Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
lượt xem 13
download
Đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày các nội dung: Nam Cao và Nguyên Hồng trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945; cái đói và miếng ăn – nguồn cảm hứng lớn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng; những đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ NGUYỄN THỊ HỒNG CÁI ĐÓI VÀ MIẾNG ĂN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ NGUYÊN HỒNG TRƯỚC NĂM 1945 LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC HÀ NỘI – 2013
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ NGUYỄN THỊ HỒNG CÁI ĐÓI VÀ MIẾNG ĂN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ NGUYÊN HỒNG TRƯỚC NĂM 1945 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lưu Khánh Thơ HÀ NỘI - 2013
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. ................................................................................ 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. .................................................................... 4 4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................. 5 PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................. CHƢƠNG 1: NAM CAO VÀ NGUYÊN HỒNG TRONG DÒNG VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930 - 1945 ................................................................. 7 1.1. Bức tranh xã hội Việt Nam trƣớc năm 1945.................................................. 7 1.2. Nam Cao và số phận những ngƣời cùng khổ ................................................. 9 1.2.1. Nam Cao – từ cuộc đời đến tác phẩm ........................................................... 9 1.2.2. Những mảnh đời đói nghèo, tủi nhục......................................................... 11 1.2.2.1. Hình ảnh những đứa trẻ thơ vô tội. ........................................................... 12 1.2.2.2. Hình ảnh những người phụ nữ bất hạnh.................................................... 14 1.2.2.3. Số phận khổ đau của những bần cố nông .................................................. 17 1.2.2.4. Vòng đời luẩn quẩn của người trí thức...................................................... 20 1.3. Nguyên Hồng – nhà văn gắn bó máu thịt với nhân dân lao động nghèo .............. 23 1.3.1. Những ngày thơ ấu không bình yên của Nguyên Hồng ............................. 23 1.3.2. Nhà văn của những người cùng khổ .......................................................... 25 1.3.2.1. Những đứa trẻ nghèo không có tuổi thơ .................................................... 25 1.3.2.2. Những người phụ nữ khổ đau .................................................................... 27 1.3.2.3. Số phận những kiếp người dưới đáy xã hội ............................................... 29 CHƢƠNG 2: CÁI ĐÓI VÀ MIẾNG ĂN – CHỦ ĐỀ CHÍNH TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ NGUYÊN HỒNG ............................... 31 2.1. Tâm lý con ngƣời khi bị cái đói giày vò. ...................................................... 31 2.2. Cái đói trong truyện ngắn Nam Cao ............................................................ 34 2.2.1. Sự ám ảnh về cái đói và miếng ăn của người nông dân ............................. 34 2.2.2. Cái đói và miếng ăn - thử thách ghê gớm của người trí thức ..................... 47 HVCH: Nguyễn Thị Hồng 4
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 2.2.3. Tha hóa nhân cách - vấn đề nhức nhối trong sáng tác Nam Cao .............. 56 2.3. Cái đói trong trang văn của Nguyên Hồng .................................................. 64 2.3.1. Những nạn nhân khốn khổ của cái đói ...................................................... 64 2.3.2. Xu hướng cưỡng lại sự tha hóa .................................................................. 70 2.4. Khát vọng nhân văn của Nam Cao và Nguyên Hồng qua vấn đề cái đói ........... 75 2.4.1. Nguyên nhân đói khát................................................................................. 75 2.4.2. Khát vọng về một cuộc sống “no cơm” ....................................................... 79 CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN .............. 82 3.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện ...................................................... 82 3.1.1. Tình huống bi hài kịch nội tâm .................................................................. 82 3.1.2. Tình huống đói khát cùng đường, miếng ăn là miếng nhục ...................... 84 3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật .................................................................................... 86 3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại gần với tiếng nói quần chúng ..................................... 86 3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm sâu lắng ......................................................... 92 3.3. Giọng điệu ..................................................................................................... 97 3.3.1. Giọng triết lý ............................................................................................... 97 3.3.2. Giọng cảm thương thống thiết .................................................................... 98 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 101 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 109 HVCH: Nguyễn Thị Hồng 5
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cái đói và miếng ăn từ lâu đã trở thành một nỗi ám ảnh lớn trong tiềm thức của nhân dân ta qua nhiều thế kỉ. Sinh thời Bác Hồ của chúng ta sau khi giành được độc lập cho nước nhà, nỗi lo cho dân đầu tiên là diệt giặc đói và Người chỉ có: “một ham muốn, ham muốn tột bậc là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành…”. Vậy sự khốn khổ của nhân dân ta bắt đầu từ đâu? Vì đâu mà dải đất hình chữ S này phải chịu nhiều đau thương đến vậy? Thiên tai, giặc giã triền miên, chế độ phong kiến lạc hậu và trì trệ kéo dài cùng với nó là ách thực dân vô cùng tàn bạo… Cái đói và cái rét cũng vì thế trở thành nỗi lo thường trực. Có thể nói cái đói trở thành vấn nạn khủng khiếp mang tính truyền kiếp chi phối mọi mặt đời sống con người. Do sức ám ảnh quá lớn mà cái đói và miếng ăn đã đi vào văn chương thật tự nhiên. Mặc dù không hẹn trước nhưng những tư tưởng lớn thường gặp nhau tại một điểm, điều đó rất đúng với trường hợp hai nhà văn hiện thực suất sắc Nam Cao và Nguyên Hồng. Điều lí thú ở hai nhà văn này đó là có những điểm tương đồng trong con người nghệ sĩ, cũng như trong tác phẩm. Sự gặp gỡ giữa họ ở đề tài cái đói không phải là sự mô phỏng, sao chép mà là sự gặp gỡ trong sáng tạo nghệ thuật. Đến với những trang viết của hai nhà văn hiện thực chúng ta đều cảm nhận được ấn tượng mạnh mẽ nhất đọng lại đó là cái đói, cái nghèo, cái cùng quẫn, bi thương. Hình tượng con người dẫu là người nông dân hay trí thức đều bị dày vò sau những lo toan vật chất, suy tính nhỏ nhen về miếng cơm, manh áo. Những chi tiết tưởng như vặt vãnh, tầm thường ấy lại là nơi nảy sinh những tư tưởng sâu, những tình cảm lớn. Nam Cao và Nguyên Hồng đã lật ra hết cái lớp áo phủ ngoài đời sống con nguời Việt Nam để làm hiện lên cái chuyện muôn đời nhức nhối nhất là chuyện thiếu thốn, đói khổ và cũng thông qua cái vấn đề nhức nhối và đơn giản ấy mà hai nhà văn định giá tư cách con người, vẽ nên những mối quan hệ đầy đau đớn giữa con người với con người trước cách mạng tháng Tám. HVCH: Nguyễn Thị Hồng 1
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 Ngày nay nền kinh tế toàn cầu đang có những bước chuyển biến đáng kể, cái đói ngày càng lùi xa. Tuy nhiên, có không ít kẻ vẫn tiếp tục bị đói. Nhưng cái đói này nguy hiểm hơn cái đói sinh lí nhiều. Đó là: Đói tình thương – Đói đạo đức – Đói công bằng – Đói giáo dục – Đói lí tưởng. Thật đau xót vô cùng! Vì vậy, viết về đề tài “cái đói và miếng ăn”, người viết mong rằng sẽ đánh thức lương tri của một bộ phận nào đó trong con người Việt Nam: đừng để những cám dỗ về miếng ăn mà bán rẻ nhân cách. Đây cũng là vấn đề nhức nhối mà Nam Cao và Nguyên Hồng đặt ra, đến ngày nay vẫn mang tính thời sự nóng hổi. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Cái đói và miếng ăn luôn đeo đuổi nhân dân ta qua nhiều thế kỉ. Thế nhưng kiểm lại những trang viết về vấn đề này trong lịch sử văn học Việt Nam thấy cũng chưa nhiều. Kim Lân viết về cái đói (Vợ nhặt), Nguyễn Công Hoan viết về cái đói (Thằng ăn cắp, Giá ai cho cháu một hào, Bữa no đòn…), Thạch Lam viết về miếng ăn (Đói, Tối ba mươi…). Phải nói rằng, trong số những tên tuổi nói trên, Nam Cao và Nguyên Hồng là hai cây bút viết về cái đói nhiều và hay hơn cả. Vì vậy, có thể xem cái đói và miếng ăn là một trong những nguồn cảm hứng chủ yếu trong những sáng tác của họ. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao, ông là một trong những nhà văn lớn của thế kỉ XX được nghiên cứu nhiều nhất, liên tục nhất. Tuy nhiên, trước Cách mạng tháng Tám, vị trí của Nam Cao chưa được khẳng định. Giá trị tư tưởng hay chủ đề tác phẩm của Nam Cao hầu như chưa có sự đánh giá đúng mức. Tên tuổi của ông vẫn chưa được nằm trong bộ sách đồ sộ gồm 79 nhà văn trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan. Nhận xét về Nam Cao trong thời kì này chỉ có lời giới thiệu của nhà văn Lê Văn Trương với một vài ý kiến trong lời giới thiệu tập Đôi lứa xứng đôi (1941): “Dám nói, dám viết những cái khác người, ông Nam Cao đã đem đến cho ta những khoái cảm mới mẻ và ông đã tỏ ra một người có can đảm”. Phải hơn nhiều năm sau, qua những xói mòn, thử thách của thời gian, trong sự trưởng thành và phát triển của nền văn học mới: khi tác phẩm của Nam Cao được HVCH: Nguyễn Thị Hồng 2
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 in lại và Sống mòn ra mắt độc giả (1956), cùng với những hồi kí, tiểu luận của Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyên Hồng, giá trị của nhà văn mới thực sự được khẳng định. Từ đó việc nghiên cứu Nam Cao đã đạt được nhiều thành tựu và tiến bộ. Giới nghiên cứu phê bình hiện nay đã không dừng lại ở những kết luận có sẵn mà cố gắng khơi sâu vào những “địa tầng” mới của văn chương Nam Cao. Vẫn trên cơ sở khẳng định con người và tài năng của Nam Cao nhưng tất cả đã được nâng lên ở những chiều kích mới, với những phát hiện sâu hơn, tâm đắc hơn về cuộc đời, về nghệ thuật sáng tạo, về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nhà văn, thể hiện trong những bài viết hoặc ý kiến phát biểu ở các hội thảo về Nam Cao của các nhà nghiên cứu Hà Minh Đức, Phong Lê, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Hoành Khung, Trần Đình Sử, Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Trần Đăng Xuyền… Trên đà nghiên cứu đó, luận văn muốn bàn về cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn trước cách mạng của Nam Cao. Nghiên cứu về chủ đề này các nhà nghiên cứu chưa đi sâu cụ thể mà chỉ đề cập một cách đơn lẻ trong một số bài viết như Nguyễn Đăng Mạnh có bài nói về Cái đói và miếng ăn trong truyện Nam Cao (8 trang), đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay, số 71, (01/11/1991). Nghiên cứu về Nguyên Hồng cho đến nay ở Việt Nam cũng khá đông đảo với nhiều công trình phong phú, đa dạng của các tác giả: Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Như Phong… Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều có những ý kiến đánh giá cao lòng nhân đạo thiết tha trong sáng tác của Nguyên Hồng. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã khẳng định: “lòng yêu nhân loại đến cực điểm” và sự thiết tha đến “những người bị ruồng bỏ” của Nguyên Hồng. Tác giả còn cho rằng “Phải sống trong cảnh nghèo, phải luôn luôn gần gũi xã hội người nghèo mới có thể viết được những dòng thành thật và cảm động như Nguyên Hồng” [49,115]. Ông nhận xét Nguyên Hồng có tư tưởng nhân đạo “tràn lan” và nhận thấy “nhà văn cầu mong ánh sáng rọi đến khắp hang cùng ngõ hẻm, đến khắp cuộc sống dễ nảy nở nên ở mọi sự cần lao những cử chỉ công bằng, bác ái và xua đuổi mọi cái tối tăm, cùng khổ của loài người” [49,118]. HVCH: Nguyễn Thị Hồng 3
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 Nguyễn Đăng Mạnh và Phan Cự Đệ cũng có những đánh giá gần giống nhau về Nguyên Hồng. Cả hai ông đều bắt nguồn từ cuộc đời nhà văn gần gũi với nhân dân lao động. Nguyễn Đăng Mạnh đánh giá “toàn bộ sáng tác của Nguyên Hồng thấm đượm một tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết tha, viết bằng trái tim hơn là bằng trí tuệ tỉnh táo” [40,23]. Phan Cự Đệ cũng cho rằng chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác Nguyên Hồng kết hợp được truyền thống dân tộc và hiện đại. Đó là “chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc”, “chủ nghĩa nhân đạo thức tỉnh”, “chủ nghĩa nhân đạo lạc quan”… Nhìn chung các bài viết đều có những đánh giá khá thống nhất về những tác phẩm của Nguyên Hồng trước cách mạng. Tuy nhiên các tác giả cũng chưa đề cập một cách sâu sắc và toàn diện vấn đề cái đói. Chúng tôi cho rằng, vấn đề mà những bài viết này đặt ra cần được khai thác sâu hơn và tiếp tục xem xét ở những khía cạnh mới. Đó cũng chính là lí do thôi thúc chúng tôi chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp của mình. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. Với mục đích khoa học đã đề ra, luận văn tập trung xem xét, làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản xung quanh cái đói và miếng ăn trong sáng tác ở thể loại truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945. Luận văn không xem xét đến truyện ngắn sáng tác sau 1945 vì số lượng không lớn và nhất là chủ đề cái đói và miếng ăn không được thể hiện nhiều. Tuy nhiên để làm rõ vấn đề, trong quá trình nghiên cứu, người viết đã khảo sát thêm tiểu thuyết Sống mòn, vì đây là sáng tác thể hiện tập trung vấn đề mà Nam Cao đặt ra cho người trí thức. Để đạt được mục đích khoa học đã đặt ra, người viết muốn đặt vấn đề mà mình khảo sát trong cái nhìn tổng hợp các luận điểm của các nhà nghiên cứu trước để có thể nhìn vấn đề một cách toàn diện, sâu sắc, hệ thống hơn. Có thể nói vấn đề cái đói và miếng ăn là một vấn đề rộng. Ở đây người viết thật sự quan tâm và muốn đi sâu hơn nữa về cuộc sống cũng như phẩm chất, nhân cách của con người khi đã gấp lại trang sách của Nam Cao và Nguyên Hồng. HVCH: Nguyễn Thị Hồng 4
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng nghiên cứu luận văn đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp so sánh Như chúng ta đã biết, Nam Cao và Nguyên Hồng đã đạt được những thành tựu nổi bật và có nhiều đóng góp vào nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nhưng khi viết về cái đói mỗi nhà văn lại có cách tiếp cận khác nhau. Để thấy được những nét độc đáo riêng của họ cần phải có sự so sánh về cái đói giữa Nam Cao với Nguyên Hồng và giữa họ với các nhà văn khác như: Ngô Tất Tố, Kim Lân, Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan… Nghĩa là từ một đề tài hết sức nhỏ nhặt, đời thường là cái đói và miếng ăn, nhờ so sánh mà ta có thể phát hiện tư tưởng nghệ thuật rất khác nhau của các tác giả. - Phương pháp lịch sử Phương pháp này đòi hỏi việc nghiên cứu phải gắn liền với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ đó thấy được cuộc sống đói nghèo, cơ cực của nhân dân ta trước năm 1945. Có như vậy mới đảm bảo tính khách quan, khoa học. - Phương pháp hệ thống Việc đặt các yếu tố trong một hệ thống sẽ giúp người nghiên cứu thấy rõ hơn ý nghĩa của chúng, bởi vì tác phẩm văn chương là một chỉnh thể toàn vẹn, các yếu tố trong tác phẩm có mối liên hệ mật thiết với nhau, giá trị của yếu tố này là do giá trị của các yếu tố xung quanh quy định. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi không xem xét từng tác phẩm của Nam Cao và Nguyên Hồng ở dạng đơn lẻ, tách biệt mà sẽ đặt chúng trong một chỉnh thể toàn vẹn. - Ngoài ra luận văn còn sử dụng các thao tác phân tích, tổng hợp Phân tích, tổng hợp là một trong những thao tác không thể thiếu đối với mọi công trình. Trên cơ sở những tư liệu đã được thống kê, phân loại, chúng tôi sẽ tập trung vào những tiêu điểm cần thiết, tìm ra những nét đặc sắc và độc đáo qua vấn đề cái đói trong sáng tác Nam Cao và Nguyên Hồng. HVCH: Nguyễn Thị Hồng 5
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 5. Cấu trúc luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn triển khai làm ba chương: Chƣơng 1: Nam Cao và Nguyên Hồng trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 Chƣơng 2: Cái đói và miếng ăn – nguồn cảm hứng lớn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng Chƣơng 3: Những đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện HVCH: Nguyễn Thị Hồng 6
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 NAM CAO VÀ NGUYÊN HỒNG TRONG DÒNG VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930 - 1945 1.1. Bức tranh xã hội Việt Nam trƣớc năm 1945 Bức tranh xã hội Việt Nam trước năm 1945 đã đi vào văn học khá sớm, nhưng mỗi trào lưu, mỗi nhà văn lại phản ánh những khía cạnh khác nhau. Văn học lãng mạn tiêu biểu là tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã cho chúng ta những bức tranh quê tuy có lúc là cảnh bùn lầy nước đọng nhưng nhìn chung đều đẹp đẽ, thơ mộng. Xã hội Việt Nam chỉ thực sự được tái hiện khi các tác phẩm của dòng văn học hiện thực ra đời với những đóng góp đặc sắc của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng… Với họ, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ không có cảnh êm đềm, thi vị mà đó là nơi diễn ra nhiều thảm cảnh đau lòng. Xã hội Việt Nam những ngày tiền cách mạng thật là đen tối. Đó là thời kỳ mà nước ta phải sống trong cảnh một cổ hai tròng. Thực dân Pháp và phát xít Nhật câu kết với nhau thi hành nhiều chính sách bóc lột vô cùng thâm độc, thực chất chỉ nhằm mục đích vơ vét về kinh tế. Thực dân Pháp đã thi hành chính sách kinh tế độc quyền biến Việt Nam trở thành một thuộc địa cung cấp nguồn nhân công rẻ mạt và nguồn nguyên liệu béo bở cho chính quốc, là nơi cho vay nặng lãi cắt cổ và thu thuế vô tội vạ, nơi mua rẻ hàng nông phẩm và bán đắt hàng công nghiệp, và là nơi độc quyền ngoại thương, độc quyền bán rượu, thuốc phiện, tăng thuế khóa và hàng trăm thứ hạch sách, phu phen, tạp dịch khác. Trong và sau đại chiến lần thứ nhất, đế quốc Pháp đã hai lần khai thác thuộc địa đẩy nhân dân ta lún sâu hơn nữa vào cảnh bần cùng. Tiếp đó, chúng lại tăng cường bóc lột để bù đắp cho những thiệt hại ghê gớm do cuộc khủng hoảng trầm trọng đã đẩy lùi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vào cuối thế kỉ XIX. Chúng hạ lương viên chức, đình chỉ sản xuất, làm cho hàng hóa trong nước bị đình trệ, buộc người dân phải tiêu thụ hàng hóa ứ đọng của Pháp. Ngân hàng Đông Dương lại rút bớt giấy bạc làm cho hàng hóa, nông phẩm rẻ mạt, đẩy nông dân và công thương nghiệp HVCH: Nguyễn Thị Hồng 7
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 phá sản, vỡ nợ (năm 1929 có 177 nhà buôn phá sản, con số đó lên tới 209 vào năm 1933). Hàng triệu người (kể cả trí thức) không có việc làm, lại thêm mấy năm lũ lụt, hạn hán liên tiếp nên nạn đói càng trầm trọng. Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, nhân dân ta lại càng rơi vào cảnh khốn cùng. Thực dân Pháp và phát xít Nhật lại hùa nhau vơ vét đến tận cùng tài nguyên thiên nhiên của ta để phục vụ cho chiến tranh, làm cho giá cả sinh hoạt năm 1945 đắt gấp 25 lần năm 1939, nhân dân chết đói đầy đường, thế mà phát xít Nhật vẫn xuất cảng 50 vạn tấn gạo. Số gạo này có thể nuôi 10 triệu dân trong bảy tháng, vậy mà chúng âm mưu để cho hai triệu đồng bào ta chết đói. Bên cạnh mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp cũng hết sức gay gắt. Dưới chế độ phong kiến, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ bởi sự bóc lột vô cùng tàn bạo của bọn cường hào, ác bá. Chúng ra sức đấu đá nhau để giành giật miếng ăn, mà nạn nhân không ai khác chính là tầng lớp lao động nghèo. Đâu đâu cũng thấy cảnh hà hiếp, cướp đoạt, đánh đập, cùm kẹp của bọn cường hào trút lên đầu những người nghèo khổ. Đời sống nhân dân vốn vô cùng cực khổ lại thêm vào đó hàng trăm thứ sưu cao, thuế nặng. Chúng ta có thể thấy rõ cái không khí ngột ngạt của làng quê Việt Nam trong những năm trước Cách mạng tháng Tám qua tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Tác phẩm cho ta cảm nhận được cái chộn rộn, lo âu đến vò xé, đến nghẹn thở của mùa sưu thuế. Nhân dân rơi vào cảnh đói khát triền miên. Khủng khiếp nhất đó là cái đói năm Ất Dậu, đâu đâu ta cũng bắt gặp những xác chết, những bóng ma dật dờ. Thi sĩ Bàng Bá Lân đã ghi lại cảnh chết đói kinh hoàng đó như sau: “ Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương! Những thây ma thất thểu đầy đường Rồi ngã gục không đứng lên vì đói!” Nếu như đời sống nông thôn cực khổ là vậy, thì ở xã hội thành thị Việt Nam cũng bị nghèo đói xơ xác. Dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, giai cấp tiểu tư sản cũng là một trong những giai cấp phải chịu đựng nhiều cay đắng, đe dọa HVCH: Nguyễn Thị Hồng 8
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 về đời sống nhất. Tầng lớp tiểu tư sản nghèo sống bấp bênh và khổ cực. Ngay đến những viên chức, trí thức tự do cũng lâm vào hoàn cảnh khó khăn về vật chất, tù túng về tinh thần. Họ bị khinh rẻ, chà đạp, sống một cuộc sống có hôm nay mà không biết đến ngày mai, hàng ngày bị kinh tế khủng hoảng, bị chiến tranh, nạn thất nghiệp và bệnh tật, nghèo đói đe dọa. Xã hội thực dân phong kiến ở nông thôn cũng như thành thị ngày càng bộc lộ những ung nhọt đang tấy lên trầm trọng không thể nào che dấu được. Trong những ngày xã hội lâm vào cảnh bế tắc ngột ngạt nhất, Nam Cao và Nguyên Hồng cho ra đời những đứa con tinh thần của mình. Những sáng tác đó đã đem đến cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam trước năm 1945, trong đó con người với những nỗi thống khổ của mình đã rung lên hồi chuông báo động: Hãy cứu lấy con người. 1.2. Nam Cao và số phận những ngƣời cùng khổ 1.2.1. Nam Cao – từ cuộc đời đến tác phẩm Nam Cao vốn sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo. Ông thân sinh ra Nam Cao vốn làm nghề chạm trổ và bốc thuốc Bắc. Sau cha ông trở thành chủ một hiệu đồ gỗ ở phố hàng Tiện – Nam Định, nhưng vì chơi bời nên của hàng đóng cửa, lại trở về làm ruộng, đời sống gia đình càng lâm vào cảnh nghèo túng. Làng của Nam Cao là một vùng ít ruộng đất, bình quân mỗi đầu người chưa đạt một sào nên mẹ ông đã phải làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Ngoài nghề làm ruộng, bà còn làm vườn, dệt vải. Quê hương nhà văn là vùng đất chiêm trũng, xa phủ huyện nên bọn cường hào địa chủ càng hoành hành. Trong làng thường chia làm nhiều phe cánh. Quanh năm thường xảy ra các vụ kiện tụng, đánh chém nhau giữa người giàu, kẻ nghèo và giữa những bọn địa chủ kì hào có thế lực. Vì vậy, cuộc đời người dân ở đây thật là cay cực, quanh năm phải chịu nạn đói. Những chuỗi ngày mù xám kéo dài, nợ nần, thuế má, tạp dịch đè nặng trên lưng họ. Nhưng chính đặc điểm này đã trở thành chất liệu quý cho Nam Cao khi viết về nông thôn và người nông dân. Sau này, trong sáng tác Nam Cao, những tư liệu về nông thôn, về những người nông dân đói kém đều được nhà văn lấy từ vốn sống thuở nhỏ, từ chính những người thân của nhà văn. HVCH: Nguyễn Thị Hồng 9
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 Nam Cao là con trai cả trong một gia đình đông anh em, có bốn em trai và ba em gái. Trong số các anh em chỉ có một mình Nam Cao được ăn học. Nhưng cuộc sống đói nghèo và bệnh tật đã đeo đuổi Nam Cao từ khi ông còn nhỏ. Năm 1935, sau kì thi Thành Chung bị trượt, Nam Cao theo người nhà vào Sài Gòn kiếm sống bằng rất nhiều nghề “kể cả những nghề mà những người tự xưng là trí thức không làm” [3, 542]. Rời bỏ cái làng quê nghèo đói và tù túng, Nam Cao mang theo nhiều ước mơ và dự định lớn lao. Những tưởng cuộc sống nơi đất khách sẽ mở ra một chân trời mới lạ cho ông, nhưng rốt cuộc bệnh tật lại trả Nam Cao về với nơi chôn rau cắt rốn. Trở lại quê nhà, hoàn cảnh gia đình Nam Cao lúc đó càng rơi vào tình trạng cùng quẫn “Lũ em lúc nhúc rất đông không được học, không được mặc, thường thường không đến cả ăn, gầy guộc, rách rưới, bẩn thỉu”. Ông bố vẫn rượu chè, mẹ ông phải “đảm đương mọi công việc trong gia đình, một mình cố nâng đỡ cả cái thế giới đang sụp đổ kia như một con ngựa già cố kéo một cái xe nặng lên khỏi dốc, tuy biết mình kiệt sức rồi, không thể nào còn kéo nổi nhưng vẫn kéo!” [3, 543] Nam Cao ở làng ít lâu, ôn lại kiến thức cũ và thi đậu bằng trung học. Nam Cao định xin làm công chức nhưng do bệnh tật ông không được chấp nhận. Sau đó ông được mời lên Hà Nội dạy học cho một trường tư thục của một người trong họ mở. Mang tiếng là cậu giáo nhưng đời sống của ông cũng không hơn gì những người hàng xóm, nghĩa là vẫn thiếu ăn, thiếu mặc, vợ con đói rách. Cứ thế, cuộc đời túng thiếu, tù hãm cuốn chặt lấy ông không buông tha lúc nào. Và chính cuộc sống của anh giáo khổ trường tư nơi đây đã cung cấp cho Nam Cao một sự cảm nhận sâu sắc về thân phận người trí thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ. Có thể nói cuộc đời của Nam Cao từ nhỏ cho tới lúc trưởng thành là một chuỗi ngày dài cực khổ. Nói như Nguyễn Minh Châu thì cuộc đời Nam Cao “giống như một quả lắc đồng hồ cứ xang đi xang lại mãi giữa thành phố và cái làng quê Đại Hoàng rất lâu đời của ông – nơi ông vật lộn với cuộc sống hàng ngày để kiếm miếng sống và nơi ông trở về bên gia đình vợ con, không phải để ngắm cảnh đẹp làng quê, thậm chí chẳng có được một phút đứng “dưới bóng hoàng lan” mà để lại HVCH: Nguyễn Thị Hồng 10
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 những tiếng thở dài, những câu than vãn, những lời rủa trách, để chứng kiến những trận ốm của vợ con, nói tóm lại, để tiếp tục chứng kiến và nếm trải, gặm nhấm và “thưởng thức” một lần nữa cái vị đời chua lòm đã từng sống, đã từng một lần nếm trải và chứng kiến trong cuộc vật lộn hàng ngày để kiếm miếng sống ở ngoài thành phố” [28, 8]. Trước cách mạng, Nam Cao luôn sống trong tâm trạng đau khổ, u uất, bất đắc chí. Ốm yếu, thất nghiệp, Nam Cao sống lay lắt bằng nghề viết báo, viết sách và dạy học tư… làm nhiều nghề như thế nhưng vẫn không đủ sống. Ôm ấp những hoài bão lớn về tương lai, về sự nghiệp, nhưng những ước mơ đó luôn bị át đi, ghìm lại trong những tính toán nhỏ nhen hàng ngày về miếng cơm, tiền nhà, tiền quà bánh… Chính vì vậy, trong sáng tác của mình, Nam Cao luôn bị ám ảnh bởi cái đói và miếng ăn. Tuy nhiên, chuyện cơm áo lúc này không phải là chuyện riêng đối với nhà văn mà dường như chung cho tất cả giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ. Xuân Diệu đã từng than thở: “Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt Cơm áo không đùa với khách thơ”. Lận đận trong cuộc đời, Nam Cao cũng không gặp may mắn trên con đường văn chương. Ông viết văn từ năm 1936 và thử nghiệm qua nhiều thể loại khác nhau như: thơ, kịch, truyện ngắn… nhưng đều không thành công. Gần mười năm viết trước cách mạng, Nam Cao dường như không có vị trí trên văn đàn đương thời. Hầu hết bản thảo không được in thành sách, thất lạc. Có thể nói hiếm có nhà văn nào bước vào làng văn một cách chật vật và bị đối xử bất công như Nam Cao. 1.2.2. Những mảnh đời đói nghèo, tủi nhục Xuất thân trong một gia đình nghèo Nam Cao hiểu và thấm thía số phận của những con người nghèo khổ. Những nhân vật ấy gợi lên trong ta một niềm thương xót không bờ bến. Đó là những em nhỏ cần được chăm sóc (Dần, Tí, Ninh…). Đó là những người già có số phận khổ đau (Lão Hạc, bà cái Tí, bà Quản Thích…), là những người phụ nữ bất hạnh (Nhi, Nhu, Thị Nở, mụ Lợi, dì Hảo…). Đó là những kẻ bị tha hóa như (người bố tham ăn, anh cu Lộ, Trạch Văn Đoành, Chí Phèo… HVCH: Nguyễn Thị Hồng 11
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 Hay đến cả những trí thức nhưng luôn sống trong cảnh cơm áo ghì sát đất (Thứ, Điền, Hài, Hộ…). Mỗi nhân vật ấy là một nạn nhân của xã hội, viết về cuộc đời của mỗi nhân vật ấy như một bản tố cáo, một lời nguyền rủa muôn đời chế độ xã hội bất công. 1.2.2.1. Hình ảnh những đứa trẻ thơ vô tội. Bác Hồ đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành Biết ăn ngủ biết học hành là ngoan”. Thế nhưng trong cái xã hội thực dân, phong kiến Việt Nam những năm tiền cách mạng trẻ em bị rơi vào những hoàn cảnh rất đáng thương. Đến cái ăn cũng không có, nói gì đến việc học hành. Xuất phát từ tấm lòng nhân đạo, Nam Cao luôn hướng những trang viết của mình về những đứa trẻ thơ vô tội. Sinh ra trong hoàn cảnh nghèo đói chúng thường xuyên bị cái đói hành hạ đến nỗi mắt lờ đờ như chết lả. Trong truyện ngắn Nghèo những đứa con vô tội của chị đĩ Chuột phải ăn những thứ đáng lẽ ra không phải thức ăn của con người: chè cám - một “đặc sản” của người nghèo những ngày đói kém. Trong truyện ngắn Trẻ con không được ăn thịt chó tác giả đã xót xa khi miêu tả nỗi vui mừng của những đứa trẻ sắp được ăn thịt chó: - Thầy giết chó nhỉ? - Ừ, thầy giết con chó để làm thịt chén - Thích nhỉ, cu Con nhỉ? - Thầy cho cả chúng ta ăn thịt chó nhỉ? - Tao cũng ăn thịt chó - Ừ, thầy cho cả mày, cả tao. - Cả chị Gái…[3,125]. Chúng đâu biết rằng cha chúng là một kẻ tham ăn, ăn tranh cả phần vợ con, đau xót hơn khi chứng kiến cảnh những đứa trẻ đói ăn đang sốt ruột đợi những thức ăn thừa mứa của bố chúng “đứa nào cũng nhăn nhăn nhó nhó” [3, 131], “thằng cu con khóc òa lên (…) Người mẹ đỏ mũi lên và mếu xệch đi, rưng rưng khóc. Cái Gái và cu Nhớn, cu Nhỡ cũng khóc theo” [3, 132]. HVCH: Nguyễn Thị Hồng 12
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 Dần trong Một đám cưới ngay từ nhỏ đã phải rời xa gia đình đi ở cho nhà giàu để kiếm miếng cơm, manh áo, để đỡ đi một miệng ăn, một gánh nặng trong gia đình. “Dần đi ở từ năm chửa mười hai. Khi ấy đầu nó còn để hai trái đào. Nó mới biết cầm vững cái chổi để quét nhà và thổi một niêu cơm con con không sống không khê” [3, 282]. Mẹ Dần vốn nghèo từ trong trứng nghèo ra nên cứ hay liệu hay lo “Thị nghĩ rằng con mình đã lớn rồi phải uốn nắn ngay đi, nhà mình vườn ít, ruộng không, cửa vải cũng không, nghĩa là công việc chẳng có gì, nó ở nhà cũng chỉ chơi… chi bằng cho nó đi ăn đi ở với người ta để người ta cất nhắc việc nọ việc kia cho nó quen tay” [3, 283]. Nhưng rồi mẹ Dần đã tính nhầm, bởi vì ăn được miếng cơm của nhà giàu đâu phải đơn giản, cơm nhà giàu thường khó nuốt “Ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa mật ra mà giả họ” [3, 284]. Dần sống khổ cực, luôn mơ ước tình thương yêu, đùm bọc của cha mẹ, của anh chị em. Dần đi ở cho người ta được hai năm thì phải về, khi người mẹ xấu số của Dần đã qua đời vì đau ốm. Còn nhỏ nhưng Dần đã giúp bố quán xuyến mọi công việc gia đình. “Nhưng ông trời hình như không muốn cho bố con Dần ngóc đầu lên. Cuộc sống mỗi ngày một khó thêm: gạo kém, thóc cao, ngô khoai cũng khó chuốc được mà ăn” [3, 286], cái chết như đang đứng sau lưng mọi người. Cũng chung số phận với Dần là cái Tí (Một bữa no). Nhưng nếu Dần còn có cha để nương tựa thì cái Tí có số phận thật đáng thương tâm. Nó mồ côi cha, mẹ bỏ đi lấy chồng để nó lại cho bà nó đã ngót bảy mươi tuổi. Bà già, cháu nhỏ côi cút nương tựa vào nhau. Nhưng “khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi cho người ta lấy mười đồng” [3, 226]. Dường như trong các sáng tác của Nam Cao ta bắt gặp rất nhiều những đứa trẻ thơ vô tội có hoàn cảnh giống nhau. Đó còn là số phận khổ đau của chị em Ninh (Từ ngày mẹ chết), chúng thiếu tình yêu thương của mẹ từ khi còn thơ dại. Mẹ chết đã ba năm rồi mà “Ninh vẫn còn buồn. Buồn rũ rĩ. Ninh ngẩn ngơ như mất vía. Có lúc Ninh làm gì cũng không biết nữa” [3, 160]. Mẹ chết, thầy Ninh chịu cảnh gà trống nuôi con. Nhưng số phận thật nghiệt ngã khi thầy Ninh lại vương vào nạn cờ bạc, chị em Ninh trở thành những đứa trẻ bơ vơ, không nơi nương tựa, không nhà cửa, HVCH: Nguyễn Thị Hồng 13
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 thầy đã bán nhà vì thua xóc đĩa, thua ngót ba trăm bạc. Chúng chỉ còn biết khóc. Những giọt nước mắt, những cái nhìn ngơ ngác của hai đứa con nhỏ như xoáy sâu vào lương tâm của người cha tội lỗi “Thầy nhếch mép cười, cái cười vạch hai nếp nhăn trên đôi má hõm, thầy cười thế trông già sọm. Có lí nào thầy chúng già đi quá thế [3, 167]. Có những trang viết Nam Cao trực tiếp viết về những đứa trẻ thơ nhưng có lúc hình ảnh chúng chỉ hiện lên thấp thoáng mà gợi bao xót xa, đau đớn như những đứa trẻ đáng thương của gia đình anh Phúc (Điếu văn). Khi anh nhắm mất lìa đời nào chúng đã biết gì “chúng ngây ngây, giương đôi mắt ngẩn ngơ, thỉnh thoảng nước mắt chúng mới ứa ra thì chúng lại vội quẹt ngang tay áo”. Rồi đây chúng biết bấu víu vào đâu? “Chúng biết đời anh là đời chúng. Anh chết đi chúng chỉ còn một cách là đi ăn mày” [3, 217]. Hình ảnh những đứa trẻ thơ đi vào tác phẩm của Nam Cao đã gợi lên trong ta một niềm xót thương không bờ bến, điều đó chứng tỏ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. 1.2.2.2. Hình ảnh những người phụ nữ bất hạnh Trong xã hội ấy, bị bóc lột nhiều nhất có lẽ là người phụ nữ. Đó là cuộc đời đầy khổ đau và cái chết bi thảm của bà cái Tí (Một bữa no). Lấy chồng, sinh được một đứa con thì chồng chết, bà ở vậy thắt lưng buộc bụng nuôi con “nuôi nó từ tấm tấm, tí tí giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ một li nó lăn cổ ra nó chết, công bà thành công toi (…) thành thử bà đã ngót bảy mươi, lại phải làm còm cọm, làm mà nuôi đứa con gái ấy cho chúng nó” [3, 226]. Ở cái tuổi của bà đáng lẽ ra phải được nghỉ ngơi, sống an nhàn bên con cháu để vui thú tuổi già. Thế nhưng bà vẫn phải “chạy xạc cả gấu váy, hết chợ gần đến chợ xa” [3, 226] để kiếm mấy đồng xu mỗi ngày. Nhưng do tuổi già, sức yếu, bệnh tật đeo đẳng nên bà bị đói đã lâu. Bà đã nghĩ ra một cách đó là đi ăn chực, bà ăn được một bữa no, ăn no quá đến mức bội thực, một bữa no đã kết thúc cuộc đời cơ cực, khổ đau của bà. HVCH: Nguyễn Thị Hồng 14
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 Dì Hảo là một thiên truyện ngắn như cô đọng tất cả mọi nỗi ngậm ngùi, u uất của một kiếp người đàn bà. Cuộc đời dì Hảo đã mất hết tươi vui từ cái ngày mà dì phải rời mẹ đẻ đi làm con nuôi trong một gia đình khác để trừ vào món nợ của bố mẹ. Dì là một người đàn bà hiền lành, cam chịu, suốt đời chỉ biết hi sinh cho chồng con. Với một con người như thế, đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc đời hạnh phúc trong tình yêu thương. Nhưng không, dường như số phận trớ trêu luôn đùa cợt con người tội nghiệp ấy. Cả cuộc đời dì không có được một nguồn an ủi nào. Chồng đã thế, con lại chết, dì thì bị tê liệt. Dì không làm ra tiền cho chồng uống rượu, hắn chửi “hắn bỏ dì mà đi, bỏ dì bơ vơ, đau ốm, để đi tìm rượu” [3,336]. Rồi chồng dì có vợ bé “Dì chẳng hé răng nói nửa lời, nhưng dì khóc ngấm ngầm khi chúng cười vui, dì nhịn quắt ruột khi chúng ăn phung phí. Dì héo hắt đi, dì còm cõi đúng như con mèo đói” [3, 337]. Hình ảnh người phụ nữ cần cù, chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh, thương yêu chồng con trở đi trở lại rất nhiều lần trong sáng tác của Nam Cao. Đức hi sinh và tấm lòng nhân hậu đó còn thể hiện qua nhân vật bà Quản Thích (Nửa đêm). Bà nhận một đứa trẻ bị bỏ rơi về nuôi như làm một việc tốt. Bà nâng niu, chăm sóc cho nó như chính con ruột của bà. Vì góa chồng lại không có con cái nên bao nhiêu tình yêu thương bà đều dành cho nó cả những mong sau này già yếu nó sẽ phụng dưỡng bà tử tế nhưng cái đứa con nuôi ấy chỉ là một cái họa cho bà, nó là một kẻ cướp, nó hung bạo, tàn ác, nó chỉ biết hành hạ tuổi già của bà. Khi hắn chết đi bà lại nhẫn nhục nai lưng làm nuôi con cho hắn. Hình ảnh bà được nhà văn khắc họa thật tiều tụy, đáng thương. Đến lúc tuổi già bóng xế, bà trơ trọi một mình với “đau yếu”, “đói khát”, “cái kiếp sống vất vưởng ấy cứ bập bùng trực tắt mà không tắt”[3, 319 ]. Tác giả so sánh với giọng triết lí thật chua chát: “Bà cứ sống dai dẳng như nỗi lầm than ở trên đời” [3, 319]. Cả cuộc đời bà Quản Thích sinh ra chỉ để hi sinh vì người khác. Đọc truyện Nửa đêm thấy khá rõ nỗi niềm trăn trở, sự day dứt khôn nguôi và thái độ cảm thông, xót thương của Nam Cao trước số phận bất hạnh của người đàn bà rất hiền hậu, tội nghiệp này. HVCH: Nguyễn Thị Hồng 15
- Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn của Nam Cao và Nguyên Hồng trước năm 1945 Ngoài hình tượng những người vợ, người mẹ, người bà có cuộc đời đau khổ nhưng bao dung, độ lượng, Nam Cao còn rất thành công khi đề cập đến những người phụ nữ xấu xí, bất hạnh nhưng vẫn khát khao tình yêu hạnh phúc. Thị Nở (Chí Phèo) là một người phụ nữ xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn. Đã xấu thị lại còn nghèo, lại dở hơi, lại là dòng giống của một nhà có mả hủi. Bởi thế cho nên “người ta tránh thị như tránh một con vật ghê tởm” [3, 50]. Tất cả những thứ ấy biến thị thành một thứ “phế thải” vô giá trị. Tuy nhiên, với tấm lòng nhân đạo, trân trọng, thương yêu con người, Nam Cao nhìn thấy trong con người ấy cũng có tình yêu. Một người xấu đến tột bậc như thế nhưng khi yêu cũng trở nên có duyên. Thị cảm thấy hạnh phúc với cuộc tình mới. Sau khi gặp Chí Phèo thiên chức của một người phụ nữ trỗi dậy trong thị, thị đã thoát khỏi lớp bọc xấu xí để trở thành một người đàn bà. Thế nhưng, hạnh phúc đó chỉ diễn ra vẻn vẹn có năm ngày. Đến ngày thứ sáu thì thị chợt nhớ ra rằng mình còn có một bà cô ở trên đời. Thế là hết, hạnh phúc mong manh cũng chấm dứt từ đây. Mụ Lợi trong truyện ngắn Lang Rận cũng thuộc mô típ người xấu xí “Không còn một người đàn bà nào có thể xấu hơn. Mụ béo trục béo tròn, mặt rỗ như tổ ong bầu, mắt trắng, môi thâm, má đen như thằng quỷ”. Đau xót hơn “người ta lấy tên mụ ra mà dọa trẻ” [3, 274]. Mụ nghèo hèn, đi ở quanh năm nên dù đã bước sang cái tuổi ba mươi mà vẫn chưa có chồng. Nhưng cũng có lần người ta hỏi mụ làm lẽ, tưởng “nửa quả hồng còn hơn chùm sung chát! Ai ngờ mụ phải lừa” [3, 277]. Người ta lừa mụ vì tưởng mụ dành dụm được nhiều tiền, cưới mụ về để bòn của và làm con ở không công cho người ta. Cuộc đời của mụ không lấy một chút ánh sáng, bóng đen đau khổ luôn vây quanh lấy mụ. Thế nhưng, một tia hi vọng chợt lóe lên khi mụ nhận được tình yêu thương của ông Lang Rận. Niềm vui không lâu, liền sau đó mụ đã thất vọng và phải trả giá bằng cái chết khi trong xã hội có những con người độc ác đã phá tan cái hạnh phúc mong manh của mụ. Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ là thân phận nô lệ, họ luôn bị chà đạp thô bạo, bất công có khi họ là nạn nhân khốn khổ của những kẻ mà họ phải thờ phụng. Những thằng chồng vũ phu, tham ăn tục uống, hành hạ vợ con một cách dã HVCH: Nguyễn Thị Hồng 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh
185 p | 265 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
152 p | 306 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc trưng nghệ thuật của văn tế Nôm trung đại
132 p | 119 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học nước ngoài: Kiểu nhân vật kiếm tìm trong tiểu thuyết
20 p | 214 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)
115 p | 114 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận Văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
166 p | 154 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Hồn - Tình - Hình - Nhạc trong thơ Hoàng Cầm
184 p | 158 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết
114 p | 153 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng
168 p | 148 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhân vật trí thức văn nghệ sĩ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
151 p | 100 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu)
121 p | 173 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn học tầm căn qua sáng tác của Phùng Ký Tài (Roi thần, Gót sen ba tấc, Âm dương bát quái)
132 p | 145 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Khảo sát truyện cổ dân gian Ê Đê dưới góc độ loại hình
167 p | 123 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Những đóng góp của Tuệ Trung Thượng sĩ cho thơ Thiền Việt Nam
132 p | 160 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
168 p | 147 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thiền uyển tập anh từ góc nhìn văn chương
108 p | 124 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
172 p | 82 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Văn học Việt Nam: Tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
91 p | 64 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn