BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THUÝ KIỀU

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA

CA DAO VỀ BÁC HỒ

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:

TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP

TP. HỒ CHÍ MINH - 2010

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Điệp – Trường Đại học Sư

phạm thành phố Hồ Chí Minh đã rất tận tâm, nhiệt tình chỉ dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời

gian thực hiện luận văn.

Ngoài ra, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của :

Quý thầy cô giáo -

Phòng sau Đại học trường ĐHSP TP.HCM -

- Các cơ sở cung cấp dữ liệu (thư viện-trang web-các bài báo-các cá nhân có tài

liệu hỗ trợ)

- Gia đình, người thân

- Bạn bè gần xa, đồng nghiệp …

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2010

Tác giả

Nguyễn Thị Thúy Kiều

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Ca dao là một thể loại của văn học dân gian Việt Nam, là những sáng tác trữ tình biểu

hiện tình cảm, nỗi niềm của con người trong cuộc sống như tình bạn, tình yêu, tình cảm gia

đình, quê hương, đất nước,…Những tâm tư ấy xuất phát từ trái tim của con người. Đối tượng

mà ca dao hướng đến có thể là người bạn, người yêu, người thân, người anh hùng dân tộc…

Chủ tịch Hồ Chí Minh là đề tài vô tận cho thơ ca. Tìm hiểu về Bác bao giờ cũng là một

nhu cầu lớn và khẩn thiết của nhân dân. Hàng loạt các bài viết, các công trình nghiên cứu về

cuộc đời Bác, tấm gương đạo đức của Bác, sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp thơ văn của

Bác…ra đời. Hình tượng Bác được xây dựng chân thật và đẹp đẽ trong nhiều loại hình nghệ

thuật như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc, sân khấu, …nhưng có lẽ thành công nhất là

thơ ca, trong đó có ca dao.

Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật lịch sử thời hiện đại được ca dao hướng đến

để nhận thức. Ca dao về Bác chiếm số lượng khá lớn trong mảng ca dao hiện đại. Thế nhưng,

hiện nay bộ phận ca dao về Người chưa được nghiên cứu bao nhiêu. Để hiểu sâu hơn mảng ca

dao này, chúng tôi chọn đề tài Đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ.

Ca dao bày tỏ tình cảm, nguyện vọng, suy nghĩ của nhân vật trữ tình nhưng không phải

chỉ bày tỏ tình cảm cá nhân mà còn đại diện cho quảng đại quần chúng nhân dân. Cho nên,

khảo sát đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về tình cảm

của nhân dân đối với Bác.

Nghệ thuật ca dao nói chung và ca dao về Bác nói riêng rất đa dạng. Thể thơ, kết cấu,

ngôn ngữ, hình ảnh, thời gian, không gian…tất cả những đặc điểm ấy đã được các tác giả dân

gian vận dụng khá linh hoạt, góp phần làm nổi bật tình cảm của Bác đối với nhân dân cũng như

tình cảm của nhân dân đối với Bác.

Hơn nữa, đặc điểm nghệ thuật của ca dao thì hầu như đã được các nhà nghiên cứu chú ý

tới từ lâu, phân tích, mổ xẻ rất nhiều. Riêng về đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác thì rải

rác chỉ một số bài viết. Chính vì thế, người viết mong muốn với đề tài luận văn này có thể góp

một phần nhỏ vào việc nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật của bộ phận ca dao nói trên.

2. Lịch sử vấn đề

Việc tìm hiểu ca dao về Bác đã và đang được nhiều người quan tâm. Liên quan đến đề tài

“Đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ” có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau đây:

Thi Nhị có bài “Bác Hồ và nguồn ca dao mới” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian số

4/1984. Bài viết chủ yếu nói về tình cảm mãnh liệt, sâu đậm của nhân dân đối với Bác Hồ kính

yêu qua ca dao. Tác giả cũng đề cập đến một đặc điểm về ngôn ngữ của mảng ca dao này, đó là

việc sử dụng phương pháp tỉ dụ quen thuộc của ca dao cổ truyền để khắc họa một cách chân

thực, gần gũi, mộc mạc hình ảnh của lãnh tụ. “ …với phương pháp tỉ dụ quen thuộc của ca dao

truyền thống, đã khắc họa một cách chân xác và nghệ thuật song lại rất gần gũi, mộc mạc hình

ảnh của lãnh tụ: Tháp Mười đẹp nhất bông sen / Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” [ 64,5]

Với hai công trình “ Suy nghĩ về cảm quan dân gian qua hình tượng Bác Hồ” đăng

trên Tạp chí Văn hóa dân gian , số 1/1990 và “ Một nét đẹp trong bức tranh văn hóa dân gian

đương đại: ca dao về Bác Hồ” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian số 4/1991, Nguyễn Xuân

Lạc đã đề cập đến cảm quan dân gian đối với Bác qua ca dao. Tác giả cho rằng hình tượng Bác

Hồ trong ca dao đã được sáng tác theo cảm quan “ thần thánh hóa”. Với cảm quan này, ca dao

tìm đến những biểu trưng của cái đẹp tuyệt đối, cái đẹp toàn bích, lý tưởng để thể hiện lãnh tụ.

Và chính cảm quan ấy đã chi phối bút pháp nghệ thuật của ca dao về Bác. Đó là bút pháp thiên

về tượng trưng, khái quát hơn là miêu tả những chi tiết sống thật của con người Bác, cuộc đời

Bác.

“Để diễn tả một con người có “tầm vóc thế kỷ” như Bác, thì sử dụng bút pháp tượng

trưng và khái quát là thích hợp, bút pháp này có nhiều khả năng để tôn cao đối tượng thẩm mỹ

theo cảm quan “thần thánh hóa” của nhân dân ta. Bằng bút pháp ấy, ca dao quần chúng đã

dựng lên những hình ảnh cao đẹp, rộng lớn, hùng vĩ, thiêng liêng về Bác với nghệ thuật so sánh

ví von truyền thống đậm đà: mặt trời, vầng Thái Dương, sao Bắc Đẩu, gương Hồ Thủy, hòn

Thái Sơn, trời đất, sông bể, hoa sen, hương quế, hương trầm…bởi vì chỉ có những hình ảnh ấy

thì mới xứng đáng với tầm vóc vĩ đại của Bác và mới thỏa tấm lòng ngưỡng mộ, tôn kính, biết

ơn của nhân dân ta đối với Bác”.[34, 9]

Trần Gia Linh với bài viết “Bốn mươi lăm năm ca dao dâng Bác” đăng trên Tạp chí

Văn hóa dân gian số 1/1990 đã khẳng định: “ Ca dao diễn tả về Người như một sự thống nhất

tuyệt diệu giữa cái vĩ đại trong sự bình dị; giữa những hình ảnh kì vĩ có tính chất thần thoại với

những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với mọi người; giữa cái tượng trưng cao độ với cái hiện

thực sâu sắc trong phương pháp biểu hiện.” [ 39,30]

Với tiểu luận “Tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với Bác Hồ qua ca dao” trong

công trình biên soạn “Ca dao về Bác Hồ”, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội-2003, Trần Quang

Nhật đã có những đóng góp đáng kể trong việc khẳng định ca dao về Bác đa số sử dụng lối so

sánh. Hướng so sánh thứ nhất là “so sánh hai cuộc đời: cuộc đời lầm than của người dân mất

nước trong xiềng xích nộ lệ, dưới hai tầng áp bức bóc lột của thực dân phong kiến và cuộc đời

sống trong độc lập tự do hòa bình mà Bác và Đảng đã dành lại cho đất nước” [58, 15]. Hướng

so sánh thứ hai là “so sánh công ơn của Bác với những gì thiêng liêng nhất, kì vĩ nhất trong

cuộc sống trần gian và trong thiên nhiên vũ trụ”[ 58, 17]. “Để tỏ rõ niềm tin của mình đối với

Bác Hồ, một lần nữa qua ca dao, nhân dân ta đã dùng thủ pháp nghệ thuật so sánh. So sánh

Bác như sao Bắc Đẩu, như vầng Thái Dương soi đường chỉ lối cho nhân dân ta đi lên” [58, 30]

Với bài viết “Tìm hiểu công thức truyền thống trong một số bài ca dao mới Nam Bộ về

hình ảnh Bác Hồ” đăng trên website http://cadaotucngu.daitudien.com, Trần Tùng Chinh đã

cho thấy ca dao về Bác có sự kế thừa một số công thức truyền thống của ca dao cổ truyền. “Các

bài ca dao mới nói chung và ca dao về Bác nói riêng còn thiếu sự trau chuốt nhưng lại thừa sự

mộc mạc tự nhiên. Tuy nhiên, những công thức truyền thống quen thuộc của ca dao xưa vẫn in

dấu và làm nên chất dân gian trong những bài ca” [4]

Theo Hà Công Tài trong bài viết “Vấn đề sưu tầm nghiên cứu thơ ca dân gian hiện

đại” đăng trong cuốn “Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian”, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội – 2001, thì mảng ca dao về Bác chưa được nghiên cứu bao nhiêu, dù đây

là bộ phận có khối lượng lớn nhất trong ca dao hiện đại. Khi nghiên cứu về bộ phận này, Hà

Công Tài nhận thấy rằng chúng có nhiều đặc điểm rất tiêu biểu cho ca dao thời hiện đại, từ cách

cảm nhận và phản ánh cuộc sống tới đặc điểm thi pháp, từ hoàn cảnh lưu truyền tới sự gắn bó

với truyền thống ca dao của dân tộc trong suốt trường kỳ lịch sử.

Nhìn chung, ở các công trình nghiên cứu trên, bên cạnh việc bàn về nội dung thì cũng

bàn đến thi pháp của ca dao về Bác, trong đó có một số đặc điểm nghệ thuật như kết cấu, ngôn

ngữ, hình ảnh. Tuy nhiên, vẫn chưa có một chuyên luận nào về đặc điểm nghệ thuật của ca dao

về Bác, nếu có thì có lẽ chúng tôi chưa đọc được. Đa phần, khi bàn về nghệ thuật của mảng ca

dao này, các nhà nghiên cứu nói về sự kế thừa các công thức truyền thống trong kết cấu, các

biện pháp tu từ trong ngôn ngữ và các hình ảnh thiên nhiên đã trở thành biểu tượng. Còn các

đặc điểm nghệ thuật khác thì người nghiên cứu ít chú ý.

Kế thừa thành tựu của người đi trước, chúng tôi phát triển thành một chuyên luận về Đặc

điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ. Chúng tôi hi vọng đề tài sẽ góp thêm một tiếng nói

mới về đặc điểm nghệ thuật của bộ phận ca dao này.

3. Mục đích nghiên cứu

Đây là một đề tài chưa được nghiên cứu chuyên sâu, vì thế, mục đích của việc nghiên

cứu đề tài này là hệ thống một số đặc điểm nghệ thuật chủ yếu để từ đó nhận thức rõ hơn giá trị

của bộ phận ca dao về Bác. Luận văn góp phần cung cấp một cái nhìn đầy đủ hơn về nghệ thuật

của ca dao về Bác ở ba phương diện: thể thơ, kết cấu và ngôn ngữ. Từ đó làm rõ hơn giá trị đặc

sắc của mảng ca dao này, hiểu thêm về thể loại ca dao, hiểu thêm mối tương quan giữa ca dao

về Bác với ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại.

4. Phạm vi nghiên cứu

Chúng tôi khảo sát đề tài dựa trên một số công trình sưu tầm, tuyển chọn ca dao, cụ thể

sau đây:

- Công trình sưu tầm ca dao Nam bộ về Bác Hồ của Bùi Mạnh Nhị mang tên “Sen Tháp

Mười” do Nxb TPHCM xuất bản năm 1980. Với công trình này, tác giả đã sắp xếp ca dao theo

các chủ đề: Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ, Miền Nam ơn Bác muôn vàn Bác ơi, Lòng dân

với Bác vuông tròn thủy chung và phần cuối tác giả còn giới thiệu thêm một số bài ca dao của

các dân tộc ít người với mong muốn giới thiệu sự đa dạng, độc đáo của hệ thống ca dao về Bác

ở nhiều dân tộc trong đại gia đình Tổ quốc Việt Nam. Bộ sưu tập này gồm 145 bài của dân tộc

Kinh và 16 bài của dân tộc ít người ở Nam bộ.

- Công trình “Ca dao về Bác Hồ” của Trần Hữu Thung do Nxb Hà Tĩnh, 1981. Công

trình này bao gồm hai phần. Phần thứ nhất là một vài cảm nhận của tác giả nhân đọc ca dao về

Bác Hồ. Phần thứ hai tác giả giới thiệu các bài ca dao đã sưu tầm được nhưng không sắp xếp

theo một trật tự nhất định nào. Tất cả gồm 227 bài ca dao.

- Công trình sưu tầm “Ca dao về Bác Hồ” của Trần Quang Nhật, Nxb Văn hóa Thông

tin, Hà Nội, 2003. Tập sách gồm hai phần chính: tiểu luận và sưu tầm. Trong phần sưu tầm, để

độc giả tiện tra cứu, tác giả đã sắp xếp các bài ca dao theo chủ đề: Bác Hồ - công ơn trời biển,

Bác Hồ - mối quan hệ máu thịt với quần chúng, Bác Hồ - niềm tin tất thắng của dân tộc, Bác

Hồ - động lực thúc đẩy toàn dân thi đua chiến đấu và sản xuất, Bác Hồ trong lòng đồng bào dân

tộc ít người. Tuy nhiên, tác giả cho rằng cách sắp xếp trên đây chỉ là tương đối, bởi vì các khía

cạnh tình cảm của nhân dân đối với Bác Hồ thường đan chéo với nhau. Trong một bài ca dao

nhiều khi có cả khía cạnh này, và khía cạnh kia, cái này là nguyên nhân, cái kia là sự thể hiện

và ngược lại, khó mà phân định rạch ròi được. Tổng số bài ca dao trong tập này là 253.

- Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo những quyển như: “ Ca dao Bảo Định Giang”, “ Tục

ngữ ca dao Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan, “ Ca dao chống Mỹ -tập 2”, “ Ca dao chiến sĩ -tập

5”,“ Ca dao chiến sĩ -tập 6”, “ Ca dao Đồng Tháp Mười”, “ Ca dao sưu tầm - Từ 1945 đến nay”,

ca dao Nam bộ, ca dao Nam Trung bộ, ca dao dân ca đất Quảng, ca dao Hải Hưng, ca dao ngoại

thành…

Sau khi tổng hợp, loại bỏ những bài trùng lặp, chúng tôi thống kê được tất cả 521 bài. Ở

luận văn này, người viết chỉ khảo sát ca dao về Bác Hồ của người Kinh không khảo sát ca dao

của dân tộc thiểu số.

5. Phương pháp nghiên cứu

Với đề tài này, người viết sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: hệ thống,

so sánh, liên ngành, thống kê.

Mỗi bài ca dao được sản sinh và tồn tại theo hệ thống ca dao cùng thể loại. Do vậy,

phương pháp hệ thống và so sánh được tiến hành dựa trên nguyên lý về mối quan hệ giữa cái

chung và cái riêng, dùng cái chung (ca dao) để hiểu cái riêng (ca dao về Bác) và từ cái riêng (ca

dao về Bác) để hiểu cái chung (ca dao), thấy được sự phong phú đa dạng và hấp dẫn của ca dao.

Đặt ca dao về Bác trong hệ thống của nó để phát hiện ra các đặc điểm chung và nét độc đáo

riêng về nghệ thuật của nó. Cụ thể là đặt ca dao về Bác vào hệ thống ca dao nói chung, hệ thống

ca dao hiện đại nói riêng. Phương pháp này giúp xác định vị trí hay “tọa độ” của ca dao về Bác

trong mối quan hệ với các bộ phận ca dao khác như ca dao cổ truyền, ca dao hiện đại để giúp

đánh giá đầy đủ giá trị và ý nghĩa của bộ phận ca dao về Bác. Những đặc điểm chung của thể

loại chi phối bộ phận ca dao này rất nhiều về mặt nghệ thuật. Từ những đặc điểm nghệ thuật

của thể loại ca dao mà nhận ra được những đặc điểm nghệ thuật phổ biến nhất của bộ phận ca

dao về Bác (chẳng hạn về dung lượng, đề tài, thủ pháp nghệ thuật). Đồng thời bộ phận ca dao

này chắc chắn có những đặc điểm riêng về mặt nghệ thuật. Từ những điểm chung và điểm riêng

đó mà xác định vị trí của nó trong một hệ thống và đánh giá được ý nghĩa của nó trong hệ thống

đó. Ca dao về Bác không tồn tại biệt lập trong nền văn học dân gian nên không thể thiếu

phương pháo so sánh khi nghiên cứu. Người viết sẽ tiếp cận đa diện để hiểu rõ bản chất và vị

trí của bộ phận ca dao này trong mối tương quan đa chiều với các bộ phận ca dao khác. Nhìn từ

nhiều góc độ sẽ giúp đánh giá chính xác và toàn diện về đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác.

Trước hết người viết so sánh đặc điểm nghệ thuật giữa các bài ca dao về Bác với nhau để tìm ra

nét chung tiêu biểu. Sau đó, còn so sánh với ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại về mặt kết cấu,

thể loại và ngôn ngữ.

Phương pháp liên ngành (phương pháp ứng dụng khoa học liên ngành) là một phương

pháp đặc biệt quan trọng. Nhìn chung phương pháp này được diễn ra theo hai hướng song song.

Một là người viết tiếp cận ca dao về Bác bằng những kiến thức ngữ văn học, cụ thể là những lý

luận về phương diện nghệ thuật. Đối với hướng tiếp cận này, người viết sử dụng các phương

pháp phân tích văn học, vận dụng một cách tổng hợp các tri thức và kĩ năng cần thiết của văn

(gồm lý luận văn học, lịch sử văn học, ngôn ngữ học). Đặc biệt, ca dao về Bác là những tác

phẩm nghệ thuật ngôn từ nên phải được tiếp nhận, cảm thụ và “giải mã” thông qua ngôn ngữ

học. Đồng thời tiếp cận tác phẩm trong đời sống dân gian của nó. Hai là người viết tiến hành lí

giải, cắt nghĩa đặc điểm nghệ thuật ca dao về Bác bằng kết quả nghiên cứu của các ngành khoa

học tương cận là dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, lịch sử học, địa lý học, văn hóa

học…Những dữ kiện đó là truyền thống, phong tục, tập quán, những đặc điểm tự nhiên, những

sử kiện lịch sử, …nhất là lịch sử dân tộc trong giai đoạn 1945 – 1975. Từ những đặc điểm tự

nhiên, lịch sử, văn hóa có liên quan đến ca dao về Bác để truy tìm, lí giải căn nguyên, cách thức

và ý nghĩa của thể loại, kết cấu, ngôn ngữ, nêu lên những chức năng tư tưởng và chức năng

nghệ thuật của chúng. Nhưng cuối cùng tất cả sẽ được xử lí theo góc độ tiếp cận của ngành ngữ

văn học, cụ thể là bộ môn Văn học dân gian.

Người viết còn sử dụng phương pháp thống kê để thống kê tần số xuất hiện của các thể

thơ, kết cấu, hình ảnh, từ ngữ. Dựa vào kết quả và những số liệu thống kê đó, người viết có thể

khái quát thành những đặc điểm nghệ thuật cụ thể.

Các phương pháp trên được kết hợp đan xen chứ không phải sắp xếp chúng kế cận nhau,

để giúp khảo sát đặc điểm nghệ thuật ca dao về Bác theo một trình tự khoa học hợp lý và có thể

nhận ra thuộc tính của đối tượng. Bởi vì, ca dao về Bác không phải là một đối tượng biệt lập mà

luôn nằm trong hệ thống ca dao nói chung và có mối quan hệ tương tác với các bộ phận ca dao

khác. Mặt khác, nghệ thuật ca dao về Bác luôn có nhiều khía cạnh, đặc điểm khác nhau mà một

phương pháp không bao quát hết được. Các phương pháp trên sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau.

6. Đóng góp mới của luận văn

Luận văn góp phần đem lại một cái nhìn gần về phương diện nghệ thuật của ca dao về

Bác. Luận văn chỉ ra đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Người ở ba phương diện: đặc điểm thể

loại, kết cấu và ngôn ngữ. Người đọc có thể thấy được những nét đặc sắc, độc đáo về nghệ thuật

cũng như những đóng góp không kém phần quan trọng của bộ phận ca dao này cho thể loại ca

dao, đặc biệt là ca dao hiện đại. Lí giải vì sao bộ phận văn học này lại có sức sống mạnh mẽ

trong lòng quần chúng nhân dân hơn 70 năm qua. Đến nay, bộ phận ca dao này vẫn còn sống

động và giúp chúng ta hiểu thêm, yêu thêm đời sống tâm tư, cách nghĩ, lối sáng tác tài hoa của

nhân dân trong việc ca ngợi người anh hùng.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngòai phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung luận văn có 3 chương:

Chương 1 : Khái quát về ca dao và ca dao về Bác Hồ.

Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một cách chung nhất về khái niệm ca dao; giá trị

nội dung cũng như nghệ thuật của ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại; khái niệm ca dao về Bác

Hồ, nội dung, đối tượng sáng tác, hoàn cảnh sáng tác, số lượng tác phẩm của ca dao về Bác Hồ.

Chương 2 : Thể thơ và kết cấu của ca dao về Bác Hồ.

Đặc điểm thể thơ được triển khai với 3 nội dung: thể lục bát, thể song thất lục bát và thể

hỗn hợp. Đặc điểm kết cấu gồm 3 nội dung: kết cấu đối thoại và kết cấu trần thuật; kết cấu đối

lập và kết cấu song hành tâm lý; kết cấu thu hẹp dần hình tượng và kết cấu miêu tả trực tiếp.

Chương 3 : Ngôn ngữ của ca dao về Bác Hồ

Chúng tôi tiếp tục đề cập đến một số đặc điểm về ngôn ngữ: sự kết hợp giữa ngôn ngữ

toàn dân và ngôn ngữ địa phương; sự kết hợp giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời

thường; cách sử dụng tên riêng chỉ địa điểm; cách sử dụng ngôn ngữ trùng lặp và cách sử dụng

các biện pháp tu từ.

Cuối luận văn có Phụ lục gồm: giới thiệu đầy đủ các văn bản ca dao khảo sát và các bảng

thống kê số liệu có liên quan đến đề tài:

- Phụ lục 1 thống kê tổng số những bài ca dao về Bác Hồ, kết quả tổng số bài ca dao

không trùng lặp là 521 bài.

- Phụ lục 2 là bảng thống kê các số liệu về thể thơ của ca dao về Bác và ca dao hiện đại

- Phụ lục 3 là bảng thống kê tần số xuất hiện của ngôn ngữ trùng lặp trong ca dao về Bác

- Phụ lục 4 là bảng thống kê tần số xuất hiện các hình ảnh: tự nhiên, thực vật và nhân tạo

trong ca dao về Bác.

Chương 1

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CA DAO VÀ CA DAO VỀ BÁC HỒ

1.1. Ca dao

1.1.1. Khái niệm

Trong sinh hoạt văn học dân gian, có một bộ phận quan trọng là sinh hoạt ca hát, trong

đó tiêu biểu nhất là việc diễn xướng ca dao, dân ca. Để chỉ lĩnh vực ca hát dân gian, nhân dân

sử dụng các từ: ca, hò, ví, lý, hát giao duyên, hát đối đáp, hát huê tình…

Ca dao có nguồn gốc từ dân ca và có mối quan hệ chặt chẽ với dân ca. Thế nên trước khi

nêu khái niệm về ca dao, chúng ta cần hiểu dân ca là gì? “Dân ca là những bài hát và câu hát

dân gian trong đó có cả phần lời và phần giai điệu” [ 29, 411]. Khi nói đến dân ca Việt Nam,

không phải là nói đến những bài, những câu hát nhất định, mà còn là nói đến những hình thức

sinh hoạt dân ca nhất định nữa. Hay nói cách khác, đời sống tồn tại của dân ca rất đa dạng và

phong phú. Trước hết, dân ca gắn với các sinh hoạt của người bình dân như: nghi lễ, lao động

và sinh hoạt gia đình, xã hội. Ngoài ra, dân ca còn gắn với nhiều môi trường diễn xướng như:

trên cạn, dưới nước. dân ca gắn với nhiều thời điểm trong năm như: cúng tế, lễ hội, ngày

thường; gắn với mọi giai đoạn của đời người như: sinh ra, trưởng thành, cưới hỏi, tang ma…

Và dĩ nhiên, dân ca tồn tại khắp các vùng miền: Bắc, Trung, Nam, khắp các dân tộc trên đất

nước.

Bàn về khái niệm ca dao, nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra ý kiến của mình. Tuy nhiên, ở

đây chúng tôi chọn những ý kiến tâm đắc nhất.

Chu Xuân Diên nhận định: “Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán -Việt. Theo cách hiểu

thông thường thì ca dao là lời của các bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng

láy…hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể “bẻ” thành những làn điệu dân ca”[29, 436].

Nguyễn Xuân Kính cho rằng: “Ca dao là những sáng tác văn chương được phổ biến

rộng rãi, được lưu truyền qua nhiều thế hệ mang những đặc điểm nhất định và bền vững về mặt

phong cách. Và ca dao đã trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian”[32, 79].

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học thì nhận

định: "dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân

ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi).” [24,26].

Ở mỗi tác giả, tuy cách diễn đạt có khác nhau nhưng cùng thống nhất nhau về quan điểm:

ca dao là tiếng hát tâm tình về cuộc sống của nhân dân lao động, là những sáng tác có vần điệu

được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Như vậy, giữa ca dao và dân ca không có ranh giới rõ rệt. Sự phân biệt giữa ca dao và

dân ca chỉ là ở chỗ khi nói đến ca dao, người ta thường nghĩ đến những lời thơ dân gian, còn

khi nói đến dân ca người ta nghĩ đến cả những làn điệu, những thể thức hát nhất định nữa.

Dựa vào thời điểm xuất hiện, có thể chia ca dao làm hai bộ phận chính: ca dao cổ truyền

và ca dao hiện đại.

Bàn về khái niệm ca dao cổ truyền, Chu Xuân Diên cho rằng: “…đó là bộ phận những

câu hát đã trở thành cổ truyền của nhân dân. Gọi là cổ truyền bởi vì những câu hát này được

phổ biến rộng rãi và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Gọi là cổ truyền, bởi vì những câu hát này

mang những đặc điểm nhất định và bền vững về phong cách…trở thành khuôn mẫu cho việc

sáng tác thơ ca của nhân dân ở các thế hệ sau”[29, 437]

Nguyễn Hằng Phương nhận định: “ ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền) là khái niệm chỉ

riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ của dân ca (không kể tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi)

được sáng tác từ cách mạng tháng Tám trở về trước”[71].

Tóm lại có thể nói: ca dao cổ truyền (hay còn gọi là ca dao cổ, ca dao truyền thống, ca

dao cũ, ca dao xưa) là những bài ca dao sáng tác trước cách mạng tháng Tám, mang những đặc

điểm nhất định trở thành khuôn mẫu cho việc sáng tác ca dao của nhân dân ở các giai đoạn sau.

Về khái niệm ca dao hiện đại, trong Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại, Chu

Xuân Diên cho rằng “Chúng tôi dùng khái niệm văn học dân gian hiện đại hay văn học dân

gian mới để chỉ văn học dân gian thời kỳ từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 trở lại

đây.”[10,34]. Ca dao hiện đại (hay ca dao mới) là một bộ phận của văn học dân gian hiện đại.

Cho nên ca dao hiện đại là loại ca dao xuất hiện từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945.

Bên cạnh đó, chúng tôi xin nhắc lại ba tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại của Nguyễn

Hằng Phương trong “ Một cách nhận diện ca dao hiện đại” để từ đó xác định khái niệm ca dao

hiện đại:

Thứ nhất: ca dao hiện đại là những tác phẩm ca dao mang đặc điểm nghệ thuật dân gian

truyền thống, phù hợp với quan niệm nghệ thuật mới và hiện thực đời sống của nhân dân trong

thời kỳ hiện đại.

Thứ hai: ca dao hiện đại là những tác phẩm ca dao mang tâm lý sáng tác tập thể. Nói

cách khác, đối tượng được phản ánh trong tác phẩm là những hiện tượng đời sống gây tác

động vào một tập thể nhất định chứ không chỉ gây tác động vào từng cá nhân.

Thứ ba: ca dao hiện đại có thể ra đời từ nhiều nguồn: từ những sáng tác mô phỏng của

các tác giả chuyên nghiệp, từ những sáng tác của phong trào văn nghệ nghiệp dư, từ trong sinh

hoạt văn hóa dân gian. Điều quan trọng là, những tác phẩm ca dao hiện đại ấy phải được lưu

truyền rộng rãi trong dân gian bằng phương thức truyền miệng, mang ý nghĩa thẩm mỹ của

tính truyền miệng. [74,4]

Dựa vào tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại như trên của tác giả Nguyễn Hằng Phương và

quan điểm của Chu Xuân Diên trong vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại, chúng tôi

mạnh dạn đưa ra cách hiểu khái niệm ca dao hiện đại. Ca dao hiện đại là những tác phẩm ca

dao ra đời từ sau cách mạng tháng Tám, mang đặc điểm nghệ thuật ca dao truyền thống, phù

hợp với quan niệm nghệ thuật mới và hiện thực đời sống của nhân dân trong thời kỳ hiện đại.

Hay nói cách khác đó là những tác phẩm ca dao mang những đặc điểm nghệ thuật truyền thống

của ca dao cổ truyền được cải biên và những truyền thống nghệ thuật mới được định hình trên

cơ sở tiếp thu những truyền thống nghệ thuật cổ truyền.

Tại sao lại chọn mốc cách mạng tháng Tám để chia ra hai bộ phận ca dao như trên? Theo

người viết, cách mạng tháng Tám thành công đánh dấu một bước phát triển mới của dân tộc.

Đất nước được giải phóng, nhân dân thoát khỏi chế độ phong kiến hơn nghìn năm, giành lại

chính quyền, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó cũng là khoảng thời gian nhân

dân được học hành, được tự do học tiếng mẹ đẻ mà không sợ bị đàn áp. Từ sau cách mạng

tháng tám lực lượng và hình thức sáng tác của ca dao có sự thay đổi. Sau cách mạng, công tác

diệt giặc dốt, bình dân học vụ phát triển làm cho hành chục triệu người dân biết đọc, biết viết

trong thời gian ngắn sau cách mạng cùng với truyền thống yêu thích thi ca vốn có lâu đời của

dân tộc, đã tạo khả năng và điều kiện sáng tác cho nhiều người trong mọi tầng lớp nhân dân.

Phần lớn người sáng tác ca dao sau thời kì này là nông dân, bộ đội. Bên cạnh đó là công nhân,

trí thức, các tầng lớp khác kể cả các em thiếu nhi, các cụ phụ lão, các bà mẹ chiến sĩ, các chị

dân quân du kích, tự vệ… Sáng tác ca dao được truyền miệng hoặc viết thành văn, có hoặc

không có tên tác giả viết trên báo liếp, báo tường, báo tay của bộ đội, của các đoàn thể nhân

dân hoặc in trên báo chí của Trung ương hoặc địa phương trong cả nước. Như vậy, hình thức

sáng tác khác biệt nhất của ca dao hiện đại và ca dao cổ truyền chính là có một số bài ca dao

được sáng tác dưới hình thức là chép lại rồi sau đó mới truyền miệng.

1.1.2. Giá trị nội dung

Ca dao cổ truyền là những sáng tác ca dao ra đời từ cách mạng tháng Tám trở về trước.

Trước cách mạng, đất nước ta chịu sự đô hộ nặng nề của chế độ phong kiến. Trong giai đoạn

đó, ca dao chủ yếu phản ánh tình yêu nam nữ, lên án tố cáo những mặt trái của xã hội cũ, không

có những bài ca ngợi lãnh tụ, người anh hùng. Còn ca dao hiện đại là những sáng tác ra đời sau

cách mạng tháng Tám. Thời kì này, dân tộc ta đã thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến phương

Bắc nhưng lại chịu sự đàn áp của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cho nên, ca dao giai đoạn này

chủ yếu phản ánh cuộc kháng chiến chốnh Pháp, Mỹ của dân tộc và bước đầu tiến lên xây dựng

chủ nghĩa xã hội. Tóm lại, vai trò của ca dao cổ truyền là nhằm giải tỏa nỗi lòng của người bình

dân. Từ đó, những con người lao động hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Đồng thời, qua ca

dao, người bình dân cũng muốn lên án cái xấu, cái ác, đề cao cái tốt, cái thiện. Phải nói rằng,

đến giai đoạn ngày nay, mảng ca dao cổ truyền vẫn còn nguyên giá trị của nó. Ca dao hiện đại

tiếp tục kế thừa và phát huy ca dao cổ truyền nhưng lồng vào đó những nội dung mới phù hợp

với điều kiện và hoàn cảnh mới.

Ca dao cổ truyền phản ánh những sinh hoạt hằng ngày, những tâm tư, tình cảm của nhân

dân lao động bị áp bức bóc lột. Đó là tâm trạng đau khổ, uất ức, thái độ phản kháng của nhân

dân lao động bị đè nặng dưới ách thống trị nặng nề của giai cấp địa chủ và chính quyền phong

kiến: Gánh cực mà đổ lên non / Còng lưng mà chạy cực còn theo sau; Trời sao trời ở không

cân / Kẻ ăn chẳng hết người lần chẳng ra;…

Ca ngợi cảnh đẹp, sản vật của quê hương, đất nước: Đường vô xứ Nghệ quanh quanh /

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ; Đồng Đăng có phố Kì lừa / Có nàng Tô Thị, có chùa

Tam Thanh; Muốn ăn mật rú vọ Trèn / Muốn xơi ốc đực thì lên Thác Đài; Lụa này thật lụa Cổ

Đô / Chính tông lụa cống các cô hay dùng;…

Tình yêu nam nữ là bộ phận phong phú nhất trong ca dao cổ truyền. Ở đây, ca dao đã

phản ánh mọi biểu hiện của tình yêu trong tất cả những chặng đường của nó: giai đoạn gặp gỡ

ướm hỏi nhau: Đến đây mận mới hỏi đào / Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? / Mận hỏi thì

đào xin thưa / Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào; Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng / Tre

non đủ lá đan sàng nên chăng?…giai đoạn gắn bó trao đổi những lời thề nguyền, những tặng

vật cho nhau: Yêu nhau cởi áo cho nhau / Về nhà mẹ hỏi, qua cầu đánh rơi;…giai đoạn hạnh

phúc với những niềm ước mơ, những nỗi nhớ nhung: Ngó em không dám ngó lâu / Ngó qua một

chút đỡ sầu mà thôi;… hoặc sự thất bại, đau khổ với những lời than thở oán trách: Đôi ta là bạn

thong dong / Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng / Bởi chưng thầy mẹ nói ngang / Cho nên

đũa ngọc mâm vàng xa nhau;…

Ca dao cổ truyền còn phản ánh những mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình:

ông bà với con cháu: Ngó lên nuộc lạt mái nhà / Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy

nhiêu;…cha mẹ và con cái: Ân cha nặng lắm con ơi / Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu

mang; Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ

kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con;…vợ chồng: ; Áo vá vai vợ ai không biết / Áo vá

quàng chí quyết vợ anh; Chồng em áo rách em thương / Chồng người áo gấm xông hương mặc

người;...anh em, chị em, họ hàng: Anh em như chân với tay / Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ

đần …Đó là tình cảm gia đình thiêng liêng cao quí: sự mẫu mực của cha mẹ đối với con cái,

lòng hiếu thảo của con cái dành cho ông bà, cha mẹ, anh em yêu thương, hòa thuận giúp đỡ

nhau, tình cảm thủy chung, son sắt của vợ chồng.

Dĩ nhiên ca dao cổ truyền còn nhiều nội dung khác nhưng người viết chỉ nêu vài nội

dung tiêu biểu như trên để làm nền cho việc khảo sát đối tượng chính của luận văn.

Ca dao hiện đại lên án, tố cáo tội ác của giặc Pháp, Mỹ. Những hành động đốt nhà, cướp

của phá hoại mùa màng, giết người, móc mật, ăn gan, được ca dao kể lại với lòng căm thù, uất

hận: Con ơi, mẹ dặn điều này / Mỹ Diệm một bầy giết hại bà con; Chén cơm thuốc độc hãy còn

/ Mối thù Phú Lợi núi mòn không phai… Toàn dân ta không phân biệt già, trẻ, trai, gái; dân tộc

ít người hay nhiều người; miền xuôi hay miền ngược; thành thị hay nông thôn; ở tiền tuyến hay

hậu phương,… ai ai cũng thể hiện lòng nồng nàn yêu nước, căm thù giặc sâu sắc: Thù nhà, thù

nước, thù chung / Chung vai đấu cật một lòng giết Tây; Bao giờ hết cỏ Tháp Mười / Thì dân

Nam mới hết người đánh Tây; Cho dù Mỹ Ngụy trăm tay / Quyết không chia được nước này

làm hai; Cho dù cạn nước Đồng Nai / Nát chùa Thiên Mụ không phai lòng vàng…

Cùng với phong trào chống giặc ngoại xâm, toàn dân ta còn chống giặc đói và giặc dốt.

Ca dao về tăng gia sản xuất cũng như ca dao về Bình dân học vụ trong giai đoạn kháng chiến

chống Pháp rất nhiều.

“Thống kê chưa đầy đủ, tỉ lệ ca dao về tăng gia sản xuất, tiết kiệm chiếm 10,35% và về

bình dân học vụ, học hành, diệt giặc dốt chiếm 10,15 % tổng số ca dao chống Pháp” [9, 28]:

Thu về ngọn cỏ đơm hoa / Người ra mặt trận thì ta ra đồng / Người ra trận đổ máu hồng / Ta

ra cánh đồng ta đổ mồ hôi / Rằng Hồ Chủ tịch bảo ta / Tăng gia sản xuất cũng là đánh Tây;

Chữ không có phấn có hồ / Mà sao khéo điểm khéo tô mặt người…

Sẽ là thiếu sót nếu không nói đến ca dao về thuế nông nghiệp, giảm tô, cải cách ruộng đất

và những hoạt động khác ở hậu phương. Mảng ca dao này có số lượng khá nhiều: Nông dân đã

nói là làm / Đã đi phải đến, đã bàn phải thông / Đã quyết là quyết một lòng / Đã phát là động,

đã vùng là lên / Đã lật, lật dưới lên trên / Đã chuyển là chuyển bốn bên chân trời; Bà con trong

xóm đổi công / Đêm đêm tát nước ngoài đồng vui ghê; Vì ai nên vợ xa chồng / Dân cày xa

ruộng đòn dông xa kèo;…

Một nội dung nữa khá nổi bật của ca dao hiện đại là tình cảm sâu sắc của nhân dân đối

với Đảng và nhất là đối với Bác Hồ. Đây là mảng cao dao chiếm số lượng lớn nhất trong ca dao

hiện đại: Nhớ ngày mồng ba tháng ba / Chính là ngày của Đảng ta ra đời / Đảng ra đời sáng

ngời mọi chỗ / Đảng ra đời lúa trổ nhiều bông; Bác, Đảng lập thành tên nước / Con cháu ta

tiến bước dưới cờ / Ta là con cháu Bác Hồ / Đánh tan Mỹ Ngụy cơ đồ về ta; Cụ Hồ ở giữa lòng

dân / Tuy xa, xa lắm, nhưng gần gần ghê…

Có lẽ bộ đội là người làm nhiều ca dao nhất trong hai cuộc kháng chiến. Họ viết về mình

và trước hết cho mình. Cho nên ca dao là tự tình, tự thuật, tự truyện của họ: Thằng Tây chớ cậy

xác dài / Chúng tao người nhỏ nhưng dai hơn mày; Con đi độc lập con về / Mẹ yên tâm nhé,

con về mẹ vui; Em về lo liệu việc nhà / Để anh yên dạ xông pha trận tiền; Ta đi trăng cũng đi

theo / Đường ta dốc núi đỉnh đèo trăng soi / Bây giờ trăng đã ngủ rồi / Ta đi lòng vẫn sáng

ngời ánh trăng;…

Ca dao hiện đại cũng nói nhiều đến người phụ nữ. Chiến tranh bao giờ cũng là thách thức

đối với con người, nhưng có lẽ đối với phụ nữ, thách thức đó gần như toàn diện và nặng nề

nhất, đặc biệt về mặt tình cảm riêng tư. Tuy nhiên, họ đã vượt qua những thách thức đó bằng

tinh thần làm chủ bản thân mình. Họ không than vãn như ca dao xưa: Con ơi nhớ lấy câu này /

Đầu quân cứu nước sáng ngời chí trai / Hoa thơm nhất có hoa nhài / Người thơm danh nhất là

trai chiến trường; Kề vai gánh vác sơn hà / Sao cho nổi tiếng đàn bà Việt Nam; Em về lo việc

hậu phương / Anh lo giết giặc chiến trường lập công; Anh đi gìn giữ nước non / Tóc xanh em

đợi, lòng son em chờ;…

Nội dung của ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại có những nét tương đồng nhưng cũng

có những nét khác biệt. Tương đồng ở điểm cả hai bộ phận ca dao đều thể hiện tâm tư, tình cảm

của người bình dân: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tình yêu nam nữ, đồng

thời lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên con người. Điểm khác biệt, ca dao hiện đại thể

hiện một số nội dung mới phù hợp với hoàn cảnh xã hội hiện đại như tăng gia sản xuất, bình

dân học vụ, thuế nông nghiệp, giảm tô, cải cách ruộng đất, đặc biệt là tình cảm đối với Đảng và

Bác Hồ. Như vậy, về nội dung, ca dao hiện đại là sự nối kết, phát triển của ca dao cổ truyền chứ

không phải là một bộ phận hoàn toàn tách biệt.

1.1.3. Giá trị nghệ thuật

Ca dao cổ truyền sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, phổ biến vẫn là thể lục bát: Thân em

như tấm lụa đào / Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai;…và song thất lục bát: Lụa làng Trúc vừa

thanh vừa bóng / May áo chàng cùng sóng áo em / Chữ tình cùng với chữ duyên / Xin đừng

thay áo mà quên lời nguyền;… Thể vãn (vãn bốn, vãn năm…) rất đắc dụng trong đồng dao:

Chi chi chành chành / Cái đanh thổi lửa / Con ngựa đứt cương / Ba vương ngũ đế… Ngoài ra,

các dạng biến thể của thể lục bát và song thất lục bát: Yêu em tam tứ núi cũng trèo / Thất bát

sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua; Nghĩ rằng em đã có chồng rồi / Sao em chưa

có đứng ngồi vân vi / Ới thầy mẹ ơi ! cấm đoán em chi ! / Mười lăm, mười tám sao chả cho đi

lấy chồng;…cũng hay được dùng trong ca dao cổ truyền. Mỗi một thể loại đều có những tác

dụng nhất định. Nhưng nhìn chung, tất cả các thể thơ nói trên đều nhằm làm nổi bật nội dung

của văn bản ca dao.

Kết cấu chủ yếu trong ca dao cổ truyền là kết cấu theo lối đối thoại. Hầu hết ca dao về

tình yêu nam nữ là hình thức trao đổi tình cảm giữa nam và nữ. Trai gái ở nông thôn thường

gặp gỡ, tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong những khi cùng nhau lao động, trong

những ngày hội hè, vui xuân. Hình thức thể hiện tập trung của sự giao duyên đó là những cuộc

hát đối đáp nam nữ. Ví dụ:

Đối đáp hai vế :

- Vào vườn hái quả cau non

Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên.

Hai má có hai đồng tiền

Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ưa.

- Anh đà có vợ con chưa

Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào.

Mẹ già anh để nơi nao

Để em tìm vào hầu hạ thay anh.

Đối đáp một vế :

- Hỡi cô cắt cỏ một mình

Cho anh cắt với chung tình làm đôi.

Cô còn cắt nữa hay thôi

Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.

Song song đó là kết cấu trần thuật: Đói lòng ăn hột chà là / Để cơm nuôi mẹ mẹ già yếu

răng;…Bên cạnh đó, ca dao cổ truyền cũng hay sử dụng kết cấu đối lập: Tưởng rằng chị ngã

em nâng / Ai ngờ chị ngã, em bưng miệng cười;… và kết cấu đối ngẫu tâm lý: Lên non mới biết

non cao / Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy;… kết cấu thu hẹp dần hình tượng: Anh đi anh

nhớ quê nhà / Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương / Nhớ ai dãi nắng dầm sương / Nhớ ai

tát nước bên đường hôm nao;…

Ca dao không chỉ bắt gặp những cách nói trau chuốt, mượt mà, ý nhị, đầy chất thơ: Đêm

trăng thanh anh mới hỏi nàng / Tre non đủ lá đan sàn nên chăng? / Đan sàng thiếp cũng xin

vâng / Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng?; Nước chảy liu riu, lục bình trôi líu ríu / Anh thấy

em nhỏ xíu, anh thương…mà còn gặp những lời nói bình dân, đầy tính khẩu ngữ: Gánh cực mà

đổ lên non / Còng lưng mà chạy, cực còn chạy theo; Chồng con là cái nợ nần / Chẳng thà ở vậy

nuôi thân béo mầm; Giàu thì thịt cá cơm canh / Khó thì lưng rau đĩa muối, cúng anh tôi đi lấy

chồng;…

Một số hình ảnh trong ca dao cổ truyền đã trở thành biểu tượng. Các nhà nghiên cứu đã

kết luận “ trong ca dao, người dân lao động Việt Nam đã mượn đời sống con cò để biểu hiện

đời sống của mình” [ 32, 339]. Các hình ảnh thuyền biển, trúc mai, mận đào,…tượng trưng cho

đôi lứa yêu nhau…

Ca dao hiện đại sử dụng nhiều thể thơ khác nhau: lục bát: Bao giờ hết cỏ Tháp Mười /

Thì dân Nam mới hết người đánh Tây…, song thất lục bát: Chiếc khăn xanh viền quanh chỉ đỏ /

Bàn tay nhỏ thêu họ thêu tên / Anh vào nhập ngũ Tây Nguyên / Trao khăn em tặng tình yêu kết

tình… và thể hỗn hợp: Gió đánh cành tre / Gió đập cành tre / Chị ra mặt trận em về tải thương

/ Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Xót tình cá nước thì thương nhau cùng / Gió đánh cành hồng /

Gió đập cành hồng / Chị về gặt lúa nuôi chồng thương binh / Chồng em vì nước hi sinh / Cánh

tay mất nửa, mối tình còn nguyên...

Ca dao hiện đại kế thừa phổ biến các dạng kết cấu của ca dao cổ truyền: kết cấu đối thoại

và trần thuật, kết cấu đối lập và đối ngẫu tâm lý, kết cấu thu hẹp dần hình tượng và miêu tả trực

tiếp.

Kết cấu đối thoại chủ yếu là kết cấu một vế:

Con ơi con ngủ cho say,

Mẹ đi phục kích canh hai mẹ về.

Kết cấu trần thuật chủ yếu thuật lại tội ác của kẻ thù:

Cắc bụp, cắc bụp, xòa,

Ba thằng giặc Pháp bắt gà bắt heo.

Cắc bụp, cắc bụp, xèo,

Ba thằng giặc Pháp bắt heo, bắt gà.

Kết cấu đối lập:

Ban ngày em học trường này,

Ban đêm đến lượt mẹ thầy của em.

Ban ngày nắng rực khăn em,

Ban đêm mát dịu ánh đèn sáng soi.

Đảng đem ánh sánh ban ngày,

Soi lên cuộc sống cả hai: trẻ già.

Kết cấu thu hẹp dần hình tượng:

Cái cò cái vạc cái nông,

Nhặt cỏ ruộng đồng tát nước dùm tao.

Mồ hôi càng đổ tạt rào,

Khoai lúa thu vào càng trội hơn lên.

Tất cả cho Tổng động viên,

Phản công thắng lợi mau yên nước nhà.

Kết cấu đối ngẫu tâm lý:

Bể đông có lúc vơi đầy,

Mối thù đế quốc có ngày nào quên.

Ca dao hiện đại sử dụng nhiều hình ảnh: tự nhiên, thực vật, động vật và nhân tạo. Đặc

biệt, một số hình ảnh nhân tạo trong đời sống sinh hoạt thường nhật như: súng, cờ,

thuyền…xuất hiện với tần số cao. Tuy nhiên phổ biến nhất vẫn là hình ảnh tự nhiên.

Ngôn ngữ ca dao hiện đại có sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa

phương, ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường. Cách kết hợp ấy tạo ra nhiều bài hay,

đẹp, thi vị: Đêm nay bóng núi nghiêng che / Anh canh, em gặt có ông trăng hiền sáng soi; Phá

Tam Giang nối đàng ra Bắc / Đèo Hải Vân hướng mặt vào trong; Trị Thiên đò dệt sang ngang /

Dệt thương, dệt nhớ, dệt đàng núi sông;…

Ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại không chỉ bấy nhiêu giá trị nghệ thuật. Do phạm vi

đề tài, chúng tôi chỉ điểm xuyết vài giá trị cơ bản có liên quan trực tiếp đến đề tài, làm nền cho

việc nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ.

1.2. Ca dao về Bác Hồ

1.2.1. Khái niệm

Ca dao về Bác Hồ là những bài ca dao do nhân dân khắp mọi miền đất nước sáng tác về

Bác từ sau cách mạng tháng Tám. Đây là một bộ phận của ca dao hiện đại. Ở đây, người viết

quan niệm ca dao về Bác là mảng ca dao bao gồm những bài ca trực tiếp bộc lộ tình cảm của

nhân dân đối với Bác: Có ai về chốn quê nhà / Gửi lời chúc thọ Cha già mến yêu; Đếm sao cho

hết vì sao / Kể sao hết được công lao Bác Hồ;… và cả những bài ca gián tiếp nói đến Bác, tức

nói về sự việc khác nhưng có liên hệ tới Bác: Hôm qua anh đến chơi nhà / Thấy mẹ dệt vải thấy

cha đi bừa / Thấy em mải miết xe tơ / Thấy cháu i-tờ ngồi học bi bô / Thì ra vâng lệnh Cụ Hồ /

Cả nhà yêu nước thi đua phen này;…

Qua bộ phận ca dao về Bác, người thưởng thức có thể cảm nhận được lòng kính yêu, lòng

biết ơn, nỗi mong chờ, tình cảm thủy chung, niềm tin son sắt của nhân dân đối với Bác. Bên cạnh

đó, người đọc cũng bắt gặp một số nội dung khác tuy không trực tiếp hướng về Bác nhưng cũng có

liên hệ đến Bác.

Tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ - người lãnh tụ kiệt xuất của Đảng và của dân

tộc, trước hết bắt nguồn từ lòng kính yêu, tự hào và biết ơn sâu sắc về những công lao vô

cùng to lớn của Bác. Công ơn to lớn ấy được nhân dân ta so sánh với những gì thiêng liêng

nhất, kỳ vĩ nhất trong thiên nhiên nhiên vũ trụ: Núi cao là núi Thái Sơn / Ơn cao nghĩa cả là ơn

Cụ Hồ; Đếm sao cho hết vì sao / Kể sao cho hết công lao Bác Hồ; Cụ Hồ ơn đức biết bao / Ơn

dày sánh đất, đức cao sánh trời;…

Nhân dân biết ơn Bác bởi tấm lòng yêu thương mênh mông của Bác dành cho đồng bào.

Bác đã từng nói:“ Tôi có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn

toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng

được học hành” [ 17, 20]. Cùng với lòng biết ơn sâu sắc, nhân dân ta cũng yêu thương Bác vô

vàn, xem Bác như người Cha trong đại gia đình, tự hào vì dân tộc ta có Bác: Tháp Mười đẹp

nhất bông sen / Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ; Cụ Hồ là đuốc sáng soi / Nhắc đến tên Cụ

muôn người yêu thương; Cây quế Thiên Thai mọc trên núi đá / Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa

sơn lâm / Tên Bác Hồ thơm hơn hương quế, hương trầm / Nhìn ra phương Bắc mà thương Bác

Hồ; Dù ai đi đông đi tây / Mỗi năm tháng chín nhớ ngày mồng ba / Dù ai đi gần đi xa / Chớ

quên ngày giỗ Cha già kính yêu;…

Lòng biết ơn lãnh tụ và mối quan hệ gắn bó với lãnh tụ tất nhiên dẫn đến một niềm tin

mãnh liệt vào lãnh tụ. Nhân dân tin tưởng vào sự dẫn dắt, sụ lãnh đạo sáng suốt của Người:

Cụ Hồ yêu nước thương dân / Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù / Giặc Tây, giặc đói, giặc mù /

Cả ba thứ giặc Bác Hồ vượt qua; Sóng thần thì mặc sóng thần / Có Cha bẻ lái, có dân chống

chèo; Dân cày mà có Bác Hồ / Như thuyền có lái, như cờ gió bay;…

Sức khỏe của Bác là mối quan tâm sâu sắc của toàn dân ta. Đó là một lẽ tự nhiên như

chúng ta quan tâm , chăm sóc đến sức khỏe của ông bà, cha mẹ mình. Song, Bác là linh hồn của

dân tộc, là người cầm lái con thuyền dân tộc nên mối quan tâm đến sức khỏe của Bác còn thể

hiện lòng yêu nước của chúng ta. Vì thế, mối quan tâm ấy còn tăng gấp bội: Đường ra Việt Bắc

/ Xa lắc, xa lơ / Ai đi tôi gửi bức thư mấy hàng / Chúc Hồ Chủ tịch anh khang / Lãnh đạo dân

tộc trên đường đấu tranh; Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe, vui tươi / Dắt dìu kháng chiến, giành độc

lập cho người Việt Nam; Chúng con ở bốn phương trời / Quay về hướng Cụ muôn lời chúc

mong / Dài lâu như suối như sông / Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con;…

Kính yêu Bác, mong Bác mạnh khỏe sống lâu, hi vọng có một ngày nào sẽ được gặp

Bác… Đó là tình cảm, nguyện vọng chung của toàn dân ta. Nhưng có lẽ niềm mong mỏi ấy tha

thiết nhất ở đồng bào miền Nam. Nhân dân miền Nam khao khát được gặp Bác trong ngày

thống nhất đất nước: Đêm nằm con thấy chiêm bao / Thấy Hồ Chủ tịch đã vào nơi đây; Ngày

mai giải phóng quê mình / Miền Nam đón Bác thỏa tình ước mong; Mong ngày độc lập Cụ vô /

Thỏa lòng mong đợi, ước mơ đêm ngày; Miền Nam nhớ Bác vô cùng / Mong ngày đón Bác vào

trong Khánh Hòa;…

Như đã nêu trên, ca dao về Bác có những bài trực tiếp nói lên tình cảm của nhân dân đối

với Bác nhưng cũng có những bài nói về sự việc khác, qua đó gián tiếp nói về Bác.

Ca dao về Bác cũng nói nhiều đến anh bộ đội Cụ Hồ. Nhân dân ca ngợi anh bộ đội Cụ Hồ

cũng là ca ngợi Bác: Đồng bào trông thấy hoan hô / Hoan hô anh lính Cụ Hồ ngoan ghê / …Cụ

Hồ dân kính, dân yêu / Nên anh bộ đội dân chiều dân thương; Ai về yên Dưỡng, Hoành Mô /

mà xem quân lính Cụ Hồ sang sông / Đêm ngày mê mải chiến công / Thoáng trông như có cả

chồng em kia; Hôm qua sinh nhật Cụ Hồ / Bộ đội đánh thắng ăn to hai đồn;…

Tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng cũng được đề cập đến trong bộ phận ca dao này.

Tuy nhiên, tình yêu ấy trong ca dao về Bác không thấy có sự cấm đoán của giai cấp thống trị,

không có những quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân” “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” …gây nên

những đau khổ bất hạnh cho đôi lứa mà tình cảm ấy vừa trong sáng, thủy chung, đậm đà vừa

gắn liền với tình yêu lãnh tụ, tình yêu nhân dân: Ai ơi chớ lấy chồng non / Chờ ngày độc lập lấy

“con Cụ Hồ”; Anh đi gìn giữ nước non / Tóc xanh em đợi lòng son em chờ / Anh đi làm lính Cụ

Hồ / Đò xưa, bến cũ đợi chờ đón anh; Cắt tấm lục đào em đề ba chữ/ Chữ trung với Bác, chữ

hiếu với mẹ, chữ nghĩa với anh / Dù xa xôi em vẫn giữ lòng thành / Có Bác chỉ đường dẫn lối

thì hai đứa mình sẽ gặp nhau;…

Cũng như ca dao hiện đại, ca dao về Người cũng thấy xuất hiện nội dung tăng gia sản

xuất. Trong những ngày đầu độc lập, dân tộc ta gặp vô vàn khó khăn. Khó khăn lớn nhất chính

là nạn đói. Vấn đề cấp bách nhất của Chính phủ lâm thời là cứu đói. Ngoài giải pháp nhường

cơm sẻ áo thì tăng gia sản xuất là giải pháp giải quyết vấn đề từ gốc. Bác đã kêu gọi: “Tăng gia

sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó

là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập” (Hồ Chí Minh toàn tập). Cho

nên, ca dao về Bác không thể không đề cập đến vấn đề này: Chúng con quyết chí thi đua / Sản

xuất, tiết kiệm cho vừa lòng Cha; Cụ Hồ đã dạy dân ta / Thi đua sản xuất cũng là đánh Tây;Cụ

dạy chúng ta thi đua để mà đoàn kết / Có đoàn kết rồi mới thiệt thi đua / Anh em nông dân

mình chăm bón làm mùa / Công nhân đúc nhiều súng đạn / Bộ đội đánh mạnh giặc thua chạy

dài; …

Khó khăn thứ hai là nạn dốt. Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã

phát động phong trào bình dân học vụ nhằm xóa nạn mù chữ trong toàn dân. Trong suốt thời

Pháp thuộc, hơn 90% dân Việt Nam mù chữ, đây là một trong các quốc nạn. Chính vì thế, Bác

đã kêu gọi nhân dân "chống nạn mù chữ", “diệt giặc dốt” vì "Một dân tộc dốt là một dân tộc

yếu". Ca dao về Bác xuất hiện hàng loạt các bài cổ động cho phong trào này: Hôm qua anh đến

chơi nhà / Thấy mẹ dệt vải thấy cha đi bừa / Thấy nàng mải miết xe tơ / Thấy cháu "i - tờ" ngồi

học bi bô / Thì ra vâng lệnh Cụ Hồ / Cả nhà yêu nước "thi đua” học hành; Giỏi như đến mức

Cụ Hồ / Người còn phải học huống hồ chúng ta; Không đèn thì lấy ánh trăng / Mực bằng đậu

cút, giấy bằng lồ ô / Quyết tâm học chữ Bác Hồ / Nước nhà độc lập, tự do có ngày;…

Tóm lại, qua ca dao về Bác, người đọc có thể cảm nhận được một bức tranh tình cảm

muôn màu muôn vẻ của toàn dân đối với Bác, đồng thời có thể hình dung ra bức tranh cuộc

sống sinh động của nhân dân trong giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945.

1.2.2. Lực lượng sáng tác

Trong lịch sử văn học nước ta, hiếm thấy một hiện tượng độc đáo nào như thơ ca viết về

Bác. Độc đáo là bởi một dòng sông thơ đã ra đời và chảy mãi từ Một – con – Người – Đẹp. Bởi

vì, “Con người đó đã hóa thân vào dân tộc và thời đại; hơn thế nữa, con người đó đã hòa làm

một với từng người dân Việt Nam, đã sống sâu sắc trong trái tim họ…Con người đó là Chủ tịch

Hồ Chí Minh” [ 35,11]. Vâng, Bác Hồ mãi mãi là nguồn cảm hứng, là đối tượng mà nhân dân

hướng đến để bày tỏ tình cảm của mình. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến một dòng chảy nhỏ,

khiêm tốn nhưng dạt dào tình cảm hòa vào dòng sông lớn của thơ ca viết về Bác Hồ, đó là dòng

ca dao về Bác.

1.2.2.1. Theo vùng miền

Từ Cao-Bắc-Lạng đến mũi Cà Mau, từ Tây Nguyên đến Bình Trị Thiên, đâu cũng có

những câu ca dao về Bác, đâu cũng có lời hát nhắc nhở đến công ơn Người. Từ đỉnh núi cao

của rừng Việt Bắc, chúng ta nghe hát: Em về giã gạo ba giăng / Anh lên múc nước Cao Bằng

về ngâm / Đến ngày mười chín tháng năm / Gói thành đôi bánh đem dâng Bác Hồ. Giữa lòng

Thủ đô Hà Nội, tiếng hát về Bác lại cất lên Một chiều nắng ấm Thủ đô / Vui sao được thấy

Bác Hồ trồng cây. Đồng bào Quảng Bình, Vĩnh Linh, Đông Anh lúc nào cũng đinh ninh lời

dạy của Bác: Ca rằng: dân tuyến Vĩnh Linh / Ghi sâu lời Bác đinh ninh đời này; Bạc màu là đất

Đông Anh / Làm theo lời Bác vẫn xanh ruộng đồng. Người Tây Nguyên muôn đời nhớ ơn Bác:

Rừng Tây Nguyên muôn đời nhớ Bác / Đã khắc tên lên bạc đeo tay; Hòa Bình dốc thẳm non

cao / Có đi tiếp vận mới biết công lao Cụ Hồ; Trường Sơn dậy tiếng Bác Hồ / Đánh cho Mỹ

cút, đánh cho Ngụy nhào; Dù cho biển cạn non mòn / Lòng dân Thuận Hóa vẫn còn trơ trơ /

Vẫn là dân của cụ Hồ / Trọn đời theo mãi ngọn cờ vàng sao.Bình Trị Thiên : Đất Trị Thiên là

đất của Cụ Hồ / Đất cha ông chi thằng Bảo Đại mà kéo Tây qua đóng đồn. Trong kho tàng ca

dao-dân ca Đà Nẵng, hình ảnh Bác Hồ chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Điều đó có được là do tư

tưởng cách mạng của Bác đã gắn với cuộc sống và chiến đấu của người dân Đà Nẵng, gắn với

những biến đổi to lớn diễn ra trên quê hương "Trung dũng kiên cường" và đồng thời gắn với

những biến cố trọng đại, hào hùng của lịch sử dân tộc nói chung và Đà Nẵng nói riêng. Người

Đà Nẵng với Bác trước hết là lòng kính yêu, ngưỡng mộ: Những đêm đại hội quê hương/ Cháu

ngồi nhớ Bác tình thương ngọt ngào / Cháu nhìn vầng trán cao cao / Nhìn đôi mắt Bác như sao

sáng ngời / Bác nhìn cháu nhỏ khắp nơi / Soi gương bóng tối cho đời thắm tươi; Bác Hồ trong

trái tim dân / Tuy xa nghìn dặm nhưng gần gần ghê…và sau đó là niềm tự hào, tin tưởng: Giặc

kia khủng bố lu bù / Lòng dân vẫn một mùa thu Bác Hồ / Tình quân dân, nghĩa đồng bào /

Ngàn câu cổ vũ ghi vào trong tim; Ngày nay được thống nhất sơn hà / Nhìn xem cờ đỏ thật là

vinh quang / Đồng bào ơi, nhớ lời Bác dặn đinh ninh / Quân dân đoàn kết, độc lập, hòa bình

muôn năm;… Bình Định: Nước sông Trà in hình núi Ấn / Dừa Trung Lương soi bóng Lại

Giang / Nhìn lên cờ đỏ sao vàng / Lòng dân ơn Bác muôn vàn Bác ơi. Phú Yên: Từ Vạn Ninh

đến Can Lâm / Lòng dân đồng điệu đồng tâm với Cụ Hồ. Khánh hòa: Gió nào bằng gió Tu

Bông / Sức nào bằng sức nhân dân Cụ Hồ;…

Ca dao miền Nam về Bác là một bộ phận không nhỏ trong dòng chảy của ca dao Bác Hồ.

Công ơn của Đảng, Bác Hồ luôn luôn canh cánh trong lòng mỗi người: Việt Nam chỉ một cơ đồ

/ Miền Nam treo ảnh Bác Hồ trong tim; Miền Nam muôn thuở một lòng / Ngày đêm luôn nhớ

công ơn Bác Hồ. Sống dưới nanh vuốt của kẻ thù, đồng bào càng thấm công ơn này. Đồng bào

miền Nam cũng như đồng bào trên khắp mọi miền đất nước đều bày tỏ nỗi nhớ thương và lòng

biết ơn vô hạn về Người. Nhân dân khắp các tỉnh thành miền Nam đều có ca dao về Người: Bao

giờ thống nhất non sông / Cần Thơ gửi vú sữa kính dâng lên Bác Hồ; Ta là con cháu Bác Hồ /

Nghe tin đồng khởi reo hò đi ngay (Bến Tre), Ai xây, ai đắp, ai bồi / công ơn của Bác chói

ngời Bạc Liêu; Đêm qua nằm ngủ con mơ / Thấy tàu của Bác cập bờ Cà Mau. Đồng Tháp có

một vinh dự lớn là được cụ Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh của Bác Hồ kính yêu chọn làm nơi

hoạt động yêu nước trong những năm tháng cuối đời và yên nghỉ tại đó. Nhân dân ở đây đã thay

mặt cho đồng bào cả nước đưa tiễn Người và hết sức bảo vệ ngôi mộ, chống mọi âm mưu xảo

quyệt của kẻ thù. Phải chăng, trong nỗi niềm khao khát chờ trông ngày thống nhất, người dân

Đồng Tháp Mười còn có mong đợi riêng: Ngày ấy được đón Bác về viếng thăm nơi yên nghỉ

cuối cùng của người cha thân yêu. Và niềm tin ấy bật lên thành lời, thành nỗi trông ngóng:

Trông trời, trông đất, trông mây,

Trông ngày đón Cụ vui vầy Bắc Nam.

Không chỉ nhân dân trong nước mà cả kiều bào ở nước ngoài cũng có ca dao về Bác.

Dù ở xa nhưng lúc nào họ cũng hướng về quê hương, đất tổ, nơi có Cụ Hồ đang dắt dìu kháng

chiến với nhân dân Chúng con ở bốn phương trời / Quay về hướng Cụ muôn đời chúc mong;

Cụ Hồ yêu nước thương nhà / Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù;…Em Nguyễn Ở, một em bé ở

Xa-côn bên Thái Lan đã viết nhân kỉ niệm ngày sinh của Bác: Hôm nay mười chín tháng năm /

Chúng em sung sướng hơn rằm Trung Thu;…

Như vậy, trên đất nước ta đâu đâu cũng có ca dao về Bác Hồ. Nhân dân ở khắp các tỉnh

thành, từng khu vực, miền, vùng đất đều có nhu cầu thổ lộ tình cảm của mình đến Bác. Mỗi địa

phương có một cách biểu hiện tình cảm khác nhau đối với lãnh tụ. Tất cả những khía cạnh tình

cảm ấy đã hòa vào, góp vào làm phong phú hơn cho nội dung mảng ca dao về Bác Hồ nói

chung. Đó là sự kế thừa và tiếp nối truyền thống của ca dao - dân ca trong việc ca ngợi lãnh tụ,

những nhân vật lịch sử vĩ đại mà Bác Hồ là một người như thế.

1.2.2.2. Theo tầng lớp

Tác giả những bài ca dao về Bác không phân biệt tầng lớp, địa vị, ngành nghề. Họ là bộ

đội, dân công, thiếu snh quân, công nhân, nông dân, thầy giáo, học sinh,…

Có lẽ đối tượng làm ca dao về Bác nhiều nhất chính là các anh bộ đội, mà ngày ấy nhân

dân ưu ái, tin yêu gọi là anh bộ đội Cụ Hồ. Các anh sáng tác ca dao về Bác trong mọi hoàn

cảnh: lúc hành quân ra mặt trận, mặc dù “đường xa, súng nặng oằn vai”, “gian nan cơm vắt

muối vừng”, mặc dù phải đi “trăm núi ngàn khe”, “qua mấy dốc mấy đèo”, nhưng vẫn luôn

nghe “lời Bác vang vọng non sông”, luôn “thấy Bác mãi còn dõi theo”, tâm hồn luôn rực sáng

lý tuởng cách mạng cao cả mà Bác và Đảng đã truyền thụ, lại thương “Bác vì đất nước, vì niềm

vui chung” mà “tóc xanh bạc trắng đôi miền” nên anh đã hạ quyết tâm: Dù cho giọt máu cuối

cùng / Con tin vào Bác vững lòng tiến lên / Con thề: diệt sạch xâm lăng / Hai miền Nam Bắc

cùng xanh đất trời; Bác ơi cháu quyết cắm cờ / Lên trên đồn giặc như thơ Bác mừng. Cũng

vậy anh bộ đội ở xa, giữa bốn bề mênh mông sông nước, thiếu thốn mọi thứ, vẫn tâm niệm

những lời giáo huấn của Bác, vững vàng cầm chắc tay súng canh giữ biển trời cho Tổ quốc:

Đảo xa sóng dội bốn bề / Lắng nghe lời Bác vọng về biển khơi.

Tinh thần đó được thể hiện ở người dân công tiếp vận: Ta là con cháu Bác Hồ / Nghe tin

tiếp vận đan bồ đi ngay; Ngày nay vâng lệnh Bác Hồ / dân công “dô hò” bạt núi ta đi / mấy

năm kháng chiến trường kì / Vai gánh càng dẻo, chân đi càng bền . Em thiếu sinh quân nói

riêng với Bác rằng: Cháu là em bé phương xa / Theo anh vệ quốc xa nhà đã lâu / Qua bao vực

thẳm truông dài / Giúp anh vệ quốc diệt loài thực dân. Người công nhân cầu đường thấy rõ

trách nhiệm của mình: Cầu này ta bắc chóng xong / Cho xe chóng chạy, cho lòng Bác vui; Bạt

rừng xẻ núi mở đường / Chở hàng vào tận chiến trường, Bác vui; Cầu đường mạch máu chúng

ta / Giặc mà phá đứt thì ta nối liền… / Tuân theo lời dạy Cha già / Cầu đường giữ vững, dân ta

thắng thù;…

Thấm nhuần lời dạy của Bác “thi đua sản xuất cũng là đánh Tây”, vừa ích nước, vừa lợi

nhà, người nông dân ngày đêm lăn lộn trên đồng ruộng không quản mưa nắng nhọc nhằn,

quyết tâm làm ra nhiều thóc gạo chi viện cho tiền tuyến để bộ đội ăn no đánh thắng: Qua nương

xuống ruộng lên đồi / Ta cuốc, ta xới, ta cười, ta ca / Rằng: Hồ Chủ tịch dạy ta / Tăng gia sản

xuất cũng là đánh Tây;…

Với nhiệm vụ cao cả và thiêng liêng “trăm năm trồng người”, người thầy giáo vẫn thấm

nhuần lời khuyên của Bác trong từng trang giáo án: Chúng con khuya sớm chuyên cần / Nguyện

vì lợi ích trăm năm trồng người / Trống trường báo một ngày vui / Từng trang giáo án thấm lời

Bác khuyên. Noi gương thầy, cảm thụ những lời truyền dạy của thầy, các bạn học sinh cũng

làm ca dao bày tỏ tình cảm của mình đến với Bác: Mái trường ngói đỏ hây hây / Cây cao bóng

cả tình này Bác che;...

Tóm lại, dù là người nông dân hay công nhân, bộ đội hay dân công, học sinh hay thầy

giáo, nhưng ở họ đều có một điểm chung đó là tình yêu thương chân thành dành cho Bác. Họ đã

thổ lộ điều đó bằng ca dao với tất cả tấm lòng của mình.

1.2.2.3.Tuổi tác

Nhân dân ta, ai ai cũng có thể làm ca dao về Bác. Họ không phân biệt tuổi tác, từ cụ già

tóc bạc đến các em nhỏ đều cất lên tiếng nói tình cảm của mình về Bác bằng ca dao.

Đây là ước mơ có ngày được gặp Bác của một cụ già cao tuổi: Ước gì đời sống thêm

năm / Ước gì mắt sáng để trông Bác Hồ / Đêm khuya chợp mắt tôi mơ: / Lúa vàng thêm mát Cụ

Hồ đứng bên. Qua cuộc đối đáp với anh dân công, một ông lão đã cho biết vì sao tuổi đã cao

mà lão vẫn tham gia vào đội dân công. Lão cho rằng con trai đã đi dân công, rồi dâu, cháu cũng

đi nên lão cũng đan vội đôi bồ để đi vận tải coi như đó là chút nghĩa đền đáp với Cụ Hồ: Lão

đan vồi vội đôi bồ / Sắm sanh cái gậy lão dô hò lão đi.

Dù chưa một lần được gặp Bác nhưng những bà mẹ miền Nam vẫn khẳng định một lòng

một dạ đi theo con đường cách mạng mà Bác đã vạch ra: Con ra thưa với Bác Hồ / Đất này chỉ

một lá cờ vàng sao. Ngày giải phóng Sài Gòn, Bác đã đi xa, đồng bào miền Nam không còn

được đón Bác vào thăm cho thỏa lòng âm thầm mong đợi bấy lâu. Nhưng được tự do ngắm

nghía ảnh Bác từ lâu phải cất giấu, nay đột nhiên xuất hiện, đồng bào cũng cảm thấy sung

sướng lắm, tưởng như Bác vẫn còn đó với non sông, đất nước. Một bà má miền Nam đã thay

mặt nhân dân nói lên điều đó: Giữa ngày giải phóng thành đô / Bỗng đâu tấm ảnh Bác Hồ hiện

ra / Lần đầu được gặp Cha già / Muôn ngàn con mắt trẻ già nhìn no / Má rằng: thương tiếc Cụ

Hồ / Hôm nay thấy Cụ, hết lo, hết sầu / Cụ Hồ tài lớn, đức cao / Nghìn năm vẫn sáng như sao

trên trời

Chúng ta hãy nghe mấy lời tâm huyết của người vợ nông thôn nhắn gửi chồng qua bài ca

dao Nghe lời Bác dạy thi đua / Thử xem ai được, ai thua phen này / Chàng đi ra trận đánh Tây

/ Ruộng để em cày, thóc lúa em gieo / Nghèo thì em biết phận nghèo / Nắng sớm mưa chiều, em

chẳng quản công / Sao cho lúa tốt đầy đồng / Bộ đội no lòng yên chí xông pha / Con thơ cùng

với mẹ già / Chàng cứ tin chắc ở nhà có em…

Một anh lính coi kho đã sáng tác ca dao hứa với Bác rằng: Tôi là anh lính coi kho /

Quanh năm chỉ việc cân, đo, giữ hàng / Nhà kho lại ở trong hang / Bốn bề núi thẳm rừng

hoang mịt mù / Chẳng tu mà cũng là tu / Tu sao cho vẹn Bác Hồ khuyên răn: / Nếu không lo

kiệm, lo cần / Khó mà liêm chính, khó mà vô tư / Một mình hang tối âm u / Mà lòng dạ vẫn

sáng như ban ngày…

Và đây là lời của cô gái khi tiễn chàng trai ra trận. Cô không quên khẳng định tấm lòng

son sắt, thủy chung của mình đồng thời đó cũng là tình cảm chân thành đối với Bác Hồ kính

yêu Anh đi gìn giữ nước non / Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ / Anh đi ra lính Cụ Hồ / Khúc

sông, đỉnh núi, con đò tiễn anh.

“Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng”. Đúng vậy! Thiếu nhi Việt Nam

ngoài tình cảm đối với ông bà cha mẹ, anh em, bạn bè cón có thêm một tình cảm rất thiêng

liêng: tình cảm đối với Bác Hồ. Vì sao có tấm lòng yêu mến tha thiết như vậy ở các em? Thông

qua những người xung quanh như ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, chú bộ đội, anhcán bộ…các

em đã thấy Bác là người đã mang lại cơm no áo ấm cho gia đình, đem lại cuộc sống vui tươi,

hạnh phúc cho các em. Nhưng nếu chỉ vậy thôi thì chưa đủ, tình cảm của các em còn gần gũi và

sâu sắc hơn nhiều. Các em không chỉ thấy Bác là một lãnh tụ mà còn thấy Bác là một người

ông, người cha. Các em yêu Bác bởi Bác luôn luôn có một tình cảm tha thiết đối với các em

như Bác đã viết:

Ai yêu các nhi đồng

Bằng Bác Hồ Chí Minh

Trước tấm lòng yêu mến của Bác đối với các em như vậy, chúng ta không ngạc nhiên

chút nào khi thấy các em rất yêu mến Bác. Ca dao về Bác không thể không kể đến đối tượng

thiếu nhi này. Trong những bài ca dao các em sáng tác về Bác, nội dung thường xoay quanh

niềm kính yêu, mong nhớ Bác, mong muốn được gặp Bác. Đây là lời của em Nguyễn Ở, một

em bé ở Xa-côn bên Thái Lan đã sáng tác ca dao về Bác nhân kỉ niệm ngày sinh nhật Bác: Hôm

nay mười chín tháng năm / Chúng em sung sướng hơn rằm Trung thu. Hay đây là lời hứa riêng

của em thiếu sinh quân với Bác: Cháu là em bé phương xa / Theo anh vệ quốc xa nhà đã lâu /

Qua bao vực thẳm truông dài / Giúp anh vệ quốc diệt loài thực dân.

Bài ca dao này nối tiếp bài ca dao khác ra đời để giãi bày, thổ lộ tình cảm của nhân dân

khắp nơi với Bác. “Cuộc đời của Bác đã hòa vào núi sông đất nước. Vì vậy, mỗi hình ảnh của

đất nước, từ sắc nước sông Trà đến hình núi Ấn, từ vẻ ngọt vú sữa Cần Thơ đến hương tràm U

Minh…đều gợi nỗi nhớ thương Người.” [61, 3]

Tóm lại, chính lực lượng sáng tác ca dao về Bác phong phú như thế đã tạo nên những

giọng điệu, sắc thái tình cảm khác nhau của mảng ca dao về Bác. Mỗi cá nhân, địa phương,

vùng miền bằng những cảm nhận rất riêng đã có những cách diễn đạt, thổ lộ khác nhau góp

phần làm phong phú hơn nội dung và nghệ thuật của ca dao về Bác.

1.2.3. Hoàn cảnh sáng tác

Lực lượng sáng tác ca dao Bác Hồ đông đảo như thế nên hoàn cảnh sáng tác cũng phong

phú và đa dạng không kém. Tới đâu cũng đều được nghe, được đọc.

1.2.3.1. Trong chiến đấu

Như đã nói trên, bộ đội là đối tượng sáng tác ca dao về Bác nhiều nhất nên có lẽ hầu hết

ca dao về Bác được sáng tác trong hoàn cảnh chiến đấu. Trong gian khổ, trong chiến đấu, các

anh cảm thấy Bác như vẫn ầm thầm dõi theo bước anh: Gian nan cơm vắt muối vừng / Mà sao

con thấy sáng trưng cuộc đời; Con đi trăm núi, ngàn non / Vẫn trông thấy Bác mãi còn ngó

theo / Con qua mấy dốc, mấy đèo / Còn nghe lời Bác vọng theo ân cần . Anh bộ đội trân trọng

chép thơ Bác vào sổ tay, đem theo trên đường ra trận: Hành quân với cháu hôm nay / Có thơ

của bác chép tay mấy bài / Cháu đi mải miết đường dài / Đọc thơ Bác thấy nhẹ vai, ấm lòng.

Sau khi bắn cháy máy bay địch, anh pháo thủ ngồi ung dung trên mâm pháo ngâm thơ của Bác:

Máy bay giặc Mỹ cháy rồi / Đồng xanh lại thắm, ruộng đồng lại xanh / Niềm vui rộn rã trong

lòng / Ngồi ngâm thơ Bác những dòng kính yêu. Còn đây là ca dao của những người lính đang

đứng giữa chiến hào đánh giặc: Đêm nay đứng giữa chiến hào / Nghe lời Bác gọi dạt dào niềm

tin / Ngày mai giải phóng quê mình / Miền Nam đón Bác thỏa tình ước mơ; Ngắm cho trúng,

bắn cho tinh / Làm quà thắng lợi dâng lên Bác Hồ;...

Trần Hữu Thung trong “Ca dao về Bác”, Nxb Hà Tĩnh, đã kể lại rằng trong một đêm

trăng xuôi dòng sông Lam để đi công tác vào Bình Trị Thiên, ông đã được nghe câu hò trên một

chiếc thuyền vận tải: Thuyền ai xuôi chợ Vực / Thuyền ai ngược Đô Lương / Thuyền anh chở

khách chở phường / Thuyền em chỉ chở công lương cho Cụ Hồ. Và tác giả cho biết thêm ngày

ấy cán bộ bộ đội và dân công cuốc bộ hành quân lấy đêm làm ngày. Phải hàng tháng trời từ

Bình Trị Thiên mới đi thấu ra Việt Bắc. Dân công từ Thanh Nghệ ra Hòa Bình cũng phải đi

hàng chục ngày đêm. Mà cuộc sống dọc đường hành quân mới phong phú làm sao ! Những vần

ca dao, những câu hò cứ thế nở rộ trên đường dài ra tiền tuyến: Ai ra Việt Bắc / Xa lắc xa lơ /

Đường dài ngúc ngoắc / Trục trục trặc trặc / Lòng thành son sắt / Vắn tắt đôi lời / Chúc Cụ Hồ

mạnh khỏe vui tươi / Dắt dìu kháng chiến, giành độc lập cho người Việt Nam. Bằng những câu

ca dao ứng khẩu, hàng vạn dân công đã nói lên khí thế hào hùng của mình. Và cũng bằng

những câu hò ấy, những câu ca dao ấy, họ đã ghi lại tấm lòng kính yêu, tin tưởng đối với Đảng,

với Lãnh tụ: Ta là con cháu Cụ Hồ / Nghe tin tiếp vận đan bồ đi ngay.

Dù con đường đấu tranh đầy cam go, nguy hiểm, khó khăn nhưng các anh bộ đội vẫn

quyết tâm thực hiện lời dạy, lời khuyên của Bác để thống nhất nước nhà: Chiều chiều lại nhớ

chiều chiều / Nhớ câu Bác dạy, nhớ điều Bác khuyên / Nhớ lời vàng ngọc, không quên / Con

đường thống nhất càng bền đấu tranh. Cho nên, trong kháng chiến chống Pháp cũng như chống

Mỹ, các anh không hề nao núng trước mọi vũ khí hiện đại của kẻ địch: Thằng Tây có trăm máy

bay / Không bằng một cái móng tay Cụ Hồ; Bác ơi khẩu súng cầm tay /Dù muôn gian khổ

chẳng lay được lòng / Lòng còn hẹn với muôn lòng / Bắc Nam thống nhất thành công mới về.

Anh hùng Tạ Thị Kiều, trong buổi tọa đàm với những người làm công tác văn học nghệ

thuật miền Bắc, đã kể lại câu chuyện dùng thơ ca quần chúng trong đấu tranh chính trị ở Bến

Tre. Một lần trong cuộc biểu tình kéo vào thị xã , nhân lúc chị em đang ngồi nghỉ bên đường,

bọn lính Ngụy mon men đến gạ gẫm. Chúng nó rủ các chị “làm văn nghệ” cho vui. Các chị ra

điều kiện trước là không được khủng bố. Bọn lính Ngụy bằng lòng và chúng mở đầu châm chọc

các chị:

- Hò ơ… Lấy lính “quốc gia” vàng đeo đầy cổ

Lấy lính cụ Hồ cực khổ muôn năm!

Các chị ứng khẩu đáp lại:

- Hò ơ… Lấy lính “quốc gia” như gông đeo cổ

Lấy lính cụ Hồ rực rỡ muôn năm!

Bị một đòn bất ngờ, bọn lính Ngụy cứng họng, không dám làm gì các chị, đành lờ đi, tìm

đường chuồn mất. Thế đấy, ngay khi biểu tình, nhân dân ta cũng sáng tác ca dao về Người. [75,

67]

Bùi Mạnh Nhị trong “Sen Tháp Mười” cũng cho biết hòan cảnh diễn xướng của ca dao

miền Nam về Hồ Chí Minh vô cùng đặc biệt. Đặc biệt là ở chỗ hoàn cảnh diễn xướng ấy không

phải là cảnh thanh bình mà là cuộc chiến đấu gian lao diễn ra từng giờ, từng phút. Những bài ca

dao về Bác vút lên từ những vùng giặc bình định, từ những chiến hào còn nồng khói bom, thuốc

súng, trở thành sức mạnh tiêu diệt kẻ thù. Có thể nói thời điểm nở rộ ca dao về Người là những

năm tháng miền Nam sống trong thời kỳ đen tối nhất, dưới sự đàn áp khủng bố tàn bạo của Mỹ

Ngụy và những năm tháng cách mạng miền Nam chuyển sang thế tấn công. Trong những thời

điểm nói trên, lúc vui cũng như lúc buồn miền Nam nôn nao hướng về Đảng, về Bác với nhiều

tâm sự. Bài ca dao này tiếp bài ca dao khác ra đời, nén chặt những tâm cảnh, những nỗi lòng,

âm thầm truyền trong trái tim người như một thứ truyền đơn vô hình và đầy tính thuyết phục:

Tội ác Mỹ Diệm tày trời / Kể sao cho hết được / Miền Nam nguyền sau trước / Cùng đoàn kết

một lòng / Theo Đảng Bác tiến bước / Dù cho gian khổ hi sinh / Thù quân Mỹ Diệm đấu tranh

đến cùng; Giôn- xơn, Bốt-lốt, Tay- lo / Hung hăng hổ giấy làm trò gì đâu / Căm thù như lửa

thêm dầu / Nghe lời Bác ta đánh Mỹ dập đầu tan thây; Cho dù san phẳng Trường Sơn / Bác ơi

cháu chỉ sắt son một lòng / Đấu tranh thống nhất non sông / Giấc ngàn thu thỏa ước mong Bác

Hồ;…

1.2.3.2. Trong lao động sản xuất

Ngày mới giành được chính quyền cách mạng cũng là những ngày nhân dân ta phải trải

qua nạn đói khủng khiếp do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây nên. Cho nên, Chính phủ và

Bác Hồ kêu gọi đồng bào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm: “Ngót trăm năm thằng Tây

sang vơ vét hết ghế hết đòn / Việt Nam ta nay độc lập nỏ còn miếng chi”.

Hưởng ứng lời kêu gọi đó, người nông dân trên đồng ruộng, người công nhân trong

xưởng máy thi đua đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Người nông dân nhắc nhở nhau: Nghe lời Bác

dạy thì no / Đừng để đất nghỉ, đừng cho máy ngừng / Đừng để ao cá vắng tăm / Chuồng gà

vắng trứng, buồng tằm vắng tơ. Các chị em và bà con nông dân ở những vùng sát địch thương

Bác lo nghĩ trăm đường nên để có thóc gạo nuôi quân đã phải cấy vội, gặt vội, cất giấu vội, đề

phòng địch cướp phá, khủng bố: Đồng Diên Canh cắt nhanh, giấu vội / Đồng Phú Nội cắt vội,

giấu nhanh / Bớ o, bớ chị, bớ anh / Lúa bên nách giặc ta giành về ta / Chờ ngày triêng nặng

gánh ra / Thuế ta đóng càng già thóc lương / Thương Cha lo nghĩ trăm đường / Việc nhà, việc

nước, chiến trường chưa yên; Nắng về cho lựu nở hoa / Người ra mặt trận thì ta ra đồng /

Người ra trận đổ máu hồng / Ta ra cánh đồng ta đổ mồ hôi / …Rằng Hồ Chủ tịch dạy ta / tăng

gia sản xuất cũng là đánh Tây...

Đối với anh chị em công nhân, Bác chăm lo đủ thứ: Bác Hồ yêu mến thợ thuyền / Bác lo

chăm sóc thường mọi người / Lo ăn, lo mặc, lo chơi / Lo chốn làm việc, lo nơi học hành / Bác

lo chăn ấm, áo lành / Bác dìu dắt thợ đấu tranh từng giờ...Hiểu tình yêu thương đó của Bác, thấm

nhuần lời dạy của Bác, Người công nhân như thấy mình tăng thêm sức mạnh nên càng hối hả tăng

gia sản xuất: Con nghe lời Bác vọng về / Rừng xanh nắng dậy, bốn bề gió reo / Con nghe đỉnh núi

lưng đèo / Tiếng than hối hả, sớm chiều khoan xoay.

1.2.3.3. Trong sinh hoạt

Trong bất cứ hoàn cảnh sinh hoạt nào, nhân dân cũng bày tỏ tình cảm của mình đối với

Bác: trong lớp học bình dân xóa nạn mù chữ, học viên là các ông các bà đã quá nửa đời sống

kiếp nô lệ lần đầu tiên được học chữ Cụ Hồ cũng có ca dao về Bác: Trường đây không ghế

không bàn / Chung dầu chung bấc chung đèn / Chung lòng thực hiện lời khuyên Bác Hồ; trong

phong trào trồng cây xanh: Một cây bạch đàn / Hai cây bạch đàn / Bác ơi quê cháu cả làng

trồng cây; lúc cả nhà thi đua kháng chiến kiến quốc: Hôm qua anh đến chơi nhà / Thấy mẹ dệt

vải, thấy cha đi bừa / Thấy nàng mải miết xe tơ / Thấy cháu i-tờ ngồi học bi bô / Thì ra vâng

lệnh Bác Hồ / Cả nhà yêu nước thi đua phen này; lúc khuyên bảo nhau sống sao cho xứng đáng

với lời dạy của Bác Hồ: Em ơi cố gắng thi đua / Đoạt giải Cụ Hồ mới thật là ngoan; Cụ Hồ

rông lượng anh ơi / Đừng theo giặc nữa kẻo đời nhuốc nhơ...lúc về thăm quê Bác: Bác ơi, nhà

Bác cũng nghèo / Quê hương Bác cũng như nhiều quê hương; Chõng tre Bác ngủ còn đây /

Ngọt lành nước lọc vẫn đầy chum xưa;...

Ngày 2-9-1969, Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta. Bác mất là một tổn thất lớn lao nhưng tên

tuổi và sự nghiệp của Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp của dân tộc. Trong dịp tang Bác, biết

bao bài ca thấm thía, xúc động lòng người: Bạc phơ mái tóc phong trần / Quên mình chỉ nghĩ

nhân dân đồng bào / Bác đi xa mãi rồi sao / Nghĩa sâu ơn cả thấm vào chúng con; Nhất xanh

là bạch đàn chanh / Bác đi để lại hương lành cho con / Nhất xanh là tán đa tròn / Bác đi để

bóng mát trùm nghìn sau / Nhất thẳng là ngọn phi lao / Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ;...

Tóm lại, ca dao về Bác ra đời trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Điều đó vừa phản ánh

hoàn cảnh sáng tác, môi trường diễn xướng của ca dao nói chung, ca dao về Bác nói riêng rất đa

dạng và sinh động vừa giúp người đọc hình dung được cuộc sống sinh hoạt, lao động, chiến

đấu của nhân dân trong giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc. Đồng thời, qua đây, chúng

tôi thấy có mối quan hệ giữa hoàn cảnh sáng tác và đối tượng sáng tác. Mỗi một môi trường,

một lĩnh vực có một số đối tượng nhất định. Hoàn cảnh càng phong phú thì đối tượng sáng

cũng phong phú không kém.

1.2.4. Số lượng

Dựa trên những tài liệu sưu tầm và giới thiệu mà chúng tôi đã nêu trong phần phạm vi

khảo sát, qua thống kê, loại bỏ những bài trùng lặp, chúng tôi thấy số lượng ca dao về Bác khá

phong phú, khoảng 521 bài, 59 dị bản. Tuy nhiên, theo người viết, đó chưa phải là con số cuối

cùng vì trong quá trình lưu truyền ca dao về Bác ít nhiều đã bị thất lạc và trong khả năng giới

hạn của mình, người viết vẫn chưa khảo sát hết được. Như lời của một nhà nghiên cứu cho rằng

“Ca dao về Bác như lá xanh trên rừng khó mà đếm hết và chính xác được. Đồng thời con số ấy

cũng cho thấy ca dao viết về Bác là một hiện tượng vô cùng độc đáo” [82, 7]. Sau khi thống kê

số lượng, chúng tôi đã tiến hành sắp xếp chúng theo thứ tự A,B,C. Những bài nào có dị bản,

chúng tôi chỉ xem như có một bài. Ví dụ:

1. Con ra thưa với Bác Hồ,

Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao.

Con ra thưa với Bác Hồ,

Đất này chỉ một lá cờ vàng sao.

2. Chúng con ở bốn phương trời

Quay về hướng Cụ muôn lời chúc mong

Dài lâu như núi như sông

Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con.

Chúng con ở bốn phương trời

Quay về hướng Bác muôn lời chúc mong

Dài lâu như núi như sông

Bác Hồ sống mãi trong lòng chúng con.

Một điều đặc biệt mà chúng tôi cũng xin được nói thêm. Ấy là trong rừng ca dao bao la

xanh tốt về Bác Hồ cũng thấy có nhiều tác giả kí tên. Tuy nhiên, những câu ca dao văn học đó

nhanh chóng được dân gian hóa bởi trước hết là do ngôn ngữ câu ca dao gần với tiếng nói của

nhân dân. Sau nữa là dù tác giả có là ai đi nữa Nguyên Hồ, Huyền Tâm, Bảo Định Giang, Minh

Hiệu...thì những bài ca sáng tác về Bác của các đồng chí, các anh chị dường như không còn

thấy bản sắc riêng của một ai cả. Tất cả đã hòa làm một và cùng mang cái tên chung là ca dao

của nhân dân về Hồ Chủ tịch. Mọi người đều thấy như của riêng mình và cũng đều thấy như

của chung tất cả [82,28].

Chẳng hạn bài cao dao sau:

Tháp Mười đẹp nhất bông sen,

Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.

Có thể nói đây là một trong những bài ca dao hay nhất trong toàn bộ ca dao về Bác Hồ.

Nhưng đến nay, có lẽ vẫn còn một số người không biết rằng ấy là của Bảo Định Giang.

Như đã nói trên , đã có cả một hệ thống ca dao lịch sử ghi lại tên tuổi, sự nghiệp, chiến

công của những con người như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang

Trung…Tuy nhiên, chỉ với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta mới sáng tác một lượng ca dao

ca ngợi nhiều đến thế, sâu đậm tình nghĩa đến thế. Ca dao ca ngợi các anh hùng dân tộc chủ yếu

nảy sinh từ quê hương và địa bàn hoạt động của họ rồi dần dần lan truyền sang các địa phương

khác nhưng ca dao về Bác lại khác: nó nở rộ khắp nơi. Trong “Cảm nhận nhân đọc ca dao về

Bác Hồ”, Trần Hữu Thung có viết : “Ca dao về Bác Hồ đúng là một hiện tượng đặc biệt của

dân tộc Việt Nam cũng đặc biệt như chúng ta có Bác, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc:

Hòa bình độc lập tự do

Nghìn năm ơn đức Cụ Hồ không quên.”

[82, 17]

Nguyễn Hằng Phương khi khảo sát các lời ca dao in trong cuốn ca dao Việt Nam 1945-

1975 đã phát hiện một điều thú vị. Đó là trong số 745 lời ca dao có 93 lời viết về đề tài Hồ Chủ

tịch ( chiếm tương đương 13%). Từ kết quả khảo sát ấy, tác giả cũng nhận xét rằng số lời ca

dao trực tiếp nhắc đến Hồ Chủ tịch chiếm một số lượng đáng kể. Điều đó nói lên sức hút mạnh

mẽ của đề tài Hồ Chủ tịch đối với chủ thể sáng tạo-tác giả dân gian. Vấn đề nảy sinh ở đây là :

tại sao đề tài Hồ Chủ tịch lại lôi cuốn đến như vậy? Và tác giả cũng cho rằng đó là do cảm hứng

sáng tạo của tác giả dân gian được khơi nguồn từ hiện thực cuộc sống mà đề tài Hồ Chủ tịch là

một “loại” hiện thực chân thực của giai đoạn lịch sử sinh động 1945-1975. Ở đây người viết

cũng hoàn toàn nhất trí với cách giải thích của tác giả bởi trong quá trình khảo sát mảng ca dao

về Bác, chúng tôi cũng đã nhận thấy điều đó. Chúng tôi xin dẫn vài ví dụ: trong 521 bài ca dao

về Bác có nhiều bài phản ánh chân thực giai đoạn lịch sử 1945-1975- một giai đoạn lịch sử vừa

đấu tranh vừa xây dựng đất nước và hình tượng Hồ Chủ tịch nổi lên như một mảng hiện thực

sinh động: Bác Hồ tranh đấu vì dân / Đã bao gian khổ phong trần vượt qua; Bác luôn chăm sóc

đến dân / Nhất là nông nghiệp ân cần hỏi han…

Nhưng dĩ nhiên làm sao chúng ta được đọc hết và nghe hết những bài báo tường, những

bản tin, những bài ca báng súng. Càng không thể nào nghe và ghi hết được những câu hát lên,

hò lên khắp các nẻo đường đất nước suốt hàng chục năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân

Pháp, đế quốc Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngay cả những người đã từng sưu tầm ca dao

về Bác như Trần Hữu Thung, Trần Quang Nhật cũng có nói như thế. Trần Hữu Thung cho biết

ngày ấy được nghe tiếng hò giữa đoàn dân công trên đường ra mặt trận ông cũng có phần coi

nhẹ. Mà nếu có gặp câu hay thì cũng làm sao mà ghi được trong đêm tối đường rừng? Ngày ấy,

được đọc trên báo tường của các đơn vị vệ quốc khi hành quân ghé nghỉ, ông cũng chưa có ý

thức nhặt lấy những câu hay. Giấy bút đâu mà chép cho xuể? …

Tóm lại, với số lượng 521 bài, ca dao về Bác là bộ phận chiếm số lượng tương đối lớn

trong ca dao hiện đại. Đồng thời, con số ấy cũng cho thấy truyền thống nhớ ơn của dân tộc là

truyền thống tốt đẹp xuyên suốt qua bao thế hệ, từ quá khứ đến hiện tại và chắc chắn sẽ còn tiếp

diễn trong tương lai.

Chương 2

THỂ THƠ VÀ KẾT CẤU CỦA CA DAO VỀ BÁC HỒ

Mảng ca dao về Bác tồn tại vững bền trong lòng dân tộc Việt Nam không chỉ ở mặt nội

dung mà còn nhờ vào hình thức nghệ thuật vô cùng đa dạng, phong phú và đặc sắc. Khi tiếp cận

ca dao về Bác, người viết nhận thấy bộ phận ca dao này vừa kế thừa vừa phát huy những yếu tố

nghệ thuật truyền thống của ca dao cổ truyền. Trước hết là ở thể thơ và kết cấu.

2.1. Thể thơ

Khảo sát ca dao về Bác Hồ, chúng tôi nhận thấy mảng ca dao này đã kế thừa hầu hết các

thể thơ của ca dao cổ truyền như lục bát, song thất lục bát và hỗn hợp. Chúng tôi đã tiến hành

thống kê tần số xuất hiện của các thể thơ, sắp xếp theo thứ tự giảm dần. Kết quả thể lục bát chiếm số

lượng nhiều nhất 427 bài, các thể song thất lục bát và thể tự do xuất hiện ít nhất rải rác từ 10 đến 35

bài.

Bảng thống kê tần số xuất hiện các thể thơ trong ca dao về Bác

STT Các thể thơ Số lần xuất hiện Tỉ lệ

Chính thể 386 74.1% 1 Lục bát Biến thể 41 7.9%

Chính thể 14 2.7% Song thất lục 2 bát Biến thể 21 4.0 %

3 Hỗn hợp 49 9.4%

4 Tự do 10 1.9%

TC 521 100%

2.1.1. Thể lục bát

Lục bát là thể thơ khá phổ biến trong ca dao về Bác nói riêng và ca dao Việt Nam nói

chung. Trong quá trình khảo sát mảng ca dao về Bác, chúng tôi thấy xuất hiện cả lục bát chính

thể và biến thể.

2.1.1.1. Lục bát chính thể

Nguyễn Xuân Đức đã đúc kết ý kiến của các nhà khoa học về đặc điểm chính của thể thơ

lục bát người Việt như sau: đơn vị hạt nhân của thể lục bát là 2 dòng (trên sáu, dưới tám); luật

bằng (B), trắc (T) trong cả hai dòng lục và bát vần bằng (có cả lục bát vần trắc nhưng số lượng

không đáng kể) phải đảm bảo 2B, 4T, 6B và 8B, như thế cũng có nghĩa là lục bát hiệp vần bằng

ở tiếng thứ 6 cả hai dòng; tiếng thứ 6 và 8 ở dòng bát tuy đều cùng vần bằng nhưng phải khác

thanh: hoặc là huyền- ngang, hoặc ngang- huyền (không có h-h, n-n); phần lớn lục bát ngắt

nhịp chẵn [ 21,1].

Trong số 427 bài làm theo thể lục bát, có đến 386 bài là lục bát chính thể, chiếm 74,1 %.

Tại sao đa số các lời ca dao về Bác lại được sáng tác theo thể lục bát? Ca dao về Bác đã kết

thừa trọn vẹn thể thơ này của ca dao cổ truyền. Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng thể thơ lục

bát trong ca dao cổ truyền chiếm hơn 90 %. Các nhà nghiên cứu ấy cũng đã đưa ra nhiều lí do

giải thích hiện tượng trên và đó cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự chiếm lĩnh ưu thế của

thể thơ này trong mảng ca dao về Bác.

Nguyễn Xuân Kính trong chuyên luận Thi pháp ca dao, xuất bản năm 1992 đến lần tái

bản gần đây nhất, năm 2004 cho rằng nhịp thơ lục bát uyển chuyển vô cùng kết hợp với cách

gieo vần khéo léo nên có khả năng diễn đạt được nhiều sắc thái tình cảm khác nhau của con

người, thể hiện các nội dung hết sức đa dạng của hiện thực. Với trường hợp ca dao về Bác,

người viết hoàn toàn tán đồng cách lí giải đó của tác giả. Bởi nhờ hình thức kết hợp đó mà

người đọc có thể cảm nhận được phong phú, đa dạng các sắc thái tình cảm mà nhân dân đối với

Bác.

Đó là nỗi nhớ nhung da diết, khát khao mong mỏi được gặp Bác. Niềm ao ước ấy đã bật

thốt lên thành lời Đêm qua nằm ngủ con mơ / Thấy tàu của Bác cập bờ cà Mau; Miền Nam

thương nhớ trông ra / Mong ngày chung hát bài ca: Bác về; Trông trời, trông đất, trông mây /

Trông ngày đón Cụ sum vầy Bắc Nam;…

Đó là cảm xúc vui mừng khi được gặp Bác. Được gặp Bác, được Bác về thăm là một

niềm vui sướng lớn của cuộc đời bởi vì được sống bên Bác dù chỉ trong một thời gian ngắn, ai

cũng cảm thấy ấm áp, yên lòng và như được tiếp thêm sức mạnh: Trông Cha biết mấy năm trời

/ Cha về là cả cuộc đời nở hoa; Bác về sung sướng biết bao / Tầng trên, tầng dưới, tầng nào

cũng vui / Vui vì được gặp mặt Người / Được trông thấy rõ nụ cười, nước da / Vui vì thấy Bác

đã già / Nhưng còn khỏe mạnh như là công nhân;Đời tôi được gặp Cha già / Như con được mẹ

mang quà về cho / Như cá gặp nước sông to / Như thuyền gặp được bến đò thân yêu;… Niềm

sung sướng của mọi người như òa vỡ, tràn trề vì niềm mong mỏi được một lần gặp Bác bấy lâu

nay đã thành sự thật. Chỉ cần trông thấy khuôn mặt, thấy nụ cười và nước da của Bác đã là vui,

là hạnh phúc. Càng hạnh phúc hơn khi thấy Người tuy già nhưng vẫn khỏe mạnh, dẻo dai.

Đó là tình cảm nhớ ơn thắm thiết mà nhân dân luôn hướng về Người, dành cho Người .

Nhân dân ơn Bác vì Bác đã mang đến cho họ cuộc sống ấm no, mang đến cái ăn, cái mặc, cái

chữ Cụ Hồ hơn mẹ, hơn cha / Ơn cao nghĩa cả gấp ba bốn lần; Đố ai lên được trời cao / Đố ai

đáp được công lao Bác Hồ; Đố ai múc hết nước sông / Đố ai chép hết được công Bác Hồ;

Ngày xưa, ngày xửa ngày xưa / Chữ nhất chẳng biết, chẳng ưa chữ nào / Chữ nào cũng đã

ngồi cao / Chữ ở quan lớn, chữ vào triều vua / Nặng tiền muốn chữ thì mua / Khố rách chỉ có

chút chua thôi mà / Từ ngày có cả sơn hà / Bác Hồ cho chữ đượm đà hương sen;…Ơn cha mẹ

đã cao, ơn Bác còn cao gấp ba bốn lần. Ơn ấy chẳng ai đo được, trả được, đếm được, kể được

hay chép hết được. Cho nên, nhân dân mãi mãi ghi sâu công ơn này Trăm năm bia đá thì mòn /

Ngàn năm ơn Bác vẫn còn ghi sâu; Trọn đời em cũng chẳng quên / Có Đảng, có Bác, em nên

thân người / Sao còn có lúc đổi ngôi / Ơn Đảng, ơn Bác đời đời ghi sâu;…

Rõ ràng, nhịp điệu uyển chuyển (dòng lục: 2/2/2, dòng bát: 2/2/2/2/) cùng với sự xen kẽ

của vần lưng và vần chân, vần bằng và vần trắc làm cho các câu thơ quấn quýt lấy nhau, câu nọ

kéo theo câu kia một cách liên tục như không thể cưỡng lại được. Và nội dung cứ thế mà tuôn

trào.

Và Nguyễn Xuân Kính cũng cho rằng vì sự không gò bó, không hạn chế về độ dài ngắn

của tác phẩm ( số lượng cặp lục bát tùy thuộc vào tác giả) nên thể thơ này đã diễn đạt được

phong phú các cảm xúc, thể hiện được đa dạng các nội dung. Trước cách mạng tháng Tám,

Nguyễn Đình Thi đã nhận xét về đặc điểm này như sau:“Dùng một hình ảnh, ta có thể ví lối thơ

Đường luật như một chiếc bình pha lê kết tinh trong suốt nhưng không đủ sức lôi cuốn của một

dòng sông. Thơ lục bát trái lại, vì hợp với tiếng nói nước ta hơn nên có thể dung được cảm

hứng tràn lan, đó là thể thơ ca hát, kể chuyện của dân chúng”[ 32, 219]. Đúng! Chính do khả

năng dung được nguồn cảm hứng tràn lan nên thể thơ này đã trở thành thể tiêu biểu nhất trong

ca dao Việt Nam nói chung và mảng ca dao về Bác nói riêng. Tìm hiểu một số ví dụ sau, ta dễ

dàng nhận ra điều đó.

Ví dụ 1: Ai ngoài muôn dặm trùng dương / Cùng thường nhận được tình thương Cụ Hồ;

Ai ơi đừng lấy chồng non / Chờ ngày độc lập lấy con Cụ Hồ; Anh là chiến sĩ Cụ Hồ / Đánh cho

Mỹ cút, cơ đồ mới êm;…Mỗi bài ca dao trên chỉ gồm hai dòng thơ và thường thể hiện một nội

dung. Như vậy, với số dòng ngắn gọn như thế thì ca dao chỉ có thể truyền tải nội dung một cách

cô đọng, súc tích và có giới hạn.

Ví dụ 2: Bác về năm ngoái năm xưa / Năm nay đất mỏ được mùa hoa than / Còi reo máy

hát trên tầng / Ước gì lại đúng mùa xuân Bác về. Với bốn dòng thơ, bài ca trên lại bao quát đến

hai nội dung: nhắc lại kỉ niệm năm nào Bác về thăm khu mỏ của công nhân; ước sao năm nay

Bác lại về đúng vào dịp mùa xuân, mùa “ hoa than” của vùng mỏ để giới công nhân có dịp dâng

lên Bác những thành quả mà cả đội đã gắng công, gắng sức thực hiện theo lời dạy “ tăng gia sản

xuất” của Bác trong suốt thời gian qua. Số lượng dòng thơ tăng cho phép tác giả dân gian của

bài ca dao trên diễn đạt được đầy đủ và phong phú các nội dung nêu trên.

Ví dụ 3: Ai về nhớ ghé Bạc Liêu / Ăn chùm nhãn ngọt chín riu mật vàng / Rồi xuôi xuống

chợ Cây Bàng / Đi thăm bãi cát trải vàng biển khơi / Ai xây, ai đắp, ai bồi / Công ơn của Bác

chói ngời Bạc Liêu. Bài ca dao vừa là lời mời gọi mọi người hãy đến thăm Bạc Liêu vừa là lời

ngợi ca công đức Bác Hồ. Bạc Liêu vừa có sản vật “ nhãn ngọt” đậm đà khó quên, vừa có

phong cảnh hữu tình “ bãi biển cát vàng” níu chân. Để rồi, nhân dân Bạc Liêu ai cũng như ai

đều khẳng định có được cuộc sống no đủ, tươi đẹp như thế là nhờ công ơn Cụ Hồ. Phải chăng

với sáu dòng thơ như trên thì người dân Bạc Liêu mới thổ lộ hết những tâm tình của lòng mình?

Ví dụ 4: Từ ngày giải phóng quê tôi / Mít- tinh lại họp, rợp trời cờ bay / Trẻ em đi học

ban ngày / Nhân dân đi cấy, đi cày mừng vui / Thuyền bè xuôi ngược, ngược xuôi / Có chè Phú

Thọ có sồi Bắc Ninh / Cây đa bóng mát đầu đình / Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng / Từ

nay mặc sức vun trồng / Nước giàu dân mạnh, vợ chồng ấm no / Hòa bình, độc lập, tự do /

Nghìn năm ơn đức Cụ Hồ không quên. Đến ví dụ này thì rõ ràng, chúng tôi hoàn toàn đồng tình

với ý kiến cho rằng sự không hạn chế về độ dài ngắn của tác phẩm đã giúp thể thơ lục bát diễn

đạt được phong phú các cảm xúc, đa dạng các nội dung. Bài ca dao gồm mười hai dòng miêu tả

niềm vui sướng khôn tả của nhân dân vùng mới được giải phóng. Tác giả dân gian đã khéo léo

lột tả hết được niềm sung sướng của mọi tầng lớp nhân dân: trẻ em không phải len lén học cái

chữ vào ban đêm mà nay hớn hở, tung tăng đến trường giữa ban ngày; nông dân mừng vui đi

cày, đi cấy trong tự do, làm chủ; thương lái nô nức ngược xuôi, xuôi ngược trao đổi, buôn bán.

Một không khí thanh bình, yên ả khắp xóm thôn: đa che bóng mát, lúa xanh ngoài đồng. Từ đó,

ai ai cũng hăng hái vun trồng, tăng gia sản xuất để được cuộc sống ấm no, dân giàu nước mạnh.

Niềm vui sướng ấy cứ lan tỏa từ câu nọ kéo sang câu kia như không muốn dứt. Để rồi cuối

cùng, nhân dân nhắc nhở nhau nghìn năm công đức Cụ Hồ không được quên bởi chính Người

đã mang đến cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, mang đến niềm vui cho mọi người.

Về hiện tượng gieo vần ở tiếng thứ tư của câu bát: ca dao về Bác cũng như ca dao cổ

truyền vẫn xuất hiện hiện tượng gieo vần này. Dĩ nhiên hiện tượng này là không nhiều. Nhưng

điều đó cũng đồng nghĩa ca dao cũ có những hình thức nào thì ca dao mới mà ca dao về Bác là

đại diện cũng xuất hiện những hình thức đó. Chẳng hạn: Ai về nhắn bạn đường xa / Nón đẹp

tỉnh nhà là nón Tam Dương / Kim Thành trồng mía làm đường / Đũi dẹt Cát Tường vừa ý

nhiều cô / Ai lên thưa với Bác Hồ / Quê em nghề phụ bốn mùa vui tươi; Cắn tay cho vọt máu

hồng / Vẽ đóa hoa hồng lên vách hầm gai / Nếu ta về với cỏ cây / Đất giữ hoa này dâng tặng

Cha ta;…. Ca dao hiện đại : Cô kia cấy lúa bên cồn / Tai nghe tiếng đồn, chữ nghĩa nhấp

nhem; Chùm gởi là gởi thân dâu / Dâu héo lá sầu dâu cũng héo theo;…

Trong công trình nghiên cứu về âm nhạc và dân gian “Bàn về lục bát và ca khúc Việt

Nam”, nhạc sĩ Phạm Quang Tuấn cho rằng nhịp lục bát rất đều đặn. Tuy nhiên, chính sự đều

đặn ấy lại làm cho thể thơ này trở nên đơn điệu, tẻ nhạt. “Nếu phải nghe cái nhịp đều đều này

mấy ngàn lần liên tiếp trong một tác phẩm lục bát dài thì quả là cực hình” [21,2]. Chúng tôi

không tán thành ý kiến đó của nhạc sĩ. Bởi chúng tôi nghĩ dường như tác giả chỉ nghiên cứu lục

bát như một thể thơ thuộc nghệ thuật ngôn từ thuần túy, tách khỏi nguồn gốc sinh thành của nó

là dân ca. Nhưng nếu Phạm Quang Tuấn hay một vài người khác có cho rằng thể lục bát có

phần đơn điệu, tẻ nhạt thì chính việc thay đổi vị trí hiệp vần trong ca dao lục bát sẽ mang đến

một trạng thái mới tránh được sự đơn điệu, tẻ nhạt ấy.

Ngoài ra, chính sự không gò bó, không hạn chế về độ dài ngắn của tác phẩm đã mang đến

cho ca dao về Bác một đặc điểm mà trong quá trình khảo sát người viết đã nhận thấy: đó là số bài

ca dao gồm hai dòng thơ ( một cặp lục bát) chiếm số lượng khá ít mà thường là nhiều hơn hai dòng.

Tiến hành thống kê tần số xuất hiện của các dòng thơ, chúng tôi thu được kết quả như sau.

Bảng thống kê tần số xuất hiện các dòng thơ trong các bài ca dao theo thể lục bát của ca

dao về Bác

Số bài Hai dòng Bốn dòng Sáu dòng Tám dòng Mười dòng Mười hai dòng trở lên TC Số lượng 79 113 76 40 35 43 386 Tỉ lệ 20.5% 29.3 % 19.7 % 10.3 % 9.1 % 11.1 % 100%

Nguyễn Xuân Kính đã thống kê trong số 973 bài ca dao theo thể lục bát trong cuốn Ca

dao Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, tần số xuất hiện các dòng thơ như sau:

Số lượng 620 242 70 21 12 8 973 Tỉ lệ 63 % 24 % 7 % 2 % 1 % ~ 1% 100 %

Số bài Hai dòng Bốn dòng Sáu dòng Tám dòng Mười dòng Mười hai dòng trở lên Tổng cộng

Nhìn vào kết quả bảng thống kê trên, ta thấy có sự tỉ lệ nghịch: số bài có số lượng dòng

càng ít thì tỉ lệ càng cao và ngược lại số bài có số dòng càng cao thì tỉ lệ càng thấp. Đơn cử, số

bài hai dòng số lượng là 620 bài tỉ lệ 63 % còn số bài từ mười hai dòng trở lên thì chỉ có 8 bài tỉ

lệ chưa đến 1 %.

Tiến hành so sánh với nghiên cứu của Nguyễn Xuân Kính, chúng tôi thấy có sự đối lập:

với ca dao trước cách mạng, số bài được sáng tác theo thể lục bát có số dòng là hai chiếm tỉ lệ

khá cao 63 %, số bài từ mười hai dòng trở lên chiếm gần 1%; trong khi đó ca dao về Bác số

bài có số dòng là hai chỉ chiếm 20.5 %, còn lại là nhiều hơn hai dòng, trong đó số bài từ mười

hai dòng trở lên chiếm 11.1%.

Bên cạnh đó, khi so sánh thể thơ lục bát trong mảng ca dao về Bác Hồ với thơ trữ tình

của bộ phận văn học thành văn thì lại thấy có sự tương đồng. Trong bài “Bước đầu tìm hiểu sự

khác nhau giữa ca dao và thơ lục bát”, Hoàng Tiến Tựu đã nhận xét: “…thơ lục bát của

Nguyễn Bính đều dài trên 20 dòng, có bài dài tới 220 dòng như Lỡ bước sang ngang; thơ lục

bát của Tố Hữu cũng tương đối dài: Đêm giao thừa 24 dòng, Bà má Hậu Giang 196 dòng, Bầm

ơi 86 dòng, Việt Bắc 296 dòng.” [32,81]

Song song đó, chúng tôi cũng tiến hành đối chiếu với tần số xuất hiện các dòng thơ trong

những bài ca dao theo thể lục bát của ca dao hiện đại

Ca dao về Bác Ca dao hiện đại

Số lượng 79 113 76 40 35 43 Tỉ lệ 20.5 % 29.3 % 19.7 % 10.3 % 9.1 % 11.1 % Số lượng 169 206 115 70 20 41 Tỉ lệ 27.2 % 33.2 % 18.5 % 11.3 % 3.2 % 6.6 %

Số bài Hai dòng Bốn dòng Sáu dòng Tám dòng Mười dòng Mười hai dòng trở lên Tổng cộng 386 100% 621 100 %

Từ sự so sánh với các nghiên cứu nêu trên, chúng tôi cho rằng mảng ca dao về Bác có sự

kế thừa, phát huy thể thơ lục bát trong ca dao cũ và tương đồng với ca dao mới. Lí giải hiện

tượng ca dao về Bác có số dòng nhiều hơn hai, chúng tôi tán đồng ý kiến: “Tính chất ngắn gọn

của ca dao là một đặc điểm chứ không hẳn là ưu điểm. Hiện thực thì phong phú, đa dạng,

nhiều khi phức tạp, tâm hồn, cảm xúc của con người cũng rất lắm cung bậc, trong khi đó dung

lượng của một lời ca dao rất hạn chế, số lời có từ hai cặp lục bát (bốn dòng) trở lên không

nhiều. Mỗi một lời chỉ phản ánh được một khía cạnh của hiện thực…” [32, 222]. Hơn nữa, tình

cảm của nhân dân đối với Bác thì lại vô cùng phong phú nên chỉ có những bài ca dao với số

lượng nhiều dòng thì mới thể hiện hết, bộc lộ hết. Ngoài ra, ca dao về Bác được sáng tác từ sau

cách mạng tháng Tám, lúc này chữ viết đã hình thành, nhiều bài ca dao được tác giả dân gian

sáng tác bằng hình thức viết rồi sau đó mới lưu truyền bằng miệng. Chính vì viết nên người

sáng tác có thời gian suy nghĩ thấu đáo, nảy sinh nhiều ý tưởng, nhiều nội dung vì thế mà số

lượng dòng thơ tăng lên. Ngược lại, trong xã hội cũ, đôi khi để ứng tác kịp thời trong lúc đối

đáp nên nhân dân khó có khả năng ứng tác một bài dài lên đến vài chục dòng thơ. Cho nên,

lượng bài trong ca dao cổ truyền có số dòng ít là đặc điểm phù hợp với hoàn cảnh sáng tác,

hình thức diễn xướng, đối đáp của người bình dân. Còn một đặc điểm nữa, theo người viết cũng

không kém quan trọng đó là ngày trước trong quan hệ nam nữ, tình yêu rất khó mở lời. Những

người yêu nhau thường bộc lộ tình cảm một cách kín đáo, tế nhị, bóng gió, xa xôi nên hình thức

bộc lộ thường dùng cách nói ẩn dụ mang tính chất ngắn gọn, cô đọng. Ngược lại, tình cảm của

nhân dân đối với Bác cũng như tình cảm đối với ông bà, cha mẹ, quê hương, đất nước là loại

tình cảm thiêng liêng, cao quí mà ai cũng có nhu cầu nói rõ, nói thẳng, nói trực tiếp không ngại

ngần. Phải chăng vì thế mà trong ca dao về Bác, lượng bài ca dao theo thể lục bát nhiều hơn hai

dòng xuất hiện với tần số dày đặc?

Tóm lại, về thể thơ lục bát, ca dao về Bác kế thừa dường như trọn vẹn đặc điểm của ca

dao cổ truyền. Chỉ có điểm khác là các tác giả dân gian hiện đại thường sáng tác các bài ca dao

có số lượng nhiều hơn hai dòng để có thể diễn tả được hết những điều muốn gửi gắm đến Bác.

2.1.1.2. Lục bát biến thể

Ở đây người viết chọn cách hiểu của Mai Ngọc Chừ: “ Lục bát biến thể ở đây được quan

niệm là những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng không khít khịt trên sáu dưới tám mà có

sự co giãn nhất định về số lượng âm tiết.”[32, 222].

Ca dao về Bác Hồ cũng có một số lời lục bát biến thể, trong đó khuôn hình về vần vẫn

được giữ, còn số tiếng trong mỗi lời thơ có thể thay đổi. Đúng như phân loại của Mai Ngọc

Chừ, lục bát biến thể ở đây có ba loại: Dòng lục thay đổi, dòng bát giữ nguyên:

Dân Cụ Hồ chỉ một lời thề (7 tiếng)

Mạng thì đổi mạng bám quê đến cùng. (8 tiếng)

Dường như, dòng lục của bài ca dao trên phải đến 7 tiếng thì mới diễn tả đầy đủ, trọn vẹn

lời thề của nhân dân trong quyết tâm đánh giặc, giữ làng, giữ nước. Nếu bớt đi bất kỳ từ nào

của dòng lục để giữ đúng khuôn hình của dòng lục là sáu tiếng thì nội dung, ý nghĩa của dòng

thơ cũng sẽ thay đổi. Cho nên việc thay đổi số lượng âm tiết ở đây là có cơ sở chính đáng.

Dòng lục giữ nguyên, dòng bát thay đổi:

Dù cho Mỹ Diệm ỳ ra (6 tiếng)

Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải thành công. (14 tiếng)

Dòng bát thay đổi dài đến 14 tiếng nhằm đề cao, khẳng định sự lãng đạo sáng suốt của

Bác. Có Bác chắc chắn con đường cách mạng sẽ thành công, nước nhà sẽ thống nhất. Nhân dân

ta tin tưởng mạnh mẽ, mãnh liệt vào điều đó.

Sài Gòn rực đỏ cờ sao (6 tiếng)

Miền Nam giải phóng càng nhớ công lao Cụ Hồ. (10 tiếng)

Thêm một lần nữa, việc kéo dài số tiếng ở câu bát nhằm nhấn mạnh lòng biết ơn của

nhân dân miền Nam đối với Bác.

Cả hai dòng đều thay đổi:

Sông không khô nhờ nguồn dự trữ nước (8 tiếng)

Việt Nam mạnh giàu nhờ phước Cụ Hồ cho. ( 9 tiếng)

Số tiếng của hai dòng thơ kéo dài hơn 6 – 8 cùng với hàng loạt các thanh bằng như kéo

dài nguồn nước dự trữ của dòng sông, như mở rộng phước đức của Cụ Hồ đối với nhân dân

Việt Nam.

Con chim không ăn quả hai cành (7 tiếng)

Miền Nam sau trước vẫn giữ tấm lòng thành với Đảng Bác kính yêu.

(14 tiếng)

Câu bát sử dụng đến 14 tiếng. Dụng ý của tác giả chính là khẳng định tấm lòng thành,

tấm lòng chung thủy, sắt son, không dời, không đổi của đồng bào miền Nam đối với Đảng, với

Bác kính yêu.

Cắt tấm lụa đào em đề ba chữ (8 tiếng)

Chữ trung với Bác, chữ hiếu với mẹ, chữ nghĩa với anh. (12 tiếng)

Dù xa xôi em vẫn giữ tấm lòng thành, (9 tiếng)

Có Bác chỉ đường dẫn lối thì hai đứa mình sẽ gặp nhau. (13 tiếng)

Trong ví dụ trên, các câu thơ dài quá khổ có tác dụng thể hiện đa dạng, phong phú tình

cảm của cô gái: trung với Bác, hiếu với mẹ, nghĩa với anh. Đặc biệt là câu bát thứ nhất gồm 12

tiếng chia đều cho ba đối tượng như muốn khẳng định tình cảm của cô gái dành cho Bác, cho

mẹ và cho anh là đồng nhau. Nhưng phải chăng cách sắp xếp theo thứ tự Bác đến mẹ rồi đến

anh như đã phần nào nói lên tình cảm của cô gái đối với Bác là nhất? Trong trường hợp của cô

ấy chúng ta sẽ hiểu, sẽ thấy suy nghĩ của cô gái là rất đúng trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Không

có Bác lãnh đạo, soi sáng con đường cách mạng, không có Bác dẫn đường chỉ lối thì mẹ với

con chắc gì được bên nhau, anh và em chắc gì sẽ gặp nhau?

Việc sử dụng lục bát biến thể trong diễn xướng là rất phổ biến. Người ta hát hò với nhau

cũng là đang trò chuyện với nhau, vì vậy, có thể kéo dài câu thơ để thể hiện rõ tâm tình của

mình. Lục bát biến thể trong ca dao về Bác thể hiện đa dạng và phong phú các nội dung khác

nhau. Nếu như cho đến nay các nhà nghiên cứu đã chỉ ra bốn chức năng của hình thức lục bát

biến thể trong việc thể hiện nội dung: chì chiết, đay nghiến, bộc lộ khó khăn; lòng quyết tâm

vượt qua trở ngại; châm biếm trào phúng và tranh luận đấu lí thì ở mảng ca dao này, người viết

thấy rằng nội dung thể hiện của chúng là nhằm khẳng định, khắc ghi công ơn to lớn của Bác đối

với nhân dân; niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo, chỉ đường của Bác; tấm lòng thủy

chung, trung thành của toàn dân với Đảng, với Bác kính yêu; đồng thời cũng thể hiện quyết tâm

của nhân dân vượt qua mọi khó khăn trở ngại để đi theo con đường mà Bác đã vạch ra…

Sự xuất hiện của lục bát biến thể cũng là nguyên nhân lí giải vì sao thể lục bát được nhân

dân ưa dùng hơn các thể khác. Việc kéo dài số tiếng (số chữ) giúp người sáng tác bộc lộ được

nhiều hơn rõ hơn những gì mà mình muốn gửi gắm qua ca dao.

Tóm lại, lục bát là thể thơ có nhạc tính cao, có lợi thế trong lựa chọn nhịp (chẵn/lẻ), trong

ứng dụng lại có khả năng lệch thể, biến thể khá rộng và linh hoạt trên nhiều phương diện (hiệp

vần, thay đổi số chữ trong mỗi dòng, số dòng trong mỗi đơn vị tác phẩm,…) đáp ứng được nhu

cầu biểu đạt sâu sắc, phong phú, đa dạng ý tình của người sáng tạo. Điều đó góp phần giải thích

trọn vẹn vì sao thể lục bát chiếm số lượng tuyệt đối trong ca dao truyền thống nói chung, ca dao

hiện đại mà tiêu biểu là ca dao về Bác nói riêng và đã tồn tại, phát triển hàng trăm năm nay

trong bộ phận văn học viết Việt Nam.

2.1.2. Thể song thất lục bát

Cũng như thể lục bát, song thất lục bát chia làm hai loại: chính thể và biến thể.

2.1.2.1. Song thất lục bát chính thể

Chúng tôi chọn ý kiến của Nguyễn Xuân Kính dưới đây để làm cơ sở khi khảo sát thể

Tác giả quan niệm rằng: “ một khổ thơ bao gồm bốn dòng ( hai dòng 7 tiếng + một dòng

song thất lục bát trong ca dao về Bác.

6 tiếng + một dòng 8 tiếng ) là đơn vị tế bào của thể song thất lục bát” [ 32, 248]. Về vần, chữ

cuối câu thất trên vần với chữ thứ 5 câu thất dưới, chữ cuối câu thất dưới vần với chữ cuối câu

lục, tiếng cuối câu lục vần với chữ thứ 6 câu bát.

Như kết quả khảo sát ở bảng thống kê tần số xuất hiện các thể thơ trong ca dao về Bác

(trang 42), chúng tôi nhận thấy số lượng bài ca dao sáng tác theo thể song thất lục bát là chính

thể khá ít, chỉ có 14/521 bài, chiếm tỉ lệ 2.7 %. Kết qủa này hoàn toàn phù hợp với nhận định

của Phan Ngọc: “Giai đoạn từ năm 1932 đến nay: thể song thất lục bát thưa vắng trên thi

đàn.” [32, 247]. Mặc dù theo Phan Ngọc, cấu trúc từng khổ 7 + 7 + 7 + 6 + 8 tiếng cho phép

thể thơ này nói lên sự đi về của cảm xúc như những đợt sóng lên cao xuống thấp rồi lại dàn ra

đón lấy một đợt sóng khác nhưng sự xuất hiện của thể thơ này vẫn rất ít.

Đặc điểm của thể song thất lục bát là thường lặp đi lặp lại, cuộn trào như ngọn sóng, phù

hợp cho việc diễn tả tâm trạng buồn đau của nhân vật trữ tình. “Ở thể song thất lục bát hoàn

chỉnh, vần trắc và tiết tấu theo nhịp 3/4 của những câu bảy lại có khả năng nhiều hơn trong

việc diễn tả những tình cảm khúc mắc, những đau khổ uất ức…” [29, 480]

Trèo lên cây bưởi hái hoa,

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân,

Nụ tầm xuân / nở ra xanh biếc,

Em có chồng / anh tiếc lắm thay

- Ba đồng một mớ trầu cay,

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng,

Như chim vào lồng như cá cắn câu.

Cá cắn câu / biết đâu mà gỡ,

Chim vào lồng / biết thuở nào ra?

Đặc điểm này ta cũng thấy rất rõ trong thơ trung đại mà tiêu biểu là bản dịch “Chinh phụ

ngâm” của Đoàn Thị Điểm. Khúc ngâm đã diễn tả tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn,

buồn khổ như lời oán trách, than vãn, sầu muộn trong thời gian dài người chồng đi đánh trận,

không có tin tức, không rõ ngày trở về:

Trời thăm thẳm / xa vời khôn thấu

Nỗi nhớ chàng / đau đáu nào xong

Cảnh buồn người thiết tha lòng

Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun

Tuy nhiên thể song thất lục bát trong ca dao về Bác lại không diễn tả tâm trạng sầu khổ,

đau đớn, uất ức như trên mà ngược lại dùng để diễn tả niềm vui sướng: Đêm hai mốt nghe tin

đình chiến / Xưởng vang lên muôn tiếng reo hò / Lòng vui như thể mở cờ / Miệng không ngớt

tiếng : Bác Hồ muôn năm; niềm tự hào, tin tưởng vào sức mạnh của Đảng Bác, của nhân dân:

Đèn nào cao bằng đèn mặt trận / Sức nào mạnh bằng sức nhân dân / Theo lời Đảng Bác vùng

lên / Xây đời hạnh phúc hòa bình, ấm no; tinh thần khẩn trương sản xuất: Đồng Diên Canh cắt

nhanh dấu vội / Đồng Phú Nội cắt vội dấu nhanh / Bớ o, bớ chị, bớ anh / Lúa bên nách giặc ta

dành về ta; lòng biết ơn đối với Bác: Đồng nào cao bằng đồng Thi Phổ / Thổ nào cao bằng thổ

Ba Tơ / Ơn nào sâu bằng ơn Cụ Hồ / Nguồn bao nhiêu nước ơn Cụ Hồ bấy nhiêu; Đêm năm

canh em nằm em nghĩ / Ơn Bác Hồ ví tựa Bắc Sơn / Lòng em ghi tạc công ơn / Căm thù Mỹ

Diệm đánh lộn sòng trắng đen; Nam Hải sâu ta còn đo được / Trường Sơn dài ta vượt cũng qua

/ Công Hồ Chủ tịch bao la / Ơn Bác mãi mại dân ta ghi lòng; tình yêu thương thiết tha, trọn

vẹn của nhân dân miền Bắc dành cho Bác và cho miền Nam: Đây Tháp Rùa nhớ chùa Thiên

Mụ / Chợ Đồng Xuân nhớ chợ Bến Thành / Nhớ lời Bác dạy đinh ninh / Đồng quê, xưởng máy

nặng tình Bắc Nam / Tình Bắc Nam chứa chan, thắm thiết / Giục mỗi người làm việc bằng hai /

Đua nhau gái giỏi, trai tài / Thép gang vượt mức, lúa khoai được mùa.

Một điều đặc biệt ở mảng ca dao này là có sự xuất hiện của thể song thất lục bát có độ dài

từ hai khổ trở lên. Trong ca dao cổ truyền, Nguyễn Xuân Kính cho rằng “ Làm theo thể thơ

này, mỗi lời ca chỉ gồm một khổ (bốn dòng thơ); cực kì hiếm hoi nếu không muốn nói rằng

không có bài nào có từ hai khổ trở lên” [ 32,250]. Như vậy, sự xuất hiện này có thể xem là sự

đổi mới của ca dao hiện đại mà ca dao về Bác là đại diện. Nhân dân ta luôn có nhu cầu nói

nhiều về Bác. Dường như, Bác là đề tài không bao giờ dứt, không bao giờ cạn đối với nhân dân.

Cho nên, nếu chỉ dùng một khổ song thất lục bát thì e rằng khó mà diễn đạt hết cảm hứng đang

tuôn trào ấy. Thế nên, tác giả dân gian của bài ca sau đã vận dụng liên tiếp hai khổ:

Đây Tháp Rùa nhớ chùa Thiên Mụ

Chợ Đồng Xuân nhớ chợ Bến Thành

Nhớ lời Bác dạy đinh ninh

Đồng quê, xưởng máy nặng tình Bắc Nam.

Tình Bắc Nam chứa chan, thắm thiết

Giục mỗi người làm việc bằng hai

Đua nhau gái giỏi, trai tài

Thép gang vượt mức, lúa khoai được mùa.

Bài ca dao ra đời trong hoàn cảnh Bắc Nam còn chia cắt. Miền Bắc đang tiến lên xây

dựng chủ nghĩa xã hội còn miền Nam thì vẫn còn trong bom đạn của đế quốc Mỹ. Chính vì thế,

nhân dân miền Bắc luôn hướng về miền Nam ruột thịt như lời dạy của Bác Hồ: ra sức sản xuất

để trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam, giúp miền Nam giải phóng, thống nhất đất

nước. Có lẽ phải dùng đến hai khổ song thất lục bát như thế này thì nhân dân miền Bắc mới nói

hết tình cảm của mình dành cho Bác, dành cho miền Nam.

Hay bài ca sau cũng vậy.

Uống nước là nhớ đến nguồn

Cơm no, áo ấm nhớ ơn Bác Hồ

Ơn Bác Hồ sâu hơn Nam Hải

Công Bác Hồ bằng dải Trường Sơn

Nam Hải sâu ta còn đo được

Trường Sơn dài ta vượt cũng qua

Công ơn Bác Hồ bao la

Nhân dân ta kể đến bao giờ cho xong.

Tác giả dân gian đã khéo léo kết hợp khổ lục bát gián thất (hai câu lục bát rồi mới đến hai

câu thất) và khổ song thất lục bát để làm nổi bật truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân

tộc. Nguồn ấy chính là Bác Hồ. Ơn Bác Hồ sâu hơn biển, dài hơn núi. Biển sâu ta còn đo được,

núi dài ta vượt cũng qua nhưng công ơn của Bác thì chẳng biết đến bao giờ mới kể cho xong.

Có thể nói, thể song thất và lục bát kết hợp với nhau khiến cho tình cảm vốn đa chiều,

phức tạp được thể hiện có hiệu quả rõ rệt với cách nói đa giọng, nhiều cung bậc và gam màu.

Chính những đặc trưng của thể thơ góp phần thể hiện nội dung của bài ca dao được sâu sắc và

diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc của chủ thể trữ tình.

Một lần nữa, chúng ta lại thấy ca dao về Bác đã kế thừa ca dao cổ truyền về thể thơ -

song thất lục bát. Tuy nhiên, cái khung là song thất lục bát nhưng nội dung và giọng điệu hoàn

toàn mới, phù hợp với tình cảm của nhân dân dành cho Bác: vui sướng, hạnh phúc, tự hào khi

có Bác, tin tưởng, biết ơn vào sức mạnh và tình thương của Người.

2.1.2.2. Song thất lục bát biến thể

Người viết cho rằng song thất lục bát biến thể cũng như lục bát biến thể, đó là những câu

ca dao có hình thức song thất lục bát nhưng không khít khịt trên bảy bảy dưới sáu tám mà có sự

co giãn nhất định về số lượng tiếng.

Chu Xuân Diên cho rằng: “Ở những câu ca dao đã thành cổ truyền thì song thất lục bát

biến thể lại thường có dụng ý rõ rệt về mặt nghệ thuật, làm tăng sức mạnh thể hiện của nội

dung lên” [ 29, 482]. Song thất lục bát biến thể trong ca dao về Bác cũng có tác dụng đó. Có

hai dạng song thất lục bát biến thể:

- Dạng thứ nhất: biến thể ở cặp lục bát:

Núi Trường Sơn không sờn mưa nắng ( 7 tiếng )

Biển Thái Bình chắc chắn không khô ( 7 tiếng )

Nước ta đã có Bác Hồ ( 6 tiếng )

Hỡi toàn dân đứng lên kháng chiến xây dựng cơ đồ Việt Nam. (13 tiếng)

Câu bát thay đổi từ 8 tiếng kéo dài ra đến 13 tiếng để diễn đạt đầy đủ lời kêu gọi toàn dân

đứng lên kháng chiến.

- Dạng thứ hai: biến thể ở cặp song thất:

Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn ( 7 tiếng )

Cửa Hàm Luông mây cuốn cánh buồm xuôi ( 8 tiếng )

Hương sen tỏa khắp đất trời ( 6 tiếng )

Bác ơi, tên Bác sáng ngời miền Nam. ( 8 tiếng )

Câu thất thứ nhất giữ nguyên, câu thất thứ hai thay đổi. Việc thay đổi số tiếng ở đây là để

diễn tả nội dung cho trọn vẹn.

Chiến thắng quê ta vang trời dậy đất ( 8 tiếng )

Năm châu bốn biển tới tấp chào mừng ( 8 tiếng )

Nghe lời Bác dạy dốc lòng ( 6 tiếng )

Chiến công nối tiếp chiến công rộn ràng. ( 8 tiếng )

Cả hai câu thất đều thay đổi số tiếng nhằm kéo dài niềm vui chiến thắng, mở rộng niềm

tự hào đến bốn biển năm châu.

Bạc Đông Dương kẻ thương người ghét (7 tiếng)

Bạc Cụ Hồ kẻ nhét người thu (7 tiếng)

Già tay thêm nặng oán thù (6 tiếng)

Dù là bay có xé hết, thì đã có chiến khu ta chở về. (13 tiếng)

Câu cuối đến 13 tiếng như lời thách thức của quần chúng nhân dân đối với kẻ thù: Dù kẻ

thù có cấm dân ta sử dụng bạc Cụ Hồ, dù có xé hết bạc Cụ Hồ nhân dân vẫn không sợ, vẫn

không sử dụng bạc Đông Dương. Giọng điệu không chỉ thách thức mà còn là giọng oán ghét

tận cùng bọn thực dân cướp nước, muốn đồng hóa dân ta.

Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy thể song thất lục bát biến thể chiếm 21/521 bài, tỉ lệ 4 %.

Như vậy, số lượng bài song thất lục bát biến thể còn nhiều hơn cả song thất lục bát chính thể

(14/521). “Trong thời hiện đại, thể song thất lục bát hướng theo truyền thống trở nên giảm sút

về sức sống, ít có cơ hội hòa nhập vào đời sống chung của thơ ca” [73,209] . Phải chăng vì lí

do trên mà để tồn tại được, thể song thất lục bát buộc phải phá vỡ khuôn hình xưa nay của

mình?

Tóm lại, sự xuất hiện của song thất lục bát biến thể một lần nữa nói lên sự đa dạng của

các thể thơ trong mảng ca dao về Bác. Các tác giả dân gian khi bộc lộ tình cảm của mình đối

với Bác, luôn tìm tòi, khám phá và kết hợp khéo léo các thể thơ để có thể diễn đạt một cách đầy

đủ nhất những khía cạnh tình cảm của cá nhân nói riêng và của quần chúng nhân dân nói chung.

Chính điều đó góp phần làm cho bộ phận ca dao về Bác sinh động và tồn tại lâu dài hơn trong

lòng nhân dân.

2.1.3. Thể hỗn hợp

Hỗn hợp là sự kết hợp các thể thơ lại với nhau nhằm diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc

của nhân vật trữ tình. Trong ca dao về Bác, số bài được sáng tác theo thể hỗn hợp có 49/521,

chiếm 9,7 %. Sự hỗn hợp này cũng khá đa dạng. Tuy nhiên qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy

hình thức kết hợp chủ yếu của thể hỗn hợp trong mảng ca dao này là sự kết hợp giữa thể thơ

bốn hoặc năm chữ (thể vãn) với thể lục bát . Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu một số trường hợp:

Ai ra Việt Bắc

Xa lắc xa lơ

Đường đi ngoéo ngoắc

Lòng thành son sắt

Vắn tắt đôi lời

Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe vui tươi

Dắt dìu kháng chiến, dành độc lập cho người Việt Nam.

Bài ca dao trên gồm năm câu bốn chữ và một cặp lục bát biến thể. Sự luân phiên thay đổi

luật bằng trắc của thể thơ bốn tiếng (tiếng thứ 2 bằng thì tiếng thứ 4 trắc; ngược lại, tiếng thứ 2

trắc thì tiếng thứ 4 bằng) đã tạo cho bài ca dao có âm điệu trầm bổng, cân xứng, hài hòa, nhịp

nhàng. Bên cạnh đó, việc kéo dài hơn số tiếng quy định của hai câu lục bát biến thể cho phép

người viết diễn đạt nhiều hơn, đầy đủ hơn những gì muốn gửi gắm. Như vậy, tác dụng của bài

ca dao theo thể hỗn hợp này đúng như nhận định của Chu Xuân Diên “Trong những trường

hợp này, tiết tấu và âm điệu phong phú của câu thơ có khả năng diễn tả được những cung bậc

và sắc thái khác nhau của tình cảm” [ 29, 480]. Sắc thái tình cảm của bài ca dao trên chính là

tấm lòng của nhân dân hướng về Bác, chúc Bác, mong Bác mạnh khỏe để dắt dìu kháng chiến,

đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ toàn thắng, vinh quang.

Còn đây là bài ca dao kết hợp giữa thể vãn 5 và thể lục bát:

Đường vào Nam trục trặc

Đường ra Bắc gập ghềnh

Ai đi mà gửi lúa mình

Đem ra nhờ Cụ trao tình quân dân.

Tương tự như vãn 4, trong vãn 5, âm điệu cho bài thơ thường được tạo nên bởi sự luân

phiên thay đổi luật bằng trắc ở tiếng thứ 2 và thứ 5 của mỗi dòng. Sự tiếp nối hai thanh bằng

trắc, trắc bằng của hai câu năm tiếng cùng với nhịp (2/2/2-2/2/2/2) của cặp lục bát đã tạo nên

nhạc điệu đều đặn, nhịp nhàng cho bài ca dao. Nhịp điệu ấy diễn đạt những cảm xúc nhẹ nhàng,

êm ái mà cụ thể ở bài ca dao này là tình cảm chan hòa, gắn bó giữa nhân dân và Cụ Hồ, giữa

dân và quân.

Thể hỗn hợp trong ca dao về Bác đa số kết hợp theo hai hình thức trên: Con đò nho nhỏ /

Sóng đỏ phù sa / Nghe tin Bác đã đi xa / Đò chìm đáy nước, nắng nhòa bóng mây / Con đò nho

nhỏ / Nắng đỏ ngọn cây / Nghe tin Bác vẫn còn đây / Đò rời đáy nước chở ngay vào bờ; Cụ Hồ

với dân / Như chân với tay / Như chày với cối / Như cội với cành / Toàn dân dốc một lòng

thành / làm tròn nghĩa vụ đáp tấm tình của Cụ thương dân; Em yêu Bác Hồ / Em ghét tổng Ngô

/ Bác Hồ hiền lành / Tổng Ngô độc ác / Tổng Ngô như chim cắt / Bác Hồ tựa Thái Sơn / Chim

cắt chết yểu chết mòn / Thái Sơn muôn thuở vẫn còn Thái Sơn; Nhiều tay vỗ nên độp / Nhiều

cột dựng nên nhà / Dù cho Mỹ Diệm ỳ ra / Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà sẽ

thành công;…

Ngoài hai hình thức phổ biến trên, thể hỗn hợp trong ca dao về Bác còn có các hình thức

kết hợp khác. Trường hợp dưới đây gồm một câu năm tiếng, hai câu bốn tiếng và một cặp lục

bát. Kiểu kết hợp này cũng có tác dụng như hai hình thức kết hợp nêu trên:

Bước chân lên Đèo Cả

Trông sang Vạn Giã

Ngó lại Tu Bông

Miền Nam nhớ Bác vô cùng

Mong ngày đón Bác vào trong Khánh Hòa.

Một hình thức khác hay gặp của thể hỗn hợp là những cặp lục bát có xen vào hai câu thất.

Vị trí hai câu thất khá linh hoạt: khi thì hai câu thất nằm giữa hai cặp lục bát:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Công Bác Hồ hơn cha hơn mẹ

Công Bác Hồ trời biển không tày

Nhờ Bác ta có ruộng cày

Có manh áo mới, có đầy bát cơm.

khi thì hai câu thất đầu rồi đến các cặp lục bát:

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công

Bác đi trăm núi ngàn sông

Bài ca đoàn kết hát cùng chúng con

Lời Bác dạy, tiếng nước non

Mở trang lịch sử, vang dồn chiến công

Đại đoàn kết, đại thành công

Chúng con xin nguyện một lòng nhớ ghi.

Dù ở vị trí nào thì tác dụng của hai câu thất cũng là nhằm nhấn mạnh nội dung được nói

đến. Ở ví dụ trước nhấn mạnh công ơn trời biển của Bác, ở ví sau nhằm nhấn mạnh tinh thần

đoàn kết của quân dân theo lời dạy của Bác.

Còn trong bài ca dao hỗn hợp dưới đây, mở đầu bằng hai cặp lục bát, kết thúc bằng một

câu lục và chính giữa là hai cặp lục bát biến thể. Bên cạnh nhịp điệu uyển chuyển của những

cặp lục bát, nhịp điệu ngân dài của những cặp lục bát biến thể rất tiện cho việc diễn tả được dễ

dàng, nhanh chóng và không gò bó nhiều tư tưởng tình cảm của nhân dân. Cụ thể, bài ca dao

nhằm nêu lên những khó khăn trùng điệp trong cuộc kháng chiến chống lại kẻ thù nhưng nhân

dân miền Nam vẫn thể hiện lòng quyết tâm vượt qua không vì gian nguy mà lùi bước để đáp lại

tình cảm và lòng mong muốn của Cụ Hồ:

Trời còn khi nắng khi mưa,

Miền Nam thương nhớ Bác Hồ không nguôi.

Dù cho vật đổi sao dời,

Bác Hồ như ánh mặt trời mùa xuân.

Đất Dương Hòa còn vang câu ca chiến thắng

Núi Hòa Mỹ còn nhớ khi gánh đạn khiêng bom

Ơn Cụ Hồ gắn bó tám chín năm tròn

Nay không vì gian nguy mà lùi bước

Sóng dập dồn mà nghỉ chân.

Tất cả các kiểu kết hợp trên đều nhằm một mục đích là diễn tả nội dung được đầy đủ và

phong phú. Bởi vì, mỗi một thể thơ đều có một công dụng riêng, nếu nhiều thể loại kết hợp với

nhau chắc chắn sẽ diễn đạt được nhiều khía cạnh nội dung khác nhau. Những khía cạnh tình

cảm của nhân dân đối với Bác vì thế mà thêm sâu sắc, đong đầy.

Nhìn chung, thể hỗn hợp trong bộ phận ca dao về Bác khá đa dạng, nhiều hình thức kết

hợp. Mỗi hình thức đều có tác dụng riêng, góp phần chuyển tải tốt nhất cho nội dung. Đồng

thời, qua sự kết hợp đó cho thấy tác giả dân gian cũng khá dụng công trong việc tìm tòi, sáng

tạo và vận dụng linh hoạt các thể thơ để thể hiện tình cảm của nhân dân đối với Bác.

Nếu như thể hỗn hợp trong ca dao cũ diễn tả những tình cảm khúc mắc, nỗi đau khổ uất

ức, những trở ngại, éo le, khó khăn trùng điệp trong tình yêu và thể hiện lòng quyết tâm vượt

khó thì thể thơ này trong ca dao về Bác cũng nói lên những khó khăn và quyết tâm vượt khó

nhưng lồng vào đó nội dung mới phù hợp với hoàn cảnh cuộc sống mới : vượt khó trong đấu

tranh chống đế quốc.

Tóm lại, ca dao về Bác kế thừa hầu hết các thể thơ của ca dao cổ truyền: lục bát, song

thất lục bát và hỗn hợp. Điều này đã khẳng định sự linh hoạt của các tác giả dân gian hiện đại

trong quá trình sáng tác. Trước hết là thể thơ lục bát, số lượng nhiều nhất đã nói lên được vị trí,

tầm quan trọng không thể thiếu trong ca dao cũ cũng như ca dao về Bác. Tiếp đến là việc vận

dụng thể song thất lục bát và sự kết hợp khéo léo thể hỗn hợp đã diễn tả phong phú các sắc thái

tình cảm của nhân dân. Hay nói cách khác, vai trò chính của các thể thơ là góp phần làm nổi bật

những nội dung chủ yếu của bộ phận ca dao về Bác.

Bên cạnh sự kế thừa là sự phát huy và đổi mới. Ca dao về Bác đã mượn hình thức ca dao

cũ nhưng lại lồng vào đó nội dung mới phù hợp với cuộc sống mới. Việc thể thơ lục bát có số

dòng nhiều hơn hai cũng đã nói lên sự đổi mới của ca dao hiện đại mà ca dao về Bác là đại

diện. Hoàn cảnh xã hội thay đổi, chữ viết xuất hiện, một số bài ca dao xuất hiện dưới dạng chữ

viết rồi sau đó mới lưu truyền bằng miệng. Tác giả dân gian hiện đại có thời gian suy nghĩ

nhiều hơn, ý tưởng nảy sinh, nhiều nội dung cùng lúc xuất hiện…Đặc điểm này dẫn đến sự đổi

mới tất yếu của ca dao hiện đại: số lượng bài ca dao lục bát nhiều hơn hai dòng thơ xuất hiện

với tần số dày đặc. Tuy nhiên, đổi mới dựa trên nền tảng cái cũ chứ không làm mất đi những

đặc điểm truyền thống của thể loại.

2.2. Kết cấu của ca dao về Bác Hồ

Nói đến kết cấu ca dao, nhiều nhà nghiên cứu dựa vào các tiêu chí khác nhau để phân

loại. Một số tác giả khác dựa vào các vế trong bài ca dao để chia ra các hình thức: đối đáp một

vế, đối đáp hai vế, đối đáp nhiều vế… Dựa vào tiêu chí có hoặc không có đối thoại, trong luận

văn, chúng tôi đề cập đến kết cấu đối thoại, kết cấu trần thuật; dựa vào tiêu chí có hoặc không

có đối lập, chúng tôi chia ra kết cấu đối lập và kết cấu song hành tâm lý; dựa vào tiêu chí cách

diễn đạt ý tưởng của tác giả, chúng tôi phân thành hai loại: kết cấu thu hẹp dần hình tượng và

kết cấu miêu tả trực tiếp.

2.2.1. Kết cấu đối thoại và kết cấu trần thuật

2.2.1.1. Kết cấu đối thoại

Ca dao sinh ra, tồn tại, truyền đi và biến đổi chủ yếu là thông qua sinh hoạt dân ca. Chính

vì vậy mà trên phần lớn ca dao trữ tình còn in rất rõ khuôn dấu của dân ca. Khuôn dấu ấy là lối

đối đáp, do các kiểu hát tập thể (ghẹo ví, trống quân, cò lả, phường cấy, phường vải, quan

họ…) của dân tộc ta mà có. “Hát đối đáp là nói chuyện bằng lời thơ, điệu hát giữa đôi trai gái,

giữa hai họ, hai phường…” [16,10]. Chính lối đối đáp ấy tạo nên kết cấu đối đáp (đối thoại)

trong ca dao. Có hai dạng: đối đáp một vế và đối đáp hai vế. Đối thoại một vế là chỉ có người

đối mà không có người đáp hoặc người đáp có mặt ở đấy nhưng im lặng không trả lời. Đối

thoại hai vế là có cả người đối - người đáp, người hỏi - người trả lời.

Hình thức đối đáp thể hiện rất rõ trong ca dao cổ truyền, nhất là trong các cuộc đối đáp

giao duyên nam nữ. Trong ca dao dân ca cổ truyền về tình yêu nam nữ, đa số các câu hát của

chàng trai và cô gái được kết cấu theo lối đối thoại giữa hai nhân vật ấy. Cách xưng hô hay

được dùng nhất là “mình – ta”, “anh – em”, “thiếp – chàng”…và những hình ảnh tượng trưng:

“mận – đào”, “thuyền – bến”, “rồng – mây”, “trúc – mai”, “loan – phượng”,…Trước hết là hình

thức đối thoại có đủ cả hai vế (có người hỏi và có người đáp): - Gặp đây mận mới hỏi đào: /

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? - Mận hỏi thì đào xin thưa: / Vườn hồng có lối nhưng chưa

ai vào; - Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng: / Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng? / - Trầu

vàng nhá với cau xanh / Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời…

Tuy nhiên nhìn chung, hình thức đối thoại chủ yếu vẫn là đối thoại một vế (chỉ có người

đối mà không có người đáp): Đường xa thì thật là xa / Mượn mình làm mối cho ta một người /

Một người mười chín đôi mươi / Một người vừa đẹp vừa tươi như mình; Thuyền về có nhớ bến

chăng? / Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền…

Rất nhiều những câu mở đầu của ca dao về tình yêu nam nữ là những lời nhân vật “chàng

trai” và “cô gái” hoặc tự nói về mình hoặc nói về người đối thoại với mình trong cái dạng đối

đáp ấy: Anh chờ em từ thuở mô tê…, Em là con gái Kẻ Mơ…, Em thấy anh em cũng muốn

chào…, Em về thưa mẹ cùng cha…, Chàng về thiếp cũng xin về…, Mình về ta chẳng cho về…,

Mình rằng mình chỉ lấy ta…, Đôi ta như thể con tằm…, Đấy vàng đây cũng đồng đen…, Đấy

với đây chẳng duyên thì nợ…

Mảng ca dao về Bác cũng vận dụng linh hoạt kết cấu đối thoại này. Tuy nhiên, không

như ca dao xưa, nhân vật đối đáp thường là chàng trai và cô gái, đối tượng đối thoại trong ca

dao về Bác được mở rộng: chàng trai – cô gái, mẹ - con, vợ - chồng, người dân – Bác, người

dân – người dân, anh lính – Bác, anh lính – anh lính;… Chính đối tượng thay đổi dẫn đến cách

xưng hô cũng thay đổi. Cách xưng hô hay dùng nhất trong mảng ca dao này là: mẹ - con, chúng con

– Bác, chúng cháu – Bác, Cháu – Bác, con – Bác, anh – em, tôi – anh,… Cũng như ca dao xưa, lối

đối thoại trong ca dao về Bác chủ yếu là hình thức đối thoại một vế. Đây là lời người mẹ nói với con

khi tiễn con tập kết ra Bắc:

Con ra thưa với Bác Hồ,

Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao.

Thoạt nghe qua bài ca dao, có lẽ người đọc dễ nhầm tưởng đây là bài ca dao theo kết cấu

trần thuật miêu tả. Thế nhưng khi dựa vào từ xưng hô “con” trong văn bản, chúng tôi cho rằng

đây có thể là cuộc đối thoại giữa hai mẹ con. Dù không xuất hiện lời đáp của nhân vật người

con nhưng chúng ta vẫn biết rằng người mẹ miền Nam ấy đang nhắc nhở con khi ra Bắc, gặp

Bác Hồ nhất định phải nói cho Bác hiểu tấm lòng thủy chung, trung thành của của đồng bào

miền Nam, dù xa xôi cách trở nhưng vẫn luôn hướng về ngọn cờ cách mạng mà Đảng, Bác đã

đề ra.

Để phân biệt với kết cấu trần thuật, khi khảo sát các bài ca dao theo hình thức kết cấu đối

thoại một vế, chúng tôi thường căn cứ vào từ xưng hô trong văn bản mà từ đó xác định đối

tượng đối đáp. Chẳng hạn, ở ví dụ sau là lời của cô gái nói với chàng trai khi tiễn chàng trai ra

trận:

Anh đi gìn giữ nước non,

Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ.

Anh đi ra lính Cụ Hồ,

Đò xưa bến cũ đợi chờ đón anh.

Nhân vật đối thoại trong bài ca dao trên chính là nam và nữ, những người đang yêu nhau.

Đây là lời ru con mà cũng là lời tâm sự của mẹ: mong muốn đời con sẽ ấm no, hạnh phúc, vui

tươi hơn dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ kính yêu:

Con ơi con ngủ đi con

Thương con mẹ giữ lòng son đợi chờ.

Con ơi con chớ có hờn,

Bác Hồ đã dặn mẹ còn tăng gia…

Còn ở những ví dụ sau đây có lẽ là lời người dân với người dân. Họ đối thoại với nhau,

nhắc nhở, khuyên bảo, động viên nhau trong mọi việc: Ai ơi đừng lấy chồng non / Chờ ngày

độc lập lấy con Cụ Hồ; Anh về giã gạo Ba Giăng / Em lên gánh nước Cao Bằng về ngâm /

Đến ngày mười chín tháng năm / Gói thành đôi bánh đem dâng Bác Hồ; Mấy cô gánh lúa đi

mô? Rằng em gánh lúa nuôi quân Cụ Hồ; Em ơi, cố gắng thi đua / Đoạt giải Cụ Hồ mới thật là

ngoan; Anh ơi tôi nhắn câu này…; Tôi là anh lính coi kho…; Tôi là vận tải dân quân;…

Hình thức đối thoại có đủ cả hai vế cũng thấy xuất hiện trong một số bài. Trước hết là lời

đối thoại giữa dân ta và kẻ địch:

- Trước đây là cháu Bác Hồ

Bây giờ là cháu “cụ” Ngô rõ rồi.

- Ai thèm làm cháu thằng Ngô

Còn vài năm nữa Bác Hồ vô đây.

Đó là lời đối đáp giữa bọn tay sai của địch và thiếu nhi miền Nam. Dù bọn chúng có tác

động tinh thần đến đâu các em vẫn quyết giữ vẹn tình cảm của mình cho Bác.

- Lấy lính quốc gia vàng đeo đầy cổ

Lấy lính Cụ Hồ chịu khổ muôn năm.

- Lấy lính quốc gia vàng đeo có lúc

Lấy lính Cụ Hồ rực rỡ muôn năm.

Trên đây là cuộc đối đáp giữa chị em tham gia biểu tình và bọn lính Ngụy. Qua lời đối

đáp ấy, ta thấy tinh thần, ý nguyện của toàn dân luôn hướng về Cụ Hồ.

Sau đó là người dân đối đáp với nhau. Cuộc hỏi đáp giữa một một cán bộ trong tổ dân

công và một ông lão hăng hái tham gia dân công: - Cụ ơi là cụ / Mắt cụ đã mờ / Chân cụ đã rũ /

Cháu rồi con từng đàn từng lũ / Cả xóm làng đông đủ đi đây / Cụ hờn chi mấy thằng Tây / Mà

cũng nững cũng sọt ra đây cho mệt nào? / - Con lão cũng đi / Dâu lão cũng đi / Cháu lão cũng

đi đây / Nhưng muốn trông mặt thằng Tây / Coi cái tài ông Giáp / Và gọi là đền đáp / Chút

nghĩa Cụ Hồ / Lão đan vồi vội đôi bồ / Sắm sanh cái gậy / Lão do hò lão đi.

Dù là lời của một hay hai người (một vế hay cả hai vế đối đáp), dù bóng gió xa gần, ví

von đến đâu, chúng ta vẫn thấy thấp thoáng hai nhân vật đang nói chuyện với nhau. Rất nhiều

những câu mở đầu của ca dao về Bác là những lời của hai nhân vật “ hoặc tự nói về mình hoặc

nói về người đối thoại với mình trong cái dạng đối đáp ấy” [29, 485].

Tóm lại, kết cấu đối thoại giúp người đọc hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn tình ý của từng người,

không phải là sự diễn đạt mơ hồ chung chung mà rất cụ thể, gắn với từng đối tượng. Ca dao về

Bác có cả các hình thức đối thoại một vế, hai vế như ca dao xưa nhưng đối tượng đối đáp được

mở rộng ra. Đó là sự kế thừa và đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Hơn nữa, kết cấu này

còn giúp người đọc hình dung và cảm nhận thế giới nhân vật trong mảng ca dao về Bác khá

sinh động và phong phú; hoàn cảnh diễn xướng thì đa dạng góp phần tái hiện lại một giai đoạn

lịch sử hào hùng của dân tộc.

2.2.1.2. Kết cấu trần thuật

Ngoài kết cấu đối đáp, ca dao về Bác cũng tiếp tục phát huy kết cấu trần thuật của ca dao

cổ. Qua khảo sát, chúng tôi thấy dạng kết cấu trần thuật chiếm số lượng nhiều nhất với 329 bài,

chiếm tỉ lệ 63.1 %.

Kết cấu trần thuật là kể, tả lại một sự việc hoặc một hiện tượng nào đó mà người sáng tác

đã chứng kiến, đã trải qua hoặc nghe kể lại. Trong mảng ca dao này, kết cấu trần thuật có rất

nhiều công dụng: từ việc miêu tả tình cảm của Bác đối với nhân dân và tình cảm của nhân dân

đối với Bác đến tường thuật lại những việc làm của Bác đối với dân và của dân đối với

Bác…Tuy nhiên, điều người viết tâm đắc nhất chính là nhờ có kết cấu này mà người đọc, người

nghe có thể hình dung và khái quát lại cả một chặng đường dài hoạt động cứu nước của Bác, cả

quá trình lãnh đạo, dìu dắt dân tộc Việt Nam kháng chiến như thế nào.

Hành trình dài của Bác có thể kể bắt đầu từ ngày Người từ Bến Nhà Rồng ra đi tìm

đường cứu nước. Ca dao đã kể lại thật xúc động cái ngày lịch sử ấy: Năm nào đất nước quặn

đau / Mênh mông sóng trắng chân tàu Bác đi; Thương nhà phải tạm rời nhà / Xa quê năm

tháng không nhòa tình quê / Hướng về đồng ruộng, bờ tre / Xót tình non nước bốn bề lao đao /

Bao phen sóng vỗ thuyền chao / Đinh ninh tấc dạ mai sau lại về; Nhà Rồng bến cũ tối tăm / Ra

đi cho sáng trăng rằm nước non / Nhìn về một dải giang sơn / Càng cao sóng biển căm hờn bấy

nhiêu; Nhớ đêm nổi sóng Nhà Rồng / Bến xưa sương gió bềnh bồng Người ra;…Đất nước đang

rên xiết, quặn đau dưới ách thống trị tàn khốc của kẻ thù. Xót xa trước tình cảnh ấy, Người

quyết ra đi tìm con đường để giải thoát cho quần chúng cần lao. Ngày ra đi thật buồn nhưng

“thương nhà phải tạm rời nhà”, Người như cố thu hết vào tầm mắt của mình hình ảnh của quê

hương đất nước “đồng ruộng, bờ tre”, gói gọn vào hành trang nhỏ bé của Người trên cuộc hành

trình dài đầy gian lao, vất vả. Những đêm đầu trên con tàu xa quê, sóng vỗ mạn tàu “bao phen

sóng vỗ thuyền chao” mà lòng Người như đang dậy sóng. Ngọn sóng nhớ thương đã chuyển

thành ngọn sóng của lòng quyết tâm, “đinh ninh tấc dạ mai sau lại về”.

Rời quê nhà đến với những vùng đất xa lạ, Người đã phải lăn lộn nhiều nơi, làm nhiều

nghề để sống, để tồn tại từ những công việc tay chân như rửa bát, phụ bếp, bồi bàn, cào tuyết

đến những công việc trí óc thư ký, dịch thuật, phóng viên…Người đều kinh qua. Ca dao cũng

đã thuật lại sống động những ngày dài gia khổ đó: Đêm dài thăm thẳm Châu Phi / Công Poanh

tuyết trắng, Pa-ri gió cồn / Sương mù mờ mịt Luân Đôn / Thương đôi dép nhỏ đã mòn chông

gai / Giữa trời băng giá Quảng Đông / Bác nhen nhóm ngọn lửa hồng mai sau; Nỗi lòng đau

đáu canh thâu / Trời Tây tuyết giá mây sầu tứ giăng / Tình dân dây đã buộc ràng / Nỗi riêng

gác lại gió sương quản gì / Con đường cứu nước nhiêu khê / Bồi bàn, quét tuyết, việc chi cũng

làm…

Và rồi trời chẳng phụ người có ý chí, nghị lực và lòng quyết tâm, trong gian khổ ấy,

Người đã tìm ra chân lí sáng ngời: đó là Chủ nghĩa Mác Lênin: Canh dài tâm sự ngổn ngang /

Đồng bào giai cấp, tìm đường tiến lên / Sáng lòng nhờ Mác – Lênin / Đầu rơi máu đổ vẫn tin

một ngày…/ Khắp nơi đỏ rực cờ bay / Bình minh xua bóng đêm dài tối tăm;…Từ ngày bắt gặp

tư tưởng Mác Lênin, Người nhận ra rằng đây chính là con đường giải phóng dân ta và Người

tin tưởng chắc chắn một ngày không xa “bình minh xua bóng đêm dài tối tăm”. Quả đúng như

vậy, áp dụng tư tưởng Mác Lênin vào công cuộc kháng chiến của dân tộc, nhân dân ta đã từng

bước giành lại độc lập chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Có kim chỉ nam dẫn đường

– chủ nghĩa Mác-Lê, Người đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến. Đầu tiên là thành lập Đảng

Cộng Sản Việt Nam vào ngày 2/3/1930 tại Hương Cảng, Trung Quốc: Đảng Cộng Sản – Hồ

Chí Minh / Sinh ra giữa buổi dân tình lao đao / Gió sương hôm ấy hôm nào / Chào đời giữa

khoảng mây sầu tứ giăng;…Đảng là tổ chức cao nhất lãnh đạo toàn dân kháng chiến.

Trong cuộc kháng chiến ấy, Người luôn song hành, theo sát nhân dân. Mọi đối tượng,

mọi giai cấp, mọi tầng lớp, Bác đều chỉ dẫn tận tình, thương yêu, lo lắng vô bờ: Cụ Hồ lo lắng

sớm chiều / Dân công vất vả bấy nhiêu thấm gì; Cụ Hồ lo lắng quanh năm / Anh đắp chăn ấm,

anh nằm chiếu êm / Cụ Hồ lo nghĩ ngày đêm / Cho anh Vệ quốc có thêm đôi giày; Bác Hồ yêu

mến thợ thuyền / Bác lo chăm sóc thường xuyên mọi người; Đường ra trận tuyến hôm nay / Bác

đang đạp núi tẽ mây đi cùng; Bác lo chăn ấm óa lành / Bác dắt dìu thợ đấu tranh từng giờ;…

Mọi nỗ lực của Bác, Đảng và toàn dân ta đã được đền đáp xứng đáng. Ngày 2/9/1945, tại

quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân

chủ cộng hòa: Đời đời ta nhớ Bác Hồ / Ba Đình một sớm – cơ đồ nghìn năm; Ba Đình Bác

đứng vẫy tay / Giục đàn con cháu ngày ngày tiến lên; Tháng tám một chín bốn lăm / Cách

mạng bùng nổ ầm ầm khắp nơi / Cờ sao vàng đỏ rực trời / Đưa đời nộ lệ sang đời tự do / Nhờ

ơn công đức Bác Hồ / Ơn Đảng Cộng Sản cứu cho dân mình;…

Tuy nhiên, trong những ngày đầu độc lập, đất nước ta còn nhiều vấn đề cần phải giải

quyết. Một trong những vấn đề cấp bách của chính phủ và toàn dân đó là diệt giặc đói và giặc

dốt. Bác đã kêu gọi mọi người “nhường cơm sẻ áo”, “tăng gia sản xuất” để cứu đói, kêu gọi

mọi người tham gia các lớp “bình dân học vụ” để xóa nạn mù chữ. Và nhân dân hưởng ứng lời

kêu gọi một cách tự nguyện, nhiệt tình. Ca dao đã kể lại sinh động và cụ thể các hoạt động đó:

Gạo này là gạo canh nông / Dậy mùi cơm mới trắng bông hoa nhài / Chữ đề nắn nót ngoài bì /

“Làm tăng năng suất theo lời Bác răng”; Làm dân một nước cộng hòa / Phải lo biết chữ mới là

đáng dân; Mỗi ngày hai nắm cỏn con / Nhiều ngày góp lại thành lon gạo đầy / Khi xưa cũng

lon gạo này / Góp phần đánh Nhật, đánh Tây tơi bời; Một cây làm chẳng nên non / Ba cây

chụm lại nên hòn núi cao / Một đồng chẳng đáng là bao / Nhiều người tiết kiệm gửi vào cũng to

/ Nhớ ghi lời dạy Bác Hồ / sản xuất, tiết kiệm phải lo thực hành / Chi tiêu kế hoạch nhớ dành /

Nước nhà đang lúc chiến tranh cần tiền / Tiền xây xã hội tiến lên / Tiền nơi tiền tuyến vang rền

chiến công / Ai ơi, tiết kiệm từng đồng / Góp phần xây dựng, góp công diệt thù;…

Đất nước chưa thoát đói nghèo, thực dân Pháp cay cú, bạo ngược quay trở lại xâm lược

nước ta lần hai. Bác lại cùng nhân dân tiếp tục cuộc kháng chiến đầy gian khổ. Thực dân Pháp

vừa rút lui, đế quốc Mỹ đã tràn vào. Con Người nhỏ bé kia lại phải trằn trọc bao đêm không

ngủ để lo cho vận mệnh của nước nhà. Mỹ Diệm tìm mọi cách hòng chia rẽ dân ta. Thế nhưng,

dù chúng có lắt léo đến đâu, xuyên tạc đến đâu nhân dân vẫn một lòng hướng về Đảng, Bác

kính yêu: Dù ai xuyên tạc lắt lay / Sắt son nguyện giữ lòng này sắt son / Ấu khoe ấu tròn / Bồ

hòn nào bồ hòn lại méo / Mỹ Diệm lắt léo nỏ ai nghe / Dù bay xuyên tạc chán chê / Đồng bào

vẫn nhớ Cụ Hồ thì trăm việc ngàn bề mới yên; “Cụ” Ngô là đứa mô mô / Dân ta chỉ biết Cụ Hồ

mà thôi; Qua cầu không khéo bổ trúc “Ngô” / Dòng nước trăm khe chảy về “Hồ”…

Thế nhưng, chưa kịp nhìn đất nước mừng vui trong ngày thống nhất, trong ngày đại

thắng, Người đã mãi mãi ra đi. Bác mất là một tổn thất lớn của dân tộc Việt Nam. Người ra đi

để lại bao nỗi đau thương trong lòng đồng bào cả nước. Ca dao cũng đã ghi lại những giây phút

nghẹn ngào ấy: Tang chung ảm đạm đất trời / Một lời Di chúc ngàn đời để thương / Hẹn lòng

giải phóng quê hương / Hai miền Tổ quốc sống chung một nhà / Đàn con nhớ mãi lời Cha /

Quyết tâm thống nhất sơn hà Việt Nam; Nước nhà kháng chiến lâu dài / Mong cho Nam Bắc

thống nhất một nhà vui thay / Thái Phiên nổi dậy đủ đầy / Tây Tàu Nhật Mỹ bỏ nước ta đây rút

về / Mấy mươi năm kháng chiến thật ghê / Tiếc thay sáu chín Cụ về thiên cung…

Tóm lại kết cấu trần thuật là kết cấu tiêu biểu nhất trong ca dao về Bác. Mục đích chính

của loại kết cấu này là thuật lại diển biến sự việc, tái hiện lại trạng thái của sự việc và nhân vật

góp phần giúp người đọc hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra với Người. Người đã đi đâu, làm gì,

cuộc sống ra sao… bằng kết cấu trên, ca dao đã kể lại tương đối đầy đủ và súc tích. Đồng thời,

tác giả dân gian cũng đã khéo léo vận dụng kết cấu trần thuật- cũng như kết cấu đối thoại - để

ghi lại sinh động một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc mà Bác là hình tượng trung tâm

trong suốt chiều dài lịch sử ấy.

2.2.2. Kết cấu đối lập và kết cấu song hành tâm lý

2.2.2.1. Kết cấu đối lập

Dựa vào tiêu chí có đối lập hoặc không có đối lập, người ta chia ra hai loại kết cấu: kết

cấu đối lập và kết cấu song hành tâm lý.

Đối lập là tương phản, là sự khác nhau về hoàn cảnh, thời gian, không gian, tình cảm,

tâm trạng…

Chúng tôi thấy kết cấu đối lập xuất hiện trong bộ phận ca dao về Bác tuy không nhiều

nhưng tác dụng lại không nhỏ. Số lượng bài ca dao được tác giả dân gian sáng tác theo kết cấu

này chiếm 26/521 bài, tỉ lệ 5%. Tuy số lượng ít nhưng các hình thức đối lập lại rất phong phú.

Thứ nhất là đối lập về mặt hoàn cảnh.

Với kết cấu đối lập, bài ca dao sau đã làm nổi bật sự tương phản giữa hai cuộc đời, hai

hoàn cảnh: cuộc đời lầm than của người dân mất nước trong xiềng xích nô lệ, dưới hai tầng áp

bức bóc lột của thực dân, phong kiến và cuộc đời độc lập tự do, hòa bình mà Bác và Đảng đã

dành lại cho đất nước:

Hai tay bưng bát cơm thơm

Con ơi, nhớ lấy công ơn Bác Hồ.

Nhờ ai khoai thúng đấy bồ

Nhờ ai ruộng đất cơ đồ về ta?

Non dài biển rộng bao la

Đời đời ơn Bác thiết tha mặn nồng.

Ngày xưa nước mắt lưng tròng,

Thương con khát sữa xót chồng ngược xuôi.

Bây giờ no ấm vui tươi,

Con đi bộ đội chồng ngồi ủy ban.

Ngày xưa đói rách cơ hàn,

Ruộng vườn chẳng có một gang cắm cày.

Bây giờ ruộng đất về tay,

Tăng gia sản xuất ơn này nhờ ai?

Ơn này mẹ để hai vai,

Một vai ơn Đảng, một vai Bác Hồ.

Rõ ràng chúng ta thấy ở đây một sự đổi đời tận gốc của người nông dân lao động, một

giai cấp chiếm đến chín mươi phần trăm dân số thời Pháp thuộc. Xưa, đói rách, cơ hàn, tủi

nhục. Nay, nhờ Đảng, Bác, không những có bát cơm ăn, tấm áo mặc no ấm, mà còn là người

làm chủ ruộng đồng, làm chủ đất nước, “con đi bộ đội, chồng ngồi ủy ban”, cùng nhau xây

dựng và bảo vệ cơ đồ. Chỉ nói việc học hành thôi cũng đủ thấy nhờ Đảng, Bác, người nông dân

lao động nghèo khổ ngày xưa chẳng biết đến một chữ nào nay đã thoát khỏi cảnh tối tăm để

vươn lên cuộc đời mới có ánh sáng văn hóa:

Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa

Chữ nhất chẳng biết chẳng ưa chữ nào

Chữ nào cũng đã ngồi cao

Chữ ở quan lớn, chữ vào triều vua

Nặng tiền muốn chữ thì mua

Khổ rách chỉ có nhút chua thôi mà

Từ ngày có cả sơn hà

Bác Hồ cho chữ đượm đà hương sen.

Những bài ca dao có cùng kết cấu đối lập: Nhớ xưa nợ gánh ba đời / Chiều ba mươi tết

mẹ ngồi nhìn con / Gánh cực mà đổ lên non / Co chân mà chạy cực còn chạy theo / Giờ đây hết

cực hết nghèo / Vui lên ra ruộng, mừng theo về nhà / Này con, này mẹ, này cha / Chiều ba

mươi tết một nhà ấm no / Qua sông nhớ bến nhớ đò / Ơn này nhớ đức Bác Hồ thương dân; Nhớ

xưa trời tối như bưng / Bán mặt cho đất bán lưng hco trời / Mồ hôi đổ xuống ruộng người /

Ôm rơm rặm bụng, gặt rồi tay không / Nằm mơ cũng chẳng dám mong / Bốn phía ruộng đồng

lắm lúc về ta / Mịt mờ cay đắng năm xưa / Còng lưng nuôi hắn tưởng là hắn nuôi / Quanh năm

nghèo rớt mồng tơi / Tưởng là tại số tại trời gây nên / Từ ngày xóm dưới làng trên / Tố ra hết

khổ vùng lên một lòng / Cụ Hồ mở mắt cho trông / Mới thấy ruộng đồng bốn phía của ta; Quê

em ngụy đến đóng đồn / Chuồng gà hết trứng, cây vườn héo khô / Từ ngày giải phóng đến giờ

/ Đồng hoang lúa mọc, bụi bờ cây xanh; Ngày xưa bưng bát cơm đầy / Nhớ thầy nhớ mẹ

phong sương cấy cày / Ngày nay bưng bát cơm đầy / Ơn Bác ơn Đảng ngày ngày không

quên;...đã giúp người đọc hiểu hơn, xót xa cho hoàn cảnh bị áp bức, bóc lột của nhân dân ta

dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến. Đồng thời người đọc cũng cảm thấy hân hoan,

vui mừng thay khi nhân dân dưới sự dẫn dắt của Đảng và Bác đã từng bước thay đổi, cuộc đời

đã sang trang mới.

Bên cạnh đối lập về hoàn cảnh, ca dao về Bác cũng kế thừa kết cấu đối lập về thời gian,

không gian của ca dao cổ truyền:

Khi đi không biết một nghề

Đường kim mũi chỉ khi về đã quen.

Khi đi lạ bến lạ thuyền,

Khi về chở lúa đồng chiêm đến tài.

Khi đi cày chẳng bằng ai,

Khi về cấy cả xóm Đoài chịu thua.

Năm năm làm lính Cụ Hồ,

Ruộng đồng sông nước bây giờ kém ai.

Với cặp từ đối lập chỉ thời gian “khi đi / khi về”, bài ca dao đã làm nổi bật sự khác nhau

đến mức tương phản trong nhận thức của người lính. Khi đi anh chẳng biết gì “ chẳng biết một

nghề, lạ bến lạ thuyền, cày chẳng bằng ai”, vậy mà khi về, sau năm năm làm lính Cụ Hồ, cái gì

anh cũng biết “ đường kim mũi chỉ đã quen, chở lúa đồng chiêm đến tài, cấy cả xóm Đoài chịu

thua”. Mục đích chính của tác giả dân gian khi vận dụng kết cấu đối lập ở đây không chỉ để nêu

bật sự tương phản trên mà qua đó muốn ca ngợi cái hay, cái tài của những anh lính Cụ Hồ.

Hay bài ca dao sau cũng thế. Sự đối lập của cặp từ “ ngày xưa / ngày nay” giúp cho

người đọc hiểu được tâm trạng của con người trong hai khoảng thời gian khác nhau. Ngày xưa,

dân công nghe đến rừng rú là sợ ma “chân tay bủn rủn, bạt vía xiêu hồn” nhưng ngày nay lại

khác, từ khi vâng lệnh Cụ Hồ, dân công phấn khởi, mạnh mẽ hơn “Vai gánh càng dẻo chân đi

càng bền”, hoàn thành tốt công việc của mình:

Ngày xưa nghe núi nhiều ma

Chưa vô cửa rú lòng đà thấy run

Chân tay bủn rủn bùn rùn

Bạt vía xiêu hồn nên ốm ngẩn ngơ

Ngày nay vâng lệnh Bác Hồ

Dân công dô hò bạt núi ta đi

Mấy năm kháng chiến trường kì

Vai gánh càng dẻo chân đi càng bền.

Song song với thời gian là đối lập về không gian:

Ngoài kia rồng lửa hiên ngang

Trong này bão nổi đập tan quân thù

Ai ơi uống nước nhớ nguồn

Miền Nam thắng Mỹ nhớ ơn Bác Hồ

Tuổi già tóc Bác bạc phơ

Vẫn luôn theo dõi từng giờ ta đi.

Cặp từ chỉ không gian đối lập “ngoài kia / trong này” đã hình thành nên kết cấu đối lập

của bài ca dao. Ngoài kia, chính là miền Bắc xa xôi. Còn trong này là miền Nam. Kết cấu đối

lập này giúp chúng ta hiểu hơn hoàn cảnh hai miền Nam Bắc trong giai đoạn chống đế quốc

Mỹ.

Bác Hồ trong trái tim dân,

Tuy xa nghìn dặm nhưng gần gần ghê.

Đây là bài ca dao của người dân Quảng Nam. Với người dân đất Quảng, về khoảng cách

địa lý thì đúng là Bác Hồ ở rất xa họ “xa nghìn dặm” nhưng về tình cảm thì ngược lại, Bác ở

rất gần bởi ai cũng đặt tình yêu thương Bác trong trái tim mình “ Bác Hồ trong trái tim dân”.

Cặp từ chỉ sự tương phản về không gian “ xa / gần” đã nhấn mạnh tình cảm đó của người dân

Quảng Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.

Những bài ca dao có kết cấu đối lập về thời gian, không gian: Đêm nay đứng giữa chiến

hào / Nghe lời Bác gọi dạt dào niềm tin / Ngày mai giải phóng quê mình / Miền Nam đón Bác

thỏa tình ước mong; Mỗi ngày hai nắm cỏn con / Nhiều ngày góp lại thành lon gạo đầy / Khi

xưa cũng lon gạo này / Góp phần đánh Nhật, đánh Tây tơi bời / Bây giờ giặc Mỹ ma trơi / Gây

nên tội ác khắp nơi quê mình / Nghe lời Bác gọi chí tình / Lại nhắn nhủ mình tiết kiệm thường

xuyên / Bớt từng nắm gạo đồng tiền / Góp phần đánh Mỹ giữ yên quê nhà;…không chỉ giúp

người đọc có cái nhìn thấu đáo về nội dung bộ phận ca dao về Bác mà còn góp phần làm cho

kết cấu đối lập thêm phong phú. Từ đó, mảng ca dao này trở nên đa dạng hơn trong cách diễn

đạt, để lại ấn tượng sâu sắc hơn trong lòng độc giả. Sự tương phản lúc nào cũng có tác dụng

nhấn mạnh điều cần diễn đạt. Cho nên, điều cần diễn đạt càng được nhấn mạnh, càng đa dạng

thì điều đọng lại trong lòng người đọc càng lâu bền.

Tuy nhiên, hình thức đối lập chủ yếu trong bộ phận ca dao này là đối lập về mặt tư tưởng,

tình cảm. Bên cạnh tình cảm yêu thương, kính trọng, biết ơn Bác Hồ, nhân dân ta đồng thời bộc

lộ thái độ căm ghét đối với kẻ thù và nhất là bọn tay sai, bù nhìn. Tình cảm yêu ghét ấy thể hiện rất

rõ trong bài ca dao:

Em yêu Bác Hồ

Em ghét Tổng Ngô

Bác Hồ hiền lành

Tổng Ngô độc ác

Tổng Ngô như chim cắt

Bác Hồ tựa Thái sơn

Chim cắt chết yểu chết mòn

Thái Sơn muôn thuở vẫn còn Thái Sơn.

Tuy là lời nói của một em nhỏ nhưng chúng ta vẫn nhận ra đó chính là tình cảm, thái độ

của nhân dân nói chung. Bài ca dao không chỉ bộc lộ sự tương phản trong thái độ “yêu / ghét”

của nhân vật trữ tình mà còn chỉ ra sự tương phản về đặc điểm, tính cách của đối tượng miêu tả:

Bác Hồ hiền lành / Tổng Ngô độc ác. Để rồi từ sự tương phản ấy, tác giả dân gian đã khẳng

định một điều như chân lí, cũng bằng một sự tương phản, kẻ độc ác thì “chết yểu, chết mòn”,

người hiền lành thì “muôn thuở vẫn còn” trơ trơ.

Yêu quí Bác bao nhiêu, nhân dân càng tin tưởng và nguyện một lòng sắt son theo Bác

bấy nhiêu. Cho nên, dù Ngô Đình Diệm có lôi kéo, dụ dỗ bao nhiêu, người dân vẫn chỉ biết Cụ

Hồ mà thôi. Hàng loạt bài ca dao theo kết cấu đối lập đã nêu bật lên sự tương phản, trái ngược

trong hành động của Tổng Ngô và Bác Hồ: Cứu quốc là Cụ Hồ / Phản quốc là tên Ngô / Sự thật

đã rõ ràng / Tuyên truyền làm sao vô; Cụ Ngô là đứa mô mô / Dân ta chỉ biết Cụ Hồ mà

thôi;…Hiểu rõ hành động phản quốc của Tổng Ngô nên thái độ của nhân dân là rất rõ ràng: Ăn

cơm bên Tống uống nước bên Ngô / Khi đi bỏ phiếu thì Cụ Hồ Chí Minh; Xa Cha gần Diệm

mặc dầu / Lòng con chẳng phút giây nào quên Cha; Theo Cụ Ngô gông đeo đầy cổ / Theo Cụ

Hồ cực khổ tiêu tan;…

Không chỉ có thái độ thù ghét rõ ràng vói chính quyền Ngô Đình Diệm mà nhân dân còn

bộc lộ sự căm thù sâu sắc với bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tất cả những hành động trái

ngược của nhân dân trong các bài ca dao sau đã nói lên điều đó: Bạc Đông Dương kẻ thương

người ghét / Bạc Cụ Hồ kẻ nhét người thu / Già tay thêm nặng oán thù / Dù bay có xé hết đã có

chiến khu ta chở về; Dù cho giặc chiếm đất đai / Chiếm sao cho được lòng người Việt Nam; Dù

cho Mỹ Diệm ỳ ra / Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải thành công; Thằng

Tây có trăm máy bay / Không bằng một cái móng tay Cụ Hồ;…

Những hành động tương phản của nhân dân đã dẫn đến thái độ, tình cảm đối lập chặt chẽ

của người dân đối với lãnh tụ và kẻ thù. Một lần nữa kết cấu đối lập đã phát huy tác dụng của

nó khi khẳng định hai loại tình cảm tồn tại song song trong lòng dân tộc giai đoạn chống thực

dân và đế quốc: yêu kính Cụ Hồ - thù ghét giặc ngoại xâm và bọn tay sai bán nước.

Lí do vì sao nhân dân lại yêu quí Cụ Hồ đến như vậy có lẽ mọi người ai ai cũng hiểu

thông qua các hành động trái ngược của Bác và thực dân, đế quốc, tổng Ngô. Bác Hồ ra sức

cứu nước, cứu dân, trong khi đó Ngô Đình Diệm là tên tay sai bù nhìn, bán nước, Pháp Mỹ là

bọn cướp nước. Bên cạnh đó, tác giả dân gian hiện đại còn miêu tả sự tương phản giữa Bác và

người thường để thấy được sự hi sinh to lớn ở Bác mà không một người dân thường nào có

được. Bài ca dao sau với kết cấu đối lập đã giúp người đọc hình dung và thấu hiểu điều đó:

Người thường cực khổ đôi ba / Cụ Hồ cực khổ tính ra tới mười / Người thường ngày tháng vui

chơi / Cụ Hồ mãn có lo đời ấm no / Người thường toan tính so đo / Cụ Hồ thương nước nên

thờ nước thôi / Người thường chỉ biết cái tôi / Cụ Hồ yêu mến khắp người trần gian / Người

thường nhà cửa cao sang / Cụ Hồ lắm lúc nằm hang, ở gò / Người thường rượu thịt say no /

Cụ Hồ có lúc không thường chén cơm / Người thường là lụa đầy rương / Cụ Hồ bô vải tầm

thường đủ thay / Người thường nệm ấm loay hoay / Cụ Hồ nhiều tối gối tay mà nằm / Người

thường sợ nhọc tấm thân / Cụ Hồ dầu dãi phong trần vẫn vui / Cụ Hồ của chúng con ơi / Bao

giờ Cụ mới thảnh thơi bằng người;…

Với kết cấu đối lập, bài ca dao đã đúc kết gần như hết thảy các lí do khiến nhân dân ta

yêu kính Người. Người chẳng nghĩ gì cho bản thân, chỉ biết hi sinh cho tất cả. Ở đây, sự đối lập

không nhằm phê phán cách sống, thái độ sống của người thường mà qua đó nhằm khẳng định

hơn nữa tình cảm yêu thương của mọi người dành cho Bác.

Tóm lại, sự đối lập lúc nào cũng nhằm nhấn mạnh đối tượng miêu tả. Cho nên, kết cấu

đối lập càng phong phú thì đối tượng miêu tả càng hiện lên rõ ràng, chân thực. Đối tượng mà ở

đây ca dao hướng tới không ai khác chính là Bác Hồ. Như vậy, kết cấu đối lập vừa giúp người

đọc hiểu rõ hơn về Bác, về tình cảm của nhân dân dành cho Bác vừa thấy được thái độ của nhân

dân đối với kẻ thù.

2.2.2.2. Kết cấu song hành tâm lý (kết cấu đối ngẫu tâm lý)

Phạm Thu Yến trong “Những thế giới nghệ thuật ca dao” quan niệm: “Trong các bài

hát được xây dựng theo nguyên tắc đối ngẫu bao giờ cũng theo một trình tự có tính chất nguyên

tắc như sau: trước tiên, bức tranh tự nhiên được đưa ra, tiếp sau đó là bức tranh hình ảnh từ

cuộc sống con người. Cả hai bức tranh đồng thời này biểu trưng cho sự nhất quán, tương ứng

trong tư tưởng, cảm xúc và nguyên tắc, nhưng chúng không hoàn toàn đồng giá trị.”[98,40]

Trong các bài hát được xây dựng theo nguyên tắc đối ngẫu, bức tranh biểu tượng thứ

nhất bao giờ cũng thực hiện chức năng trình bày cảm xúc riêng của mình. Nó tạo ra một cảm

xúc nhất định và ám chỉ nội dung “bức tranh con người” của bài hát. Trong bức tranh thứ hai,

“con người”, nội dung cơ bản về cuộc sống mở ra, những cảm xúc, tư tưởng cụ thể của nhân

vật trữ tình này hay nhân vật trữ tình khác được biểu đạt. Ví dụ, ca dao cổ truyền có bài theo kết

cấu đối ngẫu tâm lý như:

Năng mưa thì giếng năng đầy,

Anh năng đi lại, mẹ thầy năng thương.

Việc trời mưa thường xuyên thì giếng sẽ mau đầy nước song hành với việc anh thường

xuyên đến chơi nhà thì mẹ thầy sẽ mau có cảm tình hơn, thương anh nhiều hơn. Vì thế, mà tình

cảm của đôi ta sẽ thuận lợi hơn. Rõ ràng bức tranh thiên nhiên trong dòng đầu là nền tảng gợi

hứng, dẫn dắt người đọc đến với hình ảnh con người trong dòng thơ thứ hai. Thiên nhiên góp

phần khắc sâu và làm nổi bật nội dung về con người. Nhiều bài ca dao cổ truyền có kết cấu này:

Sen xa hồ, sen khô hồ cạn / Liễu xa đào, liễu ngả đào nghiêng / Anh xa em như bến xa thuyền /

Như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên tái hồi; Quế càng già càng tốt / Mía càng đốt càng

ngon / Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn / Mấy sông cũng lội, mấy hòn cũng leo…

Tương tự như thế, trong ca dao về Bác, người viết cũng thấy xuất hiện kết cấu đối ngẫu

tâm lý. Chẳng hạn:

Dây trầu quấn chặt thân cau,

Toàn dân chiến đấu trước sau quanh Người.

Phải chăng hình ảnh gắn bó, quấn quýt giữa trầu và cau đã giúp tác giả dân gian liên

tưởng đến hình ảnh toàn dân đang quấn quýt chiến đấu trước sau quanh Người? Rõ ràng, thiên

nhiên ở đây chính là hình ảnh gợi hứng, gợi sự suy nghĩ, liên tưởng đến con người. Từ bức

tranh thiên nhiên “dây trầu quấn chặt thân cau”, người đọc sẽ dễ dàng hình dung được cuộc

sống, chiến đấu của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Bác, người người luôn hướng theo Bác, theo

con đường cách mạng mà Bác và Đảng đã vạch ra.

Cây xanh nhờ có mặt trời,

Cá mà sống được cũng thời nhờ sông.

Việt Nam một dải mênh mông,

Toàn dân no ấm công ơn Bác Hồ.

Cũng như vậy, bài ca dao trên nêu lên sự gắn bó mật thiết không thể tách rời giữa toàn

dân và Bác qua hình ảnh cây xanh và mặt trời, cá và sông: cây xanh sống được, xanh tươi là

nhờ ánh sáng mặt trời, cá sống được, tồn tại được là nhờ vào môi trường sông nước như toàn

dân có ấm no, hạnh phúc là nhờ công ơn của Bác Hồ.

Những bài ca dao có kết cấu song hành tâm lý : Ngôi sao sáng giữa cờ hồng / Hình Cha

rực rỡ giữa lòng chúng con; Sông không khô nhờ nguồn dự trữ nước / Việt Nam mạnh nhờ

phước Cụ Hồ cho; Sen xa hồ, sen khô hồ cạn / Liễ xa đào, liễu ngả đào nghiêng / Anh xa em

đừng nhớ đừng phiền / Như Cụ Hồ Chủ tịch biết mấy niên xa nhà …một lần nữa cho thấy sự đa

dạng của các dạng kết cấu trong bộ phận ca dao này. Cùng một đối tượng miêu tả mà ca dao về

Bác đã hướng đến và diễn đạt bằng nhiều kết cấu khác nhau khiến cho đối tượng trở nên sống

động, linh hoạt và nhiều ý nghĩa hơn.

2.2.3. Kết cấu thu hẹp dần hình tượng và kết cấu miêu tả trực tiếp

Dựa vào tiêu chí cách diễn đạt ý tưởng trực tiếp hay vòng vo, dông dài mà người ta chia

kết cấu làm hai loại: kết cấu thu hẹp dần hình tượng và kết cấu miêu tả trực tiếp.

2.2.3.1. Kết cấu thu hẹp dần hình tượng

Kết cấu thu hẹp dần hình tượng là kết cấu diễn đạt, trình bày theo lối từ xa đến gần, từ

rộng đến hẹp, từ những vấn đề thứ yếu đến vấn đề trọng tâm. Kết cấu này nói nôm na giống

như cách diễn đạt quy nạp trong cách hành văn nói chung. Tác giả dân gian thường diễn giải,

miêu tả, trần thuật sự việc rồi sau đó khái quát lên nội dung chính, trọng tâm.

Chẳng hạn những bài ca dao cổ truyền sau thuộc dạng kết cấu thu hẹp dần hình tượng:

- Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen…

- Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân…

Các chàng trai trong những ví dụ trên đã khéo léo mượn cớ nào đó để giãi bày tâm trạng

với biện pháp nghệ thuật đi từ xa đến gần, từ rộng đến hẹp, từ câu chuyện cái áo bị bỏ quên dẫn

đến trình bày cảnh ngộ neo đơn. Bằng biện pháp “nói vòng vo” chàng trai đã dần dần bộc lộ ý

tình ở điểm kết của bài ca khi chàng hứa trả công vá chiếc áo “sứt chỉ đường tà” bằng cả một đồ

sính lễ đầy đủ của câu chuyện hôn nhân nghiêm chỉnh với cô gái. Phải chăng kết cấu từ xa đến

gần như thế giúp chàng trai tự nhiên hơn trong việc ngỏ lời mà cũng tránh được cảm giác ngại

ngùng cho cô gái?

Kế thừa ca dao cũ, ca dao về Bác cũng xuất hiện kết cấu này:

Từ ngày giải phóng quê tôi / Mít tinh lại họp rợp trời cờ bay / Trẻ em đi học ban ngày /

Nhân dân đi cấy đi cày mừng vui / Thuyền bè xuôi ngược ngược xuôi / Có chè Phú Thọ, có sồi

Bắc Ninh / Cây đa bóng mát đầu đình / Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng / Từ nay mặc

sức vun trồng / Nước giàu dân mạnh, vợ chồng ấm no / Hòa bình, độc lập, tự do / Ngàn năm

ơn đức Cụ Hồ không quên.

Mười câu thơ đầu diễn giải sự việc một cách trực tiếp mang tính chất trần thuật, song

dường như nó lại là khởi hứng cho hai câu sau để từ đó toát lên nội dung chính của bài thơ: mọi

khó khăn, cực khổ, mọi tủi hờn, căm giận đều đã qua đi, giờ đây quê hương đã được giải

phóng, nhân dân lại được tự do, khắp chốn chốn nơi nơi đều mừng vui, no ấm vì vậy mong mọi

người hãy nhớ đừng quên công ơn của Cụ Hồ.

Ai về nhớ ghé Bạc Liêu / Ăn chùm nhãn ngọt chín riu mật vàng / Rồi xuôi xuống chợ Cây

Bàng / Đi thăm bãi cát trải vàng biển khơi / Ai xây, ai đắp ai bồi / Công ơn của Bác chói ngời

Bạc Liêu.

Bài ca dao trên cùng chung nội dung. Bốn dòng đầu là lời mời chân thành, mộc mạc: hãy

đến với sản vật và cảnh trí thiên nhiên hữu tình của Bạc Liêu. Thông qua cảnh vật, sản vật đặc

thù của địa phương mình, người dân Bạc Liêu muốn nhắc nhở nhau phải ghi nhớ công ơn của

Bác Hồ bởi chính Bác đã mang đến cuộc tươi đẹp và phong phú hơn xưa.

Ngó lên chùa Bồng Lai cây cao bóng mát,

Ngó xuống bãi biển Cảnh Dương rào rạt xôn xao.

Quê mình biển rộng non cao,

Nhờ cụ Hồ lãnh đạo đồng bào ta được tự do.

Vẻ đẹp dung dị của thiên nhiên hay niềm vui được tự do hạnh phúc đã làm người dân nào

đó cảm thấy cảnh chùa Bồng Lai như mát mẻ, thanh thoát hơn, bãi biển Cảnh Dương như xôn

xao, nhộn nhịp, đông vui hơn. Cảnh và tình hòa quyện với nhau, tâm hồn con người rạo rực

trước cảnh đẹp của thiên nhiên, thiên nhiên hòa cùng niềm vui hạnh phúc của con người. Tất cả

mọi khổ đau đã qua đi chỉ còn lại bóng mát của cây xanh, tiếng rì rào của sóng biển và nhiều

hơn nữa là vẻ mặt hạnh phúc đến viên mãn của người dân đã qua thời kỳ nô lệ.

Những bài ca dao có kết cấu thu hẹp dần hình tượng về điểm kết: Cua đờng ngọt nước

mồng tơi / Cơm trắng đầy nồi chồng xới vợ chan / Dẻo thơm hạt gạo tám xoan / Cả nhà ghi

nhớ công ơn Bác Hồ; Mỗi xuân mỗi tết trồng cây / Cây trùm bóng mát, cây dày quê hương /

Gái trai lớp lớp lên đường / Chiến công tô thắm quê hương mấy lần / Mỗi năm một lớp cây

xuân / Đâm chồi nảy lộc cây vươn lá cành / Ai ơi, trăm nghĩa trăm tình / Bác đi để lại màu

xanh cho đời; Muối mặn ba năm còn mặn / Gừng cay chín tháng còn cay / Dù ai xuyên tạc lắt

lay / Sắt son nguyện giữ lòng này sắt son / Ấu khoe ấu tròn / Bồ hòn nào bồ hòn lại méo / Mỹ

Diệm lắt léo nỏ ai nghe / Dù bay xuyên tạc chán chê / Đồng bào vẫn nhớ có Cụ Hồ thì trăm

việc ngàn bề mới yên;…giúp người đọc rất nhiều trong việc cảm thụ nội dung của văn bản.

Tóm lại, kết cấu thu hẹp dần hình tượng về điểm kết có tác dụng lớn nhất là giúp

người đọc, người nghe khái quát lại nội dung chính, hình dung được vấn đề trọng tâm mà bài ca

dao mang đến. Hay nói cách khác, người nghe dễ cảm nhận được tình cảm mà tác giả muốn gửi

gắm qua bài ca dao. Kết cấu thu hẹp dần hình tượng gây sự chú ý, tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn cho

lời hát, tạo tâm thế cho người tiếp nhận từ từ, tránh đột ngột. Đồng thời, kết cấu này cũng giúp

cho người nói thì dễ nói, người nghe thì dễ tiếp nhận. Nói chung là tạo tâm thế tốt cho cả hai.

Đặc biệt, kết cấu này trong tình yêu thì rất phù hợp bởi nó không tạo sự bất ngờ, đột ngột. Cuối

cùng làm cả bài ca sáng lên, quy về một mối. Chính phần cuối cùng của bài ca sẽ đọng lại lâu

hơn trong lòng nười đọc.

2.2.3.2. Kết cấu miêu tả trực tiếp

Đây là dạng kết cấu đối lập với kết cấu thu hẹp dần hình thương. Nghĩa là, tác giả không

phải vòng vo, xa gần mà nói thẳng, nói trực tiếp vào vấn đề..

Nói về tình thương, sự quan tâm của Người đối với mọi người, một tác giả dân gian nói

thẳng:

Bác Hồ tranh đấu vì dân,

Đã bao gian khó phong trần vượt qua.

Bác mong dân được ấm no,

Bác mong đất nước tự do, hòa bình.

Suốt Trung Nam, Bắc dân mình,

Người bao nhiêu đó nặng tình bấy nhiêu.

Người khác cũng không ngần ngại bộc lộ nỗi thương nhớ, sự mong chờ, tình thương yêu

đến với Bác:

Những đêm đại hội quê hương

Cháu ngồi cháu nhớ tình thương ngọt ngào

Cháu nhìn vầng trán cao cao

Nhìn đôi mắt Bác như sao sáng ngời

Bác nhìn cháu nhỏ khắp nơi

Soi gương bóng tối cho đời thắm tươi.

Còn đây là niềm vui sướng hân hoan của một người dân khi được gặp Bác:

Đời tôi được gặp Cha già

Như con được mẹ mang quà về cho

Như cá gặp nước sông to

Như thuyền được cập bến bờ thân yêu.

Anh lính coi kho thì hứa trực tiếp với Bác rằng:

Tôi là anh lính coi kho

Quanh năm chỉ việc cân, đo, giữ hàng

Nhà kho lại ở trong hang

Bốn bề núi thẳm, rừng hoang mịt mù

Chẳng tu mà cũng là tu

Tu sao cho vẹn Bác Hồ khuyên răn:

Nếu không lo kiệm, lo cần

Khó mà liêm chính, khó mà vô tư

Một mình hang tối âm u

Mà lòng dạ vẫn sáng như ban ngày.

Còn nhiều nữa những cách nói trực tiếp như vậy: Tôi là vận tải dân quân / Tôi đi tải gạo

nuôi quân Cụ Hồ / Quân Cụ Hồ ăn no đánh thắng / Giết giặc nhiều, giải phóng quê hương / Tôi

đi ngày nắng đêm sương / Quyết tâm gìn giữ quê hương vẹn toàn; Trên đường ra trận hôm nay

/ Chúng con đi dưới hàng cây Bác trồng / Con đường dài suốt non sông / Hàng cây Bác tỏa

xanh vòng ngụy trang / Những khi lội suối băng ngàn / Vẫn như có Bác dẫn đàn con đi; Vĩnh

Linh ta làm theo lời Bác / Mặc cho máy bay, đại bác chúng bắn suốt ngày / Cùng nhau chiến

đấu hăng say / Thi đua sản xuất, đôi tay vững vàng; Xa xa pháo nổ giao thừa / Nước non nghe

tiếng Bác Hồ mừng xuân / Giữa rừng mưa lạnh hành quân / Đọc câu thơ Bác âm ran cả

người;…

Sự nói thẳng, nói trực tiếp cũng có cái hay của nó là giúp người đọc hiểu ngay vấn đề,

không phải suy nghĩ gì nhiều. Và cách diễn đạt như vậy cũng dễ đi vào lòng người hơn. Tuy

nhiên, nếu lạm dụng quá cách diễn đạt trên thì e rằng ca dao sẽ mang đến sự khô khan, tẻ nhạt.

Nói chung, sự phân chia các kiểu kết cấu như trên chỉ mang tính chất tương đối. Mỗi bài

ca dao, xét ở nhiều tiêu chí khác nhau có thể thuộc nhiều kiểu kết cấu khác nhau. Ví dụ: Từ

ngày giải phóng quê tôi / Mít tinh lại họp rợp trời cờ bay / Trẻ em đi học ban ngày / Nhân dân

đi cấy đi cày mừng vui / Thuyền bè xuôi ngược ngược xuôi / Có chè Phú Thọ, có sồi Bắc Ninh /

Cây đa bóng mát đầu đình / Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng / Từ nay mặc sức vun trồng

/ Nước giàu dân mạnh, vợ chồng ấm no / Hòa bình, độc lập, tự do / Ngàn năm ơn đức Cụ Hồ

không quên. Bài ca dao được người viết xếp vào loại kết cấu thu hẹp dần hình tượng nhưng xét

ở nhiều tiêu chí khác nhau thì bài ca còn có thể xếp vào kết cấu trần thuật, miêu tả. Hay là bài:

Sen xa hồ, sen khô hồ cạn / Liễ xa đào, liễu ngả đào nghiêng / Anh xa em đừng nhớ đừng phiền

/ Như Cụ Hồ Chủ tịch biết mấy niên xa nhà… vừa là kết cấu đối ngẫu tâm lý vừa là kết cấu trần

thuật, miêu tả, kết cấu đối thoại…

Tóm lại, mỗi một kết cấu có một vị trí, tác dụng khác nhau. Thế nhưng tất cả đã góp phần

tạo nên một bức tranh kết cấu đa dạng và phong phú sắc màu trong ca dao về Bác nói riêng và

ca dao nói chung. Đồng thời qua đó, chúng ta một lần nữa thấy được sự công phu của các tác

giả dân gian trong việc vận dụng các dạng kết cấu để truyền đạt nội dung, ý tưởng. Bất kể họ là

ai, người bình dân hay người tri thức, họ đều có một ý thức chung đó là làm sao diễn đạt được

đầy đủ và trọn vẹn tình cảm, nghĩ suy của mình mà cũng là của tập thể nhân dân đối với vị lãnh

tụ kính yêu.

Chương 3

NGÔN NGỮ CỦA CA DAO VỀ BÁC

Ngôn ngữ là một thành tố nghệ thuật không thể thiếu của ca dao. Ngôn ngữ của tác phẩm

trữ tình dân gian này có sự kết hợp rất độc đáo, sáng tạo giữa ngôn ngữ của đời sống với ngôn

ngữ của thơ ca. Vì thế, ngôn ngữ ca dao rất tinh tế, uyển chuyển. Ngôn ngữ ca dao về Bác cũng

mang những đặc điểm như vậy. Trong luận văn, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát ngôn ngữ ca

dao về Bác ở một số khía cạnh.

3.1. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa phương

Ca dao về Bác được nhân dân trên cả nước sáng tác nên ngôn ngữ trong mảng ca dao này

vừa mang tính toàn dân vừa mang đậm sắc thái địa phương.

Từ ngữ toàn dân là từ ngữ phổ biến chung của dân tộc Việt Nam. Đây là loại từ ngữ mà

khi sử dụng ai ai cũng hiểu, địa phương nào cũng biết. Ca dao về Bác Hồ là tiếng nói tình cảm

của nhân dân đối với Bác nên ngôn ngữ toàn dân được nhân dân vận dụng triệt để và linh hoạt.

Với tính chất trong sáng, giản dị, mộc mạc, trôi chảy, ngôn ngữ toàn dân trong ca dao về Bác đã

tạo nên nhiều lời đẹp, thi vị: Bác về đồng lúa thêm xanh / Mái nhà lại ấm, sân đình lại vui / Nụ

cười em bé thêm tươi / Nhân dân nô nức, người người thi đua; Cầm trên tay ngọn lúa vàng /

Nghe câu em hát mênh mang trên đồng / Hò ơ…Hương lúa thơm nồng / Người dân đất Mũi

nhớ công ơn Cụ Hồ;…

Từ ngữ toàn dân giúp cho ca dao về Bác thêm dễ hiểu, dễ đi vào lòng dân. Tuy nhiên,

vẫn có không ít những bài ca sử dụng từ địa phương. Từ địa phương là từ ngữ chỉ sử dụng ở

một hay một số địa phương nhất định nào đó. Một số từ ngữ địa phương miền Trung xuất hiện

trong bộ phận ca dao này như: o (cô), nốc (thuyền), chi (gì), mô (đâu), nỏ (không), ngái (xa),

bầy tui (chúng tôi)… Cụ thể: Bình Trị Thiên: Đất này là đất Cụ Hồ / Đất cha ông chi thằng

Bảo Đại mà kéo Tây qua đóng đồn; Gió nam từ biển thổi vào / Gió nam thổi nốc lộn nhào cụ

Ngô / Cụ Ngô là đứa mô mô / Dân ta chỉ biết Cụ Hồ mà thôi… Huế: Bớ o, bớ chị, bớ anh Lúa

bên nách giặc ta giành về ta;...

Đà Nẵng: Bác Hồ trong trái tim dân / Tuy xa nghìn dặm nhưng gần gần ghê.

Phương ngữ Nam bộ cũng xuất hiện với tần số cao: vô (vào), phai lạt (phai nhạt), má (mẹ), nè

(này), ngó (nhìn), coi (xem), té ra (thì ra), ơn ngãi (ơn nghĩa), minh minh (mênh mông),…Đọc

những câu sau chúng ta dễ dàng nhận ra sắc thái rất riêng của người dân Nam Bộ: Bác vô,

nghe Bác, Bác ơi! / Bác vô cho được Tháp Mười Bác coi; Ngó qua dãy núi gập ghềnh / Lòng

Hồ Chủ Tịch, lòng mình không xa / Ngày mai thống nhất nước nhà / Chúng ta vui đóm Cha già

vào thăm…

Việc sử dụng từ ngữ địa phương góp phần thể hiện sắc thái riêng của từng địa phương

đồng thời qua đó cũng bộc lộ tình cảm của nhân vật trữ tình: chân chất, mộc mạc như chính

ngôn ngữ của địa phương ấy. Đồng thời, cách sử dụng từ ngữ địa phương giúp người đọc xác

định được chính xác bài ca dao ra đời ở địa phương nào, vùng miền nào. Qua đó, có thể cảm

nhận được sắc thái tình cảm rất riêng của địa phương ấy, vùng miền ấy.

3.2. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường

Ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ thơ ca, gọt giũa, trau chuốt, bóng bẩy, chỉn chu. Ngôn

ngữ văn chương là ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm, có chức năng thông tin và thẩm Mỹ. Ví dụ ca

dao cổ có bài:

Trong đầm gì đẹp bằng sen,

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.

Nhị vàng bông trắng lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Ngôn ngữ trong bài ca dao này không chỉ để thông tin về nơi sinh sống, cấu tạo, hương vị

và sự trong sạch của cây sen, mà quan trọng là khẳng định và nuôi dưỡng một tư tưởng, một

cảm xúc thẩm Mỹ: cái đẹp có thể hiện hữu và bảo tồn ngay trong môi trường có nhiều cái xấu.

Thế nhưng chức năng thẩm mỹ nêu trên nổi bật là nhờ vào tính hình tượng mà ngôn ngữ bác

học mang đến. Cũng trong bài ca dao về cây sen ở trên, nội dung tư tưởng tình cảm, cảm xúc về

cái đẹp không phải được biểu hiện trực tiếp qua từ ngữ và câu văn thông thường mà qua các

hình tượng cụ thể (lá xanh, bông trắng, nhị vàng) và cả các lớp lang trong ngoài để gợi

tả,…Hơn nữa, bao trùm lên tất cả là hình tượng sen như là một tín hiệu thẩm mỹ về phẩm chất

thanh cao, đẹp đẽ trong tự nhiên và cả trong xã hội loài người.

Ngôn ngữ ca dao về Bác bóng bẩy, tượng hình không kém:

Cụ Hồ như cột trụ đồng,

Muốn lay chẳng ngã, muốn rung chẳng rời.

Cụ hồ như cái gương soi,

Soi người trung liệt, soi người tinh ma.

Cụ Hồ như biển bao la,

Ao hồ, sông rạch đổ ra trăm đồng.

Cụ Hồ như cái khánh chuông,

Khua vọng đánh thức những người mê man.

Cụ Hồ như chiếc đò ngang,

Đưa ta đến bến vinh quang đời đời.

Tính hình tượng, tính thẩm mỹ của bài ca dao được hình thành và khắc sâu chính là do

thành công của biện pháp tu từ so sánh và điệp ngữ. Cho nên, bài ca dao vừa có tác dụng gợi

hình vừa có tác dụng gợi cảm cao, giúp người đọc cảm nhận công ơn của Bác cũng như cảm

nhận được niềm tôn kính của nhân dân đối với Bác.

Nhìn sông lại nhớ đến nguồn,

Nhìn cây nhớ cội nhìn non nhớ rừng.

Dù cho xa cách muôn trùng,

Tình dân với Bác vuông tròn thủy chung.

Ngôn ngữ ca dao thật mượt mà, đầy hình ảnh. Ngôn ngữ của bài ca là ngôn ngữ của sự

liên tưởng sông liên tưởng đến nguồn, cây liên tưởng đến cội. Rồi từ đó liên tưởng đến sự gắn

bó thủy chung giữa tình dân và Bác.

Bên cạnh những lớp từ trau chuốt, bóng bẩy, đầy hình tượng, ca dao về Bác vẫn mộc

mạc, chân chất với những từ ngữ đời thường. Ngôn ngữ đời thường là khẩu ngữ, là lời nói trong

đời sống hằng ngày, ít được trau chuốt, gọt giũa, ít được tỉa tót, công phu.

Đọc bài ca dao sau, chúng ta dễ dàng nhận thấy lời ăn tiếng nói của người bình dân:

Tuy rằng Tây phá nơi nơi,

Nhưng mà chúng cháu không đời nào lo.

Có Bác thì ấm, thì no,

Có Bác thì giặc phải thua, chắc rồi.

Tính khẩu ngữ thể hiện trong ca dao trước hết là ở hình thức thêm, bớt âm tiết đối với

những thể thơ truyền thống. Hình thức này rất hay gặp ở thể thơ lục bát biến thể, song thất lục

bát biến thể. Tính khẩu ngữ trong bộ phận ca dao về Bác cũng thể hiện chủ yếu ở hình thức này.

Chẳng hạn: Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe vui tươi / Dắt dìu kháng chiến, giành độc lập cho người

Việt Nam; Chỉ có quân hám sữa cặn, rượu tàn / Mới nói quấy nói quá hòng làm mất thanh

danh Cụ Hồ; Dù cho Mỹ Diệm ỳ ra / Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải

thành công; Con chim không ăn quả hai cành / Miền Nam trước sau vẫn giữ tấm lòng thành với

Đảng Bác kính yêu; Dân ta được ấm được no / Nhờ ơn Hồ Chủ Tịch đưa đến bến bờ vinh

quang; Lòng ta ơn Bác đời đời/ Như rừng không đếm được lá, như trời không đếm được sao;…

Việc thêm bớt âm tiết như trên làm cho ca dao gần với lời nói hằng ngày của quần chúng

lao động. Chính vì gần gũi như thế mà ca dao về Bác trở nên dễ hiểu hơn và dễ đi vào lòng

người hơn.

Ngoài ra, tính khẩu ngữ còn thể hiện ở cách sử dụng các lớp từ, đặc biệt là những đại từ

nhân xưng anh, tôi, chúng bay, thằng, đứa;…Anh ơi tôi nhắn câu này / Than kia lẫn đá xúc đầy

sao đang; Dù chúng bay xuyên tạc chán chê / Đồng bào vẫn nhớ có Cụ Hồ thì mọi bề mới yên;

Cụ Ngô là đứa mô mô / Dân ta chỉ biết Cụ Hồ mà thôi; Chúng ta hứa với Bác rằng / Còn Mỹ

còn đánh một thằng chẳng tha; Bạc Đông Dương kẻ thương người ghét / Bạc Cụ Hồ kẻ nhét

người thu / Già tay thêm nặng oán thù / Dù là bay có xé hết, thì đã có chiến khu ta chở về; …

Rõ ràng những đại từ nhân xưng trên mang nặng tính chất khẩu ngữ. Chúng ta cũng chẳng

ngạc nhiên khi những từ xưng hô trên chỉ nhằm vào bọn cướp nước và bán nước với một thái độ căm

ghét mạnh mẽ và quyết liệt vô cùng.

Tóm lại, lực lượng sáng tác ca dao về Bác vô cùng phong phú, trong đó có lớp người

bình dân, lớp người lao động nên việc xuất hiện ngôn ngữ đời thường là điều tất yếu. Hơn nữa,

ngôn ngữ ca dao có tính chất truyền miệng nên còn phản ánh “lời ăn tiếng nói” của quần chúng

lao động bình dân. Chính đặc điểm này đã làm ca dao về Bác không chỉ xuất hiện những cách nói

bóng bẩy, mượt mà, ý nhị, đầy chất thơ mà còn gặp những cách nói đầy tính khẩu ngữ.

3.3. Cách sử dụng tên riêng chỉ địa điểm

“Từ lâu, các nhà nghiên cứu đã công nhận rằng tên riêng chỉ địa điểm (địa danh), nhất

là những tên gọi ít quen thuộc có khả năng tạo ra một thứ ma thuật âm thanh và nhiều nhà thơ

đầu thế kỷ XX đã sùng bái thủ pháp sử dụng các tên gọi này” [82, 283]. Nguyễn Xuân Kính

thống kê trong 4600 bài ca dao cổ truyền có 377 bài sử dụng tên riêng chỉ địa điểm (chiếm

8,2% ). Trong số 377 bài, số lần địa danh xuất hiện là 615.

Cũng theo nguyễn Xuân Kính, trong số 1100 bài thơ của các tác giả Nguyễn Trãi, Lê

Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương, số bài

chỉ địa danh là 194, chiếm 17,6%.

Ca dao về Bác cũng xuất hiện ngôn ngữ dùng tên riêng chỉ địa điểm. Kết quả thống kê

trong số 521 bài ca dao về Bác có 151 bài sử dụng tên riêng chỉ địa điểm, chiếm 29%. Trong

151 bài, số lần địa danh xuất hiện là 280.

So sánh với ca dao cổ truyền và thơ, tỉ lệ bài ca dao chỉ địa danh trong ca dao về Bác

chiếm tỉ lệ cao hơn cả. Điều này cho thấy đây là một hiện tượng khá đặc biệt của mảng ca dao

này.

Khảo sát những tên riêng này, chúng tôi thấy xuất hiện các loại:

Tên các đơn vị hành chánh (làng, xã, huyện, tỉnh, miền, nước...) xuất hiện 220 lần chiếm

78,6 %. Trong đó xuất hiện nhiều nhất là tên Miền Nam 56 lần (10,7%): Miền Nam chiến đấu

gian nan / Bác là sức mạnh vững vàng niềm tin; Dầu cho bão tố phong ba / Miền Nam vẫn có

Cha già đứng bên; Đấu tranh là lửa thử vàng / tên Người khắc giữa miền Nam sáng ngời; Dây

trầu quấn chặt thân cau / Miền Nam chiến đấu trước sau quanh Người; Ngày mai giải phóng

quê mình / Miền Nam đón Bác thỏa tình ước mong; bác thương các cháu khổ nghèo / Miền

Nam xa Bác sớm chiều trông ra; Miền Nam ghi mãi trong lòng / Tháng năm mười chín, ngày

sinh Cha già;…

tên nước Việt Nam 27 lần (5,2%): Dù cho giặc chiếm đất đai / Chiếm sao cho được lòng người

Việt Nam; Dù cho giặc lắm mưu mô / cũng không chia nổi cơ đồ Việt Nam; Nhớ công ơn của

Cha già cứu tinh / Cuộc đời thống nhất hòa bình Việt Nam; Trên trời có ông sao Rua / Việt

Nam ta có Bác Hồ em ơi; Trèo truông mới biết truông cao / Việt Nam kháng chiến mới biết

công lao Cụ Hồ; Việt Nam có Hồ Chí Minh / Ai ơi, bác đã hi sinh trọn đời…

Tên những địa điểm vốn là đối tượng lao động và những địa điểm phục vụ giao thông:

sông (18), đầm (1), giếng (1), núi (13), rừng (1), đèo (2), hang (1), mũi (2), biển (3), cầu (1), bãi

bến (2), đảo (1): Ngọn Tây Phong Lĩnh Bác trèo / Để giờ có núi có đèo con qua; Núi cao là

núi Thái Sơn / Ơn cao nghĩa cả là ơn Cụ Hồ; Núi Trường Sơn không sờn mưa nắng / Biển

Thái Bình chắc chắn không khô; Núi Mẫu Sơn cao biết bao nhiêu trượng / Sông Nhật Lệ sâu

biết bao nhiêu tầm; Rừng Tây Nguyên muôn đời ơn Bác; Trơ trơ như cụm núi Sầm / Thản

nhiên như mặt nước đầm Ô Loan; Tàu đi qua đảo Cô Tô / Đẹp sao thấy tượng Bác Hồ trên

cao;…

Tên những địa điểm thực hiện sinh hoạt xã hội và những địa điểm sinh hoạt văn hoá, tín

ngưỡng: chợ (4), chùa (1), đồng (3), đồn (1): Ngó lên chùa Bồng Lai cây cao bóng cả / Ngó

xuống bãi biển Cảnh Dương rào rạt sóng xao / Quê mình biển rộng non cao / Nhờ Cụ Hồ lãnh

đạo đồng bào ta được tự do; Đồng Diên Canh cắt nhanh dấu vội / Đồng Phú Nội cắt vội dấu

nhanh; Thuyền ai xuôi chợ Vực / Thuyền ai ngược Đô Lương / Thuyền ai chở khách chở

phường / thuyền em chỉ chở công lương cho Cụ Hồ;…

Trong ba loại kể trên, loại tên các đơn vị hành chánh xuất hiện nhiều hơn cả: 220 lần

trong tổng số 280 lần.

Những bài ca dao chỉ địa danh nói trên phản ánh hai chủ đề. Thứ nhất là phản ánh tình

cảm của nhân dân cả nước đối với Bác. Qua thống kê 151 bài có địa danh, có 62 bài (chiếm

41%) được sáng tác và lưu truyền với chủ đề này. Địa danh gắn với nỗi niềm thương nhớ Bác,

đặc biệt là nỗi nhớ mong của đồng bào miền Nam: Miền Nam chúng cháu đang chờ Bác đây;

Tháp Mười chúng cháu đang chờ Bác đây; Miền Nam thương Bác trong lòng; Miền Nam đau

khổ sớm chiều trông ra; Miền Nam mới hết nhớ thương Bác Hồ; Bắc Nam sum họp một nhà;

Mong ngày đón Bác vào trong Khánh Hòa; Việt Nam ta có Bác Hồ / Việt Nam ta có ngọn cờ

vàng sao; Miền Nam đón Bác, thỏa lòng ước mong;... Địa danh còn dùng để thể hiện lòng

quyết tâm của nhân dân, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn trở ngại trong cuộc kháng chiến

trường kỳ của dân tộc, quyết tâm thực hiện theo lời Bác dạy, quyết tâm đi theo con đường mà

Đảng, Bác đã đề ra để thống nhất nước nhà: Tiếng Bác vọng đến non Hồng / Sông Lam, núi

Quyết đều cùng reo vui / Ghi từng tiếng, nhớ từng lời / Pháo tung lưới lửa, giữa trời Nghệ An

/ Chúng cháu thề quyết đánh tan quân thù; Trường Sơn nguyện, Cửu Long thề / Quyết tâm

giết giặc đồng quê mong chờ; Từ Vạn Linh đến Can Lâm / Lòng dân đồng điệu, đồng tâm với

Cụ Hồ; Mũi Cà Mau nhắn với Mục Nam Quan / Sông Thao nhắn với sông Trà / Hai dòng

một nước dân ta một nòi; Cửu Long nước chảy xuôi dòng / Miền Nam chung sức chung lòng

đánh Tây; Dẫu cho tan núi Chóp Chài / Lòng dân với Bác chẳng đời nào tan;...

Ca ngợi cảnh vật và truyền thống địa phương là chủ đề phổ biến thứ hai. Tuy nhiên,

thông qua việc ngợi ca cảnh đẹp ấy, tác giả dân gian muốn nhấn mạnh đến ơn đức của Bác Hồ.

Nhờ Bác lèo lái con thuyền cách mạng đến bến bờ vinh quang nên cuộc sống và thiên nhiên

Việt Nam mới tươi đẹp đến như vậy: Ai về nhắn bạn đường xa / Nón đẹp tỉnh nhà là nón Tam

Dương / Kim Thành trồng mía lắm đường / Đũi dẹt Cát Tường vừa ý nhiều cô / Ai lên thưa

với Cụ Hồ / Quê em nghề phụ bốn mùa vui tươi; Ai về nhớ ghé Bạc Liêu / Ăn chùm nhãn ngọt

chín riu mật vàng / Rồi xuôi xuống chợ Cây Bàng / Đi thăm bãi cát trải vàng biển khơi / Ai

xây, ai đắp ai bồi / Công ơn của Bác chói ngời Bạc Liêu; Ngó lên chùa Bồng Lai cây cao

bóng cả / Ngó xuống bãi biển Cảnh Dương rào rạt sóng xao / Quê mình biển rộng non cao /

Nhờ Cụ Hồ lãnh đạo đồng bào ta được tự do; Vú sữa Cần Thơ vỏ hồng như cà tím / Cần Thơ

gửi vú sữa kính dâng Bác Hồ;...

Ca dao về Hồ Chí Minh nằm trong dòng phát triển của thơ ca dân gian về nhân vật lịch

sử. Về điều kiện phát sinh và lưu truyền, nếu như trong thời kỳ quốc gia phong kiến, ca dao lịch

sử thường xuất hiện ở nơi xảy ra sự kiện lịch sử đó, rồi dần dần lan truyền ra nhiều địa phương

và truyền tụng từ đời này sang đời khác, thì ca dao về Bác Hồ có ở khắp mọi nơi trên đất nước.

Từ miền núi Trường Sơn Tây Nguyên đến đồng bằng ven biển. Từ Bắc vào Trung tới chót mũi

Cà Mau Nam bộ. Từ trong nước đến đồng bào xa Tổ quốc. Nghĩa là ở đâu có người Việt Nam

yêu nước ở đó có ca dao về Bác Hồ. Đặc điểm đó đưa đến một đặc điểm nghệ thuật là sự xuất

hiện tên địa phương. “Tên địa phương vốn là đặc điểm phổ biến trong thơ ca ở mọi thời đại,

không phải là đặc điểm riêng của thơ ca dân gian. Song chỉ với ca dao lịch sử tên địa phương

mới trở thành yếu tố độc lập trong thể loại”. [79, 189]. Đó là vì mục đích miêu tả tự sự để ghi

nhớ những chiến công lịch sử. Chẳng hạn, Rạch Gầm ( Rạch Gầm ghi dấu muôn đời oai

danh...), Biện Thượng Lam Sơn ( Ai lên Biện Thượng Lam Sơn, Nhớ lê Thái Tổ chặn đường

quân Minh.)...là những yếu tố như thế. Tác giả Hà Công Tài trong Vấn đề nghiên cứu thơ ca

dân gian hiện đại đã nhận xét rất đúng khi cho rằng trong ca dao về Bác, tên quê, tên đất không

còn là miêu tả tự sự mà bộc lộ tâm trạng con người. Nó gây ra những liên tưởng, tình cảm, ý

nghĩ, và tất cả những cái gì tạo ra đời sống tinh thần của chủ thể. Nó thực hiện sự thống nhất lại

giữa quê hương với Bác Hồ: Tháp Mười đẹp nhất bông sen/ Nước Nam đẹp nhất có tên Cụ

Hồ...

Việc sử dụng tên riêng chỉ địa điểm trong ca dao về Bác cho ta thấy một điều kỳ thú nữa

xảy ra trong văn học Việt Nam là một con người yêu quê hương đất nước vô cùng (Quê hương

nghĩa nặng tình cao...Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi) lại được thơ ca nhận thức bằng chính

hình ảnh của quê hương đất nước. Phải chăng đó là sự kế thừa truyền thống biểu lộ niềm tự hào

về đất nước giang sơn gấm vóc qua lời thơ ngợi ca cảnh sắc, sản vật, con người của đất nước,

của nhân dân ta từ ngàn xưa. Kết quả trên khẳng định một lần nữa về đối tượng sáng tác ca dao

về Bác là rất nhiều, rất phong phú. Họ ở khắp mọi miền trên Tổ quốc, khắp các tỉnh thành, suốt

Bắc Trung Nam.

3.4. Cách sử dụng ngôn ngữ trùng lặp

Trong “ Những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình”, Đặng Văn Lung quan niệm:

“Thuật ngữ trùng lặp ở đây hoàn toàn không có nghĩa xấu của chữ “lặp lại” (lặp lại một cách

đơn giản, máy móc) mà trái lại để chỉ những nét đã định hình, đã là truyền thống của ca dao”

[43 , 112]. Như vậy, trùng lặp theo quan niệm trên thì rõ ràng là tốt, mang tính chất tích cực.

Theo tác giả có một số mặt trùng lặp sau: hình ảnh, kết cấu và ngôn ngữ.

Đọc ca dao về Bác, ta thấy một số từ ngữ được lặp đi lặp lại mãi. Chúng tôi thống kê một

loạt các từ ngữ trùng lặp, sắp xếp theo thứ tự giảm dần tần số xuất hiện

Bảng thống kê các từ ngữ trùng lặp

Số thứ tự Từ được lặp lại Số lần xuất hiện

1 Ơn, nhớ ơn, công ơn, công lao 115

2 thương, yêu thương, nhớ thương 42

3 Mong, chờ, trông 33

Theo bảng trên, các từ ngữ ơn, công ơn, nhớ ơn, công lao được lặp lại nhiều nhất: Con

ơi nhớ lấy công ơn Bác Hồ; Đời đời ơn Bác thiết tha mặn nồng; Ơn này mẹ để hai vai; ơn cao

nghĩa cả là ơn Cụ hồ; Kể sao cho hết công lao Bác Hồ; Cụ Hồ ơn đức biết bao; Ơn dày sánh

đất, đức cao sánh trời; Đố ai đếm được công lao Bác Hồ; Ơn sâu nghĩa nặng gấp ba bốn lần;

Công lao Cụ Hồ đậm đà mưa nắng; Công ơn Đảng, Bác còn dày, còn to; công ơn Bác như trời

cao biển rộng; Công ơn của Bác bao la; cả nhà ghi nhớ công ơn Bác Hồ; lòng ta ta giữ, ơn Cụ

Hồ ta ghi;…

Hiện tượng lặp lại này đã làm nổi bật nội dung của mảng ca dao kể trên. Đó chính là

lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với công lao vô cùng to lớn của Bác.

Bên cạnh lòng biết ơn sâu sắc, nhân dân đồng thời còn bộc lộ tình yêu thương, kính trọng

Người vô cùng. Các từ thương, yêu thương, nhớ thương, yêu, kính yêu cứ lặp đi lặp lại trong

các câu ca dao về Bác như một lời khẳng định mạnh mẽ tình cảm chân thành, sâu sắc của nhân

dân đối với Bác: Cụ Hồ là đuốc sáng ngời / Nhắc đến tên Cụ muôn người yêu thương; Ai ra

miền Bắc xa xôi / Xin cho nhắn gửi đôi lời nhớ thương; Miền Nam thương Bác trong lòng /

Giữa bom đạn, giữa những vòng thép gai; Khai Long mà hết cá đường/ Miền Nam mới hết nhớ

thương Bác Hồ; Thương Cha lo nghĩ trăm đường; Vì thương Bác quyết đạp bằng khó khăn;

Em yêu Bác Hồ;...

Tình thương ấy đong đầy như thế là bởi tình thương của Bác dành cho muôn dân cũng

đong đầy, lai láng. Người quan niệm ”Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn

không ngon, ngủ không yên.” [18,54]. Trong đời hoạt động cách mạng cũng như trong đời sống

hằng ngày của mình, Hồ Chủ tịch luôn đối xử tốt với mọi người. Bác Hồ là muôn vàn tình thân

yêu đối với đồng bào, đồng chí. Trong tình thương yêu đó, có chỗ cho mọi người, không quên,

không sót một ai: Cụ Hồ yêu nước thương nhà / Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù; Bác thương

dân thợ bao nhiêu / Thì ta sản xuất càng nhiều đạn bom; Tình thương của Bác mênh mông /

Ân cần tha thiết, ấm lòng chúng con; Tình thương Bác để đời đời cho con; Thương dân lòng

Cụ vô bờ; Bác thương các cháu khổ nghèo;...

Trong lòng Bác, đồng bào miền Nam chiếm một vị trí đặc biệt. Những lúc vui mừng nhất

của Bác là lúc nhận được tin chiến thắng ở miền Nam; và nghĩ đến những đau khổ của đồng

bào miền Nam là Bác lại bùi ngùi, xót thương vô hạn. Chính vì thế, Bác cũng chiếm một vị trí

đặc biệt trong lòng Nhân dân miền Nam. Ca dao miền Nam về Bác cứ trở đi trở lại những từ

mong, nhớ mong, mong chờ, đón chờ, đón vô...Đó là niềm mong mỏi tha thiết, mong ước đến

cháy lòng: đó là được một lần đón Bác vào thăm để thỏa lòng mong nhớ: Thỏa lòng ngày ước

đêm mơ / Miền Nam hồi hộp đón chờ Bác vô / Ngày mai giải phóng quê mình / Miền Nam đón

Bác thắm tình ước mong; Mong ngày đón Bác vào trong Khánh Hòa; Trẻ, già, trai, gái, đều

mong Bác về; Miền Nam đón Bác thỏa lòng ước mơ; Mong ngày độc lập Cụ vô; Chúng ta vui

đón Cha già vào Nam; Mong ngày, mong tháng Bác vô; Miền Nam mở hội đón mừng Bác vô;

trông cho thống ngất nước nhà / Để mừng đón tiếp Cha già vào đây; Trông ngày đón Cụ sum

vầy Bắc Nam; Sài Gòn vui sướng đón Người vô thăm;...

Ngoài ra, trong ca dao về Bác, hàng loạt những từ đinh ninh, ghi tạc, một lòng, một

dạ... cũng lặp lại nhiều lần nhằm khẳng định lòng chung thủy, son sắt đối với Đảng, với Bác.

Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, khó khăn, khổ cực, tủi nhục nào, nhân dân cũng nhớ ghi lời

Bác, một lòng theo Bác, theo con đường cách mạng mà Bác đã vạch ra: Dù cho biển cạn non

mòn / Lòng dân với Bác vuông tròn thủy chung; Lòng miền Nam tròn vành vạnh như chiếc

nón bài thơ đội đầu; Miền Nam một dạ theo đường Bác đi; Ghi sâu lời Bác đinh ninh đời này;

Ngàn năm con cháu đinh ninh nhớ lời; Một lòng cháu nguyện theo lời Bác răng; Đấu tranh

gian khổ lời Cha ghi lòng; Chúng con vẫn giữ lời khuyên Cha già; Một lòng Bác dạy tạc ghi;

Chúng con ghi tạc những lời sắt son; Trước sau một dạ, một lòng / Muôn đời ghi tạc công ơn

của Người;...

Không chỉ lòng dân với Bác vuông tròn thủy chung mà đồng bào còn tin tưởng hoàn toàn

vào khả năng lãnh đạo cùa Bác, niềm tin chắc chắn rằng có sự dìu dắt, chỉ dẫn của Bác thì

thắng lợi nhất định sẽ về ta, đất nước sẽ được thống nhất, tự do: Con dù gian khổ đến đâu /

Vững tin vì biết trên đầu có Cha; Gian nan cực khổ mặc dầu / Lòng tin Đảng Bác càng sâu

càng nồng; Miền Nam chiến đấu gian nan / Bác là sức mạnh vững vàng niềm tin;...

Kết cấu đối thoại của ca dao cổ truyền khiến cho một số từ ngữ xưng hô cứ lặp đi lặp lại

như: chàng-nàng, chàng-thiếp, thuyền-bến, mình-ta: chàng ơi phụ thiếp làm chi / Thiếp như

cơm nguội đỡ khi đói lòng; Em ơi ngoảnh mặt lại đây / Anh nhìn thấy mặt cho khuây tấm lòng;

Thuyền về có nhớ bến chăng? / Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền; Mình về ta chẳng cho

về / Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ;...

Trong ca dao về Bác, các cặp từ xưng hô: Bác-chúng con, Bác-chúng cháu, Bác-cháu,

Bác-con, Cha-con...cứ trở đi trở lại: Bác Hồ ơi! / Cháu là em bé phương xa; Bác ơi, dù Bác đi

rồi / Một lòng cháu nguyện theo lời Bác răng; Ước gì Bác lại thăm luôn / Bóng đa che nắng,

dừa tươi con mời; Cháu đi lòng Bác theo cùng; Bác đi cháu tiếc ngẩn ngơ trong lòng; Chúng

con đây đó xa gần / Noi gương liêm chính, kiệm cần của Cha; Chúng con giành lúa nuôi quân

/ Sản xuất tiết kiệm cho vừa lòng Cha; Chúng con khuya sớm chuyên cần / Từng trang giáo án

thấm lời Bác khuyên; Chúng con vượt đỉnh đèo cao / Bỗng nghe thơ Bác gọi vào mừng xuân;...

Kế thừa cách xưng hô trong ca dao cũ nhưng ca dao về Bác lồng vào đó nội dung mới, từ xưng

hô mới có tác dụng nhấn mạnh mối quan hệ ruột thịt giữa Bác và nhân dân. Nhân dân gọi

Người là Bác, là Cha và xưng mình là con, là cháu. Dường như, khoảng cách giữa lãnh tụ và

nhân dân đã bị xóa bỏ, thay vào đó là mối quan hệ Cha-con, Bác-cháu ruột thịt thân thiết,

không tách rời.

Tóm lại, hiện tượng trùng lặp từ ngữ nêu trên cho thấy bộ phận ca dao về Bác có sự kế

thừa ca dao cổ truyền. Đó là sự kế thừa về đề tài. Các đề tài mà thể loại ca dao nói chung lựa

chọn phần lớn xoay quanh gia đình, làng xóm, quê hương và đất nước. Ca ngợi lãnh tụ, ca ngợi

các anh hùng dân tộc thuộc vào đề tài ngợi ca quê hương, đất nước. Cách giải quyết chung của

tác giả dân gian là thường xoáy vào khẳng định tình cảm và củng cố tình cảm tốt đẹp đối với

đối tượng mà họ hướng đến để bày tỏ. Ca dao về Bác cũng thế. Việc lặp đi lặp lại liên tiếp

những từ ngữ biểu lộ cảm xúc, trạng thái như yêu thương, biết ơn, kính trọng, mong chờ,...

chính là cách mà nhân dân muốn khắc sâu tình cảm của mình với Bác. Hơn nữa việc lặp lại như

vậy cũng làm cho những tình cảm ấy của nhân dân đối với Bác càng trở nên đậm đà hơn.

Trong quá trình khảo sát mảng ca dao nói trên, người viết còn phát hiện một điều thú vị

khác, đó là bộ phận ca dao này đã kế thừa một số công thức quen thuộc của ca dao xưa:

Công thức “ chiều chiều”

“Chiều chiều” trong ca dao là một công thức thời gian quen thuộc. Lấy thời điểm cuối

ngày với nhiều tâm trạng, ca dao truyền thống đã có hàng trăm bài lựa chọn công thức thời gian

này để thể hiện tâm tư tình cảm của mình, ở đây là nỗi nhớ thương da diết, sâu nặng. “Chiều

chiều” là thời khắc tụ họp trở về, gặp gỡ đoàn viên nên thời khắc này như chạm vào sợi dây

lòng vốn đang rất nhạy cảm của tâm hồn nhân vật trữ tình. Đó là nỗi nhớ nhà, nhớ quê (Bâng

khuâng nhớ mẹ chí chiều ruột đau), nỗi nhớ người yêu ( Nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai),

nỗi nhớ bạn (Ta đây nhớ bạn bạn rày nhớ ai/)…Và giờ đây trong ca dao về Bác, một nỗi nhớ rất

mới, rất hiện đại, đó là nhớ Bác, nhớ lời dạy của Bác được truyền tải và làm phong phú thêm

cho nỗi nhớ “chiều chiều” trong ca dao nói chung: Chiều chiều nhớ lại chiều chiều / Nhớ lời

Bác dạy nhớ điều Bác khuyên / Những lời vàng ngọc không quên / Con đường thống nhất càng

bền đấu tranh; Chiều chiều ra tắm giếng Vàng / Ngó về Ngũ Phúc, ngó sang Thiên Cầm / Mẹ

già cuốc bẫm cày sâu / Vụ chiêm gặt hái đã gần xong chưa? Đêm qua trời đổ cơn mưa / Đắp

bờ giữ nước vụ mùa ai lo / Ai bàn kế hoạch giúp cho / Kịp ngày sinh nhật Bác Hồ dâng lên;…

Công thức “ đêm nay”

Cũng là công thức thời gian nghệ thuật, nhưng “đêm” là yếu tố thời gian biểu thị một

trạng thái xúc cảm khác của nhân vật trữ tình. Đêm là thời khắc vạn vật đã đi vào giấc ngủ,

cảnh vật yên ắng, tĩnh mịch. Con người thấy rõ mồn một tâm trạng của mình như được phơi

bày ra trong đêm. Đêm để thương nhớ cũng có (Đêm năm canh anh ngủ được một canh đầu,

Còn bao canh nữa buồn rầu không nguôi), đêm để cô đơn cũng có (Đêm nằm lưng chẳng bén

giường, đêm nằm vuốt bụng thở dài…), đêm để hò hẹn gặp gỡ, để thề nguyền ước hẹn ( Đêm

trăng thanh anh mới hỏi nàng…)…

Trong bài ca dao dưới đây, nhân vật trữ tình xưng “con” cho ta thấy nỗi lòng của một

người con nhớ cha, khao khát được gặp cha, nhân dịp rất đặc biệt là ngày 19 tháng 5- ngày sinh

nhật của người Cha kính yêu. Lấy tâm hồn ví như ánh trăng sáng để đối lập với màn đêm, nhân

vật trữ tình hẳn là một người dân đang bị cầm tù, cất tiếng nói đại diện cho hàng triệu đồng bào

miền Nam ruột thịt chúc thọ Bác Hồ, hướng về Bác và cảm nhận như chính hình ảnh Bác đã soi

sáng vào tâm hồn mình, nhớ Bác để tâm hồn mình thanh lọc, trong sáng hơn: Đêm nay mười

chín tháng năm / Hồn con sáng tợ trăng rằm trung thu / Con đang chúc thọ trong tù / Con đang

dựng một rừng cờ trong tim / Đêm nay mộng hóa thành chim / Tung qua cửa sắt con tìm đến

Cha. Và nhiều nữa những bài ca dao có cùng công thức: Đêm nay ngồi dưới chiến hào… Đêm

nay trăng sáng đầy trời… Đêm nay trăng tỏ mặt người …

Công thức “ ai đi”, “ai về”, “ai lên”

ở nhóm chủ đề ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, ta gặp rất nhiều những công thức

quen thuộc như ai đi, ai về… Các công thức này thường đứng ở đầu câu, gắn với một địa danh

cụ thể. Và câu ca dao như một lời mời gọi, rủ rê, “dụ dỗ” ai đó về với quê mình. Để từ đó mở ra

một loạt các hình ảnh về phong cảnh, sản vật, con người…như để chỉ ra nét đặc trưng rất riêng

làm nên màu sắc, làm nên dấu ấn địa phương.

Ca dao xưa:

Ai đi Châu Đốc, Nam Vang

Ghé qua Đồng Tháp, bạt ngàn bông sen.

Ca dao mới về Bác cũng có trường hợp như thế, cũng giới thiệu vẻ đẹp của địa phương

nhưng rồi mục đích cuối cùng lại là đề cập đến lòng biết ơn của nhân dân địa phương ấy đối với

Bác Hồ:

Ai về nhớ ghé Bạc Liêu,

Ăn chùm nhãn ngọt chín riu mật vàng.

Rồi xuôi xuống chợ Cây Bàng,

Đi thăm bãi cát trải vàng biển khơi.

Ai xây, ai đắp, ai bồi,

Công ơn của Bác chói ngời Bạc Liêu.

Và hàng loạt các bài khác mở đầu bằng công thức trên: Ai ra Việt Bắc… Ai lên Việt

Bắc… Ai ra miền Bắc… Ai về đất tuyến Vĩnh Linh…Ai về An Dưỡng, Hoàng Mô… Ai về nhắn

bạn đường xa… Ai về thưa với Bác Hồ…

Không chỉ kế thừa công thức mở đầu, ca dao về Bác còn kế thừa cả dòng mở đầu của ca

dao cổ truyền. Ca dao về Bác mượn nguyên dòng đầu quen thuộc của ca dao xưa và lắp vào đó

nội dung mới. Chẳng hạn:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Bác Hồ hơn mẹ hơn cha,

Ơn cao nghĩa cả bao la biển trời.

Hai câu đầu bài ca dao cũ đề cao công lao sinh thành và nuôi dưỡng của cha mẹ để từ đó

hai câu sau nhắc nhở con cháu phải trọn đạo làm con, phải hiếu thảo, yêu kính cha mẹ. Ca dao

về Bác lặp lại hai câu đầu nhưng qua đó nhân dân khẳng định, ngợi ca công ơn biển trời của

Bác Hồ, công ơn ấy còn hơn cả cha mẹ.

Ca dao cũ:

Còn người, còn nước, còn non,

Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.

Câu đầu chỉ mang tính chất gợi hứng. Nội dung câu sau là cảm xúc say sưa ngây ngất của

chàng trai đối với cô bán rượu.

Còn non, còn nước, còn người

Tình thương Bác để đời đời cho con.

Cũng lặp lại nguyên câu đầu của ca dao cổ, nhân dân một lần nữa khẳng định tình thương bao

la của Bác dành cho các thế hệ con cháu Việt Nam.

Ca dao cũ:

Bao giờ chạch đẻ ngọn cây

Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.

Câu ca dao biểu hiện lời thề “bất hợp tác” giữa ta với mình. Hay đó có thể là lời từ chối

khéo léo của cô gái bởi đó là điều kiện mà sẽ chẳng bao giờ xảy ra.

Ca dao về Bác:

Bao giờ chạch đẻ đọt cây

Người không uống nước, gậy tày sinh con

Thì lòng tin tưởng Cụ Hồ,

Vẫn không phai lại xóm đò bầy tui.

Cũng mượn câu đầu, mượn cái điều kiện không bao giờ xảy ra ấy, tác giả dân gian muốn

khẳng định niềm tin tưởng sắt son của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt

của Bác Hồ.

Hình thức này xuất hiện khá phổ biến trong ca dao về Bác cũng như ca dao hiện đại: Đèo

cao thì mặc đèo cao / Tinh thần tiếp vận còn cao hơn đèo; Gió đưa gió đẩy bông trang / Ai

đưa ai đẩy cho chàng xuất chinh / Ngày sau đặng chữ hòa bình / Anh về em vẫn chung tình với

anh; Gió đưa bụi chuối sau hè / Không đi Vệ quốc, bạn bè cười chê;Dù ai nói ngả nói

nghiêng / Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân / Dù ai rào giậu ngăn sông / Lòng ta vẫn giữ

là dân Cụ Hồ; Còn người, còn nước, còn non / Còn anh du kích nước non an bình; Con ơi,

con ngủ đi con / Ngày mai khôn lớn nước non cậy nhờ; …

Ngoài ra, ca dao về Bác còn kế thừa một số khung kết cấu của ca dao cổ truyền. Ca dao

cổ truyền có những khung kết cấu có sẵn để lồng những hình ảnh cũng có sẵn. Chẳng hạn:

Nước Ngọc sơn vừa trong vừa mát /Đường Nam giang lắm cát dễ đi. (Nghệ An); Nước Trịnh

Tôn vừa trong vừa mát / Đường Trịnh Tôn lắm cát dễ đi. (Thanh Hóa); Nước Thổ Hà vừa trong

vừa mát / Đường Thổ Hà lắm cát dễ đi. (Hà Bắc)

“Đặc điểm có sông nước có cát bồi là chung cho tất cả những làng xóm định cư theo dọc

sông. Ở đâu có đặc điểm ấy đều có thể sử dụng cái khung miêu tả này mà thay tên địa phương

mình vào” [43, 115].

Ca dao về Bác và ca dao hiện đại cũng kế thừa hình thưc lặp như trên. Ca dao về Bác đã

kế thừa khung kết cấu “Thấy…thì nhớ…/Thấy…thì thương…”

Cũng nói về địa danh – phong cảnh, sản vật, con người, ca dao còn có khung kết cấu liên

tưởng “Thấy…thì nhớ…/ Thấy…thì thương…” . Ca dao mới mượn toàn bộ khung kết này của

bài ca , biến thành thể hứng để tạo ra sự liên tưởng mới. Ta có thể thấy câu:

Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười.

Hay từ câu ca dao:

Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông lúa đẹp thương về Cần Thơ.

Ta có cả bài ca dao về Bác dưới đây được sáng tạo thêm hai dòng từ bài ca dao quen

thuộc nêu trên :

Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông lúa đẹp thương về cần Thơ.

Miền Nam mong nhớ Bác Hồ

Dừa Bến Tre ngọt nước, lúa Cần Thơ trĩu vàng.

Dù chất kết nối nội dung trong bài có phần chưa chặt chẽ nhưng có hề gì. Bởi lẽ cái giản

dị mộc mạc nhiều khi mang lại cho bài ca dao rất nhiều nét nghĩa. Ta có thể hiểu, từ thể hứng

nói về nỗi nhớ và gợi sự liên tưởng giữa địa danh và sản vật, tác giả dân gian đã lồng vào bài ca

cũng sắc điệu của một nỗi nhớ, ở đây là nỗi nhớ Bác. Và nỗi nhớ cùng hình ảnh của Bác lúc

nào cũng hiện hữu bên cạnh các địa danh đặc trưng vùng miền, làm cho địa danh thêm đẹp,

thêm giàu, thêm tình, thêm nghĩa…

Khung kết cấu “…nào cao bằng…/…nào sâu bằng…”

Cũng xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước, xuất phát từ những tự hào về quê mình,

về cảnh và người quê mình, một cách rất tự nhiên lời ăn tiếng nói của nhân dân đã biến thành

lối nói có vần có điệu, thành những bài ca trữ tình tự nhiên và nóng hổi hơi thở của đời sống.

Dù cách nói có chút phô trương, cường điệu, có chút phóng đại, nhưng chỉ có bằnh cách nói đó

thì tính đề cao nội dung biểu đạt mới được phát huy tối đa tác dụng.

Đèn nào cao bằng đèn Thủ Ngữ

Gió nào dữ bằng gió Đồng Nai

Nhưng ít ai nghĩ từ cách nói ấy mà tác giả dân gian đã có một sự liên tưởng hết sức bất

ngờ. Cái cao, cái đẹp, cái giỏi, cái khôn…ít nhiều đều phát lộ ra bên ngoài và dễ nhận thấy (

nhận thấy mới đáng được đề cao như là một niềm tự hào vô biên). Còn cái sâu của ơn Cụ Hồ,

theo cách diễn đạt đề cao”ơn nào sâu hơn” như một thách đố, quả thật đã trở thành cách so sánh

nhất. Rằng không còn có ơn nào có thể sâu hơn ơn Cụ. Tính từ “sâu” để đo chiều hữu hạn (sông

sâu, ruộng sâu, vực sâu…) giờ đã trở thành chiều kích để đo cái vô hạn của ơn Bác. Thế mới

thấy sự sáng tạo của tác giả thật giản dị không thô sơ, mộc mạc mà vô cùng thâm thúy. Điều

này cho thấy tình cảm chân thành đã dẫn dắt sự sáng tạo đến thật tự nhiên và đi vào trái tim

người tiếp nhận bài ca dao một cách đầy thuyết phục:

Đồng nào cao bằng đồng Thi Phổ

Thổ nào cao bằng thổ Ba Tơ

Ơn nào sâu bằng ơn Cụ Hồ

Nguồn bao nhiêu nước ơn Cụ Hồ bấy nhiêu.

Có lẽ sẽ còn nhiều nữa những bài ca dao như thế. Ở đâu chúng tôi chỉ muốn liên hệ từ

những khung kết cấu truyền thống đến những bài ca dao mới ca ngợi Bác để thấy sự sáng tạo

của dân gian vừa quen vừa lạ, vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa có những ý nghĩa nội dung

mới mẻ vừa liền mạch một cách tự nhiên với tâm tư tình cảm của những người bình dân từ quá

khứ đến hiện tại và cả tương lai.

Có thể nói, cách sáng tác dựa vào khung có sẵn là cách sáng tác truyền miệng phổ biến

khắp nước ta. Người sáng tác cần thuộc nhiều, nhất là thuộc những câu có kết cấu khác nhau để

vận dụng khi ứng khẩu, vừa nhanh vừa thích hợp. Dù vậy, bài ca dao mới sáng tác vẫn hay.

Những tình cảm mới được lồng vào những khung chung có tính chất tiêu chuẩn mà mọi người

đã thừa nhận làm cho bài ca dao dễ thành “của chung”. Việc ca dao về Bác kế thừa các hình

thức kết cấu trên một lần nữa cho thấy sự dụng công của các tác giả dân gian trong việc bày tỏ

tình cảm đối với Bác. Hình thức thể hiện đa dạng nên nội dung cũng đa dạng và phong phú

không kém. Chính vì thế mảng ca dao về Bác càng dễ thuộc, dễ nhớ và dễ đi sâu vào lòng

người, để lại ấn tượng sâu sắc, đậm đà khó quên.

Tóm lại, hiện tượng trùng lặp ngôn ngữ là một trong những hiện tượng thiên về mặt hình

thức. Nhưng hình thức luôn gắn chặt với nội dung. Hình thức thể hiện nội dung. Vì vậy, hiện

tượng một số từ ngữ cứ trở đi trở lại như đã phân tích trên chính là góp phần thể hiện nội dung

chính của mảng ca dao về Bác: lòng biết ơn của nhân dân đối với Bác, tình yêu thương của Bác

dành cho nhân dân và ngược lại, sự gắn bó thủy chung, một lòng một dạ theo lời dạy, lời

khuyên của Bác. Tình cảm của nhân dân với Bác từ đó mà trở nên đậm đà hơn. Như vậy, ca dao

về Bác và cả ca dao mới đều có hiện tượng kế thừa các công thức truyền thống quen thuộc của

ca dao cổ truyền.

Ca dao có nội dung và hình thức vô cùng phong phú, phản ánh cuộc sông nhiều màu,

nhiều vẻ của nhân dân trên khắp đất nước, trải qua nhiều thế hệ. Ca dao là sáng tác của tập thể,

tất cả mọi người đều mang tài năng của mình làm cho ca dao đẹp đẽ, trong sáng, đa dạng.

Nhưng cũng vì thế mà nó lại mang những yếu tố trùng lặp nhau không thể nào cưỡng lại được.

Ca dao về Bác cũng không tránh khỏi quy luật này. Hơn thế nữa, chúng còn kế thừa ca dao cổ

truyền trọn vẹn hình thức trùng lặp trên.

3.5. Cách sử dụng các biện pháp tu từ

Biện pháp tu từ là biện pháp sử dụng từ ngữ một cách nghệ thuật nhằm nhấn mạnh điều

cần diễn đạt. Trong ca dao về Bác, các biện pháp tu từ được vận dụng khá phong phú nhưng

chúng tôi chỉ khảo sát những biện pháp xuất hiện với tần số cao còn những trường hợp khác

chúng tôi không đề cập.

3.5.1. So sánh

Phải nói rằng thành công nhất của bộ phận ca dao này về mặt biện pháp tu từ chính là

việc sử dụng biện pháp so sánh. So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật sự việc khác

có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

- Cụ Hồ như núi Thái Sơn…

- Cụ Hồ như nước, như non…

- Cụ Hồ như ánh sao trời…

- Cụ Hồ là vị Cha chung

Là sao Bắc Đẩu, là vừng thái dương.

- Công ơn Bác như trời cao, biển rộng…

- Ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời…

Con người Bác, công ơn Bác được nhân dân ví với các hình ảnh kỳ vĩ của thiên nhiên:

núi non, trời đất, ánh sao, ánh dương…Phải chăng nhân dân đã tạc Người vào sông núi? Bác đã

hóa thành núi sông vĩ đại, vững bền, trường tồn mãi với các thế hệ con cháu Rồng Tiên. Cách

so sánh như thế càng làm nổi bật cái vĩ đại của Bác. Bác cao cả, lớn lao như một vị thánh. Và ở

đây, chúng tôi tán thành ý kiến của Nguyễn Xuân Lạc: “Trong ca dao Bác Hồ, đối tượng thẩm

mỹ đã được hư hóa để trở thành biểu tượng của một Con Người Đẹp Tuyệt Đối, một Con Người

Đẹp Vĩnh Cửu trong lòng nhân dân ta…cao cả, thiêng liêng, nhuốm màu sắc huyền thoại” [34,

9] cũng như quan điểm của Trần Gia Linh: “ Ca dao nói tới Người là nói tới hình ảnh tượng

trưng cho sông núi Việt Nam và nghĩa lớn của dân tộc” [39, 31].

Ca dao nói: “Cụ Hồ như núi, như non”, “ Cụ Hồ như ánh sao trời” nhưng cũng lại nói:

- Cụ Hồ với dân

Như chân với tay

Như chày với cối

Như cội với cành

- Cụ Hồ như chiếc đò ngang…

- Cụ Hồ như chiếc kiếng soi…

- Cụ Hồ như cái khánh chuông…

- Cụ Hồ như cột trụ đồng…

Ca dao so sánh Người với những hình ảnh kỳ vĩ nhưng vẫn đặt Người ở trong lòng của

quần chúng nhân dân. Cho nên, những hình ảnh chiếc đò ngang, chiếc kiếng soi, cái khánh

chuông, cột trụ đồng gần gũi và giản dị như chính con người Bác, cuộc đời Bác. Thế đấy, Bác

vừa vĩ đại, lớn lao vừa rất gần gũi, giản dị. “ Hình tượng Bác trong ca dao đương đại không chỉ

mang màu sắc huyền thoại…là “vị thánh”… mà còn là người Cha già gần gũi, thân thương đối

với toàn thể dân tộc, thân quen, gắn bó mật thiết với nhân dân” [35, 9].

Nhân dân đã mượn hàng loạt các hình ảnh trong giới tự nhiên, thực vật và nhân tạo để

sánh với Bác, công ơn Bác và tình thương của Bác.

Hình ảnh tự nhiên

Phổ biến nhất trong ca dao về Bác là hình ảnh sẵn có trong tự nhiên, nhất là những hình

ảnh gần gũi xung quanh con người. Bùi Mạnh Nhị khẳng định: “Cảm xúc thẩm mỹ đối với thiên

nhiên được qui định bởi một số điều kiện trong đó có khoảng cách giữa con người và thiên

nhiên, phương thức cư trú, thái độ thưởng thức” [1,78]. Quả thật, thiên nhiên đã ảnh hưởng

không nhỏ đến những sáng tác ca dao về Bác. Đối tượng làm ca dao về Bác rất đa dạng phong

phú, chủ yếu là anh bộ đội, dân công, nông dân, công nhân. Môi trường hoạt động chủ yếu của

họ là vùng rừng núi, đồng ruộng, hầm mỏ...Cho nên, giữa con người và thiên nhiên dường như

không có khoảng cách, thiên nhiên hữu tình là người để bầu bạn, sẻ chia.

Khảo sát 521 bài ca dao của dân tộc Việt, chúng tôi tổng kết được tác giả dân gian đã

dùng 24 hình ảnh (có tự nhiên, thực vật và nhân tạo). Chúng tôi sắp xếp theo tần số xuất hiện

giảm dần, chia làm các nhóm sau

Hình ảnh tự nhiên

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 TC HÌNH ẢNH Núi/non Biển Sông Ánh dương/mặt trời Trời Ánh sao / vì sao Nước Sông Đất TẦN SỐ XUẤT HIỆN 19 11 9 9 5 4 3 2 62

Trăng, sao là những hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, mang đến cho con người bao nguồn

cảm hứng thi vị. Đặc điểm chung nhất của trăng, sao ấy là đem lại ánh sáng, soi sáng mọi vật

trong đêm tối. Bên cạnh đó, nhiều lúc chúng lại trở thành những người bạn để con người giãi

bày tâm sự, đặc biệt là những đôi lức yêu nhau. Ca dao cổ truyền đã có nhiều bài như thế: Đêm

qua ra đứng bờ ao / Trông cá cá lặn, trông sao, sao mờ / Buồn trông con nhện giăng tơ / Nhện

ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai? / Buồn trông chênh chếch sao mai / Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao

mờ?; Đêm nằm ở dưới bóng trăng / Thương cha, nhớ mẹ không bằng nhớ em; Đêm qua trời

sáng trăng rằm / Anh đi qua cửa , em nằm không yên;...Ca dao về Bác Hồ tiếp tục kế thừa

những hình ảnh và cách biểu hiện trên của ca dao cổ truyền. Nhân dân lao động mượn trăng,

sao như vật gợi hứng để nói lên tình cảm, nghĩ suy của mình đối với Bác: Đêm nay trăng sáng

đầy rời / Trung thu nhớ Bác cháu ngồi cháu trông; Đêm nay trăng tỏ mặt người / ta ra vun xới

một vài luống ngô / Ngày mai sinh nhật Bác Hồ / Viết thư chúc Bác từng giờ khỏe thêm; Đêm

nay ngồi dưới chiến hào / Bên nòng đại pháo, ngắm sao trên trời / Gió về rắc nhẹ sương rơi /

Nghe thơ Bác vọng giữa trời quê hương / Đoàn quân giải phóng lên đường / Mừng sinh nhật

Bác, chiến trường lập công;...Tuy nhiên, nhân dân không chỉ mượn trăng, sao để thổ lộ tình

cảm với Bác mà đôi khi còn ví Bác với cả sao, trăng. Trên trời có ông sao Rua / Việt Nam ta có

Bác Hồ em ơi; Đếm sao cho hết vì sao / Kể sao cho hết công lao Bác Hồ; Ngó lên trời có vì sao

dẫn lối / Ngó ra Hà Nội có Bác Hồ Chí Minh; Ngôi sao sáng giữa cờ hồng / Hình Cha rực rỡ

giữa lòng chúng con; Nhờ mặt trời cộng với mặt trăng / Soi sáng đất nước đêm ngày / Nhờ

Chính phủ và Hồ Chí Minh / Lãnh đạo các dân tộc chúng mình; Xa xôi nhớ tới Cụ Hồ / Đêm

đen trời sáng cũng nhờ ánh trăng;...

Một trong những nội dung chủ yếu của ca dao về Bác là lòng biết ơn của toàn dân đối với

Bác. Công ơn của Bác đối với nhân dân là vô tận vô cùng. Nhân dân được hạnh phúc, được ấm

no, được học cái chữ ấy cũng là nhờ ơn Bác. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà nhân dân

thường so sánh Bác với những hình ảnh kỳ vĩ của thiên nhiên, tạo hóa như sông dài, biển rộng,

non cao. Có lẽ vì vậy mà trong ca dao về Bác hình ảnh núi, non, biển, trời xuất hiện với tần số

cao hơn cả. Đúng như nhận định của Bùi Mạnh Nhị: “Các tác giả dân gian đã mượn những

hình ảnh sông dài, biển rộng, non cao để so sánh với Bác. Hình như lấy tầm vóc vũ trụ cũng

không nói hết sự to lớn của Người.” [61,3]

Núi Thái Sơn, sao Rua, ánh dương, trời cao, biển rộng, nhiều biểu tượng thường được

dùng xưa nay trong văn học để so sánh với công cha nghĩa mẹ, so sánh với các bậc anh hùng có

công dựng nước và giữ nước, nay cũng được ca dao nhận thức để so sánh với Bác Hồ. Ấy là

lòng dân kính yêu Bác, muốn ví Bác với sự bao la, vĩ đại, với sự trường tồn, bất diệt của thiên

nhiên, vũ trụ. Phải chăng trong tâm khảm người dân Bác mãi trường tồn, bất tử cùng với núi

non hùng vĩ? Cụ Hồ là vị cha chung / Là sao Bắc Đẩu là vừng Thái Dương; Cụ Hồ là nước là

non / Hình Người in giữa cờ son sao vàng; Cụ Hồ như núi Thái Sơn / Cơm kia, chữ nọ công ơn

nào tày; Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Bác Hồ hơn

mẹ hơn cha / Tình sâu, nghĩa nặng bao la biển trời.

Chúng tôi thấy ở đây ca dao về Bác chịu ảnh hưởng của ca dao cổ truyền. Ca dao xưa

thường sử dụng hình ảnh núi Thái Sơn, nước trong nguồn, nước ở ngoài biển Đông để so sánh

với công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như

nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con; Ơn

cha như biển / Nghĩa mẹ như trời / Thương nhờ, ghét sợ không dám trao lời thở than; Ơn cha

rộng thênh thênh như biển / Nghĩa mẹ dài dằng dặc bằng sông; Ân cha nặng lắm ai ơi! / Nghĩa

mẹ bằng trời chín tháng cưu mang; Ơn cha núi chất trời Tây / Nghĩa mẹ lai láng nước đầy biển

Đông; Ơn cha trượng lắm cha ơi / Nghĩa mẹ bằng trời mang nặng đẻ đau;... Những hình ảnh so

sánh ví von quen thuộc để nói lên công cha nghĩa mẹ thật vô cùng to lớn, mãi mãi không cùng.

So sánh công cha, nghĩa mẹ với núi sông, trời biển là rất phù hợp và hay vì đây là những so

sánh với những đại lượng khó xác định cụ thể phạm vi. Hơn nữa cha - đàn ông, thuộc dương,

cứng rắn so sánh với núi; mẹ - đàn bà, thuộc âm, mềm mại dịu dàng so sánh với nước, tạo thành

bộ đôi sơn - thủy vừa linh hoạt vừa bền vững. Cách so sánh như vậy thật thấu tình đạt lí, lại

dường như chẳng chút khiên cưỡng nào khiến lời thơ trong suốt, đẹp tự nhiên như núi sông, trời

biển. Từ đó, lời răn dạy, bảo ban về chữ hiếu của đạo làm con được bài ca dao đặt ra trở nên

thấm đượm tình cảm như từ trong lòng phát ra, tránh được tính công thức giáo điều thường thấy

ở các lời khuyên. Nhưng không phải bao giờ cũng có sự phân định rằng hễ cha thì nghiêm còn

mẹ thì từ mà trong một số trường hợp phải đổi lại, hoặc chia đều mới đúng.

Mặt trời có một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. Mặt trời đem lại

ánh sáng cho vạn vật. Mặt trời đem lại sự sống cho muôn loài. Không có mặt trời cũng có nghĩa

muôn vật không còn sự sống. Qua việc so sánh Bác với mặt trời, tác giả dân gian muốn khẳng

định vai trò, tầm quan trọng không thể thiếu của Bác đối với dân tộc Việt Nam. Bác Hồ chẳng

phải đã dẫn đường soi sáng cách mạng đến cho toàn dân tộc sao? Bác Hồ chẳng phải đã tìm

đường cứu nước mang lại độc lập tự do cho đất nước Việt sao? Không có Bác đất nước ta sẽ

chìm mãi trong bóng tối của đô hộ, phải chịu ách gông cùm, xiềng xích của nô lệ. Bác Hồ -

vầng thái dương lớn nhất, rực rỡ nhất của đất nước, dân tộc Việt, xua tan những bóng tối của

khổ đau, đói nghèo Người như là mặt trời cao / Tỏa muôn ánh sáng soi vào lòng dân; Cụ Hồ là

vị cha chung / Là sao Bắc Đẩu là vừng Thái Dương; Dù cho vật đổi sao dời / Bác Hồ như ánh

mặt trời mùa xuân;...Ở đây, chúng tôi thấy có sự tương đồng trong việc sử dụng hình ảnh giữa

ca dao về Bác và thơ hiện đại viết về Bác. Trong bài thơ ” Viếng lăng Bác”, nhà thơ Viễn

Phương cũng ví Bác với hình ảnh mặt trời:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

(Viếng lăng Bác, Viễn Phương)

Trong cái nhìn của tác giả, hình ảnh Bác sáng lòa, rực rỡ như vầng thái dương. Hai câu

thơ với hai hình ảnh mặt trời sóng đôi – mặt trời thật với hành trình không bao giờ dứt, không

bao giờ dừng và mặt trời trong lăng là một biểu tượng về Bác. Hình ảnh ẩn dụ ”mặt trời trong

lăng” thật giàu sức biểu cảm. Cái cách nói ẩn dụ chính là biểu hiện đẹp nhất của lòng yêu kính

lẫn với niềm tự hào không chỉ của riêng Viễn Phương mà của cả dân tộc Việt dành trọn cho

Bác.

Trời, đất, những hình ảnh vĩnh cửu của thiên nhiên, vũ trụ, cũng là hình ảnh được nhân

dân dùng để so sánh với Bác. Trời cao rộng bao trùm vạn vật, đất mênh mông ôm gọn mọi sinh

linh, kiếp người. Trời, đất là môi trường sống không thể thiếu của muôn vật, muôn loài. Sự liên

tưởng của nhân dân thật thú vị: Bác Hồ chẳng kể công ơn / Mà công của Bác bằng non bằng

trời; Cụ Hồ ơn đức biết bao / Ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời...Đúng thế! Công đức của

Bác dày như đất, cao như trời. Nhân dân kể đến bao giờ cho xong. Hình ảnh thực vật

Bảng thống kê tần số xuất hiện các hình ảnh thực vật

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 TC HÌNH ẢNH Sen Vú sữa Quế Trầm Phi lao Bạch đàn Đa Dừa TẦN SỐ XUẤT HIỆN 5 1 1 1 1 1 1 1 12

Trong thế giới thực vật, sen là hình ảnh được tác giả dân gian sử dụng nhiều nhất để ví

với Bác. “Trong tự nhiên hoa sen là loại hoa đẹp. Loài hoa này đặc biệt gắn bó với đời sống

con người ở cả giá trị thẩm mỹ và giá trị sử dụng. Hoa sen đẹp từ màu sắc, dáng hoa cho đến

từng cánh hoa, nhụy hoa” [1,53].

Trong ca dao, hoa sen được biểu tượng cho sự trong sạch, thanh cao, cho sự thẳng thắn

vươn lên:

Trong đầm gì đẹp bằng sen,

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.

Nhị vàng bông trắng lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Ngoài ra sen còn mang nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp người con gái:

Ngó lên lỗ miệng em cười

Như búp hoa sen nở như mặt trời mới lên.

Sen là hình ảnh trữ tình trong các tác phẩm văn học. Từ cổ đến kim, rất nhiều nhà thơ,

nhà văn…đã lấy hoa sen làm hình tượng cho tác phẩm của mình. Chẳng hạn, Nguyễn Trãi,

Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy hoa sen biểu tượng cho khí tiết của người quân tử, chỉ người quân tử

mới có được vẻ đẹp cao quí của hoa sen và cũng chỉ có người quân tử mới theo được sự cao quí

ấy một cách bền vững:

Thế sự dầu ai hay buộc bện

Sen nào có bén trong lầm.

Trong thơ văn bác học, hoa sen không chỉ biểu tượng cho người phụ nữ giống ca dao mà

còn biểu tượng cho những con người có đức độ, có tài năng xuất chúng. Phan Bội Châu đã

mượn hoa sen để đề cao về con người nhà thơ Hàn Mặc Tử- đời người và đời thơ của thi sĩ luôn

để lại sự ngưỡng mộ cho biết bao nhiêu người yêu thơ:

Lòng sen đằng đẵng tơ sen vướng

Mưa gió bao phen gốc chẳng tàn.

Cũng biểu tượng cho con người vĩ đại, vị lãnh tụ kính yêu , con người ưu tú của toàn dân

tộc Việt Nam được nhân dân ta gắn với biểu tượng hoa sen. Biểu tượng hoa sen được gắn với

Bác không chỉ vì quê hương Bác là làng sen-Kim Liên mà chính ở ý chí kiên cường, sự thanh

cao, trong sạch, hết lòng lo cho dân, cho nước của Bác. Hoa sen chính là biểu tượng cho sự cao

quí của con người:

Tháp Mười đẹp nhất bông sen,

Nước Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ

Tác giả dân gian của bài ca dao trên đã có công phát hiện một vẻ đẹp mang ý nghĩa kết

tinh vô cùng giản dị, thân thuộc mà cũng thật là kỳ diệu. Kỳ diệu bởi sự gắn bó hài hòa mới hồn

nhiên làm sao, chân thực làm sao, giữa cái “đẹp nhất” của thiên nhiên và của con người, của

lịch sử ngàn năm và của cách mạng hiện đại. Một vẻ đẹp tinh khiết, thơm thảo, vừa cụ thể vừa

tượng trưng, mênh mang hương sắc cổ truyền mà cũng giàu tính biểu tượng mới mẻ. Tác giả

dân gian đã sáng tạo bằng ngôn ngữ bình dân trong sáng, nhuần nhuyễn cái khung liên tưởng

đối tỉ rất đẹp, rất Việt Nam, cổ kính mà hiện đại:

Tháp Mười – Sen Đồng Tháp

Việt Nam – Tên Cụ Hồ

Chính sự so sánh trên đã tạo cho hình ảnh lãnh tụ một sắc thái dân gian thân thiết, không

hề mảy may nhuốm màu siêu nhân, thần thánh. Như vậy, chỗ đứng của Cụ Hồ là chỗ đứng của

một bông sen cao đẹp nhất trong sự kết tinh nhựa sống và hương sắc của triệu triệu bông sen

khác, và trong sự nuôi dưỡng của đất nước, của truyền thống văn hóa Việt Nam.

Hình ảnh nhân tạo

Ngoài những hình ảnh tự nhiên, tác giả dân gian còn sử dùng cả những hình ảnh nhân

tạo. Trương Thị Nhàn nhận định trong bài viết của mình “ Thế giới vật thể nhân tạo trong ca

dao cổ truyền Việt Nam là một thế giới đa dạng và phong phú…có khoàng 660/790 lần chúng

xuất hiện cùng với ý nghĩa hàm ẩn chiếm tỉ lệ 82 %” [57,46]. Trong ca dao về Bác, tác giả dân

gian cũng sử dụng nghĩa hàm ẩn của vật thể nhân tạo để ví với Bác. Tuy nhiên, hình ảnh nhân

tạo xuất hiện không nhiều. Khảo sát 521 bài, có 8 hình ảnh nhân tạo chiếm 25%. Với 14 lần

xuất hiện, các hình ảnh tần số xuất hiện rải rác từ 1 đến 4 lần.

Hình ảnh nhân tạo

STT HÌNH ẢNH TẦN SỐ XUẤT HIỆN

1 Dép 4

2 Kiếng/gương 2

3 Đò 2

4 Chuông 2

5 Cột trụ đồng 1

6 Chày 1

7 Cối 1

8 Đuốc 1

TC 14

Nhìn chung, những hình ảnh nhân tạo này gắn liền với đời sống sinh hoạt của người bình

dân. Đó là những vật dụng cá nhân, đồ dùng gia đình, dụng cụ lao động sản xuất,…Mỗi vật

nhân tạo có đặc trưng riêng của nó, tác giả dân gian mượn những tính chất ấy để xây dựng nên

những phẩm chất đáng quí của Bác.

Đò là phương tiên phổ biến nhất để đi lại trên sông nước. Nó cũng được đi vào ca dao

cùng với con người, khắc họa tính cách con người. Đặc điểm, công dụng của chiếc đò ngang là

giúp người đi lại trên sông ngòi, kênh rạch. Dùng đặc điểm của hình ảnh này nhân dân ví Bác

như chiếc đò ngang đưa toàn dân tộc đến bến bờ vinh quang Cụ Hồ như chiếc đò ngang / Đưa

ta qua bến gian nan chống chèo; Cụ Hồ như chiếc đò ngang / Đưa ta đến bến vinh quang đời

đời.

Cũng hình thức trên, nhân dân dùng đặc điểm của cái kiếng (gương) soi để ví với Bác.

Bác chính là tấm gương sáng để nhân dân noi theo. Đạo đức của Người, phẩm chất của Người

sẽ mãi mãi là truyền thống, đạo đức quí báu cho bao thế hệ con cháu học tập và noi gương Cụ

Hồ như cái gương soi / Soi người trung liệt, soi người tinh ma; Tình Cha tỏa rộng nơi nơi /

Lượng Cha bát ngát sáng ngời như gương.

Tác giả dân gian đã dùng nhiều hình ảnh khác nhau từ tự nhiên, đến các hình ảnh nhân

tạo để ví với Bác và công ơn to lớn của Bác. Trong đó, một số hình ảnh đã trở thành biểu

tượng. Trong thiên nhiên, hình ảnh núi non đã trở thành biểu tượng cho công cha cao ngất. Nay

trong ca dao về Bác, hình ảnh ấy lại tượng trưng cho Bác, cho công ơn vời vợi của Bác. Rõ

ràng ở đây, các tác giả dân gian hiện đại ấy đã kế thừa các hình ảnh quen thuộc của ca dao cổ

truyền để ví với Bác. Ca dao về Bác không lạm dụng các hình ảnh này mà trái lại các nghệ sĩ

dân gian đã sử dụng những hình ảnh đó rất linh hoạt, thể hiện được những tâm trạng hết sức tế

nhị , hết sức cụ thể. Song bên cạnh đó, nhân dân cũng lồng vào đó những hình ảnh mới mẻ

nhưng gắn liền với cuộc đời quần chúng lao động, gắn liền với Bác.

So sánh chính là nhằm nhấn mạnh sự diễn đạt, tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt.

Đọc ca dao về Bác ta thấy hình ảnh mà tác giả dân gian dùng để ví với Bác thật đa dạng, phong

phú và khá sinh động. Từ chỗ so sánh đối chiếu song song hai hình ảnh như vậy cho thấy tác

giả dân gian cũng khá khéo léo và linh hoạt trong việc diễn đạt tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của

mình. Kết quả của sự dụng công ấy là làm cho mảng ca dao về Bác sinh động hơn, giàu màu

sắc, giàu hình ảnh hơn. Từ đó, để lại ấn tượng đậm nét hơn nơi người đọc.

3.5.2. Ẩn dụ

Ẩn dụ là gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác có nét tương đồng

với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

Có thể nói đề tài về tình yêu nam nữ trong ca dao cổ truyền vận dụng khá đa dạng và

thành công biện pháp tu từ này. Chẳng hạn khi đề cập đến vấn đề hôn nhân, thì bài ca dao sau

có lẽ là kín đáo và tế nhị hơn cả:

Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng:

Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?

Ca dao về Bác kế thừa hình thức thể hiện này. Nhiều chi tiết trong cuộc đời hoạt động

cách mạng của Người đã khơi nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian nói về cái đại dũng của

lãnh tụ. Một trong những chi tiết, hình ảnh đó là đôi dép cao su- đôi dép Bác Hồ. Đôi dép đã trở

thành hình tượng nghệ thuật đẹp mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc cho nghị lực phi thường của

người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh: Đôi dép đơn sơ / Đôi dép Bác Hồ / Bác đi từ ở chiến

khu về / Phố phường, trận địa / Nhà máy, đồng quê / Đều in dấu dép Bác về, Bác ơi! / Dép này

Bác trải đường dài / Dép này Bác mở tương lai nước nhà / Đường đi chiến đấu gần xa / Dấu

dép Cha già dẫn lối con đi;…

Đôi dép với hành trình đầy chông gai, gian khổ đã mở ra một tương lai tươi sáng cho

nước nhà. Không những thế, đôi dép giản dị của Bác còn nâng bước những anh chiến sĩ trên

đường hành quân, trên đường ra trận: Đẹp sao đôi dép cao su / Đế dầy, quai dẻo, bền như tình

người / Bác mang đôi dép trọn đời / Chông gai chẳng sợ, đường dài chẳng nao / Con đi chiến

đấu gian lao / Chân mang dép nhẹ vượt bao dặm trường / Đá mòn nhưng dép chẳng mòn / Ta

đi giết giặc, dép còn thủy chung / Trường Sơn mấy núi trập trùng / Hoa in dấu dép trên đường

quân đi;…

Mượn đặc điểm tính chất của đôi dép đế dầy, quai dẻo để nói lên ý chí và nghị lực phi

thường của Bác. Đôi dép ấy đã cùng Bác vượt qua bao chông gai, thử thách trên chặng đường

dài đấu tranh. Dùng hình ảnh gần gũi quen thuộc để làm nổi bật phấm chất ý chí sáng ngời của

Người, các tác giả dân gian quả thật khéo léo và dụng công.

Đôi dép cao su cũng là đề tài vô tận cho các nhà thơ viết về Bác, ca ngợi Bác. “Trong thơ

viết về Bác, hình ảnh đôi dép cao su thường được nhắc đến như một biểu tượng đẹp đẽ của con

đường cách mạng, của nghị lực sắt đá, của tinh thần tiến công, của ý chí chiến thắng” [35,50].

Hình ảnh đôi dép trong thơ còn được nhắc đến nhiều hơn cả ca dao. Qua khảo sát sơ bộ trong

cuốn Thơ dâng Bác do Nguyễn Xuân Lạc tuyển chọn và giới hiệu, chúng tôi nhận thấy đôi dép

cao su, mà nhân dân và cả các nhà thơ hay gọi là đôi dép chiến trường xuất hiện 7 lần trong các

bài thơ khác nhau. Về “Viếng Bác”, nhà văn miền Nam Hưởng Triều đã có một cảm giác đặc

biệt khi cầm đôi dép của Bác:

Mân mê đôi dép chiến trường

Tưởng rằng theo Bác trên đường hành quân.

(Viếng Bác, Hưởng Triều)

Liên Nam thấy rõ đó là đôi dép của nghị lực, của dũng khí cách mạng:

Chông gai Bác có sá gì

Vẫn đôi dép lốp trường kì hành quân.

(Con mang cả trái tim Người, Liên Nam)

Thu Bồn nhớ đến hình ảnh đôi dép của Bác bởi chính đôi dép đó đã truyền dũng khí cho

nhà thơ, cho cả nhân dân Việt Nam:

Hành trang Bác chẳng có gì

Một đôi dép mỏng đã lì chông gai

Cho con núi rộng sông dài

Cho con lưỡi kiếm đã mài nghìn năm

(Gởi lòng con đến cùng Cha, Thu Bồn)

Ngoài việc mượn hình ảnh đôi dép cao su để ngợi ca ý chí, nghị lực của Người, ca dao

còn mượn hình ảnh bóng mát cây xanh để nói đến tình thương mà Bác dành cho mọi người: Ba

mươi năm đẹp một ngày / Hàng cây đã hóa rừng cây bạt ngàn / Từ Lạng Sơn bước thênh thang

/ Qua Hiền Lương đến xóm làng Cà Mau / Đẹp tươi xanh mát một màu / Con đi lòng nặng ơn

sâu Bác Hồ; Còn non, còn nước, còn người / Cây xanh để lại cho đời nở hoa / Nhớ lời Di chúc

của Cha / Chúng con ra trận hái hoa dâng Người; Hành quân dưới rặng cây xanh / Tưởng như

đi dưới ân tình Bác che / Con đi bóng mát che đầy / Đếm sao hết được rừng cây Bác Hồ; Ai ơi

trăm nghĩa trăm tình / Bác đi để lại màu xanh cho đời; Mái trường ngói đỏ hây hây / Cây cao

bóng cả tình này Bác che; Một chiều nắng âm Thủ đô / Vui sao được thấy Bác Hồ trồng cây /

Mai này cây Bác lên xanh / Bao nhiêu rễ bấy nhiêu cành lá xanh / Cây xuân tỏa bóng khắp trời

/ Bóng cây bóng Bác đời đời vươn cao / Nghìn năm sau nhớ công lao / Trồng cây, bóng Bác

che bao nhiêu người;…

Cây xanh là hình ảnh gần gũi với quần chúng lao động. trong cuộc sống thường nhật của

mình, người dân cảm nhận được những ích lợi mà cây xanh mang đến. Những buổi trưa hè oi ả,

sau một buổi cấy cày mệt nhọc ngoài đồng sâu thì bóng mát của lùm tre bên đường là nơi lý

tuởng nhất cho bà con nông dân nghỉ ngơi. Không chỉ có thế cây xanh còn cho một bầu không

khí trong lành, tinh khiết, đem lại cảm giác tươi mát, sảng khoái cho bao người. Mượn đặc điểm

về công dụng, tính chất của cây xanh, người dân liên tưởng đến tình thương mà Bác mang đến

cho toàn dân. Tình thương của Người tỏa rộng đến nơi nơi. Đâu đâu cũng nhận được sự quan

tâm của Người. Mượn hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống để ví với Bác, làm nổi bật

tình thương của Bác, đúng là rất phù hợp với bản chất mộc mạc, tự nhiên của lớp người bình

dân.

Chúng tôi nhận thấy tần số xuất hiện biện pháp tu từ này không nhiều như ca dao cổ

truyền (mà đặc biệt là trong tình yêu nam nữ). Phải chăng chuyện tình yêu là chuyện cần sự tế

nhị, kín đáo nên việc mượn sự vật, hiện tượng, khái niệm khác để diễn đạt, để biểu lộ tình yêu

là điều dễ hiểu? Riêng tình cảm của nhân dân đối với Bác Hồ giống như những loại tình cảm

đối với quê hương, đất nước, ông bà, cha mẹ, thầy cô…Đó là những tình cảm thiêng liêng, cao

quý nhất của con người nên mọi người luôn muốn nói thẳng, nói trực tiếp, không muốn vòng

vo, dài dòng làm gì. Phải chăng đó là lí do mảng ca dao về Bác rất ít sử dụng biện pháp tu từ ẩn

dụ nói trên?

3.5.3. Hoán dụ

Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật, hiện tượng,

khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.

Có bốn cách hoán dụ thường gặp: lấy một bộ phận để gọi toàn thể; lấy vật chứa đựng để

gọi vật bị chứa; lấy dấu hiệu sự vật để gọi sự vật; lấy cái cụ thể để gọi cái trừu tượng. Tuy

nhiên, qua khảo sát, người viết nhận thấy, bộ phận ca dao về Bác chủ yếu sử dụng kiểu hoán dụ

thứ hai, lấy vật chứa đựng để gọi vật bị chứa: Miền Nam chiến đấu gian nan / Bác là sức mạnh

vững vàng niềm tin; Rừng xanh lắm cội lắm cơn / Bản nghèo biết lắm công ơn Bác Hồ; Miền

Nam muôn thưở một lòng / Nnhớ ơn cách mạng, nhớ công Bác Hồ; Trèo truông mới biết

truông cao / Việt Nam kháng chiến mới biết công lao Cụ Hồ; Bao giờ thống nhất nước non /

Cần Thơ gửi vú sữa kính dâng Bác Hồ; Vĩnh Linh ta làm theo lời Bác / Mặc cho máy bay

chúng bắn suốt ngày / Cùng nhau chiến đấu hăng say / Thi đua sản xuất, đôi tay vững vàng;…

Ở đây, rõ ràng tác giả dân gian đã vận dụng kiểu hoán dụ lấy vật chứa đựng để gọi vật bị

chứa. Việt Nam, miền Nam, hay bản nghèo, Cần Thơ, Vĩnh Linh… thật ra đều ám chỉ nhân dân

ở đất nước ấy, địa phương ấy, vùng miền ấy, bản làng ấy…Tất cả họ đều hướng tình cảm của

mình về Bác. Cách nói vừa sinh động lại giàu sức biểu cảm, làm cho mảng ca dao về Bác đọng

lại sâu sắc trong lòng dân tộc.

Hầu hết vật chứa đựng ở đây là xóm, làng, bản, xã, huyện, tỉnh, miền, nước. Vật bị chứa

chính là người dân ở các nơi ấy. Như vậy việc dùng kiểu hoán dụ này cho thấy tình cảm đối với

Bác không còn là của riêng một cá nhân nào mà nó đã trở thành tình cảm chung của tập thể

nhân dân ở một làng, một xã, một huyện mà cao hơn là một tỉnh, một một miền và trên cả nước.

Cái tình cảm riêng ấy đã hòa thành cái tình chung của tập thể nhân dân. Cho nên khi đọc bài ca

dao như vậy, ai ai cũng có cảm giác như của mình, như thấy tình cảm của mình trong đó. Chính

vì thế mà ca dao về Bác dễ nhớ, dễ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc nói riêng, trong

lòng quần chúng nhân dân nói chung.

3.5.4. Nói quá

Nói quá (thậm xưng, cường điệu) là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất

của sự vật hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.

Ơn đức Cha già biết bao

Ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời

Tình Cha tỏa rộng nơi nơi

Lượng Cha bát ngát sáng ngời như gương

Lòng Cha như Thái Bình Dương

Yêu quí nhân loại, mến thương giống nòi

Bác là cuộc sống sáng tươi

Bác là hạnh phúc muôn đời nở hoa

Bác là muôn vạn lời ca

Bác là hình ảnh quê ta thanh bình

Bác là muôn ánh bình minh

Xé màn nộ lệ mở trời tự do.

Rõ ràng, cách nói “ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời”, “Lòng Cha như Thái Bình

Dương”, “Bác là muôn ánh bình minh, xé màn nộ lệ mở trời tự do” tất cả đều là nói quá.

Nhưng chính cách cường điệu này mới tạo được ấn tượng, gây được cảm xúc, tạo được chú ý

cho người nghe, người đọc. Với biện pháp cường điệu, tác giả bài ca dao không chỉ khẳng định

công ơn vô cùng to lớn của Bác mà còn bày tỏ niềm tự hào, biết ơn đối với Bác. Bài ca dao

không chỉ bộc lộ tình cảm của riêng cá nhân nữa mà đó cũng là tình cảm của muôn dân nói

chung dành cho Bác. Cái hay của ca dao là ở chỗ đó, nó không phải của riêng bất kỳ cá nhân

nào mà nó đã mang tính tập thể, tính cộng đồng chung.

Hay bài ca dao sau:

Nhất thơm là bạch đàn chanh,

Bác đi để lại hương lành cho con.

Nhất xanh là tán đa tròn,

Bác đi để bóng mát trùm ngàn sau.

Nhất thẳng là ngọn phi lao,

Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ.

Chúng ta biết rằng ở Việt Nam nhiều cây còn thơm hơn cả bạch đàn chanh, xanh hơn cả

tán đa, thẳng hơn cả ngọn phi lao thế nhưng đối với tác giả dân gian ở địa phương nào đó thì

thấy bạch đàn chanh thơm nhất, tán đa tròn xanh nhất, ngọn phi lao thẳng nhất. Cho nên mới có

trường hợp người khác lại cho rằng xanh nhất là tán vú sữa tròn, thẳng nhất là dáng đước cao:

Nhất xanh tán vú sữa tròn

Bác đi để bóng mát trùm nghìn sau

Nhất thẳng là dáng đước cao

Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ.

Nhưng dù là cây nào thơm nhất, xanh nhất, thẳng nhất điều đó không quan trọng. Điều

mà tác giả muốn gửi gắm ở đây chính là những cái nhất ấy được dùng để ví với Bác, tình

thương của Bác. Đối với nhân dân thì Bác là nhất trong lòng họ. Biện pháp khoa trương nói quá

đã khẳng định suy nghĩ đó của người dân.

Biện pháp thậm xưng xuất hiện không ít trong ca dao về Bác: Đường ra trận tuyến hôm

nay / Bác đang đạp núi rẽ mây đi cùng; Đối với chúng tôi / Cụ Hồ cao hơn núi, rộng hơn biển,

sáng hơn mặt trời / Bởi vì Cụ làm được chuyện Phật dạy / Mọi người đều có ruộng; Nam Hải

sâu ta còn đo được / Trường Sơn dài ta vượt cũng qua / Công Hồ Chủ Tịch bao la / Ơn Bác mãi

mãi dân ta ghi lòng; Bao giờ chạch đẻ ngọn cây / Người không uống nước, gậy tày sinh con /

Thì lòng tin tưởng Cụ Hồ / Vẫn không phai lạt xóm đò bầy tui; Bao giờ hết đước Năm Căn / Ông

Trang hất cá, Viên An hết rừng / Khai Long mà hết cá đường / Miền Nam mới hết nhớ thương Bác

Hồ;... góp phần đề cao và khẳng địng công lao của Bác đối với muôn triệu người dân Việt Nam.

Như vậy, chúng ta thấy nói quá không phải là nói xạo, nói dối hay nói bậy mà nói dựa

trên những cơ sở thực tế có thật rồi từ đó nâng quy mô, tính chất, mức độ của sự việc, hiện

tượng lên nhằm nhấn mạnh đặc điểm hay tính chất của sự việc, hiện tượng ấy mà thôi. Dựa trên

những gì mà Bác đã làm cho đất nước và nhân dân, các tác giả dân gian mới nâng những hành

động, việc làm hay tình cảm của Người lên một tầm cao hơn. Đó chính là cách mà nhân dân

muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của họ đến với Bác.

3.5.5. Nói giảm, nói tránh

Nói giảm nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh

gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.

Bác Hồ qua đời cũng là đề tài trong ca dao về Bác. Đề cập đến đề tài này, nhân dân

thường sử dụng lối nói giảm, nói tránh: Bác ơi, dù Bác đi rồi ? Một lòng cháu nguyện theo lời

Bác răn; Bác đi? Không Bác vẫn còn / Tiếp dòng máu nóng cho con sớm chiều; Không! Ai bảo

Bác đi rồi? / Bác còn ở khắp nơi nơi nhà nhà; Mấymươi năm kháng chiến thật ghê / Tiếc thay

sáu chín Cụ về thiên cung;…

Đi là mất, là chết, là qua đời…Bác đã mất nhưng không một người dân nào muốn tin vào

điều đó. Ai ai cũng như thấy Bác hiện diện ở khắp mọi nơi, mọi nhà. Đồng bào ai cũng đau

đớn, xót xa nên dường như ai cũng muốn tránh đi nỗi đau đớn tột cùng, giảm đi sự đau thương,

mất mát.

Nói về sự ra đi của Bác, ca dao và thơ ca viết về Bác đều có cùng cách diễn đạt này. Có

lẽ, nhà thơ có nhiều cách nói sáng tạo để miêu tả cái chết của lãnh tụ đó là Tố Hữu: Bác đã đi

rồi sao Bác ơi! / Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời; Bác đã lên đường nhẹ bước tiên / Mác –

Lênin, thế giới người hiền (Bác ơi); Chắc như thường lệ, Người đi vắng; Bảy mươi chím tuổi

xuân trong sáng / Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay; Thôi đập rồi chăng một trái tim? / Đỏ

như sao Hỏa, sáng sao Kim. Nhưng có lẽ hay nhất, sâu sắc nhất, hàm chứa nhiều ý nghĩa nhất

là câu:

Cứ nghĩ: Hồn thơm đang tái sinh

Ngôi sao ấy lặn hóa bình minh.

(Theo chân Bác)

Bác mất nhưng một trời ánh sáng lại hiện ra trước mắt chúng ta, hồn thơm của Bác đang

tái sinhcho dân tộc, mang lại ánh sáng cho đời. Hình ảnh này gợi nhớ câu thơ của Phạm Tiến

Duật:

Mặt trời lặn mặt trời mang theo nắng

Bác ra đi để ánh sáng cho đời.

(Bác ra đi)

Cách diễn đạt trong ca dao về Bác có nét tương đồng với cách diễn đạt chung của nhân

dân Việt Nam. Khi đề cập đến chuyện đau buồn, người ta không nói thẳng, nói trực tiếp mà

thường vòng vo, xa gần để tránh cảm giác đau đớn đột ngột. Nói giảm, nói tránh là một trong

những cách nói xa gần ấy để tránh nỗi đau cho người đối diện, thậm chí là của chính bản thân

mình. Ngay cả Bác cũng dùng cách diễn đạt này. Trong Di chúc, Người có viết: Vì vậy tôi để

sãn mấy lời này, phòng khi tôi đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê nin và các vị cách mạng đàn anh

khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột

ngột. Cho nên, đề cập đến cái chết thì không có biện pháp nào hữu hiệu bằng nói giảm nói

tránh.

Nói tóm lại, qua những gì đã khảo sát về ngôn ngữ ca da về Bác, chúng tôi nhận thấy đặc

điểm ngôn ngữ của mảng ca dao này khá đặc sắc, giàu sắc thái biểu cảm. Sự kết hợp giữa ngôn

ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa phương, ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường trong ca

dao về Bác vừa phản ánh được cách nói trau chuốt, bóng bẩy, mượt mà của thơ ca vừa phản ánh

được lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng lao động; vừa cho thấy ca dao về Bác là một

hiện tượng không chỉ xuất hiện ở một địa phương vùng miền nào mà là hiện tượng đặc biệt

chung của quảng đại quần chúng nhân dân. Hiện tượng dùng tên riêng chỉ địa điểm trong bộ

phận ca dao này là sự kế thừa và tiếp nối mảng ca dao ca ngợi quê hương đất nước của ca dao

cổ truyền. Sự kế thừa ca dao cổ truyền còn thể hiện rõ nét hơn qua cách sự dụng từ ngữ trùng

lặp, sử dụng các công thức, các khung kết cấu truyền thống trong ca dao về Bác. Nhưng có lẽ

đặc biệt nhất chính là sự vận dụng khéo léo và dụng công các biện pháp tu từ của các tác giả

dân gian hiện đại. Các biện pháp tu từ ấy đã góp phần hoàn thiện bức tranh vô cùng sinh động

của ca dao về Bác mà nhân dân lao động đã vẽ nên bằng tất cả tình yêu thương và sự biết ơn,

kính trọng của mình đối với Bác kính yêu.

KẾT LUẬN

Ca dao về Bác thoạt nhìn rất mộc mạc, dân dã nhưng những nét độc đáo trong nghệ thuật

vẫn đấy ắp và sinh động.

Ca dao về Bác là sáng tạo của nhân dân ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam nước ta. Được

hình thành trong môi trường giàu bản sắc văn hóa, ca dao về Bác chứa đựng nội dung phong

phú, giàu tính nhân văn. Đây là một hiện tượng văn hóa và văn học độc đáo, có thể xem là hiếm

có trong văn học truyền miệng Việt Nam. Có thể nói, trong lịch sử văn học Việt Nam, chưa một

nhân vật lịch sử nào lại có khối lương thơ ca hướng tới để tìm hiểu và nhận thức nhiều như Bác.

Dòng thơ ca đó tiếp nối và được kết tinh từ nguồn thơ ca dân gian về nhân vật lịch sử và về đất

nước giàu đẹp, anh hùng. Được sản sinh và lưu truyền ở khắp mọi nơi, ca dao về Bác vẫn còn

tiếp tục tồn tại và phát huy trên mọi miền đất nước. Sức sống trường tồn của bộ phận ca dao

này trong đời sống của nhân dân lao động đã khẳng định được ý nghĩa và giá trị vượt thời đại

của chúng.

Thông qua việc tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật của bộ phận ca dao này, ta thấy được tài

năng của quần chúng nhân dân trong việc sáng tạo và lưu truyền những bài ca dao đặc sắc, thú vị.

Bằng nhiều biện pháp và mỗi biện pháp lại được vận dụng linh hoạt, khéo léo, tự nhiên, ca dao về

Bác đã mang lại bao tình cảm yêu thương, tình nghĩa gây bao xúc động cho người thưởng thức.

Ca dao về Bác kế thừa trọn vẹn hình thức và đặc điểm của thể lục bát trong ca dao cổ

truyền bởi đây là thể thơ có cách ngắt nhịp, gieo vần phong phú, đa dạng khiến cho bộ phận ca

dao về Bác dễ nhớ, dễ hiểu, dễ thuộc và từ đó dễ đi vào lòng người, đọng lại trong lòng người

đọc những rung cảm, những âm vang khó phai. Ngoài ra, trường hợp lục bát và song thất lục

bát biến thể xuất hiện với tần số cao cùng với việc vận dụng khéo léo thể hỗn hợp cho thấy

nhân dân luôn muốn nói nhiều hơn nữa những tình cảm của mình đối với Bác Hồ kính yêu.

Là một bộ phận của ca dao hiện đại, kết cấu của 521 bài ca dao về Bác đã kế thừa hầu hết

các dạng kết cấu của ca dao cổ truyền: kết cấu đối đáp và kết cấu trần thuật; kết cấu đối lập và

kết cấu đối ngẫu tâm lý; kết cấu thu hẹp dần hình tượng và kết cấu miêu tả trực tiếp. Các biểu

hiện khá đa dạng của kết cấu đã cho thấy quá trình sáng tạo và lưu truyền độc đáo, linh hoạt của

ca dao về Bác. Kết cấu đối đáp dù một vế hay hai vế, chúng ta vẫn thấy thấp thoáng hai nhân

vật đang tâm sự, trò chuyện, trao đổi với nhau mà nội dung của những cuộc trao đổi ấy thường

xoay quanh con người của Bác hoặc những vấn đề có liên quan đến Bác. Kết cấu trần thuật

giúp người đọc hình dung và hiểu sâu sắc hơn một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, giai

đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ, mà Bác là hình tượng

trung tâm xuyên suốt quá trình ấy. Bằng kết cấu đối lập, nhân dân đã phản ánh được sự tưởng

phản trong cách bộc lộ tình cảm đối với Bác Hồ và bọn bán nước, cướp nước; phản ánh được

trái ngược của hai cuộc đời của nhân dân lao động: khổ đau, tủi nhục dưới ách thống trị của chế độ

phong kiến thực dân, hạnh phúc, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác. Kết cấu đối ngẫu tâm lý

một lần nữa khẳng định tài hoa của các tác giả dân gian hiện đại:

Có thể nói ngôn ngữ của mảng ca dao về Bác khá đa dạng và độc đáo. Ngôn ngữ ở đây

có sự kết hợp giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa phương, ngôn ngữ văn chương và ngôn

ngữ đời thường. Chính sự kết hợp giữa ngôn ngữ gọt giũa, trau chuốt, bóng bẩy với ngôn ngữ

mộc mạc, giản dị, là lời ăn tiếng nói hằng ngày của quần chúng lao động đã góp phần làm cho

bộ phận ca dao này trở nên sinh động và giàu màu sắc biểu cảm hơn. Đặc biệt nhất chính là

cách dùng tên riêng chỉ địa điểm. Những tên quê, tên đất, tên nước, tên xóm, tên làng, tên vùng,

tên miền ấy đã gây nên một trường liên tưởng về những tình cảm cao quí của nhân dân ở khắp

mọi miền đất nước dành cho Bác. Đâu đâu, ai ai cũng thấy trong đó tình cảm yêu thương, trân

trọng, biết ơn của mình đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Việc lặp lại một số từ ngữ trong ca

dao về Bác như nhớ ơn, thương yêu, mong chờ cũng nói lên điều đó. Các hình thức trùng lặp

khung kết cấu, trùng lặp công thức, dòng thơ mà tiêu biểu là nhóm từ mở đầu, dòng đầu của

mỗi bài ca dao là hình thức khá phổ biến của ca dao cổ truyền. Ca dao về Bác Hồ đẽ kế thừa

trọn vẹn hình thức này. Có thể nói đây là hiện tượng giao thoa và tiếp nối của ca dao hiện đại,

đặc biệt là ca dao về Bác với ca dao cổ truyền. Mượn dòng đầu của ca dao cổ, cái khung kết cấu

của ca dao cổ để thể hiện những nội dung mới phù hợp với thời đại.

Nhân dân đã vận dụng khéo léo các hình ảnh trong tự nhiên và trong cuộc sống hằng

ngày để ngợi ca Bác, công ơn Bác. Những hình ảnh núi non, trời biển đã trở thảnh biểu tượng

ca ngợi công lao sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ trong ca dao cổ truyền, nay được quần

chúng nhân dân dùng để sánh với Bác, ví với công lao của Bác. Đó là sự kế thừa có phát huy

của ca dao hiện đại. Kế thừa những hình ảnh truyền thống để ngợi ca con người thời đại, con

người của gia cấp vô sản. Bên cạnh đó, các tác giả dân gian cũng mượn những đặc điểm, tính

chất của các vật thể nhân tạo trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày như chiếc đò ngang, cái

gương soi, ngọn đuốc sáng… để ca ngợi những phẩm chất đạo đức cao quí của Người mà các

thế hệ con cháu ngày nay đang ra sức phấn đấu học tập và làm theo tấm gương đạo đức sáng

ngời ấy.

Có thể nói, ca dao về Bác vừa kế thừa và phát huy ca dao truyền thống vừa là đại diện

tiểu biểu của ca dao hiện đại. Từ thể thơ, kết cấu cho đến hình ảnh, ngôn ngữ chúng tôi đều

thấy sự tương đồng giữa ca dao về Bác và ca dao hiện đại. Từ mối tương đồng này người viết

mạnh dạn cho rằng ca dao về Bác Hồ có nhiều điểm tiêu biểu cho ca dao hiện đại, từ cách cảm

nhận và phản ánh cuộc sống tới tới sự gắn bó với truyền thống ca dao cổ truyền. Chúng tôi biết

không ít bài ca dao hiện đại được phổ biến trên sách báo và các phương tiện thông tin khác

trước khi tồn tại với hình thức truyền miệng. Đó là đặc điểm mang tính thời đại, làm nên những

sắc thái khác nhau giữa ca dao trong thời hiện đại với ca dao thời cổ. Duy có một đặc điểm

không bao giờ thay đổi và nhất quán qua mọi thời đại thơ ca. Đó là ca dao hiện đại luôn phát

triển gắn liền với những công thức ca dao truyền thống. Mỗi thời đại với nội dung chủ yếu của

nó tạo cho ca dao những công thức khác nhau. Song thi pháp và phong cách luôn gắn liền với

quá khứ, luôn mang tính truyền thống. Trong những khung mẫu sẵn có, ca dao hiện đại mới

nhanh chóng được phổ biến, được chấp nhận và lưu truyền rộng rãi. Quá trình đó làm nó trở

nên phong phú hơn, nhiều biến thể hơn. Và đó chính là quá trình sáng tạo đặc thù.Ở đó, nó biểu

hiện rõ nguyên tắc kế thừa, đồng thời lại vượt bỏ quá khứ để vươn tới một cách biểu hiện nghệ

thuật mới hơn. Ca dao về Bác chính là nguồn tài liệu phong phú mà qua khảo sát chúng tôi thấy

bộ phận ca dao này đã phản ánh được điều đó.

Điểm lớn nhất mà bộ phận ca dao này mang lại là những nét đẹp và độc đáo, đặc sắc

trong tâm hồn, tình cảm của nhân dân. Tình cảm đong đầy, lai láng của nhân dân khắp mọi

miền đất nước vẫn còn giao tiếp được với các thế hệ người đọc mãi về sau này, trong hiện tại và

tương lai, bởi vì tình cảm đối với Bác Hồ là tình cảm không bao giờ cạn của dân tộc. Qua việc

khảo sát những bài ca dao về Bác, ta thêm kính yêu Bác, thêm yêu quần chúng lao động cần lao

dù trong bộn bề khó khăn gian khổ vẫn không quên dành những tình cảm thân thương, trìu mến

nhất đến vĩ lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.

Tóm lại, xét về mặt thể loại, ca dao tồn tại từ xưa đến nay. Sự tồn tại đó không phải

không thay đổi. Ca dao giống như một sinh thể luôn luôn vận động và phát triển không ngừng.

Tùy vào hoàn cảnh, thời gian mà ca dao có sự thay đổi nhất định. Tuy nhiên, sự thay đổi đó là

không hoàn toàn. Đổi mới nhưng vẫn giữ lại những yếu tố cổ truyền. Qua trường hợp của ca

dao Bác Hồ, đặc biệt là thể thơ, kết cấu và ngôn ngữ, có thể thấy sự vận động và thích nghi của

văn học dân gian nói chung, ca dao nói riêng trong những điều kiện, hoàn cảnh mới. Từ đó, cho thấy

sức sống mãnh liệt của ca dao qua mọi thời đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Phương Châm (2000), Biểu tượng hoa sen trong văn hóa Việt Nam, Tạp chí

Văn hóa dân gian, số 4, tr 53-61.

2. Nguyễn Phương Châm (2003), Tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ của ca dao sưu tầm ở Nam

bộ, Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 4.

3. Hà Châu (1988), Cách so sánh trong ca dao ngày nay, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6,

tr.75

4. Trần Tùng Chinh, Tìm hiểu công thức truyền thống trong một số bài ca dao mới Nam Bộ

về hình ảnh Bác Hồ, http://cadaotucngu.daitudien.com,

5. Nguyễn Đình Chú - Nguyễn Lộc (chủ biên)( 2000), Văn học 10 (Tập 1), Nxb Giáo dục.

6. Mai Ngọc Chừ (1989), Vần, nhịp, thanh điệu và sức mạnh biểu hiện ý nghĩa của lục bát biến

thể, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, tr. 16-18.

7. Mai Ngọc Chừ (1991), Ngôn ngữ ca dao Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 2, tr. 24-28.

8. Nguyễn Cừ (2008), Hồ Chí Minh-Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb Văn Học, Hà Nội.

9. Nguyễn Nghĩa Dân (2009), Ca dao Việt Nam 1945-1975, Nxb Khoa học xã hội.

10. Chu Xuân Diên (1969), Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại, Tạp chí Văn hóa

dân gian, số 4, tr.34-53.

11. Chu Xuân Diên (1981), Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian, Tạp chí Văn hóa

dân gian, số 5, tr.19-26.

12. Vũ Dung (1994), Ca dao trữ tình Việt Nam, Nxb Giáo dục.

13. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Đôi nét về nhóm biểu tượng hoa trong ca dao, Tạp chí

Nguồn sáng dân gian, số 4, tr. 46-49.

14. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2001), Tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng trong ca dao Việt Nam,

Thông báo Văn hóa dân gian 2001, tr. 328-341.

15. Đinh Văn Định (1981), Về những phương thức thể hiện hình tượng Bác Hồ trong thơ,

Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr. 13-21.

16. Cao Huy Đỉnh (1966), Lối đối đáp trong ca dao trữ tình, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 9,

tr. 10-14.

17. Phạm Văn Đồng (1975), Hồ Chủ Tịch tinh hoa của dân tộc lương tâm của thời đại, Nxb

Sự thật, Hà Nội.

18. Hà Minh Đức (1983), Ca dao về Bác Hồ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3,4.

19. Hà Minh Đức (1997), Hồ Chí Minh-Nhà thơ lớn của dân tộc, Nxb Giáo dục.

20. Nguyễn Xuân Đức (2002), Về thể thơ lục bát trong ca dao, Tạp chí Văn hóa dân gian, số

2, trang 78-84.

21. Nguyễn Xuân Đức, Về hiện tượng chiếm ưu thế của thể lục bát trong ca dao,

www.vienvanhoc.org.vn/reader

22. Bảo Định Giang, (1990), Ca dao Bảo Định Giang từ 1945 -> 1989, Nxb Văn Nghệ ,

Thành phố Hồ Chí Minh.

23. Nguyễn Văn Hạnh(1969), Hình ảnh Bác Hồ qua những chặng đường thơ của Tố Hữu,

Tạp chí Văn học, số 6.

24. Vũ Tố Hảo (1997), Những yếu tố trùng lặp trong ca dao hiện đại, Tạp chí Văn hóa dân

gian, số 2, tr. 74-78.

25. Đỗ Thị Hòa (2002), Vài nét về biểu tượng ca dao người Việt, Nxb Ngữ học trẻ.

26. Nguyễn Văn Hoàn (1999), Thể lục bát, từ ca dao đến truyện Kiều, Tuyển tập 40 năm Tạp

chí Văn học, tr. 216-232.

27. Trần Mạnh Hùng (2001), Giảng dạy ca dao trong sách giáo khoa môn Văn ở Trung học

phổ thông, Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn.

28. Đoàn Thị Hương (1976), Hình ảnh Bác Hồ trong “Những năm tháng không thể nào

quên”, Tạp chí Văn học, số 3, tr.19-28.

29. Đinh Gia Khánh (2005), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.

30. Hồng Khánh (2001), Tục ngữ ca dao Việt Nam, Nxb Đà Nẵng.

31. Nguyễn Xuân Kính , Phan Đăng Nhật… (1995), Kho tàng ca dao người Việt, Nxb Văn

Hóa , Hà Nội.

32. Nguyễn Xuân Kính (1993), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

33. Nguyễn Xuân Kính (1999), Về tên riêng chỉ địa điểm trong ca dao dân ca, Tuyển tập 40

năm Tạp chí Văn học, tr.376-384.

34. Nguyễn Xuân Lạc (1991), Một đôi nét trong bức tranh văn hóa dân gian đương đại: ca

dao Bác Hồ, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4.

35. Nguyễn Xuân Lạc (2000), Thơ dâng Bác, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

36. Nguyễn Xuân Lạc (1981), Vài suy nghĩ bước đầu về thơ ca viết về Hồ Chủ Tịch, Tạp chí

Văn học, số 1.

37. Tôn Phương Lan (1978), Công ơn Bác Hồ đối với phụ nữ và hình ảnh Bác Hồ trong thơ

ca của các nhà thơ phụ nữ, Tạp chí Văn học, số 1.

38. Phong Lê (1986), Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội

39. Trần Gia Linh (1990), Bốn mươi lăm năm ca dao dâng Bác, Tạp chí Văn hóa dân gian,

số 1.

40. Xuân Long (2007), Tiêng hát đồng quê, Nxb Thanh Hóa.

41. Đặng Văn Lung (1974), Lấy xưa phục vụ nay, học cũ để làm mới, Tạp chí Văn học, số 4.

42. Đặng Văn Lung (1966), Những người sáng tác ca dao ở nông thôn hiện nay, Tạp chí Văn

học, số 9, tr.21.

43. Đặng Văn Lung (1999), Những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình, Tuyển tập 40 năm Tạp

chí Văn học, tập I , Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

44. Lưu Trọng Lư (1970), Những lời đẹp nhất, Tạp chí Văn học, số 3, tr.61-73.

45. Thiếu Mai (1964), Bác Hồ trong thơ Tố Hữu, Tạp chí Văn học, số 5.

46. Nguyễn Đăng Mạnh (2004), Văn Thơ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, Hội nghiên

cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh.

47. Trần Văn Nam (2004), Biểu trưng trong ca dao Nam bộ, luận án Tiến sĩ, 196 tr.

48. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình dưới góc nhìn ngôn

ngữ, Nxb Văn học.

49. Triều Nguyên (2001), Bình giải ca dao, Nxb Thuận Hóa , Huế.

50. Triều Nguyên (2003), Tiếp cận ca dao-phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu trúc,

Nxb Thuận Hóa, Huế.

51. Ca dao miền Nam chống Mỹ (1971), Nhà in Giải Phóng.

52. Ca dao chống Mỹ _ tập 2 (1971), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

53. Ca dao chiến sĩ - tập V (1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

54. Ca dao sưu tầm (1945 đến nay), 1962, Nxb Văn học.

55. Ca dao sưu tầm (1962), Nxb Văn học.

56. Tiếng ca xuân toàn thắng-Ca dao chiến sĩ-tập 6 (1976), Nxb Quân đội nhân dân , Hà Nội.

57. Trương Thị Nhàn (1991), Giá trị biểu trưng nghệ thuật của các vật thể nhân tạo trong ca

dao cổ truyền Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 3, tr.46 – 52.

58. Trần Quang Nhật (2003), Ca dao về Bác Hồ, Nxb Văn Hóa Thông Tin , Hà Nội.

59. Bùi Mạnh Nhị (1997), Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc ca dao dân ca trữ

tình, Tạp chí Văn học, số 1, tr 21-26.

60. Bùi Mạnh Nhị (1988), Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Sở Giáo Dục An Giang.

61. Bùi Mạnh Nhị (1980), Sen Tháp Mười, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.

62. Bùi Mạnh Nhị (1998), Thời gian nghệ thuật trong ca dao dân ca trữ tình, Tạp chí Văn

học, số 4, tr 30.

63. Bùi Mạnh Nhị (2000), Văn học dân gian những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục.

64. Thi Nhị (1984), Bác Hồ và nguồn ca dao mới, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4.

65. Vũ Ngọc Phan (1964), Tinh thần chống giặc ngoại xâm của phụ nữ qua ca dao Việt Nam

xưa và nay.

66. Vũ Ngọc Phan (1978) Tục ngữ- ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.

67. Nguyễn Tấn Phát (2001), Vài nét về nội dung ca dao – dân ca Nam bộ, Thông báo Văn

hóa dân gian, tr. 342-364.

68. Vũ Đức Phúc (1970), Quy luật phát triển của văn học dân gian cũ và văn học truyền

miệng hiện đại từ sau Cách mạng tháng 8, Tạp chí Văn học, số 4, tr.41-45.

69. Nguyễn Hằng Phương (2000), Đề tài Hồ Chủ Tịch trong ca dao Việt Nam 1945-1975,

Tạp chí Văn học.

70. Nguyễn Hằng Phương (2003), Hai cách tổ chức ngôn ngữ trong ca dao, Tạp chí Nguồn

sáng dân gian, số 2, tr. 30-35.

71. Nguyễn Hằng Phương (2002), Một cách nhận diện ca dao hiện đại, Tạp chí Văn hóa dân

gian, số 6, tr. 67-77.

72. Nguyễn Hằng Phương (2003), Hai phương thứ nghệ thuật trong ca dao cổ truyền người

Việt, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 63-69.

73. Phan Diễm Phương (1998), Lục bát và song thất lục bát (lịch sử phát triển, đặc trưng thể

loại), Nxb Khoa học xã hội, 214 tr.

74. Phan Thị Diễm Phương (1988), Thể thơ lục bát ở một thế hệ nhà thơ hiện đại, Tạp chí

Văn hóa dân gian, số 2, tr. 83-94.

75. Thạch Phương ( 1966), Một số nét về thơ ca quần chúng chống Mỹ ở miền Nam, Tạp chí

Văn học, số 7 .

76. Vũ Dương Quý (1997), Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông Nguyễn Ái Quôc –

Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục.

77. Ca dao Đồng Tháp Mười (1984), Sở Văn hóa thông tin Đồng Tháp.

78. Hà Công Tài (1988), Biểu tượng trăng trong thơ dân gian, Tạp chí Văn học, số 5,6,

tr.65-68.

79. Hà Công Tài (2001), Vấn đề nghiên cứu thơ ca dân gian hiện đại, Một thế kỷ sưu tầm

nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân ngian, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

80. Đỗ Văn Tân , ca dao Đồng Tháp Mười (1984), Sở văn hóa thông tin, Đồng Tháp.

81. Vân Thanh (1965), Bác Hồ với thiếu nhi và thiếu nhi với Bác Hồ, Tạp chí Văn học, số 5.

82. Trần Hữu Thung (1981), Ca dao về Bác Hồ, Nxb Nghệ Tĩnh

83. Phạm Văn Thứ (1964), Một vài ý kiến về thơ ca truyền miệng của công nhân trước Cách

mạng tháng 8, Tạp chí Văn học, số 2, tr.45-54.

84. Trần Tiến (1970), Một số suy nghĩ về văn học dân gian hiện đại, Tạp chí Văn học, số 4,

tr.46-54.

85. Đặng Diệu Trang (1998), Thể hứng trong ca dao, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2, trang

49-51.

86. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của ca dao, trong Những đặc điểm thi

pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục, tr. 192-234.

87. Đỗ Bình Trị (2002), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb

Giáo dục.

88. Võ Quang Trọng (1987), Tìm hiểu những hình thức biểu hiện của tục ngữ, ca dao dân ca

trong thơ ca hiện đại Việt Nam, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, tr. 36-41.

89. Vương Trọng (19950, Dâng Người, Tuyển tập nửa thế kỷ thơ viết về Bác, Nxb Nghệ An.

90. Nguyễn Nguyên Trứ (2000), Trồng cây, một nét đẹp văn hóa Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Hồ

Chí Minh và Văn hóa Việt Nam, tr. 187-192, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

91. Hòang Tiến Tựu (1999), Mấy suy nghĩ về cách tìm hiểu một bài ca dao cổ, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh, Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học, tập 1, tr. 297 – 310.

92. Ca dao Hải Hưng (1980), Ty văn hóa thông tin.

93. V.E. Gu-xep (1968), Bàn về những tiêu chuẩn của tính văn học dân gian trong sáng tác

hiện nay của nhân dân, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 73-86.

94. Lê Trí Viễn (1986), Thơ văn Đồng Tháp, tập 2, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp.

95. Tuyển tập 40 năm Tạp chí văn học 1960-1999, Tập 1, Văn học dân gian, Viện Văn học,

Nxb Thành phố Hồ Chi Minh, 1999.

96. Hoàng Hương Việt (2006), Ca dao dân ca đất Quảng, Nxb Đà Nẵng.

97. Nguyễn Minh Vỹ (1964), Cuộc sống và con người trong cuộc sống chiến đấu ở miền

Nam, Tạp chí Văn học, số 5, tr.79-89.

98. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

99. Phạm Thu Yến (1999), Vấn đề nghiên cứu biểu tượng thơ ca dân gian, Tạp chí Văn học,

số 4, tr.55-62.

PHỤ LỤC

Lời giới thiệu

Phụ lục này nhằm giúp người đọc dễ nắm bắt các số liệu và dẫn chứng về thể thơ, kết cấu,

ngôn ngữ, hình ảnh và giúp đối chiếu với các văn bản ca dao về Bác dễ dàng hơn.

Phụ lục gồm các bảng thống kê số liệu có liên quan đến đề tài được sắp xếp theo trình tự

dưới đây :

- Phụ lục 1 là bảng thống kê bộ phận ca dao về Bác Hồ. Người viết đã khảo sát được

521 bài và sắp xếp theo trình tự a, b, c,…Ngoài ra sau phần này là 27 bài ca dao của

dân tộc thiểu số.

- Phụ lục 2 là bảng thống kê các số liệu về thể thơ.

- Phụ lục 3 là bảng thống kê tần số xuất hiện của ngôn ngữ.

- Phụ lục 4 là bảng thống kê tần số xuất hiện các hình ảnh.

MỤC LỤC

TÊN PHỤ LỤC Trang

Phụ lục 1: Ca dao về Bác Hồ .......................................................................3

Phụ lục 2:Thống kê các số liệu về thể thơ ..............................................175

Bảng thống kê tỉ lệ các thể thơ ......................................................... 175

Bảng thống kê tỉ lệ các dòng thơ trong ca dao về Bác ......................175

Bảng thống kê tỉ lệ các dòng thơ trong ca dao cổ truyền ..................176

Bảng so sánh tỉ lệ dòng thơ trong ca dao về Bác và ca dao hiện đại .176

Phụ lục 3: Thống kê tần số xuất hiện của ngôn ngữ ...............................177

Bảng thống kê tần số xuất hiện các từ ngữ trùng lặp .........................177

Phụ lục 4: Thống kê tần số xuất hiện các hình ảnh ................................178

Bảng thống kê hình ảnh tự nhiên ......................................................178

Bảng thống kê hình ảnh thục vật ......................................................178

Bảng thống kê hình ảnh nhân tạo .....................................................179

Phụ lục 1: CA DAO VỀ BÁC HỒ

1. Ai đếm được cát

Ai tát được bể

Ai kể được sao

Đố ai tính được công lao Cụ Hồ.

Ai tát được bể

Ai kể được sao

Đố ai tính được công lao Cụ Hồ.

Sông sâu còn lấy thước dò

Lòng dân ơn Bác biết đo sao cùng!

Ai đi xây dựng cơ đồ 2.

Ai còn ở lại phất cờ đấu tranh

Thù kia xây lũy đắp thành

Vẫn không ngăn được gia đình Việt Nam.

Thù kia chia sẻ Bắc Nam

Giang sơn cũng vẫn giang sơn nước nhà.

Bác Hồ sống giữa lòng ta

Lòng dân lòng Bác chan hòa nước non.

3. Ai ra Việt Bắc

Xa lắc xa lơ

Đường đi ngoéo ngắt

Lòng thành son sắt

Vắn tắt đôi lời

Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe vui tươi

Dắt dìu kháng chiến, giành độc lập cho người Việt Nam.

Ai lên Việt Bắc

Xa lơ xa lắc

Đường đi ngoéo ngoắt

Trục trục trặc trặc

Miệng kêu tay ngoắt

Lòng thành son sắt

Vắn tắt đôi lời :

Chúc Cụ Hồ mạnh khỏe vui tươi

Dắt dìu kháng chiến dành độc lập cho người Việt Nam.

4. Ai ngoài muôn dặm trùng dương

Cũng thường nhận được tình thương Cụ Hồ.

5. Ai nói xấu Cụ Hồ

Là đồ vong ân bội nghĩa

Lòng Cụ Hồ tròn như chiếc đĩa

Suốt đời trung với nước, hiếu với dân

Chỉ có quân hám sữa cặn, rượu tàn

Mới nói quấy nói quá hòng làm mất thanh danh Cụ Hồ.

6. Ai ơi, nghĩ lại kẻo lầm

Đừng chê bạc rách mắc thâm mưu thù

Bạc này kẻ dấu người thu

Được bạc Cụ Hồ rách mấy cũng tiêu.

7. Ai ơi đừng lấy chồng non,

Chờ ngày độc lập lấy con cụ Hồ.

Ai ra miền Bắc xa xôi 8.

Xin cho nhắn gởi đôi lời nhớ thương

Dù cho cách trở mấy phương

Miền Nam một dạ theo đường Bác đi.

9. Ai ra thưa với Bác Hồ

Dân no thì lính cũng no, cũng đầy.

10. Ai ra thưa với Bác Hồ

Miền Nam chúng cháu đang chờ Bác đây

Bao giờ Bác mới rảnh tay

Bác được vô này, chúng cháu thêm vui..

A ha! Chúng cháu nhớ rồi

Dặn ba, dặn má, dặn thôi đủ điều :

Trái ngon phải có thật nhiều

Để dành đãi Bác sớm, chiều Bác ăn.

Trâu bò đừng cột ngoài sân

Bác trông thấy Bác cho rằng ở dơ.

Lúa thóc thì chứa đầy bồ

Bác nhìn thấy được trúng mùa Bác vui.

Bác vô nghen Bác, Bác ơi!

Bác vô cho được Tháp Mười Bác coi

Tuy rằng Tây phá mọi nơi

Nhưng mà chúng cháu không đời nào lo

Có Bác thì ấm, thì no

Có Bác thì giặc phải thua, chắc rồi.

Bác vô nghen Bác, Bác ơi!

11. Ai ơi nhắn với Bác Hồ

Tháp Mười chúng cháu đang chờ Bác đây

Bác vô, nghe Bác, Bác ơi

Bác vô cho được Tháp Mười, Bác coi

Tuy rằng Tây phá mọi nơi

Nhưng mà chúng cháu không đời nào lo

Có Bác thì ấm, thì no

Có Bác thì giặc phải thua, chắc rồi.

12. Ai trồng cây cảnh mà chơi

Ta trồng cây thọ chúc Người kính yêu

Người kính yêu chính liêm cần kiệm

Cả năm châu bốn biển nhìn gương

Ước gì có giống trầm hương

Ta trồng trên núi nghìn nương mừng Người.

Một mai xanh tốt rợp trời

Buổi làm xong việc từng đôi đi về.

Thênh thang điện sáng đường quê,

Hương trầm gió thoảng đêm hè mười phương

Tháng năm dạ hội nông trường

Rủ nhau lên núi trầm hương nhớ Người.

13. Ai về đất tuyến Vĩnh Linh

Mà nghe tiếng hát tâm tình vang xa

Nắng lên thêm ấm lòng ta

Gió lên sóng lúa vang ca gửi mình

Ca rằng : dân tuyến Vĩnh Linh

Ghi sâu lời Bác đinh ninh đời này

Giôn-xơn, mày chớ có hòng

Buông dây thòng lọng đem tròng cổ tao

Đời nô lệ, kiếp lao đao

Dân tao đứng dậy đạp nhào bùn sâu

Súng ghì chặt, thức canh thâu

Cho lúa thêm tốt, cho cầu vẫn nguyên.

14. Ai về nhắn bạn đường xa

Nón đẹp tỉnh nhà là nón Tam Dương

Kim Thành trồng mía làm đường

Đũi dẹt Cát Tường vừa ý nhiều cô.

Ai lên thưa với Bác Hồ

Quê em nghề phụ bốn mùa vui tươi.

15. Ai về nhớ ghé Bạc Liêu

Ăn chùm nhãn ngọt chín riu mật vàng

Rồi xuôi xuống chợ Cây Bàng

Đi thăm bãi cát trãi vàng biển khơi.

Ai xây, ai đắp, ai bồi

Công ơn của Bác chói ngời Bạc Liêu.

16. Ai về thưa với Bác Hồ

Sóng to không núng, phong ba không sờn

Một lòng yêu lấy giang sơn

Nguyện rằng thà chết còn hơn sống hèn.

17. Ai về Yên Dưỡng, Hoàng Mô

Mà xem quân lính Cụ Hồ sang sông

Đêm ngày mê mải chiến công

Thoáng nôm như có cả chồng em kia.

18. Ấm ngoài rồi lại ấm trong

Năm nao ta có chăn hồng vải hoa

Áo quần hai bộ vào ra

Lại thêm trấn thủ, bạc đà kèm theo

Bác thương dân thợ bao nhiêu

Thì ra sản xuất càng nhiều đạn bom.

19. Anh đi gìn giữ nước non

Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ

Anh ra đi lính Cụ Hồ

Con sông, con suối, con đò đưa anh.

(Quảng Nam Đà Nẵng)

Anh đi gìn giữ nước non

Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ

Anh đi làm lính Cụ Hồ

Đò xưa bến cũ đợi chờ đón anh.

(Đồng Tháp Mười)

20. Anh là chiến sĩ Cụ Hồ

Đánh cho Mỹ cút, cơ đồ mới êm.

21. Anh ơi, tôi nhắn câu này

Than kia lẫn đá xúc đầy sao đang

Gòong kia nó chạy qua đàng

Nó cười, nó diễu, anh mang tiếng lười

Gòong rằng : phiền lắm anh ơi

Cứ làm như thế em thời không ưa

Nhớ lời Bác dạy năm xưa

Phẩm chất bảo đảm không giờ nào quên.

22. Anh về giã gạo ba giăng

Anh lên gánh nước Cao Bằng về ngâm

Đêm ngày 19 tháng 5

Gói thành đôi bánh đem dâng Bác Hồ.

23. Áo ấm cơm no nhờ ai mà có

Giành lại hòa bình nhờ có ơn ai?

24. Ấu nào ấu lại tròn

Bồ hòn nào bồ hòn lại méo

Mĩ - Diệm ơi, đừng nói trắc trẻo nỏ ai nghe

Dù chúng bay xuyên tạc chán chê

Đồng bào vẫn nhớ có Cụ Hồ thì mọi bề mới yên.

Ấu nào ấu lại tròn

Bồ hòn nào bồ hòn lại méo

Mĩ - Diệm ơi, đừng nói trắc trẻo chẳng ai nghe

Dù chúng bay xuyên tạc chán chê

Đồng bào vẫn nhớ có Cụ Hồ thì mọi bề mới êm.

25. Ăn cơm bên Tống uống nước bên Ngô

Khi đi bỏ phiếu thì cụ Hồ Chí Minh.

26. Ba cô mặc áo cánh sen?

Ba năm vác cuốc lên non trồng rừng

Non xanh cây mọc ba từng

Ngàn con chim đến hát mừng ba cô

Chim ơi, rừng của Bác Hồ

Có lời Người dạy bây giờ rừng xanh.

Ba cô mặc áo cánh son?

Ba năm vác cuốc lên non trồng rừng

Non xanh cây mọc ba từng

Ngàn con chim đến hát mừng ba cô

Chim ơi,rừng của Bác Hồ

Có lời Người dạy bây giờ rừng xanh.

27. Ba mươi năm đẹp một ngày

Hàng cây đã hóa rừng cây bạt ngàn.

Từ Lạng Sơn bước thênh thang

Qua Hiền Lương đến xóm làng Cà Mau

Đẹp tươi xanh mát một màu

Con đi lòng nặng ơn sâu Bác Hồ.

28. Bác Đảng lập thành tên nước

Con cháu ta tiến bước dưới cờ

Ta là con cháu Bác Hồ

Đánh tan Mỹ ngụy cơ đồ về ta.

29. Bác Hồ, Bác sống nơi xa

Sao em tưởng Bác trông nhà với em

Hình Bác em mới được xem

Mà em trông Bác hết đêm lại ngày.

30. Bác Hồ, cha của chúng con

Sáu mươi năm ấy sắt son một lòng

Tình thương của Bác mênh mông

Ân cần, tha thiết, ấm lòng chúng con

Lời Người, tiếng của nước non

Bốn ngìn năm ấy vẫn còn hôm nay

Vui nhìn cờ đỏ tung bay

Nhớ lời Bác dạy, càng dày niềm tin.

31. Bác Hồ chẳng kể công ơn

Mà công của Bác bằng non bằng trời.

32. Bác Hồ chúc tết Mậu Thân

Nước non nghe ấm mấy lần xuân tươi

Con đi nghe tiếng của Người

Gân săn, gối dẻo đập lùi gian nan.

Xuân này cả nước hành quân

Bước chân chuyển núi lay ngàn xông lên.

Xuân sang trong tiếng pháo rền

Nghe giao thừa chuyển tiếng kèn tiến quân.

33. Bác Hồ dạy bảo dân ta

Chữ “cần”, chữ “ kiệm” phải là keo sơn.

34. Bác Hồ đã dạy chúng ta

Còn Mỹ còn đánh chẳng tha một thằng.

Chúng ta hứa với Bác rằng:

Còn Mỹ còn đánh một thằng chẳng tha.

Bác trao cờ tặng quê ta

Lá cờ chiến thắng là quà chiến công.

Cờ bay đỏ đất Lam Hồng

Cờ bay muôn nẻo lập công khắp miền

Nhắm cho trúng bắn cho tin

Làm quà thắng lợi dâng lên Bác Hồ.

Bác Hồ đã dạy chúng ta

Còn Mỹ còn đánh chẳng tha một thằng.

Chúng ta hứa với Bác rằng:

Còn Mỹ còn đánh một thằng chẳng tha.

Bác trao cờ tặng quê ta

Lá cờ chiến thắng, lá cờ lập công.

Cờ bay đỏ đất Lam Hồng

Cờ bay muôn nẻo, lập công khắp miền

Ngắm cho trúng bắn cho tin

Làm quà thắng lợi dâng lên Bác Hồ.

35. Bác Hồ nhiều cháu nhiều con

Là người dân Việt nước non Hồng Bàng.

36. Bác Hồ nghĩa lớn tày non

Đánh tan Pháp Nhật rửa hờn cho dân.

37. Bác Hồ là vị Cha chung

Là sao Bắc-đẩu, là vừng thái dương.

Chúng con đi giữa đêm trường

Nhờ Cha dìu dắt dẫn đường chúng con.

Ơn Cha như nước như non

Như gương Hồ-thủy, như hồn Thái- Sơn.

Cha Hồ là vị cha chung

Là sao Bắc-đẩu, là vừng thái dương.

Con đang đi giữa đêm trường

Nhờ Cha soi lối chỉ đường cho con.

38. Bác Hồ ơi !

Bác Hồ ơi !

Hầm gai là huyệt chôn người

Nhưng không lắp được ý đời con đâu

Dù cho nắng lửa mưa dầu

Trong hang tối vẫn ngẩng đầu trông lên

Dù cho đá nổi rong chìm

Lòng con, con chỉ một niềm mà thôi

Đêm nay mừng lắm cha ơi

Cỏ cây mở hội đất trời liên hoan

Đêm nay mười chín tháng năm

Hồn con sáng tợ trăng rằm trung thu

Con đang CHÚC THỌ trong tù

Con đang dựng một rừng cờ trong tim

Đêm nay mộng hóa thành chim

Tung qua lưới sắt con tìm đến Cha.

39. Bác Hồ ơi!

Cháu là em bé phương xa.

Theo anh vệ quốc xa nhà từ lâu.

Cháu qua sông Đuống sông Cầu

Phủ Thông, đèo Khách, An Châu, Lũng Vài,

Qua bao vực thẳm hang dài

Gặp anh vệ quốc giết loài thực dân.

Cháu là thiếu sinh quân

Nhân ngày sinh nhật Bác

Có vài lời chất phác

Kính chúc Bác sống lâu

Không bao giờ bạc đầu.

Để lái thuyền chiến thắng.

Bác Hồ ơi

Cháu là em bé phương xa.

Theo anh vệ quốc xa nhà đã lâu.

Cháu qua sông Đuống, sông Cầu

Phủ Thông, đèo Khách, An Châu, Lũng Vài,

Qua bao vực thẳm sông dài

Giúp anh vệ quốc giết loài thực dân.

Cháu là thiếu sinh quân

Nhân ngày sinh nhật Bác

Có vài lời chất phác

Kính chúc Bác sống lâu

Không bao giờ bạc đầu

Để lái thuyền chiến thắng.

40. Bác Hồ tranh đấu vì dân

Đã bao gian khó phong trần vượt qua.

Bác mong dân được ấm no

Bác mong đất nước tự do hòa bình

Suốt Trung Nam Bắc dân mình

Người bao nhiêu đó nặng tình bấy nhiêu.

Bác Hồ tranh đấu vì dân

Đã bao gian khổ phong trần vượt qua.

Bác mong dân được ấm no

Bác mong dân được tự do hòa bình

Khắp Trung, Nam, Bắc dân mình

Người bao nhiêu đó, mối tình bấy nhiêu.

Tương lai hạnh phúc còn nhiều

Càng yêu tổ quốc càng yêu Bác Hồ.

41. Bác Hồ trong trái tim dân

Tuy xa nghìn dặm nhưng gần, gần ghê.

42. Bác luôn chăm sóc đến dân

Nhất là nông nghiệp ân cần hỏi han …

43. Bác ơi, chúc Bác dưới cờ

Tóc râu muôn thưở bao giờ cũng xanh.

44. Bác ơi dù Bác đi rồi

Một lòng cháu nguyện theo lời Bác răn

Nhìn sen nhớ Bác bồi hồi

Bác ra đi giữa những lời mai sau

Từng lời di chúc khắc sâu

Vào trong tâm khảm những đầu tóc xanh

Bác ơi lời Bác ân tình

Ngàn năm con cháu đinh ninh nhớ lời.

45. Bác ơi nhà Bác cũng nghèo,

Quê hương Bác cũng như nhiều quê hương.

46. Bác ơi, yêu Bác vô cùng

Khi lời Bác đến giữa lòng miền Nam

Sông có cạn, núi có mòn

Bắc Nam mãi mãi là con một nhà

Miền Nam là máu thịt ta

Càng đau thương càng tỏ ra thành đồng

Miền Nam thương Bác trong lòng

Giữa bom đạn, giữa những vòng thép gang.

Bác chắc cũng nhớ cháu nhiều

Miền Nam đau khổ sớm chiều trông ra.

47. Bác về đồng lúa thêm xanh

Mái nhà lại ấm, sân đình lại vui

Nụ cười em bé thêm tươi

Nhân dân nô nức, người người thi đua.

48. Bác về sung sướng biết bao

Tầng trên, tầng dưới, tầng nào cũng vui

Vui vì được gặp mặt Người

Được trông thấy rõ nụ cười, nước da.

Vui vì thấy Bác đã già

Nhưng còn khỏe mạnh như là công nhân.

49. Bác về năm ngoái năm xưa

Năm nay đất mỏ được mùa hoa than.

Còi reo máy hát trên tầng

Ước gì lại đúng mùa xuân Bác về.

50. Bác về thăm đảo năm xưa

Đa chưa bén gốc, dừa chưa vươn tàu.

Tiễn chân Bác mới hôm nào

Mà đa xanh bóng, dừa cao trĩu buồng

Ước gì Bác lại thăm luôn

Bóng đa che nắng, dừa non con mời.

51. Bạc Đông Dương kẻ thương người ghét

Bạc Cụ Hồ kẻ ghét người thu

Già tay thêm nặng oán thù

Dù bay có xé hết, đã có chiến khu chở về.

Bạc Đông Dương kẻ căm người ghét

Bạc Cụ Hồ kẻ nhét người thu

Già tay thêm nặng oán thù

Dù là bay có xé hết, thì đã có chiến khu chở về.

52. Bạc màu là đất Đông Anh

Làm theo lời Bác vẫn xanh ruộng đồng

Tưng bừng trống giục, cờ giong

Con mương chống Mĩ, bờ vùng đảm đang

Ai về Dục Tú tham quan

Khen đây thủy lợi gần ngang Phương Tru

Ai về thăm Cổ Loa xưa

Thi đua nuôi lợn giỏi như thôn Nhồi

Nghìn năm mơ ước đây rồi

Thay chân giã gạo, thay trời làm mưa

Điện về, máy chạy sớm trưa

Mẹ già sáng mắt, con thơ sáng lòng

Kim Chung, Uy Nỗ, Nam Hồng…

Đôi vai nhẹ gánh, thêm công cày bừa

Nhớ sao nhớ mãi năm xưa

Bác về thăm huyện đến giờ chưa quên

Chưa quên lời hứa- niềm tin

Đã ghi vào dạ, đã in vào lòng

Sao cho đồi bãi, ruộng đồng

Thành vực thóc lúa, thành rừng cây xanh

Bạc màu là đất Đông Anh

Làm theo lời Bác, đất thành tốt tươi.

53. Bạc phơ mái tóc phong trần

Quên mình chỉ nghĩ nhân dân đồng bào.

Bác đi xa mãi rồi sao

Nghĩa sâu ơn nặng thấm vào chúng con.

54. Bài thơ Nam Bộ của Người, Người ơi

Có vần, có điệu đủ rồi

Còn đợi bóng Người in giữa bài thơ.

Bao giờ độc lập Người vô

Bấy giờ là lúc bài thơ hoàn thành.

55. Bao giờ chạch ngủ ngọn cây

Cửu Long hết nước, biển này cạn khô

Thì lòng tin tưởng Cụ Hồ

Mới phai nhạt khỏi Xóm Đò bầy tui.

56. Bao giờ hết đước Năm Căn

Ông Trang hết cá, Viên An hết rừng.

Khai Long mà hết cả đường

Miền Nam mới hết nhớ thương Bác Hồ.

Bao giờ hết đước Năm Căn

Ông Trang hết cá, Viên An hết rừng.

Khai Long mà hết xác cá đường

Miền Nam mới hết nhớ thương Bác Hồ.

57. Bao giờ trạch đẻ đọt cây

Người không uống nước, gậy tầy sinh con

Bao giờ địa hạt Na-Khon

Biến thành rừng núi không còn người mô

Thì lòng tin tưởng Cụ Hồ

Vẫn không phai lạt xóm đò bầy tui.

58. Bạt rừng, xẻ núi, mở đường

Chở hàng vào tận chiến trường, Bác vui.

59. Bắc Nam sum họp một nhà

Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa

Thỏa lòng ngày ước đêm mơ

Miền Nam hồi hộp đón chờ Bác vô.

60. Bé về đi học trường làng

Hôm nao bắt được nhẫn vàng đánh rơi

Cầm lên bé tủm tỉm cười

Bé tìm trả được cho người mới thôi

Bác Hồ ở tận xa xôi

Nghe tin lòng Bác bồi hồi mến thương

Bác khen cháu tốt quá chừng

Thưởng cho huy hiệu sáng trưng bóng Người

Đeo lên giữa ngực chói ngời

61. Bể sâu còn có kẻ dò

Ngắm huy hiệu Bác, bé vui, bé mừng.

Công ơn Bác, Đảng ai đo được nào.

Người như là mặt trời cao

Tỏa muôn ánh sáng soi vào lòng dân.

62. Biển ngoài sóng dữ, gió to

Giao thừa đất nước đọc thơ Bác Hồ.

Đêm tù thần vẫn tự do

Mơ sao năm cánh – cơ đồ ngàn năm.

Phố phường tiếng pháo vui xuân

Mừng ngày sinh Bác – tròn trăm tuổi đời.

Bác đi, Bác đã đi rồi …

Mực còn đậm nét những lời Bác khuyên :

Đảng ta là Đảng cầm quyền

Trước sau trong sạch, chớ quên giữ gìn.

Có dân nên mới có mình

Xứng là đầy tớ trung thành của dân.

Đèn lên hoa huệ trắng ngần

Lặng nhìn ảnh Bác, đêm xuân bàng hoàng…

63. Bên ni Hiền Lương nhớ về Hồng trường Liên Xô vĩ đại

Cờ bay phất phới, nắng trải hoa thơm

Cùng ta chung một con đường

Có Lê-Nin, Bác Hồ dẫn lối, sông đôi bờ lại nối, cầu Hiền Lương lại liền .

64. Bến xưa đêm đậu ken tàu

Sáng trưng ngàn vạn hạt châu giữa trời.

Vô, ra thổi rộn hồi còi

Tàu, xe tấp nập dòng đời bến vui.

Bỗng dưng lòng thấy bồi hồi

Nhớ về năm ấy…. một ngày Người đi.

Vì quê nuốt lệ xa quê

Khắp trong non nước bốn bề lao đao.

Tình này gửi lại mai sau

Buổi đi biển cả, rừng sâu buổi về.

Ba miền đất nước ai chia

Hai tay ôm chặt đồng quê, thị thành.

Nước non đâu cũng của mình

Cái nôi Việt Bắc sẵn dành – lửa nhen

Cháy lên đỏ rực trăm miền

Trung du đồi cọ, đồng sen Tháp mười.

Tóc sương đã nhuộm nửa đời

Ra đi để dọn đất trời sáng trong.

Khi ra tuyết giá lạnh lùng

Khi về ấm nắng, chim rừng hót vang.

65. Bình dân học vụ ngày càng tiến hóa

Dù cho quân thù khủng bố.

Ruộng ngoài đồng không bỏ hóa sào mô

Toàn dân theo lời dạy Cụ Hồ

Đánh quân cướp nước thoát đi mô cho khỏi tay mình.

66. Bình minh mở rộng chân trời

Lời Bác kêu gọi là lời nước non

Núi sông cùng nổi sóng cồn

Hậu phương, tiền tuyến dập dồn chiến công

Tiếng Bác vọng đến non Hồng

Sông Lam, núi Quyết đều cùng reo vui

Ghi từng tiếng, nhớ từng lời

Pháo tung lưới lửa, giữa trời Nghệ An

Kính yêu Bác, Đảng vô vàn

Chúng cháu thề quyết đánh tan quân thù.

67. Bọn Mỹ - Diệm âm mưu gây chiến

Tòan dân ta nêu cao ý nguyện hòa bình

Dù cho gian khổ hy sinh

Có Bác lãnh đạo thì âm mưu Mỹ- Diệm phải tan tành ra tro.

68. Bông cà bông bắp

Nở khắp cánh đồng

Này vải đâm bông

Bên vồng khoai sắn

Em mong sao cho mưa nắng thuận hòa

Tình khoai nghĩa lúa trẻ già ấm no

Nuôi anh bộ đội cụ Hồ

Đánh đâu thắng đó giữ cờ vàng sao.

69. Bông sen thì để lễ chùa

Cụ Hồ thì để tôn thờ trong tâm.

70. Bớ o, bớ chị, bớ anh

Lúa bên nách giặc ta giành về ta

Chờ ngày triêng nặng gánh ra

Thuế ta ta đóng càng già thóc lương

Thương Cha lo nghĩ trăm đường

Việc nhà, việc nước, chiến trường chưa yên.

71. Bước chân lên đèo Cả

Trông sang Vạn Giã

Ngó lại Tu Bông

Miền Nam nhớ Bác vô cùng

Mong ngày đón Bác vào trong Khánh Hòa.

72. Cắn tay cho vọt máu hồng

Vẽ đóa hoa hồng lên vách hầm gai

Nếu ta về với cỏ cây

Đất giữ hoa này dâng tặng Cha ta

Rằng ngày sinh nhật Cha già

Vườn tim ta trổ đóa hoa mừng Người.

Bác Hồ ơi!

Bác Hồ ơi!

Hầm gai là huyệt chôn người

Nhưng không lắp được ý đời con đâu

Dù cho nắng lửa mưa dầu

Trong hang tối vẫn ngẩng đầu trông lên.

Dù cho đá nổi rong chìm

Lòng con con chỉ một niềm mà thôi.

73. Cắt tấm lụa đào em đề ba chữ

Chữ trung với Bác, chữ hiếu với mẹ, chữ nghĩa với anh.

Dù xa xôi em vẫn giữ lòng thành

Có Bác chỉ đường dẫn lối thì hai đứa mình sẽ gặp nhau.

74. Cầm trên tay ngọn lúa vàng

Nghe câu em hát mênh mông trên đồng

Hò ơ… Hương lúa thơm nồng

Người dân đất Mũi nhớ công Cụ Hồ .

75. Cầu này ta bắc sang sông

Cho xe chóng chạy cho lòng Bác vui.

Cầu này ta bắc chóng xong

Cho xe chóng chạy, cho lòng Bác vui.

76. Cầu đường mạch máu chúng ta

Giặc mà phá đứt thì ta nối liền

Anh em công chính Hà Tuyên

Một đêm đã bắc được thêm hai cầu

Làm cho giặc Pháp thua đau

Hùng hục phá cầu, chẳng hãm được ta

Tuân theo lời dạy Cha già

Cầu đường giữ vững, dân ta thắng thù.

77. Cây khô tưới nước cũng khô

Diệm thua đổi Khánh, thay cờ cũng thua.

Việt Nam ta có Bác Hồ

Việt Nam ta có ngọn cờ vàng sao.

78. Cây quế Thiên Thai mọc trên núi đá

Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa sơn lâm

Tên Bác Hồ thơm hơn hương quế hương trầm

Nhìn ra phương Bắc mà thương Bác Hồ.

79. Cây trồng hai dãy song song

Trẻ, già, trai, gái lại mong Bác về

Chăm cho cây tốt xum xuê

Xếp hàng đón Bác, cây che rợp đường.

80. Cây xanh nhờ có mặt trời

Cá mà sống được cũng thời nhờ sông

Việt Nam một dải mênh mông

Toàn dân no ấm ơn công Bác Hồ.

81. Cậy ai vẽ được nên tranh

Để ta dâng Bác tâm tình chân quê.

Từ ngày Bác gửi thư về

Trong đồng thêm vụ, ngoài đê thêm màu.

82. Cháu Bác Hồ đội đá vá đường

Cho xe chở đạn ra chốn chiến trường lập công.

83. Cháu chưa biết mặt Bác Hồ

Nhưng nghe lời bác thủ đô vọng về

Trường Sơn nguyện, Cửu Long thề

Quyết tâm giết giặc, đồng quê mong chờ

Tuy chưa gặp Bác bao giờ

Nhưng lòng Bác tỏa trong mơ ấm nồng

Bác là tiếng gọi non sông

Hịch truyền chuyển động nhợp đồng Bắc Nam.

84. Cháu chưa được gặp Bác Hồ

Bác đi, cháu tiếc ngẩn ngơ trong lòng

Bởi vì chưa lập chiến công

Để dâng lên Bác cho lòng Bác vui

Bác ơi, dù Bác đi rồi!

Một lòng cháu nguyện theo lời Bác răn.

85. Cháu đi, lòng Bác đi cùng

Mỗi lời thơ sáng một vùng núi sông.

86. Cháu ở miền Nam nhớ nguồn miền Bắc

Nhớ Bác Hồ hay gởi thư thăm.

87. Chăn anh Vệ đắp

Chiếu anh Vệ nằm

Cụ Hồ lo lắng quanh năm

Anh đắp chăn ấm, anh nằm chiếu êm

Cụ Hồ lo nghĩ ngày đêm

Cho anh vệ quốc có thêm đôi giày

Ví bằng vượt mấy trăm cây

Dân công vất vả không tày Cụ lo.

88. Chẳng thịt lợn, chẳng bánh chưng

Hoa rừng sẵn cắm ống bương miệng hầm

Đêm khuya lất phất mưa dầm

Chặt tàu lá chuối dựng sàn che mưa

Trong đêm khe khẽ tiếng thơ

Giữa rừng ấm tiếng Bác Hồ - Xuân sang.

89. Chèo lái tây đông vẫn trông về chòm sao Bánh –lái,

Bắc Nam xa ngải đâu cũng ơn ngãi Cụ Hồ.

Mưa làm nơi mát nơi khô

Ơn đức Cụ Hồ cả nước mát chung.

90. Chiến đấu hy sinh vì đời quyết tử

Lời Cụ Hồ kêu gọi phụ nữ với thanh niên

Tiến lên đập nát xích xiềng

Mới là trai anh hùng đất Việt, gái thuyền quyên của nước nhà.

91. Chiến thắng quê ta vang trời dậy đất

Năm châu bốn biển tới tấp chào mừng

Nghe lời Bác dạy dốc lòng

Chiến công nối tiếp chiến công rộn ràng.

92. Chiến trường thu dọn đã xong

Sáng nay vác cuốc ra đồng xới ngô.

Đồng bào trông thấy hoan hô

Hoan hô anh lính Cụ Hồ ngoan ghê.

Lính Cụ Hồ đủ mọi nghề

Hết đi tác chiến lại về chỉnh quân.

Học hành, luyện tập thật chăm

Đoàn kết, giúp đỡ nhân dân thật nhiều.

Cụ Hồ dân kính, dân yêu

Mà anh bộ đội dân chiều, dân thương.

93. Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ câu Bác dạy nhớ điều Bác khuyên

Những lời vàng ngọc không quên

Con đường thống nhất càng bền đấu tranh .

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều

Nhớ lời Bác dạy, nhớ điều Bác khuyên.

Ghi lời vàng ngọc không quên

Con đường thống nhất càng bền đấu tranh.

94. Chiều chiều ra tắm giếng Vàng

Ngó về Ngũ Phúc, ngó sang Thiên Cầm.

Mẹ già cuốc bẫm cày chăm

Vụ chiêm gặt hái đã gần xong chưa?

Đêm qua trời đỗ cơn mưa

Đắp bờ giữ nước vụ mùa ai lo.

Ai bàn kế hoạch giúp cho,

Kịp ngày sinh nhật Bác Hồ dâng lên.

Gửi lời nhắn mẹ cùng em

Chưa xong cứ nhắn lời lên chị về.

95. Chiều qua núi đá chắn ngang

Sớm nay đường đã thênh thang chạy dài

Tưởng thần Phù Đổng ra oai

Té ra cháu gái cháu trai Bác Hồ.

96. Chính phủ huy động dân công

Anh em ta quyết gánh gồng lên vai

Đèn trăng, quạt gió, hương trời

Đứng vào một tổ ba người tâm giao

Đường trường bao quản gian lao

Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.

Anh em nam nữ chúng ta

Thi đua phục vụ trong ba tháng tròn

Băng ngàn, lội suối, trèo non

Dân công xứng đáng là con Cụ Hồ.

97. Chính phủ ta tuyên bố hiệp thương

Mở đường thống nhất

Thỏa lòng mong mỏi chồng chất bấy lâu nay

Có hòa bình thống nhất mới có cơm áo ruộng cày

Hỡi anh chị em mình ơi

Phải đứng lên tranh đấu để đến ngày vinh quang

Việc thống nhất nước nhà là nguyện vọng thiết tha

Nhưng âm mưu của kẻ thù thâm độc phá ta

Vững lòng tin tưởng ở sự lãnh đạo sáng suốt của Cha già.

98. Cho dù tát cạn biển đông

Cho dù đếm hết chim muông trên rừng

Cho dù san phẳng Trường Sơn

Bác ơi cháu chỉ sắt son một lòng

Đấu tranh thống nhất non sông

Giấc ngàn thu thỏa ước mong Bác Hồ.

Cho dù tát cạn biển đông

Cho dù đếm được chim muông trên rừng

Cho dù san phẳng Trường Sơn

Bác ơi cháu chỉ sắt son một lòng

Đấu tranh thống nhất non sông

Giấc ngàn thu thỏa ước mong Bác Hồ.

99. Chờ ngày triêng nặng gánh ra

Thuế ta ta đóng càng già thóc lương.

Thương Cha lo nghĩ đêm trường

Việc nhà việc nước chiến trường chưa yên.

100. Chõng tre Bác ngủ còn đây,

Ngọt lành nước lọc vẫn đầy chum xưa.

101. Chớ thỏa mãn em ơi

Phải nhớ lời Bác dạy

Lo đấu tranh, chớ hãy buông tay

Bao giờ ta hết kiếp đọa đày

Diệt tan quân bán nước mới có ngày vinh quang.

102. Chúng con đây đó xa gần

Noi gương liêm chính kiệm cần của Cha.

Chúng con đây đó xa gần

Noi gương tận tụy vì dân của Người.

103. Chúng con giành lúa nuôi quân

Ăn no đánh thắng, giúp dân làm mùa

Chúng con quyết chí thi đua

Sản xuất, tiết kiệm cho vừa lòng Cha.

104. Chúng con khuya sớm chuyên cần

Nguyện vì lợi ích trăm năm trồng người

Trống trường báo một ngày vui

Từng trang giáo án thấm lời Bác khuyên.

105. Chúng con ở bốn phương trời

Quay về hướng Cụ muôn lời chúc mong

Dài lâu như núi như sông

Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con.

Chúng con ở bốn phương trời

Quay về hướng Bác muôn lời chúc mong

Dài lâu như núi như sông

Bác Hồ sống mãi trong lòng chúng con.

106. Chúng con vượt đỉnh đèo cao

Bỗng nghe thơ Bác gọi vào mùa xuân.

Lời Người tha thiết ân cần

Tăng thêm sức mạnh đoàn quân anh hùng.

Từ đây nhắm hướng tiến công

Như nguồn thác đổ xuống sông tràn bờ.

Bác ơi cháu quyết cắm cờ

Lên trên đồn giặc như thơ Bác mừng.

107. Chúng con xin hứa cùng Cha

Một lòng đoàn kết tăng gia kịp thời

Tuy rằng xa lạ đất người

Tấm lòng vẫn giữ những lời Cha khuyên

Dù cho lũ giặc tuyên truyền

Chúng con vẫn giữ lời khuyên Cha già.

Chúng con xin hứa cùng Cha

Một lòng đoàn kết tăng gia kịp thời

Tuy rằng xa lạ đất người

Tấm lòng vẫn giữ những lời Cha khuyên

Dù cho lũ giặc tuyên truyền

Nhưng lòng vẫn giữ lời khuyên Cha già.

108. Chúng em vừa hát vừa ca

Hát mừng công trái quốc gia ban hành.

Chúng em hát với tre xanh

Hát mua công trái cho nhanh cho nhiều.

Chúng em vừa hát vừa reo

Hát mừng chiến thắng, hát yêu Bác Hồ.

109. Chúng ta con cháu Cụ Hồ

Chờ tin đóng thuế, quang bồ đi ngay.

110. Chữ cận là gần

Chữ viễn là xa

Dù bao cách trở, Bác chẳng xa dân mình.

111. Chưa gặp Bác được một lần

Mà con cứ ngỡ Bác gần đâu đây

Bác đi khắp nước non này

Đâu còn đói rét Bác hay tới nhiều.

Chưa gặp được Bác một lần

Mà con cứ ngỡ như gần đâu đây.

Bác đi khắp nước non này

Đâu còn đói rét Bác hay tới nhiều.

112. Chưa được đón Bác thăm quê

Nhưng lời Người dạy đã về từ lâu

Lời Người nên ruộng, nên trâu

Lời Người nên lúa, nên màu ấm no

Qua sông nhớ nghĩa chuyến đò

Muôn năm dân nhớ Bác Hồ, Bác ơi.

113. Có ai ra đến Cụ Hồ

Cho con nhắn gởi Cha già mấy câu

Xa Cha gần Diệm mặc dầu

Lòng con chẳng phút giây nào quên Cha

Nước non ngàn dặm đường xa

Đấu tranh gian khổ, lời Cha ghi lòng

Ngôi sao sáng giữa cờ hồng

Lời Cha rực rỡ giữa lòng chúng con

Bác Hồ yêu mến thợ thuyền

Bác lo chăm sóc thường xuyên mọi nhà

Lo ăn, lo mặc, lo chơi

Lo chốn làm việc, lo nơi học hành

Bác lo chăn ấm, áo lành

Bác dìu dắt thợ đấu tranh từng giờ

Công lao ấy của Bác Hồ

Núi đâu sánh được, biển mô ví bằng.

114. Có ai về chốn quê nhà

Gửi lời chúc thọ Cha già mến yêu

115. Có con chim nhỏ

Nó đổ cành cau

Đêm nảo đêm nao

Cũng kêu chít chít;

Có em nhỏ nhít

Liên lạc đưa đường

Ai cũng thấy thương

Tặng cho quà bánh

Nhưng em không lãnh

Vì em bảo rằng :

“Tôi tiểu quốc dân

Bác Hồ đã dạy

Thà em nói vậy

Mà em vui hơn

Tây đến tống đồn

Ai ai cũng khổ.

Bây giờ còn nhỏ

Em làm thế này …

Liên lạc ngày ngày

Lớn lên làm lính

Tây đến em đánh

Cho mấy anh coi!”

116. Có Đảng, có Cụ Hồ thân mẹ như cây khô tươi lại

Công ơn này mẹ nhớ mãi không quên

Ruộng đất giành lại, bần cố vùng lên

Tình sâu nghĩa nặng con gắng đáp đền công ơn.

117. Có lòng Bác ở lòng quê

Có lời Bác ở lời thề sắt son

Mặt trời Bác chẳng hoàng hôn

Núi sông vằng vặc tâm hồn Bác soi.

118. Có sông thì phải có nguồn

Giáo lương cũng thể như con một nhà

Cũng dòng sữa mẹ, máu cha

Cũng manh áo rách, cũng là tay không

Đã là bần, cố, trung nông

Đều bị bóc lột làm công tháng ngày

Thương nhau thì nắm chặt tay

Đánh tan địa chủ, dành ngày ấm no

Dẫn đường ta có Bác Hồ

Giáo lương chung sức dưới cờ đấu tranh.

119. Con đi trăm núi ngàn non

Vẫn trông thấy Bác mãi còn ngó theo

Con qua mấy dốc mấy đèo

Còn nghe lời Bác vọng theo ân cần.

120. Con đò nho nhỏ

Sóng đỏ phù sa

Nghe tin Bác đã đi xa

Đò chìm đáy nước, nắng nhòa bóng mây

Con đò nho nhỏ

Nắng đỏ ngọn cây

Nghe tin Bác vẫn còn đây

Đò rời đáy nước chở ngay vào bờ.

121. Con nghe lời Bác vọng về

Rừng xanh nắng dậy, bốn bề gió reo.

Con nghe đỉnh núi lưng đèo

Tiếng than hối hả, sớm chiều khoan xoay.

122. Con nhìn ảnh Bác, Bác ơi!

Như ngàn ánh đuốc sáng ngời mắt con

Con đi trăm núi ngàn non

Vẫn trông thấy Bác mãi còn dõi theo

Con qua mấy dốc, mấy đèo

Còn nghe lời Bác vọng theo ân cần:

Đã rằng vì nước, vì dân

Gian nguy chẳng quản, khó khăn sá gì

Một lời Bác dạy tạc ghi

Cả miền Nam bước chân đi nhịp nhàng

Xuân qua, hè đến, thu sang

Chiến công lại tiếp rộn ràng chiến công

Tay cầm ảnh Bác, con mong

Miền Nam đón Bác, thỏa lòng ước mơ.

123. Con ơi con ngủ đi con

Thương con mẹ giữ lòng son đợi chờ

Mong con mau lớn con ơi

Thương con mẹ nhớ những lời hôm qua

Bắc Nam ruột thịt một nhà

Từ đây tạm cách tuy xa mà gần

Thương con mẹ luống bân cần

Cha con tập kết góp phần đấu tranh

Bác con giữ vững lòng son

Hôm nay tù tội cảnh tình lao lung

Chú con giữ tấm lòng trung

Lìa nhà lẫn tránh sống cùng nhân dân

Hiểm nguy không nhụt tinh thần

Ngày mai toàn thắng càng gần con ơi

Con ngoan con ngủ con chơi

Cha con kiến thiết cuộc đời cho con

Con ăn con ngủ con ngoan

Chú con gian khổ lòng son không sờn

Con ơi con chớ có hờn

Bác Hồ đã dặn mẹ còn tăng gia

Đấu tranh thống nhất nước nhà

Mẹ cùng chú thím ông bà dì cô

Quyết không để lũ côn đồ

Cắt chia đất nước cơ đồ của ông cha

Đời con rồi sẽ như hoa

Như con chim hót ngợi ca hòa bình

Đời con như ánh bình minh

Ăn chơi ca hát học hành vui tươi

Lớn lên cùng với bao người

Bàn tay con sẽ xây đời ấm no

Vì đâu con có tự do

Ơn Bác ơn Đảng cao to biển trời

Tương lai con sẽ sáng ngời

Bắc Nam thống nhất trọn lời nước non

Ngày kia cha sẽ gặp con

Gia đình đoàn tụ bà con sum vầy

Và cha con trở về đây

Mẹ con ta sẽ hết ngày đợi trông.

124. Con ra thưa với Cụ Hồ

Đất này chỉ một lá cờ vàng sao.

Con ra thưa với Cụ Hồ

Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao.

125. Còn non, còn nước, còn người

Cây xanh để lại cho đời nở hoa

Nhớ lời di chúc Cha già

Chúng con ra trận hái hoa dâng Người.

Còn non, còn nước, còn người

Cây xanh để lại cho đời nở hoa

Nhớ lời Di chúc của Cha

Chúng con ra trận hái hoa dâng Người.

126. “Còn non, còn nước, còn người…”

Chúng con ghi tạc những lời sắt son

Bác đi? Không bác vẫn còn

Tiếp dòng máu nóng cho con sớm chiều

Quân đi gian khổ hiểm nghèo

Chúng con chiến đấu mang theo bóng Người.

127. Còn non, còn nước, còn người

Tình thương Bác để đời đời cho con

Trập trùng muôn dặm Trường Sơn

Con nghe như tiếng nước non vọng về

Sao trời đọng sáng lưỡi lê

Con đi, Bác chỉ đường đi lối vào

Bác ơi có sức mạnh nào

Bằng lời di chúc Bác trao lên đường.

128. “Còn non, còn nước, còn người

Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”

Một lời Di chúc còn đây

Núi mòn sông cạn không phai lòng này.

Ba Đình Bác đứng vẫy tay

Giục đàn con cháu ngày ngày tiến lên.

Trăm năm xin giữ lời nguyền :

Sửa sang đất nước cho yên dạ Người.

Sức dân lấp biển, vá trời

Qua thời gian khổ, sáng ngời mai sau.

Nhà Rồng bến cũ con tàu

Lênh đênh biển lạ, dãi dầu vì ai

Ơn đền nghĩa trả mảy may

Triệu người chung sức dựng xây nước nhà.

129. Còn ai bến nước lạc dòng

Bác Hồ cũng mở cửa lòng biển Đông

Để khi toàn quốc phản công

Không người nào nói chết không đường về

130. Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Bác Hồ hơn mẹ hơn cha

Ơn cao nghĩa cả bao la biển trời

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Công Người đối với chúng ta

Còn hơn công mẹ công cha nhiều lần.

131. Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Công Bác Hồ hơn cha hơn mẹ

Công Bác Hồ trời biển không tày

Nhờ Bác ta có ruộng cày

Có manh áo mới, có đầy bát cơm.

132. Công cha như núi Thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Bác Hồ hơn mẹ hơn cha

Công cao nghĩa rộng bao la biển trời

Vì dân chiến đấu trọn đời

Điện Biên lịch sử rạng ngời sử xanh

Miền Nam chiến đấu gian nan

Bác là sức mạnh vững vàng niềm tin.

133. Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Cụ Hồ hơn mẹ hơn cha

Ơn sâu, nghĩa nặng gấp ba bốn lần

Ta yêu gì bằng?

Ta quý gì bằng?

Ta quý mặt trời, mặt trăng

Ta yêu quý Đảng còn hơn cả mặt trăng, mặt trời.

Vì mặt trăng, mặt trời

Chỉ cho ta ánh sáng

Mà không cho ta đất ruộng ta cày

Tình cha nghĩa mẹ tuy dày

Công ơn Đảng, Bác còn dày, còn to.

134. Công lao Cụ Hồ đậm đà mưa nắng

Non chồng nghĩa nặng

Nước chứa tình thâm

Từ Vạn Ninh đến Can Lâm

Lòng dân đồng điệu đồng tâm với Cụ Hồ.

135. Công ơn Bác như trời cao biển rộng

Vững lái con thuyền vượt sóng ra khơi

Quét sạch mây đen u ám giữa bầu trời

Dựng lại Việt Nam độc lập muôn đời quang vinh.

136. Công ơn của Bác bao la

Nhân dân kể đến bao giờ cho xong.

137. Công ơn vô bến vô bờ

Cụ Hồ với Đảng bao giờ dân quên.

138. Cờ ta đỏ rực Sài Gòn

Nhớ chân ai bước Trường Sơn những ngày

Nhớ ai, ai khiến nhớ Người

Nhìn lên rõ lệ - mây bay Nhà Rồng.

Bác ơi sao thế, mỗi lòng?

Biết bao giờ nhỉ? Vẫn trông từng giờ!

Miền Nam hẹn đón Bác vô

Đời chưa vui trọn hãy chờ Bác đây

Nhờ ai mới có phút này

Tháng tư vừa hết, đón ngày tháng năm.

Ngàn năm con cháu miền Nam

Làng Sen về đón viếng thăm Bác Hồ!

139. Cụ Hồ cầm vỉ đập ruồi

Để cho muôn người khỏe mạnh sống lâu.

140. Cụ Hồ Chí Minh cầm quyền trong nước

Toàn dân ta đều được tự do

Ruộng cày, áo ấm, cơm no

Bình quyền dân chủ đến cho mọi người

141. Cụ Hồ dạy đã đủ điều

Nhà nông ta quyết làm theo mọi đường

Sợ chi dãi nắng dầm sương

Hậu phương mùa được, chiến trường giặc thua.

142. Cụ Hồ dân kính dân yêu

Mà anh bộ đội dân chiều dân thương

Cụ Hồ có vạn đàn con

Đúng anh bộ đội là con Cụ Hồ.

143. Cụ Hồ đã dạy dân ta

Thi đua sản xuất cũng là đánh Tây.

144. Cụ Hồ hơn mẹ hơn cha

Ơn cao nghĩa nặng gấp ba bốn lần.

145. Cụ Hồ kêu gọi thi đua

Toàn quân reo hò giết giặc lập công

Miền Tây phối hợp miền Đông

Khu Ba khu Bốn đàng trong đàng ngoài

Đánh cho giặc Pháp tơi bời

Thống nhất độc lập cuộc đời ấm no.

146. Cụ Hồ là đuốc sáng ngời

Nhắc đến tên Cụ muôn người yêu thương.

147. Cụ Hồ là nước là non

Hình người in giữa cờ son sao vàng.

148. Cụ Hồ là vị Cha chung

Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái Dương.

Cụ Hồ là vị cha chung

Là sao Bắc đẩu là vừng Thái dương

Chúng con chiến đấu đêm trường

Nhờ Cha dìu dắt dẫn đường chúng con

Ơn Cha như nước như non

Như gương Hồ thủy, như hòn Thái Sơn.

149. Cụ Hồ lo lắng sớm chiều

Dân công vất vả bấy nhiêu thấm gì

Con lão cũng đi

Dâu lão cũng đi

Sức lão đã yếu

Nhưng muốn trông thấy mặt thằng Tây

Coi cái tài ông Giáp

Và gọi là đền đáp

Chút nghĩa Cụ Hồ

Sắm sanh cái gậy, lão “dô hò …”, lão đi.

150. Cụ Hồ lo lắng quanh năm

Anh đắp chăn ấm, anh nằm chiếu êm

Cụ Hồ lo nghĩ ngày đêm

Cho anh vệ quốc có thêm đôi giày.

Ví bằng vượt mấy trăm cây

Dân công vất vả không tày Cụ lo.

151. Cụ Hồ như cột trụ đường

Muốn lay chẳng ngã, muốn rung chẳng rời.

Cụ Hồ như cái gương soi

Soi gương trung liệt, soi người tinh ma

Cụ Hồ như biển bao la

Ao hồ, sông rạch đổ ra trăm đồng.

Cụ Hồ như cái khánh chuông

Khua vọng đánh thức những người mê man

Cụ Hồ như chiếc đò ngang

Đưa ta đến bến vinh quang đời đời.

152. Cụ Hồ như chiếc đò ngang

Đưa ta qua bến gian nan chống chèo

153. Cụ Hồ như chiếc kiếng soi

Soi người lương thiện, soi người tinh ma.

154. Cụ Hồ như núi Thái Sơn

Cơm kia chữ nọ công ơn nào tày.

155. Cụ Hồ nói có sai đâu

Tăng gia sản xuất làm giàu nước ta.

156. Cụ Hồ ở giữa lòng dân

Tuy xa xa lắm nhưng gần gần ghê.

Mỗi khi thư Cụ gửi về

Rộn ràng khắp nẻo cùng quê đón mừng.

Ai ngoài muôn dặm trùng dương

Cũng thường nhận được tình thương Cụ Hồ.

Cụ Hồ ở giữa lòng dân

Tuy xa xa lắm nhưng gần gần ghê

Mỗi khi Cụ gửi thư về

Rộn ràng khắp chợ cùng quê đón mừng

Ai ngoài muôn dặm trùng dương

Cũng thường nhận được tình thương Bác Hồ

Mong ngày độc lập Cụ vô

Thỏa lòng ao ước, ước mơ bao ngày

157. Cụ Hồ ở một hôm thôi

Cũng trồng , cũng tưới, thế rồi lại đi

Hỏi Cụ : trồng tưới làm chi ?

Cụ cười, Cụ đáp : Tôi đi chú dùng.

Cụ Hồ ở một hôm thôi

Cũng trồng, cũng tưới, thế rồi lại đi.

Hỏi Cụ : trồng tưới làm chi?

Cụ cười, Cụ đáp : Tôi đi chú dùng,

ở đây đất lặng, núi lành

ở đây có Bác chúng mình yên tâm.

Hôm nay đi dạo chùa Trầm

Càng vui cảnh Bác càng căm quân thù.

Bác Hồ yêu mến thợ thuyền

Bác lo chăm sóc thường xuyên mọi người.

158. Cụ Hồ ơn đức biết bao

Ơn dày sánh đất, đức cao sánh trời.

159. Cụ Hồ rộng lượng anh ơi

Đừng theo giặc nữa kẻo đời nhút nhơ.

160. Cụ Hồ với dân

Như chân với tay

Như chày với cối

Như cội với cành

Toàn dân dốc một lòng thành

Làm tròn nhiệm vụ,

Đáp tấm tình của Cụ thương dân.

161. Cụ Hồ yêu nước thương nhà

Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù.

Giặc Tây, giặc đói, giặc mù

Cụ Hồ yêu nước thương nhà

Cả ba thứ giặc, Cụ Hồ đánh tan.

Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù.

Giặc Tây, giặc đói, giặc mù

Cả ba thứ giặc, Cụ Hồ vượt qua.

162. Cụ già thong thả buông cần trúc

Hồ rộng trời in mặt nước hồng

Muôn vạn đài sen hương thơm ngát

Tuổi già vui thú với non sông.

163. ”Cụ Ngô” là đứa ở mô

Dân ta chỉ biết cụ Hồ mà thôi.

164. Cua đồng ngọt nước mồng tơi

Cơm trắng đầy nồi chồng xới vợ chan.

Dẻo thơm hạt gạo tám xoan

Cả nhà ghi nhớ công ơn Bác Hồ.

165. Củi tre dễ nấu

Cây chông xấu dễ xài

Xây làng chiến đấu diệt loài xâm lăng

Đấu tranh là lửa thử vàng

Đi theo Đảng Bác gian nan chẳng sờn.

166. Cửu Long nước chảy xuôi dòng

Miền Nam chung sức chung lòng đánh Tây

Cụ Hồ gọi, súng cầm tay

Thuyền em chở chuyến gạo đầy nuôi quân.

167. Cứu quốc là Cụ Hồ

Phản quốc là tên Ngô

Sự thật đã rõ ràng

Tuyên truyền làm sao vô.

168. Dãy Trương Sơn trùng trùng điệp điệp

Phủ màu xanh biếc nước Việt Nam ta

Mũi Cà Mau nhắn với Mục Nam quan

Sông Thao nhắn với sông Trà

Hai dòng một nước dân ta một nòi

Lòng ta ơn Bác đời đời

Như rừng không đếm được lá, như trời không đếm được sao.

169. Dân cày mà có Bác Hồ

Như thuyền có lái, như cờ gió bay.

170. Dân ta được sự ấm no

Nhờ ơn Hồ Chủ Tịch đưa đến bến bờ vinh quang.

171. Dân ta ơn Bác đời đời

Mong ngày thắng lợi rước Người vào thăm.

172. Dân ta xây dựng cơ đồ

Thành công nhờ có Cụ Hồ cầm tay.

173. Dầu cho bão tố phong ba

Miền Nam vẫn có Cha già cạnh bên

Ngọn cờ hồng Bác vẫy lên

Cháu con của Bác đứng trên đầu thù.

Dẫu cho bão tố phong ba

Miền Nam vẫn có Cha già cạnh bên

Ngọn cờ hồng Bác vẫy lên

Cháu con của Bác đứng lên đầu thù.

174. Dẫu cho tan núi Chóp Chài

Lòng dân với Bác chẳng đời nào tan

Đấu tranh là lửa thử vàng

Tên Người khắc giữa miền Nam sáng ngời.

175. Dây trầu quấn chặt thân cau

Miền Nam chiến đấu trước sau quanh Người.

Dây trầu quấn chặt thân cau

Toàn dân chiến đấu trước sau quanh Người.

176. Dòng Cửu Long khúc cong khúc thẳng

Ngọn Thất Sơn phẳng lặng xa xanh

Con chim không ăn quả hai cành

Miền Nam sau trước giữ lòng thành với Bác kính yêu.

Dòng sông Nông khúc cong khúc thẳng

Ngọn núi truồi phẳng lặng xa xanh

Con chim không ăn quả hai cành

Miền Nam trước sau vẫn giữ tấm lòng với Đảng Bác kính yêu.

177. Dù cho biển cạn non mòn

Lòng dân Thuận Hóa vẫn còn trơ trơ

Vẫn là dân của Cụ Hồ

Trọn đời theo mãi ngọn cờ vàng sao

Sông Hương đó, núi Ngự đây

Kinh đô xứ Huế mai này về ta.

178. Dù cho giặc chiếm đất đai

Chiếm sao cho được lòng người Việt Nam

Dù cho giặc chiếm đất đai

Chiếm sao cho được lòng người miền Nam

Dù cho biển cạn non mòn

Lòng dân Thuận Hóa vẫn còn trơ trơ

Vẫn là dân của Cụ Hồ

Trọn đời theo mãi ngọn cờ vàng sao .

Dù ai có lắm mưu mô

Cũng không chia nổi cơ đồ Việt Nam

Dù ai xẻ núi ngăn sông

Cũng không bì được với dân Cụ Hồ

Lòng ta đã quyết thì xô

Cây còn trốc rễ, huống đồ buôn dân.

179. Dù ai đi đông đi tây

Mỗi năm tháng chín nhớ ngày mồng ba

Dù ai đi gần đi xa

Chớ quên ngày giỗ Cha già kính yêu.

180. Dù ai ngăn đông đón tây

Thì ta vẫn vững như cây giữa rừng.

Trước sau một dạ một lòng

Muôn đời ghi tạc công ơn Bác Hồ.

181. Dù ai nói ngả nói nghiêng

Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân

Dù ai rào dậu ngăn sân

Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ.

182. Dù ai xuôi ngược xa xăm

Đến ngày mười chín tháng năm thì về.

183. Dù cho giặc lắm mưu mô

Cũng không chia nổi cơ đồ Việt Nam

Dù ai xẻ núi ngăn sông

Cũng không chia được lòng dân Cụ Hồ.

Dù cho giặc lắm mưu mô

Cũng không chia nổi cơ đồ Việt Nam

Dù ai xẻ núi ngăn sông

Cũng không chiếm được lòng dân Cụ Hồ

Lòng người đã quyết thì xô

Cây to cũng đổ, huống hồ có săn.

184. Dù cho Mỹ Diệm ỳ ra

Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải thành công.

185. Dù cho sóng vỗ bềnh bồng

Không đi không được dục lòng phải đi

Dù thân trải bước gian nguy

Thương đời dân chúng, xót vì nước non.

Cháy lòng – một trái tim son

Biển đông tát cạn, nỗi buồn chẳng vơi.

Ra đi chẳng đợi ai mời

Ngày về thầm hẹn – phương trời tuyết sương.

Nhớ dừa dáng đứng quê hương

Một vườn cau nhỏ để thương vạn ngày.

Sáng lòng – vận nước cơ may

Mở trang sử mới từ giây phút này.

Núi cao, biển rộng – ơn Người

Một ngày xa bến ngàn đời nở hoa.

186. Dù cho vật đổi sao dời

Ơn Cụ Hồ, nghĩa Đảng đời đời không quên.

Dù cho vật đổi sao dời

Ơn Cụ Hồ nghĩa Đảng đời đời không quên

Treo ảnh tổng Ngô lên tường lòng căm hờn nóng bỏng

Kẻ khẩu hiệu tố cộng dạ nát đau

Lòng em đây không phụ khó tham giàu

Ơn Cụ Hồ nghĩa Đảng gắn bó trước sau một niềm.

Dù cho vật đổi sao dời

Ơn Cụ Hồ, nghĩa Đảng đời đời không quên

Đồng quê ngọn lúa xanh rờn

Nước kênh còn chảy còn ơn Cụ Hồ

Dù cho Mỹ Diệm hồ đồ

Lòng ta ta giữ, ơn Cụ Hồ ta ghi.

187. Dù cho vật đổi sao dời

Bác Hồ như ánh mặt trời mùa xuân.

188. Dừng chân nhớ nước chè xanh

Chung nhau điếu thuốc để dành, cắn đôi

Hôm qua đã vượt “cổng trời”

Hôm nay bước tới chín mười “sông mây”

Dù đưa võng giữa cành cây

Quên sao tiếng mẹ ru ngày còn thơ

Trường Sơn dậy tiếng Bác Hồ

“Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”

Chân còn đạp đỉnh núi cao

Mà lòng đã ở chiến hào tấn công.

189. Đã nghe tiếng hát sang xuân

Đã nghe tiếng Bác trong ngần, thiết tha

Đêm nay vui đón giao thừa

Chuyển hàng vai nặng, tiếng thơ giục lòng.

190. Đảo xa sóng dội bốn bề

Lắng nghe lời Bác vọng về biển khơi

Quân nghe phơi phới niềm vui

Biển nghe dậy sóng hòa lời thiết tha

Rừng nghe Bác gọi nở hoa

Pháo nghe pháo đón tầm xa diệt thù

191. Đảng Cộng sản – Hồ Chí Minh

Sinh ra giữa buổi dân tình lao đao.

Gió sương hôm ấy hôm nào

Chào đời giữa khoảng mây sầu tứ giăng.

Quê nhà chờ đợi tuần trăng

Gió mưa bao trận phũ phàng, quản chi.

Đường đời nham nhở lối đi

Xà-lim mở khắp đó đây- cực hình

Dâng cao một khối bất bình

Đầu rơi để lại tinh anh giữa đời.

Hát lên tiếng hát tuyệt vời

Cường quyền đạp xuống cho người đứng lên.

Gian nan thách thức lòng tin

Cờ thiêng – giọt máu trái tim đỏ màu.

Sáu mươi năm cuộc bền lâu

Thành công, thất bại gối đầu tháng, năm.

Nhà Rồng bến cũ tối tăm

Ra đi cho sáng trăng rằm nước non.

Nhìn về một dãy giang sơn

Càng cao sóng biển căm hờn bấy nhiêu.

Nhớ ai, ai nhớ những chiều

Mây bay gửi lại quê nghèo chốn xa.

192. Đặt chân lên bến Nhà Rồng

Gió về thổi nhẹ mặt sông nô đùa.

Ngày vui càng nhớ Bác Hồ

Năm canh thao thức đợi chờ tàu ra…

Thương nhà phải tạm rời nhà

Xa quê năm tháng khôn nhòa tình quê

Hướng về đồng ruộng bờ tre

Xót tình non nước bốn bề lao đao.

Bao phen sóng vỗ thuyền chao

Đinh ninh tấc dạ mai sau lại về.

Đêm đêm Pắc Pó rừng khuya

Khắp nơi sao mọc trời quê sáng rồi!

Sáng nay khôn xiết bồi hồi

Trông ra biển rộng nhớ Người không quên.

193. Đất Dương Hòa còn vang câu ca chiến thắng

Núi Hòa Mỹ còn nhớ khi gánh đạn khiêng bom

Ơn Cụ Hồ gắn bó tám chín năm tròn

Nay không vì gian nguy mà lùi bước

Sông dập dồn mà nghỉ chân.

194. Đất này là đất Cụ Hồ

Đất cha chi thằng Bảo Đại, Tây qua đóng đồn.

Đất Trị Thiên là đất của Cụ Hồ ta

Đất cha ông chi thằng Bảo Đại mà kéo Tây qua đóng đồn.

195. Đất này lúa trổ oằn bông

Hương thơm trãi khắp cánh đồng ấm no

Nhớ công ơn của Cụ Hồ

Người dân đất Mũi nguyện giữ cờ vàng sao.

196. Đất xưa chai cứng ai bồi

Phù sa mà mượt cho đời lên xanh.

Đếm sao cho hết ngọn, ngành

Năm mươi lăm năm…nghĩa tình nặng mang.

Canh dài tâm sự ngỗn ngang

Đồng bào, giai cấp, tìm đường tiến lên

Sáng lòng nhờ Mác – Lênin

Đầu rơi máu đổ vẫn tin một ngày…

Khắp nơi đỏ rực cờ bay

Binh minh xua bóng đêm dài tối tăm.

197. Đất Việt Nam cờ bay phất phới

Tiếng kèn vang dội hòa “Tiếng quân ca”

Chúc Cụ Hồ trẻ mãi không già

Dựng nền dân chủ cộng hòa muôn năm.

198. Đầu năm mang bưởi biếu bà

Bà rằng “Hoa quả cây nhà hay mua?”

Thưa bà, vâng ý Bác Hồ

Bưởi này, cây tết năm xưa cháu trồng!.

199. Đầu năm vào cuộc hành quân

Niềm tin đượm mát thơ xuân Bác Hồ

Đường dài dầu nặng ba lô

Đôi chan vẫn dẻo câu hò ngân vang.

Quân đi lớp lớp hàng hàng

Thành con sông chảy giữa ngàn Trường Sơn.

200. Đây Tháp Rùa nhớ chùa Thiên Mụ

Chợ Đồng Xuân nhớ chợ Bến Thành

Nhớ lời Bác dạy đinh ninh

Đồng quê, xưởng máy nặng tình Bắc Nam

Tình Bắc Nam chứa chan, thắm thiết

Giục mỗi người làm việc bằng hai

Đua nhau gái giỏi, trai tài

Thép gang vượt mức, lúa khoai được mùa.

201. Đèn nào cao bằng đèn mặt trận

Sức nào mạnh bằng sức nhân dân

Theo lời Đảng Bác vùng lên

Xây đời hạnh phúc hòa bình ấm no.

202. Đèo Nai sương bụi mù trời

Bâng khuâng lại nhớ đến hồi Bác ra.

Gương than lấp lánh gần xa

Xe vào vượt chuyến, tàu ra nặng dằm.

203. Đèo cao thì mặc đèo cao

Tinh thần tiếp vận còn cao hơn đèo

Mặc cho dốc núi cheo leo

Mặc cho muôn sự hiểm nghèo, gian nan

Dân công có ánh sao vàng

Có Hồ Chủ tịch, vượt ngàn ta đi.

204. Đẹp sao đôi dép cao su

Đế dầy, quai dẻo, bền như tình người

Bác mang đôi dép trọn đời

Chông gai chẳng sợ, đường dài chẳng nao

Con đi chiến đấu gian lao

Chân mang dép nhẹ vượt bao dặm trường

Đá mòn nhưng dép chẳng mòn

Ta đi giết giặc, dép còn thủy chung

Trường Sơn mấy núi trập trùng

Hoa in dấu dép trên đường quân đi.

205. Đêm hai mốt nghe tin đình chiến

Xưởng vang lên muôn tiếng reo hò

Lòng vui như thể mở cờ

Miệng không ngớt tiếng : Bác Hồ muôn năm.

206. Đêm nay đứng giữa chiến hào

Nghe lời Bác gọi dạt dào niềm tin

Ngày mai giải phóng quê mình

Miền Nam đón Bác, thỏa tình ước mong.

Đêm nay đứng giữa chiến hào

Nghe lời Bác gọi dạt dào niềm tin

Ngày mai giải phóng quê mình

Miền Nam đón Bác thắm tình ước mong.

207. Đêm nay mừng lắm Cha ơi

Cỏ cây mở hội đất trời liên hoan

Đêm nay mười chín tháng năm

Hồn con sáng tựa trăng rằm Trung thu

Con đang chúc thọ trong tù

Con đang dựng một rừng cờ trong tim

Đêm nay mộng hóa thành chim

Tung qua lưới sắt con tìm đến Cha.

208. Đêm nay ngồi dưới chiến hào

Bên nòng đại pháo, ngắm sao trên trời

Gió về rắc nhẹ sương rơi

Nghe thơ Bác vọng giữa trời quê hương

Đoàn quân giải phóng lên đường

Mừng sinh nhật Bác, chiến trường lập công.

209. Đêm nay trăng sáng đầy trời

Trung thu nhớ Bác cháu ngồi cháu trông

Ngoài kia miền Bắc trống rung

Các bạn nhi đồng nhảy múa hò reo.

Bác thương các cháu khổ nghèo

Miền Nam xa Bác sớm chiều trông ra.

210. Đêm nay trăng tỏ mặt người

Ta ra vun xới một vài luống ngô

Ngày mai sinh nhật Bác Hồ

Viết thư chúc Bác từng giờ khỏe thêm.

211. Đêm năm canh em nằm em nghĩ

Ơn Bác Hồ ví tựa Bắc Sơn,

Lòng em ghi tạc công ơn

Căm thù Mỹ Diệm đánh lộn sòng trắng đen.

Đêm năm canh em nằm suy nghĩ

Ơn Bác Hồ ví tựa Thái Sơn,

Lòng em ghi tạc công ơn

Căm thù Mỹ ngụy đánh lộn sòng trắng đen.

212. Đêm nằm ngó thấy chiêm bao

Thấy Hồ Chủ tịch đã vào nơi đây

Thấy trời rợp bóng cờ bay

Thấy mình toàn thắng, thấy Tây đầu hàng.

Tiếng cười tiếng hát ầm vang

Niềm vui độc lập ngập tràn lòng dân.

Đêm nằm thiếp giấc chiêm bao

Thấy Hồ Chủ tịch đã vào nơi đây

Thấy trời rợp bóng cờ bay

Thấy mình toàn thắng, thấy Tây đầu hàng.

Tiếng cười tiếng hát ầm vang

Niềm vui độc lập ngập tràn lòng dân.

213. Đêm qua tôi đắp chăn bông

Sung sướng vô cùng ấm lắm ai ơi!

Dưới thời Pháp thuộc suốt đời

Trong bao tải rách, có người chết cong.

214. Đếm sao cho hết vì sao

Kể sao hết được công lao Bác Hồ.

215. Đền ơn Bác mấy cho cùng

Đường ra mặt trận tưng bừng sớm hôm

Bao giờ thống nhất non sông

Bấy giờ mới thỏa ước mong của Người.

216. Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công

Bác đi trăm núi ngàn sông

Bài ca đoàn kết hát cùng chúng con

Lời Bác dạy, tiếng nước non

Mở trang lịch sử, vang dồn chiến công

Đại đoàn kết, đại thành công

Chúng con xin nguyện một lòng nhớ ghi.

217. Đọc lời di chúc thiết tha

Đường đi ra trận còn xa bỗng gần

Cho dù mỏi gối chồn chân

Vì thương Bác quyết đạp bằng khó khăn.

218. Đóng thuế mà bước nhanh chân

Chiến trường bộ đội càng hăng diệt thù

Đóng thuế mà bước chần chừ

Thì thêm lỗi với Cụ Hồ, ai ơi!

219. Đố ai biết biển bao sâu

Biết sông mấy ngả, biết cầu mấy nơi.

Miền Nam đã khắc một lời

Thủy chung với Bác chẳng dời lòng son.

220. Đố ai đếm được lá rừng

Đố ai đếm được mấy tầng trời cao

Đố ai đếm đủ vì sao

Đố ai đếm được công lao Bác Hồ.

221. Đố ai đo được trời cao

Đố ai trả được công lao Cụ Hồ.

Mong ngày độc lập Cụ vô

Kẻo lòng mong đợi ước mơ đêm ngày.

Đố ai đo được trời cao

Đố ai tính được công lao Cụ Hồ

Mong ngày độc lập Cụ vô

Thỏa lòng mong đợi, ước mơ đêm ngày.

222. Đố ai lên được trời cao

Đố ai đáp được công lao Bác Hồ.

223. Đố ai múc hết nước sông

Đố ai chép hết được công Bác Hồ.

224. Đố ai quét sạch lá rừng

Đố ai xui được con đừng theo Cha

Bấy nay Cha dựng sơn hà

Vang danh bốn biển, đức lòa năm châu

Con dù gian khổ đến đâu

Vững tin vì biết trên đầu có Cha.

225. Đố ai quét sạch lá rừng

Đố ai cướp được cả rừng lòn bon

Thù cao như núi như non

Lòng dân với Bác keo sơn chẳng dời

Đố ai cắt nước làm đôi

Vầng trăng xé nửa, mặt trời chia hai.

226. Đôi dép đơn sơ

Đôi dép Bác Hồ

Bác đi từ ở chiến khu về

Phố phường, trận địa

Nhà máy, đồng quê

Đều in dấu dép Bác về, Bác ơi!

Dép này Bác trải đường dài

Dép này Bác mở tương lai nước nhà

Đường đi chiến đấu gần xa

Dấu dép Cha già dẫn lối con đi.

227. Đôi mươi Hà Bắc, Bắc Ninh

Gặp trai mười tám Nghệ, Thanh đổ vào.

Từ xa biên giới núi cao

Đồng bằng giục giã hãy mau lên đường.

Tình quê chín nhớ, mười thương

Miền Nam ta đó – một phương cuối trời.

Trường Sơn đã thắm mồ hôi

Người đi rầm rập cây đồi chuyển rung.

Bác Hồ, con cháu anh hùng

Phạt rừng, xẻ núi không ngừng tiến lên.

“Không gì khó” tuổi thanh niên

Chân cứng đá mềm ta chấp tàu bay.

228. Đông xuân bộ đội nhập thành

Diệt tề, trừ ác, giúp dân phá kềm.

Màn đêm lại rực ánh đèn,

Trong phòng triển lãm kẻ chen người chờ.

Ông già mái tóc bạc phơ,

Ngắm ảnh Bác Hồ trìu mến thiết tha.

Rồi ôm hình Bác gọi: Cha!

Nghẹn ngào ông lão gọi qua mọi người.

Bà con ơi! Gặp Cụ rồi!

Ngày mình độc lập gần rồi bà con.

Ông già xoay mặt vào tường

Ngước lên tấm ảnh ôm hôn Cụ Hồ.

229. Đông xuân đại thắng tin về

Đón thư Bác gửi, nhớ ghi từng lời.

230. Đồng Diên Canh cắt nhanh dấu vội

Đồng Phú Nội cắt vội dấu nhanh;

Bớ o,bớ chị, bớ anh,

Lúa bên nách giặc, ta giành về ta.

231. Đồng nào cao bằng đồng Thi Phổ

Thổ nào cao bằng thổ Ba Tơ

Ơn nào sâu bằng ơn Cụ Hồ

Nguồn bao nhiêu nước, ơn Cụ Hồ bấy nhiêu.

232. Đồng quê cây lúa xanh rờn

Nước kênh còn chảy còn ơn Cụ Hồ

Dù cho Mỹ Diệm hồ đồ

Lòng ta ta giữ, ơn Cụ Hồ ta ghi.

233. Đời ta từ có Bác Hồ

Ngày ngày trông thấy cơ đồ mà vui

Tháp Mười đêm sáng - trăng soi

Bưng sâu tối mặt nay đời sáng lên

Qua thời áo cộc quần phèn

“Muỗi kêu như sáo, đĩa lềnh bánh canh”.

Qua thời nhà đạp mong manh

Nay nhà máy đỏ mọc nhanh mỗi ngày.

Qua thời sống dựa “lúa trời”

Nay thu ba vụ sân phơi thóc đầy.

Ngẫm ra đâu phải tại trời

Nhờ công cày cấy, ơn Người mà ra.

Sắp đi còn nán dặn dò :

“Một năm miễn thuế …”, Người cho đã nhiều

Trời cao trông áng mây chiều

Kinh dài nước chảy nhìn theo … nhớ Người.

Đồng sen nở rộ Tháp Mười

Như xưa dâng Bác – Một thời nhớ thương.

234. Đời tôi được gặp Cha già

Như con được mẹ mang quà về cho

Như cá gặp nước sông to

Như thuyền được gặp bến đò thân yêu.

235. Được mùa lúa, được mùa cam

Vâng lời Bác dạy, cả làng trồng cây

Tết này đĩa quả thêm đầy

Ghi sâu ơn Bác, trồng cây thêm nhiều.

236. Đường ra trận tuyến hôm nay

Bác đang đạp núi rẽ mây đi cùng

Còn non còn nước còn người

Cây xanh để lại cho đời nở hoa

Nhớ lời di chúc của Cha

Chúng con ra trận hái hoa dâng Người

237. Đường ra Việt Bắc

Xa lắc xa lơ

Ai đi cho tôi gởi bức thư mấy hàng

Chúc Hồ Chủ Tịch an khang

Lãnh đạo dân tộc trên đường đấu tranh

Chúng con đây đó xa gần

Noi gương liêm chính, kiệm cần của Cha.

Đường ra Việt Bắc

Xa lắc xa lơ

Ai đi tôi gửi bức thư mấy hàng.

Chúc Hồ Chủ tịch an khang

Lãnh đạo dân tộc trên đường đấu tranh

Chúng con đây đó xa gần

Noi gương liêm chính kiệm cần của Cha.

238. Đường vào Quảng Trị, Gio Linh

Bốt đồn địch đóng, hy sinh khó lường

Trời đêm, không ánh sao, trăng

Làng gần trước mặt vọng sang tiếng chày

Tiếng chày giã gạo đều tay

Lắng nghe chẳng thấy xa bay giọng hò

Bỗng dưng nhớ đến bài thơ

Bài thơ Giã gạo Bác Hồ năm xưa

Gạo đau thêm trắng đó chừ

Con đường cách mạng chẳng chừa gian nguy

Vững lòng tin tưởng, ta đi

Sáng mai nổ súng kịp thì đón xuân.

239. Đường vào Nam trục trặc

Đường ra Bắc gập ghềnh

Ai đi mà gửi lúa mình

Đem ra nhờ Cụ trao tình quân dân.

240. Đường vào thôn xóm quê ta

Hầm chông, cạm bẫy, đường ra chiến hào

Bình ong, chon sắt cào cào

Giặc còn hóng hách càn vào bỏ thây

Chính quyền ta quyết dựng xây

Giặc mà dẫn tới, đất này xác phơi

Đêm nằm nhớ Bác, Bác ơi!

Một lời Bác gọi, triệu người xung phong.

241. (Hướng về Đại hội Đảng lần thứ 5)

Đường về Hà Nội không xa

Non sông bốn mặt chan hòa niềm vui

Ai đi khắp nước mà coi

Cành đào thêm thắm, cành mai thêm vàng.

Mùa xuân ai báo tin sang

Đảng khai đại hội luận bàn việc dân.

Mùa vui vui những hai lần

Vui tình dân, Đảng vui sân thóc đầy.

Nơi nơi nghìn dặm cờ bay

Nhớ ngày Bác lại, thương ngày Bác đi…

Trái tim nóng hổi còn kia

Yêu dân, yêu Đảng Bác về xuân nay.

Núi cao, biển rộng sông dài

Ơn người dựng nghiệp cho đời hưởng chung.

242. Đường về Hà Nội không xa

Trái tim ta đó – trong ta nhịp đều.

Thủ đô trăm quí, ngàn yêu

Miền Nam những sớm, những chiều trông ra.

Người đi ta ở lại nhà

Gió mưa vừa tạnh, mùa hoa tới gần

Tay ai đem lại mùa xuân

Ánh hồng vừa ló, mây vần đã tan.

Xuân tươi đã đến bao lần

Xuân này mới thật là xuân đợi chờ.

Sớm vui lên đỏ cột cờ

Tháp Rùa soi bóng nước hồ trong xanh.

Ánh dương rọi sáng Ba Đình

Người về viếng Bác soi mình trước gương.

Mưa mai dù đến bất thường

Lòng ta vẫn hướng một phương mặt trời.

Bác Hồ đứng đấy vẫy tay

Mòn vai gánh vác sự đời tháng, năm

Qua thời gian khổ chưa an

Nặng lòng vì nước, vì dân mỗi giờ.

Ngàn năm sống mãi Bác Hồ

Đảng ta đại hội ấy giờ ra quân.

243. Em là cháu gái Bác Hồ

Công nhân xí nghiệp ươm tơ lành nghề.

Hà Đông tơ lụa là quê

Có ai nghỉ phép mời về quê em.

244. Em lên rừng đốn một khúc gỗ trắc

Đem về em khắc mấy câu thơ

Câu thương, câu nhớ, câu đợi câu chờ

Dẫu cho non mòn biển cạn

Ơn nghĩa Cụ Hồ không quên.

245. Em mơ ước mãi lúc nào

Bác Hồ đến trại, em chào Bác xem.

Giơ tay Bác cũng chào em

Mắt Bác dịu hiền, tóc Bác bạc phơ.

Bác đi em chạy em hò

Em cầm tay Bác, Bác cho em cầm.

Bác về em dõi đăm đăm

Em reo em hát ‘muôn năm Bác Hồ’.

Gió đưa cành lá phất phơ

Vườn cây cũng vẫy Bác Hồ của em.

246. Em ơi cố gắng thi đua

Đoạt giải Cụ Hồ mới thật là ngoan

247. Em ơi vừa có tin đồn

Hôm qua bộ đội đánh đồn Cẩm Phô

Chiến công vang đến cụ Hồ

Quảng Nam là đất chôn mồ thực dân.

248. Em về giã gạo ba giăng

Anh lên gánh nước Cao Bằng về ngâm

Đến ngày 19 tháng 5

Gói thành đôi bánh đem dâng Bác Hồ.

249. Em vừa mãn khóa “i-tờ”

Chồng bảo : “sách vở từ giờ cắt thôi!

“I tờ mãn khóa đủ rồi

Đi học con khóc, ai người giữ cho?

- Dỗ con đã có tổ lo

Còn chữ Cụ Hồ ai lại không chăm?

Xấu dâu, tơ chẳng xứng tằm

Đời em sao để tối tăm cho đành.

250. Em yêu Bác Hồ

Em ghét tổng Ngô

Bác Hồ hiền lành

Tổng Ngô độc ác

Tổng Ngô như chim cắt

Bác Hồ tựa Thái Sơn

Chim cắt chết yểu chết mòn

Thái Sơn muôn thuở vẫn còn Thái Sơn.

251. Gạo đau thêm trắng đó chừ

Con đường cách mạng chẳng chừa gian nguy

Vững lòng tin tưởng ta đi

Có Đảng , có Bác sợ gì khó khăn.

252. Gạo này là gạo canh nông

Dậy mùi cơm mới trắng bông hoa nhài

Chữ đề nắn nót bì ngoài

“Làm tăng năng suất theo lời Bác răn

Gạo này của đội Trai Trang

Từ công trường gửi Tân An anh hùng”.

253. Gian nan cơm vắt muối rừng

Mà sao con thấy sáng trưng cuộc đời

Còn gì hơn được Bác ơi

Miền Nam chiến đấu có Người luôn bên.

254. Giao thừa đoàn tụ quanh đài

Cả nhà chăm chú lắng tai đón chờ

Bâng khuâng thương nhớ Bác Hồ

Tết này vắng Bác đọc thơ chúc mừng

Âm vang từ tận đáy lòng

Vẫn nghe Bác đọc từng dòng thơ xuân.

255. Giặc kia khủng bố lu bù

Lòng dân vẫn một mùa thu Bác Hồ

Tình quân dân nghĩa đồng bào

Ngàn câu cổ vũ ghi vào trong tim.

256. Gió Nam từ biển thổi vào

Gió Nam thổi rốc, lộn nhào cụ Ngô

Cụ Ngô là đứa mô mô

Dân ta chỉ biết Cụ Hồ mà thôi!

Gió nam từ biển thốc vào

Gió nam thổi nốc lộn nhào cụ Ngô

Cụ Ngô là đức mô mô

Dân ta chỉ biết Cụ Hồ mà thôi.

257. Gió nào bằng gió Tu Bông

Sức nào bằng sức nhân dân Cụ Hồ.

258. Gió thu rơi chiếc lá vàng

Để em nhớ cảnh, thương chàng gian truân

Nghe rằng Cụ muốn khao quân

Ai đi cho gửi trăm cân gạo mùa.

259. Giỏi như đến bậc Cụ Hồ

Người còn phải học, huống hồ chúng ta.

260. Giôn-xơn, Bốt-lốt, Tay-lo

Hung hăng hổ giấy làm trò gì đâu

Căm thù như lửa thêm dầu

Nghe lời Bác ta đánh Mỹ dập đầu tan thây.

261. Giờ đây Đông chẳng thù Đình

Đình, Đông nối lại mối tình năm xưa

Đông, Đình chung sức thi đua

Gánh chung nhiệm vụ phất cờ đấu tranh

Chung lòng vun cánh đồng xanh

Muôn đời ơn Bác Đông, Đình hòa vui.

262. Giữa ngày giải phóng thành đô

Bỗng đâu tấm ảnh Bác Hồ hiện ra

Lần đầu được gặp Cha già

Muôn ngàn con mắt trẻ, già nhìn no

Má rằng : thương tiếc Cụ Hồ

Hôm nay thấy Cụ, hết lo, hết sầu

Cụ Hồ tài lớn, đức cao

Nghìn năm vẫn sáng như sao giữa trời.

263. (Kính viếng những chiến sĩ hi sinh trong tết Mậu Thân)

Hai mươi năm ấy là tình

Máu đào ai đổ cho mình nhớ ai!

Mênh mông biển rộng sông dài

Ơn người nằm xuống tháng ngày không quên!

Cờ ta bay bổng khắp miền

Ngọn cờ thống nhất nối liền Bắc – Nam.

Ngọn cờ đẹp nhất trần gian

Ngọn cờ xua lũ dã man thú – người

Ngọn cờ xanh đỏ lên ngôi

Thị thành, làng mạc đất trời chuyển rung.

Ra quân một trận hào hùng

Hả lòng từng xóm, đẹp lòng năm châu.

Về đâu? Ta biết về đâu

Nát tim Nhà Trắng, điên đầu ngụy quân.

Đất này ta đứng vững chân

Dẫu rằng đuổi Mỹ một lần không xong.

Bao ngày đòn trả phản công

Cây thêm chất độc, ruộng đồng đầy bom.

Núi cao : chồng chất căm hờn

Biển nào tát cạn nỗi buồn tóc tang.

Gió mưa từng trận phũ phàng

Thiêng liêng cờ Đảng mơ màng năm canh.

Đồng tâm có chị, có anh

Mẹ già, tất cả, sẵn dành cho con.

Miễn sao Tổ quốc vuông tròn

Ngực còn hơi thở, sức còn đứng lên.

Ào ào một trận làm nên

Mùa xuân chiến dịch mang tên Bác Hồ.

Phố ta ngày ấy rực cờ

Nghìn năm giữ vững cơ đồ từ đây.

Xuân xưa về lại xuân này

Mậu Thân hai tiếng ngày ngày không quên.

Mong sao nghĩa trả, ơn đền

Đẹp sao chiến sĩ không tên những ngày!

264. Hai bên những núi cùng non

Giữa đường cái nhựa trăng tròn sáng soi

Trăng sáng soi có người vệ quốc

Lính Cụ Hồ đi bước hiên ngang

Trăm năm ghi tạc đá vàng

Cùng nhau giải phóng quê hương đất này.

265. Hai tay bưng bát cơm thơm

Con ơi nhớ lấy công ơn Bác Hồ

Nhờ ai khoai thúng đầy bồ

Nhờ ai ruộng đất cơ đồ về ta?

Non dài biển rộng bao la

Đời đời ơn Bác thiết tha mặn nồng

Ngày xưa nước mắt lưng tròng

Thương con khát sữa, xót chồng ngược xuôi.

Bây giờ no ấm vui tươi

Con đi bộ đội, chồng ngồi ủy ban

Ngày xưa đói rách cơ hàn

Ruộng vườn chẳng có một gang cắm cày

Bây giờ ruộng đất về tay

Tăng gia sản xuất ơn này nhờ ai?

Ơn này mẹ để hai vai

Một vai ơn Đảng, một vai Bác Hồ.

266. Hải Hưng đẹp xóm, đẹp làng

Đẹp hàng vải ngọt, đẹp hàng đay xanh

Đẹp dòng nước biếc lượn quanh

Xóm thôn như thể bức tranh hữu tình

Dạt dào sóng lúa rung rinh

Nhớ ngày Bác đến thắm tình quê hương

Nước theo tay Bác vào mương

Sông theo tay Bác vẽ đường dài thêm

Điện theo tay Bác bừng lên

Ngói theo tay Bác hồng trên muôn nhà

Đất theo tay Bác nở hoa

Cây theo tay Bác đậm đà sức xuân

Quên sao : Ái Quốc – Nghĩa Dân

Quên sao : Hồng Thái, Vạn Xuân Bác về

Ấm no ba ngả, bốn bề

Từ tay Bác chỉ bay về muôn phương

Bác như đi khắp Hải Hưng

Vì lời Bác đã ấm từng mái tranh

Hương thơm quả ngọt hoa lành

Theo Người, ríu rít đứng quanh bên Người.

267. Hàng rào râm bụt bao quanh

Rặng tre rủ bóng lên xanh bốn mùa

Vách đan, cửa liếp đơn sơ

Mái tranh nhà Bác bây giờ ấm hơn

Có nhà đỉnh núi mây vờn

Có nhà vùng biển sóng cồn bao quanh

Có nhà ẩn giữa rừng xanh

Nhà nào cũng giống nhà tranh Bác Hồ.

268. Hành quân dưới rặng cây xanh

Tưởng như đi dưới ân tình Bác che

Màu xanh xanh thắm đường quê

Làng con nhớ Bác tết về trồng cây

Con đi, bóng mát che đầy

Đếm sao hết được rừng cây Bác Hồ.

269. Hành quân qua núi nhấp nhô

Như Tây Phong Lĩnh Bác Hồ đã qua

Suối sâu, nước lũ, bờ xa

Bác Hồ đã vượt băng qua suối dài

Ở đâu Bác cũng trong lòng

Bác là chính trái tim hồng cháu yêu

Mong sao Bác khỏe mạnh nhiều

Dẫn đường chúng cháu sớm chiều hành quân.

270. Hành quân trên quãng đường dài

Lắng nghe thơ Bác qua đài chúc xuân

Đây lời Tổ quốc vang ngân

Đây kèn xung trận giục gần, giục xa

Hào hùng hơn mọi bài ca

Từng lời, từng tiếng thiết tha, ngọt ngào

“Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào!

Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn!”

Quân đi chân bước dập dồn

Buôn làng náo nức, suối nguồn đều vui

Vì mùa xuân của con người

Vì Bác đã gọi ta rồi, bạn ơi!

Tiến lên giành lại đất trời

Tự do, độc lập cho đời nở hoa.

271. Hành quân với cháu hôm nay

Có thơ Bác chép , sổ tay mấy bài

Cháu đi mải miết đường dài

Đọc thơ Bác thấy nhẹ vai ấm lòng

Cháu đi lòng Bác đi cùng

Mỗi lời thơ sáng một vùng nước non.

Hành quân với cháu hôm nay

Có thơ của Bác chép tay mấy bài

Cháu đi mải miết đường dài

Đọc thơ Bác thấy nhẹ vai ấm lòng

Cháu đi lòng Bác đi cùng

Mỗi lời thơ sáng một vùng núi sông.

272. Hạt muối mặn ba năm còn mặn

Củ gừng cay chín tháng còn cay

Dù ai xuyên tạc lắt lay

Nghìn năm tên Bác dâng đầy hương sen .

273. Hò ơ giã gạo chày ba

Ta nhịp cho hòa, điệu hát thêm hay

Bác cho ta có đất cày

Ngát đồng hương lúa, vườn sai trái lành.

274. Hòa Bình dốc thẳm, non cao

Có đi tiếp vận mới biết công lao Cụ Hồ

275. Hỏi : Cụ ơi là cụ

Mắt cụ đã mờ

Chân cụ đã rũ

Cháu rồi con từng đàn từng lũ

Cả xóm làng đông đủ đi đây;

Cụ hờn chi mấy thằng Tây

Mà cũng nừng cũng sọt ra đây cho mệt nào?

Đáp : Con lão cũng đi

Dâu lão cũng đi

Cháu lão cũng đi đây

Nhưng muốn trông mặt thằng Tây

Coi cái tài ông Giáp

Và gọi là đền đáp

Chút nghĩa cụ Hồ

Lão đan vồi vội đôi bồ

Sắm sanh cái gậy

Lão dô hò lão đi.

276. Hỏi sao lúa tốt gãy bờ ?

Hỏi sao lợn béo mấy tờ báo khen?

Hỏi sao lao động cần chuyên?

Thưa : Di chúc Bác quê em học rồi.

277. Hoa cà hoa bắp

Nở khắp cánh đồng

Này vải đơm bông

Bên vồng khoai sắn

Mong em sao mưa nắng thuận hòa

Tình khoai, nghĩa lúa thuận hòa ấm no

Nuôi anh bộ đội Cụ Hồ

Đánh đâu thắng đấy giữ cờ vàng sao.

Hoa cà hoa bắp

Nở khắp cánh đồng

Này vải đơm bông

Này vồng khoai sắn

Em mong sao mưa nắng thuận hòa

Tình khoai nghĩa lúa già trẻ ấm no

Nuôi anh bộ đội Cụ Hồ

Đánh đâu thắng đấy giữ cờ vàng sao.

Hoa cà hoa bắp

Nở khắp cánh đồng

Này vải đơm bông

Bên vòng khoai sắn

Em mong sao mưa nắng thuận hòa

Tình khoai nghĩa lúa, trẻ già ấm no

Nuôi anh bộ đội Cụ Hồ

Đánh đâu thắng đấy, giữ cờ vàng sao.

278. Hoa xuân thắp sáng đường vào

Mây vờn mũi súng, ánh sao ngời ngời

Quân đi rung núi chuyển đồi

Đường vui, vui cả đất trời Trường Sơn

Từng lời Di chúc sắt son

Đưa đoàn quân vượt trăm con đường đèo.

Bác ơi, nhớ Bác sớm chiều

Đánh tan giặc Mỹ trọn điều Bác mong

Nhớ nhiều, nguyện lập chiến công

Quyết giương cao ngọn cờ hồng Bác trao.

279. Hoan hô dũng sĩ tí hon

Mỹ già thua tuổi măng non ai tường

Hằng ngày ăn ở dễ thương

Thật thà như đếm, ngoan cường ai hay

Mai kia cũng những tay này

Làm nên sự nghiệp, vững xây cơ đồ

Hơn cha nhà gặp phúc to

Cháu ngoan nhứt của Bác Hồ là đây.

280. Học gương ông Đốc Binh Kiều

Đứng lên kháng chiến về theo Cụ Hồ

Giành quyền độc lập, tự do

Đem về áo ấm cơm no đời đời.

Ai đi thăm lại Tháp Mười

Gương xưa còn đó cho người soi chung.

281. Hỏi anh cán bộ người Kinh

Anh bỏ gia đình lên mãi tận đây

Anh đi có nhớ mẹ thầy

Nhớ vợ đêm ngày vẫn chờ đợi trông mong?

Anh đi có nhớ ruộng đồng

Đem cả cái lòng lên sống với chòm tôi

Người Mường lại được thêm người

Cây lá cũng cười, anh vui nhận làm con

Anh lên nghe tiếng học ròn

Bông lúa thêm tròn, bông lúa cũng thêm to

Anh lên bắt thằng Pháp thua

Phụ nữ gặt mùa, du kích chặt giết Tây

Cụ Hồ cái bụng tốt thay

Đưa đến chòm này người cán bộ giỏi dang

Chòm tôi tháng tám lượt càn

Dù được lính về hàng, tránh được tàu bay

Thêm thân người Xá, người Tày

Trai gái nên tài, làm cán bộ như anh

Cụ Hồ đưa giấy đòi anh

Chòm xóm phải đành trả lại đứa con

Người Mường nay đã giỏi hơn

Tranh đấu vững vàng giữa địch hậu Sơn La

Anh về thưa lại cùng Cha

Người Mường sông Đà đang thắng lợi đi lên.

282. Hô vang một tiếng Bác Hồ

Sống lâu muôn tuổi để cho cháu nhờ.

283. Hôm nào tiễn Bác đi rồi

Lòng còn nhớ tiếc đứng ngồi không yên

Ra đồng cày cuốc cần chuyên

Về nhà đứng sững trông lên : Bác cười

Không! Ai bảo Bác đi rồi?

Bác còn ở khắp nơi nơi mọi nhà.

284. Hôm nay mười chín tháng năm

Chúng con sung sướng hơn rằm trung thu.

285. Hôm nay mười chín tháng năm

Lập công dâng Bác, đạn gầm trời mây

Một thằng trinh sát đến đây

Vừa xâm phạm đã lăn quay giữa trời.

Nghe tin chắc Bác mỉm cười

Lòng vui chiến thắng sức Người khỏe thêm

Bác luôn gửi gắm niềm tin

Vào ta lứa tuổi thanh niên anh hùng

Quyết làm cho Bác vui lòng

Mỹ vào ta lại cho “Rồng” xé thây.

286. Hôm nay sinh nhật Cụ Hồ

Bộ đội đánh thắng, ăn to hai đồn

Chúng em sung sướng mừng rơn

Theo anh vệ quốc lên đồn khiêng bom

Đạn to, đạn nhỏ đầy hòm

Kĩu cà, kĩu kịt nặng chồn tê vai

Các anh thích chí cả cười

Em vui chân bước buột lời cười theo

Anh quay nhìn lạ mắt nheo

Má em đỏ ửng… hồng reo nắng hồng.

287. Hôm nay thống nhất non sông

Giấc ngàn thu thỏa ước mong Bác Hồ.

288. Hôm qua anh đến chơi nhà

Thấy mẹ dệt vải, thấy cha đi bừa

Thấy em mải miết xe tơ

Thấy cháu “i-tờ” ngồi học bi bô

Thì ra vâng lệnh Bác Hồ

Cả nhà yêu nước thi đua phen này.

289. Hôm qua đi đánh trận về

Mồ hôi con ướt đầm đề trên lưng

Giở tờ báo Đảng thốt mừng

Đọc lời thơ Bác bừng bừng quyết tâm.

290. Hỡi ai đi ngược về xuôi

Dừng chân ngắm cảnh quê tôi Cao Bằng

Quê hương cách mạng anh hùng

Có hang Pắc Pó có dòng Hiến Giang

Bác về có suối Lê-nin

Có đồi Các Mác đẹp thêm bản làng

Tam Kinh lịch sử anh hùng

Chiến công Phai Khắc, Na Ngần nên danh.

291. Kháng chiến tay không, buổi đầu địch tấn công

Ta chỉ có gậy tầm vông và mã tấu

Quân giặc tưởng rằng châu chấu đá voi

Nhờ Cụ Hồ với Đảng lãnh đạo sáng soi

Nên qua tám chín năm trường kì kháng chiến

Châu chấu đã đá voi lộn phèo.

292. Khi đi không biết một nghề

Đường kim mũi chỉ khi về đã quen

Khi đi lạ bến lạ thuyền

Khi về chở lúa đồng chiêm đến tài!

Khi đi cày chẳng bằng ai

Khi về cấy cả xóm Đoài chịu thua!

Năm năm làm lính Cụ Hồ

Ruộng đồng, sông nước bây giờ kém ai.

293. Không có gì quý hơn độc lập

Không có gì sánh được tự do

Núi sông vọng tiếng Bác Hồ

Mong ngày thống nhất Bác vô, cháu mừng.

294. Không có gì cao bằng núi, rộng bằng biển, sáng hơn mặt trời

Đối với chúng tôi

Cụ Hồ cao hơn núi, rộng hơn biển, sáng hơn mặt trời

Bởi vì Cụ làm được chuyện Phật dạy :

Mọi người đều có ruộng.

295. Không đèn thì lấy ánh trăng

Mực bằng đậu cút, giấy bằng lồ ô

Quyết tâm học chữ Bác Hồ

Nước nhà độc lập, tự do có ngày

Căm thù, yêu nước nung sôi

Tay cung, tay bút không thôi luyện rèn.

296. Không thêm không bớt một lời

Nhà ta ta ở không dời không đi

Dân Cụ Hồ chỉ một lời thề

Mạng này đổi mạng bám quê đến cùng.

Không thêm không bớt một lời

Nhà ta ta ở, không dời, không đi

Dân Cụ Hồ chỉ một lời thề

Mạng thì đổi mạng, bám quê đến cùng.

297. Kiến bầy tha vỡ thân cây

Mối đàn tha đất mà xây nên cồn

Tòan dân đoàn kết một lòng

Bác Hồ kêu gọi ta cùng đánh Tây.

298. Làm dân một nước cộng hòa

Phải lo biết chữ mới là đáng dân

Cụ Hồ lo việc học hành

Chỉ mong non nước rạng danh muôn đời.

299. Lá cờ đẹp lắm má ơi

Lá cờ dân tộc cờ tươi màu hồng

Cờ sao thấy khắp non sông

Thấy mỏ miền Bắc, thấy đồng miền Nam

Cờ bay phất phới hiên ngang

Chung quanh hình Bác, Bắc Nam quây quần.

300. Lính Cụ Hồ như lúa mùa chiêm

Lanh như cắt biếc, dịu hiền bồ câu

Bấy lâu chẳng thấy đâu đâu

Đồn rằng ăn lá ăn rau trên rừng.

Giờ đây vô số quá chừng

Súng mang, tay bắt mặt mừng là con.

301. Lính ngụy :

- Hò ơ … ơ …

Lấy lính quốc gia vàng đeo đầy cổ

Lấy lính Cụ Hồ chịu khổ muôn năm.

Phụ nữ miền Nam :

- Hò ơ … ơ …

Lấy lính quốc gia vàng đeo có lúc

Lấy lính Cụ Hồ hạnh phúc muôn năm.

Lính ngụy :

- Hò ơ … ơ …

Lấy lính quốc gia vàng đeo đầy cổ

Lấy lính Cụ Hồ chịu khổ muôn năm.

Phụ nữ miền Nam :

- Hò ơ … ơ …

Lấy lính quốc gia vàng đeo có lúc

Lấy lính Cụ Hồ rực rỡ muôn năm.

302. Nhân viên tác động tinh thần của địch :

- Hò ơ … ơ …

Trước đây là cháu Bác Hồ

Bây giờ là cháu “cụ” Ngô rõ ràng.

Thiếu nhi miền Nam :

- Hò ơ … ơ …

Ai thèm làm cháu thằng Ngô

Còn vài năm nữa Bác Hồ vô đây.

303. Lo ăn, lo mặc, lo chơi

Lo chốn làm việc, lo nơi học hành.

Bác lo chăn ấm, áo lành

Bác dìu dắt thợ đấu tranh từng giờ.

Công lao ấy của Bác Hồ

Núi đâu sánh được, biển mô ví bằng.

Đêm qua tôi đắp chăn bông

Sung sướng vô cùng ấm lắm ai ơi!

Dưới thời Pháp thuộc suốt đời

Trong bao tải rách, có người chết cong.

304. Lòng Bác rộng khắp bao la

Lòng dân lòng Bác chan hòa nước non.

Chúng cháu ghi nhớ công ơn

Quyết giết giặc Pháp rửa hờn cho dân.

305. Lòng dân như hoa hướng dương

Trăm ngàn đổ lại một phương mặt trời.

Dù cho vật đổi sao dời

Nguyện cùng Đảng, Bác một đời sắt son.

Lòng dân như hoa hướng dương

Trăm ngàn đổ lại một phương mặt trời

Dù cho vật đổi sao dời

Nguyện cùng Đảng Bác một lời sắt son.

306. Lòng dân về với Bác Hồ

Như sông về biển khi mô cho cùng.

307. Lòng lại dặn lòng keo sơn gắn bó

Dẫu xa đâu đó lòng vẫn đoái hoài

Ai về nhắn nhủ cùng ai

Có Bác, có Đảng, chẳng sợ chông gai, bùn lầy.

308. Lời Bác Hồ gọi vang sông núi

Tiếng đồng bào sớm tối nhủ khuyên

Anh ơi xa lánh bạo quyền

Bến đang đón thuyền quay súng lập công.

Quê hương ngày đợi đêm trông

Vợ con từng phút dõi lòng theo anh.

309. Lời Bác vượt núi băng đèo

Vạch từng thắng lợi, dõi theo từng người

Đêm nay trăng sáng cuối đồi

Súng con nổ mạnh, đáp lời núi sông.

310. Lời Cha sáng tỏ như gương

Lời Cha vạch bảo bước đường quang vinh

Đọc lời Cha hiệu triệu từng câu

Lời Cha tha thiết làm sao

Hình Cha con thấy biết bao dịu dàng

Cha yêu tất cả miền Nam

Về sau đi trước trên đường đấu tranh.

311. Lời dạy của Bác Hồ chúng ta quyết thi đua học tập

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”

Quản gì gian khổ, gay go

Sẵn sàng nghe lời Bác gọi, bất cứ nơi mô cũng đi đầu.

312. Lúa lên thì lúa đầy bồ

Mình ăn cơm muối, Cụ Hồ khao quân

313. Luộc mì đưa tiễn anh Ba

Băng rừng, lội suối anh ra Bác Hồ

Anh đi suối đợi, rừng chờ

Nhìn sao đếm phút, đếm giờ anh vô.

Võng treo đem ngủ nằm mơ

Anh Ba đã gặp Bác Hồ sáng nay.

Bác Hồ thương lắm cầm tay

Khen miền Đông giỏi, đói dài vẫn hăng.

Tỉnh ra vui sướng chi bằng

Bác Hồ mạnh khỏe ta càng thắng to.

314. Lưỡi gươm nào cắt đứt dòng Bến Hải

Ngọn lửa nào đốt cháy giải Trường Sơn.

Dân ta chí quyết căm hờn

Ngày nay được tự do độc lập nhớ ơn Bác Hồ.

315. Mai ngày 19 tháng 5

Có quà gì để gửi dâng Bác Hồ?

Thông tin ta có món quà:

Dây bền máy tốt chắc là Bác vui.

316. Mau mau từ trẻ đến già

Đồng bào lương giáo kẻ xa người gần

Đấu tranh đòi mở hiệp thương

Đòi cho Nam Bắc thông đường ra vô

Để miền Nam gặp Cha già

Vợ chồng sum họp nước nhà an vui.

317. Máy bay giặc Mỹ cháy rồi

Đồng xanh lại thắm, bầu trời lại trong.

Niềm vui rộn rã trong lòng

Ngồi ngâm thơ Bác những dòng kính yêu.

Lời thơ vang vọng sớm chiều

Nước non trăm mến nghìn yêu mặn mà.

Lửa bom khói đạn xông pha

Đọc thơ của Bác sức ta sóng trào.

318. Mặc cho nước lớn nước ròng

Đước trông cao ngọn, đước trông Bác Hồ.

Đêm qua nằm ngủ con mơ

Thấy tàu của Bác cập bờ Cà Mau.

319. Mặt trời Bác ấm quanh năm

Non sông chiếu sáng trăng Đảng ta.

Ngàn sao lấp lánh ngân hà

Nhân dân triệu triệu đóa hoa giữa đời.

Sáng xuân ai đẹp môi cười

Đêm Xuân ai nói như lời hát ru.

Mặt người tươi đẹp nghìn thu

Quê hương là cả bài thơ tuyệt vời.

Thầm ơn đất nước bao đời

Năm mươi năm Đảng sáng ngời mai sau.

Mỗi lời là chuỗi hạt châu

Một đời sương gió mái đầu vẫn xanh.

320. Miền Nam đàn con hướng ra

Ba Đình đêm thức hướng vô khắp miền.

Miền Nam vẫn ở trong tim

Chăm cây vú sữa lớn lên mỗi ngày.

Tình thương như biển tràn đầy

Đời còn hơi thở ơn này không quên.

Đó đây chung một lời nguyền

Làm theo lời Bác, tiến lên dưới cờ.

Quê hương quét sạch mây mù

Cơ đồ Tổ quốc ngàn thu vững bền!

321. Miền Nam ghi mãi trong tâm

Tháng năm, mười chín, ngày sinh Cha già

Miền Nam thương nhớ trông ra

Mong ngày chung hát bài ca: Bác về.

322. Miền Nam là của Việt Nam

Miền Nam là của giang sơn Lạc Hồng

Miền Nam chỉ có một lòng

Miền Nam chỉ viết một dòng chữ thôi

Một dòng chữ sáng muôn đời

Một dòng chữ có vạn người mến thương

Một dòng chữ sáng muôn phương

Cần, Kiệm, Liêm, Chính tấm gương chói lòa

Tay để lòng nở trăm hoa

Đấy là dòng chữ : Cha Hồ Chí Minh.

Miền Nam là của Việt Nam

Miền Nam là của giang sơn lạc Hồng.

Miền Nam chỉ có một lòng

Miền Nam chỉ viết một dòng chữ thôi.

Một dòng chữ sáng muôn đời

Một dòng chữ có vạn người mến thương.

Một dòng chữ sáng muôn phương

Cần, kiệm, liêm, chính tấm gương chói lòa.

Tay để lòng nở đầy hoa

Đấy là dòng chữ “Cha Hồ Chí Minh”

Ngày mai thống nhất nước mình

Độc lập hoàn thành, thuận ý toàn dân.

Cha già cất bước về Nam

Thăm miền Nam Bộ, thăm đàn con thơ

Miền Nam ngập bước bóng cờ

Toàn dân đi đón Cha Hồ Chí Minh

Hoan hô cho nức đô thành

Vỗ tay cho dội trời xanh mới vừa

Nhìn Cha tưởng hãy còn mơ.

Việt Nam có Bác Hồ

Như ruộng khô có nước

Miền Bắc đi trước

Miền Nam theo sau

Ngày nay gian khổ thương đau

Ngày mai rực rỡ một màu cờ sao.

323. Mõ sôi đường cái

Trống cuộn dòng sông

Trống mõ hợp đồng

Dồn lên thị xã

Người người hối hả

Chen bước trên đường

Anh thẳng tiền phương

Em về địch hậu

Trong ngoài hòa tấu

Khúc nhạc tiến công

Mõ kêu trống thúc bên lòng

Theo lời Bác gọi lập công dâng Người.

324. Mỗi khi cháu bắn quân thù

Thì cháu lại nhớ Bác Hồ muôn năm.

Mỗi khi lòng cháu hờn căm

Thì cháu lại nhớ lời răn Bác Hồ.

Đại hạn nhớ ơn trận mưa

Đêm tối mịt mờ nhớ ngọn đèn soi.

325. Mỗi lần lời Cụ gởi về

Rộn ràng khắp nẻo cùng quê hát hò

Mong ngày độc lập Cụ vô

Thỏa lòng ao ước ước mơ đêm ngày.

326. Mỗi ngày hai nắm cỏn con

Nhiều ngày góp lại thành non gạo đầy

Khi xưa cũng lon gạo này

Góp phần đánh Nhật, đánh Tây tơi bời

Bây giờ giặc Mĩ, ma trời

Gây nên tội ác khắp nơi quê mình

Nghe lời Bác gọi chí tình

Lại nhắc nhủ mình tiết kiệm thường xuyên

Bớt từng nắm gạo, đồng tiền

Góp phần đánh Mĩ, giữ yên quê nhà.

327. Mỗi xuân mỗi tết trồng cây

Cây trùm bóng mát, cây dầy quê hương

Gái trai lớp lớp lên đường

Chiến công tô thắm quê hương mấy lần

Mỗi năm một lớp cây xuân

Đâm chồi nảy lộc, cây vươn lá cành

Ai ơi, trăm nghĩa trăm tình

Bác đi để lại máu xanh cho đời.

328. Một cây bạch đàng

Hai cây bạch đàng

Bác ơi quê cháu cả làng trồng cây

Đường ngang lối dọc

Cây mọc đó đây

Mái trường ngói đỏ hây hây

Cây cao bóng cả tình này Bác che

Tết kia cây mới cắm về

Xuân này bóng tỏa bóng che rợp đường.

Một cây bạch đàn

Hai cây bạch đàn…

Bác ơi quê cháu cả làng trồng cây

Đường ngang lối dọc

Cây mọc đó đây

Mái trường ngói đỏ hây hây

Cây cao bóng cả tình này Bác che

Tết xưa, cây mới chia về

Xuân này, cây tỏa bóng che rợp đường.

329. Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao

Một đồng chẳng đáng là bao

Nhiều người tiết kiệm gửi vào cũng to

Nhớ ghi lời dạy Bác Hồ

Sản xuất, tiết kiệm phải lo thực hành

Chỉ tiêu kế hoạch nhớ dành

Nước nhà đang lúc chiến tranh cần tiền

Tiền xây xã hội tiến lên

Tiền nơi tiền tuyến vang rền chiến công

Ai ơi, tiết kiệm từng đồng

Góp phần xây dựng, góp công diệt thù.

330. Mấy bà đi chợ nhỏ to

Bàn chuyện Cụ Hồ mua lúa khao quân

Nhà bà bán đã mấy cân?

Nhà tôi chỉ để thóc ăn chạm mùa

Nhà tôi cũng quyết thi đua

Vâng lệnh Cụ Hồ góp lúa khao quân.

331. Mấy cô gánh lúa đi mô?

Rằng em gánh lúa Cụ Hồ khao quân

Lúa này ý chí toàn dân

Lúa này nuôi vệ quốc quân diệt thù.

332. Một cây xanh

Hai cây xanh

Nghìn cây gộp lại sẽ thành rừng cây

Mùa xuân vạn nẻo đó đây

Nhiều rừng mới mọc theo tay Bác Hồ

Cây xanh xanh cả bốn mùa

Đẹp ý Bác Hồ, đất nước thêm xuân!

333. Một chiều nắng ấm Thủ đô

Vui sao được thấy Bác Hồ trồng cây.

Tuổi già vẫn dẻo bàn tay

Nhanh nhanh từng xẻng đất đầy vun quanh.

Mai ngày cây Bác lên xanh

Bao nhiêu rễ, bấy nhiêu cành lá tươi.

Cây xuân tỏa bóng khắp trời

Bóng cây bóng Bác đời đời vươn cao.

Nghìn năm sau nhớ công lao

Trồng cây bóng Bác che bao nhiêu người.

Một chiều nắng ấm thủ đô

Vui sao được thấy Bác Hồ trồng cây.

Tuổi già vẫn dẻo bàn tay

Nhanh nhanh từng xẻng đất đầy vun quanh.

Mai ngày cây Bác lên xanh

Bao nhiêu rễ, bấy nhiêu cành lá tươi.

Cây xuân tỏa bóng rợp trời

Bóng đa bóng Bác đời đời vươn cao.

Nghìn năm sau, nhớ công lao

Trồng cây bóng Bác che bao nhiêu người.

334. Mù u ba thứ mù u

Lính Cụ Hồ ta tình nguyện, lính thù ta chẳng đi.

335. Mùa đông hết tự bao giờ

Mà con én đã báo mùa xuân vui?

Đêm qua nghỉ lại bên đồi

Đã nghe cành biếc đâm chồi non xanh

Sáng nay dậy trước bình minh

Nghe thơ Bác vẫn tưởng mình trong mơ

Lòng còn ôm những vần thơ

Như ghì súng thép trước giờ xung phong

Con xin làm một đóa hồng

Góp cùng trăm đóa chiến công tặng Người.

336. Mùa đông rét buốt sắp qua

Cành xuân đang nụ trăm hoa lại về.

Chim chuyền khóm trúc, cành me

Tin vui bay đến trời quê mát lòng.

Ai ra Hà Nội theo cùng

Hướng về Đại hội ta mừng Đảng ta.

Đời còn nắng táp mưa sa

Đầu chung mái ấm, tim hòa máu tim.

Bên nhau biết mấy ngày đêm

Ta đi… chân cứng đá mềm, lối chung.

Ai ra Hà Nội theo cùng

Búa liềm đẹp ngọn cờ hồng – Thủ đô.

Đời đời ta nhớ Bác Hồ

Ba Đình một sớm – cơ đồ nghìn năm.

Đàn con trung, hiếu Bắc, Nam

Một dòng Di chúc, vô vàn tình thương.

Đó đây chưa sạch bụi đường

Sâu còn phá hại mùa màng đương xanh.

Rào con thú dữ núp quanh

Càng căm lang sói thương mình bấy nhiêu!

Giá gương phủ đẹp nhiễu điều

Gian truân thêm quí, thêm yêu Đảng mình.

Có đồi ngọc mới long lanh

Càng trui lửa đỏ càng xinh mặt vàng.

337. Mùa xuân mấy lượt một năm?

Một tháng trăng rằm được mấy lượt lên?

Trọn đời em cũng chẳng quên

Có Đảng, có Bác em nên thân người

Sao còn có lúc đổi ngôi

Ơn Đảng, ơn Bác đời đời ghi sâu.

338. Mùa xuân rắc hạt vườn nhà

Cây mơ, cây mận nở hoa trắng cành

Hạt mưa thắm ướt vai anh

Ba lô dã ngoại tươi nhành ngụy trang

Mưa xuân thắm đất đồi quang

Đón xuân, vui Tết, cả làng trồng cây

Rập rờn theo hạt mưa bay

Đã vang tiếng hát lại vang giọng hò

Toàn dân vâng lệnh Bác Hồ

“Đánh cho Mĩ cút. Đánh cho ngụy nhào”.

339. Muối mặn ba năm còn mặn

Gừng cay chín tháng còn cay

Dù ai xuyên tạc lắt lay

Sắt son nguyện giữ lòng này sắt son.

Ấu khoe ấu tròn

Bồ hòn nào bồ hòn lại méo

Mỹ Diệm lắt léo nỏ ai nghe

Dù bay xuyên tạc chán chê

Đồng bào vẫn nhớ có Cụ Hồ thì trăm việc ngàn bề mới êm.

340. Muốn tắm mát lên ngọn con sông đào

Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh

Muốn cho may mặc đủ lành

Ta phải thi hành kế hoạch trồng bông

Trồng nhiều trồng ít ra công

Đã có công trồng ắt có công thu

Mùa đông sương gió mịt mù

Rét tê tái ruột, nằm co góc giường

Cụ Hồ rất đỗi cảm thương

Lấy chăn đâu đắp cho ngàn vạn dân?

Mùa hè gây gắt nắng ran

Muỗi vi vu đốt, chập choàng năm canh

Cụ Hồ rất đỗi thương tình

Màn đâu buông đủ dân mình ngủ yên?

Ai về nhắn nhủ bạn điền

Sào bông xin nhớ ghi tên chương trình

Bảo ban nhau quyết thực hành

Đã no lại lành đánh bật thằng Tây

Cụ Hồ khi ấy vui thay

Dân ta no ấm khác ngày năm xưa!

Thi đua bền bỉ, ai ơi!

Đừng như nước lũ, tràn rồi lại khô

Có yêu, có nhớ Bác Hồ

Đừng ngồi mà đợi Bác vô, lâu ngày

Thi đua cho giỏi cho hay

Rồi về Việt Bắc cầm tay Bác Hồ

Trong này mình đợi Bác vô

Ngoài kia Bác cũng đang chờ mình ra.

341. Mưa rồi lại tạnh mà thôi

Nắng mưa, mưa nắng, việc trời trời lo

Ta vì độc lập, tự do

Phải chăm rèn luyện đôi giò cho quen

Mai đây chân cứng, đá mềm

Đường đi vạn dặm, trắng đêm thấm gì

Núi cao, bắt núi phải quỳ

Bắt sông rẽ nước, ta đi tới cùng

Rừng thưa lọt nắng trăng vàng

Lắng nghe dựng vội dưới hàng cây xanh

Võng dù mặc tạm trên cành

Tiếng chim “khắc phục” cuối ghềnh nhặt khoan

Quản chi gió núi mưa ngàn

Lối vào trong ấy dặm đàng còn bao

Vẳng nghe lời Bác hôm nào:

“Đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào” mới thôi

Ngả lưng, lòng những bồi hồi

Tiếng gà đã gáy bên đồi, sang canh

Chân trời rực ánh bình minh

Quân đi áo ngụy trang xanh, nắng vờn.

342. Mưa rơi thêm lạnh rừng khuya

Nghe không gian ngỡ bốn bề mênh mông

Hành quân nhớ bếp lửa hồng

Nhớ xưa Bác sống giữa rừng ấm vui.

343. Nam Hải sâu ta còn đo được

Trường Sơn dài ta vượt cũng qua

Công Hồ Chủ tịch bao la

Ơn Bác mãi mãi dân ta ghi lòng.

344. Nạp thuế cho Tây như chắp vây cho cọp

Có bao nhiêu gom góp nó trở lại đánh mình.

Chi bằng nạp cho chính phủ Hồ Chí Minh

Để Người dựng xây nền tự do độc lập thực tình cho dân ta.

345. Năm năm ta mở hội này

Cho xanh đất nước, cho dầy bóng râm.

Hội mùa mười chín tháng năm

Thương hàng cây nhỏ, ta thăm ngày ngày.

Dẫu cho giông bão tới hoài

Cành kia cùng với cội này ta chăm.

Hội mùa mười chín tháng năm

Dẫu cho nắng rát, mưa dầm sá chi.

Mai kia hai buổi đi về

Đường ta mỗi bước bóng che mái đầu.

Trông cây càng mến thương nhau

Đời đời nhớ Bác dạt dào lòng ai!

346. Năm nào đất nước quặn đau

Mênh mông sóng trắng chân tàu, Bác đi

Đêm dài thăm thẳm châu Phi

Công-Poanh tuyết trắng, Pa-ri gió cồn

Sương mù mờ mịt Luân Đôn

Thương đôi dép nhỏ đã mòn gai chông

Giữa trời băng giá Quảng Đông

Bác nhen nhóm ngọn lửa hồng mai sau.

347. Năm xưa, Bác dạy trồng cây

Năm nay, bát ngát đó đây xanh rừng

Đường hành quân ngất mấy từng

Rừng cây – lời Bác – tưng bừng bên tai.

348. Nắng về thì lựu ra hoa

Người ra mặt trận thì ta ra đồng

Người ra trận đổ máu hồng

Ta ra cánh đồng ta đổ mồ hôi

Qua nương, xuống ruộng, lên đồi

Ta cuốc, ta xới, ta cười, ta ca

Rằng : Hồ Chủ tịch dạy ta

Tăng gia sản xuất cũng là đánh Tây.

349. Nếu ta về với cỏ cây

Đất giữ hoa này dâng tặng Cha ta

Rằng ngày sinh nhật Cha già

Vườn sim ta trổ đóa hoa mừng Người.

350. Ngàn vàng cũng chẳng quý bằng

Sống đời độc lập làm dân Cụ Hồ.

351. Ngày mai đất nước nở hoa

Nhớ công ơn của Cha già cứu tinh

Suốt đời tận tụy hy sinh

Cho độc lập thống nhất hòa bình Việt Nam .

352. Ngày nào lúa mới chín cho

Để ta gửi gạo Cụ Hồ khao quân.

Mong cho lúa chín vàng mơ

Để ta gặt bán Cụ Hồ khao quân

Khao quân là ý Cụ Hồ

Mừng quân đánh thắng, người lo là mình.

353. Ngày xuân nghe tiếng Bác Hồ

Tiếng non nước tự Thủ đô vọng vào

Đêm nay đứng giữa chiến hào

Nghe lời Bác gọi vui nào vui hơn.

Ngày xuân nghe tiếng Bác Hồ

Vọng từ Hà Nội thủ đô vọng về

Đêm nay nằm giữa chiến hào

Nghe lời Bác nói vui nào vui hơn.

354. Ngày xưa bưng lấy bát cơm

Nhớ thầy nhớ mẹ phong sương cấy cày.

Ngày nay bưng bát cơm đầy

Ơn Bác ơn Đảng ngày ngày không quên.

355. Ngày xưa, ngày xửa, ngày xưa

Chữ nhất chẳng biết, chẳng ưa chữ nào

Chữ nào cũng đã ngồi cao

Chữ ở quan lớn, chữ vào triều vua

Nặng tiền muốn chữ thì mua

Khố rách chỉ có nhút chua thôi mà

Từ ngày có cả sơn hà

Bác Hồ cho chữ đượm đà hương sen.

356. Nghe lời Bác dạy thi đua

Thử xem ai được, ai thua phen này

Chàng đi ra trận đánh Tây

Ruộng để em cày, thóc lúa em gieo

Nghèo thì em biết phận nghèo

Nắng sớm mưa chiều, em chẳng quản công

Sao cho lúa tốt đầy đồng

Bộ đội no lòng yên chí xông pha

Con thơ cùng với mẹ già

Chàng cứ tin chắc ở nhà có em

Chàng ơi, hãy gắng sức thêm

Vững tay giết giặc, lập nên công đầu

Vợ chồng ta đọ với nhau

Xem ai giật được giải đầu thi đua.

357. Nghe lời Bác dạy thì no

Đừng để đất nghỉ đừng cho máy ngừng.

Đừng để ao cá vắng tăm

Chuồng gà vắng trứng, buồng tằm vắng tơ.

Rỗi rãi mà đi phất phơ

Mất công phí sức thờ ơ việc nhà.

Rỗi rãi mà đi tăng gia

Trồng lên tỉa xuống, đồng ra đồng vào.

Bỏ công trồng tỉa cuốc cào

Khác gì xẻ đất mà đào của lên.

Đồng bào bộ đội đôi bên

Thi đua sản xuất ai bền hơn ai.

Nghe lời Bác dạy thì no

Đừng để đất nghỉ, đừng cho máy ngừng.

Đừng để ao cá vắng tăm

Chuồng gà vắng trứng, buồng tằm vắng tơ.

Rỗi rãi mà đi phất phơ

Mất công, phí sức, thờ ơ việc nhà.

Rỗi rãi mà đi tăng gia

Trồng lên tỉa xuống, đồng ra đồng vào.

Bỏ công trong việc cuốc cào

Khác gì xẻ đất mà đào của lên.

Đồng bào, bộ đội, đôi bên

Thi đua sản xuất ai bền hơn ai?

358. Nghe lời Bác gọi non sông

Rừng cây rung động, ruộng đồng xôn xao

Triệu lòng phấn khởi dạt dào

Ý dân, lời Bác thấm vào trong tim

Nghe như triều gió đang lên

Nghe như sóng dậy hai miền Bắc Nam

Nghe như lửa cháy tâm can

Như hồn sông núi vọng vang cõi bờ

Toàn dân nổi trống, phất cờ

Người người quyết đạp đầu thù tiến lên.

359. Nghe lời Bác gọi xuân nay

Đường ra mặt trận vui say trong lòng

Lời Người vang vọng non sông

Bình minh rực sáng, cờ hồng tung bay

Đường xa, súng nặng oằn vai

Vẫn nghe sông núi hát bài hành quân

Gian nan cơm vắt, muối rừng

Mà sao con thấy sáng trưng cuộc đời

Còn gì hơn được, Bác ơi

Miền Nam chiến đấu có Người ở bên

Tóc xanh bạc trắng đôi miền

Bác vì đất nước, vì niềm vui chung

Dầu cho giọt máu cuối cùng

Con tin vào Bác, vững lòng tiến lên

Con thề : diệt sạch xâm lăng

Hai miền Nam Bắc cùng xanh đất trời

Nụ cười của Bác thêm tươi.

360. Nghe ngọn gió đã thành bão nổi

Gửi niềm vui ra tới Bác Hồ

Cho miền Bắc thêm đẹp thủ đô

Trong này mỗi bước đi thắng lợi, lòng mở cờ hân hoan.

361. Nghe thơ Bác vọng rừng đào

Ngân vang biển lúa thấm vào lòng con.

Dù cho sông cạn đá mòn

Chúng con một dạ sắt son theo Người.

Mỗi con một đóa hoa tươi

Chúng con góp lại dâng Người bình hoa.

Ơn Người mấy chục năm qua

Chăm nom săn sóc nên hoa thắm hồng.

362. Ngó lên chùa Bồng Lai cây cao bóng mát

Ngó xuống bãi biển Cảnh Dương rào rạt sóng xao

Quê mình biển rộng non cao

Nhờ Cụ Hồ lãnh dạo đồng bào ta được tự do.

363. Ngó lên đồng lúa xanh rờn

Nhớ tình của Đảng công ơn Bác Hồ.

364. Ngó lên mây trắng trời cao

Ơn Đảng ơn Bác chẳng nao tấc lòng

Dù cho biển cạn non mòn

Miền Nam với Bác vuông tròn thủy chung

365. Ngó lên trời có vì sao dẫn lối

Ngó ra Hà Nội có Bác Hồ Chí Minh

Tám chín năm ni lãnh đạo tài tình

Kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình trên toàn cõi Việt Nam.

366. Ngó lên trời có vì sao dẫn lối

Ngó ra Hà Nội có Bác Hồ Chí Minh

Nhìn ra ngoài nớ quang vinh

Nhìn về quê kiểng mà tình xốn xang.

367. Ngó qua dãy núi gặp ghềnh

Lòng Hồ Chủ Tịch, lòng mình không xa

Ngày mai thống nhất nước nhà

Chúng ta vui đón Cha già vào thăm.

Ngó qua dãy núi gặp ghềnh

Lòng Hồ Chủ Tịch, lòng mình không xa

Ngày mai thống nhất nước nhà

Chúng ta vui đón Cha già vào Nam.

368. Ngô đồng đã trổ đỏ làng

Đàn cu cũng đã gáy vang đầu bờ.

Tết về ta nhớ Bác Hồ

Tuổi chồng thêm tuổi, Người chưa hẳn già!

Một năm rồi một năm qua

Người thêm khỏe mạnh là ta vui mừng.

Bao giờ độc lập ngày xuân

Ta nấu bánh tét kính dâng lên Người.

Bây giờ Người ở xa xôi

Bánh chưa gởi được mượn lời kính thăm.

Quay đầu về Bác đăm đăm

Những mong, những ước: muôn năm Bác Hồ.

369. Ngôi sao sáng giữa cờ hồng

Hình Cha rực rỡ giữa lòng chúng con.

370. Ngoài kia trống lửa hiên ngang

Trong này bão nổi đập ta quân thù

Ai ơi, uống nước nhớ nguồn

Miền Nam thắng Mỹ nhớ ơn Bác Hồ

Tuổi già tóc Bác bạc phơ

Vẫn luôn theo dõi từng giờ ta đi.

371. Ngọn Tây Phong Lĩnh Bác trèo

Để giờ có núi có đèo con qua

Trường Sơn mây phủ mưa sa

Chân chồn lại nhớ bước Cha mở đường.

372. Người thân tiếng nói cũng thân

Mỗi lời Người dạy xa gần đều hay.

Người thân tiếng nói cũng thân

Mỗi lần Người dạy xa gần đều hay

Dù ai ngăn đông đón tây

Thì ta vẫn vững như cây giữa rừng

Trước sau một dạ một lòng

Muôn đời ghi tạc công ơn Bác Hồ

373. Người thường cực khổ đôi ba

Cụ Hồ cực khổ tính ra tới mười.

Người thường ngày tháng vui chơi

Cụ Hồ mãn có lo đời ấm no

Người thường toan tính so đo

Cụ Hồ thương nước nên thờ nước thôi!

Người thường chỉ biết “cái tôi”

Cụ Hồ yêu mến khắp người trần gian.

Người thường nhà cửa cao sang

Cụ Hồ lắm lúc nằm hang, ở gò

Người thường rượu thịt say no

Cụ Hồ có lúc không thường chén cơm.

Người thường là lụa đầy rương

Cụ Hồ bô vải tầm thường đủ thay.

Người thường nệm ấm loay hoay

Cụ Hồ nhiều tối gối tay mà nằm.

Người thường sợ nhọc tấm thân

Cụ Hồ dầu dãi phong trần vẫn vui.

Cụ Hồ của chúng con ơi!

Bao giờ cụ mới thảnh thơi bằng người?

Chúng con ở bốn phương trời

Quay về hướng cụ muôn lời chúc mong:

Dài lâu như núi, như sông

Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con!

374. Người về mang một mầm cây

Người đi mang một túi đầy hạt theo

Nơi xa tốt lũng, xanh đèo

Quê nhà mầm cũng vươn theo tay Người

Xuân này xanh một vùng trời

Như lời Bác dạy khi Người ra đi.

375. Nhà tan cửa nát cũng từ

Quyết tâm theo Bác, cực chừ sướng mai.

376. Nhất thơm là bạch đàn chanh,

Bác đi để lại hương lành cho con.

Nhất xanh là tán đa tròn,

Bác đi để bóng mát trùm nghìn sau.

Nhất thẳng là ngọn phi lao,

Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ.

Nhất xanh tán vú sữa tròn

Bác đi để bóng mát trùm nghìn sau

Nhất thẳng là dáng đước cao

Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ.

377. Nhìn ra miền Bắc

Ruộng đồng bát ngát

Nhà máy xinh xinh

Áo hoa đầy phố

Vui cảnh thanh bình

Miền nam chan chứa bao tình

Càng tin Đảng Bác, đấu tranh vững bền .

378. Nhiều tay vỗ nên bộp

Nhiều cột dựng nên nhà

Dù cho Mỹ Diệm ỳ ra

Có Cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải thành công.

Nhiều tay vỗ nên độp

Nhiều cột dựng lên nhà

Dù cho Mỹ Diệm ì ra

Có cụ Hồ lãnh đạo thì việc thống nhất nước nhà phải thành công.

379. Nhìn sông lại nhớ đến nguồn

Nhìn cây nhớ cội, nhìn non nhớ rừng.

Dù cho xa cách muôn trùng

Tình dân với Bác thủy chung chẳng rời.

Nhìn sông lại nhớ đến nguồn

Nhìn cây nhớ cội, nhìn non nhớ rừng

Dù cho xa cách muôn trùng

Tình dân với Bác thủy chung một lòng.

380. Nhờ ai sang lập cán cân

Bác Hồ vĩ đại góp phần Đảng ta

Sinh ra như thể một cha

Bình quyền, bình đẳng như hòa ý chung.

381. Nhờ Hồ Chủ Tịch cầm tay

Nhờ Đảng lãnh đạo ơn này con ơi.

Đường đi còn lắm dặm dài

Mười phần ta đã được hai ba phần.

Con ơi nghe mẹ ân cần

Đấu tranh mấy dặm xa gần tùy ta.

382. Nhờ mặt trời cộng với mặt trăng

Soi sáng đất nước đêm ngày

Nhờ Chính phủ và Hồ Chí Minh

Lãnh đạo các dân tộc chúng mình

Có mâm thịt đầy, lại có hũ rượu

Như ánh đèn rọi chiếu

Thấy rõ lòng dân

Chính phủ, Hồ Chí Minh.

383. Nhớ đâu bằng nhớ quê nhà

Tin ai hơn được Cụ Hồ Chí Minh.

384. Nhớ đêm nổi sóng Nhà Rồng

Bến xưa sương gió bồng bềnh Người ra.

Sông Hồng năm, tháng với ta

Phút xa bịn rịn, quê nhà nhớ mong.

Bao giờ Bến Nghé xanh dòng

Ta ra thăm lại sông Hồng phù sa.

Bao giờ đẹp cửa, đẹp nhà

Ta ra Hà Nội đón bà con vô.

Chúng con hứa trước Bác Hồ

Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào!

385. Nhớ khi gậy trúc, dép đen

Đi thăm mặt trận, Bác lên đỉnh đèo

Đường rừng khúc khuỷu, cheo leo

Bác đứng trên đèo vẫy gọi con lên.

Con mang hình Bác trong tim

Hành quân đánh Mỹ qua nghìn gian lao

Mỗi lần vượt dốc núi cao

Vẫn nghe tiếng Bác ngọt ngào vang ngân.

386. Nhớ ơn cách mạng đời đời

Nhờ ơn ông cụ được làm người hôm nay.

Đồng ta thẳng cánh cò bay

Dân ta nở mặt, nở mày đi lên.

Ngàn năm nhớ mãi không quên

Ai đem xương máu tạo nên cơ đồ.

Xa xôi hướng tới Cụ Hồ

Đêm đen trời sáng cũng nhờ ánh trăng.

Không nghe theo giặc bỏ làng

Đói no quyết bám Bằng lăng đất này.

387. Nhớ xưa nợ gánh ba đời

Chiều ba mươi tết mẹ ngồi nhìn con.

Gánh cực mà đổ lên non

Co chân mà chạy cực còn chạy theo.

Giờ đây hết cực hết nghèo

Vui lên ra ruộng, mừng theo về nhà.

Này con, này mẹ, này cha

Chiều ba mươi tết một nhà ấm no.

Qua sông nhớ bến nhớ đò

Ơn này nhờ đức Bác Hồ thương dân.

388. Nhớ xưa trời tối như bưng

Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời

Mồ hôi đổ xuống ruộng người

Ôm rơm rặm bụng, gặt rồi tay không

Nằm mơ cũng chẳng dám mong

Bốn phía ruộng đồng có lúc về ta.

Mịt mờ, cay đắng năm xưa

Còng lưng nuôi hắn tưởng là hắn nuôi

Quanh năm nghèo rớt mồng tơi

Tưởng là tại số, tại trời gây nên

Từ ngày xóm dưới, làng trên

Tố ra hết khổ, vùng lên một lòng

Cụ Hồ mở mắt cho trông

Mới thấy ruộng đồng bốn phía của ta.

389. Những ai từng chốt biên cương

Lên đường làm cuộc hành hương viếng Người.

Những ai ôm mộng xây đời

Về nguồn suối mát, lại nôi Bác Hồ.

Ơn ai xây đắp cơ đồ

Cho ai nhớ sóng bến xưa Nhà Rồng.

Nhớ ngày tù ngục xiềng gông

Nhớ đêm Pác Pó gió lồng cửa hang

Một tờ Di chúc – tình thương

Việc dân, việc Đảng hàng hàng máu tim.

Mong ngày nở rộ đồng dâng Người

Khó khăn cong nhiễu cuộc đời

Dang tay đi tới cho Người được vui.

390. Những bà trầu cháy môi bầm

I tờ bập bẹ đánh vần oang oang

Trường đây không ghế không bàn

Tấm dong cánh cửa từng hàng kê lên.

Chung dầu, chung bấc, chung đèn

Chung lòng thực hiện lời khuyên Bác Hồ.

391. Những đêm đại hội quê hương

Cháu ngồi nhớ Bác tình thương ngọt ngào

Nhìn đôi mắt Bác như sao sang ngời

Bác nhìn cháu nhỏ khắp nơi

Soi gương bóng tối cho đời thắm tươi.

392. Núi cao là núi Thái Sơn

Ơn cao nghĩa nặng là ơn Cụ Hồ

Núi cao là núi Thái Sơn

Ơn cao nghĩa cả là ơn Cụ Hồ

393. Núi cheo leo

Dốc cheo leo

Đường ngoằn ngoèo

Đá tai mèo

Lụa mây quấn nhẹ ngang đèo

Đường vào mặt trận ta trèo qua mây

Vút bay, tiếng sáo vút bay

Hùng dũng nhịp hát, hăng say giọng hò

Gió đưa ấn ngọt lời thơ

Suối reo hòa điệu ‘lới lơ” trong ngần

Di chúc Bác thấm tim gan

Đường vào mặt trận gian nan coi thường.

Nguyễn Xuân Thiêm

394. Núi Mẫu Sơn cao biết bao nhiêu trượng

Sông Nhật Lệ sâu biết bấy nhiêu tầm

Dừng chèo ta dặn bạn tri âm

Lái Cụ Hồ nắm chặt khăng khăng

Dù cho mưa nguồn chớp biển

Cũng không đến nỗi can răng ơi đồng bào.

395. Núi Trường Sơn không sờn mưa nắng

Biển Thái Bình chắn chắc không khô

Nước ta đã có Bác Hồ

Hỡi toàn dân đứng lên kháng chiến xây dựng cơ đồ Việt Nam.

396. Nước chảy hoa trôi bèo đứng

Núi lở non mòn vì bè lũ tay sai

Nước nhà kháng chiến lâu dài

Mong cho Nam Bắc sum họp một nhà vui thay

Thái Phiên nổi dậy đủ đầy

Tây Tàu Nhật Mỹ bỏ nước ta đât rút về

Mấy mươi năm kháng chiến thật ghê

Tiếc thay sáu chín Cụ về thiên cung

Viết thư di chúc bi hùng

Bảy lăm thống nhất nước ta hòa bình

Thấy ảnh mà không thấy hình

Bắc Nam toàn quốc làm lễ Hồ Chí Minh muôn đời.

397. Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn

Cửa Hàm Luông mây cuốn cánh buồm xuôi

Hương sen tỏa khắp đất trời

Bác ơi, tên Bác sáng ngời miền Nam.

Nước Cửu Long sóng dồn cuồn cuộn

Đất miền Nam bão cuốn lên rồi

Hương xa tỏa khắp đất trời

Bác ơi, tên Bác sáng ngời niềm tin.

398. Nước dưới sông khi dâng khi cạn

Trăng trên trời khi sáng khi lu

Ai ra miền Bắc thưa với Cụ Hồ

Lòng miền Nam vẫn tròn vành vạnh như chiếc nón bài thơ đội đầu.

399. Nước nhà còn buổi long đong

Bỏ hoang ruộng đất thì lòng sao đang

Ai ơi, tấc đất tấc vàng

Nhớ lời Cụ dạy ta càng tăng gia

Tăng gia ích nước lợi nhà

Kháng chiến, kiến quốc ắt là thành công.

400. Nước non vẫn nước non nhà

Phương Nam, Phương Bắc vẫn là nước non.

Lòng dân với Bác vuông tròn

Như sông về với ngọn nguồn Bác ơi.2

401. Nước sông Trà in hình núi Ấn

Dừa Trung Lương soi bóng Lại Giang

Nhìn lên cờ đỏ sao vàng

Lòng dân ơn Bác muôn vàng Bác ơi.

402. Ong mật về làm tổ trong hang

Suối sông đầy cá vượt thác

Chép, trắm lượn đớp mồi hàng đàn

Chân tay ta rũ bỏ xiềng xích

Nằm say ngủ, đợi gà gáy vang

Chúng ta cùng nghe tiếng gà gáy ran!

Chim từ quy kêu hòa tiếng dây đồng

Tiếng hát ca chen tiếng bật bông

Khắp nơi chào mừng Cụ Hồ về đứng góc bản mường

Đêm văng vẳng tiếng thoi đưa, cửi chạy

Sông lượn vòng, đầy thuyền ngược, thuyền xuôi

Lúa trĩu hạt, rơm vàng tươi

Khắp gầm trời, súc vật sinh sôi, nẩy nổ.

403. Ở đây đất lặng núi lành

Ở đây có Bác chúng mình yên tâm

Hôm nay đi dạo chùa Trầm

Càng vui cảnh Bác càng căm quân thù

Bác Hồ yêu mến thợ thuyền

Bác lo chăm sóc thường xuyên mọi người.

404. Ở đây thờ chúa tự do

Giáo lương chỉ một Cụ Hồ mà thôi.

405. Ở đây heo hút đèo xa

Đường về nơi Bác vẫn là tấc gang.

406. Ở nhà ảnh Bác treo trên

Ra vào con đứng trông lên ảnh Người

Khi bay cánh vút mây trời

Khoang bay nhỏ hẹp, chỗ ngồi chật nêm

Con mang hình Bác trong tim

Nghe lời Bác dạy bay lên diệt thù.

407. Ơn Cách mạng bằng trời bằng biển

Công Cụ Hồ tính biết bao lăm

Thằng tây độc ác gian tham

Chúng toan cướp lại nước Nam phen này

Tây ơi ta bảo tây này

Bay không về nước có ngày tan xương

Cà Mau mà hết cá đường

Nước Hòn Khoai hết ngọt tao mới nhường cho bay.

408. Ơn Cha như nước như non

Như gương Hồ Thủy, như hòn Thái Sơn.

409. Ơn đức Cha già biết bao

Ơn dày sáng đất, ơn cao sánh trời

Tình Cha tỏa rộng nơi nơi

Lượng Cha bát ngát, sáng ngời như gương

Lòng Cha như Thái Bình Dương

Yêu quý nhân loại, mến thương giống nòi

Bác là cuộc sống sáng tươi

Bác là hạnh phúc muôn đời nở hoa

Bác là muôn vạn lời ca

Bác là hình ảnh quê ta thanh bình

Bác là muôn ánh bình minh

Xé màn nô lệ, mở trời tự do.

410. Ơn Người biển rộng non cao

Con đi dưới ánh cờ sao chói ngời

Trông lên vẫn thấy Bác cười

Ấm trên ngàn dặm những lời Bác khuyên.

411. Ơn Người, quí bậc sanh thành

Chọn miền Cao Lãnh – đất lành phải chăng?

Bờ sông hoa tím – bằng lăng

Ô môi từng lót đỏ đường quân đi

Bưng sâu, đồng trũng - gan lỳ

Rộng lòng như thể đất này mênh mông.

Thanh cao – mùa nước – sen hồng

Ấy mùa thương nhớ, thủy chung đợi chờ.

Mong ngày, mong tháng Bác vô

Bao năm hoài niệm trước mồ thân sinh.

Ơn Người, quí bậc sinh thành

Ác ôn hung hãn cũng đành bó tay

Trung trinh vẫn giữ lòng này

Nhớ ơn người trước, nhớ ngày Bác sinh.

412. Ông già tóc bạc như mây

Xuân nào cuốc đất trồng cây trên đồi

Năm nay cây lớn lên rồi

Nắng mưa sẵn bóng cháu ngồi chăn trâu

Đồi cây, mái tóc một màu

Cháu nhìn mây bạc trên đầu nhớ ông.

413. Qua cầu không khéo bổ trúc “Ngô”

Giòng nước trăm khe chảy về “Hồ”.

414. Qua đồng đứng lại trông đồng

Đồng như tranh đẹp trong lòng vui thay.

Từ ngày thư Bác về đây

Ruộng cao mát nước, hàng cây thêm chồi.

Lúa chim ruộng sóng ngang trời,

Cồn hoang ngô mượt, bãi bồi dâu xanh.

415. Quản gì gian khổ khó khăn

Đêm ngày khiêng pháo vượt băng dãy đồi

Dù đi đến tận chân trời

Theo lời Bác gọi trọn đời ta đi.

416. Quân đi rung sóng Tháp Mười

Để sen thơm mãi tên Người kính yêu

417. Quả cau nhỏ

Cái vỏ vân vân

Nay anh tập gần

Mai anh đánh xa

Từ sau phát động, nhà xa

Nhờ chính sách Đảng nay đã khác xưa

Đấu tranh đòi được giảm tô

Phần ta thêm mẫu ruộng bừa đồng trong

Ruộng nhà lúa tốt nhất đồng

Bón phân làm cỏ đã xong hai lần

Lâng lâng trút sạch nợ nần

Thóc ăn có đủ đến tuần gặt chiêm

Mẹ già, cu nhỏ và em

Chân cứng đá mềm, khỏe mạnh luôn luôn

Uống nước ta phải nhớ nguồn

Ơn Đảng sáng suốt, lại ơn Bác Hồ.

418. Quê đồng cháu rất nhiều sen

Tháng năm hoa nở hương lên ngát trời

Nhìn sen nhớ Bác, bồi hồi

Bác ra đi gửi những lời mai sau

Từng lời Di chúc khắc sâu

Vào trong tâm khảm, những đầu tóc xanh.

Bác ơi, lời Bác ân tình

Nghìn năm con cháu đinh ninh nhớ lời

Quê hương ngày một sáng tươi

Tháng năm sen nở ngát trời đầy hương.

419. Quê em ngụy đến đóng đồn

Chuồng gà hết trứng, cây vườn héo khô

Từ ngày giải phóng đến giờ

Đồng hoang lúa mọc, bụi bờ xanh cây

Ngẩng trông thấy ánh cờ bay

Hái liềm lại ấm bàn tay gặt mùa

Chở anh Giải phóng sang đò

Má về lại nhớ Bác Hồ khôn nguôi.

420. Quê hương Đồng Tháp sắt son

Nhân dân Đồng Tháp là con Bác Hồ.

421. Quê ta đẹp nhất bến này

Thời gian đẹp nhất ấy Ngày Người ra.

Nghe mùa gió chướng thổi qua

Một chiều sóng vỗ cho ta nhớ Người.

Yêu đời càng gắn với đời

Quê hương tủi nhục, ngậm ngùi bước đi.

Boong tàu nhìn ánh trăng khuya

Sao ơi! Sao có rọi về làng xưa?

Tàu ra cho khuất rặng dừa

Lùm tre trước ngõ, bến bờ là đâu?

Nỗi lòng đâu đấu canh thâu

Trời Tây tuyết giá, mây sầu tứ giăng.

Tình dân dây đã buộc ràng

Nỗi riêng gác lại, gió sương quản gì.

Con đường cứu nước nhiêu khê

Bồi bàn, quét tuyết, việc chi cũng làm.

Ngày đêm róc rách suối ngầm

Phố phường xe ngựa – âm thầm ai hay.

Trong tù – nhật ký thơ bay

Lòng hang Pắc Pó hẹn ngày cờ lên.

Non nước ta đẹp trăm miền

Trăng, sao đẹp nhất là đêm Bến Rồng.

Ngày xuân lòng những mộng mơ

Nhớ Người nhớ cả một vùng trời mây.

Công thần chủ nghĩa những ai

Con đường gian khổ còn dài hãy qua.

Vùng bùn cơ hội chớ sa

Nỗi riêng chớ để xóa nhòa tình chung.

Biển trời ơn Bác mênh mông

Nguyện làm con cháu hiếu trung giữa đời.

Bến xưa đã lỡ ai bồi

Vàng gieo ngấm nước, đất trời sáng choang.

Nhà Rồng về đó tắm trăng

Ta đi dưới ánh hào quang của Người.

422. Quê tôi giải phóng từ đây

Đồng hoang lên lúa, gốc cây nảy mầm

Con gà gáy trống canh năm

Đứa con vui nhảy đêm rằm trăng soi

Từ nay khác cả quê tôi

Nhân dân nô nức phục hồi tăng gia

Xóm làng truyền mãi câu ca:

“Ơn Hồ Chủ Tịch như là núi cao.”

423. Quê tôi mừng hết bọn quan

Trăng sáng soi ngàn, lớp học tối đầu tiên

Vui trong nhịp sống bình yên

Nứa mọc ra liền, đất núi đẻ ra bông

Khác xưa quan đánh, Tây lung

Vợ phải lìa chồng đến hầu hạ nhà lang

Đời người đen quá hòn than

Mỏng tựa lá vàng, khổ quá kiếp con giun

Kéo dài hàng mấy ngàn năm

Đời không nằm rằm, cũng chẳng có mùa xuân

Quê tôi tỉnh lại dần dần

Như mái nhà sàn lợp lá mới, sửa phên

Cây còi, chồi lại nở lên

Mồ hôi thấm nền, từng ngọn lá thấm hơi

Bác Hồ soi sáng quê tôi

Tôi gửi đôi lời các bạn đến thăm

Đừng lo đường lạ xa xăm

Hỏi đến chòm Nầm, huyện Quan Hóa tỉnh Thanh

Bên dòng sông Mã trong xanh

Rừng cam hiền lành, quýt ngọt đấy quê tôi.

424. Kỷ niệm lần thứ 25, chiến thắng Ấp Bắc (2.1.1963-2.1.1988)

Ra từ một ấp – Chiến công

Những bàn chân đất vang lừng năm châu

Khiến Lầu Năm Góc điên đầu

Trực thăng gãy cánh – diều hâu quay cuồng.

Chiến công là một hồi chuông

Vang lên cảnh cáo những phường xâm lăng.

Tàu bay nào phải vạn năng

Mới hay sức mạnh đồng bằng là đây.

Máu xương đổ xuống đất này

Quyết tâm- cầm chắc có ngày giặc thua

Nhớ lời căn dặn Bác Hồ:

“Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”

Viết lên trang sử tự hào

Quê nhà Ấp Bắc đẹp màu đồng xanh.

Ơn người ngày ấy hy sinh

Ruộng vườn giữ lại cho ngày hôm nay.

Tháp Mười thẳng cánh cò bay

Kinh sâu đầy nước lòng đầy nhớ thương…

425. Rách lành cũng bạc Việt Nam

Chính phủ ta làm ta vẫn cứ tiêu

Lành thì gìn giữ nâng niu

Rách thì dán lại tín điều bán mua

Chữ ta có mất đôi dòng

Giấy ta có bở nhưng lòng vẫn tin

Cụ Hồ dõi mắt đang nhìn

Đồng bào mến Cụ thì xin tiêu dùng.

426. Rừng khuya trăng dọi đầu đình

Pháo ta che lá cũng xanh như rừng

Ngụy trang cơm bữa đã từng

Dù khuya khoắt mấy cũng đừng lãng quên

Trăng về trải sáng trời đêm

Đứng bên ụ pháo càng thêm tự hào

Nghe lời Bác, quyết tâm cao

Bắn tan Dốc Miếu, nện nhào Cồn Tiên

Nỗi hờn chớp lửa trong đêm

Trời cao như thể đẹp thêm mấy lần

Đêm nay trăng dậy đúng tuần

Mà ta, pháo cũng ra quân vào mùa.

427. Rừng Tây Nguyên muôn đời nhớ Bác

Đã khắc tên lên bạc đeo tay

Từng ghi báo mộng điều hay

Sáng ngời hình Bác một ngày trên buôn.

428. Sài Gòn rực đỏ cờ sao

Miền Nam giải phóng càng nhớ công lao Cụ Hồ.

429. Sài Gòn vắng Bác hôm nay

Vẫn như thấy Bác những ngày năm xưa

Bác đi gửi lại ước mơ

Sài Gòn đã cắm ngọn cờ Bác trao.

430. Sáng nay lời Bác vọng về

Rừng xanh nắng dậy bốn bề gió reo.

Con nghe đỉnh núi lưng đèo

Tiếng than hối hả sớm chiều khoan xoay.

Con nghe mong rộng tầng dài

Đoàn quân truy vỉa cất lời hát vang.

Con nghe Tổ quốc cần than

Con nghe lời Bác chứa chan ân tình.

Chúng con đi những lộ trình

Con nghe có Bác bên mình dẫn đưa.

Cho dù sớm rét chiều mưa

Chúng con có Bác say sưa lên đường.

431. Sáng nay nhìn đỉnh Trường Sơn

Một chòm mây trắng nhẹ vờn bay quanh

Chòm mây mát dịu trời hanh

Trông như mái tóc Bác mình gió đưa

Đứng trông lòng những ngẩn ngơ

Mái tóc của Bác bây giờ thấy đây

Bác ơi, khẩu súng cầm tay

Dù muôn gian khổ, chẳng lay được lòng

Lòng con hẹp với muôn lòng

Bắc Nam thống nhất thành công mới về.

432. Sáng nay ngược đỉnh đèo cao

Lắng nghe thơ Bác gọi vào mùa xuân

Đường xa như xích lại gần

Mồ hôi thấm áo mấy lần vẫn vui

Ta lên trồng cột lưng trời

Gọi hoa sứ nở theo lời hoa xuân.

433. Sao vàng năm cánh tung bay

Nông thôn, thành thị đó đây tưng bừng

Lời ca tiếng hát vang lừng

Miền Nam mở hội đón mừng Bác vô

Người về thỏa nỗi ước mơ

Sấm vang đất dậy Bác Hồ muôn năm

Giật mình chợt tỉnh giấc nồng

Tay còn nắm chặt thiếp hồng Bác trao.

434. Sen xa hồ, sen khô hồ cạn

Liễu xa đào, liễu ngả, đào nghiêng

Anh xa em đừng nhớ đừng phiền

Như Cụ Hồ Chủ tịch biết mấy niên xa nhà.

435. Sóng thần thì mặc sóng thần

Có Cha bẻ lái, có dân chống chèo.

436. Sông không khô nhờ nguồn dự trữ nước

Việt Nam mạnh giàu nhờ phước Cụ Hồ cho.

437. Sông Neo uốn khúc lượn quanh

Nước qua Tam Cửu, Di Ninh ngoằn ngoèo

Sông vòng cho nước vòng theo

Nước dâng chậm chạp, nước tiêu ngập ngừng

Nắn sông bắt nước thẳng dòng

Cho buồm thuận nẻo, cho đồng lúa xanh

Thi đua đào khỏe, chuyển nhanh

Làm theo lời Bác, chúng mình vươn lên.

438. Sông Nha Trang cát vàng nước đục

Thảnh thơi con cá đục

Lội dọc lội ngang

Miền Nam giữ dạ đá vàng

Công ơn Đảng Bác chẳng phụ phàng nỡ quên.

Hò ơ giã gạo chày ba

Ta nhịp cho hòa, điệu hát thêm hay

Bác cho ta có đất cày

Ngát đồng hương lúa, vườn say trái lành.

439. Sông sâu còn lấy thước dò

Lòng dân ơn Bác biết đo sao cùng.

440. Sông Thao nhắn với sông Trà

Hai dòng một nước dân ta một nòi.

Lòng ta ơn Bác đời đời

Như rừng không đếm được lá, như trời không đếm được sao.

441. Sông Trường chảy ra sông Tranh

Sông Tranh đổ lại Thu Bồn

Thu Bồn xuôi ra cửa Đợi

Nhớ Bác Hồ, cháu gọi Bác Hồ ơi!

442. Sớm mai ra đứng bờ sông

Ngó về miền Bắc mà lòng ước mơ

Lòng em sáng đợi chiều chờ

Trông cho năm tháng ngày giờ trôi mau

Trông cho thống nhất nước nhà

Để mừng đón tiếp Cha già vào đây

Trông trời trông nước trông mây

Trông cho mau tổng tuyển cử để Mỹ Tây mau chuồn.

443. Ta là con cháu Cụ Hồ

Nghe tin tiếp vận đan bồ đi ngay.

Ta là con cháu Cụ Hồ

Nghe tin tiếp vận lên đường đi ngay.

Ta là con cháu Cụ Hồ

Nghe tin đồng khởi reo hò đi ngay.

444. Ta mau về với Bác Hồ

Kìa hai lăm triệu điểm tô nước nhà

Cướp súng đạn duổi giặc ra

Bao nhiêu vũ khí mang về lập công

Hồ Chủ Tịch rất khoan hồng

Trăm năm tạc dạ chữ đồng đừng phai.

445. Ta tin Đảng, tin Bác Hồ

Ta căm thù giặc từng giờ khôn khuây.

Chiến khu đói khổ kéo dài

Đời còn đói khổ khôn khuây căm thù.

Trăm năm ngột ngạt ngục tù

Cái xiềng khóa cẳng, cái đầu lìa thân.

Đứng lên chịu cực một lần

Còn hơn muối xát, kim châm cả đời.

Hướng về Việt Bắc xa xôi

Rừng thêm một ánh sao trời tỏa xa.

446. Ta về thăm lại Tháp Mười

Sen hồng ta hái viếng Người – Tháng Năm.

Nông dân thiếu đói Người chăm

Để nay đồng lúa liền năm được mùa.

Dân cày có ruộng vẫn lo

Gắng công ta rửa phèn chua đất này.

Mai sau lúa vựa thêm đầy

Cá ngon, gạo trắng dân cày sống no.

Thương dân vụ thuế Người cho

Đi xa còn nhớ dặn dò người sau.

Tình này thắm mãi về lâu

Bao nhiêu hạt gạo- hạt châu trên đời.

Ta về thăm lại Tháp Mười

Sen hồng ta hái viếng Người – Tháng Năm.

Tiếc Người không dịp vào Nam

Để đàn con cháu tay cầm lấy tay

Đồng ta thẳng cánh cò bay

Năm xưa vẫn đợi, ngày này vẫn mong.

Tháng Giêng thảm lúa vàng đồng

Mùa vui càng nhớ Cha già

Đồng xanh con cháu hướng ra Ba Đình.

Dâng lên một tấm lòng thành

Chảy hoài không cạn – kinh xanh Tháp Mười.

447. Tang chung ảm đạm đất trời

Một lời Di chúc, ngàn đời để thương.

Hẹn lòng giải phóng quê hương

Hai miền Tổ Quôc sống chung một nhà.

Đàn con nhớ mãi lời Cha

Quyết tâm thống nhất sơn hà Việt Nam.

Nhà Rồng một sớm về thăm

Bến xưa còn đó dấu chân Bác Hồ.

Mỹ - Ngô là bọn côn đồ

Huyệt này đào sẵn đang chờ chúng bay.

448. Tàu đi qua đảo Cô Tô

Đẹp sao thấy tượng Bác Hồ trên cao.

Nghe rừng dương hát rì rào

Ấm như tiếng Bác hôm nào về đây.

Hình như in giữa trời mây

Ngàn cây mọc thẳng đứng xây quanh người.

Bác ơi trời rộng biển khơi

Con đi mắt Bác vẫn ngời dõi theo.

449. Tầm vông vạt nhọn dao găm

Việt Nam độc lập muôn năm Cụ Hồ.

450. Tết nào Bác gọi trồng cây

Nẻo đường ngang dọc giờ đây xanh rờn

Xanh đường, xanh ruộng, xanh non

Trải cùng đất nước xanh rờn chân mây.

Tết này Bác gọi trồng cây

Xóm thôn trống mở cờ bay rộn đường.

451. Tháng năm nắng trải nơi nơi

Bác là ánh sáng mặt trời mênh mông.

Tỏa ra sưởi ấm non sông

Cỏ cây hoa lá ruộng đồng xanh tươi

Tự hào biết mấy Bác ơi

Bác cho con cả cuộc đời tự do.

452. Tháp Mười còn đó bông sen

Ngàn năm mây trắng còn trên núi Hồng

Niềm tin giục giã tấm lòng

Nguyện cùng đi tận ước mong của Người.

453. Tháp Mười đẹp nhứt bông sen

Nước Nam đẹp nhứt có tên Cụ Hồ.

Tháp Mười đẹp nhất bông sen

Việt Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ.

Tháp Mười đẹp nhất bông sen

Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.

454. Tháp Mười đồng ruộng bao la

Giặc vô Đồng Tháp làm ma không đầu

Gian nan khổ cực mặc dầu

Lòng tin Đảng, Bác càng sâu càng nồng.

455. Tháp Mười sen vẫn nở bông

Bưng biền vẫn một tấm lòng xưa nay

Trông trời, trông đất, trông mây

Trông ngày đón Bác, sum vầy Bắc Nam.

Tháp Mười vẫn nở bông sen

Bưng biền vẫn một tấm lòng xưa nay

Trông trời, trông đất, trông mây

Trông ngày đón Cụ sum vầy Bắc Nam.

Tháp Mười vẫn nở bông sen

Sắt son vẫn một bưng biền xưa nay.

Trông trời, trông đất, trông mây

Trông ngày đón Cụ sum vầy Bắc Nam.

456. Tháng tám một chín bốn lăm (8-1945)

Cách mạng bùng nổ ầm ầm khắp nơi

Cờ sao vàng đỏ rực trời

Đưa đời nô lệ sang đời tự do

Nhờ ơn công đức Bác Hồ

Ơn Đảng Cộng sản cứu cho dân mình.

457. Tháng Tư mùa đã sang hè

Ra quân quyết thắng kịp về tháng Năm.

Mùa sen nở khắp trời Nam

Nhớ đêm xa bến nỗi thầm ai hay.

Sen này thơm mãi vì ai

Ngày sinh dâng Bác nhớ ngày Bác đi.

Mùa sen muôn thưở Bác về

Bến xưa gặp Bác, nắng hè chói chang.

458. Thành Sài Gòn sang ngải tên Bác

Người Sài Gòn vẫn hát lời ca

Bao giờ thống nhất nước nhà

Ta mừng tuổi Bác chan hòa niềm vui

Mùa bông diệp nở đỏ trời

Sài Gòn vui sướng đón Người vô thăm.

459. Thấp thỏm cành đề

Thấp thoáng cành đa

Ngày xưa nghe núi nhiều ma

Chưa vô cửa rú, lòng đà thấy run

Chân tay bủn rủn bùn rùn

Bạt vía xiêu hồn, nên ốm ngẩn ngơ

Ngày nay vâng lệnh Bác Hồ

Dân công “dô hò” bạt núi ta đi

Mấy năm kháng chiến trường kì

Vai gánh càng dẻo, chân đi càng bền.

460. Thằng Tây có trăm máy bay

Không bằng một cái móng tay Cụ Hồ.

Thằng Tây có trăm máy bay

Chẳng bằng một cái móng tay cụ Hồ

Cụ Hồ kêu gọi thi đua

Tòan quốc reo hò giết giặc lập công

Miền Tây phối hợp miền Đông

Khu Ba, khu Bốn, đàng trong, đàng ngoài

Đánh cho giặc Pháp tơi bời

Thống nhất độc lập cuộc đời ấm no.

461. Thấy dừa thì nhớ Bến Tre

Thấy bông lúa đẹp thương về Cần Thơ.

Miền Nam mong nhớ Bác Hồ

Dừa Bến Tre ngọt nước, lúa Cần Thơ trĩu vàng.

462. Theo cụ Ngô gông đeo đầy cổ

Theo Cụ Hồ cực khổ tiêu tan.

463. Thi đua bền bỉ ai ơi

Đừng như nước lũ tràn rồi lại khô.

Có yêu có nhớ Bác Hồ

Đừng ngồi mà đợi Bác vô lâu ngày.

Thi đua cho giỏi cho hay

Rồi ra Việt Bắc cầm tay Bác Hồ

Trong này mình đợi Bác vô

Ngoài kia Bác cũng đang chờ mình ra.

464. Thi đua làm một ra mười

Cụ Hồ có dặn người người thi đua.

465. Thù giặc như núi như non

Lòng dân với Bác keo sơn chẳng dời

Đố ai cắt được làm đôi

Vầng trăng xẻ nửa, mặt trời chia đôi.

466. Thuyền ai xuôi chợ Vực

Thuyền ai ngược Đô Lương

Thuyền anh chở khách chở phường

Thuyền em chỉ chở công lương cho Cụ Hồ.

467. Thuyền xuôi chợ Vực

Thuyền ngược Đô Lương

Thuyền em chở lúa Xuân Trường

Giá khác thị trường, rẻ lắm anh ơi!

Có tiền đong lấy mươi cân

Gửi ra cho Cụ khao quân sĩ mình.

468. Thương cha biết mấy cho vừa

Ơn Cha tới chết cũng chưa đủ đền

Con lùi Cha dắt con lên

Con sai Cha sửa, con nên Cha mừng

Đố ai quét sạch lá rừng

Đố ai khuyên được con đừng theo Cha.

469. Thương con thì gả chồng hiền

Đừng thách gạo tiền mà bán con đi

Cụ Hồ đã dạy những gì?

Sản xuất, tiết kiệm, trường kì đánh Tây.

470. Tiếng cồng vang tận núi cao

Ấm no càng nhớ công lao Cụ Hồ.

Ơn Cụ Hồ dạy cho đoàn kết

Đồng bào ta càng biết thương nhau

Không ai cưỡi cổ đè đầu

Nên rẫy ta tốt, nên trâu ta nhiều.

471. Tiếng Người bay đến quê con

Mừng vui ngô lúa, xanh rờn đồi nương

Tiếng Người dào dạt yêu thương

Niềm tin sức mạnh trên đường con đi

Khó khăn gian khổ sá gì

Dưới cờ của Bác con đi vững vàng

Thóc ra tiền tuyến nặng mang nghĩa tình

Tiền phương chiến thắng càng nhanh

Lời thơ của Bác đã thành chiến công

Lời thơ giục giã muôn lòng

Vang lên khắp núi khắp rừng quê con

Núi rừng nguyện với nước non

Suốt đời theo Bác, lòng son chẳng sờn.

472. Tiễn anh đi một đoạn đường

Tuy rằng có nhớ, có thương, em vẫn cười

Anh đi thì nhớ, anh ơi!

Cụ Hồ bốn chục năm trời gian nan

Anh đi cứu lấy giang san

Dẫu rằng vất vả gian nan, anh chớ nề.

473. Tình thương của Bác mênh mông

Luôn luôn sưởi ấm triệu lòng chúng con

Còn trời còn nước còn non

Ngàn năm công đức Bác còn sáng soi.

474. Toàn dân dốc một lòng thành

Làm tròn nhiệm vụ, đáp tấm tình của Cụ thương dân.

475. Toàn dân chung sức góp tay

Cụ Hồ chỉ lối đánh bay quân thù

476. Tôi là anh lính coi kho

Quanh năm chỉ việc cân, đo, giữ hàng

Nhà kho lại ở trong hàng

Bốn bề núi thẳm, rừng hoang mịt mù

Chẳng tu mà cũng là tu

Tu sao cho vẹn Bác Hồ khuyên răn :

Nếu không lo kiệm, lo cần

Khó mà liêm chính, khó mà vô tư

Một mình hàng tối âm u

Mà lòng dạ vẫn sáng như ban ngày.

477. Tôi là vận tải nhân dân

Tôi đi tải gạo nuôi quân Cụ Hồ.

Quân Cụ Hồ ăn no đánh thắng

Giết giặc nhiều giải phóng quê hương.

Tôi đi ngày nắng đêm sương

Quyết tâm gìn giữ quân lương vẹn toàn.

478. Tội ác Mỹ Diệm tày trời

Kể sao cho hết được

Miền Nam nguyền sau trước

Cùng đoàn kết một lòng

Theo Đảng Bác tiến bước

Giành thống nhất non sông

Dù cho gian khổ hy sinh

Thù quân Mỹ Diệm đấu tranh đến cùng.

479. Trăm năm bia đá thì mòn

Ngàn năm ơn Bác vẫn còn ghi sâu.

480. Trăm khe đổ lại một dòng

Bà con Kinh Thổ như sông một nguồn

Rừng xanh lắm cội lắm cơn

Bản nghèo biết lắm công ơn Bác Hồ.

481. Trăm người chỉ một tấm lòng

Theo lời Bác dạy, cấy trồng say sưa

Chăm cho đồng lúa rãnh dưa

Xanh tốt bốn mùa cho Bác Hồ khen.

482. Trăm năm dầu lỗi hẹn hò

Giúp anh Vệ quốc, con đò vẫn đưa

Đưa anh bộ đội Cụ Hồ

Vô trong Đồng Tháp đào mồ chôn Tây.

483. Trăm năm trăm tuổi vì đời

Người còn sống mãi cho người hôm nay

Gian nan đường hãy còn dài

Vẫn nuôi lý tưởng từng giây, từng giờ.

Hiếu, trung, con cháu Bác Hồ

Nguyện đưa tới đích ngọn cờ Bác trao.

Đêm nay tỉnh giấc đêm nào

Mơ màng nghe tiếng còi tàu bến xưa.

Một bài học lớn Người cho :

Quyết đi thì tới, sóng to sá gì.

484. Trăng kia trăng chớ vội vàng

Chờ ta tát nước đừng tàn trăng ơi.

Nước này nước nhé đừng vơi

Để ta tưới ruộng kẻo trời nắng to.

Bác Hồ đem lại ấm no,

Ta vui với nước, ta hò với trăng.

Trăng kia trăng chớ vội vàng

Cho ta tát nước, đừng tàn, trăng ơi!

Nước này, nước nhé, đừng vơi

Để ta tưới ruộng, kẻo trời nắng to

Bác Hồ đem lại ấm no

Ta vui với nước, ta hò với trăng.

485. Trăng trên trời khi tròn khi khuyết

Nước dưới sông tiết đục tiết trong

Miền Nam muôn thuở một lòng

Nhớ ơn cách mạng nhớ công Bác Hồ .

Trăng trên trời khi tròn khi khuyết

Nước dưới sông tiết đục nước trong

Miền Nam muôn thuở một lòng

Nhớ ơn Cách Mạng, nhớ ơn Cụ Hồ.

Trăng trên trời khi tròn khi khuyết

Nước dưới sông tiết đục tiết trong

Miền Nam muôn thuở một lòng

Ngày đêm luôn nhớ công ơn Bác Hồ.

486. Trăng trên trời khi tròn khi khuyết

Nước dưới sông có khúc cạn khúc sâu

Ai ơi, ra miền Bắc nhắn với Cụ Hồ

Lòng miền Nam vẫn tròn vành vạnh như chiếc nón bài thơ đội đầu.

487. Trăng trong Sài Gòn chiếu lại

Gió ngoài Hà Nội thổi vô

Ai ra miền Bắc thưa với Bác Hồ

Dù có lâm nguy gian khổ cũng đấu tranh cho Nam Bộ với Thủ đô nối liền.

488. Trắng đen đã rõ đôi đường

Lòng dân càng nhớ, càng thương Bác Hồ.

Dẫu rằng biển cạn, non khô

Nghìn năm công đức Cụ Hồ còn ghi.

Trắng đen đã rõ đôi đường

Lòng dân càng nhớ càng thương Bác Hồ.

Dẫu rằng biển cạn sông khô,

Nghìn năm công đức Cụ Hồ còn ghi.

489. Trâu bò đừng cột ngoài sân

Bác vô Bác thấy Bác rằng “ở dơ”.

Lúa thóc thì vựa đầy bồ

Bác vô nhìn được trúng mùa Bác vui.

Cụ Hồ của chúng con ơi

Bao giờ Cụ mới thảnh thơi bằng người

Chúng con ở bốn phương trời

Quay về hướng Cụ dâng lời chúc mong

Dài lâu như núi như sông

Cụ Hồ sống mãi trong lòng chúng con.

490. Treo ảnh tổng Ngô lên tường lòng căm hờn nóng bỏng

Kẻ khẩu hiệu tố cộng dạ nát lòng đau

Thiệt lòng em đây không phụ khó tham giàu

Ơn Cụ Hồ nghĩa Đảng gắn bó trước sau một niềm .

491. Trèo truông mới biết truông cao

Việt Nam kháng chiến mới biết công lao Cụ Hồ.

492. Trên đường ra trận hôm nay

Ba lô, cây súng xanh dày ngụy trang

Hành quân tới phía chiến trường

Vẫn đi dưới bóng những hàng cây xanh

Bác trồng cây thuở cháu sinh

Bây giờ tỏa bóng cháu hành quân xa.

493. Trên đường ra trận hôm nay

Chúng con đi dưới hàng cây Bác trồng

Con đường dài suốt non sông

Hàng cây Bác tỏa xanh vòng ngụy trang

Những khi lội suối băng ngàn

Vẫn như có Bác dẫn đàn con đi.

494. Trên trời có ông sao Rua

Việt Nam ta có Cụ Hồ em ơi.

Ánh sao Rua sáng ngời một góc

Gương Cụ Hồ tỏa khắp năm châu.

Trên trời có ông sao rua

Việt Nam ta có Bác Hồ em ơi

Ánh sao rua sáng ngời một góc

Gương cụ Hồ tỏa khắp năm châu

495. Trên vách treo ảnh Bác Hồ

Trông ra trứơc mặt nhấp nhô chiến hào

Ngoài sân súng thép vươn cao

Gió đồng bốn hướng khi vào khi ra

Từ hôm bắn cháy “con ma”

Tham quan học tập đoàn ra đoàn vào.

496. Trông Cha biết mấy năm trời

Cha về là cả cuộc đời nở hoa

Cha về trời đất sáng lòa

Cha về non nước vui ca đón mừng

Cha về là hết gió giông

Cha về trăm họ sống trong hòa bình.

497. Trồng cây bóng mát cho đời

Cho đất thêm đẹp, cho người thêm xinh

Bác đi để lại tâm tình

Thương dân thương nước đinh ninh trọn đời

Trồng cây cho đẹp ý Người

Nghìn năm bóng mát ru lời nước non.

Trường Sơn cao ngất mấy tầng

Công ơn của Bác mấy lần cao hơn

Mênh mông như Thái-bình-dương

Sánh sao cho bằng với công ơn Bác Hồ

Bác đi để lại cơ đồ

Quí hơn châu báu chia cho muôn đời

Ngàn năm tên tuổi của Người

Quyện cùng cơm áo đất trời núi sông.

498. Trông lên trời thấy trời cao

Trông về Bác lòng nao nao nhớ Người

Bác như một ánh sao trời

Soi đường ra trận sáng ngời đêm nay

Hứa cùng Bác, súng chắc tay

Càng thương tiếc Bác, càng say diệt thù.

499. Trơ trơ như cụm núi Sầm

Thản nhiên như mặt nước đầm Ô Loan.

Cho dù giặc Mỹ gian ngoan

Cũng không chia được lòng dân Cụ Hồ

500. Trời cao biển rộng mênh mênh

Bác Hồ trọn nghĩa trọn tình với nước với non.

Trời cao biển rộng minh minh

Bác Hồ trọn nghĩa, trọn tình với nước, với dân .

501. Trời cao đất rộng

Miền Nam vọng lời nguyền

Đất trời còn đó nguyện giữ tuyền thủy chung.

502. Trời cao hơn trán

Sao sáng hơn đèn

Kèn kêu hơn quyển

Biển rộng hơn sông

Tình thương của Bác mênh mông biển trời.

503. Trời còn khi nắng khi mưa

Miền Nam thương nhớ Bác Hồ không nguôi.

Dù cho vật đổi sao dời

Bác Hồ như ánh mặt trời mùa xuân

Đất Dương Hòa còn vang câu ca chiến thắng

Núi Hòa Mỹ còn nhớ khi gánh đạn khiêng bom

Ơn Cụ Hồ gắn bó tám chín năm tròn

Nay không vì gian nguy mà lùi bước

Sóng dập dồn mà nghỉ chân.

Trời còn khi nắng khi mưa

Miền Nam thương nhớ Bác Hồ không nguôi.

Dù cho vật đổi sao dời

Bác Hồ như ánh mặt trời mùa xuân

Hôm nay mười chín tháng năm

Vung tay hô lớn: Muôn năm Bác Hồ!

Trời còn khi nắng khi mưa

Miền Nam thương nhớ Bác Hồ không nguôi

Dù cho vật đổi sao dời

Bác Hồ như ánh mặt trời mùa xuân

Hôm nay mười chín tháng năm

Dang tay hô lớn : Muôn năm Bác Hồ.

504. Từ khi bông lúa về nhà

Phơi khô, quạt sạch, chia ra hai phần

Một phần giấu để nhà ăn

Một phần góp thuế nuôi quân Cụ Hồ

Thằng Tây đừng có vẩn vơ

Hết lối lần mò cướp thóc nhà tao.

505. Từ ngày có lệnh Cụ Hồ

Đất hoang thành ruộng, bãi bờ đầu xanh.

Từ ngày ta có Cụ Hồ

Đất hoang thành ruộng, bãi bờ nên xanh.

506. Từ ngày đất nước về ta

Bác Hồ cho chữ, đó là chữ nhân

Chữ nhân ta hiểu cho phân

Con người độc lập làm dân Cụ Hồ.

Thương dân lòng Cụ vô bờ

Đó là nhân nghĩa tôn thờ nước non.

507. Từ ngày giải phóng quê tôi

Mít tinh lại họp rợp trời cờ bay

Trẻ em đi học ban ngày

Nhân dân đi cấy đi cầy mừng vui.

Thuyền bè xuôi ngược ngược xuôi,

Có chè Phú Thọ, có sồi Bắc Ninh.

Cây đa bóng mát đầu đình

Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng.

Từ nay mặc sức vun trồng

Nước giàu dân mạnh vợ chồng ấm no.

Hòa bình độc lập tự do

Ngàn năm ơn đức Cụ Hồ không quên.

Từ ngày giải phóng quê tôi

Mít tinh lại họp rợp trời cờ bay

Trẻ em đi học đêm ngày

Nhân dân đi cấy đi cầy mừng vui.

Thuyền bè xuôi ngược ngược xuôi,

Có chè Phú Thọ, có sồi Bắc Ninh.

Cây đa bóng mát đầu đình

Bờ tre trong xóm, lúa xanh ngoài đồng.

Từ nay mặc sức vun trồng

Nước giàu dân mạnh vợ chồng ấm no.

Hòa bình độc lập tự do

Ngàn năm ơn đức Cụ Hồ không quên.

508. Từ trong bùn, nước – hoa sen

Như bàn tay nhỏ vươn lên bầu trời

Mỗi hoa, một đốm lửa tươi

Nghìn đèn giăng khắp sáng ngời quê ta

Ngọt ngào hương tỏa gần xa

Hoa hương thơm nhất là hoa Bác Hồ.

509. Tự hào thành phố anh hùng

Mùa xuân chiến dịch vang lừng khắp nơi.

Đẹp thay là tấm lòng người

Khó khăn gặp phải không lùi tấc gang.

Cho nhau việc nghĩa sẵn sàng

Ích dân, lợi nước hàng hàng xông ra.

Hăng say trẻ cũng như già

Vang vang khắp ngỏ bài ca quật cường.

Bác Hồ gương lớn: tình thương

Ấm từ làng mạc, phố phường ấm ra!

510. U Minh thơm ngát hương tràm

Lòng dân ơn Bác muôn vàn Bác ơi.

511. Uống nước ta nhớ đến nguồn

Cơm no áo ấm nhớ ơn Cụ Hồ

Ơn Bác Hồ sâu hơn Nam Hải

Công Bác Hồ dài hơn dãi Trương Sơn

Uống nước ta nhớ đến nguồn

Cơm no áo ấm nhớ ơn Cụ Hồ

Ơn Bác Hồ sâu hơn Nam Hải

Ơn Bác Hồ hơn dãy Trường Sơn

Nam Hải sâu ta còn đo được

Trường Sơn dài ta vượt cũng qua

Công ơn của Bác bao la

Dân ta kể đến bao giờ cho xong .

Chèo lái tây đông vẫn trông về chòm sao Bánh- lái

Bắc Nam xa ngải đâu cũng ơn ngãi Cụ Hồ .

Mưa lành nơi mát nơi khô

Ơn đức Cụ Hồ cả nước mát chung.

Uống nước là nhớ đến nguồn

Cơm no áo ấm nhớ ơn Bác Hồ.

Ơn Bác Hồ sâu hơn Nam Hải

Công Bác Hồ bằng dải Trường Sơn.

Nam Hải sâu ta đo cũng được

Trường Sơn dài ta vượt cũng qua.

Công ơn Bác Hồ bao la

Nhân dân ta kể đến bao giờ cho xong.

Đường lên chiến thắng vinh quang

Toàn dân theo Bác vượt ngàn khó khăn.

512. Ước gì đời sống thêm năm

Ước gì mắt sáng để trông Bác Hồ

Đêm khuya chợp mắt tôi mơ

Lúa vàng thơm mát, Cụ Hồ đứng bên.

513. << Văn kỳ thinh bất kiến kì hình>>

Tuy chưa gặp Bác, lòng mình đã thương.

514. Việt Nam chỉ một cơ đồ

Miền Nam treo ảnh Bác Hồ trong tim.

515. Việt nam có Hồ Chí Minh

Ai ơi Bác đã hy sinh trọn đời.

Công đức ví tận biển trời

Năm châu bốn biển ngàn đời lưu danh.

516. Việt Nam có Bác Hồ

Như ruộng khô có nước

Miền Bắc đi trước

Miền Nam đi sau

Ngày nay gian khổ thương đau

Ngày mai rực rỡ một màu cờ son.

Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn

Miền Nam mãi mãi sắt son một lòng.

Việt Nam có Bác Hồ

Như ruộng khô có nước

Miền Bắc đi trước

Miền Nam theo sau

Ngày nay gian khổ thương đau

Ngày mai rực rỡ một màu cờ sao.

517. Vĩnh Linh ta làm theo lời Bác

Mặc cho máy bay đại bác chúng bắn suốt ngày

Cùng nhau chiến đấu hăng say

Thi đua sản xuất, đôi tay vững vàng.

518. Vú sữa Cần Thơ vỏ hồng như cà tím

Bắc Nam xa cách đã chín năm ròng

Bao giờ thống nhất non sông

Cần Thơ gởi vú sữa kính dâng Bác Hồ.

Vú sữa Cần Thơ vỏ màu cà tím

Bắc Nam xa nhau đã chín năm ròng.

Bao giờ thống nhất non sông

Cần Thơ gửi vú sữa kính dâng Bác Hồ.

519. Vụ mùa thắng lợi đến nơi

Dân thời sung túc, quân thời đủ no

Quyết là đánh giặc thắng to

Quân dân phấn khởi, Cụ Hồ cùng vui.

520. Vùng Tây Nguyên rừng thiêng nước độc

Tám chín năm ở với Bác Hồ lúa mọc đầy nương

Mấy năm ở với “quốc gia” khổ sở trăm đường

Nay bắt phu bắt lính

Mai nói gạt nói lường hại dân.

521. Xa xa pháo nổ giao thừa

Nước non nghe tiếng Bác Hồ mừng xuân

Giữa rừng mưa lạnh hành quân

Đọc câu thơ Bác ấm ran cả người.

Ca dao về Bác của dân tộc ít người

1. Rẫy ngô tốt nhờ đất

Trai làng đẹp nhờ vợ

Rừng nơ-ngo xanh nhờ chim

Mật ong ngọt nhờ ong

Hoa bíp-bìm thơm nhờ gió

Đắp chăn suôi nhờ mẹ

Thả diều cao nhờ cha

Mỹ Diệm bắt làng ta

Thành cái lưng con ngựa

Thành cái mũi con trâu

Cụ Hồ muốn làng ta

Thành cái cánh con chim

Thành cái lưng con sáo

Lưng con ngựa bị người ta cưỡi

Cánh con chim lượn trên trời cao

Con gái đẹp nhờ sữa mẹ nhờ cơm cha

Dân Tây nguyên sống nên người

Nhờ Bok Hồ, nhờ Đảng

Bok Hồ là ngôi sao sáng

Trên đầu dân tộc Tây nguyên

Đảng là mây đẹp Chò-rò

Bay trên trời cao nhất.

2. Hỡi chim pôn-mơ-ngâm màu xinh đẹp lắm

Nhưng đẹp sao bằng mắt Bác Hồ

Mắt Bác Hồ nhìn sáng bốn ông sao

Dắt dẫn nhân dân khắp làng đánh Pháp .

3. Người Kinh, người Ba-na

Người Ê-đê, Mơ-nông Đắc Lắc

Có cụ Hồ

Mắt sáng bốn ông sao .

4. Cụ Hồ cho cái đầu nở hoa sung

Cái đầu ấy bày dân làng trồng khoai

Thì củ khoai mau lớn

Bày phụ nữ nuôi gà

Thì gà lợn mau to

Cái đầu ấy bày dân làng cầm giáo đánh Tây

Thì thằng Tây chạy trốn .

5. Người Tây Nguyên

Đã giữ rừng

Đốn cây to phải ngã

Tát suối sâu phải cạn

Nhổ cỏ không còn rễ dưới chân

Người Tây Nguyên

Đã giữ rừng

Phải làm cho hổ kêu sau núi

Lợn trong chuồng không giật mình

Sấu trườn dưới nước

Người đang tắm không chạy lên bờ

Diều hâu lượn trên trời

Gà không sợ mất con

Người Tây Nguyên

Đã giữ lấy rừng

Không sợ bầy chó sói

Chẳng sợ lũ voi đàn

Không ghê con hổ ác

6. Hổ muốn phá rừng già

Lùng rừng mắc mang cung

Lên đồi gặp tên thuốc

Xuống nước trúng giáo mác

Vào buôn gặp dân làng

Người Ka-dong không theo con cú vọ

Người M’nông không theo con diều hâu

Chúng ta theo hoa đỏ

Chúng ta theo Cụ Hồ

Người Tây nguyên theo ông sao miền Bắc

Sao miền Bắc sáng trên núi Tây nguyên .

7. Bác Hồ, Bác Hồ ơi !

Người Ka-dong nhớ lời Bác dạy

Cố bắt con vắt cho sạch

Cố đuổi con cú cho bay

Mong Bác về rừng núi Tây nguyên

Để dân làng còn mang chiêng cồng đi đón .

Tên Bác Hồ đẹp hơn ngọc, hơn vàng 8.

Mắt Bác Hồ sáng như chim pơ-tú-sing-klam

Trán Bác như Chư-pông che mát

Người mù Gia-rai cũng thấy hình của Bác

Người điếc Gia-rai cũng nghe rõ tiếng Bác

Dù ai nhà rộng bếp nhiều

Dù có chiêng tơ-na-khơ-nong treo trật nhà

Cũng không quí bằng nhà có Bác Hồ .

9. Anh ơi ! anh đi xa lắc

Hơn mấy nghìn cái núi

Đi mấy tháng không hết

Em ở lại giữ rừng cây

Để anh về dựng cột

Em giữ rừng nứa

Để anh về làm cây sáo ru con

Anh đi với Bác Hồ

Em vẫn đợi anh về.

10. Vùng Tây nguyên rừng thiêng nước độc

Tám chín năm ở với Bác Hồ lúa mọc đầy nương

Ba năm ở với quốc gia khổ sở trăm đường

Nay bắt phu, bắt lính, mai nói gạt nói lường hại dân .

11. Hỡi cái rừng cái nước

Hỡi cái sóc, cái buôn

Hãy thức mắt mà xem

Đời dân mình đổi mới

Nhờ Đảng, Bác dẫn đường

Người M’nông, Xê-điêng

Như rừng đêm có đuốc

Hỡi cái rừng, cái nước

Hỡi cái sóc, cái buôn…

12. Người cứu dân tộc mình

Cho suối đánh đàn, cho hoa gơ-ma nở

Cho nương đầy lúa, rẫy đầy khoai

Cho núi sông đầy cá nước hoa ngàn

Cho con gái cườm đeo quanh cổ

Là Bác Hồ Chí Minh

13. Con cá nen dưới sông Hinh còn lội

Con chim pôn-mơ-ngâm trên núi Tía còn bay

Người Ê-đê chưa gặp mặt Bác Hồ

Mà trong bụng thương hơn cha, hơn mẹ .

14. Con chim Prắc kêu to

Con chim Siên kêu nhỏ

Nước nhiều nguồn đã họp thành sông

Người khác nhau đã thành một chi

Ở mỗi ngã nhưng cũng một Bok Hồ

Nước chảy mãi về sông

15. Hỡi hoa ê-pang soi mình bến nước

Mày đẹp nhất rừng, mày đẹp nhất buôn

Nhưng bụng Bác Hồ còn đẹp hơn nhiều .

16. Bụng Bác Hồ đẹp hơn hoa ê-pang

Bác Hồ dạy khắp nơi đoàn kết

Bụng Bác Hồ còn đẹp quý hơn chiêng

Bác Hồ bảo là cơm no áo tốt.

Chim pôn-nơ-ngân, cánh hoa ê-pang

Không sao đẹp bằng mắt, bằng bụng Bác Hồ

17. Anh giận vì anh không có lửa

Anh giận vì anh không có sức để phá đồn

Cứu em

Nhưng bộ đội Bok Hồ về

Có người Kinh, người Thượng

Anh dắt họ đi

Qua rừng

Qua suối

Leo núi

Đến đồn

Ơ, em ơi

Ra thôi!

Bộ đội Bok Hồ về rồi

Giặc đóng cửa đồn

Không cho anh vào

Giặc đóng cửa đồn

Không cho em ra

Anh ướt nước mắt

Vì thương em

Vì giận Pháp

Đồn cháy rồi!

Đồn cháy rồi!

Ô! Cái lửa

Nó cháy từ trong bụng súng bộ độ ra

Làm cháy cái đồn Pháp rồi!

18. Tiếng chim kô-nơ-lon thanh thanh hay nhất

Cũng không quý bằng miệng Bác Hồ.

19. Cụ Hồ cái bụng tốt thay

Đưa đến chòm này người cán bộ giỏi giang

Chòm tôi thắng tám lượt càn

Dụ được lính về hàng, tránh được tàu bay

Thêm thân người Xá người Tày

Trai gái nên tài, làm cán bộ như anh

Cụ Hồ đưa giấy đòi anh

Chòm xóm phải đành trả lại đứa con

Người Mường nay đã giỏi hơn

Tranh đấu vững vàng giữ địch hậu Sơn La

Anh về thưa lại cùng Cha:

Người Mường sông Đà đang thắng lợi đi lên.

20. Dân làng nghe hai cụ già ngồi nói:

“Ơ….không phải ai đánh Pha-lang đuổi Nhật đâu

Chính là Việt Minh, là cộng sản đó thôi

Họ là người Kinh, người Bana

Người Êđê, Mơ-nông, Đắc-lắc

Thêm có Cụ Hồ

Mắt sáng, bốn ông sao…”

“Người cộng sản cũng như ta

Có mẹ cha, vợ con, nương rẫy

Nhưng họ được Cụ Hồ cho cái đầu nở hoa sung

Cái đầu ấy bày cho dân làng trồng khoai

Thì củ khoai mau lớn

Bày phụ nữ nuôi gà lợn

Thì gà lợn mau to

Cái đầu ấy chỉ dân làng cầm giáo đánh Tây

Là thằng Tây chạy trốn”.

21. Đất nước ta có Cụ Hồ

Cụ Hồ thương dân đất mường ta, sông bể không bằng

Qua nghìn hoạn nạn, mới được ngày nay.

Con trai đi cứu đất đầy hết ngọn sông cái

Con gái đi cứu mường đầy hết đồi núi …

Đường dốc

Làng cheo leo

Người cán bộ Hơ-rê

Mang gùi cơm, mắm muối

Đi theo đường Bok Hồ xuống trang châu.

Bok Hồ kêu đi học

Vợ mong, con nhớ

Hay về

Nương rẫy cười

Người vui mừng nhộn nhịp

Rừng lại ca hát

Cho cây hoa “hông” ra lá

Cho cây “ma ía” nở hoa.

Nước nhiều nguồn nhưng chỉ có một sông

Người khác nhau nhưng cùng một cõi

Cùng một kẻ thù

Chúng róc thịt xương ta

Năm người Hơ-rê đem đó

Treo cờ Đảng giữa nhà

Họp lại nhau thành một

Theo lời dạy Bok Hồ

Lấy tấm lòng mến thương

Kết tình đồng chí.

22. Đốt lửa rước ảnh Bác Hồ

Họ nói:

“Đó, Ma Trang Lơng về đấy!”

Mãi về sau dân Mơ-Nông mới hiểu

Người cứu dân tộc mình

Đánh đuổi bọn Tây trắng

Cho suối đánh đàn, hoa gơ-nu nở

Cho nương đầy lúa, rẫy đầy khoai

Cho núi sông đầy cá nước hoa ngàn

Cho con gái cườm đeo quanh cổ

Là Bác Hồ Chí Minh.

23. Ngày xưa người Tây Nguyên khổ quá!

Đêm nằm cứ mơ thấy hoa sung

Hoa sung nở, người Tây Nguyên vẫn cực

….

Khổ lắm!

Sống mãi thế này làm sao được?

“Mày muốn ta vùng dậy phải không chim?”

Nhưng làm sao có cánh?

24. Người Ê-đê chưa gặp mặt Bác Hồ

Mà trong bụng thương hơn cha hơn mẹ

Người Gia-rai chưa được ra miền Bắc

Mà trong bụng thương hơn mẹ hơn cha.

Người Ka-dong không theo con cú vọ

Người M’Nông không theo con diều hâu

Chúng ta theo hoa đỏ

Chúng ta theo Cụ Hồ.

Người Tây Nguyên theo ông sao miền Bắc

Sao miền Bắc sáng trên núi Tây Nguyên.

25. Vào các nhà bé nhất ở cuối bản hỏi thăm

Hỏi cách nuôi gà, hỏi cách làm nương

Như một người đi thăm pí-nọong

Quần xắn cao, chân đi đôi dép

Chiếc áo chàm vá hai miến ở vai

Trán cao lắm, mặt sáng, râu thư, hơi dài

Khi nói chuyện hay ví câu hát lượn

Khi nào Bác lại đến?

Thân như người nhà, mong Bác chớ ốm dân lo.

26. Bác Hồ, Bác Hồ ơi!

Người ka-dong nhớ lời Bác dạy

Cố bắt con vắt cho sạch

Cố đuổi con cú cho bay

Mong Bác về rừng núi Tây Nguyên

Để dân làng mang chiêng còng đi đón.

27. Hai vợ chồng lên rẫy

Chồng cầm ná bắn tên

Mũi tên bay vun vút

Không biết châm mây nào

Anh quay, cười bảo vợ:

“Chẳng cao nào cao hơn!”

Vợ nghiêng mình hỏi chồng:

“Thế Bác Hồ và Đảng

Bay trên đầu chúng ta

Cho dân lành lúa khoai

Cho dân nghèo rựa, muối

Cho rừng hát, suối đàn

Ơn nào cao hơn được?”

Phụ lục 2: THỐNG KÊ CÁC SỐ LIỆU VỀ THỂ THƠ

Ở phụ lục này, người viết liệt kê 4 bảng số liệu. Thứ nhất là bảng thống kê tần số xuất hiện các

thể thơ trong ca dao về Bác. Thứ hai là bảng thống kê tỉ lệ các dòng trong bài lục bát của mảng

ca dao về Bác. Thứ ba là bảng thống kê tỉ lệ các dòng của thể lục bát trong ca dao cổ truyền. Và

thứ tư là bảng so sánh, đối chiếu tỉ lệ các dòng giữa ca dao về Bác và ca dao hiện đại.

Thống kê tỉ lệ các thể thơ trong ca dao về Bác

STT Các thể thơ Số lần xuất hiện Tỉ lệ

Chính thể 386 74.1% 1 Lục bát Biến thể 41 7.9%

2 Song thất lục Chính thể 14 2.7%

bát Biến thể 21 4.0 %

Hỗn hợp 49 9.4% 3

Tự do 10 1.9% 4

TC 521 100%

Bảng thống kê tỉ lệ các dòng thơ trong ca dao về Bác

Số bài Số lượng Tỉ lệ

Hai dòng 79 20.5%

Bốn dòng 113 29.3 %

Sáu dòng 76 19.7 %

Tám dòng 40 10.3 %

Mười dòng 35 9.1 %

Mười hai dòng trở lên 43 11.1 %

TC 386 100%

Thống kê tỉ lệ các dòng thơ của thể lục bát trong ca dao cổ truyền

Số lượng Tỉ lệ Số bài

620 63 % Hai dòng

242 24 % Bống dòng

70 7 % Sáu dòng

21 2 % Tám dòng

12 1 % Mười dòng

~ 1% Mười hai dòng trở lên 8

100 % Tổng cộng 973

So sánh tỉ lệ dòng thơ trong ca dao về Bác và ca dao hiện đại

Ca dao về Bác Ca dao hiện đại Số bài Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

Hai dòng 79 20.5 % 169 27.2 %

Bốn dòng 113 29.3 % 206 33.2 %

Sáu dòng 76 19.7 % 115 18.5 %

Tám dòng 40 10.3 % 70 11.3 %

Mười dòng 35 9.1 % 20 3.2 %

Mười hai 43 11.1 % 41 6.6 %

dòng trở lên

Tổng cộng 386 100% 621 100 %

Phụ lục 3: THỐNG KÊ SỐ LIỆU VỀ NGÔN NGỮ

Ở phụ lục này, chúng tôi cũng thống kê một số từ ngữ được lặp lại nhiều lần trong ca dao

về Bác và bảng thống kê một số từ ngữ địa phương được sử dụng trong mảng ca dao này :

Bảng thống kê tần số xuất hiện các từ ngữ trùng lặp

Số thứ tự Từ được lặp lại Số lần xuất hiện

Ơn, nhớ ơn, công ơn, công lao 115 1

thương, yêu thương, nhớ thương 42 2

Mong, chờ, trông 33 3

Phụ lục 4: THỐNG KÊ SỐ LIỆU VỀ HÌNH ẢNH

Phụ lục 4, chúng tôi có 3 bảng thống kê về hình ảnh. Đó là bảng thống kê về hình ảnh tự

nhiên, hình ảnh thực vật và hình ảnh nhân tạo. Các hình ảnh này được sắp xếp theo thứ tự giảm

dần

Bảng thống kê hình ảnh tự nhiên

Tần số xuất hiện STT Hình ảnh

1 Núi/non 19

2 Biển Sông 11

3 Ánh dương/mặt trời 9

4 Trời 9

5 Ánh sao / vì sao 5

6 Nước 4

7 Sông 3

8 Đất 2

TC 8 62

Bảng thống kê hình ảnh thực vật

STT Hình ảnh Tần số xuất hiện

1 Sen 5

2 Vú sữa 1

3 Quế 1

4 Trầm 1

5 Phi lao 1

6 Bạch đàn 1

7 Đa 1

8 Dừa 1

TC 8 12

Bảng thống kê hình ảnh nhân tạo

STT Hình ảnh Tần số xuất hiện

1 Dép 4

2 Kiếng/gương 2

3 Đò 2

4 Chuông 2

5 Cột trụ đồng 1

6 Chày 1

7 Cối 1

8 Đuốc 1

TC 8 14