dân gian, số
2, trang 78-84.
21. Nguyễn Xuân Đức, Về hiện tượng chiếm ưu thế của thể lục bát trong ca dao,
www.vienvanhoc.org.vn/reader
22. Bảo Định Giang, (1990), Ca dao Bảo Định Giang từ 1945 -> 1989, Nxb Văn Nghệ ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
23. Nguyễn Văn Hạnh(1969), Hình ảnh Bác Hồ qua những chặng đường thơ của Tố Hữu,
Tạp chí Văn học, số 6.
24. Vũ Tố Hảo (1997), Những yếu tố trùng lặp trong ca dao hiện đại, Tạp chí Văn hóa dân
gian, số 2, tr. 74-78.
25. Đỗ Thị Hòa (2002), Vài nét về biểu tượng ca dao người Việt, Nxb Ngữ học trẻ.
26. Nguyễn Văn Hoàn (1999), Thể lục bát, từ ca dao đến truyện Kiều, Tuyển tập 40 năm Tạp
chí Văn học, tr. 216-232.
27. Trần Mạnh Hùng (2001), Giảng dạy ca dao trong sách giáo khoa môn Văn ở Trung học
phổ thông, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn.
28. Đoàn Thị Hương (1976), Hình ảnh Bác Hồ trong “Những năm tháng không thể nào
quên”, Tạp chí Văn học, số 3, tr.19-28.
29. Đinh Gia Khánh (2005), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
30. Hồng Khánh (2001), Tục ngữ ca dao Việt Nam, Nxb Đà Nẵng.
31. Nguyễn Xuân Kính , Phan Đăng Nhật… (1995), Kho tàng ca dao người Việt, Nxb Văn
Hóa , Hà Nội.
32. Nguyễn Xuân Kính (1993), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Nguyễn Xuân Kính (1999), Về tên riêng chỉ địa điểm trong ca dao dân ca, Tuyển tập 40
năm Tạp chí Văn học, tr.376-384.
34. Nguyễn Xuân Lạc (1991), Một đôi nét trong bức tranh văn hóa dân gian đương đại: ca
dao Bác Hồ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4.
35. Nguyễn Xuân Lạc (2000), Thơ dâng Bác, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
36. Nguyễn Xuân Lạc (1981), Vài suy nghĩ bước đầu về thơ ca viết về Hồ Chủ Tịch, Tạp chí
Văn học, số 1.
37. Tôn Phương Lan (1978), Công ơn Bác Hồ đối với phụ nữ và hình ảnh Bác Hồ trong thơ
ca của các nhà thơ phụ nữ, Tạp chí Văn học, số 1.
38. Phong Lê (1986), Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội
39. Trần Gia Linh (1990), Bốn mươi lăm năm ca dao dâng Bác, Tạp chí Văn hóa dân gian,
số 1.
40. Xuân Long (2007), Tiêng hát đồng quê, Nxb Thanh Hóa.
41. Đặng Văn Lung (1974), Lấy xưa phục vụ nay, học cũ để làm mới, Tạp chí Văn học, số 4.
42. Đặng Văn Lung (1966), Những người sáng tác ca dao ở nông thôn hiện nay, Tạp chí Văn
học, số 9, tr.21.
43. Đặng Văn Lung (1999), Những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình, Tuyển tập 40 năm Tạp
chí Văn học, tập I , Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
44. Lưu Trọng Lư (1970), Những lời đẹp nhất, Tạp chí Văn học, số 3, tr.61-73.
45. Thiếu Mai (1964), Bác Hồ trong thơ Tố Hữu, Tạp chí Văn học, số 5.
46. Nguyễn Đăng Mạnh (2004), Văn Thơ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, Hội nghiên
cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh.
47. Trần Văn Nam (2004), Biểu trưng trong ca dao Nam bộ, luận án Tiến sĩ, 196 tr.
48. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình dưới góc nhìn ngôn
ngữ, Nxb Văn học.
49. Triều Nguyên (2001), Bình giải ca dao, Nxb Thuận Hóa , Huế.
50. Triều Nguyên (2003), Tiếp cận ca dao-phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu trúc,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
51. Ca dao miền Nam chống Mỹ (1971), Nhà in Giải Phóng.
52. Ca dao chống Mỹ _ tập 2 (1971), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
53. Ca dao chiến sĩ - tập V (1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
54. Ca dao sưu tầm (1945 đến nay), 1962, Nxb Văn học.
55. Ca dao sưu tầm (1962), Nxb Văn học.
56. Tiếng ca xuân toàn thắng-Ca dao chiến sĩ-tập 6 (1976), Nxb Quân đội nhân dân , Hà Nội.
57. Trương Thị Nhàn (1991), Giá trị biểu trưng nghệ thuật của các vật thể nhân tạo trong ca
dao cổ truyền Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 3, tr.46 – 52.
58. Trần Quang Nhật (2003), Ca dao về Bác Hồ, Nxb Văn Hóa Thông Tin , Hà Nội.
59. Bùi Mạnh Nhị (1997), Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc ca dao dân ca trữ
tình, Tạp chí Văn học, số 1, tr 21-26.
60. Bùi Mạnh Nhị (1988), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Sở Giáo Dục An Giang.
61. Bùi Mạnh Nhị (1980), Sen Tháp Mười, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.
62. Bùi Mạnh Nhị (1998), Thời gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình, Tạp chí Văn
học, số 4, tr 30.
63. Bùi Mạnh Nhị (2000), Văn học dân gian những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục.
64. Thi Nhị (1984), Bác Hồ và nguồn ca dao mới, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4.
65. Vũ Ngọc Phan (1964), Tinh thần chống giặc ngoại xâm của phụ nữ qua ca dao Việt Nam
xưa và nay.
66. Vũ Ngọc Phan (1978) Tục ngữ- ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
67. Nguyễn Tấn Phát (2001), Vài nét về nội dung ca dao – dân ca Nam bộ, Thông báo Văn
hóa dân gian, tr. 342-364.
68. Vũ Đức Phúc (1970), Quy luật phát triển của văn học dân gian cũ và văn học truyền
miệng hiện đại từ sau Cách mạng tháng 8, Tạp chí Văn học, số 4, tr.41-45.
69. Nguyễn Hằng Phương (2000), Đề tài Hồ Chủ Tịch trong ca dao Việt Nam 1945-1975,
Tạp chí Văn học.
70. Nguyễn Hằng Phương (2003), Hai cách tổ chức ngôn ngữ trong ca dao, Tạp chí Nguồn
sáng dân gian, số 2, tr. 30-35.
71. Nguyễn Hằng Phương (2002), Một cách nhận diện ca dao hiện đại, Tạp chí Văn hóa dân
gian, số 6, tr. 67-77.
72. Nguyễn Hằng Phương (2003), Hai phương thứ nghệ thuật trong ca dao cổ truyền người
Việt, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 63-69.
73. Phan Diễm Phương (1998), Lục bát và song thất lục bát (lịch sử phát triển, đặc trưng thể
loại), Nxb Khoa học xã hội, 214 tr.
74. Phan Thị Diễm Phương (1988), Thể thơ lục bát ở một thế hệ nhà thơ hiện đại, Tạp chí
Văn hóa dân gian, số 2, tr. 83-94.
75. Thạch Phương ( 1966), Một số nét về thơ ca quần chúng chống Mỹ ở miền Nam, Tạp chí
Văn học, số 7 .
76. Vũ Dương Quý (1997), Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông Nguyễn Ái Quôc –
Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục.
77. Ca dao Đồng Tháp Mười (1984), Sở Văn hóa thông tin Đồng Tháp.
78. Hà Công Tài (1988), Biểu tượng trăng trong thơ dân gian, Tạp chí Văn học, số 5,6,
tr.65-68.
79. Hà Công Tài (2001), Vấn đề nghiên cứu thơ ca dân gian hiện đại, Một thế kỷ sưu tầm
nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân ngian, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
80. Đỗ Văn Tân , ca dao Đồng Tháp Mười (1984), Sở văn hóa thông tin, Đồng Tháp.
81. Vân Thanh (1965), Bác Hồ với thiếu nhi và thiếu nhi với Bác Hồ, Tạp chí Văn học, số 5.
82. Trần Hữu Thung (1981), Ca dao về Bác Hồ, Nxb Nghệ Tĩnh
83. Phạm Văn Thứ (1964), Một vài ý kiến về thơ ca truyền miệng của công nhân trước Cách
mạng tháng 8, Tạp chí Văn học, số 2, tr.45-54.
84. Trần Tiến (1970), Một số suy nghĩ về văn học dân gian hiện đại, Tạp chí Văn học, số 4,
tr.46-54.
85. Đặng Diệu Trang (1998), Thể hứng trong ca dao, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, trang
49-51.
86. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của ca dao, trong Những đặc điểm thi
pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục, tr. 192-234.
87. Đỗ Bình Trị (2002), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb
Giáo dục.
88. Võ Quang Trọng (1987), Tìm hiểu những hình thức biểu hiện của tục ngữ, ca dao dân ca
trong thơ ca hiện đại Việt Nam, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr. 36-41.
89. Vương Trọng (19950, Dâng Người, Tuyển tập nửa thế kỷ thơ viết về Bác, Nxb Nghệ An.
90. Nguyễn Nguyên Trứ (2000), Trồng cây, một nét đẹp văn hóa Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Hồ
Chí Minh và Văn hóa Việt Nam, tr. 187-192, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
91. Hòang Tiến Tựu (1999), Mấy suy nghĩ về cách tìm hiểu một bài ca dao cổ, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học, tập 1, tr. 297 – 310.
92. Ca dao Hải Hưng (1980), Ty văn hóa thông tin.
93. V.E. Gu-xep (1968), Bàn về những tiêu chuẩn của tính văn học dân gian trong sáng tác
hiện nay của nhân dân, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 73-86.
94. Lê Trí Viễn (1986), Thơ văn Đồng Tháp, tập 2, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp.
95. Tuyển tập 40 năm Tạp chí văn học 1960-1999, Tập 1, Văn học dân gian, Viện Văn học,
Nxb Thành phố Hồ Chi Minh, 1999.
96. Hoàng Hương Việt (2006), Ca dao dân ca đất Quảng, Nxb Đà Nẵng.
97. Nguyễn Minh Vỹ (1964), Cuộc sống và con người trong cuộc sống chiến đấu ở miền
Nam, Tạp chí Văn học, số 5, tr.79-89.
98. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
99. Phạm Thu Yến (1999), Vấn đề nghiên cứu biểu tượng thơ ca dân gian, Tạp chí Văn học,
số 4, tr.55-62.
PHỤ LỤC
Lời giới thiệu
Phụ lục này nhằm giúp người đọc dễ nắm bắt các số liệu và dẫn chứng về thể thơ, kết cấu,
ngôn ngữ, hình ảnh và giúp đối chiếu với các văn bản ca dao về Bác dễ dàng hơn.
Phụ lục gồm các bảng thống kê số liệu có liên quan đến đề tài được sắp xếp theo trình tự
dưới đây :
- Phụ lục 1 là bảng thống kê bộ phận ca dao về Bác Hồ. Người viết đã khảo sát được
521 bài và sắp xếp theo trình tự a, b, c,…Ngoài ra sau phần này là 27 bài ca dao của
dân tộc thiểu số.
- Phụ lục 2 là bảng thống kê các số liệu về thể thơ.
- Phụ lục 3 là bảng thống kê tần số xuất hiện của ngôn ngữ.
- Phụ lục 4 là bảng thống kê tần số xuất hiện các hình ảnh.
MỤC LỤC
TÊN PHỤ LỤC Trang
Phụ lục 1: Ca dao về Bác Hồ .......................................................................3
Phụ lục 2:Thống kê các số liệu về thể thơ ..............................................175
Bảng thống kê tỉ lệ các thể thơ ......................................................... 175
Bảng thống kê tỉ lệ các dòng thơ trong ca dao về Bác ......................175
Bảng thống kê tỉ lệ các dòng thơ trong ca dao cổ truyền ..................176
Bảng so sánh tỉ lệ dòng thơ trong ca dao về Bác và ca dao hiện đại .176
Phụ lục 3: Thống kê tần số xuất hiện của ngôn ngữ ...............................177
Bảng thống kê tần số xuất hiện các từ ngữ trùng lặp .........................177
Phụ lục 4: Thống kê tần số xuất hiện các hình ảnh ................................178
Bảng thống kê hình ảnh tự nhiên ......................................................178
Bảng thống kê hình ảnh thục vật ......................................................178
Bảng thống kê hình ảnh nhân tạo .....................................................179
Phụ lục 1: CA DAO VỀ BÁC HỒ
1. Ai đếm được cát
Ai tát được bể
Ai kể được sao
Đố ai tính được công lao Cụ Hồ.
Ai tát được bể
Ai kể được sao
Đố ai tính được công lao Cụ Hồ.
Sông sâu còn lấy thước dò
Lòng dân ơn Bác biết đo sao cùng!
Ai đi xây dựng cơ đồ 2.
Ai còn ở lại phất cờ đấu tranh
Thù kia xây lũy đắp thành
Vẫn không ngăn được gia đình Việt Nam.
Thù kia chia sẻ Bắc Nam
Giang sơn cũng vẫn giang sơn nước nhà.
Bác Hồ sống giữa lòng ta
Lòng dân lòng Bác chan hòa nước non.
3. Ai ra Việt Bắc
Xa lắc xa lơ
Đường đi ngoéo ngắt
Lòng thành son sắt
Vắn tắt đôi lời
Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe vui tươi
Dắt dìu kháng chiến, giành độc lập cho người Việt Nam.
Ai lên Việt Bắc
Xa lơ xa lắc
Đường đi ngoéo ngoắt
Trục trục trặc trặc
Miệng kêu tay ngoắt
Lòng thành son sắt
Vắn tắt đôi lời :
Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe vui tươi
Dắt dìu kháng chiến dành độc lập cho người Việt Nam.
4. Ai ngoài muôn dặm trùng dương
Cũng thường nhận được tình thương Cụ Hồ.
5. Ai nói xấu Cụ Hồ
Là đồ vong ân bội nghĩa
Lòng Cụ Hồ tròn như chiếc đĩa
Suốt đời trung với nước, hiếu với dân
Chỉ có quân hám sữa cặn, rượu tàn
Mới nói quấy nói quá hòng làm mất thanh danh Cụ Hồ.
6. Ai ơi, nghĩ lại kẻo lầm
Đừng chê bạc rách mắc thâm mưu thù
Bạc này kẻ dấu người thu
Được bạc Cụ Hồ rách mấy cũng tiêu.
7. Ai ơi đừng lấy chồng non,
Chờ ngày độc lập lấy con cụ Hồ.
Ai ra miền Bắc xa xôi 8.
Xin cho nhắn gởi đôi lời nhớ thương
Dù cho cách trở mấy phương
Miền Nam một dạ theo đường Bác đi.
9. Ai ra thưa với Bác Hồ
Dân no thì lính cũng no, cũng đầy.
10. Ai ra thưa với Bác Hồ
Miền Nam chúng cháu đang chờ Bác đây
Bao giờ Bác mới rảnh tay
Bác được vô này, chúng cháu thêm vui..
A ha! Chúng cháu nhớ rồi
Dặn ba, dặn má, dặn thôi đủ điều :
Trái ngon phải có thật nhiều
Để dành đãi Bác sớm, chiều Bác ăn.
Trâu bò đừng cột ngoài sân
Bác trông thấy Bác cho rằng ở dơ.
Lúa thóc thì chứa đầy bồ
Bác nhìn thấy được trúng mùa Bác vui.
Bác vô nghen Bác, Bác ơi!
Bác vô cho được Tháp Mười Bác coi
Tuy rằng Tây phá mọi nơi
Nhưng mà chúng cháu không đời nào lo
Có Bác thì ấm, thì no
Có Bác thì giặc phải thua, chắc rồi.
Bác vô nghen Bác, Bác ơi!
11. Ai ơi nhắn với Bác Hồ
Tháp Mười chúng cháu đang chờ Bác đây
Bác vô, nghe Bác, Bác ơi
Bác vô cho được Tháp Mười, Bác coi
Tuy rằng Tây phá mọi nơi
Nhưng mà chúng cháu không đời nào lo
Có Bác thì ấm, thì no
Có Bác thì giặc phải thua, chắc rồi.
12. Ai trồng cây cảnh mà chơi
Ta trồng cây thọ chúc Người kính yêu
Người kính yêu chính liêm cần kiệm
Cả năm châu bốn biển nhìn gương
Ước gì có giống trầm hương
Ta trồng trên núi nghìn nương mừng Người.
Một mai xanh tốt rợp trời
Buổi làm xong việc từng đôi đi về.
Thênh thang điện sáng đường quê,
Hương trầm gió thoảng đêm hè mười phương
Tháng năm dạ hội nông trường
Rủ nhau lên núi trầm hương nhớ Người.
13. Ai về đất tuyến Vĩnh Linh
Mà nghe tiếng hát tâm tình vang xa
Nắng lên thêm ấm lòng ta
Gió lên sóng lúa vang ca gửi mình
Ca rằng : dân tuyến Vĩnh Linh
Ghi sâu lời Bác đinh ninh đời này
Giôn-xơn, mày chớ có hòng
Buông dây thòng lọng đem tròng cổ tao
Đời nô lệ, kiếp lao đao
Dân tao đứng dậy đạp nhào bùn sâu
Súng ghì chặt, thức canh thâu
Cho lúa thêm tốt, cho cầu vẫn nguyên.
14. Ai về nhắn bạn đường xa
Nón đẹp tỉnh nhà là nón Tam Dương
Kim Thành trồng mía làm đường
Đũi dẹt Cát Tường vừa ý nhiều cô.
Ai lên thưa với Bác Hồ
Quê em nghề phụ bốn mùa vui tươi.
15. Ai về nhớ ghé Bạc Liêu
Ăn chùm nhãn ngọt chín riu mật vàng
Rồi xuôi xuống chợ Cây Bàng
Đi thăm bãi cát trãi vàng biển khơi.
Ai xây, ai đắp, ai bồi
Công ơn của Bác chói ngời Bạc Liêu.
16. Ai về thưa với Bác Hồ
Sóng to không núng, phong ba không sờn
Một lòng yêu lấy giang sơn
Nguyện rằng thà chết còn hơn sống hèn.
17. Ai về Yên Dưỡng, Hoàng Mô
Mà xem quân lính Cụ Hồ sang sông
Đêm ngày mê mải chiến công
Thoáng nôm như có cả chồng em kia.
18. Ấm ngoài rồi lại ấm trong
Năm nao ta có chăn hồng vải hoa
Áo quần hai bộ vào ra
Lại thêm trấn thủ, bạc đà kèm theo
Bác thương dân thợ bao nhiêu
Thì ra sản xuất càng nhiều đạn bom.
19. Anh đi gìn giữ nước non
Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ
Anh ra đi lính Cụ Hồ
Con sông, con suối, con đò đưa anh.
(Quảng Nam Đà Nẵng)
Anh đi gìn giữ nước non
Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ
Anh đi làm lính Cụ Hồ
Đò xưa bến cũ đợi chờ đón anh.
(Đồng Tháp Mười)
20. Anh là chiến sĩ Cụ Hồ
Đánh cho Mỹ cút, cơ đồ mới êm.
21. Anh ơi, tôi nhắn câu này
Than kia lẫn đá xúc đầy sao đang
Gòong kia nó chạy qua đàng
Nó cười, nó diễu, anh mang tiếng lười
Gòong rằng : phiền lắm anh ơi
Cứ làm như thế em thời không ưa
Nhớ lời Bác dạy năm xưa
Phẩm chất bảo đảm không giờ nào quên.
22. Anh về giã gạo ba giăng
Anh lên gánh nước Cao Bằng về ngâm
Đêm ngày 19 tháng 5
Gói thành đôi bánh đem dâng Bác Hồ.
23. Áo ấm cơm no nhờ ai mà có
Giành lại hòa bình nhờ có ơn ai?
24. Ấu nào ấu lại tròn
Bồ hòn nào bồ hòn lại méo
Mĩ - Diệm ơi, đừng nói trắc trẻo nỏ ai nghe
Dù chúng bay xuyên tạc chán chê
Đồng bào vẫn nhớ có Cụ Hồ thì mọi bề mới yên.
Ấu nào ấu lại tròn
Bồ hòn nào bồ hòn lại méo
Mĩ - Diệm ơi, đừng nói trắc trẻo chẳng ai nghe
Dù chúng bay xuyên tạc chán chê
Đồng bào vẫn nhớ có Cụ Hồ thì mọi bề mới êm.
25. Ăn cơm bên Tống uống nước bên Ngô
Khi đi bỏ phiếu thì cụ Hồ Chí Minh.
26. Ba cô mặc áo cánh sen?
Ba năm vác cuốc lên non trồng rừng
Non xanh cây mọc ba từng
Ngàn con chim đến hát mừng ba cô
Chim ơi, rừng của Bác Hồ
Có lời Người dạy bây giờ rừng xanh.
Ba cô mặc áo cánh son?
Ba năm vác cuốc lên non trồng rừng
Non xanh cây mọc ba từng
Ngàn con chim đến hát mừng ba cô
Chim ơi,rừng của Bác Hồ
Có lời Người dạy bây giờ rừng xanh.
27. Ba mươi năm đẹp một ngày
Hàng cây đã hóa rừng cây bạt ngàn.
Từ Lạng Sơn bước thênh thang
Qua Hiền Lương đến xóm làng Cà Mau
Đẹp tươi xanh mát một màu
Con đi lòng nặng ơn sâu Bác Hồ.
28. Bác Đảng lập thành tên nước
Con cháu ta tiến bước dưới cờ
Ta là con cháu Bác Hồ
Đánh tan Mỹ ngụy cơ đồ về ta.
29. Bác Hồ, Bác sống nơi xa
Sao em tưởng Bác trông nhà với em
Hình Bác em mới được xem
Mà em trông Bác hết đêm lại ngày.
30. Bác Hồ, cha của chúng con
Sáu mươi năm ấy sắt son một lòng
Tình thương của Bác mênh mông
Ân cần, tha thiết, ấm lòng chúng con
Lời Người, tiếng của nước non
Bốn ngìn năm ấy vẫn còn hôm nay
Vui nhìn cờ đỏ tung bay
Nhớ lời Bác dạy, càng dày niềm tin.
31. Bác Hồ chẳng kể công ơn
Mà công của Bác bằng non bằng trời.
32. Bác Hồ chúc tết Mậu Thân
Nước non nghe ấm mấy lần xuân tươi
Con đi nghe tiếng của Người
Gân săn, gối dẻo đập lùi gian nan.
Xuân này cả nước hành quân
Bước chân chuyển núi lay ngàn xông lên.
Xuân sang trong tiếng pháo rền
Nghe giao thừa chuyển tiếng kèn tiến quân.
33. Bác Hồ dạy bảo dân ta
Chữ “cần”, chữ “ kiệm” phải là keo sơn.
34. Bác Hồ đã dạy chúng ta
Còn Mỹ còn đánh chẳng tha một thằng.
Chúng ta hứa với Bác rằng:
Còn Mỹ còn đánh một thằng chẳng tha.
Bác trao cờ tặng quê ta
Lá cờ chiến thắng là quà chiến công.
Cờ bay đỏ đất Lam Hồng
Cờ bay muôn nẻo lập công khắp miền
Nhắm cho trúng bắn cho tin
Làm quà thắng lợi dâng lên Bác Hồ.
Bác Hồ đã dạy chúng ta
Còn Mỹ còn đánh chẳng tha một thằng.
Chúng ta hứa với Bác rằng:
Còn Mỹ còn đánh một thằng chẳng tha.
Bác trao cờ tặng quê ta
Lá cờ chiến thắng, lá cờ lập công.
Cờ bay đỏ đất Lam Hồng
Cờ bay muôn nẻo, lập công khắp miền
Ngắm cho trúng bắn cho tin
Làm quà thắng lợi dâng lên Bác Hồ.
35. Bác Hồ nhiều cháu nhiều con
Là người dân Việt nước non Hồng Bàng.
36. Bác Hồ nghĩa lớn tày non
Đánh tan Pháp Nhật rửa hờn cho dân.
37. Bác Hồ là vị Cha chung
Là sao Bắc-đẩu, là vừng thái dương.
Chúng con đi giữa đêm trường
Nhờ Cha dìu dắt dẫn đường chúng con.
Ơn Cha như nước như non
Như gương Hồ-thủy, như hồn Thái- Sơn.
Cha Hồ là vị cha chung
Là sao Bắc-đẩu, là vừng thái dương.
Con đang đi giữa đêm trường
Nhờ Cha soi lối chỉ đường cho con.
38. Bác Hồ ơi !
Bác Hồ ơi !
Hầm gai là huyệt chôn người
Nhưng không lắp được ý đời con đâu
Dù cho nắng lửa mưa dầu
Trong hang tối vẫn ngẩng đầu trông lên
Dù cho đá nổi rong chìm
Lòng con, con chỉ một niềm mà thôi
Đêm nay mừng lắm cha ơi
Cỏ cây mở hội đất trời liên hoan
Đêm nay mười chín tháng năm
Hồn con sáng tợ trăng rằm trung thu
Con đang CHÚC THỌ trong tù
Con đang dựng một rừng cờ trong tim
Đêm nay mộng hóa thành chim
Tung qua lưới sắt con tìm đến Cha.
39. Bác Hồ ơi!
Cháu là em bé phương xa.
Theo anh vệ quốc xa nhà từ lâu.
Cháu qua sông Đuống sông Cầu
Phủ Thông, đèo Khách, An Châu, Lũng Vài,
Qua bao vực thẳm hang dài
Gặp anh vệ quốc giết loài thực dân.
Cháu là thiếu sinh quân
Nhân ngày sinh nhật Bác
Có vài lời chất phác
Kính chúc Bác sống lâu
Không bao giờ bạc đầu.
Để lái thuyền chiến thắng.
Bác Hồ ơi
Cháu là em bé phương xa.
Theo anh vệ quốc xa nhà đã lâu.
Cháu qua sông Đuống, sông Cầu
Phủ Thông, đèo Khách, An Châu, Lũng Vài,
Qua bao vực thẳm sông dài
Giúp anh vệ quốc giết loài thực dân.
Cháu là thiếu sinh quân
Nhân ngày sinh nhật Bác
Có vài lời chất phác
Kính chúc Bác sống lâu
Không bao giờ bạc đầu
Để lái thuyền chiến thắng.
40. Bác Hồ tranh đấu vì dân
Đã bao gian khó phong trần vượt qua.
Bác mong dân được ấm no
Bác mong đất nước tự do hòa bình
Suốt Trung Nam Bắc dân mình
Người bao nhiêu đó nặng tình bấy nhiêu.
Bác Hồ tranh đấu vì dân
Đã bao gian khổ phong trần vượt qua.
Bác mong dân được ấm no
Bác mong dân được tự do hòa bình
Khắp Trung, Nam, Bắc dân mình
Người bao nhiêu đó, mối tình bấy nhiêu.
Tương lai hạnh phúc còn nhiều
Càng yêu tổ quốc càng yêu Bác Hồ.
41. Bác Hồ trong trái tim dân
Tuy xa nghìn dặm nhưng gần, gần ghê.
42. Bác luôn chăm sóc đến dân
Nhất là nông nghiệp ân cần hỏi han …
43. Bác ơi, chúc Bác dưới cờ
Tóc râu muôn thưở bao giờ cũng xanh.
44. Bác ơi dù Bác đi rồi
Một lòng cháu nguyện theo lời Bác răn
Nhìn sen nhớ Bác bồi hồi
Bác ra đi giữa những lời mai sau
Từng lời di chúc khắc sâu
Vào trong tâm khảm những đầu tóc xanh
Bác ơi lời Bác ân tình
Ngàn năm con cháu đinh ninh nhớ lời.
45. Bác ơi nhà Bác cũng nghèo,
Quê hương Bác cũng như nhiều quê hương.
46. Bác ơi, yêu Bác vô cùng
Khi lời Bác đến giữa lòng miền Nam
Sông có cạn, núi có mòn
Bắc Nam mãi mãi là con một nhà
Miền Nam là máu thịt ta
Càng đau thương càng tỏ ra thành đồng
Miền Nam thương Bác trong lòng
Giữa bom đạn, giữa những vòng thép gang.
Bác chắc cũng nhớ cháu nhiều
Miền Nam đau khổ sớm chiều trông ra.
47. Bác về đồng lúa thêm xanh
Mái nhà lại ấm, sân đình lại vui
Nụ cười em bé thêm tươi
Nhân dân nô nức, người người thi đua.
48. Bác về sung sướng biết bao
Tầng trên, tầng dưới, tầng nào cũng vui
Vui vì được gặp mặt Người
Được trông thấy rõ nụ cười, nước da.
Vui vì thấy Bác đã già
Nhưng còn khỏe mạnh như là công nhân.
49. Bác về năm ngoái năm xưa
Năm nay đất mỏ được mùa hoa than.
Còi reo máy hát trên tầng
Ước gì lại đúng mùa xuân Bác về.
50. Bác về thăm đảo năm xưa
Đa chưa bén gốc, dừa chưa vươn tàu.
Tiễn chân Bác mới hôm nào
Mà đa xanh bóng, dừa cao trĩu buồng
Ước gì Bác lại thăm luôn
Bóng đa che nắng, dừa non con mời.
51. Bạc Đông Dương kẻ thương người ghét
Bạc Cụ Hồ kẻ ghét người thu
Già tay thêm nặng oán thù
Dù bay có xé hết, đã có chiến khu chở về.
Bạc Đông Dương kẻ căm người ghét
Bạc Cụ Hồ kẻ nhét người thu
Già tay thêm nặng oán thù
Dù là bay có xé hết, thì đã có chiến khu chở về.
52. Bạc màu là đất Đông Anh
Làm theo lời Bác vẫn xanh ruộng đồng
Tưng bừng trống giục, cờ giong
Con mương chống Mĩ, bờ vùng đảm đang
Ai về Dục Tú tham quan
Khen đây thủy lợi gần ngang Phương Tru
Ai về thăm Cổ Loa xưa
Thi đua nuôi lợn giỏi như thôn Nhồi
Nghìn năm mơ ước đây rồi
Thay chân giã gạo, thay trời làm mưa
Điện về, máy chạy sớm trưa
Mẹ già sáng mắt, con thơ sáng lòng
Kim Chung, Uy Nỗ, Nam Hồng…
Đôi vai nhẹ gánh, thêm công cày bừa
Nhớ sao nhớ mãi năm xưa
Bác về thăm huyện đến giờ chưa quên
Chưa quên lời hứa- niềm tin
Đã ghi vào dạ, đã in vào lòng
Sao cho đồi bãi, ruộng đồng
Thành vực thóc lúa, thành rừng cây xanh
Bạc màu là đất Đông Anh
Làm theo lời Bác, đất thành tốt tươi.
53. Bạc phơ mái tóc phong trần
Quên mình chỉ nghĩ nhân dân đồng bào.
Bác đi xa mãi rồi sao
Nghĩa sâu ơn nặng thấm vào chúng con.
54. Bài thơ Nam Bộ của Người, Người ơi
Có vần, có điệu đủ rồi
Còn đợi bóng Người in giữa bài thơ.
Bao giờ độc lập Người vô
Bấy giờ là lúc bài thơ hoàn thành.
55. Bao giờ chạch ngủ ngọn cây
Cửu Long hết nước, biển này cạn khô
Thì lòng tin tưởng Cụ Hồ
Mới phai nhạt khỏi Xóm Đò bầy tui.
56. Bao giờ hết đước Năm Căn
Ông Trang hết cá, Viên An hết rừng.
Khai Long mà hết cả đường
Miền Nam mới hết nhớ thương Bác Hồ.
Bao giờ hết đước Năm Căn
Ông Trang hết cá, Viên An hết rừng.
Khai Long mà hết xác cá đường
Miền Nam mới hết nhớ thương Bác Hồ.
57. Bao giờ trạch đẻ đọt cây
Người không uống nước, gậy tầy sinh con
Bao giờ địa hạt Na-Khon
Biến thành rừng núi không còn người mô
Thì lòng tin tưởng Cụ Hồ
Vẫn không phai lạt xóm đò bầy tui.
58. Bạt rừng, xẻ núi, mở đường
Chở hàng vào tận chiến trường, Bác vui.
59. Bắc Nam sum họp một nhà
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa
Thỏa lòng ngày ước đêm mơ
Miền Nam hồi hộp đón chờ Bác vô.
60. Bé về đi học trường làng
Hôm nao bắt được nhẫn vàng đánh rơi
Cầm lên bé tủm tỉm cười
Bé tìm trả được cho người mới thôi
Bác Hồ ở tận xa xôi
Nghe tin lòng Bác bồi hồi mến thương
Bác khen cháu tốt quá chừng
Thưởng cho huy hiệu sáng trưng bóng Người
Đeo lên giữa ngực chói ngời
61. Bể sâu còn có kẻ dò
Ngắm huy hiệu Bác, bé vui, bé mừng.
Công ơn Bác, Đảng ai đo được nào.
Người như là mặt trời cao
Tỏa muôn ánh sáng soi vào lòng dân.
62. Biển ngoài sóng dữ, gió to
Giao thừa đất nước đọc thơ Bác Hồ.
Đêm tù thần vẫn tự do
Mơ sao năm cánh – cơ đồ ngàn năm.
Phố phường tiếng pháo vui xuân
Mừng ngày sinh Bác – tròn trăm tuổi đời.
Bác đi, Bác đã đi rồi …
Mực còn đậm nét những lời Bác khuyên :
Đảng ta là Đảng cầm quyền
Trước sau trong sạch, chớ quên giữ gìn.
Có dân nên mới có mình
Xứng là đầy tớ trung thành của dân.
Đèn lên hoa huệ trắng ngần
Lặng nhìn ảnh Bác, đêm xuân bàng hoàng…
63. Bên ni Hiền Lương nhớ về Hồng trường Liên Xô vĩ đại
Cờ bay phất phới, nắng trải hoa thơm
Cùng ta chung một con đường
Có Lê-Nin, Bác Hồ dẫn lối, sông đôi bờ lại nối, cầu Hiền Lương lại liền .
64. Bến xưa đêm đậu ken tàu
Sáng trưng ngàn vạn hạt châu giữa trời.
Vô, ra thổi rộn hồi còi
Tàu, xe tấp nập dòng đời bến vui.
Bỗng dưng lòng thấy bồi hồi
Nhớ về năm ấy…. một ngày Người đi.
Vì quê nuốt lệ xa quê
Khắp trong non nước bốn bề lao đao.
Tình này gửi lại mai sau
Buổi đi biển cả, rừng sâu buổi về.
Ba miền đất nước ai chia
Hai tay ôm chặt đồng quê, thị thành.
Nước non đâu cũng của mình
Cái nôi Việt Bắc sẵn dành – lửa nhen
Cháy lên đỏ rực trăm miền
Trung du đồi cọ, đồng sen Tháp mười.
Tóc sương đã nhuộm nửa đời
Ra đi để dọn đất trời sáng trong.
Khi ra tuyết giá lạnh lùng
Khi về ấm nắng, chim rừng hót vang.
65. Bình dân học vụ ngày càng tiến hóa
Dù cho quân thù khủng bố.
Ruộng ngoài đồng không bỏ hóa sào mô
Toàn dân theo lời dạy Cụ Hồ
Đánh quân cướp nước thoát đi mô cho khỏi tay mình.
66. Bình minh mở rộng chân trời
Lời Bác kêu gọi là lời nước non
Núi sông cùng nổi sóng cồn
Hậu phương, tiền tuyến dập dồn chiến công
Tiếng Bác vọng đến non Hồng
Sông Lam, núi Quyết đều cùng reo vui
Ghi từng tiếng, nhớ từng lời
Pháo tung lưới lửa, giữa trời Nghệ An
Kính yêu Bác, Đảng vô vàn
Chúng cháu thề quyết đánh tan quân thù.
67. Bọn Mỹ - Diệm âm mưu gây chiến
Tòan dân ta nêu cao ý nguyện hòa bình
Dù cho gian khổ hy sinh
Có Bác lãnh đạo thì âm mưu Mỹ- Diệm phải tan tành ra tro.
68. Bông cà bông bắp
Nở khắp cánh đồng
Này vải đâm bông
Bên vồng khoai sắn
Em mong sao cho mưa nắng thuận hòa
Tình khoai nghĩa lúa trẻ già ấm no
Nuôi anh bộ đội cụ Hồ
Đánh đâu thắng đó giữ cờ vàng sao.
69. Bông sen thì để lễ chùa
Cụ Hồ thì để tôn thờ trong tâm.
70. Bớ o, bớ chị, bớ anh
Lúa bên nách giặc ta giành về ta
Chờ ngày triêng nặng gánh ra
Thuế ta ta đóng càng già thóc lương
Thương Cha lo nghĩ trăm đường
Việc nhà, việc nước, chiến trường chưa yên.
71. Bước chân lên đèo Cả
Trông sang Vạn Giã
Ngó lại Tu Bông
Miền Nam nhớ Bác vô cùng
Mong ngày đón Bác vào trong Khánh Hòa.
72. Cắn tay cho vọt máu hồng
Vẽ đóa hoa hồng lên vách hầm gai
Nếu ta về với cỏ cây
Đất giữ hoa này dâng tặng Cha ta
Rằng ngày sinh nhật Cha già
Vườn tim ta trổ đóa hoa mừng Người.
Bác Hồ ơi!
Bác Hồ ơi!
Hầm gai là huyệt chôn người
Nhưng không lắp được ý đời con đâu
Dù cho nắng lửa mưa dầu
Trong hang tối vẫn ngẩng đầu trông lên.
Dù cho đá nổi rong chìm
Lòng con con chỉ một niềm mà thôi.
73. Cắt tấm lụa đào em đề ba chữ
Chữ trung với Bác, chữ hiếu với mẹ, chữ nghĩa với anh.
Dù xa xôi em vẫn giữ lòng thành
Có Bác chỉ đường dẫn lối thì hai đứa mình sẽ gặp nhau.
74. Cầm trên tay ngọn lúa vàng
Nghe câu em hát mênh mông trên đồng
Hò ơ… Hương lúa thơm nồng
Người dân đất Mũi nhớ công Cụ Hồ .
75. Cầu này ta bắc sang sông
Cho xe chóng chạy cho lòng Bác vui.
Cầu này ta bắc chóng xong
Cho xe chóng chạy, cho lòng Bác vui.
76. Cầu đường mạch máu chúng ta
Giặc mà phá đứt thì ta nối liền
Anh em công chính Hà Tuyên
Một đêm đã bắc được thêm hai cầu
Làm cho giặc Pháp thua đau
Hùng hục phá cầu, chẳng hãm được ta
Tuân theo lời dạy Cha già
Cầu đường giữ vững, dân ta thắng thù.
77. Cây khô tưới nước cũng khô
Diệm thua đổi Khánh, thay cờ cũng thua.
Việt Nam ta có Bác Hồ
Việt Nam ta có ngọn cờ vàng sao.
78. Cây quế Thiên Thai mọc trên núi đá
Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa sơn lâm
Tên Bác Hồ thơm hơn hương quế hương trầm
Nhìn ra phương Bắc mà thương Bác Hồ.
79. Cây trồng hai dãy song song
Trẻ, già, trai, gái lại mong Bác về
Chăm cho cây tốt xum xuê
Xếp hàng đón Bác, cây che rợp đường.
80. Cây xanh nhờ có mặt trời
Cá mà sống được cũng thời nhờ sông
Việt Nam một dải mênh mông
Toàn dân no ấm ơn công Bác Hồ.
81. Cậy ai vẽ được nên tranh
Để ta dâng Bác tâm tình chân quê.
Từ ngày Bác gửi thư về
Trong đồng thêm vụ, ngoài đê thêm màu.
82. Cháu Bác Hồ đội đá vá đường
Cho xe chở đạn ra chốn chiến trường lập công.
83. Cháu chưa biết mặt Bác Hồ
Nhưng nghe lời bác thủ đô vọng về
Trường Sơn nguyện, Cửu Long thề
Quyết tâm giết giặc, đồng quê mong chờ
Tuy chưa gặp Bác bao giờ
Nhưng lòng Bác tỏa trong mơ ấm nồng
Bác là tiếng gọi non sông
Hịch truyền chuyển động nhợp đồng Bắc Nam.
84. Cháu chưa được gặp Bác Hồ
Bác đi, cháu tiếc ngẩn ngơ trong lòng
Bởi vì chưa lập chiến công
Để dâng lên Bác cho lòng Bác vui
Bác ơi, dù Bác đi rồi!
Một lòng cháu nguyện theo lời Bác răn.
85. Cháu đi, lòng Bác đi cùng
Mỗi lời thơ sáng một vùng núi sông.
86. Cháu ở miền Nam nhớ nguồn miền Bắc
Nhớ Bác Hồ hay gởi thư thăm.
87. Chăn anh Vệ đắp
Chiếu anh Vệ nằm
Cụ Hồ lo lắng quanh năm
Anh đắp chăn ấm, anh nằm chiếu êm
Cụ Hồ lo nghĩ ngày đêm
Cho anh vệ quốc có thêm đôi giày
Ví bằng vượt mấy trăm cây
Dân công vất vả không tày Cụ lo.
88. Chẳng thịt lợn, chẳng bánh chưng
Hoa rừng sẵn cắm ống bương miệng hầm
Đêm khuya lất phất mưa dầm
Chặt tàu lá chuối dựng sàn che mưa
Trong đêm khe khẽ tiếng thơ
Giữa rừng ấm tiếng Bác Hồ - Xuân sang.
89. Chèo lái tây đông vẫn trông về chòm sao Bánh –lái,
Bắc Nam xa ngải đâu cũng ơn ngãi Cụ Hồ.
Mưa làm nơi mát nơi khô
Ơn đức Cụ Hồ cả nước mát chung.
90. Chiến đấu hy sinh vì đời quyết tử
Lời Cụ Hồ kêu gọi phụ nữ với thanh niên
Tiến lên đập nát xích xiềng
Mới là trai anh hùng đất Việt, gái thuyền quyên của nước nhà.
91. Chiến thắng quê ta vang trời dậy đất
Năm châu bốn biển tới tấp chào mừng
Nghe lời Bác dạy dốc lòng
Chiến công nối tiếp chiến công rộn ràng.
92. Chiến trường thu dọn đã xong
Sáng nay vác cuốc ra đồng xới ngô.
Đồng bào trông thấy hoan hô
Hoan hô anh lính Cụ Hồ ngoan ghê.
Lính Cụ Hồ đủ mọi nghề
Hết đi tác chiến lại về chỉnh quân.
Học hành, luyện tập thật chăm
Đoàn kết, giúp đỡ nhân dân thật nhiều.
Cụ Hồ dân kính, dân yêu
Mà anh bộ đội dân chiều, dân thương.
93. Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ câu Bác dạy nhớ điều Bác khuyên
Những lời vàng ngọc không quên
Con đường thống nhất càng bền đấu tranh .
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ lời Bác dạy, nhớ điều Bác khuyên.
Ghi lời vàng ngọc không quên
Con đường thống nhất càng bền đấu tranh.
94. Chiều chiều ra tắm giếng Vàng
Ngó về Ngũ Phúc, ngó sang Thiên Cầm.
Mẹ già cuốc bẫm cày chăm
Vụ chiêm gặt hái đã gần xong chưa?
Đêm qua trời đỗ cơn mưa
Đắp bờ giữ nước vụ mùa ai lo.
Ai bàn kế hoạch giúp cho,
Kịp ngày sinh nhật Bác Hồ dâng lên.
Gửi lời nhắn mẹ cùng em
Chưa xong cứ nhắn lời lên chị về.
95. Chiều qua núi đá chắn ngang
Sớm nay đường đã thênh thang chạy dài
Tưởng thần Phù Đổng ra oai
Té ra cháu gái cháu trai Bác Hồ.
96. Chính phủ huy động dân công
Anh em ta quyết gánh gồng lên vai
Đèn trăng, quạt gió, hương trời
Đứng vào một tổ ba người tâm giao
Đường trường bao quản gian lao
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Anh em nam nữ chúng ta
Thi đua phục vụ trong ba tháng tròn
Băng ngàn, lội suối, trèo non
Dân công xứng đáng là con Cụ Hồ.
97. Chính phủ ta tuyên bố hiệp thương
Mở đường thống nhất
Thỏa lòng mong mỏi chồng chất bấy lâu nay
Có hòa bình thống nhất mới có cơm áo ruộng cày
Hỡi anh chị em mình ơi
Phải đứng lên tranh đấu để đến ngày vinh quang
Việc thống nhất nước nhà là nguyện vọng thiết tha
Nhưng âm mưu của kẻ thù thâm độc phá ta
Vững lòng tin tưởng ở sự lãnh đạo sáng suốt của Cha già.
98. Cho dù tát cạn biển đông
Cho dù đếm hết chim muông trên rừng
Cho dù san phẳng Trường Sơn
Bác ơi cháu chỉ sắt son một lòng
Đấu tranh thống nhất non sông
Giấc ngàn thu thỏa ước mong Bác Hồ.
Cho dù tát cạn biển đông
Cho dù đếm được chim muông trên rừng
Cho dù san phẳng Trường Sơn
Bác ơi cháu chỉ sắt son một lòng
Đấu tranh thống nhất non sông
Giấc ngàn thu thỏa ước mong Bác Hồ.
99. Chờ ngày triêng nặng gánh ra
Thuế ta ta đóng càng già thóc lương.
Thương Cha lo nghĩ đêm trường
Việc nhà việc nước chiến trường chưa yên.
100. Chõng tre Bác ngủ còn đây,
Ngọt lành nước lọc vẫn đầy chum xưa.
101. Chớ thỏa mãn em ơi
Phải nhớ lời Bác dạy
Lo đấu tranh, chớ hãy buông tay
Bao giờ ta hết kiếp đọa đày
Diệt tan quân bán nước mới có ngày vinh quang.
102. Chúng con đây đó xa gần
Noi gương liêm chính kiệm cần của Cha.
Chúng con đây đó xa gần
Noi gương tận tụy vì dân của Người.
103. Chúng con giành lúa nuôi quân
Ăn no đánh thắng, giúp dân làm mùa
Chúng con quyết chí thi đua
Sản xuất, tiết kiệm cho vừa lòng Cha.
104. Chúng con khuya sớm chuyên cần
Nguyện vì lợi ích trăm năm trồng người
Trống trường báo một ngày vui
Từng trang giáo án thấm lời Bác khuyên.
105. Chúng con ở bốn phương trời
Quay về hướng Cụ muôn lời chúc mong
Dài lâu như núi như sông
Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con.
Chúng con ở bốn phương trời
Quay về hướng Bác muôn lời chúc mong
Dài lâu như núi như sông
Bác Hồ sống mãi trong lòng chúng con.
106. Chúng con vượt đỉnh đèo cao
Bỗng nghe thơ Bác gọi vào mùa xuân.
Lời Người tha thiết ân cần
Tăng thêm sức mạnh đoàn quân anh hùng.
Từ đây nhắm hướng tiến công
Như nguồn thác đổ xuống sông tràn bờ.
Bác ơi cháu quyết cắm cờ
Lên trên đồn giặc như thơ Bác mừng.
107. Chúng con xin hứa cùng Cha
Một lòng đoàn kết tăng gia kịp thời
Tuy rằng xa lạ đất người
Tấm lòng vẫn giữ những lời Cha khuyên
Dù cho lũ giặc tuyên truyền
Chúng con vẫn giữ lời khuyên Cha già.
Chúng con xin hứa cùng Cha
Một lòng đoàn kết tăng gia kịp thời
Tuy rằng xa lạ đất người
Tấm lòng vẫn giữ những lời Cha khuyên
Dù cho lũ giặc tuyên truyền
Nhưng lòng vẫn giữ lời khuyên Cha già.
108. Chúng em vừa hát vừa ca
Hát mừng công trái quốc gia ban hành.
Chúng em hát với tre xanh
Hát mua công trái cho nhanh cho nhiều.
Chúng em vừa hát vừa reo
Hát mừng chiến thắng, hát yêu Bác Hồ.
109. Chúng ta con cháu Cụ Hồ
Chờ tin đóng thuế, quang bồ đi ngay.
110. Chữ cận là gần
Chữ viễn là xa
Dù bao cách trở, Bác chẳng xa dân mình.
111. Chưa gặp Bác được một lần
Mà con cứ ngỡ Bác gần đâu đây
Bác đi khắp nước non này
Đâu còn đói rét Bác hay tới nhiều.
Chưa gặp được Bác một lần
Mà con cứ ngỡ như gần đâu đây.
Bác đi khắp nước non này
Đâu còn đói rét Bác hay tới nhiều.
112. Chưa được đón Bác thăm quê
Nhưng lời Người dạy đã về từ lâu
Lời Người nên ruộng, nên trâu
Lời Người nên lúa, nên màu ấm no
Qua sông nhớ nghĩa chuyến đò
Muôn năm dân nhớ Bác Hồ, Bác ơi.
113. Có ai ra đến Cụ Hồ
Cho con nhắn gởi Cha già mấy câu
Xa Cha gần Diệm mặc dầu
Lòng con chẳng phút giây nào quên Cha
Nước non ngàn dặm đường xa
Đấu tranh gian khổ, lời Cha ghi lòng
Ngôi sao sáng giữa cờ hồng
Lời Cha rực rỡ giữa lòng chúng con
Bác Hồ yêu mến thợ thuyền
Bác lo chăm sóc thường xuyên mọi nhà
Lo ăn, lo mặc, lo chơi
Lo chốn làm việc, lo nơi học hành
Bác lo chăn ấm, áo lành
Bác dìu dắt thợ đấu tranh từng giờ
Công lao ấy của Bác Hồ
Núi đâu sánh được, biển mô ví bằng.
114. Có ai về chốn quê nhà
Gửi lời chúc thọ Cha già mến yêu
115. Có con chim nhỏ
Nó đổ cành cau
Đêm nảo đêm nao
Cũng kêu chít chít;
Có em nhỏ nhít
Liên lạc đưa đường
Ai cũng thấy thương
Tặng cho quà bánh
Nhưng em không lãnh
Vì em bảo rằng :
“Tôi tiểu quốc dân
Bác Hồ đã dạy
Thà em nói vậy
Mà em vui hơn
Tây đến tống đồn
Ai ai cũng khổ.
Bây giờ còn nhỏ
Em làm thế này …
Liên lạc ngày ngày
Lớn lên làm lính
Tây đến em đánh
Cho mấy anh coi!”
116. Có Đảng, có Cụ Hồ thân mẹ như cây khô tươi lại
Công ơn này mẹ nhớ mãi không quên
Ruộng đất giành lại, bần cố vùng lên
Tình sâu nghĩa nặng con gắng đáp đền công ơn.
117. Có lòng Bác ở lòng quê
Có lời Bác ở lời thề sắt son
Mặt trời Bác chẳng hoàng hôn
Núi sông vằng vặc tâm hồn Bác soi.
118. Có sông thì phải có nguồn
Giáo lương cũng thể như con một nhà
Cũng dòng sữa mẹ, máu cha
Cũng manh áo rách, cũng là tay không
Đã là bần, cố, trung nông
Đều bị bóc lột làm công tháng ngày
Thương nhau thì nắm chặt tay
Đánh tan địa chủ, dành ngày ấm no
Dẫn đường ta có Bác Hồ
Giáo lương chung sức dưới cờ đấu tranh.
119. Con đi trăm núi ngàn non
Vẫn trông thấy Bác mãi còn ngó theo
Con qua mấy dốc mấy đèo
Còn nghe lời Bác vọng theo ân cần.
120. Con đò nho nhỏ
Sóng đỏ phù sa
Nghe tin Bác đã đi xa
Đò chìm đáy nước, nắng nhòa bóng mây
Con đò nho nhỏ
Nắng đỏ ngọn cây
Nghe tin Bác vẫn còn đây
Đò rời đáy nước chở ngay vào bờ.
121. Con nghe lời Bác vọng về
Rừng xanh nắng dậy, bốn bề gió reo.
Con nghe đỉnh núi lưng đèo
Tiếng than hối hả, sớm chiều khoan xoay.
122. Con nhìn ảnh Bác, Bác ơi!
Như ngàn ánh đuốc sáng ngời mắt con
Con đi trăm núi ngàn non
Vẫn trông thấy Bác mãi còn dõi theo
Con qua mấy dốc, mấy đèo
Còn nghe lời Bác vọng theo ân cần:
Đã rằng vì nước, vì dân
Gian nguy chẳng quản, khó khăn sá gì
Một lời Bác dạy tạc ghi
Cả miền Nam bước chân đi nhịp nhàng
Xuân qua, hè đến, thu sang
Chiến công lại tiếp rộn ràng chiến công
Tay cầm ảnh Bác, con mong
Miền Nam đón Bác, thỏa lòng ước mơ.
123. Con ơi con ngủ đi con
Thương con mẹ giữ lòng son đợi chờ
Mong con mau lớn con ơi
Thương con mẹ nhớ những lời hôm qua
Bắc Nam ruột thịt một nhà
Từ đây tạm cách tuy xa mà gần
Thương con mẹ luống bân cần
Cha con tập kết góp phần đấu tranh
Bác con giữ vững lòng son
Hôm nay tù tội cảnh tình lao lung
Chú con giữ tấm lòng trung
Lìa nhà lẫn tránh sống cùng nhân dân
Hiểm nguy không nhụt tinh thần
Ngày mai toàn thắng càng gần con ơi
Con ngoan con ngủ con chơi
Cha con kiến thiết cuộc đời cho con
Con ăn con ngủ con ngoan
Chú con gian khổ lòng son không sờn
Con ơi con chớ có hờn
Bác Hồ đã dặn mẹ còn tăng gia
Đấu tranh thống nhất nước nhà
Mẹ cùng chú thím ông bà dì cô
Quyết không để lũ côn đồ
Cắt chia đất nước cơ đồ của ông cha
Đời con rồi sẽ như hoa
Như con chim hót ngợi ca hòa bình
Đời con như ánh bình minh
Ăn chơi ca hát học hành vui tươi
Lớn lên cùng với bao người
Bàn tay con sẽ xây đời ấm no
Vì đâu con có tự do
Ơn Bác ơn Đảng cao to biển trời
Tương lai con sẽ sáng ngời
Bắc Nam thống nhất trọn lời nước non
Ngày kia cha sẽ gặp con
Gia đình đoàn tụ bà con sum vầy
Và cha con trở về đây
Mẹ con ta sẽ hết ngày đợi trông.
124. Con ra thưa với Cụ Hồ
Đất này chỉ một lá cờ vàng sao.
Con ra thưa với Cụ Hồ
Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao.
125. Còn non, còn nước, còn người
Cây xanh để lại cho đời nở hoa
Nhớ lời di chúc Cha già
Chúng con ra trận hái hoa dâng Người.
Còn non, còn nước, còn người
Cây xanh để lại cho đời nở hoa
Nhớ lời Di chúc của Cha
Chúng con ra trận hái hoa dâng Người.
126. “Còn non, còn nước, còn người…”
Chúng con ghi tạc những lời sắt son
Bác đi? Không bác vẫn còn
Tiếp dòng máu nóng cho con sớm chiều
Quân đi gian khổ hiểm nghèo
Chúng con chiến đấu mang theo bóng Người.
127. Còn non, còn nước, còn người
Tình thương Bác để đời đời cho con
Trập trùng muôn dặm Trường Sơn
Con nghe như tiếng nước non vọng về
Sao trời đọng sáng lưỡi lê
Con đi, Bác chỉ đường đi lối vào
Bác ơi có sức mạnh nào
Bằng lời di chúc Bác trao lên đường.
128. “Còn non, còn nước, còn người
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”
Một lời Di chúc còn đây
Núi mòn sông cạn không phai lòng này.
Ba Đình Bác đứng vẫy tay
Giục đàn con cháu ngày ngày tiến lên.
Trăm năm xin giữ lời nguyền :
Sửa sang đất nước cho yên dạ Người.
Sức dân lấp biển, vá trời
Qua thời gian khổ, sáng ngời mai sau.
Nhà Rồng bến cũ con tàu
Lênh đênh biển lạ, dãi dầu vì ai
Ơn đền nghĩa trả mảy may
Triệu người chung sức dựng xây nước nhà.
129. Còn ai bến nước lạc dòng
Bác Hồ cũng mở cửa lòng biển Đông
Để khi toàn quốc phản công
Không người nào nói chết không đường về
130. Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Bác Hồ hơn mẹ hơn cha
Ơn cao nghĩa cả bao la biển trời
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Công Người đối với chúng ta
Còn hơn công mẹ công cha nhiều lần.
131. Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Công Bác Hồ hơn cha hơn mẹ
Công Bác Hồ trời biển không tày
Nhờ Bác ta có ruộng cày
Có manh áo mới, có đầy bát cơm.
132. Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Bác Hồ hơn mẹ hơn cha
Công cao nghĩa rộng bao la biển trời
Vì dân chiến đấu trọn đời
Điện Biên lịch sử rạng ngời sử xanh
Miền Nam chiến đấu gian nan
Bác là sức mạnh vững vàng niềm tin.
133. Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Cụ Hồ hơn mẹ hơn cha
Ơn sâu, nghĩa nặng gấp ba bốn lần
Ta yêu gì bằng?
Ta quý gì bằng?
Ta quý mặt trời, mặt trăng
Ta yêu quý Đảng còn hơn cả mặt trăng, mặt trời.
Vì mặt trăng, mặt trời
Chỉ cho ta ánh sáng
Mà không cho ta đất ruộng ta cày
Tình cha nghĩa mẹ tuy dày
Công ơn Đảng, Bác còn dày, còn to.
134. Công lao Cụ Hồ đậm đà mưa nắng
Non chồng nghĩa nặng
Nước chứa tình thâm
Từ Vạn Ninh đến Can Lâm
Lòng dân đồng điệu đồng tâm với Cụ Hồ.
135. Công ơn Bác như trời cao biển rộng
Vững lái con thuyền vượt sóng ra khơi
Quét sạch mây đen u ám giữa bầu trời
Dựng lại Việt Nam độc lập muôn đời quang vinh.
136. Công ơn của Bác bao la
Nhân dân kể đến bao giờ cho xong.
137. Công ơn vô bến vô bờ
Cụ Hồ với Đảng bao giờ dân quên.
138. Cờ ta đỏ rực Sài Gòn
Nhớ chân ai bước Trường Sơn những ngày
Nhớ ai, ai khiến nhớ Người
Nhìn lên rõ lệ - mây bay Nhà Rồng.
Bác ơi sao thế, mỗi lòng?
Biết bao giờ nhỉ? Vẫn trông từng giờ!
Miền Nam hẹn đón Bác vô
Đời chưa vui trọn hãy chờ Bác đây
Nhờ ai mới có phút này
Tháng tư vừa hết, đón ngày tháng năm.
Ngàn năm con cháu miền Nam
Làng Sen về đón viếng thăm Bác Hồ!
139. Cụ Hồ cầm vỉ đập ruồi
Để cho muôn người khỏe mạnh sống lâu.
140. Cụ Hồ Chí Minh cầm quyền trong nước
Toàn dân ta đều được tự do
Ruộng cày, áo ấm, cơm no
Bình quyền dân chủ đến cho mọi người
141. Cụ Hồ dạy đã đủ điều
Nhà nông ta quyết làm theo mọi đường
Sợ chi dãi nắng dầm sương
Hậu phương mùa được, chiến trường giặc thua.
142. Cụ Hồ dân kính dân yêu
Mà anh bộ đội dân chiều dân thương
Cụ Hồ có vạn đàn con
Đúng anh bộ đội là con Cụ Hồ.
143. Cụ Hồ đã dạy dân ta
Thi đua sản xuất cũng là đánh Tây.
144. Cụ Hồ hơn mẹ hơn cha
Ơn cao nghĩa nặng gấp ba bốn lần.
145. Cụ Hồ kêu gọi thi đua
Toàn quân reo hò giết giặc lập công
Miền Tây phối hợp miền Đông
Khu Ba khu Bốn đàng trong đàng ngoài
Đánh cho giặc Pháp tơi bời
Thống nhất độc lập cuộc đời ấm no.
146. Cụ Hồ là đuốc sáng ngời
Nhắc đến tên Cụ muôn người yêu thương.
147. Cụ Hồ là nước là non
Hình người in giữa cờ son sao vàng.
148. Cụ Hồ là vị Cha chung
Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái Dương.
Cụ Hồ là vị cha chung
Là sao Bắc đẩu là vừng Thái dương
Chúng con chiến đấu đêm trường
Nhờ Cha dìu dắt dẫn đường chúng con
Ơn Cha như nước như non
Như gương Hồ thủy, như hòn Thái Sơn.
149. Cụ Hồ lo lắng sớm chiều
Dân công vất vả bấy nhiêu thấm gì
Con lão cũng đi
Dâu lão cũng đi
Sức lão đã yếu
Nhưng muốn trông thấy mặt thằng Tây
Coi cái tài ông Giáp
Và gọi là đền đáp
Chút nghĩa Cụ Hồ
Sắm sanh cái gậy, lão “dô hò …”, lão đi.
150. Cụ Hồ lo lắng quanh năm
Anh đắp chăn ấm, anh nằm chiếu êm
Cụ Hồ lo nghĩ ngày đêm
Cho anh vệ quốc có thêm đôi giày.
Ví bằng vượt mấy trăm cây
Dân công vất vả không tày Cụ lo.
151. Cụ Hồ như cột trụ đường
Muốn lay chẳng ngã, muốn rung chẳng rời.
Cụ Hồ như cái gương soi
Soi gương trung liệt, soi người tinh ma
Cụ Hồ như biển bao la
Ao hồ, sông rạch đổ ra trăm đồng.
Cụ Hồ như cái khánh chuông
Khua vọng đánh thức những người mê man
Cụ Hồ như chiếc đò ngang
Đưa ta đến bến vinh quang đời đời.
152. Cụ Hồ như chiếc đò ngang
Đưa ta qua bến gian nan chống chèo
153. Cụ Hồ như chiếc kiếng soi
Soi người lương thiện, soi người tinh ma.
154. Cụ Hồ như núi Thái Sơn
Cơm kia chữ nọ công ơn nào tày.
155. Cụ Hồ nói có sai đâu
Tăng gia sản xuất làm giàu nước ta.
156. Cụ Hồ ở giữa lòng dân
Tuy xa xa lắm nhưng gần gần ghê.
Mỗi khi thư Cụ gửi về
Rộn ràng khắp nẻo cùng quê đón mừng.
Ai ngoài muôn dặm trùng dương
Cũng thường nhận được tình thương Cụ Hồ.
Cụ Hồ ở giữa lòng dân
Tuy xa xa lắm nhưng gần gần ghê
Mỗi khi Cụ gửi thư về
Rộn ràng khắp chợ cùng quê đón mừng
Ai ngoài muôn dặm trùng dương
Cũng thường nhận được tình thương Bác Hồ
Mong ngày độc lập Cụ vô
Thỏa lòng ao ước, ước mơ bao ngày
157. Cụ Hồ ở một hôm thôi
Cũng trồng , cũng tưới, thế rồi lại đi
Hỏi Cụ : trồng tưới làm chi ?
Cụ cười, Cụ đáp : Tôi đi chú dùng.
Cụ Hồ ở một hôm thôi
Cũng trồng, cũng tưới, thế rồi lại đi.
Hỏi Cụ : trồng tưới làm chi?
Cụ cười, Cụ đáp : Tôi đi chú dùng,
ở đây đất lặng, núi lành
ở đây có Bác chúng mình yên tâm.
Hôm nay đi dạo chùa Trầm
Càng vui cảnh Bác càng căm quân thù.
Bác Hồ yêu mến thợ thuyền
Bác lo chăm sóc thường xuyên mọi người.
158. Cụ Hồ ơn đức biết bao
Ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời.
159. Cụ Hồ rộng lượng anh ơi
Đừng theo giặc nữa kẻo đời nhút nhơ.
160. Cụ Hồ với dân
Như chân với tay
Như chày với cối
Như cội với cành
Toàn dân dốc một lòng thành
Làm tròn nhiệm vụ,
Đáp tấm tình của Cụ thương dân.
161. Cụ Hồ yêu nước thương nhà
Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù.
Giặc Tây, giặc đói, giặc mù
Cụ Hồ yêu nước thương nhà
Cả ba thứ giặc, Cụ Hồ đánh tan.
Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù.
Giặc Tây, giặc đói, giặc mù
Cả ba thứ giặc, Cụ Hồ vượt qua.
162. Cụ già thong thả buông cần trúc
Hồ rộng trời in mặt nước hồng
Muôn vạn đài sen hương thơm ngát
Tuổi già vui thú với non sông.
163. ”Cụ Ngô” là đứa ở mô
Dân ta chỉ biết cụ Hồ mà thôi.
164. Cua đồng ngọt nước mồng tơi
Cơm trắng đầy nồi chồng xới vợ chan.
Dẻo thơm hạt gạo tám xoan
Cả nhà ghi nhớ công ơn Bác Hồ.
165. Củi tre dễ nấu
Cây chông xấu dễ xài
Xây làng chiến đấu diệt loài xâm lăng
Đấu tranh là lửa thử vàng
Đi theo Đảng Bác gian nan chẳng sờn.
166. Cửu Long nước chảy xuôi dòng
Miền Nam chung sức chung lòng đánh Tây
Cụ Hồ gọi, súng cầm tay
Thuyền em chở chuyến gạo đầy nuôi quân.
167. Cứu quốc là Cụ Hồ
Phản quốc là tên Ngô
Sự thật đã rõ ràng
Tuyên truyền làm sao vô.
168. Dãy Trương Sơn trùng trùng điệp điệp
Phủ màu xanh biếc nước Việt Nam ta
Mũi Cà Mau nhắn với Mục Nam quan
Sông Thao nhắn với sông Trà
Hai dòng một nước dân ta một nòi
Lòng ta ơn Bác đời đời
Như rừng không đếm được lá, như trời không đếm được sao.
169. Dân cày mà có Bác Hồ
Như thuyền có lái, như cờ gió bay.
170. Dân ta được sự ấm no
Nhờ ơn Hồ Chủ Tịch đưa đến bến bờ vinh quang.
171. Dân ta ơn Bác đời đời
Mong ngày thắng lợi rước Người vào thăm.
172. Dân ta xây dựng cơ đồ
Thành công nhờ có Cụ Hồ cầm tay.
173. Dầu cho bão tố phong ba
Miền Nam vẫn có Cha già cạnh bên
Ngọn cờ hồng Bác vẫy lên
Cháu con của Bác đứng trên đầu thù.
Dẫu cho bão tố phong ba
Miền Nam vẫn có Cha già cạnh bên
Ngọn cờ hồng Bác vẫy lên
Cháu con của Bác đứng lên đầu thù.
174. Dẫu cho tan núi Chóp Chài
Lòng dân với Bác chẳng đời nào tan
Đấu tranh là lửa thử vàng
Tên Người khắc giữa miền Nam sáng ngời.
175. Dây trầu quấn chặt thân cau
Miền Nam chiến đấu trước sau quanh Người.
Dây trầu quấn chặt thân cau
Toàn dân chiến đấu trước sau quanh Người.
176. Dòng Cửu Long khúc cong khúc thẳng
Ngọn Thất Sơn phẳng lặng xa xanh
Con chim không ăn quả hai cành
Miền Nam sau trước giữ lòng thành với Bác kính yêu.
Dòng sông Nông khúc cong khúc thẳng
Ngọn núi truồi phẳng lặng xa xanh
Con chim không ăn quả hai cành
Miền Nam trước sau vẫn giữ tấm lòng với Đảng Bác kính yêu.
177. Dù cho biển cạn non mòn
Lòng dân Thuận Hóa vẫn còn trơ trơ
Vẫn là dân của Cụ Hồ
Trọn đời theo mãi ngọn cờ vàng sao
Sông Hương đó, núi Ngự đây
Kinh đô xứ Huế mai này về ta.
178. Dù cho giặc chiếm đất đai
Chiếm sao cho được lòng người Việt Nam
Dù cho giặc chiếm đất đai
Chiếm sao cho được lòng người miền Nam
Dù cho biển cạn non mòn
Lòng dân Thuận Hóa vẫn còn trơ trơ
Vẫn là dân của Cụ Hồ
Trọn đời theo mãi ngọn cờ vàng sao .
Dù ai có lắm mưu mô
Cũng không chia nổi cơ đồ Việt Nam
Dù ai xẻ núi ngăn sông
Cũng không bì được với dân Cụ Hồ
Lòng ta đã quyết thì xô
Cây còn trốc rễ, huống đồ buôn dân.
179. Dù ai đi đông đi tây
Mỗi năm tháng chín nhớ ngày mồng ba
Dù ai đi gần đi xa
Chớ quên ngày giỗ Cha già kính yêu.
180. Dù ai ngăn đông đón tây
Thì ta vẫn vững như cây giữa rừng.
Trước sau một dạ một lòng
Muôn đời ghi tạc công ơn Bác Hồ.
181. Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Dù ai rào dậu ngăn sân
Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ.
182. Dù ai xuôi ngược xa xăm
Đến ngày mười chín tháng năm thì về.
183. Dù cho giặc lắm mưu mô
Cũng không chia nổi cơ đồ Việt Nam
Dù ai xẻ núi ngăn sông
Cũng không chia được lòng dân Cụ Hồ.
Dù cho giặc lắm mưu mô
Cũng không chia nổi cơ đồ Việt Nam
Dù ai xẻ núi ngăn sông
Cũng không chiếm được lòng dân Cụ Hồ
Lòng người đã quyết thì xô
Cây to cũng đổ, huống hồ có săn.
184. Dù cho Mỹ Diệm ỳ ra
Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải thành công.
185. Dù cho sóng vỗ bềnh bồng
Không đi không được dục lòng phải đi
Dù thân trải bước gian nguy
Thương đời dân chúng, xót vì nước non.
Cháy lòng – một trái tim son
Biển đông tát cạn, nỗi buồn chẳng vơi.
Ra đi chẳng đợi ai mời
Ngày về thầm hẹn – phương trời tuyết sương.
Nhớ dừa dáng đứng quê hương
Một vườn cau nhỏ để thương vạn ngày.
Sáng lòng – vận nước cơ may
Mở trang sử mới từ giây phút này.
Núi cao, biển rộng – ơn Người
Một ngày xa bến ngàn đời nở hoa.
186. Dù cho vật đổi sao dời
Ơn Cụ Hồ, nghĩa Đảng đời đời không quên.
Dù cho vật đổi sao dời
Ơn Cụ Hồ nghĩa Đảng đời đời không quên
Treo ảnh tổng Ngô lên tường lòng căm hờn nóng bỏng
Kẻ khẩu hiệu tố cộng dạ nát đau
Lòng em đây không phụ khó tham giàu
Ơn Cụ Hồ nghĩa Đảng gắn bó trước sau một niềm.
Dù cho vật đổi sao dời
Ơn Cụ Hồ, nghĩa Đảng đời đời không quên
Đồng quê ngọn lúa xanh rờn
Nước kênh còn chảy còn ơn Cụ Hồ
Dù cho Mỹ Diệm hồ đồ
Lòng ta ta giữ, ơn Cụ Hồ ta ghi.
187. Dù cho vật đổi sao dời
Bác Hồ như ánh mặt trời mùa xuân.
188. Dừng chân nhớ nước chè xanh
Chung nhau điếu thuốc để dành, cắn đôi
Hôm qua đã vượt “cổng trời”
Hôm nay bước tới chín mười “sông mây”
Dù đưa võng giữa cành cây
Quên sao tiếng mẹ ru ngày còn thơ
Trường Sơn dậy tiếng Bác Hồ
“Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”
Chân còn đạp đỉnh núi cao
Mà lòng đã ở chiến hào tấn công.
189. Đã nghe tiếng hát sang xuân
Đã nghe tiếng Bác trong ngần, thiết tha
Đêm nay vui đón giao thừa
Chuyển hàng vai nặng, tiếng thơ giục lòng.
190. Đảo xa sóng dội bốn bề
Lắng nghe lời Bác vọng về biển khơi
Quân nghe phơi phới niềm vui
Biển nghe dậy sóng hòa lời thiết tha
Rừng nghe Bác gọi nở hoa
Pháo nghe pháo đón tầm xa diệt thù
191. Đảng Cộng sản – Hồ Chí Minh
Sinh ra giữa buổi dân tình lao đao.
Gió sương hôm ấy hôm nào
Chào đời giữa khoảng mây sầu tứ giăng.
Quê nhà chờ đợi tuần trăng
Gió mưa bao trận phũ phàng, quản chi.
Đường đời nham nhở lối đi
Xà-lim mở khắp đó đây- cực hình
Dâng cao một khối bất bình
Đầu rơi để lại tinh anh giữa đời.
Hát lên tiếng hát tuyệt vời
Cường quyền đạp xuống cho người đứng lên.
Gian nan thách thức lòng tin
Cờ thiêng – giọt máu trái tim đỏ màu.
Sáu mươi năm cuộc bền lâu
Thành công, thất bại gối đầu tháng, năm.
Nhà Rồng bến cũ tối tăm
Ra đi cho sáng trăng rằm nước non.
Nhìn về một dãy giang sơn
Càng cao sóng biển căm hờn bấy nhiêu.
Nhớ ai, ai nhớ những chiều
Mây bay gửi lại quê nghèo chốn xa.
192. Đặt chân lên bến Nhà Rồng
Gió về thổi nhẹ mặt sông nô đùa.
Ngày vui càng nhớ Bác Hồ
Năm canh thao thức đợi chờ tàu ra…
Thương nhà phải tạm rời nhà
Xa quê năm tháng khôn nhòa tình quê
Hướng về đồng ruộng bờ tre
Xót tình non nước bốn bề lao đao.
Bao phen sóng vỗ thuyền chao
Đinh ninh tấc dạ mai sau lại về.
Đêm đêm Pắc Pó rừng khuya
Khắp nơi sao mọc trời quê sáng rồi!
Sáng nay khôn xiết bồi hồi
Trông ra biển rộng nhớ Người không quên.
193. Đất Dương Hòa còn vang câu ca chiến thắng
Núi Hòa Mỹ còn nhớ khi gánh đạn khiêng bom
Ơn Cụ Hồ gắn bó tám chín năm tròn
Nay không vì gian nguy mà lùi bước
Sông dập dồn mà nghỉ chân.
194. Đất này là đất Cụ Hồ
Đất cha chi thằng Bảo Đại, Tây qua đóng đồn.
Đất Trị Thiên là đất của Cụ Hồ ta
Đất cha ông chi thằng Bảo Đại mà kéo Tây qua đóng đồn.
195. Đất này lúa trổ oằn bông
Hương thơm trãi khắp cánh đồng ấm no
Nhớ công ơn của Cụ Hồ
Người dân đất Mũi nguyện giữ cờ vàng sao.
196. Đất xưa chai cứng ai bồi
Phù sa mà mượt cho đời lên xanh.
Đếm sao cho hết ngọn, ngành
Năm mươi lăm năm…nghĩa tình nặng mang.
Canh dài tâm sự ngỗn ngang
Đồng bào, giai cấp, tìm đường tiến lên
Sáng lòng nhờ Mác – Lênin
Đầu rơi máu đổ vẫn tin một ngày…
Khắp nơi đỏ rực cờ bay
Binh minh xua bóng đêm dài tối tăm.
197. Đất Việt Nam cờ bay phất phới
Tiếng kèn vang dội hòa “Tiếng quân ca”
Chúc Cụ Hồ trẻ mãi không già
Dựng nền dân chủ cộng hòa muôn năm.
198. Đầu năm mang bưởi biếu bà
Bà rằng “Hoa quả cây nhà hay mua?”
Thưa bà, vâng ý Bác Hồ
Bưởi này, cây tết năm xưa cháu trồng!.
199. Đầu năm vào cuộc hành quân
Niềm tin đượm mát thơ xuân Bác Hồ
Đường dài dầu nặng ba lô
Đôi chan vẫn dẻo câu hò ngân vang.
Quân đi lớp lớp hàng hàng
Thành con sông chảy giữa ngàn Trường Sơn.
200. Đây Tháp Rùa nhớ chùa Thiên Mụ
Chợ Đồng Xuân nhớ chợ Bến Thành
Nhớ lời Bác dạy đinh ninh
Đồng quê, xưởng máy nặng tình Bắc Nam
Tình Bắc Nam chứa chan, thắm thiết
Giục mỗi người làm việc bằng hai
Đua nhau gái giỏi, trai tài
Thép gang vượt mức, lúa khoai được mùa.
201. Đèn nào cao bằng đèn mặt trận
Sức nào mạnh bằng sức nhân dân
Theo lời Đảng Bác vùng lên
Xây đời hạnh phúc hòa bình ấm no.
202. Đèo Nai sương bụi mù trời
Bâng khuâng lại nhớ đến hồi Bác ra.
Gương than lấp lánh gần xa
Xe vào vượt chuyến, tàu ra nặng dằm.
203. Đèo cao thì mặc đèo cao
Tinh thần tiếp vận còn cao hơn đèo
Mặc cho dốc núi cheo leo
Mặc cho muôn sự hiểm nghèo, gian nan
Dân công có ánh sao vàng
Có Hồ Chủ tịch, vượt ngàn ta đi.
204. Đẹp sao đôi dép cao su
Đế dầy, quai dẻo, bền như tình người
Bác mang đôi dép trọn đời
Chông gai chẳng sợ, đường dài chẳng nao
Con đi chiến đấu gian lao
Chân mang dép nhẹ vượt bao dặm trường
Đá mòn nhưng dép chẳng mòn
Ta đi giết giặc, dép còn thủy chung
Trường Sơn mấy núi trập trùng
Hoa in dấu dép trên đường quân đi.
205. Đêm hai mốt nghe tin đình chiến
Xưởng vang lên muôn tiếng reo hò
Lòng vui như thể mở cờ
Miệng không ngớt tiếng : Bác Hồ muôn năm.
206. Đêm nay đứng giữa chiến hào
Nghe lời Bác gọi dạt dào niềm tin
Ngày mai giải phóng quê mình
Miền Nam đón Bác, thỏa tình ước mong.
Đêm nay đứng giữa chiến hào
Nghe lời Bác gọi dạt dào niềm tin
Ngày mai giải phóng quê mình
Miền Nam đón Bác thắm tình ước mong.
207. Đêm nay mừng lắm Cha ơi
Cỏ cây mở hội đất trời liên hoan
Đêm nay mười chín tháng năm
Hồn con sáng tựa trăng rằm Trung thu
Con đang chúc thọ trong tù
Con đang dựng một rừng cờ trong tim
Đêm nay mộng hóa thành chim
Tung qua lưới sắt con tìm đến Cha.
208. Đêm nay ngồi dưới chiến hào
Bên nòng đại pháo, ngắm sao trên trời
Gió về rắc nhẹ sương rơi
Nghe thơ Bác vọng giữa trời quê hương
Đoàn quân giải phóng lên đường
Mừng sinh nhật Bác, chiến trường lập công.
209. Đêm nay trăng sáng đầy trời
Trung thu nhớ Bác cháu ngồi cháu trông
Ngoài kia miền Bắc trống rung
Các bạn nhi đồng nhảy múa hò reo.
Bác thương các cháu khổ nghèo
Miền Nam xa Bác sớm chiều trông ra.
210. Đêm nay trăng tỏ mặt người
Ta ra vun xới một vài luống ngô
Ngày mai sinh nhật Bác Hồ
Viết thư chúc Bác từng giờ khỏe thêm.
211. Đêm năm canh em nằm em nghĩ
Ơn Bác Hồ ví tựa Bắc Sơn,
Lòng em ghi tạc công ơn
Căm thù Mỹ Diệm đánh lộn sòng trắng đen.
Đêm năm canh em nằm suy nghĩ
Ơn Bác Hồ ví tựa Thái Sơn,
Lòng em ghi tạc công ơn
Căm thù Mỹ ngụy đánh lộn sòng trắng đen.
212. Đêm nằm ngó thấy chiêm bao
Thấy Hồ Chủ tịch đã vào nơi đây
Thấy trời rợp bóng cờ bay
Thấy mình toàn thắng, thấy Tây đầu hàng.
Tiếng cười tiếng hát ầm vang
Niềm vui độc lập ngập tràn lòng dân.
Đêm nằm thiếp giấc chiêm bao
Thấy Hồ Chủ tịch đã vào nơi đây
Thấy trời rợp bóng cờ bay
Thấy mình toàn thắng, thấy Tây đầu hàng.
Tiếng cười tiếng hát ầm vang
Niềm vui độc lập ngập tràn lòng dân.
213. Đêm qua tôi đắp chăn bông
Sung sướng vô cùng ấm lắm ai ơi!
Dưới thời Pháp thuộc suốt đời
Trong bao tải rách, có người chết cong.
214. Đếm sao cho hết vì sao
Kể sao hết được công lao Bác Hồ.
215. Đền ơn Bác mấy cho cùng
Đường ra mặt trận tưng bừng sớm hôm
Bao giờ thống nhất non sông
Bấy giờ mới thỏa ước mong của Người.
216. Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công
Bác đi trăm núi ngàn sông
Bài ca đoàn kết hát cùng chúng con
Lời Bác dạy, tiếng nước non
Mở trang lịch sử, vang dồn chiến công
Đại đoàn kết, đại thành công
Chúng con xin nguyện một lòng nhớ ghi.
217. Đọc lời di chúc thiết tha
Đường đi ra trận còn xa bỗng gần
Cho dù mỏi gối chồn chân
Vì thương Bác quyết đạp bằng khó khăn.
218. Đóng thuế mà bước nhanh chân
Chiến trường bộ đội càng hăng diệt thù
Đóng thuế mà bước chần chừ
Thì thêm lỗi với Cụ Hồ, ai ơi!
219. Đố ai biết biển bao sâu
Biết sông mấy ngả, biết cầu mấy nơi.
Miền Nam đã khắc một lời
Thủy chung với Bác chẳng dời lòng son.
220. Đố ai đếm được lá rừng
Đố ai đếm được mấy tầng trời cao
Đố ai đếm đủ vì sao
Đố ai đếm được công lao Bác Hồ.
221. Đố ai đo được trời cao
Đố ai trả được công lao Cụ Hồ.
Mong ngày độc lập Cụ vô
Kẻo lòng mong đợi ước mơ đêm ngày.
Đố ai đo được trời cao
Đố ai tính được công lao Cụ Hồ
Mong ngày độc lập Cụ vô
Thỏa lòng mong đợi, ước mơ đêm ngày.
222. Đố ai lên được trời cao
Đố ai đáp được công lao Bác Hồ.
223. Đố ai múc hết nước sông
Đố ai chép hết được công Bác Hồ.
224. Đố ai quét sạch lá rừng
Đố ai xui được con đừng theo Cha
Bấy nay Cha dựng sơn hà
Vang danh bốn biển, đức lòa năm châu
Con dù gian khổ đến đâu
Vững tin vì biết trên đầu có Cha.
225. Đố ai quét sạch lá rừng
Đố ai cướp được cả rừng lòn bon
Thù cao như núi như non
Lòng dân với Bác keo sơn chẳng dời
Đố ai cắt nước làm đôi
Vầng trăng xé nửa, mặt trời chia hai.
226. Đôi dép đơn sơ
Đôi dép Bác Hồ
Bác đi từ ở chiến khu về
Phố phường, trận địa
Nhà máy, đồng quê
Đều in dấu dép Bác về, Bác ơi!
Dép này Bác trải đường dài
Dép này Bác mở tương lai nước nhà
Đường đi chiến đấu gần xa
Dấu dép Cha già dẫn lối con đi.
227. Đôi mươi Hà Bắc, Bắc Ninh
Gặp trai mười tám Nghệ, Thanh đổ vào.
Từ xa biên giới núi cao
Đồng bằng giục giã hãy mau lên đường.
Tình quê chín nhớ, mười thương
Miền Nam ta đó – một phương cuối trời.
Trường Sơn đã thắm mồ hôi
Người đi rầm rập cây đồi chuyển rung.
Bác Hồ, con cháu anh hùng
Phạt rừng, xẻ núi không ngừng tiến lên.
“Không gì khó” tuổi thanh niên
Chân cứng đá mềm ta chấp tàu bay.
228. Đông xuân bộ đội nhập thành
Diệt tề, trừ ác, giúp dân phá kềm.
Màn đêm lại rực ánh đèn,
Trong phòng triển lãm kẻ chen người chờ.
Ông già mái tóc bạc phơ,
Ngắm ảnh Bác Hồ trìu mến thiết tha.
Rồi ôm hình Bác gọi: Cha!
Nghẹn ngào ông lão gọi qua mọi người.
Bà con ơi! Gặp Cụ rồi!
Ngày mình độc lập gần rồi bà con.
Ông già xoay mặt vào tường
Ngước lên tấm ảnh ôm hôn Cụ Hồ.
229. Đông xuân đại thắng tin về
Đón thư Bác gửi, nhớ ghi từng lời.
230. Đồng Diên Canh cắt nhanh dấu vội
Đồng Phú Nội cắt vội dấu nhanh;
Bớ o,bớ chị, bớ anh,
Lúa bên nách giặc, ta giành về ta.
231. Đồng nào cao bằng đồng Thi Phổ
Thổ nào cao bằng thổ Ba Tơ
Ơn nào sâu bằng ơn Cụ Hồ
Nguồn bao nhiêu nước, ơn Cụ Hồ bấy nhiêu.
232. Đồng quê cây lúa xanh rờn
Nước kênh còn chảy còn ơn Cụ Hồ
Dù cho Mỹ Diệm hồ đồ
Lòng ta ta giữ, ơn Cụ Hồ ta ghi.
233. Đời ta từ có Bác Hồ
Ngày ngày trông thấy cơ đồ mà vui
Tháp Mười đêm sáng - trăng soi
Bưng sâu tối mặt nay đời sáng lên
Qua thời áo cộc quần phèn
“Muỗi kêu như sáo, đĩa lềnh bánh canh”.
Qua thời nhà đạp mong manh
Nay nhà máy đỏ mọc nhanh mỗi ngày.
Qua thời sống dựa “lúa trời”
Nay thu ba vụ sân phơi thóc đầy.
Ngẫm ra đâu phải tại trời
Nhờ công cày cấy, ơn Người mà ra.
Sắp đi còn nán dặn dò :
“Một năm miễn thuế …”, Người cho đã nhiều
Trời cao trông áng mây chiều
Kinh dài nước chảy nhìn theo … nhớ Người.
Đồng sen nở rộ Tháp Mười
Như xưa dâng Bác – Một thời nhớ thương.
234. Đời tôi được gặp Cha già
Như con được mẹ mang quà về cho
Như cá gặp nước sông to
Như thuyền được gặp bến đò thân yêu.
235. Được mùa lúa, được mùa cam
Vâng lời Bác dạy, cả làng trồng cây
Tết này đĩa quả thêm đầy
Ghi sâu ơn Bác, trồng cây thêm nhiều.
236. Đường ra trận tuyến hôm nay
Bác đang đạp núi rẽ mây đi cùng
Còn non còn nước còn người
Cây xanh để lại cho đời nở hoa
Nhớ lời di chúc của Cha
Chúng con ra trận hái hoa dâng Người
237. Đường ra Việt Bắc
Xa lắc xa lơ
Ai đi cho tôi gởi bức thư mấy hàng
Chúc Hồ Chủ Tịch an khang
Lãnh đạo dân tộc trên đường đấu tranh
Chúng con đây đó xa gần
Noi gương liêm chính, kiệm cần của Cha.
Đường ra Việt Bắc
Xa lắc xa lơ
Ai đi tôi gửi bức thư mấy hàng.
Chúc Hồ Chủ tịch an khang
Lãnh đạo dân tộc trên đường đấu tranh
Chúng con đây đó xa gần
Noi gương liêm chính kiệm cần của Cha.
238. Đường vào Quảng Trị, Gio Linh
Bốt đồn địch đóng, hy sinh khó lường
Trời đêm, không ánh sao, trăng
Làng gần trước mặt vọng sang tiếng chày
Tiếng chày giã gạo đều tay
Lắng nghe chẳng thấy xa bay giọng hò
Bỗng dưng nhớ đến bài thơ
Bài thơ Giã gạo Bác Hồ năm xưa
Gạo đau thêm trắng đó chừ
Con đường cách mạng chẳng chừa gian nguy
Vững lòng tin tưởng, ta đi
Sáng mai nổ súng kịp thì đón xuân.
239. Đường vào Nam trục trặc
Đường ra Bắc gập ghềnh
Ai đi mà gửi lúa mình
Đem ra nhờ Cụ trao tình quân dân.
240. Đường vào thôn xóm quê ta
Hầm chông, cạm bẫy, đường ra chiến hào
Bình ong, chon sắt cào cào
Giặc còn hóng hách càn vào bỏ thây
Chính quyền ta quyết dựng xây
Giặc mà dẫn tới, đất này xác phơi
Đêm nằm nhớ Bác, Bác ơi!
Một lời Bác gọi, triệu người xung phong.
241. (Hướng về Đại hội Đảng lần thứ 5)
Đường về Hà Nội không xa
Non sông bốn mặt chan hòa niềm vui
Ai đi khắp nước mà coi
Cành đào thêm thắm, cành mai thêm vàng.
Mùa xuân ai báo tin sang
Đảng khai đại hội luận bàn việc dân.
Mùa vui vui những hai lần
Vui tình dân, Đảng vui sân thóc đầy.
Nơi nơi nghìn dặm cờ bay
Nhớ ngày Bác lại, thương ngày Bác đi…
Trái tim nóng hổi còn kia
Yêu dân, yêu Đảng Bác về xuân nay.
Núi cao, biển rộng sông dài
Ơn người dựng nghiệp cho đời hưởng chung.
242. Đường về Hà Nội không xa
Trái tim ta đó – trong ta nhịp đều.
Thủ đô trăm quí, ngàn yêu
Miền Nam những sớm, những chiều trông ra.
Người đi ta ở lại nhà
Gió mưa vừa tạnh, mùa hoa tới gần
Tay ai đem lại mùa xuân
Ánh hồng vừa ló, mây vần đã tan.
Xuân tươi đã đến bao lần
Xuân này mới thật là xuân đợi chờ.
Sớm vui lên đỏ cột cờ
Tháp Rùa soi bóng nước hồ trong xanh.
Ánh dương rọi sáng Ba Đình
Người về viếng Bác soi mình trước gương.
Mưa mai dù đến bất thường
Lòng ta vẫn hướng một phương mặt trời.
Bác Hồ đứng đấy vẫy tay
Mòn vai gánh vác sự đời tháng, năm
Qua thời gian khổ chưa an
Nặng lòng vì nước, vì dân mỗi giờ.
Ngàn năm sống mãi Bác Hồ
Đảng ta đại hội ấy giờ ra quân.
243. Em là cháu gái Bác Hồ
Công nhân xí nghiệp ươm tơ lành nghề.
Hà Đông tơ lụa là quê
Có ai nghỉ phép mời về quê em.
244. Em lên rừng đốn một khúc gỗ trắc
Đem về em khắc mấy câu thơ
Câu thương, câu nhớ, câu đợi câu chờ
Dẫu cho non mòn biển cạn
Ơn nghĩa Cụ Hồ không quên.
245. Em mơ ước mãi lúc nào
Bác Hồ đến trại, em chào Bác xem.
Giơ tay Bác cũng chào em
Mắt Bác dịu hiền, tóc Bác bạc phơ.
Bác đi em chạy em hò
Em cầm tay Bác, Bác cho em cầm.
Bác về em dõi đăm đăm
Em reo em hát ‘muôn năm Bác Hồ’.
Gió đưa cành lá phất phơ
Vườn cây cũng vẫy Bác Hồ của em.
246. Em ơi cố gắng thi đua
Đoạt giải Cụ Hồ mới thật là ngoan
247. Em ơi vừa có tin đồn
Hôm qua bộ đội đánh đồn Cẩm Phô
Chiến công vang đến cụ Hồ
Quảng Nam là đất chôn mồ thực dân.
248. Em về giã gạo ba giăng
Anh lên gánh nước Cao Bằng về ngâm
Đến ngày 19 tháng 5
Gói thành đôi bánh đem dâng Bác Hồ.
249. Em vừa mãn khóa “i-tờ”
Chồng bảo : “sách vở từ giờ cắt thôi!
“I tờ mãn khóa đủ rồi
Đi học con khóc, ai người giữ cho?
- Dỗ con đã có tổ lo
Còn chữ Cụ Hồ ai lại không chăm?
Xấu dâu, tơ chẳng xứng tằm
Đời em sao để tối tăm cho đành.
250. Em yêu Bác Hồ
Em ghét tổng Ngô
Bác Hồ hiền lành
Tổng Ngô độc ác
Tổng Ngô như chim cắt
Bác Hồ tựa Thái Sơn
Chim cắt chết yểu chết mòn
Thái Sơn muôn thuở vẫn còn Thái Sơn.
251. Gạo đau thêm trắng đó chừ
Con đường cách mạng chẳng chừa gian nguy
Vững lòng tin tưởng ta đi
Có Đảng , có Bác sợ gì khó khăn.
252. Gạo này là gạo canh nông
Dậy mùi cơm mới trắng bông hoa nhài
Chữ đề nắn nót bì ngoài
“Làm tăng năng suất theo lời Bác răn
Gạo này của đội Trai Trang
Từ công trường gửi Tân An anh hùng”.
253. Gian nan cơm vắt muối rừng
Mà sao con thấy sáng trưng cuộc đời
Còn gì hơn được Bác ơi
Miền Nam chiến đấu có Người luôn bên.
254. Giao thừa đoàn tụ quanh đài
Cả nhà chăm chú lắng tai đón chờ
Bâng khuâng thương nhớ Bác Hồ
Tết này vắng Bác đọc thơ chúc mừng
Âm vang từ tận đáy lòng
Vẫn nghe Bác đọc từng dòng thơ xuân.
255. Giặc kia khủng bố lu bù
Lòng dân vẫn một mùa thu Bác Hồ
Tình quân dân nghĩa đồng bào
Ngàn câu cổ vũ ghi vào trong tim.
256. Gió Nam từ biển thổi vào
Gió Nam thổi rốc, lộn nhào cụ Ngô
Cụ Ngô là đứa mô mô
Dân ta chỉ biết Cụ Hồ mà thôi!
Gió nam từ biển thốc vào
Gió nam thổi nốc lộn nhào cụ Ngô
Cụ Ngô là đức mô mô
Dân ta chỉ biết Cụ Hồ mà thôi.
257. Gió nào bằng gió Tu Bông
Sức nào bằng sức nhân dân Cụ Hồ.
258. Gió thu rơi chiếc lá vàng
Để em nhớ cảnh, thương chàng gian truân
Nghe rằng Cụ muốn khao quân
Ai đi cho gửi trăm cân gạo mùa.
259. Giỏi như đến bậc Cụ Hồ
Người còn phải học, huống hồ chúng ta.
260. Giôn-xơn, Bốt-lốt, Tay-lo
Hung hăng hổ giấy làm trò gì đâu
Căm thù như lửa thêm dầu
Nghe lời Bác ta đánh Mỹ dập đầu tan thây.
261. Giờ đây Đông chẳng thù Đình
Đình, Đông nối lại mối tình năm xưa
Đông, Đình chung sức thi đua
Gánh chung nhiệm vụ phất cờ đấu tranh
Chung lòng vun cánh đồng xanh
Muôn đời ơn Bác Đông, Đình hòa vui.
262. Giữa ngày giải phóng thành đô
Bỗng đâu tấm ảnh Bác Hồ hiện ra
Lần đầu được gặp Cha già
Muôn ngàn con mắt trẻ, già nhìn no
Má rằng : thương tiếc Cụ Hồ
Hôm nay thấy Cụ, hết lo, hết sầu
Cụ Hồ tài lớn, đức cao
Nghìn năm vẫn sáng như sao giữa trời.
263. (Kính viếng những chiến sĩ hi sinh trong tết Mậu Thân)
Hai mươi năm ấy là tình
Máu đào ai đổ cho mình nhớ ai!
Mênh mông biển rộng sông dài
Ơn người nằm xuống tháng ngày không quên!
Cờ ta bay bổng khắp miền
Ngọn cờ thống nhất nối liền Bắc – Nam.
Ngọn cờ đẹp nhất trần gian
Ngọn cờ xua lũ dã man thú – người
Ngọn cờ xanh đỏ lên ngôi
Thị thành, làng mạc đất trời chuyển rung.
Ra quân một trận hào hùng
Hả lòng từng xóm, đẹp lòng năm châu.
Về đâu? Ta biết về đâu
Nát tim Nhà Trắng, điên đầu ngụy quân.
Đất này ta đứng vững chân
Dẫu rằng đuổi Mỹ một lần không xong.
Bao ngày đòn trả phản công
Cây thêm chất độc, ruộng đồng đầy bom.
Núi cao : chồng chất căm hờn
Biển nào tát cạn nỗi buồn tóc tang.
Gió mưa từng trận phũ phàng
Thiêng liêng cờ Đảng mơ màng năm canh.
Đồng tâm có chị, có anh
Mẹ già, tất cả, sẵn dành cho con.
Miễn sao Tổ quốc vuông tròn
Ngực còn hơi thở, sức còn đứng lên.
Ào ào một trận làm nên
Mùa xuân chiến dịch mang tên Bác Hồ.
Phố ta ngày ấy rực cờ
Nghìn năm giữ vững cơ đồ từ đây.
Xuân xưa về lại xuân này
Mậu Thân hai tiếng ngày ngày không quên.
Mong sao nghĩa trả, ơn đền
Đẹp sao chiến sĩ không tên những ngày!
264. Hai bên những núi cùng non
Giữa đường cái nhựa trăng tròn sáng soi
Trăng sáng soi có người vệ quốc
Lính Cụ Hồ đi bước hiên ngang
Trăm năm ghi tạc đá vàng
Cùng nhau giải phóng quê hương đất này.
265. Hai tay bưng bát cơm thơm
Con ơi nhớ lấy công ơn Bác Hồ
Nhờ ai khoai thúng đầy bồ
Nhờ ai ruộng đất cơ đồ về ta?
Non dài biển rộng bao la
Đời đời ơn Bác thiết tha mặn nồng
Ngày xưa nước mắt lưng tròng
Thương con khát sữa, xót chồng ngược xuôi.
Bây giờ no ấm vui tươi
Con đi bộ đội, chồng ngồi ủy ban
Ngày xưa đói rách cơ hàn
Ruộng vườn chẳng có một gang cắm cày
Bây giờ ruộng đất về tay
Tăng gia sản xuất ơn này nhờ ai?
Ơn này mẹ để hai vai
Một vai ơn Đảng, một vai Bác Hồ.
266. Hải Hưng đẹp xóm, đẹp làng
Đẹp hàng vải ngọt, đẹp hàng đay xanh
Đẹp dòng nước biếc lượn quanh
Xóm thôn như thể bức tranh hữu tình
Dạt dào sóng lúa rung rinh
Nhớ ngày Bác đến thắm tình quê hương
Nước theo tay Bác vào mương
Sông theo tay Bác vẽ đường dài thêm
Điện theo tay Bác bừng lên
Ngói theo tay Bác hồng trên muôn nhà
Đất theo tay Bác nở hoa
Cây theo tay Bác đậm đà sức xuân
Quên sao : Ái Quốc – Nghĩa Dân
Quên sao : Hồng Thái, Vạn Xuân Bác về
Ấm no ba ngả, bốn bề
Từ tay Bác chỉ bay về muôn phương
Bác như đi khắp Hải Hưng
Vì lời Bác đã ấm từng mái tranh
Hương thơm quả ngọt hoa lành
Theo Người, ríu rít đứng quanh bên Người.
267. Hàng rào râm bụt bao quanh
Rặng tre rủ bóng lên xanh bốn mùa
Vách đan, cửa liếp đơn sơ
Mái tranh nhà Bác bây giờ ấm hơn
Có nhà đỉnh núi mây vờn
Có nhà vùng biển sóng cồn bao quanh
Có nhà ẩn giữa rừng xanh
Nhà nào cũng giống nhà tranh Bác Hồ.
268. Hành quân dưới rặng cây xanh
Tưởng như đi dưới ân tình Bác che
Màu xanh xanh thắm đường quê
Làng con nhớ Bác tết về trồng cây
Con đi, bóng mát che đầy
Đếm sao hết được rừng cây Bác Hồ.
269. Hành quân qua núi nhấp nhô
Như Tây Phong Lĩnh Bác Hồ đã qua
Suối sâu, nước lũ, bờ xa
Bác Hồ đã vượt băng qua suối dài
Ở đâu Bác cũng trong lòng
Bác là chính trái tim hồng cháu yêu
Mong sao Bác khỏe mạnh nhiều
Dẫn đường chúng cháu sớm chiều hành quân.
270. Hành quân trên quãng đường dài
Lắng nghe thơ Bác qua đài chúc xuân
Đây lời Tổ quốc vang ngân
Đây kèn xung trận giục gần, giục xa
Hào hùng hơn mọi bài ca
Từng lời, từng tiếng thiết tha, ngọt ngào
“Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào!
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn!”
Quân đi chân bước dập dồn
Buôn làng náo nức, suối nguồn đều vui
Vì mùa xuân của con người
Vì Bác đã gọi ta rồi, bạn ơi!
Tiến lên giành lại đất trời
Tự do, độc lập cho đời nở hoa.
271. Hành quân với cháu hôm nay
Có thơ Bác chép , sổ tay mấy bài
Cháu đi mải miết đường dài
Đọc thơ Bác thấy nhẹ vai ấm lòng
Cháu đi lòng Bác đi cùng
Mỗi lời thơ sáng một vùng nước non.
Hành quân với cháu hôm nay
Có thơ của Bác chép tay mấy bài
Cháu đi mải miết đường dài
Đọc thơ Bác thấy nhẹ vai ấm lòng
Cháu đi lòng Bác đi cùng
Mỗi lời thơ sáng một vùng núi sông.
272. Hạt muối mặn ba năm còn mặn
Củ gừng cay chín tháng còn cay
Dù ai xuyên tạc lắt lay
Nghìn năm tên Bác dâng đầy hương sen .
273. Hò ơ giã gạo chày ba
Ta nhịp cho hòa, điệu hát thêm hay
Bác cho ta có đất cày
Ngát đồng hương lúa, vườn sai trái lành.
274. Hòa Bình dốc thẳm, non cao
Có đi tiếp vận mới biết công lao Cụ Hồ
275. Hỏi : Cụ ơi là cụ
Mắt cụ đã mờ
Chân cụ đã rũ
Cháu rồi con từng đàn từng lũ
Cả xóm làng đông đủ đi đây;
Cụ hờn chi mấy thằng Tây
Mà cũng nừng cũng sọt ra đây cho mệt nào?
Đáp : Con lão cũng đi
Dâu lão cũng đi
Cháu lão cũng đi đây
Nhưng muốn trông mặt thằng Tây
Coi cái tài ông Giáp
Và gọi là đền đáp
Chút nghĩa cụ Hồ
Lão đan vồi vội đôi bồ
Sắm sanh cái gậy
Lão dô hò lão đi.
276. Hỏi sao lúa tốt gãy bờ ?
Hỏi sao lợn béo mấy tờ báo khen?
Hỏi sao lao động cần chuyên?
Thưa : Di chúc Bác quê em học rồi.
277. Hoa cà hoa bắp
Nở khắp cánh đồng
Này vải đơm bông
Bên vồng khoai sắn
Mong em sao mưa nắng thuận hòa
Tình khoai, nghĩa lúa thuận hòa ấm no
Nuôi anh bộ đội Cụ Hồ
Đánh đâu thắng đấy giữ cờ vàng sao.
Hoa cà hoa bắp
Nở khắp cánh đồng
Này vải đơm bông
Này vồng khoai sắn
Em mong sao mưa nắng thuận hòa
Tình khoai nghĩa lúa già trẻ ấm no
Nuôi anh bộ đội Cụ Hồ
Đánh đâu thắng đấy giữ cờ vàng sao.
Hoa cà hoa bắp
Nở khắp cánh đồng
Này vải đơm bông
Bên vòng khoai sắn
Em mong sao mưa nắng thuận hòa
Tình khoai nghĩa lúa, trẻ già ấm no
Nuôi anh bộ đội Cụ Hồ
Đánh đâu thắng đấy, giữ cờ vàng sao.
278. Hoa xuân thắp sáng đường vào
Mây vờn mũi súng, ánh sao ngời ngời
Quân đi rung núi chuyển đồi
Đường vui, vui cả đất trời Trường Sơn
Từng lời Di chúc sắt son
Đưa đoàn quân vượt trăm con đường đèo.
Bác ơi, nhớ Bác sớm chiều
Đánh tan giặc Mỹ trọn điều Bác mong
Nhớ nhiều, nguyện lập chiến công
Quyết giương cao ngọn cờ hồng Bác trao.
279. Hoan hô dũng sĩ tí hon
Mỹ già thua tuổi măng non ai tường
Hằng ngày ăn ở dễ thương
Thật thà như đếm, ngoan cường ai hay
Mai kia cũng những tay này
Làm nên sự nghiệp, vững xây cơ đồ
Hơn cha nhà gặp phúc to
Cháu ngoan nhứt của Bác Hồ là đây.
280. Học gương ông Đốc Binh Kiều
Đứng lên kháng chiến về theo Cụ Hồ
Giành quyền độc lập, tự do
Đem về áo ấm cơm no đời đời.
Ai đi thăm lại Tháp Mười
Gương xưa còn đó cho người soi chung.
281. Hỏi anh cán bộ người Kinh
Anh bỏ gia đình lên mãi tận đây
Anh đi có nhớ mẹ thầy
Nhớ vợ đêm ngày vẫn chờ đợi trông mong?
Anh đi có nhớ ruộng đồng
Đem cả cái lòng lên sống với chòm tôi
Người Mường lại được thêm người
Cây lá cũng cười, anh vui nhận làm con
Anh lên nghe tiếng học ròn
Bông lúa thêm tròn, bông lúa cũng thêm to
Anh lên bắt thằng Pháp thua
Phụ nữ gặt mùa, du kích chặt giết Tây
Cụ Hồ cái bụng tốt thay
Đưa đến chòm này người cán bộ giỏi dang
Chòm tôi tháng tám lượt càn
Dù được lính về hàng, tránh được tàu bay
Thêm thân người Xá, người Tày
Trai gái nên tài, làm cán bộ như anh
Cụ Hồ đưa giấy đòi anh
Chòm xóm phải đành trả lại đứa con
Người Mường nay đã giỏi hơn
Tranh đấu vững vàng giữa địch hậu Sơn La
Anh về thưa lại cùng Cha
Người Mường sông Đà đang thắng lợi đi lên.
282. Hô vang một tiếng Bác Hồ
Sống lâu muôn tuổi để cho cháu nhờ.
283. Hôm nào tiễn Bác đi rồi
Lòng còn nhớ tiếc đứng ngồi không yên
Ra đồng cày cuốc cần chuyên
Về nhà đứng sững trông lên : Bác cười
Không! Ai bảo Bác đi rồi?
Bác còn ở khắp nơi nơi mọi nhà.
284. Hôm nay mười chín tháng năm
Chúng con sung sướng hơn rằm trung thu.
285. Hôm nay mười chín tháng năm
Lập công dâng Bác, đạn gầm trời mây
Một thằng trinh sát đến đây
Vừa xâm phạm đã lăn quay giữa trời.
Nghe tin chắc Bác mỉm cười
Lòng vui chiến thắng sức Người khỏe thêm
Bác luôn gửi gắm niềm tin
Vào ta lứa tuổi thanh niên anh hùng
Quyết làm cho Bác vui lòng
Mỹ vào ta lại cho “Rồng” xé thây.
286. Hôm nay sinh nhật Cụ Hồ
Bộ đội đánh thắng, ăn to hai đồn
Chúng em sung sướng mừng rơn
Theo anh vệ quốc lên đồn khiêng bom
Đạn to, đạn nhỏ đầy hòm
Kĩu cà, kĩu kịt nặng chồn tê vai
Các anh thích chí cả cười
Em vui chân bước buột lời cười theo
Anh quay nhìn lạ mắt nheo
Má em đỏ ửng… hồng reo nắng hồng.
287. Hôm nay thống nhất non sông
Giấc ngàn thu thỏa ước mong Bác Hồ.
288. Hôm qua anh đến chơi nhà
Thấy mẹ dệt vải, thấy cha đi bừa
Thấy em mải miết xe tơ
Thấy cháu “i-tờ” ngồi học bi bô
Thì ra vâng lệnh Bác Hồ
Cả nhà yêu nước thi đua phen này.
289. Hôm qua đi đánh trận về
Mồ hôi con ướt đầm đề trên lưng
Giở tờ báo Đảng thốt mừng
Đọc lời thơ Bác bừng bừng quyết tâm.
290. Hỡi ai đi ngược về xuôi
Dừng chân ngắm cảnh quê tôi Cao Bằng
Quê hương cách mạng anh hùng
Có hang Pắc Pó có dòng Hiến Giang
Bác về có suối Lê-nin
Có đồi Các Mác đẹp thêm bản làng
Tam Kinh lịch sử anh hùng
Chiến công Phai Khắc, Na Ngần nên danh.
291. Kháng chiến tay không, buổi đầu địch tấn công
Ta chỉ có gậy tầm vông và mã tấu
Quân giặc tưởng rằng châu chấu đá voi
Nhờ Cụ Hồ với Đảng lãnh đạo sáng soi
Nên qua tám chín năm trường kì kháng chiến
Châu chấu đã đá voi lộn phèo.
292. Khi đi không biết một nghề
Đường kim mũi chỉ khi về đã quen
Khi đi lạ bến lạ thuyền
Khi về chở lúa đồng chiêm đến tài!
Khi đi cày chẳng bằng ai
Khi về cấy cả xóm Đoài chịu thua!
Năm năm làm lính Cụ Hồ
Ruộng đồng, sông nước bây giờ kém ai.
293. Không có gì quý hơn độc lập
Không có gì sánh được tự do
Núi sông vọng tiếng Bác Hồ
Mong ngày thống nhất Bác vô, cháu mừng.
294. Không có gì cao bằng núi, rộng bằng biển, sáng hơn mặt trời
Đối với chúng tôi
Cụ Hồ cao hơn núi, rộng hơn biển, sáng hơn mặt trời
Bởi vì Cụ làm được chuyện Phật dạy :
Mọi người đều có ruộng.
295. Không đèn thì lấy ánh trăng
Mực bằng đậu cút, giấy bằng lồ ô
Quyết tâm học chữ Bác Hồ
Nước nhà độc lập, tự do có ngày
Căm thù, yêu nước nung sôi
Tay cung, tay bút không thôi luyện rèn.
296. Không thêm không bớt một lời
Nhà ta ta ở không dời không đi
Dân Cụ Hồ chỉ một lời thề
Mạng này đổi mạng bám quê đến cùng.
Không thêm không bớt một lời
Nhà ta ta ở, không dời, không đi
Dân Cụ Hồ chỉ một lời thề
Mạng thì đổi mạng, bám quê đến cùng.
297. Kiến bầy tha vỡ thân cây
Mối đàn tha đất mà xây nên cồn
Tòan dân đoàn kết một lòng
Bác Hồ kêu gọi ta cùng đánh Tây.
298. Làm dân một nước cộng hòa
Phải lo biết chữ mới là đáng dân
Cụ Hồ lo việc học hành
Chỉ mong non nước rạng danh muôn đời.
299. Lá cờ đẹp lắm má ơi
Lá cờ dân tộc cờ tươi màu hồng
Cờ sao thấy khắp non sông
Thấy mỏ miền Bắc, thấy đồng miền Nam
Cờ bay phất phới hiên ngang
Chung quanh hình Bác, Bắc Nam quây quần.
300. Lính Cụ Hồ như lúa mùa chiêm
Lanh như cắt biếc, dịu hiền bồ câu
Bấy lâu chẳng thấy đâu đâu
Đồn rằng ăn lá ăn rau trên rừng.
Giờ đây vô số quá chừng
Súng mang, tay bắt mặt mừng là con.
301. Lính ngụy :
- Hò ơ … ơ …
Lấy lính quốc gia vàng đeo đầy cổ
Lấy lính Cụ Hồ chịu khổ muôn năm.
Phụ nữ miền Nam :
- Hò ơ … ơ …
Lấy lính quốc gia vàng đeo có lúc
Lấy lính Cụ Hồ hạnh phúc muôn năm.
Lính ngụy :
- Hò ơ … ơ …
Lấy lính quốc gia vàng đeo đầy cổ
Lấy lính Cụ Hồ chịu khổ muôn năm.
Phụ nữ miền Nam :
- Hò ơ … ơ …
Lấy lính quốc gia vàng đeo có lúc
Lấy lính Cụ Hồ rực rỡ muôn năm.
302. Nhân viên tác động tinh thần của địch :
- Hò ơ … ơ …
Trước đây là cháu Bác Hồ
Bây giờ là cháu “cụ” Ngô rõ ràng.
Thiếu nhi miền Nam :
- Hò ơ … ơ …
Ai thèm làm cháu thằng Ngô
Còn vài năm nữa Bác Hồ vô đây.
303. Lo ăn, lo mặc, lo chơi
Lo chốn làm việc, lo nơi học hành.
Bác lo chăn ấm, áo lành
Bác dìu dắt thợ đấu tranh từng giờ.
Công lao ấy của Bác Hồ
Núi đâu sánh được, biển mô ví bằng.
Đêm qua tôi đắp chăn bông
Sung sướng vô cùng ấm lắm ai ơi!
Dưới thời Pháp thuộc suốt đời
Trong bao tải rách, có người chết cong.
304. Lòng Bác rộng khắp bao la
Lòng dân lòng Bác chan hòa nước non.
Chúng cháu ghi nhớ công ơn
Quyết giết giặc Pháp rửa hờn cho dân.
305. Lòng dân như hoa hướng dương
Trăm ngàn đổ lại một phương mặt trời.
Dù cho vật đổi sao dời
Nguyện cùng Đảng, Bác một đời sắt son.
Lòng dân như hoa hướng dương
Trăm ngàn đổ lại một phương mặt trời
Dù cho vật đổi sao dời
Nguyện cùng Đảng Bác một lời sắt son.
306. Lòng dân về với Bác Hồ
Như sông về biển khi mô cho cùng.
307. Lòng lại dặn lòng keo sơn gắn bó
Dẫu xa đâu đó lòng vẫn đoái hoài
Ai về nhắn nhủ cùng ai
Có Bác, có Đảng, chẳng sợ chông gai, bùn lầy.
308. Lời Bác Hồ gọi vang sông núi
Tiếng đồng bào sớm tối nhủ khuyên
Anh ơi xa lánh bạo quyền
Bến đang đón thuyền quay súng lập công.
Quê hương ngày đợi đêm trông
Vợ con từng phút dõi lòng theo anh.
309. Lời Bác vượt núi băng đèo
Vạch từng thắng lợi, dõi theo từng người
Đêm nay trăng sáng cuối đồi
Súng con nổ mạnh, đáp lời núi sông.
310. Lời Cha sáng tỏ như gương
Lời Cha vạch bảo bước đường quang vinh
Đọc lời Cha hiệu triệu từng câu
Lời Cha tha thiết làm sao
Hình Cha con thấy biết bao dịu dàng
Cha yêu tất cả miền Nam
Về sau đi trước trên đường đấu tranh.
311. Lời dạy của Bác Hồ chúng ta quyết thi đua học tập
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
Quản gì gian khổ, gay go
Sẵn sàng nghe lời Bác gọi, bất cứ nơi mô cũng đi đầu.
312. Lúa lên thì lúa đầy bồ
Mình ăn cơm muối, Cụ Hồ khao quân
313. Luộc mì đưa tiễn anh Ba
Băng rừng, lội suối anh ra Bác Hồ
Anh đi suối đợi, rừng chờ
Nhìn sao đếm phút, đếm giờ anh vô.
Võng treo đem ngủ nằm mơ
Anh Ba đã gặp Bác Hồ sáng nay.
Bác Hồ thương lắm cầm tay
Khen miền Đông giỏi, đói dài vẫn hăng.
Tỉnh ra vui sướng chi bằng
Bác Hồ mạnh khỏe ta càng thắng to.
314. Lưỡi gươm nào cắt đứt dòng Bến Hải
Ngọn lửa nào đốt cháy giải Trường Sơn.
Dân ta chí quyết căm hờn
Ngày nay được tự do độc lập nhớ ơn Bác Hồ.
315. Mai ngày 19 tháng 5
Có quà gì để gửi dâng Bác Hồ?
Thông tin ta có món quà:
Dây bền máy tốt chắc là Bác vui.
316. Mau mau từ trẻ đến già
Đồng bào lương giáo kẻ xa người gần
Đấu tranh đòi mở hiệp thương
Đòi cho Nam Bắc thông đường ra vô
Để miền Nam gặp Cha già
Vợ chồng sum họp nước nhà an vui.
317. Máy bay giặc Mỹ cháy rồi
Đồng xanh lại thắm, bầu trời lại trong.
Niềm vui rộn rã trong lòng
Ngồi ngâm thơ Bác những dòng kính yêu.
Lời thơ vang vọng sớm chiều
Nước non trăm mến nghìn yêu mặn mà.
Lửa bom khói đạn xông pha
Đọc thơ của Bác sức ta sóng trào.
318. Mặc cho nước lớn nước ròng
Đước trông cao ngọn, đước trông Bác Hồ.
Đêm qua nằm ngủ con mơ
Thấy tàu của Bác cập bờ Cà Mau.
319. Mặt trời Bác ấm quanh năm
Non sông chiếu sáng trăng Đảng ta.
Ngàn sao lấp lánh ngân hà
Nhân dân triệu triệu đóa hoa giữa đời.
Sáng xuân ai đẹp môi cười
Đêm Xuân ai nói như lời hát ru.
Mặt người tươi đẹp nghìn thu
Quê hương là cả bài thơ tuyệt vời.
Thầm ơn đất nước bao đời
Năm mươi năm Đảng sáng ngời mai sau.
Mỗi lời là chuỗi hạt châu
Một đời sương gió mái đầu vẫn xanh.
320. Miền Nam đàn con hướng ra
Ba Đình đêm thức hướng vô khắp miền.
Miền Nam vẫn ở trong tim
Chăm cây vú sữa lớn lên mỗi ngày.
Tình thương như biển tràn đầy
Đời còn hơi thở ơn này không quên.
Đó đây chung một lời nguyền
Làm theo lời Bác, tiến lên dưới cờ.
Quê hương quét sạch mây mù
Cơ đồ Tổ quốc ngàn thu vững bền!
321. Miền Nam ghi mãi trong tâm
Tháng năm, mười chín, ngày sinh Cha già
Miền Nam thương nhớ trông ra
Mong ngày chung hát bài ca: Bác về.
322. Miền Nam là của Việt Nam
Miền Nam là của giang sơn Lạc Hồng
Miền Nam chỉ có một lòng
Miền Nam chỉ viết một dòng chữ thôi
Một dòng chữ sáng muôn đời
Một dòng chữ có vạn người mến thương
Một dòng chữ sáng muôn phương
Cần, Kiệm, Liêm, Chính tấm gương chói lòa
Tay để lòng nở trăm hoa
Đấy là dòng chữ : Cha Hồ Chí Minh.
Miền Nam là của Việt Nam
Miền Nam là của giang sơn lạc Hồng.
Miền Nam chỉ có một lòng
Miền Nam chỉ viết một dòng chữ thôi.
Một dòng chữ sáng muôn đời
Một dòng chữ có vạn người mến thương.
Một dòng chữ sáng muôn phương
Cần, kiệm, liêm, chính tấm gương chói lòa.
Tay để lòng nở đầy hoa
Đấy là dòng chữ “Cha Hồ Chí Minh”
Ngày mai thống nhất nước mình
Độc lập hoàn thành, thuận ý toàn dân.
Cha già cất bước về Nam
Thăm miền Nam Bộ, thăm đàn con thơ
Miền Nam ngập bước bóng cờ
Toàn dân đi đón Cha Hồ Chí Minh
Hoan hô cho nức đô thành
Vỗ tay cho dội trời xanh mới vừa
Nhìn Cha tưởng hãy còn mơ.
Việt Nam có Bác Hồ
Như ruộng khô có nước
Miền Bắc đi trước
Miền Nam theo sau
Ngày nay gian khổ thương đau
Ngày mai rực rỡ một màu cờ sao.
323. Mõ sôi đường cái
Trống cuộn dòng sông
Trống mõ hợp đồng
Dồn lên thị xã
Người người hối hả
Chen bước trên đường
Anh thẳng tiền phương
Em về địch hậu
Trong ngoài hòa tấu
Khúc nhạc tiến công
Mõ kêu trống thúc bên lòng
Theo lời Bác gọi lập công dâng Người.
324. Mỗi khi cháu bắn quân thù
Thì cháu lại nhớ Bác Hồ muôn năm.
Mỗi khi lòng cháu hờn căm
Thì cháu lại nhớ lời răn Bác Hồ.
Đại hạn nhớ ơn trận mưa
Đêm tối mịt mờ nhớ ngọn đèn soi.
325. Mỗi lần lời Cụ gởi về
Rộn ràng khắp nẻo cùng quê hát hò
Mong ngày độc lập Cụ vô
Thỏa lòng ao ước ước mơ đêm ngày.
326. Mỗi ngày hai nắm cỏn con
Nhiều ngày góp lại thành non gạo đầy
Khi xưa cũng lon gạo này
Góp phần đánh Nhật, đánh Tây tơi bời
Bây giờ giặc Mĩ, ma trời
Gây nên tội ác khắp nơi quê mình
Nghe lời Bác gọi chí tình
Lại nhắc nhủ mình tiết kiệm thường xuyên
Bớt từng nắm gạo, đồng tiền
Góp phần đánh Mĩ, giữ yên quê nhà.
327. Mỗi xuân mỗi tết trồng cây
Cây trùm bóng mát, cây dầy quê hương
Gái trai lớp lớp lên đường
Chiến công tô thắm quê hương mấy lần
Mỗi năm một lớp cây xuân
Đâm chồi nảy lộc, cây vươn lá cành
Ai ơi, trăm nghĩa trăm tình
Bác đi để lại máu xanh cho đời.
328. Một cây bạch đàng
Hai cây bạch đàng
Bác ơi quê cháu cả làng trồng cây
Đường ngang lối dọc
Cây mọc đó đây
Mái trường ngói đỏ hây hây
Cây cao bóng cả tình này Bác che
Tết kia cây mới cắm về
Xuân này bóng tỏa bóng che rợp đường.
Một cây bạch đàn
Hai cây bạch đàn…
Bác ơi quê cháu cả làng trồng cây
Đường ngang lối dọc
Cây mọc đó đây
Mái trường ngói đỏ hây hây
Cây cao bóng cả tình này Bác che
Tết xưa, cây mới chia về
Xuân này, cây tỏa bóng che rợp đường.
329. Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Một đồng chẳng đáng là bao
Nhiều người tiết kiệm gửi vào cũng to
Nhớ ghi lời dạy Bác Hồ
Sản xuất, tiết kiệm phải lo thực hành
Chỉ tiêu kế hoạch nhớ dành
Nước nhà đang lúc chiến tranh cần tiền
Tiền xây xã hội tiến lên
Tiền nơi tiền tuyến vang rền chiến công
Ai ơi, tiết kiệm từng đồng
Góp phần xây dựng, góp công diệt thù.
330. Mấy bà đi chợ nhỏ to
Bàn chuyện Cụ Hồ mua lúa khao quân
Nhà bà bán đã mấy cân?
Nhà tôi chỉ để thóc ăn chạm mùa
Nhà tôi cũng quyết thi đua
Vâng lệnh Cụ Hồ góp lúa khao quân.
331. Mấy cô gánh lúa đi mô?
Rằng em gánh lúa Cụ Hồ khao quân
Lúa này ý chí toàn dân
Lúa này nuôi vệ quốc quân diệt thù.
332. Một cây xanh
Hai cây xanh
Nghìn cây gộp lại sẽ thành rừng cây
Mùa xuân vạn nẻo đó đây
Nhiều rừng mới mọc theo tay Bác Hồ
Cây xanh xanh cả bốn mùa
Đẹp ý Bác Hồ, đất nước thêm xuân!
333. Một chiều nắng ấm Thủ đô
Vui sao được thấy Bác Hồ trồng cây.
Tuổi già vẫn dẻo bàn tay
Nhanh nhanh từng xẻng đất đầy vun quanh.
Mai ngày cây Bác lên xanh
Bao nhiêu rễ, bấy nhiêu cành lá tươi.
Cây xuân tỏa bóng khắp trời
Bóng cây bóng Bác đời đời vươn cao.
Nghìn năm sau nhớ công lao
Trồng cây bóng Bác che bao nhiêu người.
Một chiều nắng ấm thủ đô
Vui sao được thấy Bác Hồ trồng cây.
Tuổi già vẫn dẻo bàn tay
Nhanh nhanh từng xẻng đất đầy vun quanh.
Mai ngày cây Bác lên xanh
Bao nhiêu rễ, bấy nhiêu cành lá tươi.
Cây xuân tỏa bóng rợp trời
Bóng đa bóng Bác đời đời vươn cao.
Nghìn năm sau, nhớ công lao
Trồng cây bóng Bác che bao nhiêu người.
334. Mù u ba thứ mù u
Lính Cụ Hồ ta tình nguyện, lính thù ta chẳng đi.
335. Mùa đông hết tự bao giờ
Mà con én đã báo mùa xuân vui?
Đêm qua nghỉ lại bên đồi
Đã nghe cành biếc đâm chồi non xanh
Sáng nay dậy trước bình minh
Nghe thơ Bác vẫn tưởng mình trong mơ
Lòng còn ôm những vần thơ
Như ghì súng thép trước giờ xung phong
Con xin làm một đóa hồng
Góp cùng trăm đóa chiến công tặng Người.
336. Mùa đông rét buốt sắp qua
Cành xuân đang nụ trăm hoa lại về.
Chim chuyền khóm trúc, cành me
Tin vui bay đến trời quê mát lòng.
Ai ra Hà Nội theo cùng
Hướng về Đại hội ta mừng Đảng ta.
Đời còn nắng táp mưa sa
Đầu chung mái ấm, tim hòa máu tim.
Bên nhau biết mấy ngày đêm
Ta đi… chân cứng đá mềm, lối chung.
Ai ra Hà Nội theo cùng
Búa liềm đẹp ngọn cờ hồng – Thủ đô.
Đời đời ta nhớ Bác Hồ
Ba Đình một sớm – cơ đồ nghìn năm.
Đàn con trung, hiếu Bắc, Nam
Một dòng Di chúc, vô vàn tình thương.
Đó đây chưa sạch bụi đường
Sâu còn phá hại mùa màng đương xanh.
Rào con thú dữ núp quanh
Càng căm lang sói thương mình bấy nhiêu!
Giá gương phủ đẹp nhiễu điều
Gian truân thêm quí, thêm yêu Đảng mình.
Có đồi ngọc mới long lanh
Càng trui lửa đỏ càng xinh mặt vàng.
337. Mùa xuân mấy lượt một năm?
Một tháng trăng rằm được mấy lượt lên?
Trọn đời em cũng chẳng quên
Có Đảng, có Bác em nên thân người
Sao còn có lúc đổi ngôi
Ơn Đảng, ơn Bác đời đời ghi sâu.
338. Mùa xuân rắc hạt vườn nhà
Cây mơ, cây mận nở hoa trắng cành
Hạt mưa thắm ướt vai anh
Ba lô dã ngoại tươi nhành ngụy trang
Mưa xuân thắm đất đồi quang
Đón xuân, vui Tết, cả làng trồng cây
Rập rờn theo hạt mưa bay
Đã vang tiếng hát lại vang giọng hò
Toàn dân vâng lệnh Bác Hồ
“Đánh cho Mĩ cút. Đánh cho ngụy nhào”.
339. Muối mặn ba năm còn mặn
Gừng cay chín tháng còn cay
Dù ai xuyên tạc lắt lay
Sắt son nguyện giữ lòng này sắt son.
Ấu khoe ấu tròn
Bồ hòn nào bồ hòn lại méo
Mỹ Diệm lắt léo nỏ ai nghe
Dù bay xuyên tạc chán chê
Đồng bào vẫn nhớ có Cụ Hồ thì trăm việc ngàn bề mới êm.
340. Muốn tắm mát lên ngọn con sông đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Muốn cho may mặc đủ lành
Ta phải thi hành kế hoạch trồng bông
Trồng nhiều trồng ít ra công
Đã có công trồng ắt có công thu
Mùa đông sương gió mịt mù
Rét tê tái ruột, nằm co góc giường
Cụ Hồ rất đỗi cảm thương
Lấy chăn đâu đắp cho ngàn vạn dân?
Mùa hè gây gắt nắng ran
Muỗi vi vu đốt, chập choàng năm canh
Cụ Hồ rất đỗi thương tình
Màn đâu buông đủ dân mình ngủ yên?
Ai về nhắn nhủ bạn điền
Sào bông xin nhớ ghi tên chương trình
Bảo ban nhau quyết thực hành
Đã no lại lành đánh bật thằng Tây
Cụ Hồ khi ấy vui thay
Dân ta no ấm khác ngày năm xưa!
Thi đua bền bỉ, ai ơi!
Đừng như nước lũ, tràn rồi lại khô
Có yêu, có nhớ Bác Hồ
Đừng ngồi mà đợi Bác vô, lâu ngày
Thi đua cho giỏi cho hay
Rồi về Việt Bắc cầm tay Bác Hồ
Trong này mình đợi Bác vô
Ngoài kia Bác cũng đang chờ mình ra.
341. Mưa rồi lại tạnh mà thôi
Nắng mưa, mưa nắng, việc trời trời lo
Ta vì độc lập, tự do
Phải chăm rèn luyện đôi giò cho quen
Mai đây chân cứng, đá mềm
Đường đi vạn dặm, trắng đêm thấm gì
Núi cao, bắt núi phải quỳ
Bắt sông rẽ nước, ta đi tới cùng
Rừng thưa lọt nắng trăng vàng
Lắng nghe dựng vội dưới hàng cây xanh
Võng dù mặc tạm trên cành
Tiếng chim “khắc phục” cuối ghềnh nhặt khoan
Quản chi gió núi mưa ngàn
Lối vào trong ấy dặm đàng còn bao
Vẳng nghe lời Bác hôm nào:
“Đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào” mới thôi
Ngả lưng, lòng những bồi hồi
Tiếng gà đã gáy bên đồi, sang canh
Chân trời rực ánh bình minh
Quân đi áo ngụy trang xanh, nắng vờn.
342. Mưa rơi thêm lạnh rừng khuya
Nghe không gian ngỡ bốn bề mênh mông
Hành quân nhớ bếp lửa hồng
Nhớ xưa Bác sống giữa rừng ấm vui.
343. Nam Hải sâu ta còn đo được
Trường Sơn dài ta vượt cũng qua
Công Hồ Chủ tịch bao la
Ơn Bác mãi mãi dân ta ghi lòng.
344. Nạp thuế cho Tây như chắp vây cho cọp
Có bao nhiêu gom góp nó trở lại đánh mình.
Chi bằng nạp cho chính phủ Hồ Chí Minh
Để Người dựng xây nền tự do độc lập thực tình cho dân ta.
345. Năm năm ta mở hội này
Cho xanh đất nước, cho dầy bóng râm.
Hội mùa mười chín tháng năm
Thương hàng cây nhỏ, ta thăm ngày ngày.
Dẫu cho giông bão tới hoài
Cành kia cùng với cội này ta chăm.
Hội mùa mười chín tháng năm
Dẫu cho nắng rát, mưa dầm sá chi.
Mai kia hai buổi đi về
Đường ta mỗi bước bóng che mái đầu.
Trông cây càng mến thương nhau
Đời đời nhớ Bác dạt dào lòng ai!
346. Năm nào đất nước quặn đau
Mênh mông sóng trắng chân tàu, Bác đi
Đêm dài thăm thẳm châu Phi
Công-Poanh tuyết trắng, Pa-ri gió cồn
Sương mù mờ mịt Luân Đôn
Thương đôi dép nhỏ đã mòn gai chông
Giữa trời băng giá Quảng Đông
Bác nhen nhóm ngọn lửa hồng mai sau.
347. Năm xưa, Bác dạy trồng cây
Năm nay, bát ngát đó đây xanh rừng
Đường hành quân ngất mấy từng
Rừng cây – lời Bác – tưng bừng bên tai.
348. Nắng về thì lựu ra hoa
Người ra mặt trận thì ta ra đồng
Người ra trận đổ máu hồng
Ta ra cánh đồng ta đổ mồ hôi
Qua nương, xuống ruộng, lên đồi
Ta cuốc, ta xới, ta cười, ta ca
Rằng : Hồ Chủ tịch dạy ta
Tăng gia sản xuất cũng là đánh Tây.
349. Nếu ta về với cỏ cây
Đất giữ hoa này dâng tặng Cha ta
Rằng ngày sinh nhật Cha già
Vườn sim ta trổ đóa hoa mừng Người.
350. Ngàn vàng cũng chẳng quý bằng
Sống đời độc lập làm dân Cụ Hồ.
351. Ngày mai đất nước nở hoa
Nhớ công ơn của Cha già cứu tinh
Suốt đời tận tụy hy sinh
Cho độc lập thống nhất hòa bình Việt Nam .
352. Ngày nào lúa mới chín cho
Để ta gửi gạo Cụ Hồ khao quân.
Mong cho lúa chín vàng mơ
Để ta gặt bán Cụ Hồ khao quân
Khao quân là ý Cụ Hồ
Mừng quân đánh thắng, người lo là mình.
353. Ngày xuân nghe tiếng Bác Hồ
Tiếng non nước tự Thủ đô vọng vào
Đêm nay đứng giữa chiến hào
Nghe lời Bác gọi vui nào vui hơn.
Ngày xuân nghe tiếng Bác Hồ
Vọng từ Hà Nội thủ đô vọng về
Đêm nay nằm giữa chiến hào
Nghe lời Bác nói vui nào vui hơn.
354. Ngày xưa bưng lấy bát cơm
Nhớ thầy nhớ mẹ phong sương cấy cày.
Ngày nay bưng bát cơm đầy
Ơn Bác ơn Đảng ngày ngày không quên.
355. Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa
Chữ nhất chẳng biết, chẳng ưa chữ nào
Chữ nào cũng đã ngồi cao
Chữ ở quan lớn, chữ vào triều vua
Nặng tiền muốn chữ thì mua
Khố rách chỉ có nhút chua thôi mà
Từ ngày có cả sơn hà
Bác Hồ cho chữ đượm đà hương sen.
356. Nghe lời Bác dạy thi đua
Thử xem ai được, ai thua phen này
Chàng đi ra trận đánh Tây
Ruộng để em cày, thóc lúa em gieo
Nghèo thì em biết phận nghèo
Nắng sớm mưa chiều, em chẳng quản công
Sao cho lúa tốt đầy đồng
Bộ đội no lòng yên chí xông pha
Con thơ cùng với mẹ già
Chàng cứ tin chắc ở nhà có em
Chàng ơi, hãy gắng sức thêm
Vững tay giết giặc, lập nên công đầu
Vợ chồng ta đọ với nhau
Xem ai giật được giải đầu thi đua.
357. Nghe lời Bác dạy thì no
Đừng để đất nghỉ đừng cho máy ngừng.
Đừng để ao cá vắng tăm
Chuồng gà vắng trứng, buồng tằm vắng tơ.
Rỗi rãi mà đi phất phơ
Mất công phí sức thờ ơ việc nhà.
Rỗi rãi mà đi tăng gia
Trồng lên tỉa xuống, đồng ra đồng vào.
Bỏ công trồng tỉa cuốc cào
Khác gì xẻ đất mà đào của lên.
Đồng bào bộ đội đôi bên
Thi đua sản xuất ai bền hơn ai.
Nghe lời Bác dạy thì no
Đừng để đất nghỉ, đừng cho máy ngừng.
Đừng để ao cá vắng tăm
Chuồng gà vắng trứng, buồng tằm vắng tơ.
Rỗi rãi mà đi phất phơ
Mất công, phí sức, thờ ơ việc nhà.
Rỗi rãi mà đi tăng gia
Trồng lên tỉa xuống, đồng ra đồng vào.
Bỏ công trong việc cuốc cào
Khác gì xẻ đất mà đào của lên.
Đồng bào, bộ đội, đôi bên
Thi đua sản xuất ai bền hơn ai?
358. Nghe lời Bác gọi non sông
Rừng cây rung động, ruộng đồng xôn xao
Triệu lòng phấn khởi dạt dào
Ý dân, lời Bác thấm vào trong tim
Nghe như triều gió đang lên
Nghe như sóng dậy hai miền Bắc Nam
Nghe như lửa cháy tâm can
Như hồn sông núi vọng vang cõi bờ
Toàn dân nổi trống, phất cờ
Người người quyết đạp đầu thù tiến lên.
359. Nghe lời Bác gọi xuân nay
Đường ra mặt trận vui say trong lòng
Lời Người vang vọng non sông
Bình minh rực sáng, cờ hồng tung bay
Đường xa, súng nặng oằn vai
Vẫn nghe sông núi hát bài hành quân
Gian nan cơm vắt, muối rừng
Mà sao con thấy sáng trưng cuộc đời
Còn gì hơn được, Bác ơi
Miền Nam chiến đấu có Người ở bên
Tóc xanh bạc trắng đôi miền
Bác vì đất nước, vì niềm vui chung
Dầu cho giọt máu cuối cùng
Con tin vào Bác, vững lòng tiến lên
Con thề : diệt sạch xâm lăng
Hai miền Nam Bắc cùng xanh đất trời
Nụ cười của Bác thêm tươi.
360. Nghe ngọn gió đã thành bão nổi
Gửi niềm vui ra tới Bác Hồ
Cho miền Bắc thêm đẹp thủ đô
Trong này mỗi bước đi thắng lợi, lòng mở cờ hân hoan.
361. Nghe thơ Bác vọng rừng đào
Ngân vang biển lúa thấm vào lòng con.
Dù cho sông cạn đá mòn
Chúng con một dạ sắt son theo Người.
Mỗi con một đóa hoa tươi
Chúng con góp lại dâng Người bình hoa.
Ơn Người mấy chục năm qua
Chăm nom săn sóc nên hoa thắm hồng.
362. Ngó lên chùa Bồng Lai cây cao bóng mát
Ngó xuống bãi biển Cảnh Dương rào rạt sóng xao
Quê mình biển rộng non cao
Nhờ Cụ Hồ lãnh dạo đồng bào ta được tự do.
363. Ngó lên đồng lúa xanh rờn
Nhớ tình của Đảng công ơn Bác Hồ.
364. Ngó lên mây trắng trời cao
Ơn Đảng ơn Bác chẳng nao tấc lòng
Dù cho biển cạn non mòn
Miền Nam với Bác vuông tròn thủy chung
365. Ngó lên trời có vì sao dẫn lối
Ngó ra Hà Nội có Bác Hồ Chí Minh
Tám chín năm ni lãnh đạo tài tình
Kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình trên toàn cõi Việt Nam.
366. Ngó lên trời có vì sao dẫn lối
Ngó ra Hà Nội có Bác Hồ Chí Minh
Nhìn ra ngoài nớ quang vinh
Nhìn về quê kiểng mà tình xốn xang.
367. Ngó qua dãy núi gặp ghềnh
Lòng Hồ Chủ Tịch, lòng mình không xa
Ngày mai thống nhất nước nhà
Chúng ta vui đón Cha già vào thăm.
Ngó qua dãy núi gặp ghềnh
Lòng Hồ Chủ Tịch, lòng mình không xa
Ngày mai thống nhất nước nhà
Chúng ta vui đón Cha già vào Nam.
368. Ngô đồng đã trổ đỏ làng
Đàn cu cũng đã gáy vang đầu bờ.
Tết về ta nhớ Bác Hồ
Tuổi chồng thêm tuổi, Người chưa hẳn già!
Một năm rồi một năm qua
Người thêm khỏe mạnh là ta vui mừng.
Bao giờ độc lập ngày xuân
Ta nấu bánh tét kính dâng lên Người.
Bây giờ Người ở xa xôi
Bánh chưa gởi được mượn lời kính thăm.
Quay đầu về Bác đăm đăm
Những mong, những ước: muôn năm Bác Hồ.
369. Ngôi sao sáng giữa cờ hồng
Hình Cha rực rỡ giữa lòng chúng con.
370. Ngoài kia trống lửa hiên ngang
Trong này bão nổi đập ta quân thù
Ai ơi, uống nước nhớ nguồn
Miền Nam thắng Mỹ nhớ ơn Bác Hồ
Tuổi già tóc Bác bạc phơ
Vẫn luôn theo dõi từng giờ ta đi.
371. Ngọn Tây Phong Lĩnh Bác trèo
Để giờ có núi có đèo con qua
Trường Sơn mây phủ mưa sa
Chân chồn lại nhớ bước Cha mở đường.
372. Người thân tiếng nói cũng thân
Mỗi lời Người dạy xa gần đều hay.
Người thân tiếng nói cũng thân
Mỗi lần Người dạy xa gần đều hay
Dù ai ngăn đông đón tây
Thì ta vẫn vững như cây giữa rừng
Trước sau một dạ một lòng
Muôn đời ghi tạc công ơn Bác Hồ
373. Người thường cực khổ đôi ba
Cụ Hồ cực khổ tính ra tới mười.
Người thường ngày tháng vui chơi
Cụ Hồ mãn có lo đời ấm no
Người thường toan tính so đo
Cụ Hồ thương nước nên thờ nước thôi!
Người thường chỉ biết “cái tôi”
Cụ Hồ yêu mến khắp người trần gian.
Người thường nhà cửa cao sang
Cụ Hồ lắm lúc nằm hang, ở gò
Người thường rượu thịt say no
Cụ Hồ có lúc không thường chén cơm.
Người thường là lụa đầy rương
Cụ Hồ bô vải tầm thường đủ thay.
Người thường nệm ấm loay hoay
Cụ Hồ nhiều tối gối tay mà nằm.
Người thường sợ nhọc tấm thân
Cụ Hồ dầu dãi phong trần vẫn vui.
Cụ Hồ của chúng con ơi!
Bao giờ cụ mới thảnh thơi bằng người?
Chúng con ở bốn phương trời
Quay về hướng cụ muôn lời chúc mong:
Dài lâu như núi, như sông
Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con!
374. Người về mang một mầm cây
Người đi mang một túi đầy hạt theo
Nơi xa tốt lũng, xanh đèo
Quê nhà mầm cũng vươn theo tay Người
Xuân này xanh một vùng trời
Như lời Bác dạy khi Người ra đi.
375. Nhà tan cửa nát cũng từ
Quyết tâm theo Bác, cực chừ sướng mai.
376. Nhất thơm là bạch đàn chanh,
Bác đi để lại hương lành cho con.
Nhất xanh là tán đa tròn,
Bác đi để bóng mát trùm nghìn sau.
Nhất thẳng là ngọn phi lao,
Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ.
Nhất xanh tán vú sữa tròn
Bác đi để bóng mát trùm nghìn sau
Nhất thẳng là dáng đước cao
Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ.
377. Nhìn ra miền Bắc
Ruộng đồng bát ngát
Nhà máy xinh xinh
Áo hoa đầy phố
Vui cảnh thanh bình
Miền nam chan chứa bao tình
Càng tin Đảng Bác, đấu tranh vững bền .
378. Nhiều tay vỗ nên bộp
Nhiều cột dựng nên nhà
Dù cho Mỹ Diệm ỳ ra
Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải thành công.
Nhiều tay vỗ nên độp
Nhiều cột dựng lên nhà
Dù cho Mỹ Diệm ì ra
Có cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải thành công.
379. Nhìn sông lại nhớ đến nguồn
Nhìn cây nhớ cội, nhìn non nhớ rừng.
Dù cho xa cách muôn trùng
Tình dân với Bác thủy chung chẳng rời.
Nhìn sông lại nhớ đến nguồn
Nhìn cây nhớ cội, nhìn non nhớ rừng
Dù cho xa cách muôn trùng
Tình dân với Bác thủy chung một lòng.
380. Nhờ ai sang lập cán cân
Bác Hồ vĩ đại góp phần Đảng ta
Sinh ra như thể một cha
Bình quyền, bình đẳng như hòa ý chung.
381. Nhờ Hồ Chủ Tịch cầm tay
Nhờ Đảng lãnh đạo ơn này con ơi.
Đường đi còn lắm dặm dài
Mười phần ta đã được hai ba phần.
Con ơi nghe mẹ ân cần
Đấu tranh mấy dặm xa gần tùy ta.
382. Nhờ mặt trời cộng với mặt trăng
Soi sáng đất nước đêm ngày
Nhờ Chính phủ và Hồ Chí Minh
Lãnh đạo các dân tộc chúng mình
Có mâm thịt đầy, lại có hũ rượu
Như ánh đèn rọi chiếu
Thấy rõ lòng dân
Chính phủ, Hồ Chí Minh.
383. Nhớ đâu bằng nhớ quê nhà
Tin ai hơn được Cụ Hồ Chí Minh.
384. Nhớ đêm nổi sóng Nhà Rồng
Bến xưa sương gió bồng bềnh Người ra.
Sông Hồng năm, tháng với ta
Phút xa bịn rịn, quê nhà nhớ mong.
Bao giờ Bến Nghé xanh dòng
Ta ra thăm lại sông Hồng phù sa.
Bao giờ đẹp cửa, đẹp nhà
Ta ra Hà Nội đón bà con vô.
Chúng con hứa trước Bác Hồ
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào!
385. Nhớ khi gậy trúc, dép đen
Đi thăm mặt trận, Bác lên đỉnh đèo
Đường rừng khúc khuỷu, cheo leo
Bác đứng trên đèo vẫy gọi con lên.
Con mang hình Bác trong tim
Hành quân đánh Mỹ qua nghìn gian lao
Mỗi lần vượt dốc núi cao
Vẫn nghe tiếng Bác ngọt ngào vang ngân.
386. Nhớ ơn cách mạng đời đời
Nhờ ơn ông cụ được làm người hôm nay.
Đồng ta thẳng cánh cò bay
Dân ta nở mặt, nở mày đi lên.
Ngàn năm nhớ mãi không quên
Ai đem xương máu tạo nên cơ đồ.
Xa xôi hướng tới Cụ Hồ
Đêm đen trời sáng cũng nhờ ánh trăng.
Không nghe theo giặc bỏ làng
Đói no quyết bám Bằng lăng đất này.
387. Nhớ xưa nợ gánh ba đời
Chiều ba mươi tết mẹ ngồi nhìn con.
Gánh cực mà đổ lên non
Co chân mà chạy cực còn chạy theo.
Giờ đây hết cực hết nghèo
Vui lên ra ruộng, mừng theo về nhà.
Này con, này mẹ, này cha
Chiều ba mươi tết một nhà ấm no.
Qua sông nhớ bến nhớ đò
Ơn này nhờ đức Bác Hồ thương dân.
388. Nhớ xưa trời tối như bưng
Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời
Mồ hôi đổ xuống ruộng người
Ôm rơm rặm bụng, gặt rồi tay không
Nằm mơ cũng chẳng dám mong
Bốn phía ruộng đồng có lúc về ta.
Mịt mờ, cay đắng năm xưa
Còng lưng nuôi hắn tưởng là hắn nuôi
Quanh năm nghèo rớt mồng tơi
Tưởng là tại số, tại trời gây nên
Từ ngày xóm dưới, làng trên
Tố ra hết khổ, vùng lên một lòng
Cụ Hồ mở mắt cho trông
Mới thấy ruộng đồng bốn phía của ta.
389. Những ai từng chốt biên cương
Lên đường làm cuộc hành hương viếng Người.
Những ai ôm mộng xây đời
Về nguồn suối mát, lại nôi Bác Hồ.
Ơn ai xây đắp cơ đồ
Cho ai nhớ sóng bến xưa Nhà Rồng.
Nhớ ngày tù ngục xiềng gông
Nhớ đêm Pác Pó gió lồng cửa hang
Một tờ Di chúc – tình thương
Việc dân, việc Đảng hàng hàng máu tim.
Mong ngày nở rộ đồng dâng Người
Khó khăn cong nhiễu cuộc đời
Dang tay đi tới cho Người được vui.
390. Những bà trầu cháy môi bầm
I tờ bập bẹ đánh vần oang oang
Trường đây không ghế không bàn
Tấm dong cánh cửa từng hàng kê lên.
Chung dầu, chung bấc, chung đèn
Chung lòng thực hiện lời khuyên Bác Hồ.
391. Những đêm đại hội quê hương
Cháu ngồi nhớ Bác tình thương ngọt ngào
Nhìn đôi mắt Bác như sao sang ngời
Bác nhìn cháu nhỏ khắp nơi
Soi gương bóng tối cho đời thắm tươi.
392. Núi cao là núi Thái Sơn
Ơn cao nghĩa nặng là ơn Cụ Hồ
Núi cao là núi Thái Sơn
Ơn cao nghĩa cả là ơn Cụ Hồ
393. Núi cheo leo
Dốc cheo leo
Đường ngoằn ngoèo
Đá tai mèo
Lụa mây quấn nhẹ ngang đèo
Đường vào mặt trận ta trèo qua mây
Vút bay, tiếng sáo vút bay
Hùng dũng nhịp hát, hăng say giọng hò
Gió đưa ấn ngọt lời thơ
Suối reo hòa điệu ‘lới lơ” trong ngần
Di chúc Bác thấm tim gan
Đường vào mặt trận gian nan coi thường.
Nguyễn Xuân Thiêm
394. Núi Mẫu Sơn cao biết bao nhiêu trượng
Sông Nhật Lệ sâu biết bấy nhiêu tầm
Dừng chèo ta dặn bạn tri âm
Lái Cụ Hồ nắm chặt khăng khăng
Dù cho mưa nguồn chớp biển
Cũng không đến nỗi can răng ơi đồng bào.
395. Núi Trường Sơn không sờn mưa nắng
Biển Thái Bình chắn chắc không khô
Nước ta đã có Bác Hồ
Hỡi toàn dân đứng lên kháng chiến xây dựng cơ đồ Việt Nam.
396. Nước chảy hoa trôi bèo đứng
Núi lở non mòn vì bè lũ tay sai
Nước nhà kháng chiến lâu dài
Mong cho Nam Bắc sum họp một nhà vui thay
Thái Phiên nổi dậy đủ đầy
Tây Tàu Nhật Mỹ bỏ nước ta đât rút về
Mấy mươi năm kháng chiến thật ghê
Tiếc thay sáu chín Cụ về thiên cung
Viết thư di chúc bi hùng
Bảy lăm thống nhất nước ta hòa bình
Thấy ảnh mà không thấy hình
Bắc Nam toàn quốc làm lễ Hồ Chí Minh muôn đời.
397. Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn
Cửa Hàm Luông mây cuốn cánh buồm xuôi
Hương sen tỏa khắp đất trời
Bác ơi, tên Bác sáng ngời miền Nam.
Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn
Đất miền Nam bão cuốn lên rồi
Hương xa tỏa khắp đất trời
Bác ơi, tên Bác sáng ngời niềm tin.
398. Nước dưới sông khi dâng khi cạn
Trăng trên trời khi sáng khi lu
Ai ra miền Bắc thưa với Cụ Hồ
Lòng miền Nam vẫn tròn vành vạnh như chiếc nón bài thơ đội đầu.
399. Nước nhà còn buổi long đong
Bỏ hoang ruộng đất thì lòng sao đang
Ai ơi, tấc đất tấc vàng
Nhớ lời Cụ dạy ta càng tăng gia
Tăng gia ích nước lợi nhà
Kháng chiến, kiến quốc ắt là thành công.
400. Nước non vẫn nước non nhà
Phương Nam, Phương Bắc vẫn là nước non.
Lòng dân với Bác vuông tròn
Như sông về với ngọn nguồn Bác ơi.2
401. Nước sông Trà in hình núi Ấn
Dừa Trung Lương soi bóng Lại Giang
Nhìn lên cờ đỏ sao vàng
Lòng dân ơn Bác muôn vàng Bác ơi.
402. Ong mật về làm tổ trong hang
Suối sông đầy cá vượt thác
Chép, trắm lượn đớp mồi hàng đàn
Chân tay ta rũ bỏ xiềng xích
Nằm say ngủ, đợi gà gáy vang
Chúng ta cùng nghe tiếng gà gáy ran!
Chim từ quy kêu hòa tiếng dây đồng
Tiếng hát ca chen tiếng bật bông
Khắp nơi chào mừng Cụ Hồ về đứng góc bản mường
Đêm văng vẳng tiếng thoi đưa, cửi chạy
Sông lượn vòng, đầy thuyền ngược, thuyền xuôi
Lúa trĩu hạt, rơm vàng tươi
Khắp gầm trời, súc vật sinh sôi, nẩy nổ.
403. Ở đây đất lặng núi lành
Ở đây có Bác chúng mình yên tâm
Hôm nay đi dạo chùa Trầm
Càng vui cảnh Bác càng căm quân thù
Bác Hồ yêu mến thợ thuyền
Bác lo chăm sóc thường xuyên mọi người.
404. Ở đây thờ chúa tự do
Giáo lương chỉ một Cụ Hồ mà thôi.
405. Ở đây heo hút đèo xa
Đường về nơi Bác vẫn là tấc gang.
406. Ở nhà ảnh Bác treo trên
Ra vào con đứng trông lên ảnh Người
Khi bay cánh vút mây trời
Khoang bay nhỏ hẹp, chỗ ngồi chật nêm
Con mang hình Bác trong tim
Nghe lời Bác dạy bay lên diệt thù.
407. Ơn Cách mạng bằng trời bằng biển
Công Cụ Hồ tính biết bao lăm
Thằng tây độc ác gian tham
Chúng toan cướp lại nước Nam phen này
Tây ơi ta bảo tây này
Bay không về nước có ngày tan xương
Cà Mau mà hết cá đường
Nước Hòn Khoai hết ngọt tao mới nhường cho bay.
408. Ơn Cha như nước như non
Như gương Hồ Thủy, như hòn Thái Sơn.
409. Ơn đức Cha già biết bao
Ơn dày sáng đất, ơn cao sánh trời
Tình Cha tỏa rộng nơi nơi
Lượng Cha bát ngát, sáng ngời như gương
Lòng Cha như Thái Bình Dương
Yêu quý nhân loại, mến thương giống nòi
Bác là cuộc sống sáng tươi
Bác là hạnh phúc muôn đời nở hoa
Bác là muôn vạn lời ca
Bác là hình ảnh quê ta thanh bình
Bác là muôn ánh bình minh
Xé màn nô lệ, mở trời tự do.
410. Ơn Người biển rộng non cao
Con đi dưới ánh cờ sao chói ngời
Trông lên vẫn thấy Bác cười
Ấm trên ngàn dặm những lời Bác khuyên.
411. Ơn Người, quí bậc sanh thành
Chọn miền Cao Lãnh – đất lành phải chăng?
Bờ sông hoa tím – bằng lăng
Ô môi từng lót đỏ đường quân đi
Bưng sâu, đồng trũng - gan lỳ
Rộng lòng như thể đất này mênh mông.
Thanh cao – mùa nước – sen hồng
Ấy mùa thương nhớ, thủy chung đợi chờ.
Mong ngày, mong tháng Bác vô
Bao năm hoài niệm trước mồ thân sinh.
Ơn Người, quí bậc sinh thành
Ác ôn hung hãn cũng đành bó tay
Trung trinh vẫn giữ lòng này
Nhớ ơn người trước, nhớ ngày Bác sinh.
412. Ông già tóc bạc như mây
Xuân nào cuốc đất trồng cây trên đồi
Năm nay cây lớn lên rồi
Nắng mưa sẵn bóng cháu ngồi chăn trâu
Đồi cây, mái tóc một màu
Cháu nhìn mây bạc trên đầu nhớ ông.
413. Qua cầu không khéo bổ trúc “Ngô”
Giòng nước trăm khe chảy về “Hồ”.
414. Qua đồng đứng lại trông đồng
Đồng như tranh đẹp trong lòng vui thay.
Từ ngày thư Bác về đây
Ruộng cao mát nước, hàng cây thêm chồi.
Lúa chim ruộng sóng ngang trời,
Cồn hoang ngô mượt, bãi bồi dâu xanh.
415. Quản gì gian khổ khó khăn
Đêm ngày khiêng pháo vượt băng dãy đồi
Dù đi đến tận chân trời
Theo lời Bác gọi trọn đời ta đi.
416. Quân đi rung sóng Tháp Mười
Để sen thơm mãi tên Người kính yêu
417. Quả cau nhỏ
Cái vỏ vân vân
Nay anh tập gần
Mai anh đánh xa
Từ sau phát động, nhà xa
Nhờ chính sách Đảng nay đã khác xưa
Đấu tranh đòi được giảm tô
Phần ta thêm mẫu ruộng bừa đồng trong
Ruộng nhà lúa tốt nhất đồng
Bón phân làm cỏ đã xong hai lần
Lâng lâng trút sạch nợ nần
Thóc ăn có đủ đến tuần gặt chiêm
Mẹ già, cu nhỏ và em
Chân cứng đá mềm, khỏe mạnh luôn luôn
Uống nước ta phải nhớ nguồn
Ơn Đảng sáng suốt, lại ơn Bác Hồ.
418. Quê đồng cháu rất nhiều sen
Tháng năm hoa nở hương lên ngát trời
Nhìn sen nhớ Bác, bồi hồi
Bác ra đi gửi những lời mai sau
Từng lời Di chúc khắc sâu
Vào trong tâm khảm, những đầu tóc xanh.
Bác ơi, lời Bác ân tình
Nghìn năm con cháu đinh ninh nhớ lời
Quê hương ngày một sáng tươi
Tháng năm sen nở ngát trời đầy hương.
419. Quê em ngụy đến đóng đồn
Chuồng gà hết trứng, cây vườn héo khô
Từ ngày giải phóng đến giờ
Đồng hoang lúa mọc, bụi bờ xanh cây
Ngẩng trông thấy ánh cờ bay
Hái liềm lại ấm bàn tay gặt mùa
Chở anh Giải phóng sang đò
Má về lại nhớ Bác Hồ khôn nguôi.
420. Quê hương Đồng Tháp sắt son
Nhân dân Đồng Tháp là con Bác Hồ.
421. Quê ta đẹp nhất bến này
Thời gian đẹp nhất ấy Ngày Người ra.
Nghe mùa gió chướng thổi qua
Một chiều sóng vỗ cho ta nhớ Người.
Yêu đời càng gắn với đời
Quê hương tủi nhục, ngậm ngùi bước đi.
Boong tàu nhìn ánh trăng khuya
Sao ơi! Sao có rọi về làng xưa?
Tàu ra cho khuất rặng dừa
Lùm tre trước ngõ, bến bờ là đâu?
Nỗi lòng đâu đấu canh thâu
Trời Tây tuyết giá, mây sầu tứ giăng.
Tình dân dây đã buộc ràng
Nỗi riêng gác lại, gió sương quản gì.
Con đường cứu nước nhiêu khê
Bồi bàn, quét tuyết, việc chi cũng làm.
Ngày đêm róc rách suối ngầm
Phố phường xe ngựa – âm thầm ai hay.
Trong tù – nhật ký thơ bay
Lòng hang Pắc Pó hẹn ngày cờ lên.
Non nước ta đẹp trăm miền
Trăng, sao đẹp nhất là đêm Bến Rồng.
Ngày xuân lòng những mộng mơ
Nhớ Người nhớ cả một vùng trời mây.
Công thần chủ nghĩa những ai
Con đường gian khổ còn dài hãy qua.
Vùng bùn cơ hội chớ sa
Nỗi riêng chớ để xóa nhòa tình chung.
Biển trời ơn Bác mênh mông
Nguyện làm con cháu hiếu trung giữa đời.
Bến xưa đã lỡ ai bồi
Vàng gieo ngấm nước, đất trời sáng choang.
Nhà Rồng về đó tắm trăng
Ta đi dưới ánh hào quang của Người.
422. Quê tôi giải phóng từ đây
Đồng hoang lên lúa, gốc cây nảy mầm
Con gà gáy trống canh năm
Đứa con vui nhảy đêm rằm trăng soi
Từ nay khác cả quê tôi
Nhân dân nô nức phục hồi tăng gia
Xóm làng truyền mãi câu ca:
“Ơn Hồ Chủ Tịch như là núi cao.”
423. Quê tôi mừng hết bọn quan
Trăng sáng soi ngàn, lớp học tối đầu tiên
Vui trong nhịp sống bình yên
Nứa mọc ra liền, đất núi đẻ ra bông
Khác xưa quan đánh, Tây lung
Vợ phải lìa chồng đến hầu hạ nhà lang
Đời người đen quá hòn than
Mỏng tựa lá vàng, khổ quá kiếp con giun
Kéo dài hàng mấy ngàn năm
Đời không nằm rằm, cũng chẳng có mùa xuân
Quê tôi tỉnh lại dần dần
Như mái nhà sàn lợp lá mới, sửa phên
Cây còi, chồi lại nở lên
Mồ hôi thấm nền, từng ngọn lá thấm hơi
Bác Hồ soi sáng quê tôi
Tôi gửi đôi lời các bạn đến thăm
Đừng lo đường lạ xa xăm
Hỏi đến chòm Nầm, huyện Quan Hóa tỉnh Thanh
Bên dòng sông Mã trong xanh
Rừng cam hiền lành, quýt ngọt đấy quê tôi.
424. Kỷ niệm lần thứ 25, chiến thắng Ấp Bắc (2.1.1963-2.1.1988)
Ra từ một ấp – Chiến công
Những bàn chân đất vang lừng năm châu
Khiến Lầu Năm Góc điên đầu
Trực thăng gãy cánh – diều hâu quay cuồng.
Chiến công là một hồi chuông
Vang lên cảnh cáo những phường xâm lăng.
Tàu bay nào phải vạn năng
Mới hay sức mạnh đồng bằng là đây.
Máu xương đổ xuống đất này
Quyết tâm- cầm chắc có ngày giặc thua
Nhớ lời căn dặn Bác Hồ:
“Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”
Viết lên trang sử tự hào
Quê nhà Ấp Bắc đẹp màu đồng xanh.
Ơn người ngày ấy hy sinh
Ruộng vườn giữ lại cho ngày hôm nay.
Tháp Mười thẳng cánh cò bay
Kinh sâu đầy nước lòng đầy nhớ thương…
425. Rách lành cũng bạc Việt Nam
Chính phủ ta làm ta vẫn cứ tiêu
Lành thì gìn giữ nâng niu
Rách thì dán lại tín điều bán mua
Chữ ta có mất đôi dòng
Giấy ta có bở nhưng lòng vẫn tin
Cụ Hồ dõi mắt đang nhìn
Đồng bào mến Cụ thì xin tiêu dùng.
426. Rừng khuya trăng dọi đầu đình
Pháo ta che lá cũng xanh như rừng
Ngụy trang cơm bữa đã từng
Dù khuya khoắt mấy cũng đừng lãng quên
Trăng về trải sáng trời đêm
Đứng bên ụ pháo càng thêm tự hào
Nghe lời Bác, quyết tâm cao
Bắn tan Dốc Miếu, nện nhào Cồn Tiên
Nỗi hờn chớp lửa trong đêm
Trời cao như thể đẹp thêm mấy lần
Đêm nay trăng dậy đúng tuần
Mà ta, pháo cũng ra quân vào mùa.
427. Rừng Tây Nguyên muôn đời nhớ Bác
Đã khắc tên lên bạc đeo tay
Từng ghi báo mộng điều hay
Sáng ngời hình Bác một ngày trên buôn.
428. Sài Gòn rực đỏ cờ sao
Miền Nam giải phóng càng nhớ công lao Cụ Hồ.
429. Sài Gòn vắng Bác hôm nay
Vẫn như thấy Bác những ngày năm xưa
Bác đi gửi lại ước mơ
Sài Gòn đã cắm ngọn cờ Bác trao.
430. Sáng nay lời Bác vọng về
Rừng xanh nắng dậy bốn bề gió reo.
Con nghe đỉnh núi lưng đèo
Tiếng than hối hả sớm chiều khoan xoay.
Con nghe mong rộng tầng dài
Đoàn quân truy vỉa cất lời hát vang.
Con nghe Tổ quốc cần than
Con nghe lời Bác chứa chan ân tình.
Chúng con đi những lộ trình
Con nghe có Bác bên mình dẫn đưa.
Cho dù sớm rét chiều mưa
Chúng con có Bác say sưa lên đường.
431. Sáng nay nhìn đỉnh Trường Sơn
Một chòm mây trắng nhẹ vờn bay quanh
Chòm mây mát dịu trời hanh
Trông như mái tóc Bác mình gió đưa
Đứng trông lòng những ngẩn ngơ
Mái tóc của Bác bây giờ thấy đây
Bác ơi, khẩu súng cầm tay
Dù muôn gian khổ, chẳng lay được lòng
Lòng con hẹp với muôn lòng
Bắc Nam thống nhất thành công mới về.
432. Sáng nay ngược đỉnh đèo cao
Lắng nghe thơ Bác gọi vào mùa xuân
Đường xa như xích lại gần
Mồ hôi thấm áo mấy lần vẫn vui
Ta lên trồng cột lưng trời
Gọi hoa sứ nở theo lời hoa xuân.
433. Sao vàng năm cánh tung bay
Nông thôn, thành thị đó đây tưng bừng
Lời ca tiếng hát vang lừng
Miền Nam mở hội đón mừng Bác vô
Người về thỏa nỗi ước mơ
Sấm vang đất dậy Bác Hồ muôn năm
Giật mình chợt tỉnh giấc nồng
Tay còn nắm chặt thiếp hồng Bác trao.
434. Sen xa hồ, sen khô hồ cạn
Liễu xa đào, liễu ngả, đào nghiêng
Anh xa em đừng nhớ đừng phiền
Như Cụ Hồ Chủ tịch biết mấy niên xa nhà.
435. Sóng thần thì mặc sóng thần
Có Cha bẻ lái, có dân chống chèo.
436. Sông không khô nhờ nguồn dự trữ nước
Việt Nam mạnh giàu nhờ phước Cụ Hồ cho.
437. Sông Neo uốn khúc lượn quanh
Nước qua Tam Cửu, Di Ninh ngoằn ngoèo
Sông vòng cho nước vòng theo
Nước dâng chậm chạp, nước tiêu ngập ngừng
Nắn sông bắt nước thẳng dòng
Cho buồm thuận nẻo, cho đồng lúa xanh
Thi đua đào khỏe, chuyển nhanh
Làm theo lời Bác, chúng mình vươn lên.
438. Sông Nha Trang cát vàng nước đục
Thảnh thơi con cá đục
Lội dọc lội ngang
Miền Nam giữ dạ đá vàng
Công ơn Đảng Bác chẳng phụ phàng nỡ quên.
Hò ơ giã gạo chày ba
Ta nhịp cho hòa, điệu hát thêm hay
Bác cho ta có đất cày
Ngát đồng hương lúa, vườn say trái lành.
439. Sông sâu còn lấy thước dò
Lòng dân ơn Bác biết đo sao cùng.
440. Sông Thao nhắn với sông Trà
Hai dòng một nước dân ta một nòi.
Lòng ta ơn Bác đời đời
Như rừng không đếm được lá, như trời không đếm được sao.
441. Sông Trường chảy ra sông Tranh
Sông Tranh đổ lại Thu Bồn
Thu Bồn xuôi ra cửa Đợi
Nhớ Bác Hồ, cháu gọi Bác Hồ ơi!
442. Sớm mai ra đứng bờ sông
Ngó về miền Bắc mà lòng ước mơ
Lòng em sáng đợi chiều chờ
Trông cho năm tháng ngày giờ trôi mau
Trông cho thống nhất nước nhà
Để mừng đón tiếp Cha già vào đây
Trông trời trông nước trông mây
Trông cho mau tổng tuyển cử để Mỹ Tây mau chuồn.
443. Ta là con cháu Cụ Hồ
Nghe tin tiếp vận đan bồ đi ngay.
Ta là con cháu Cụ Hồ
Nghe tin tiếp vận lên đường đi ngay.
Ta là con cháu Cụ Hồ
Nghe tin đồng khởi reo hò đi ngay.
444. Ta mau về với Bác Hồ
Kìa hai lăm triệu điểm tô nước nhà
Cướp súng đạn duổi giặc ra
Bao nhiêu vũ khí mang về lập công
Hồ Chủ Tịch rất khoan hồng
Trăm năm tạc dạ chữ đồng đừng phai.
445. Ta tin Đảng, tin Bác Hồ
Ta căm thù giặc từng giờ khôn khuây.
Chiến khu đói khổ kéo dài
Đời còn đói khổ khôn khuây căm thù.
Trăm năm ngột ngạt ngục tù
Cái xiềng khóa cẳng, cái đầu lìa thân.
Đứng lên chịu cực một lần
Còn hơn muối xát, kim châm cả đời.
Hướng về Việt Bắc xa xôi
Rừng thêm một ánh sao trời tỏa xa.
446. Ta về thăm lại Tháp Mười
Sen hồng ta hái viếng Người – Tháng Năm.
Nông dân thiếu đói Người chăm
Để nay đồng lúa liền năm được mùa.
Dân cày có ruộng vẫn lo
Gắng công ta rửa phèn chua đất này.
Mai sau lúa vựa thêm đầy
Cá ngon, gạo trắng dân cày sống no.
Thương dân vụ thuế Người cho
Đi xa còn nhớ dặn dò người sau.
Tình này thắm mãi về lâu
Bao nhiêu hạt gạo- hạt châu trên đời.
Ta về thăm lại Tháp Mười
Sen hồng ta hái viếng Người – Tháng Năm.
Tiếc Người không dịp vào Nam
Để đàn con cháu tay cầm lấy tay
Đồng ta thẳng cánh cò bay
Năm xưa vẫn đợi, ngày này vẫn mong.
Tháng Giêng thảm lúa vàng đồng
Mùa vui càng nhớ Cha già
Đồng xanh con cháu hướng ra Ba Đình.
Dâng lên một tấm lòng thành
Chảy hoài không cạn – kinh xanh Tháp Mười.
447. Tang chung ảm đạm đất trời
Một lời Di chúc, ngàn đời để thương.
Hẹn lòng giải phóng quê hương
Hai miền Tổ Quôc sống chung một nhà.
Đàn con nhớ mãi lời Cha
Quyết tâm thống nhất sơn hà Việt Nam.
Nhà Rồng một sớm về thăm
Bến xưa còn đó dấu chân Bác Hồ.
Mỹ - Ngô là bọn côn đồ
Huyệt này đào sẵn đang chờ chúng bay.
448. Tàu đi qua đảo Cô Tô
Đẹp sao thấy tượng Bác Hồ trên cao.
Nghe rừng dương hát rì rào
Ấm như tiếng Bác hôm nào về đây.
Hình như in giữa trời mây
Ngàn cây mọc thẳng đứng xây quanh người.
Bác ơi trời rộng biển khơi
Con đi mắt Bác vẫn ngời dõi theo.
449. Tầm vông vạt nhọn dao găm
Việt Nam độc lập muôn năm Cụ Hồ.
450. Tết nào Bác gọi trồng cây
Nẻo đường ngang dọc giờ đây xanh rờn
Xanh đường, xanh ruộng, xanh non
Trải cùng đất nước xanh rờn chân mây.
Tết này Bác gọi trồng cây
Xóm thôn trống mở cờ bay rộn đường.
451. Tháng năm nắng trải nơi nơi
Bác là ánh sáng mặt trời mênh mông.
Tỏa ra sưởi ấm non sông
Cỏ cây hoa lá ruộng đồng xanh tươi
Tự hào biết mấy Bác ơi
Bác cho con cả cuộc đời tự do.
452. Tháp Mười còn đó bông sen
Ngàn năm mây trắng còn trên núi Hồng
Niềm tin giục giã tấm lòng
Nguyện cùng đi tận ước mong của Người.
453. Tháp Mười đẹp nhứt bông sen
Nước Nam đẹp nhứt có tên Cụ Hồ.
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ.
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
454. Tháp Mười đồng ruộng bao la
Giặc vô Đồng Tháp làm ma không đầu
Gian nan khổ cực mặc dầu
Lòng tin Đảng, Bác càng sâu càng nồng.
455. Tháp Mười sen vẫn nở bông
Bưng biền vẫn một tấm lòng xưa nay
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông ngày đón Bác, sum vầy Bắc Nam.
Tháp Mười vẫn nở bông sen
Bưng biền vẫn một tấm lòng xưa nay
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông ngày đón Cụ sum vầy Bắc Nam.
Tháp Mười vẫn nở bông sen
Sắt son vẫn một bưng biền xưa nay.
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông ngày đón Cụ sum vầy Bắc Nam.
456. Tháng tám một chín bốn lăm (8-1945)
Cách mạng bùng nổ ầm ầm khắp nơi
Cờ sao vàng đỏ rực trời
Đưa đời nô lệ sang đời tự do
Nhờ ơn công đức Bác Hồ
Ơn Đảng Cộng sản cứu cho dân mình.
457. Tháng Tư mùa đã sang hè
Ra quân quyết thắng kịp về tháng Năm.
Mùa sen nở khắp trời Nam
Nhớ đêm xa bến nỗi thầm ai hay.
Sen này thơm mãi vì ai
Ngày sinh dâng Bác nhớ ngày Bác đi.
Mùa sen muôn thưở Bác về
Bến xưa gặp Bác, nắng hè chói chang.
458. Thành Sài Gòn sang ngải tên Bác
Người Sài Gòn vẫn hát lời ca
Bao giờ thống nhất nước nhà
Ta mừng tuổi Bác chan hòa niềm vui
Mùa bông diệp nở đỏ trời
Sài Gòn vui sướng đón Người vô thăm.
459. Thấp thỏm cành đề
Thấp thoáng cành đa
Ngày xưa nghe núi nhiều ma
Chưa vô cửa rú, lòng đà thấy run
Chân tay bủn rủn bùn rùn
Bạt vía xiêu hồn, nên ốm ngẩn ngơ
Ngày nay vâng lệnh Bác Hồ
Dân công “dô hò” bạt núi ta đi
Mấy năm kháng chiến trường kì
Vai gánh càng dẻo, chân đi càng bền.
460. Thằng Tây có trăm máy bay
Không bằng một cái móng tay Cụ Hồ.
Thằng Tây có trăm máy bay
Chẳng bằng một cái móng tay cụ Hồ
Cụ Hồ kêu gọi thi đua
Tòan quốc reo hò giết giặc lập công
Miền Tây phối hợp miền Đông
Khu Ba, khu Bốn, đàng trong, đàng ngoài
Đánh cho giặc Pháp tơi bời
Thống nhất độc lập cuộc đời ấm no.
461. Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông lúa đẹp thương về Cần Thơ.
Miền Nam mong nhớ Bác Hồ
Dừa Bến Tre ngọt nước, lúa Cần Thơ trĩu vàng.
462. Theo cụ Ngô gông đeo đầy cổ
Theo Cụ Hồ cực khổ tiêu tan.
463. Thi đua bền bỉ ai ơi
Đừng như nước lũ tràn rồi lại khô.
Có yêu có nhớ Bác Hồ
Đừng ngồi mà đợi Bác vô lâu ngày.
Thi đua cho giỏi cho hay
Rồi ra Việt Bắc cầm tay Bác Hồ
Trong này mình đợi Bác vô
Ngoài kia Bác cũng đang chờ mình ra.
464. Thi đua làm một ra mười
Cụ Hồ có dặn người người thi đua.
465. Thù giặc như núi như non
Lòng dân với Bác keo sơn chẳng dời
Đố ai cắt được làm đôi
Vầng trăng xẻ nửa, mặt trời chia đôi.
466. Thuyền ai xuôi chợ Vực
Thuyền ai ngược Đô Lương
Thuyền anh chở khách chở phường
Thuyền em chỉ chở công lương cho Cụ Hồ.
467. Thuyền xuôi chợ Vực
Thuyền ngược Đô Lương
Thuyền em chở lúa Xuân Trường
Giá khác thị trường, rẻ lắm anh ơi!
Có tiền đong lấy mươi cân
Gửi ra cho Cụ khao quân sĩ mình.
468. Thương cha biết mấy cho vừa
Ơn Cha tới chết cũng chưa đủ đền
Con lùi Cha dắt con lên
Con sai Cha sửa, con nên Cha mừng
Đố ai quét sạch lá rừng
Đố ai khuyên được con đừng theo Cha.
469. Thương con thì gả chồng hiền
Đừng thách gạo tiền mà bán con đi
Cụ Hồ đã dạy những gì?
Sản xuất, tiết kiệm, trường kì đánh Tây.
470. Tiếng cồng vang tận núi cao
Ấm no càng nhớ công lao Cụ Hồ.
Ơn Cụ Hồ dạy cho đoàn kết
Đồng bào ta càng biết thương nhau
Không ai cưỡi cổ đè đầu
Nên rẫy ta tốt, nên trâu ta nhiều.
471. Tiếng Người bay đến quê con
Mừng vui ngô lúa, xanh rờn đồi nương
Tiếng Người dào dạt yêu thương
Niềm tin sức mạnh trên đường con đi
Khó khăn gian khổ sá gì
Dưới cờ của Bác con đi vững vàng
Thóc ra tiền tuyến nặng mang nghĩa tình
Tiền phương chiến thắng càng nhanh
Lời thơ của Bác đã thành chiến công
Lời thơ giục giã muôn lòng
Vang lên khắp núi khắp rừng quê con
Núi rừng nguyện với nước non
Suốt đời theo Bác, lòng son chẳng sờn.
472. Tiễn anh đi một đoạn đường
Tuy rằng có nhớ, có thương, em vẫn cười
Anh đi thì nhớ, anh ơi!
Cụ Hồ bốn chục năm trời gian nan
Anh đi cứu lấy giang san
Dẫu rằng vất vả gian nan, anh chớ nề.
473. Tình thương của Bác mênh mông
Luôn luôn sưởi ấm triệu lòng chúng con
Còn trời còn nước còn non
Ngàn năm công đức Bác còn sáng soi.
474. Toàn dân dốc một lòng thành
Làm tròn nhiệm vụ, đáp tấm tình của Cụ thương dân.
475. Toàn dân chung sức góp tay
Cụ Hồ chỉ lối đánh bay quân thù
476. Tôi là anh lính coi kho
Quanh năm chỉ việc cân, đo, giữ hàng
Nhà kho lại ở trong hàng
Bốn bề núi thẳm, rừng hoang mịt mù
Chẳng tu mà cũng là tu
Tu sao cho vẹn Bác Hồ khuyên răn :
Nếu không lo kiệm, lo cần
Khó mà liêm chính, khó mà vô tư
Một mình hàng tối âm u
Mà lòng dạ vẫn sáng như ban ngày.
477. Tôi là vận tải nhân dân
Tôi đi tải gạo nuôi quân Cụ Hồ.
Quân Cụ Hồ ăn no đánh thắng
Giết giặc nhiều giải phóng quê hương.
Tôi đi ngày nắng đêm sương
Quyết tâm gìn giữ quân lương vẹn toàn.
478. Tội ác Mỹ Diệm tày trời
Kể sao cho hết được
Miền Nam nguyền sau trước
Cùng đoàn kết một lòng
Theo Đảng Bác tiến bước
Giành thống nhất non sông
Dù cho gian khổ hy sinh
Thù quân Mỹ Diệm đấu tranh đến cùng.
479. Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm ơn Bác vẫn còn ghi sâu.
480. Trăm khe đổ lại một dòng
Bà con Kinh Thổ như sông một nguồn
Rừng xanh lắm cội lắm cơn
Bản nghèo biết lắm công ơn Bác Hồ.
481. Trăm người chỉ một tấm lòng
Theo lời Bác dạy, cấy trồng say sưa
Chăm cho đồng lúa rãnh dưa
Xanh tốt bốn mùa cho Bác Hồ khen.
482. Trăm năm dầu lỗi hẹn hò
Giúp anh Vệ quốc, con đò vẫn đưa
Đưa anh bộ đội Cụ Hồ
Vô trong Đồng Tháp đào mồ chôn Tây.
483. Trăm năm trăm tuổi vì đời
Người còn sống mãi cho người hôm nay
Gian nan đường hãy còn dài
Vẫn nuôi lý tưởng từng giây, từng giờ.
Hiếu, trung, con cháu Bác Hồ
Nguyện đưa tới đích ngọn cờ Bác trao.
Đêm nay tỉnh giấc đêm nào
Mơ màng nghe tiếng còi tàu bến xưa.
Một bài học lớn Người cho :
Quyết đi thì tới, sóng to sá gì.
484. Trăng kia trăng chớ vội vàng
Chờ ta tát nước đừng tàn trăng ơi.
Nước này nước nhé đừng vơi
Để ta tưới ruộng kẻo trời nắng to.
Bác Hồ đem lại ấm no,
Ta vui với nước, ta hò với trăng.
Trăng kia trăng chớ vội vàng
Cho ta tát nước, đừng tàn, trăng ơi!
Nước này, nước nhé, đừng vơi
Để ta tưới ruộng, kẻo trời nắng to
Bác Hồ đem lại ấm no
Ta vui với nước, ta hò với trăng.
485. Trăng trên trời khi tròn khi khuyết
Nước dưới sông tiết đục tiết trong
Miền Nam muôn thuở một lòng
Nhớ ơn cách mạng nhớ công Bác Hồ .
Trăng trên trời khi tròn khi khuyết
Nước dưới sông tiết đục nước trong
Miền Nam muôn thuở một lòng
Nhớ ơn Cách Mạng, nhớ ơn Cụ Hồ.
Trăng trên trời khi tròn khi khuyết
Nước dưới sông tiết đục tiết trong
Miền Nam muôn thuở một lòng
Ngày đêm luôn nhớ công ơn Bác Hồ.
486. Trăng trên trời khi tròn khi khuyết
Nước dưới sông có khúc cạn khúc sâu
Ai ơi, ra miền Bắc nhắn với Cụ Hồ
Lòng miền Nam vẫn tròn vành vạnh như chiếc nón bài thơ đội đầu.
487. Trăng trong Sài Gòn chiếu lại
Gió ngoài Hà Nội thổi vô
Ai ra miền Bắc thưa với Bác Hồ
Dù có lâm nguy gian khổ cũng đấu tranh cho Nam Bộ với Thủ đô nối liền.
488. Trắng đen đã rõ đôi đường
Lòng dân càng nhớ, càng thương Bác Hồ.
Dẫu rằng biển cạn, non khô
Nghìn năm công đức Cụ Hồ còn ghi.
Trắng đen đã rõ đôi đường
Lòng dân càng nhớ càng thương Bác Hồ.
Dẫu rằng biển cạn sông khô,
Nghìn năm công đức Cụ Hồ còn ghi.
489. Trâu bò đừng cột ngoài sân
Bác vô Bác thấy Bác rằng “ở dơ”.
Lúa thóc thì vựa đầy bồ
Bác vô nhìn được trúng mùa Bác vui.
Cụ Hồ của chúng con ơi
Bao giờ Cụ mới thảnh thơi bằng người
Chúng con ở bốn phương trời
Quay về hướng Cụ dâng lời chúc mong
Dài lâu như núi như sông
Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con.
490. Treo ảnh tổng Ngô lên tường lòng căm hờn nóng bỏng
Kẻ khẩu hiệu tố cộng dạ nát lòng đau
Thiệt lòng em đây không phụ khó tham giàu
Ơn Cụ Hồ nghĩa Đảng gắn bó trước sau một niềm .
491. Trèo truông mới biết truông cao
Việt Nam kháng chiến mới biết công lao Cụ Hồ.
492. Trên đường ra trận hôm nay
Ba lô, cây súng xanh dày ngụy trang
Hành quân tới phía chiến trường
Vẫn đi dưới bóng những hàng cây xanh
Bác trồng cây thuở cháu sinh
Bây giờ tỏa bóng cháu hành quân xa.
493. Trên đường ra trận hôm nay
Chúng con đi dưới hàng cây Bác trồng
Con đường dài suốt non sông
Hàng cây Bác tỏa xanh vòng ngụy trang
Những khi lội suối băng ngàn
Vẫn như có Bác dẫn đàn con đi.
494. Trên trời có ông sao Rua
Việt Nam ta có Cụ Hồ em ơi.
Ánh sao Rua sáng ngời một góc
Gương Cụ Hồ tỏa khắp năm châu.
Trên trời có ông sao rua
Việt Nam ta có Bác Hồ em ơi
Ánh sao rua sáng ngời một góc
Gương cụ Hồ tỏa khắp năm châu
495. Trên vách treo ảnh Bác Hồ
Trông ra trứơc mặt nhấp nhô chiến hào
Ngoài sân súng thép vươn cao
Gió đồng bốn hướng khi vào khi ra
Từ hôm bắn cháy “con ma”
Tham quan học tập đoàn ra đoàn vào.
496. Trông Cha biết mấy năm trời
Cha về là cả cuộc đời nở hoa
Cha về trời đất sáng lòa
Cha về non nước vui ca đón mừng
Cha về là hết gió giông
Cha về trăm họ sống trong hòa bình.
497. Trồng cây bóng mát cho đời
Cho đất thêm đẹp, cho người thêm xinh
Bác đi để lại tâm tình
Thương dân thương nước đinh ninh trọn đời
Trồng cây cho đẹp ý Người
Nghìn năm bóng mát ru lời nước non.
Trường Sơn cao ngất mấy tầng
Công ơn của Bác mấy lần cao hơn
Mênh mông như Thái-bình-dương
Sánh sao cho bằng với công ơn Bác Hồ
Bác đi để lại cơ đồ
Quí hơn châu báu chia cho muôn đời
Ngàn năm tên tuổi của Người
Quyện cùng cơm áo đất trời núi sông.
498. Trông lên trời thấy trời cao
Trông về Bác lòng nao nao nhớ Người
Bác như một ánh sao trời
Soi đường ra trận sáng ngời đêm nay
Hứa cùng Bác, súng chắc tay
Càng thương tiếc Bác, càng say diệt thù.
499. Trơ trơ như cụm núi Sầm
Thản nhiên như mặt nước đầm Ô Loan.
Cho dù giặc Mỹ gian ngoan
Cũng không chia được lòng dân Cụ Hồ
500. Trời cao biển rộng mênh mênh
Bác Hồ trọn nghĩa trọn tình với nước với non.
Trời cao biển rộng minh minh
Bác Hồ trọn nghĩa, trọn tình với nước, với dân .
501. Trời cao đất rộng
Miền Nam vọng lời nguyền
Đất trời còn đó nguyện giữ tuyền thủy chung.
502. Trời cao hơn trán
Sao sáng hơn đèn
Kèn kêu hơn quyển
Biển rộng hơn sông
Tình thương của Bác mênh mông biển trời.
503. Trời còn khi nắng khi mưa
Miền Nam thương nhớ Bác Hồ không nguôi.
Dù cho vật đổi sao dời
Bác Hồ như ánh mặt trời mùa xuân
Đất Dương Hòa còn vang câu ca chiến thắng
Núi Hòa Mỹ còn nhớ khi gánh đạn khiêng bom
Ơn Cụ Hồ gắn bó tám chín năm tròn
Nay không vì gian nguy mà lùi bước
Sóng dập dồn mà nghỉ chân.
Trời còn khi nắng khi mưa
Miền Nam thương nhớ Bác Hồ không nguôi.
Dù cho vật đổi sao dời
Bác Hồ như ánh mặt trời mùa xuân
Hôm nay mười chín tháng năm
Vung tay hô lớn: Muôn năm Bác Hồ!
Trời còn khi nắng khi mưa
Miền Nam thương nhớ Bác Hồ không nguôi
Dù cho vật đổi sao dời
Bác Hồ như ánh mặt trời mùa xuân
Hôm nay mười chín tháng năm
Dang tay hô lớn : Muôn năm Bác Hồ.
504. Từ khi bông lúa về nhà
Phơi khô, quạt sạch, chia ra hai phần
Một phần giấu để nhà ăn
Một phần góp thuế nuôi quân Cụ Hồ
Thằng Tây đừng có vẩn vơ
Hết lối lần mò cướp thóc nhà tao.
505. Từ ngày có lệnh Cụ Hồ
Đất hoang thành ruộng, bãi bờ đầu xanh.
Từ ngày ta có Cụ Hồ
Đất hoang thành ruộng, bãi bờ nên xanh.
506. Từ ngày đất nước về ta
Bác Hồ cho chữ, đó là chữ nhân
Chữ nhân ta hiểu cho phân
Con người độc lập làm dân Cụ Hồ.
Thương dân lòng Cụ vô bờ
Đó là nhân nghĩa tôn thờ nước non.
507. Từ ngày giải phóng quê tôi
Mít tinh lại họp rợp trời cờ bay
Trẻ em đi học ban ngày
Nhân dân đi cấy đi cầy mừng vui.
Thuyền bè xuôi ngược ngược xuôi,
Có chè Phú Thọ, có sồi Bắc Ninh.
Cây đa bóng mát đầu đình
Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng.
Từ nay mặc sức vun trồng
Nước giàu dân mạnh vợ chồng ấm no.
Hòa bình độc lập tự do
Ngàn năm ơn đức Cụ Hồ không quên.
Từ ngày giải phóng quê tôi
Mít tinh lại họp rợp trời cờ bay
Trẻ em đi học đêm ngày
Nhân dân đi cấy đi cầy mừng vui.
Thuyền bè xuôi ngược ngược xuôi,
Có chè Phú Thọ, có sồi Bắc Ninh.
Cây đa bóng mát đầu đình
Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng.
Từ nay mặc sức vun trồng
Nước giàu dân mạnh vợ chồng ấm no.
Hòa bình độc lập tự do
Ngàn năm ơn đức Cụ Hồ không quên.
508. Từ trong bùn, nước – hoa sen
Như bàn tay nhỏ vươn lên bầu trời
Mỗi hoa, một đốm lửa tươi
Nghìn đèn giăng khắp sáng ngời quê ta
Ngọt ngào hương tỏa gần xa
Hoa hương thơm nhất là hoa Bác Hồ.
509. Tự hào thành phố anh hùng
Mùa xuân chiến dịch vang lừng khắp nơi.
Đẹp thay là tấm lòng người
Khó khăn gặp phải không lùi tấc gang.
Cho nhau việc nghĩa sẵn sàng
Ích dân, lợi nước hàng hàng xông ra.
Hăng say trẻ cũng như già
Vang vang khắp ngỏ bài ca quật cường.
Bác Hồ gương lớn: tình thương
Ấm từ làng mạc, phố phường ấm ra!
510. U Minh thơm ngát hương tràm
Lòng dân ơn Bác muôn vàn Bác ơi.
511. Uống nước ta nhớ đến nguồn
Cơm no áo ấm nhớ ơn Cụ Hồ
Ơn Bác Hồ sâu hơn Nam Hải
Công Bác Hồ dài hơn dãi Trương Sơn
Uống nước ta nhớ đến nguồn
Cơm no áo ấm nhớ ơn Cụ Hồ
Ơn Bác Hồ sâu hơn Nam Hải
Ơn Bác Hồ hơn dãy Trường Sơn
Nam Hải sâu ta còn đo được
Trường Sơn dài ta vượt cũng qua
Công ơn của Bác bao la
Dân ta kể đến bao giờ cho xong .
Chèo lái tây đông vẫn trông về chòm sao Bánh- lái
Bắc Nam xa ngải đâu cũng ơn ngãi Cụ Hồ .
Mưa lành nơi mát nơi khô
Ơn đức Cụ Hồ cả nước mát chung.
Uống nước là nhớ đến nguồn
Cơm no áo ấm nhớ ơn Bác Hồ.
Ơn Bác Hồ sâu hơn Nam Hải
Công Bác Hồ bằng dải Trường Sơn.
Nam Hải sâu ta đo cũng được
Trường Sơn dài ta vượt cũng qua.
Công ơn Bác Hồ bao la
Nhân dân ta kể đến bao giờ cho xong.
Đường lên chiến thắng vinh quang
Toàn dân theo Bác vượt ngàn khó khăn.
512. Ước gì đời sống thêm năm
Ước gì mắt sáng để trông Bác Hồ
Đêm khuya chợp mắt tôi mơ
Lúa vàng thơm mát, Cụ Hồ đứng bên.
513. << Văn kỳ thinh bất kiến kì hình>>
Tuy chưa gặp Bác, lòng mình đã thương.
514. Việt Nam chỉ một cơ đồ
Miền Nam treo ảnh Bác Hồ trong tim.
515. Việt nam có Hồ Chí Minh
Ai ơi Bác đã hy sinh trọn đời.
Công đức ví tận biển trời
Năm châu bốn biển ngàn đời lưu danh.
516. Việt Nam có Bác Hồ
Như ruộng khô có nước
Miền Bắc đi trước
Miền Nam đi sau
Ngày nay gian khổ thương đau
Ngày mai rực rỡ một màu cờ son.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Miền Nam mãi mãi sắt son một lòng.
Việt Nam có Bác Hồ
Như ruộng khô có nước
Miền Bắc đi trước
Miền Nam theo sau
Ngày nay gian khổ thương đau
Ngày mai rực rỡ một màu cờ sao.
517. Vĩnh Linh ta làm theo lời Bác
Mặc cho máy bay đại bác chúng bắn suốt ngày
Cùng nhau chiến đấu hăng say
Thi đua sản xuất, đôi tay vững vàng.
518. Vú sữa Cần Thơ vỏ hồng như cà tím
Bắc Nam xa cách đã chín năm ròng
Bao giờ thống nhất non sông
Cần Thơ gởi vú sữa kính dâng Bác Hồ.
Vú sữa Cần Thơ vỏ màu cà tím
Bắc Nam xa nhau đã chín năm ròng.
Bao giờ thống nhất non sông
Cần Thơ gửi vú sữa kính dâng Bác Hồ.
519. Vụ mùa thắng lợi đến nơi
Dân thời sung túc, quân thời đủ no
Quyết là đánh giặc thắng to
Quân dân phấn khởi, Cụ Hồ cùng vui.
520. Vùng Tây Nguyên rừng thiêng nước độc
Tám chín năm ở với Bác Hồ lúa mọc đầy nương
Mấy năm ở với “quốc gia” khổ sở trăm đường
Nay bắt phu bắt lính
Mai nói gạt nói lường hại dân.
521. Xa xa pháo nổ giao thừa
Nước non nghe tiếng Bác Hồ mừng xuân
Giữa rừng mưa lạnh hành quân
Đọc câu thơ Bác ấm ran cả người.
Ca dao về Bác của dân tộc ít người
1. Rẫy ngô tốt nhờ đất
Trai làng đẹp nhờ vợ
Rừng nơ-ngo xanh nhờ chim
Mật ong ngọt nhờ ong
Hoa bíp-bìm thơm nhờ gió
Đắp chăn suôi nhờ mẹ
Thả diều cao nhờ cha
Mỹ Diệm bắt làng ta
Thành cái lưng con ngựa
Thành cái mũi con trâu
Cụ Hồ muốn làng ta
Thành cái cánh con chim
Thành cái lưng con sáo
Lưng con ngựa bị người ta cưỡi
Cánh con chim lượn trên trời cao
Con gái đẹp nhờ sữa mẹ nhờ cơm cha
Dân Tây nguyên sống nên người
Nhờ Bok Hồ, nhờ Đảng
Bok Hồ là ngôi sao sáng
Trên đầu dân tộc Tây nguyên
Đảng là mây đẹp Chò-rò
Bay trên trời cao nhất.
2. Hỡi chim pôn-mơ-ngâm màu xinh đẹp lắm
Nhưng đẹp sao bằng mắt Bác Hồ
Mắt Bác Hồ nhìn sáng bốn ông sao
Dắt dẫn nhân dân khắp làng đánh Pháp .
3. Người Kinh, người Ba-na
Người Ê-đê, Mơ-nông Đắc Lắc
Có cụ Hồ
Mắt sáng bốn ông sao .
4. Cụ Hồ cho cái đầu nở hoa sung
Cái đầu ấy bày dân làng trồng khoai
Thì củ khoai mau lớn
Bày phụ nữ nuôi gà
Thì gà lợn mau to
Cái đầu ấy bày dân làng cầm giáo đánh Tây
Thì thằng Tây chạy trốn .
5. Người Tây Nguyên
Đã giữ rừng
Đốn cây to phải ngã
Tát suối sâu phải cạn
Nhổ cỏ không còn rễ dưới chân
Người Tây Nguyên
Đã giữ rừng
Phải làm cho hổ kêu sau núi
Lợn trong chuồng không giật mình
Sấu trườn dưới nước
Người đang tắm không chạy lên bờ
Diều hâu lượn trên trời
Gà không sợ mất con
Người Tây Nguyên
Đã giữ lấy rừng
Không sợ bầy chó sói
Chẳng sợ lũ voi đàn
Không ghê con hổ ác
6. Hổ muốn phá rừng già
Lùng rừng mắc mang cung
Lên đồi gặp tên thuốc
Xuống nước trúng giáo mác
Vào buôn gặp dân làng
Người Ka-dong không theo con cú vọ
Người M’nông không theo con diều hâu
Chúng ta theo hoa đỏ
Chúng ta theo Cụ Hồ
Người Tây nguyên theo ông sao miền Bắc
Sao miền Bắc sáng trên núi Tây nguyên .
7. Bác Hồ, Bác Hồ ơi !
Người Ka-dong nhớ lời Bác dạy
Cố bắt con vắt cho sạch
Cố đuổi con cú cho bay
Mong Bác về rừng núi Tây nguyên
Để dân làng còn mang chiêng cồng đi đón .
Tên Bác Hồ đẹp hơn ngọc, hơn vàng 8.
Mắt Bác Hồ sáng như chim pơ-tú-sing-klam
Trán Bác như Chư-pông che mát
Người mù Gia-rai cũng thấy hình của Bác
Người điếc Gia-rai cũng nghe rõ tiếng Bác
Dù ai nhà rộng bếp nhiều
Dù có chiêng tơ-na-khơ-nong treo trật nhà
Cũng không quí bằng nhà có Bác Hồ .
9. Anh ơi ! anh đi xa lắc
Hơn mấy nghìn cái núi
Đi mấy tháng không hết
Em ở lại giữ rừng cây
Để anh về dựng cột
Em giữ rừng nứa
Để anh về làm cây sáo ru con
Anh đi với Bác Hồ
Em vẫn đợi anh về.
10. Vùng Tây nguyên rừng thiêng nước độc
Tám chín năm ở với Bác Hồ lúa mọc đầy nương
Ba năm ở với quốc gia khổ sở trăm đường
Nay bắt phu, bắt lính, mai nói gạt nói lường hại dân .
11. Hỡi cái rừng cái nước
Hỡi cái sóc, cái buôn
Hãy thức mắt mà xem
Đời dân mình đổi mới
Nhờ Đảng, Bác dẫn đường
Người M’nông, Xê-điêng
Như rừng đêm có đuốc
Hỡi cái rừng, cái nước
Hỡi cái sóc, cái buôn…
12. Người cứu dân tộc mình
Cho suối đánh đàn, cho hoa gơ-ma nở
Cho nương đầy lúa, rẫy đầy khoai
Cho núi sông đầy cá nước hoa ngàn
Cho con gái cườm đeo quanh cổ
Là Bác Hồ Chí Minh
13. Con cá nen dưới sông Hinh còn lội
Con chim pôn-mơ-ngâm trên núi Tía còn bay
Người Ê-đê chưa gặp mặt Bác Hồ
Mà trong bụng thương hơn cha, hơn mẹ .
14. Con chim Prắc kêu to
Con chim Siên kêu nhỏ
Nước nhiều nguồn đã họp thành sông
Người khác nhau đã thành một chi
Ở mỗi ngã nhưng cũng một Bok Hồ
Nước chảy mãi về sông
15. Hỡi hoa ê-pang soi mình bến nước
Mày đẹp nhất rừng, mày đẹp nhất buôn
Nhưng bụng Bác Hồ còn đẹp hơn nhiều .
16. Bụng Bác Hồ đẹp hơn hoa ê-pang
Bác Hồ dạy khắp nơi đoàn kết
Bụng Bác Hồ còn đẹp quý hơn chiêng
Bác Hồ bảo là cơm no áo tốt.
Chim pôn-nơ-ngân, cánh hoa ê-pang
Không sao đẹp bằng mắt, bằng bụng Bác Hồ
17. Anh giận vì anh không có lửa
Anh giận vì anh không có sức để phá đồn
Cứu em
Nhưng bộ đội Bok Hồ về
Có người Kinh, người Thượng
Anh dắt họ đi
Qua rừng
Qua suối
Leo núi
Đến đồn
Ơ, em ơi
Ra thôi!
Bộ đội Bok Hồ về rồi
Giặc đóng cửa đồn
Không cho anh vào
Giặc đóng cửa đồn
Không cho em ra
Anh ướt nước mắt
Vì thương em
Vì giận Pháp
…
Đồn cháy rồi!
Đồn cháy rồi!
Ô! Cái lửa
Nó cháy từ trong bụng súng bộ độ ra
Làm cháy cái đồn Pháp rồi!
…
18. Tiếng chim kô-nơ-lon thanh thanh hay nhất
Cũng không quý bằng miệng Bác Hồ.
19. Cụ Hồ cái bụng tốt thay
Đưa đến chòm này người cán bộ giỏi giang
Chòm tôi thắng tám lượt càn
Dụ được lính về hàng, tránh được tàu bay
Thêm thân người Xá người Tày
Trai gái nên tài, làm cán bộ như anh
Cụ Hồ đưa giấy đòi anh
Chòm xóm phải đành trả lại đứa con
Người Mường nay đã giỏi hơn
Tranh đấu vững vàng giữ địch hậu Sơn La
Anh về thưa lại cùng Cha:
Người Mường sông Đà đang thắng lợi đi lên.
20. Dân làng nghe hai cụ già ngồi nói:
“Ơ….không phải ai đánh Pha-lang đuổi Nhật đâu
Chính là Việt Minh, là cộng sản đó thôi
Họ là người Kinh, người Bana
Người Êđê, Mơ-nông, Đắc-lắc
Thêm có Cụ Hồ
Mắt sáng, bốn ông sao…”
…
“Người cộng sản cũng như ta
Có mẹ cha, vợ con, nương rẫy
Nhưng họ được Cụ Hồ cho cái đầu nở hoa sung
Cái đầu ấy bày cho dân làng trồng khoai
Thì củ khoai mau lớn
Bày phụ nữ nuôi gà lợn
Thì gà lợn mau to
Cái đầu ấy chỉ dân làng cầm giáo đánh Tây
Là thằng Tây chạy trốn”.
21. Đất nước ta có Cụ Hồ
Cụ Hồ thương dân đất mường ta, sông bể không bằng
Qua nghìn hoạn nạn, mới được ngày nay.
…
Con trai đi cứu đất đầy hết ngọn sông cái
Con gái đi cứu mường đầy hết đồi núi …
Đường dốc
Làng cheo leo
Người cán bộ Hơ-rê
Mang gùi cơm, mắm muối
Đi theo đường Bok Hồ xuống trang châu.
…
Bok Hồ kêu đi học
Vợ mong, con nhớ
Hay về
Nương rẫy cười
Người vui mừng nhộn nhịp
Rừng lại ca hát
Cho cây hoa “hông” ra lá
Cho cây “ma ía” nở hoa.
…
Nước nhiều nguồn nhưng chỉ có một sông
Người khác nhau nhưng cùng một cõi
Cùng một kẻ thù
Chúng róc thịt xương ta
Năm người Hơ-rê đem đó
Treo cờ Đảng giữa nhà
Họp lại nhau thành một
Theo lời dạy Bok Hồ
Lấy tấm lòng mến thương
Kết tình đồng chí.
22. Đốt lửa rước ảnh Bác Hồ
Họ nói:
“Đó, Ma Trang Lơng về đấy!”
Mãi về sau dân Mơ-Nông mới hiểu
Người cứu dân tộc mình
Đánh đuổi bọn Tây trắng
Cho suối đánh đàn, hoa gơ-nu nở
Cho nương đầy lúa, rẫy đầy khoai
Cho núi sông đầy cá nước hoa ngàn
Cho con gái cườm đeo quanh cổ
Là Bác Hồ Chí Minh.
23. Ngày xưa người Tây Nguyên khổ quá!
Đêm nằm cứ mơ thấy hoa sung
Hoa sung nở, người Tây Nguyên vẫn cực
….
Khổ lắm!
Sống mãi thế này làm sao được?
“Mày muốn ta vùng dậy phải không chim?”
Nhưng làm sao có cánh?
24. Người Ê-đê chưa gặp mặt Bác Hồ
Mà trong bụng thương hơn cha hơn mẹ
Người Gia-rai chưa được ra miền Bắc
Mà trong bụng thương hơn mẹ hơn cha.
Người Ka-dong không theo con cú vọ
Người M’Nông không theo con diều hâu
Chúng ta theo hoa đỏ
Chúng ta theo Cụ Hồ.
Người Tây Nguyên theo ông sao miền Bắc
Sao miền Bắc sáng trên núi Tây Nguyên.
25. Vào các nhà bé nhất ở cuối bản hỏi thăm
Hỏi cách nuôi gà, hỏi cách làm nương
Như một người đi thăm pí-nọong
Quần xắn cao, chân đi đôi dép
Chiếc áo chàm vá hai miến ở vai
Trán cao lắm, mặt sáng, râu thư, hơi dài
Khi nói chuyện hay ví câu hát lượn
Khi nào Bác lại đến?
Thân như người nhà, mong Bác chớ ốm dân lo.
26. Bác Hồ, Bác Hồ ơi!
Người ka-dong nhớ lời Bác dạy
Cố bắt con vắt cho sạch
Cố đuổi con cú cho bay
Mong Bác về rừng núi Tây Nguyên
Để dân làng mang chiêng còng đi đón.
27. Hai vợ chồng lên rẫy
Chồng cầm ná bắn tên
Mũi tên bay vun vút
Không biết châm mây nào
Anh quay, cười bảo vợ:
“Chẳng cao nào cao hơn!”
Vợ nghiêng mình hỏi chồng:
“Thế Bác Hồ và Đảng
Bay trên đầu chúng ta
Cho dân lành lúa khoai
Cho dân nghèo rựa, muối
Cho rừng hát, suối đàn
Ơn nào cao hơn được?”
Phụ lục 2: THỐNG KÊ CÁC SỐ LIỆU VỀ THỂ THƠ
Ở phụ lục này, người viết liệt kê 4 bảng số liệu. Thứ nhất là bảng thống kê tần số xuất hiện các
thể thơ trong ca dao về Bác. Thứ hai là bảng thống kê tỉ lệ các dòng trong bài lục bát của mảng
ca dao về Bác. Thứ ba là bảng thống kê tỉ lệ các dòng của thể lục bát trong ca dao cổ truyền. Và
thứ tư là bảng so sánh, đối chiếu tỉ lệ các dòng giữa ca dao về Bác và ca dao hiện đại.
Thống kê tỉ lệ các thể thơ trong ca dao về Bác
STT Các thể thơ Số lần xuất hiện Tỉ lệ
Chính thể 386 74.1% 1 Lục bát Biến thể 41 7.9%
2 Song thất lục Chính thể 14 2.7%
bát Biến thể 21 4.0 %
Hỗn hợp 49 9.4% 3
Tự do 10 1.9% 4
TC 521 100%
Bảng thống kê tỉ lệ các dòng thơ trong ca dao về Bác
Số bài Số lượng Tỉ lệ
Hai dòng 79 20.5%
Bốn dòng 113 29.3 %
Sáu dòng 76 19.7 %
Tám dòng 40 10.3 %
Mười dòng 35 9.1 %
Mười hai dòng trở lên 43 11.1 %
TC 386 100%
Thống kê tỉ lệ các dòng thơ của thể lục bát trong ca dao cổ truyền
Số lượng Tỉ lệ Số bài
620 63 % Hai dòng
242 24 % Bống dòng
70 7 % Sáu dòng
21 2 % Tám dòng
12 1 % Mười dòng
~ 1% Mười hai dòng trở lên 8
100 % Tổng cộng 973
So sánh tỉ lệ dòng thơ trong ca dao về Bác và ca dao hiện đại
Ca dao về Bác Ca dao hiện đại Số bài Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
Hai dòng 79 20.5 % 169 27.2 %
Bốn dòng 113 29.3 % 206 33.2 %
Sáu dòng 76 19.7 % 115 18.5 %
Tám dòng 40 10.3 % 70 11.3 %
Mười dòng 35 9.1 % 20 3.2 %
Mười hai 43 11.1 % 41 6.6 %
dòng trở lên
Tổng cộng 386 100% 621 100 %
Phụ lục 3: THỐNG KÊ SỐ LIỆU VỀ NGÔN NGỮ
Ở phụ lục này, chúng tôi cũng thống kê một số từ ngữ được lặp lại nhiều lần trong ca dao
về Bác và bảng thống kê một số từ ngữ địa phương được sử dụng trong mảng ca dao này :
Bảng thống kê tần số xuất hiện các từ ngữ trùng lặp
Số thứ tự Từ được lặp lại Số lần xuất hiện
Ơn, nhớ ơn, công ơn, công lao 115 1
thương, yêu thương, nhớ thương 42 2
Mong, chờ, trông 33 3
Phụ lục 4: THỐNG KÊ SỐ LIỆU VỀ HÌNH ẢNH
Phụ lục 4, chúng tôi có 3 bảng thống kê về hình ảnh. Đó là bảng thống kê về hình ảnh tự
nhiên, hình ảnh thực vật và hình ảnh nhân tạo. Các hình ảnh này được sắp xếp theo thứ tự giảm
dần
Bảng thống kê hình ảnh tự nhiên
Tần số xuất hiện STT Hình ảnh
1 Núi/non 19
2 Biển Sông 11
3 Ánh dương/mặt trời 9
4 Trời 9
5 Ánh sao / vì sao 5
6 Nước 4
7 Sông 3
8 Đất 2
TC 8 62
Bảng thống kê hình ảnh thực vật
STT Hình ảnh Tần số xuất hiện
1 Sen 5
2 Vú sữa 1
3 Quế 1
4 Trầm 1
5 Phi lao 1
6 Bạch đàn 1
7 Đa 1
8 Dừa 1
TC 8 12
Bảng thống kê hình ảnh nhân tạo
STT Hình ảnh Tần số xuất hiện
1 Dép 4
2 Kiếng/gương 2
3 Đò 2
4 Chuông 2
5 Cột trụ đồng 1
6 Chày 1
7 Cối 1
8 Đuốc 1
TC 8 14