BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
___________________
Lê Thị Thể
ĐẶC ĐIỂM THƠ YẾN LAN
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
1.1.
….
Mà ông lão say trăng đầu gối sách
Để thuyền hồn bơi khỏi Bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò - thôi, run rẩy cả ngành trăng…
…
Bến My Lăng ấy ở đâu? Câu hỏi ấy đã vang lên trong tâm trí của biết bao
người khi tiếp xúc với thi phẩm ấy. Tiếng gọi đò ngày ấy, chỉ tiếng "gọi đò - thôi" mà
"run rẩy cả ngành trăng" dội vào tâm trí tuổi thơ, đi suốt cả cuộc đời của thi sĩ như
một nối niềm khắc khoải, đớn đau, oán trách và cũng tiếng gọi đò ấy thôi neo lòng
người lại với Bến My Lăng. Những ai yêu thơ, đã một lần lướt qua khu vườn Thơ mới
ngày ấy dường như đã để lòng mình lại, vương vấn Bến My Lăng, để tiếng gọi đò khắc
khoải ấy dẫn mình đến với chàng thi sĩ tài hoa xứ Đồ Bàn cũ, đến với Yến Lan. Có cái
gì đó như thật bất công, khi mà nếu hỏi Yến Lan là ai thì chắc câu trả lời không sẵn có,
nhưng nếu bảo rằng đó là tác giả Bến My Lăng thì họ liền "À…" thích thú. Phải chăng
đó là sự bất công hay nói như Chế Lan Viên "Có nhiều lí do. Nhưng thơ là cái đẹp lặng
im, đi lầm lũi trong im lặng" [110, tr.10] thế nên thi sĩ ấy như một kiếp tằm, rút ruột
nhả cho đời những sợi tơ óng ánh để rồi mình lặng im hóa kiếp chẳng ai hay, chỉ biết
rằng mình hoàn thành nhiệm vụ "trả nợ dâu" và thanh thản! Yến Lan là thế chăng? Mà
suốt gần trọn một thế kỷ dâng hiến cho đời biết bao khúc nhạc lòng mà người đời
dường như cố tình hờ hững. Điều đó cho thấy trong suốt một thời gian dài, tên tuổi và
sự nghiệp thơ văn của Yến Lan dường như bị lãng quên. Cho đến những năm gần đây
tác phẩm của ông - sau khi vượt qua sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian - đã được
tuyển chọn, in trong hàng loạt các tuyển tập những bài thơ hay, những câu thơ tài hoa
Việt Nam, những bài thơ tiêu biểu của thơ ca - đặc biệt là Thơ mới Việt Nam giai đoạn
1932 - 1945. Không chỉ có vậy, sự ghi nhận về thành quả hoạt động nghệ thuật của
Yến Lan còn ở giải thưởng Xuân Diệu - Đào Tấn của hội văn học nghệ thuật tỉnh Bình
Định 1997 cho tập thơ Cầm chân hoa; giải thưởng cấp nhà nước năm 2007 cho các tập
thơ từ sau 1945: Nhữmg ngọn đèn, Tôi đến tôi yêu, Lẵng hoa hồng. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu và xuất bản thơ Yến Lan vẫn còn quá ít ỏi chưa xứng với những đóng góp
của ông cho thi ca dân tộc. Bởi vậy, nghiên cứu thơ ca Yến Lan để góp phần xác định
vị trí vốn có và những đóng góp của ông trong nền thi ca nước nhà là việc làm cần
thiết.
1.2. Nghiên cứu một tác gia văn học không chỉ dừng lại ở việc xác định vị trí
cá nhân của tác gia ấy. Mỗi nhà văn, nhà thơ đều thuộc về một giai đoạn lịch sử nhất
định. Bởi vậy nghiên cứu tác gia văn học còn có ý nghĩa không nhỏ về mặt lịch sử văn
học. Khám phá về đặc điểm thơ Yến Lan vì thế góp phần giúp cho việc hình dung diện
mạo thơ Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử dân tộc, qua những biến cố lịch sử cũng
là một việc làm cần thiết và quan trọng.
1.3.Qua đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ tích lũy được nhiều hơn tri thức
khoa học và phương pháp nghiên cứu để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và giảng
dạy thơ ca sau này.
2 . Lịch sử vấn đề
Yến Lan tên thật là Lâm Thanh Lang, sinh năm 1916, mất năm 1998, quê quán
xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Cuộc đời trải dài gần suốt thế kỷ XX,
qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc. Đời thơ của Yến Lan bắt đầu từ rất
sớm, 16, 17 tuổi Yến Lan đã nổi tiếng với bài thơ Bến My Lăng và chỉ chịu dừng lại
trước khi ông về cõi vĩnh hằng độ mươi ngày. Trải qua những lúc hưng thịnh khác
nhau nhưng nhắc đến Yến Lan là người ta nhắc ngay đến Bến My Lăng ngày trước
cũng như những thi phẩm - tình cảm máu thịt của ông đối với quê hương Bình Định và
đồng thời người đọc cũng không quên được những dòng tứ tuyệt tuyệt vời mà ông đã
say đắm gửi trao cho tới ngày nhắm mắt. Tuy nhiên, như trên đã nói, Yến Lan là một
tác giả văn học ít được nghiên cứu. Những ý kiến, nhận định về thơ Yến Lan thường
rải rác tản mạn. Chúng tôi xin điểm lại những nhận định cơ bản về thơ Yến Lan qua
những giai đoạn sau:
2.1. Những ý kiến nhận định trước 1945
2.1.1 Chế Lan Viên, Bến My Lăng, tập thơ đầu của Yến Lan, đăng trên tiểu
thuyết thứ Năm ngày 11/ 5/1939.
Nhận định về sự xuất hiện của Yến Lan trên thi đàn qua tập Bến My Lăng,
Chế viết : "Hình như mặt trời sắp mọc - không, hình dung như mặt trăng thì đúng
hơn".[11,tr.11]
Viết về thơ Yến Lan , Chế giới thiệu "đây là sự thực thu nhỏ lại , vô cùng nhỏ
lại, cho đến lúc người ta có thể lẫn nó với mơ màng …cũng ở đây, người ta thấy sự
giản dị của những câu ca dao, vẻ hiền hòa của bao nhiêu khúc hát cổ , một cái gì thân
mật, tuy rằng mới lạ với chúng ta , như mặt trăng có tự muôn đời, hôm nay vẫn còn
gây thơ mộng"[11, tr.11].Yến Lan đã nói rằng thực sự thì tập thơ chưa xuất bản, nhiều
nhà in sau khi đọc bài giới thiệu của Chế Lan Viên thì có liên lạc với Yến Lan để in tập
thơ, nhưng Yến Lan chưa ưng ý lắm, muốn sửa chữa và hoàn chỉnh hơn, thế rồi chưa
kịp xuất bản thì tập thơ thất lạc. Nó chỉ còn lại là những bài được đăng trên Tiểu thuyết
thứ Năm mà thôi.
2.1.2 Hoài Thanh, 1942, trong cuốn Thi nhân Việt Nam, thì nhận định về thơ
Yến Lan
Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay
hay, nhưng lâu dần cơ hồ như ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm
như những dòng sông, và nhất là cái vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình
Định [90, tr171]
Dường như tác giả Thi nhân Việt Nam không mấy mặn mà lắm với Yến Lan,
tuy nhiên trong nhận định của mình ông cũng nhận thấy một nét đặc trưng của thơ Yến
Lan mà cho đến tận bây giờ người đọc cũng vẫn bị cuốn hút: "cái không khí lạ lạ
nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích". [90, tr171]
2.2 Những ý kiến nhận định từ 1945 cho đến trước 1975
2.2.1. Văn Cao, lời giới thiệu tập thơ “Những ngọn đèn”, NXB Hội nhà văn
1957.
Thơ Yến Lan càng ngày càng muốn đi gần lại cuộc sống hiện đại: một
người đi từ vùng thủ công nghiệp đến một thành phố kỹ nghệ. Từ một người hiền lành,
bình dị, Yến Lan đang trở thành một người muốn thúc đẩy một sức gì đang làm trì trệ
cuộc sống của chúng ta.[10,tr6]
Văn Cao đã nhận thấy sự thay đổi mạnh mẽ của Yến Lan với sự vận động đổi
thay của đời sống văn học nước nhà, trong khi những nhà thơ khác chỉ còn là "sáng
ánh lân tinh". Và chính sự nhạy bén đổi thay trước thời cuộc đó mà thơ Yến Lan "còn
có thể làm bạn đường với nhiều lứa tuổi khác".[10,tr.6]. Và trong cái đổi thay đó Văn
Cao đã nhấn mạnh về tính chiến đấu trong thơ Yến Lan: "Thơ anh bắt đầu biết đề cao
những hành động, tình cảm của con người anh yêu lên để đả phá những bọn phá hoại
sự xây dựng của xã hội".[10,tr8]
Do hoàn cảnh lịch sử của một thời mà những lời giới thiệu đầy trang trọng của
Văn Cao với tập thơ ấy cũng đã tạo thành một trong những đề tài bị phê phán, bị lên
án, và rồi những con người thời ấy cũng gặp không ít lận đận với cái án văn chương.
2.3. Những ý kiến nhận định về thơ Yến Lan sau 1975
2.3.1 Chế Lan Viên, lời giới thiệu “Thơ Yến Lan”, NXB Văn học 1987
Những vần thơ, những ngôn từ mà Yến Lan đã sử dụng từ những ngày đầu
được Chế giới thiệu như là một tài năng hiếm gặp trong những ngày đầu Thơ mới
Hiện đại mà Việt Nam, mà dân tộc. Một nhà thơ có tài là có thể sử dụng thập
bát ban võ nghệ, là như cây xương rồng có hai cực đối lập, gai rất là gai mà hoa lại
hoa rất dịu dàng. Lan không phải chỉ có loại thơ điêu khắc kỳ khu vào đá ấy, mà lại có
loại nước chảy đưa ru như nhạc.[110,tr.7]
Bước đường sáng tạo của Yến Lan trong những ngày đầu gặp cách mạng, bén
duyên với thơ ca cách mạng Chế viết:
Có những người cách mạng đến thì viết hay ra, có người viết chỉ dài ra, âm
vang ngắn lại. Có người thì tắt nghỉm…. Lan là người sau cách mạng, nhờ cách mạng
đã viết không những khác đi mà lại hay hơn.[110,tr.8]
Bên cạnh đó những hạn chế, lệch lạc trong thơ Yến Lan của giai đoạn chuyển
đổi ấy cũng được Chế đề cập một cách khách quan: "Có điều, ai ỷ vào sở trường của
mình, thì có lúc cái ấy thành sở đoản. Đôi phen, Yến Lan chạy theo con mắt, chạy theo
cảnh, theo ngoại hình, mà câu thơ nặng cảnh nhẹ tình, nặng hình thức mà rung động
nhẹ".[110,tr.9]
Tuy nhiên cũng như bao nhiêu nhà nghiên cứu khác Chế không thể không
nhận thấy một nét đặc biệt thành công của bạn mình đó chính là thơ tứ tuyệt, cho dù cả
hai người cùng học thể thơ ấy từ Quách Tấn, nhưng Yến Lan vẫn có gì đó của riêng
mình trong thể loại tưởng rằng đơn giản mà lại bác học này:"Yến Lan cũng là người
viết tứ tuyệt thành công. Biết bao bài tứ tuyệt trên các báo hiện nay chỉ là thơ bốn câu,
tứ tuyệt của Yến Lan có tình và có thế võ của tứ tuyệt". [110,tr.9]
Chế nói rằng đường văn chương của bạn không may mắn như mình, nhưng
Chế cũng khẳng định rằng Yến Lan cũng sẽ trở thành bất tử trên hải trình văn chương,
như những tên tuổi khác cho dù họ chỉ đóng góp vào sự nghiệp ấy chỉ một vài sản
phẩm mà thôi:"Có người chỉ bắt được một con cá thôi mà cũng thành bất
tử".[110,tr.10]
2.3.2 Nguyễn Bao, Từ Bến My Lăng …, bài giới thiệu về Tuyển tập thơ Yến
Lan , NXB Văn học 1996.
Trước hết tác giả khẳng định về vị trí "khiêm nhường nhưng vững chắc" của
Yến Lan trong Thơ mới và trong lòng bạn đọc đã được xác định từ những năm 1940
qua "Thi nhân Việt Nam". Tiếp đó tác giả viết về cái đã tạo nên giọng thơ rất Yến Lan
Có lẽ sự am hiểu thơ Đường và thơ Pháp cộng với chất thơ cổ điển của cha
ông từ bao thế kỷ đã góp phần cho nhà thơ trẻ ngày ấy tạo nên những khóm chữ giàu
hình tượng và mới mẻ của thơ ca Việt Nam từ sáu mươi năm trước.[6,tr.11]
Yến Lan mạnh trong tạo hình, bằng vài nét chấm phá nhà thơ đủ sức gợi lên
cả một khung cảnh, một tình huống, một tâm trạng.[6,tr.12]
2.3.3 Thơ văn Bình Định thế kỷ XX. Nxb Văn học , 2003.
Hội văn học nghệ thuật Bình Định giới thiệu về Yến Lan và những người bạn
trong nhóm tứ linh bằng những lời lẽ trang trọng:
Ký ức cũng nhắc nhở mọi người, nhất là những ai yêu thơ ca, rằng trên dải
đất này, vào giữa thế kỷ trước, thế kỷ XX, đã là nơi hội tụ nhiều ngôi sao lớn của thơ
ca dân tộc làm nên cả trường thơ Bình Định, như nhiều nhà nghiên cứu văn học đã
viết, ghi lại một dấu ấn không phai mờ trong tiến trình phát triển Thơ mới , tiến trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam. Đó là những tên tuổi Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn …[37,tr.5-6]
2.4. Bên trên là những ý kiến nhận định về thơ Yến Lan, về những tập thơ của
riêng ông. Ngoài ra trong giai đoạn đổi mới sau này, qua một số tạp chí, một số tiểu
luận, nghiên cứu của một số tác giả ta còn thấy nhiều bài viết đề cập về Yến Lan.
Đó có thể là những bài viết về cuộc đời về con người ông như: Về An Nhơn
với Yến Lan; Yến Lan những lời kể cuối cùng; Những chuyện tình chưa kể của nhà
thơ Yến Lan; Yến Lan và bài thơ không cùng; Nhà thơ Yến Lan bây giờ sống ra
sao; Người ẩn mình dưới tên gọi giai nhân….các tác giả đã khai thác về cuộc đời
riêng, về chuyện tình, về bút danh Yến Lan, về bản tính hiền lành cần kiệm hay thậm
chí về cuộc đời nghèo khổ của Yến Lan từ những ngày thơ ấu sống với dì ghẻ cho đến
cuộc sống vất vả thời tem phiếu, đến tận khi tóc bạc răng long mà cuộc sống vẫn còn
cơ cực. Những bài viết ấy giúp ta hiểu thêm về nghị lực của một con người, về phẩm
chất tốt đẹp của nhà thơ trước những khó khăn vất vả của cuộc sống mà như một nhà
thơ đã từng nói :
Thói đời cơ cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ
Tuy nhiên, bên cạnh những bài viết về cuộc đời riêng ấy, ta cũng bắt gặp
không ít những ý kiến đây đó nhận xét về thơ Yến Lan:
2.4.1. Viết về đặc điểm thơ Yến Lan ta bắt gặp:
Đinh Quốc Toàn, Yến Lan thi sĩ của miền quê trăng thơ, Bình Định 10/4/ 92
Nguyễn Thanh Mừng - Bóng tà dương của một đời thơ; 50 năm nhà xuất bản
văn học - NXB Văn học 1998.
Hoài Anh, Yến Lan, ông lái đó trên Bến My Lăng giao cảm, Văn số 97/
1999.
Ngô Văn Phú, Yến Lan, hồn thơ Việt - Văn chương và người thưởng thức.
NXb Hội nhà văn H. 2000
Anh Chi, Yến Lan tiền chiến và lận đận Bến My Lăng, Thơ, phụ bản báo
văn nghệ quý II/2003.
Võ Văn Trực, Từ bến My Lăng, - Gương mặt những nhà thơ, NXB Thanh
Hóa, 2004.
Thanh Thảo, 2004, Người cuối cùng của "trường thơ Bình Định" đã ra đi,
Mãi mãi là bí mật - phê bình và tiểu luận.
Qua các bài viết ấy, các tác giả, các nhà nghiên cứu đã khẳng định về những
nét rất riêng của Yến Lan : Ông không lao vào ca tụng tình ái, khao khát yêu đương
như những nhà thơ mới cùng thời mà đi vào chính hiện thực cuộc sống, cuộc sống của
chính mình và " cảnh sắc phong vị miền Trung" nhuần nhuyễn đến tự nhiên, để từ đó
tạo ra những nét " gần gũi", " đồng cảm", "trầm lặng, tinh nhã", "thanh sáng, tinh túy
và cao thượng" qua từng câu thơ, bài thơ.… Đặc biệt cái không khí trong thơ Yến Lan
mà như Hoài Thanh đã nhận xét gần nửa thế kỷ trước, nay lại được bạn đọc một lần
nữa làm sống dậy: " hư hư, thực thực", " bàng bạc, khắc khoải và ẩn chứa". Các tác giả
cũng ngợi ca sự khổ luyện trong lao động nghệ thuật mà Yến Lan đã khắc được những
"dấu ấn sâu sắc, khó phai" trong lòng người đọc. Hay thậm chí tác giả Hoài Anh đã
say mê ví thơ Yến Lan như "vị thuốc ngâm rượu bổ đặc sánh và có hậu, người uống
vào khiến tình cảm khỏe ra, nhưng vẫn vương chút chạnh trong tâm hồn".
2.4.2. Viết về hình tượng trong thơ Yến Lan ta thấy các bài viết sau:
Mang Viên Long, 74 tuổi, nhà thơ Yến Lan - vẫn chờ xuân đến, báo Bình
Định 1990.
Ngô Văn Phú, Yến Lan, hồn thơ Việt - Văn chương và người thưởng thức.
NXb Hội nhà văn H. 2000
Mang Viên Long, Tình hoa trong thơ Yến Lan, Bình Định nguyệt san
Mang Viên Long, Bình Định qua ba bài thơ của Yến Lan, Bình Định nguyệt san.
Thanh Huyền (2002), Yến Lan bến sông và phố huyện, Văn hiến số 81.
Nguyễn Thanh Mừng, Năm tháng còn trên mấy đốt tay, Bình Định nguyệt san.
Đặng Tấn Tới, Về lại Bến My Lăng, Bình Định nguyệt san.
Trước hết về hình tượng thiên nhiên. Với Yến Lan thì thiên nhiên với ông là
người bạn, nên ông đến với nó "bằng tấm lòng trân trọng, chí thành và hồn nhiên".
Qua hoa, lá mà Yến Lan " vẽ được khung cảnh" chất chứa tâm sự. Còn trăng nó là "một
lực hấp dẫn" không chỉ với riêng ông mà còn với các thi sĩ khác của xứ Đồ Bàn. Trăng
trong thơ ông "vừa lay động, vừa an tĩnh trong từng hơi thở", ông yêu trăng đến thành
"bệnh", " đờ đẫn đến quên hết mọi sự".
Quê hương Bình Định cũng là một hình tượng nghệ thuật đặc biệt trong thơ
ông. Ông "khắc khoải với quê hương" và viết về nó "sâu đậm và tạo ấn tượng lâu dài
trong lòng người đọc".
2.4.3 Ngoài ra thơ tứ tuyệt của Yến Lan cũng gợi nhiều cảm hứng trong các
bài viết
2.4.3.1. Chế Lan Viên, lời giới thiệu Thơ Yến Lan, NXB Văn học 1987
Yến Lan cũng là người viết tứ tuyệt thành công. Biết bao bài tứ tuyệt trên các
báo hiện nay chỉ là thơ bốn câu, tứ tuyệt của Yến Lan có tình và có thế võ của tứ tuyệt.
2.4.3.2. Nguyễn Bao, từ Bến My Lăng …, báo văn nghệ 1996
Chính bởi có tài khắc họa và điêu luyện trong chọn chữ , sắp xếp câu nên Yến
Lan đã nổi tiếng trong làng thơ hiện đại của chúng ta về tứ tuyệt
2.4.3.3. Từ Quốc Hoài, Yến Lan cốt cách một đời thơ, Bình Định xuân Kỷ
Mão 99
Thơ tứ tuyệt Yến Lan, những tác phẩm nghệ thuật được ông tinh lọc từ bao
cảnh đời, tình đời, giống như những bức tượng, những phù điêu được chạm khắc tinh
xảo, đặt bên cạnh ngọn cổ tháp - Bình Định 1935 - tạo nên một " bảo tàng văn hóa"
mang phong cách rất riêng của Yến Lan. Thơ tứ tuyệt Yến Lan mang đậm phong vị
Đường thi, song vẫn phảng phất cái không khí mơ hồ bảng lảng hư hư thực thực của
những bài kệ của các bậc thiền sư.
2.4.3.4. Mang Viên Long, Những bài thơ sau cùng của Yến Lan, Bình Định
nguyệt san số 10/ 2002
Thơ tứ tuyệt là loại thơ sở trường của ông, Yến Lan đã rất thành công khi
sáng tác thể thơ này. Lời, ý trong thơ tứ tuyệt của ông được chắt lọc, được dồn nén,
tích lũy để bùng vỡ thành tiếng thơ - dịu dàng, mà sâu sắc, luôn thấm sâu vào hồn
người đọc.
2.4.3.5. Đặng Tấn Tới, Về lại Bến My Lăng, Bình Định nguyệt san
Bên cạnh tứ tuyệt sâu lắng, nghiêm cẩn, chặt chẽ thi pháp Tống Đường của
Quách Tấn, tứ tuyệt có nét độc đáo bất ngờ của Chế Lan Viên, tứ tuyệt Yến Lan tinh tế,
tài hoa.
Như giọt sương tròn vẹn long lanh chứa cả đại ngàn và biển cả, tứ tuyệt - Yến
Lan - luôn được những đợt sóng thơ bất tận dồn nén, đưa về vô hạn
2.4.4. Từ điển văn học (Bộ mới), 2004, NXB Thế giới mới. Nguyễn Văn
Long giới thiệu về Yến Lan: "Thơ Yến Lan có cốt cách khỏe, hình ảnh và ngôn ngữ sắc
nét, giọng điệu phóng khoáng".[32,tr. 2116]
2.4.5. Năm 2005, Trần Tiến Thành bảo vệ luận văn cao học tại trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh với đề tài " Thế giới nghệ thuật
thơ Yến Lan". Trong luận văn này tác giả đã tìm hiểu những chi tiết về cuộc đời ảnh
hưởng đến thơ Yến Lan. Về thơ Yến Lan, tác giả luận văn đã khai thác ở phương diện
cảm hứng trong sáng tác, đi vào ngôn ngữ thơ và giọng điệu thơ Yến Lan. Tác giả luận
văn đã lập những bảng đối chiếu, so sánh về các thể thơ mà Yến Lan đã sử dụng qua
từng giai đoạn và những đặc điểm về lời thơ, câu thơ, giọng điệu riêng của Yến Lan để
từ đó kết luận:
"Kế thừa và dung hòa truyền thống, thơ Yến Lan vừa có sức vang vọng của
thanh âm nguồn cội, vừa có hơi thở thời đại nuôi sống hồn thơ. Phong cách nghệ thuật
thơ Yến Lan phát triển đa dạng, phong phú ở nhiều thể loại, ở những giai đoạn khác
nhau nhưng lại thống nhất trong cội nguồn gốc rễ. Với giọng thơ hiền hòa, nhỏ nhẹ mà
lay động, xoáy sâu trong dư ba vang vọng, Yến Lan đã mở ra cho đời và cho thơ một
lối đi giữa lòng cuộc đời." [91,tr113].
Có thể nói rằng đây là một công trình nghiên cứu khoa học công phu của tác
giả, đã góp phần vào nhìn nhận và đưa thơ Yến Lan đến gần người đọc hơn, là một tài
liệu tham khảo đáng quý cho những ai quan tâm đến thơ ca nói chung và thơ Yến Lan
nói riêng. Tuy nhiên, luận văn vẫn chưa có một sự đối sánh để đánh giá cho đúng, cho
xứng tầm những đóng góp của Yến Lan cho thơ ca nước nhà trong từng giai đoạn. Do
đó thơ Yến Lan dường như vẫn còn lẩn khuất.
Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu thơ ca Yến Lan:
- Việc tìm hiểu về thơ ca Yến Lan, ngoài lời bạt cho ba tập thơ của Yến Lan
thì còn lại hầu hết đều tản mạn ở các báo - đa phần là chuyên san của địa phương Bình
Định hoặc An Nhơn - chỉ là những bài nhận xét về một hoặc vài bài thơ của ông mà
người đọc tâm đắc.
- Các nghiên cứu đều thống nhất ở một số điểm sau: về phương diện nội dung,
thơ Yến Lan chan chứa tình cảm với con người, với quê hương đặc biệt là Bình Định -
thị trấn Bình Định - quê hương ông; về nghệ thuật, phần thành công nhất của ông chính
là sử dụng thể thơ tứ tuyệt một cách nhuần nhuyễn, ngôn ngữ thơ từ chỗ mơ hồ đã gần
gũi, đời thường và nồng thắm.
Vấn đề còn tồn tại:
- Cuộc đời thơ của Yến Lan trải dài theo hoàn cảnh lịch sử của đất nước: Từ
những ngày đầu của phong trào Thơ mới - với Bàn thành tứ hữu tại Bình Định, rồi khi
ông tập kết ra Bắc, những ngày kháng chiến và sau khi đất nước thống nhất giai đoạn
nào Yến Lan cũng sáng tác thơ không nhiều thì ít. Các sáng tác ấy đều có sự vận động
biến đổi theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thế nhưng các bài viết các công trình nghiên
cứu hầu như còn thiếu một chút sự chuyên sâu để nghiên cứu những bước vận động
biến đổi của nghệ thuật thơ Yến Lan qua từng giai đoạn.
- Nghiên cứu thơ ca Yến Lan tất nhiên còn nhiều vấn đề cần được đi sâu khai
thác những khía cạnh tiêu biểu, nổi bật tạo nên một vị thế đúng và xứng đáng với
những đóng góp của ông cho thơ Việt Nam nói chung; việc tiếp cận cũng cần được tiến
hành từ nhiều hướng phong phú hơn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp mới của luận văn
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu văn bản thơ có kết hợp với các yếu tố thời đại,
hoàn cảnh cá nhân của nhà thơ, luận văn nhằm khám phá thêm về đặc điểm thơ của
Yến Lan qua từng giai đoạn lịch sử.
3.1.1. Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình là một thể thống nhất bao hàm các thành tố
cấu trúc và quy luật riêng, thể hiện quá trình cái tôi của nhà thơ nội cảm hóa thế giới
khách quan bằng tưởng tượng của mình. Một mặt, thế giới nghệ thuật ấy gắn liền với
kinh nghiệm cá nhân, với phong cách sáng tác chủ quan của nhà thơ, mặt khác, nó
phản ánh trình độ nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử, một thời đại nhất định. Bởi vậy
luận văn khám phá đặc điểm thơ Yến Lan vừa như một sản phẩm sáng tạo độc đáo của
cá nhân, vừa như là một tiêu biểu cho khuynh hướng chuyển đổi trong sáng tác của văn
nghệ sĩ theo hoàn cảnh lịch sử của đất nước.
3.1.2. Tìm hiểu về đặc điểm thơ Yến Lan, luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu về
thế giới hình tượng trong thơ Yến Lan qua từng giai đoạn, có sự so sánh với các thi sĩ
tương ứng cùng thời.
3.1.3. Các đặc điểm thơ nói trên tất yếu phải được thể hiện ra bằng văn bản ngôn
từ. Bởi thế, một nhiệm vụ quan trọng nữa được đặt ra cho luận văn đó là: Nghiên cứu
những phương thức, phương tiện biểu hiện trong thơ Yến Lan qua từng giai đoạn. Trên
cơ sở đó luận văn phân tích mối tương quan biện chứng giữa nội dung và hình thức
trong sáng tác thơ của ông.
3.2. Đóng góp mới của luận văn
Thực hiện được các nhiệm vụ trên, luận văn sẽ làm nổi bật được những đặc trưng
tiêu biểu của thơ Yến Lan trong cái nhìn chỉnh thể. Kết quả của luận văn nhằm thể hiện
được những đóng góp của Yến Lan cho Thơ mới nói riêng và cho thơ ca Việt Nam nói
chung. Từ đó, luận văn mong góp phần nhìn nhận quá trình vận động của thơ ca dân
tộc từ góc độ văn hóa nghệ thuật.
Người viết cũng mong rằng kết quả của luận văn sẽ đóng góp một phần phục vụ
cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập thơ nói chung trong nhà trường hiện
nay.
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở nguồn tư liệu có được, luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm thơ
Yến Lan và một số phương thức biểu hiện đặc sắc của của nó dưới cái nhìn tổng thể.
Còn những khía cạnh khác xin dành cho những công trình nghiên cứu khác.
Luận văn tập trung khảo sát thơ được in trong 10 tập thơ của Yến Lan đã được
xuất bản và một số tác phẩm thơ sưu tầm được trên các báo trước 1945 do gia đình nhà
thơ Yến Lan và bạn bè thân hữu của ông còn lưu giữ được. Phần văn xuôi, chỉ khi thật
cần thiết luận văn mới liên hệ phần nào để có cái nhìn toàn diện, bao quát hơn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Giải quyết đề tài này, chúng tôi vận dụng các phương pháp chủ yếu sau đây:
4.2.1. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Quan niệm thơ Yến Lan là một chỉnh thể, luận văn chú ý tìm ra những thành tựu
tạo nên chỉnh thể này và quy luật cấu trúc của nó. Mọi đối tượng và vấn đề khảo sát
của luận văn được đặt ra trong tương quan hệ thống và trong quy luật của cấu trúc này.
4.2.2. Phương pháp phân loại, thống kê
Với từng thành tố của chỉnh thể cũng như các yếu tố thuộc phương thức,
phương tiện biểu hiện nghệ thuật ấy, khi cần thiết luận văn sẽ thực hiện phân loại và
thống kê qua các con số cụ thể.
4.2.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
Để khẳng định những nét tiêu biểu cũng như những nét riêng thuộc phong cách của
Yến Lan (trong phạm vi giới hạn của đề tài), luận văn đặt tác giả và tác phẩm trong
mối tương qua so sánh với các tác giả, tác phẩm khác qua từng giai đoạn cụ thể.
4.2.4. Theo hướng điều tra xã hội học.
Để có được những tư liệu đầy đủ và chuẩn xác hơn, chúng tôi đã thực hiện việc đi
thực tế để sưu tập, chụp hình, trò chuyện và ghi âm những gì có liên quan đến cuộc đời
và sự nghiệp thơ văn của nhà thơ. Khi cần thiết chúng tôi sẽ có trích dẫn và phụ chú ở
phần phụ lục.
5. Cấu trúc của luận văn
Do đã có luận văn khai thác về cuộc đời của Yến Lan, do đó để phù hợp với logic
nội tại của vấn đề đặt ra nghiên cứu, ngoài mở đầu và kết luận, luận văn được triển
khai trong 3 chương và không có phần về tiểu sử, cuộc đời nói chung.
Chương 1: Bước đường sáng tạo nghệ thuật của Yến Lan
Chương 2: Hình tượng nghệ thuật trong thơ Yến Lan
Chương 3: Các phương thức biểu hiện trong thơ Yến Lan
Chương 1. BƯỚC ĐƯỜNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT
CỦA YẾN LAN
Cuộc đời lao động nghệ thuật của mỗi nhà văn nhà thơ hầu như đều gắn liền với
xã hội, với những biến động của thời cuộc mà mình trải qua. Nếu không bị động mà bị
cuốn theo những biến động thì ít hay nhiều bối cảnh sống của xã hội cũng để lại những
dấu ấn trong các tác phẩm của họ, Yến Lan cũng không phải là ngoại lệ. Cuộc đời lao
động nghệ thuật của ông trải dài gần ngót thế kỷ, đi qua những biến cố thăng trầm suốt
mấy mươi năm của dân tộc, lần giở những trang thơ của ông ta như đang đọc những
trang đời trước những biến thiên lịch sử của dân tộc. Những tác phẩm của ông gần như
cầm tay nhau bước vào đời, nó phản ánh về cuộc sống xã hội, về cuộc đời về tâm tư
tình cảm của ông, của con người nói chung, đó là thành quả lao động không mệt mỏi
suốt cuộc đời ông. Đọc Yến Lan ta bắt gặp một sự vận động của cái tôi trữ tình tuy tích
cực nhưng luôn ẩn chứa một sự trầm tư đến bình đạm trước cuộc sống mà nói như
Nguyễn Thanh Mừng đó là sự: “trầm lặng và tinh nhã cả trong văn chương lẫn cuộc
đời”. [65,tr. 442]
1.1. Trước cách mạng tháng Tám - với Bàn thành tứ hữu
1.1.1 Khi Yến Lan làm thơ, phong trào Thơ mới đã bắt đầu được vài năm. Công
chúng yêu thơ đương vồ vập tiếp nhận “những bài thơ mô tả những sóng gió ái tình và
khao khát yêu đương” [11,tr.11] bởi đây là đề tài phải kiêng dè, và bị cấm đoán suốt
hàng ngàn năm, giờ đây Thơ Mới đang bứt tung mọi xiềng xích để mọi cung bậc của ái
tình được đường hoàng lên tiếng, phơi mình ra trước nhân gian. Những vần thơ tình
yêu cháy bỏng đang làm háo hức bao tâm hồn thanh niên ngày ấy, nó bộc lộ những gì
mà họ không thể nói, không dám nói:
Đôi hơi thở tìm nhau trong bóng tối
Đôi linh hồn chìm đắm bể u sầu.
(Đêm tàn – Chế Lan Viên )
Hay
Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm
Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em…
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!
(Tương tư chiều – Xuân Diệu )
Vậy mà trong thơ Yến Lan, những vần thơ yêu đương đôi lứa lại rất ít. Phải chăng
chàng không yêu? Hoàn toàn không phải vậy, bởi là con người nói chung và thi nhân
nói riêng thì tình yêu đôi lứa là một phần không thể thiếu trong cuộc sống và đặc biệt là
trong việc nuôi dưỡng nguồn cảm hứng cho thi nhân. Yến Lan cũng viết về thơ tình,
nhưng ta bắt gặp một thứ tình cảm thật nhẹ nhàng
Vì với tình tôi, phải nhẹ nhàng
Phải là ý ngọc, phải tim vàng
Phải là trọn vẹn, là trong sámg
Là một bài thơ khắc chữ " chàng"
(Đồng nội hồn tôi)
Sự xa cách nhớ nhung ta hoàn toàn không thấy chàng rên rỉ hay gào thét cho tung
hê trời đất, mà là sự lắng đọng trong tâm:
Em đi, ngày tháng biệt mùi tăm
Kén đã luân sinh mấy kiếp tằm
Một mảnh hồn ta còn đọng mãi
Trên vành nong úa sắc thời gian.
(Mùa xuân này lạnh lắm em ơi)
Tình yêu tan vỡ bởi sang hèn ngăn cách, ta đã bắt gặp nhiều những cung bậc về sự
oán hận, căm ghét số phận, đớn đau vật vã đến đày đọa bản thân, làm hao tốn bao
nhiêu giấy mực của các thi nhân, lấy bao nước mắt của đôc giả. Nhưng với Yến Lan, ta
không bắt gặp những sự oán than cay nghiệt đó mà vẫn chỉ là sự lặng thầm ray rứt với
bản thân:
Giận cái ngây thơ tự lúc đầu
Thấy rằng tường giậu chẳng ngăn nhau
Ai hay rẽ thúy chia uyên ấy
Còn bức thành cao giữa khó giàu
(Gần nhà xa ngõ)
1.1.2. Không vồ vập ca ngợi ái tình, không bị cuốn theo làn sóng thơ tình ái mà
thơ Yến Lan giai đoạn này, hay nói cho chính xác là khuynh hướng thơ của Yến Lan
ngay từ thuở ban đầu cầm bút chính là lấy cuộc sống của mình, lấy cảnh sắc quê hương
làm đề tài trong các sáng tác.
1.1.2.1. Tác phẩm đầu tiên đưa Yến Lan đến với công chúng chính là bắt nguồn từ
hoàn cảnh đặc biệt của bản thân. Từ tiếng gọi đò của cậu bé mỗi ngày khi mang thức
ăn cho mẹ đang bị ốm ở bên kia sông, cho đến tiếng gọi đò thê thiết trong đêm đi báo
tin mẹ qua đời. Tiếng gọi đò ấy dội vào tâm trí tuổi thơ, đi suốt cả cuộc đời của thi sĩ
như một nối niềm khắc khoải, đớn đau, oán trách. Để rồi tiếng gọi đò ấy đi vào thi
phẩm làm run rẩy bao tâm hồn, níu lòng người lại để đi tìm Bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò - thôi, run rẩy cả ngành trăng…
(Bến My Lăng)
Ngày xưa, khi Tú Xương “vẳng nghe tiếng ếch bên tai” thì bỗng “giật mình còn
tưởng tiếng ai gọi đò”, đó là sự tưởng nhớ về những kỉ niệm êm đẹp của cuộc sống
miền thôn quê, tiếng gọi đò của khách sang sông khi dòng sông chưa bị lấp, đồng quê
chưa bị đô thị hóa, tiếng gọi trong tiềm thức đó là một sự tiếc nhớ. Còn trong văn học
giai đoạn 30 -45 này có hai bài thơ cùng chứa đựng những tiếng kêu não nùng trong
đêm vắng. Độc giả yêu thơ có lẽ không quên những âm thanh não nùng của hàng trăm
con quạ giật mình kêu hoảng loạn trong bóng đêm qua bài thơ Đêm thu nghe quạ kêu
của Quách Tấn.
Từ Ô Y Hạng rủ rê sang,
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng…
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương sòng bạc.
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang…
Tiếng của một đàn quạ kêu rộn lên ở những bờ tre cạnh sông Côn nằm trên chặng
đường từ An Vịnh về Phú Phong đã gây cho Quách Tấn một ấn tượng mạnh mẽ, suốt
đời ông vẫn nhớ, nó khiến ông viết hẳn một bài thơ Đường nổi tiếng mà nhiều người
phải bàn đến. Giữa đêm khuya, tiếng đàn quạ kêu thật ấn tượng, tiếng kêu ấy thật não
nùng trong làng Thơ mới ngày ấy. Thế nhưng cái âm thanh trong bóng đêm ấy so với
tiếng gọi đò làm “run rẩy cả ngành trăng” kia thì có lẽ tiếng gọi đò ngày ấy nó không
chỉ ám ảnh suốt phần đời của tác giả mà nó cũng làm khắc khoải bao lớp người yêu
thơ. Nó đưa Yến Lan bước lên thi đàn của dân tộc, đóng dấu khai sinh tên gọi cho một
miền sông nước bằng Bến My Lăng.
Một tuổi thơ sớm chịu mồ côi đến hoàn cảnh sống đặc biệt của bản thân mình
cũng được Yến Lan bộc bạch :
Đây tôi sống trong xanh nghiêm thánh thất
Đèn lưu ly hao sáng mộng tràn đầy
Lan can đỏ xuống dần từng bậc bậc
Hồn cuộn dần bậc bậc khói hương xây
Hồn tôi loảng trên bệ vàng thếp chảy,
Cùng hồn trưa quấn quýt lấy giao lân.
Tám phương bạn – chợp hàng mi – mộng thấy
Xứ tâm tình, vàng rộn lá thu phân.
(Bình Định 1935)
Mẹ mất sớm, nhà nghèo, cha làm thủ từ ở Chùa Ông, gia đình cũng phải nương
nhờ nơi mái chùa ấy. Tuổi thơ gắn liền với việc hương khói của cha nơi điện Phật, thế
nên bạn bè quấn quýt trong giấc mơ nhiều khi lại chính là những linh vật trong huyền
thoại và cũng bởi một phần phận nghèo nên không ai muốn cho con kết bạn cùng.
Cũng chính cái cảnh nghèo khó ấy khiến những bâng khuâng xao xuyến buổi đầu rung
động nhiều khi thật bẽ bàng. Chàng hăm hở “băng đồng” đi hái hoa để tặng người, thế
nhưng cái dáng “thư sinh lam lũ”, nghèo nàn cộng với bó hoa đồng nội thì người ở lầu
cao kia “đâu dễ động tình” dù chàng đã đợi chờ đến khi hoa héo, đến độ “chòm mây
trên đỉnh núi” kia cũng héo theo. Vậy mà, chàng có trách ai đâu, chỉ âm thầm tự trách
mình quá đỗi vụng về nên chỉ hiểu được hoa thôi:
Trở lại cành trơ, tự hổ ngươi
Giá hoa còn đấy, hẳn đang tươi
Vụng về đến phải vô duyên vậy
Bởi hiểu hoa thôi chẳng hiểu người.
(Hoa tặng)
1.1.2.2. Tuy nhiên, hoàn cảnh riêng ấy không làm giảm đi tình cảm của chàng với
mảnh đất Bình Định thân yêu. Hầu như những thi phẩm trong giai đoạn này của Yến
Lan chính là thiên nhiên, cảnh sắc quê hương Bình Định với muôn hình muôn vẻ.
Một mảnh đất cằn cỗi khiến người ta không thể nào gieo trồng được gì cả, người
phải bỏ hoang, thành “đất góa”, “ruộng mồ côi”. Bởi cây cối nào có thể trụ được với
đất sỏi, đồi trọc ấy. Sự cằn cỗi đến đỗi mà “chuối chực bồng con, thân đã cỗi”, “ngọn
tre” không vượt lên nổi “lùm gai”:
Ở đây đất góa, ruộng mồ côi
Cao, thấp chen chân những lũng đồi:
Gò Hội, gò A nung sỏi đỏ
Gò Nghiêm, gò Mỹ trọc mưa trôi!
(Én Đào)
Chính cái cằn cỗi ấy mà không chỉ thực vật, động vật mà đến những sinh vật phù
du cũng khó tồn tại:
Lặn lội – cò, le vẫn đói mồi
Bàu Đưng, bàu Gốc mảng bèo phơi
Bàu Hồ cỏ vượt, bàu Sim cạn
Cái tép con tôm cũng lạc loài
(Én Đào)
Một cái tỉnh nhỏ không có sức sống, mà chỉ qua một đoạn thơ ngắn, tác giả đã
khái quát được sự mòn mỏi, đìu hiu, bế tắc của nó mà nói như tác giả Đỗ Lai Thúy đó
là: “Chỉ bằng mấy chục câu thơ mà Yến Lan đã làm được cái mà một nhà văn xuất sắc
như Nam Cao cũng phải dựng hẳn một thiên tiểu thuyết “sống mòn” nổi tiếng” [96,
tr.376]
Tỉnh nhỏ,
Võ vàng
Nắng thắt ngang hầu thị trấn
Gập ghềnh trên đường vắng:
Cuộc đời – hay cỗ xe bò-
Nhắm về phía mả mồ
Chậm rãi lê từng bước một.
(Lại về tỉnh nhỏ)
Người ta thường ví cuộc đời với muôn vàn những danh từ mĩ miều khác nhau,
vậy mà ở đây ngay tại cái thị trấn này, sự ngưng đọng, bế tắc của cuộc sống đến mức
tác giả ví nó như cỗ xe bò, chưa hết, cỗ xe bò ấy đang chậm rãi lê từng bước về phía
mã mồ. Một cuộc sống không hề còn có ý nghĩa, không tương lai, không đợi chờ.
Một phiên chợ nghèo xơ xác ven sông, trong cái lạnh của chiều cuối năm càng
làm nổi lên cái cám cảnh cho quê nghèo, buồn là vậy thế mà thi nhân nhìn thấy đây đó
chính là nét mộc mạc của quê mình, tiếng kẽo kẹt của bụi tre trước những cơn gió lạnh
thì chàng lại thấy rằng tre đang nhại tiếng thi nhân, hay chính xác hơn tre như cũng
đang tập làm thơ, nghe sao mà thi vị - hình như cố thi vị để mà tồn tại:
Chiều nghe chuông chở rét qua sông
Chiều mong lời vui ở cánh đồng
Tre nhại thi nhân trong xóm lạnh
Chợ tàn tiễn khách với lều không
(Chiều)
Một vầng trăng rất riêng của Bình Định, mà đã làm hao tốn bao giấy mực của các
thi nhân nơi đây, quyến rũ biết bao bạn đọc tìm đến với vầng trăng: thơ mộng, yêu
đương, giận hờn, ghen tuông, bỡn cợt, ma quái và dường như lại rất thật, thật đến độ
người ta có thể mang trăng rao bán, thấy trăng khóc, trăng cười và trăng ghì xiết yêu
đương. Hình ảnh trăng trong thói quen mang nặng tính ước lệ, nó thường đi liền với
quan niệm về sự ước nguyền, trong sáng, trọn vẹn. Thế nhưng với Hàn Mặc Tử trăng
gắn liền với hành trình tâm trạng của nhà thơ, nó hầu như không còn là một khách thể
thiên nhiên nữa mà dần dần nó biến dị một cách lạ thường, đặc biệt là khi nhà thơ ở
vào thời điểm ranh giới giữa sự sống và cái chết, lúc hồn thơ phải kịch liệt chống lại sự
tắt dần của sinh lực thì trăng trở nên rùng rợn
Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Và
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.
(Say trăng – Hàn Mặc Tử )
Với Chế Lan Viên sự tiếc thương thời đại cũ khiến ông đưa người đọc đến với
một thế giới xa lạ, rùng rợn của những nấm mồ hoang, huyệt lạnh, những đầu lâu
xương trắng với những linh hồn vật vờ của dân Hời. Chính vì vậy mà trăng trong thơ
Chế Lan Viên có thể gọi là một vầng trăng ma quái. Nếu không phải là cảnh trần
truồng tắm trăng để quay cuồng lăn lộn cùng trăng, để cho trăng chảy khắp thân thể,
trăng ghì riết lấy thịt da thì là cảnh dưới đáy mồ sâu, khi những linh hồn vong quốc
đang chạy trốn ánh sáng để thở than thì ánh trăng vỡ ra lả tả rơi từng mảnh từng sợi
vào từng ngóc ngách dưới đáy huyệt kia khiến những linh hồn hoảng loạn như phát
điên và họ nhìn thấy hình như trăng cũng đang điên:
Thôi hết rồi, bây giờ đầy ánh sáng
Đã tràn lan, hể hả, chảy mênh mang
À cũng còn vài vũng đêm u ám
Đang điên cuồng giãy dụa giữa vùng trăng
(Trăng điên - Chế Lan Viên )
Còn với Yến Lan, trăng lại là một phần máu thịt, trăng đã là cái nôi từ buổi chào
đời, trăng là người bạn suốt tuổi ấu thơ một sự gắn bó sâu sắc và đến bây giờ trăng
hình như đã trở thành người yêu, vì trăng cũng giận hờn nũng nịu và cũng ích kỷ muốn
giữ thi nhân cho riêng mình mà thôi
Trăng chẳng cho tôi mến một người
Một trang sách mở dưới ban mai
Một hoa hồng nở trong chiều mộng
Hay một hồn thơ sáng rực lời.
(Bệnh trăng)
Một Bình Định với những dấu vết thành quách cũ, những bóng tháp cổ kính thâm
u. Từ những suy tư về sự diệt vong của một dân tộc, một vương quốc - Chiêm Thành -
đôi bạn thi nhân – Yến Lan, Chế Lan Viên - của thành Đồ Bàn ngày ấy từng bá vai
nhau lên lầu cửa Đông nhìn những dấu vết thành quách cũ - thành Đồ Bàn - để rồi cùng
thương tiếc, cùng ngậm ngùi cho một dân tộc. Họ bàn với nhau phải viết một cái gì đó
cho dân Chàm, về dân Chàm. Thế rối người trước người sau Yến Lan với tập thơ
"Giếng loạn" viết về cuộc chiến tranh tang thương làm tan nát, xóa sạch một vương
quốc, để bây giờ nó chỉ còn là những dấu tích hoang phế, cuộc chiến ấy gieo đau khổ
cho bao kiếp Chiêm nương ngày xưa. Chế Lan Viên với tập "Điêu tàn", những tưởng
tượng về hồn ma bóng quế, tiếng nức nở của dân Hời ngày cũ tất cả xoáy sâu vào tâm
thức của người yêu thơ đương thời. Nếu như Chế Lan Viên từ những phế tích của
vương quốc Chiêm thành đưa người đọc đến với mối sầu vong quốc bằng những hình
ảnh kinh dị của thế giới cõi âm, những lời than khóc tiếc nuối cho một quá khứ oai
hùng, những hình ảnh rùng rợn của xương trắng đầu lâu, máu me…tất cả đánh vào
“tầm đón đợi” của lớp công chúng mới bước ra từ thế giới của những ước lệ và quy
phạm tạo ra một “khoảng cách thẩm mĩ” quá lớn, nó là cú sốc mà nói như Hoài Thanh
đó là “một niềm kinh dị” thì Yến Lan lại đi vào một khía cạnh khác: thân phận của
những Chiêm nương. Từ những gì còn sót lại của tập thơ Giếng loạn bị thất lạc ta có
thể cảm nhận được mối cảm thương của Yến Lan với những kiếp đời hồng nhan ngày
cũ bằng những dòng tâm tình như với chính những người phụ nữ của ngày hôm nay.
Nàng cũng yêu đương mơ mộng như bao thiếu nữ khác thế nhưng cuộc chiến tang
thương đã cướp đi của nàng người trong mộng bỏ lại song thân đầu bạc cô quạnh buổi
thu tàn đông lạnh, nàng tựa cánh chim câu lẻ bạn biết đi về đâu?
Vì lúc ấy, em ơi,
Chinh chiến cướp một người,
Chiều nay chim bạch câu
Về đậu ở bên lầu.
Một ngọn đèn cô quạnh.
Hai mái đầu trắng phau.
Không lẽ trời thu lạnh.
Mà vắng vẻ trước sau!
(Vắng vẻ)
Vết thương ấy không làm nàng rỉ máu vậy mà lần mòn giết nàng trong nỗi nhớ
không khuây để rồi một chiều sương nhạt, nàng như ngọn đèn dầu khô cạn, lặng lẽ đi
tìm người yêu ở cõi vô cùng, buồn đau thêm một lần rót xuống những mái đầu bạc
trắng :
Buồn rót trong hồn đắng biệt li
Ôi màu nên rộng ứa trên mi !
Những người tóc bạc nhìn hương cháy
Bên cỗ quan tài sắp trẩy đi
Mai mới mươi lăm, Mai của duyên
Của màu, của sắc, của thiên nhiên,
Vội vàng rụng trước xoan bừng ngõ
Theo nắng hanh vàng biệt mái hiên
(Những người qua cửa)
Để rồi một đêm trăng nào đó người ta như thấy bóng nàng lẩn khuất bên nhịp cầu,
những cánh sen lay động hay bước chân nàng đang lướt đi? Một sự cảm thương đến
xót xa bởi nàng như kiếp tằm non đã vội bị hóa bướm khi mà đời nàng chưa nếm đủ
mùi dâu :
Đêm nay sen nở lòng tươi thắm
Hứng bóng nàng qua những nhịp cầu
Từ tuổi tằm non sang tuổi bướm
Đời nàng chưa nếm đủ mùi dâu.
(Sen nở)
Tất cả, tất cả những nét riêng tư của cuộc đời, hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của Bình
Định, của vùng đất giao thoa bao nền văn hóa, của những phế tích đền tháp, lăng tẩm
tạo thành một dòng nhựa sống trong tâm hồn thi nhân. Chính vì vậy cho dù đi bất cứ
nơi đâu, ở bất cứ hoàn cảnh nào tấm lòng thi sĩ vẫn hướng về mảnh đất ấy với một tình
yêu vĩnh cửu:
Nhánh tòng, bá có đau vì xứ sở,
Chớ quặn mình thêm nức nở hồn tôi.
Không được sống , xin cho cùng được thở,
Vạn - lý - tình trong gió ngọt xa xôi.
(Bình Định 1935).
Có thể nói những tác phẩm giai đoạn trước cách mạng tháng Tám của Yến Lan
còn lại không nhiều, nhưng những gì còn đến ngày hôm nay cũng khiến ta cảm nhận
được sự đóng góp của ông cho nền văn học nước nhà dù là lặng thầm nhưng rất đáng
trân trọng. Hơn nửa thế kỷ trước Hoài Thanh đã từng nhận xét về thơ Yến Lan rằng:
“Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng
lâu dần cơ hồ như ngạt thở” [90, tr.171], cái sự mơ màng cơ hồ như ngạt thở ấy có
phải là của riêng Yến Lan không khi mà cả một thế hệ thi nhân lúc ấy chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ từ thơ Pháp, đặc biệt sự ảnh hưởng của Baudelaire và chủ nghĩa tượng trưng?
Sự ảnh hưởng ấy để rồi tạo ra những câu thơ mà nói như Hoàng Ngọc Hiến đó là: “Có
những câu thơ người đọc chưa kịp hiểu ý nghĩa đã cảm thấy hay, thậm chí chưa bao
giờ hiểu ý nghĩa mà vẫn cứ ám ảnh…”[21, tr.156] thơ Yến Lan rơi vào trường hợp như
thế chăng? Tuy nhiên, cần nhìn nhận một cách chính xác những gì Yến Lan đã đóng
góp cho phong trào Thơ mới lúc ấy nói riêng và văn học Việt Nam nói chung đó chính
là sự cách tân trong câu chữ, góp phần mang lại thắng lợi cho Thơ Mới trên thi đàn văn
học nước nhà. Chế Lan Viên đã từng ghi nhận sự đóng góp ấy bằng một thái độ
nghiêm túc, nể phục:
“Năm 19935 khi nền Thơ mới còn chập chững, Lan đã có nhiều tìm tòi táo bạo.
Tả một cánh buồm cô đơn, tìm về nghỉ ngơi trên sóng đảo dịu dàng, Lan viết:
Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ
Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi
Năm kia tôi yêu cái tên một tập thơ nước ngoài Quả lê tam giác (la pavie
triangulaire). Nhưng sầu tam giác hay hơn chứ và viết trước lê hơn bốn mươi
năm….cánh ủ viên trang, chiều bồ câu, thơ đá chạm biết bao nhóm chữ phối hợp, cấu
trúc trong cái tương quan kỳ lạ, ngỡ như mới được viết hôm qua, giữa năm 86 này…”
[110, tr.6 – 7]
1.2. Sau cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ mở ra một trang sử mới trong lịch sử
dân tộc mà còn mở ra một trang sử mới cho văn học nước nhà. Bên cạnh tư thế mới
của một dân tộc “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” đó là sự xuất hiện của một phong cách
nghệ sĩ mới: nghệ sĩ – chiến sĩ. Có những nghệ sĩ cầm bút trước khi cầm súng, có
những người sau khi cầm súng mới biết đến ngòi bút như là một thứ vũ khí thứ hai
cũng vô cùng lợi hại. Họ đã tay súng tay bút đi suốt hai cuộc kháng chiến của dân tộc
tạo ra một thời kỳ rực rỡ cho văn học nước nhà. Lớp lớp các nhà văn nhà thơ ngày ấy
đặc biệt là những nhà Thơ Mới, cách mạng đã mang đến cho họ một đường đi một lối
thoát mới cho cuộc đời, đưa họ ra khỏi những cô đơn, chán nản tuyệt vọng của những
ngày cũ, chỉ cho họ con đường cần phải đi. Tất nhiên không phải ai ai cũng lập tức
chuyển hướng được ngòi bút của mình vốn dĩ đang phục vụ cho một cái tôi cá nhân
tuyệt đối sang để phục vụ cho cái ta chung, cho thời cuộc mà họ có một khoảng thời
gian “nhận đường” dài ngắn khác nhau, có người ngày một ngày hai, có người một hai
năm và cũng có người phải mất đến mười năm. Nhưng điều quan trọng nhất đó là họ
đang thực hiện nhiệm vụ của một công dân với Tổ quốc, khi Tổ quốc cần. Trước đây
họ có thể thuộc những trường phái khác nhau, những giọng điệu khác nhau nhưng bây
giờ họ đang cùng chung một chiến tuyến, cùng cất cao giọng trong cuộc chiến với quân thù.
Cũng như rất nhiều nhà thơ khác, sau cách mạng tháng Tám Yến Lan cũng tìm
đến với thơ ca cách mạng như một sự vận động tất yếu. Thơ ca với họ lúc này không
chỉ đơn thuần là sự giải trí mà nó còn như là một công cụ, một thứ vũ khí phục vụ cho
cách mạng. Tuy nhiên, mỗi người có một cách thể hiện rất riêng. Có người ngay thời
điểm ấy thơ ca cách mạng của họ rất phổ biến, rất quyết liệt, nhưng với thời gian nó
dần bị mai một đi, lặng lẽ mất đi do sự đào thải khắc nghiệt của tiêu chí nghệ thuật. Có
người chỉ bình lặng thôi những vần thơ về đất nước, nhưng đến tận bây giờ vẫn là
những câu thơ hay mà người ta vẫn còn ngâm ngợi. Yến Lan thuộc nhóm nào? Thơ
ông ngày ấy còn “sống” đến hôm nay không? Chế Lan Viên từng nhận xét rằng: “Có
những người cách mạng đến thì viết hay ra, có người viết chỉ dài ra, âm vang ngắn lại.
Có người thì tắt nghỉm…. Lan là người sau cách mạng, nhờ cách mạng đã viết không
những khác đi mà lại hay hơn” [110, tr.8].
Bốn tập thơ: Những ngọn đèn (1957), Tôi đến tôi yêu (1965), Lẵng hoa hồng
(1968), Giữa hai chớp lửa (1978); hai tập truyện thơ : Nước mắt ngọt (1967), Én Đào
(1979) và một bản thảo thơ diễn ca : thư Bác đời ta (1965) lần lượt được hoàn thành và
cho ra mắt. Đó là kết quả của cuộc hành trình suốt mấy mươi năm trải qua hai cuộc
kháng chiến từ trên miền núi xuống đến miền biển, từ miền Trung đến tận cùng miền
Bắc của Yến Lan “Thơ anh in dấu từng bước đi của dân tộc trong những ngày đất
nước chia cắt. Lòng anh cuồn cuộn thương nhớ quê Nam, hào hứng cùng chiến công
An Lão. …” [104, tr.27]. Tất nhiên con số tác phẩm không phải là quan trọng mà cái
quan trọng là vị trí của những tác phẩm đó trong đời sống văn học hôm nay.
1.2.1. Qua những thi phẩm trước cách mạng, điều ta nhận thấy rõ nhất trong thơ
Yến Lan đó là “một tâm hồn mạnh mẽ, thơ ông không mấy khi rơi vào bi lụy như phần
lớn thơ ca đương thời” [11, tr.34] không than khóc ủy mị, không buồn bã tuyệt vọng bế
tắc như các thi sĩ của Thơ mới đương thời thế nên ngay từ những ngày đầu cách mạng,
Yến Lan đã tiếp rất nhanh ngọn lửa đấu tranh, ông tích cực tham gia, vận động, cùng
bà con đi cướp chính quyền Huyện, những tháng ngày sôi sục ấy nằm mãi trong kí ức
của ông.
Tôi sống những ngày thân cò lặn lội
Gánh gạo, phá thành, đốt đuốc, dời kho
Cùng xứ sở chung ngọn đèn le lói
Ngày như đêm tiếp mãi lửa căm thù
(Bình Định 1947)
1947 -1948 khi Pháp tăng cường đổ bộ và đánh phá miền Trung hòng chiếm lại
từng dải đất trên lãnh thổ Việt Nam. Lòng căm thù khiến từng gốc cây, ngọn cỏ cũng
hóa thành vũ khí, thành trận địa chiến đấu:
Đất An Lão đâu nằm im chịu giặc
Rẫy dứa hầm chông, ngọn cau liên lạc
Anh cầm cày, chị bắt ốc ven sông
Đặt bẫy, gài mìn chờ cuộc phân công.
(An Lão)
Tuy nhiên, cái đáng nhớ chính là những hoạt động nghiêng về văn nghệ mà Yến
Lan đã làm trong thời kì này, đó chính là tuyên truyền đường lối, giải thích những thuật
ngữ cách mạng, bình những bài thơ văn hay trên báo và sáng tác những bài ca dao về
truyền thanh – một công việc mà ông phụ trách trong những ngày đầu cách mạng - để
tuyên truyền cho bà con quan tâm tới truyền thanh - tiếng nói cách mạng, tới những
thông tin bổ ích trong cuộc sống. Những bài ca dao ấy, nhiều bà con đương thời vẫn
còn nhớ:
Chẳng hạn:
Ăn dừa đập sọ dừa ra
Ăn chuối lột vỏ, ăn na bỏ cùi
Nghe ai, chợ quán trao lời
Phải lọc ra cốt phải xoi ra luồng
Kẻo mà lộn ghét thành thương
Nhầm người đoan chính ra phường gian ngoa
Ta về ta mở tiếng loa
Điều hơn lẽ thiệt phân qua tỏ tường
Hay
Dây tơ hồng dài nên dây tơ hồng rối
Dây truyền thanh dài đường lối thêm thông
Đôi ta xa chợ cách sông
Mà nên em vợ, anh chồng vì đâu
Phải chăng từ nối mối đầu
Tiếng loa bắc tới nhịp cầu tâm giao
1.2.2. Năm 1954, hiệp định Generve được kí kết, đất nước chia đôi, sông Bến Hải
chính là ranh giới. Khi biết rằng những kẻ cầm quyền mới sẽ điểm mặt những người
tham gia cách mạng để thủ tiêu thì Yến Lan quyết định đưa gia đình đi tập kết, một nửa
hân hoan về với độc lập tự do, một nửa kia rất đỗi ngậm ngùi khi phải xa lìa quê
hương.
Ta về phía bên kia giới tuyến
Tiếp nửa trời, sông, biển Việt Nam
Nửa nhành phổi, nửa con tâm
Nửa mình áo lụa, nửa mâm cơm vàng
(Khúc hát những người tập kết)
Trên đất Bắc, những ngày kháng chiến, những gì còn sót lại cộng với những sáng
tác mới nhất mãi đến năm 1957 ông mới đem in thành tập Những ngọn đèn, được Văn
Cao đề tựa. Tuy nhiên, một mặt nói như nhà thơ Vũ Quần Phương là “ thời thế và cảm
nghĩ người đọc lúc đó đã đổi khác, các bài viết lãng mạn đó không được đón nhận
nồng nhiệt mà còn bị phê phán là mang theo nỗi u buồn cá thể vào tâm trạng một Yến
Lan cách mạng” [78, tr.5] ; mặt khác những câu thơ về muôn mặt cuộc sống trong
những ngày kháng chiến như:
Bây giờ anh mới nghĩ ra:
Vì đời chật chội nên ta hẹp hòi
(chạy mưa)
Hay:
Bởi họ thiếu
Con tim
Khối óc
Luôn động đậy
nhưng chỉ là tĩnh vật
Họ không bằng tĩnh vật sống trong tranh
(Tĩnh vật)
mà được Văn Cao giới thiệu là: “Từ một người hiền lành, bình dị, Yến Lan đang trở
thành một người muốn thúc đẩy một sức gì đang làm trì trệ cuộc sống của chúng ta”
và “thơ anh bắt đầu biết đề cao những hành động, tình cảm của con người anh yêu lên
để đả phá những bọn phá hoại sự xây dựng của xã hội” [10,tr.6] đặt trong hoàn cảnh
của thời kì chống phong trào “Nhân văn giai phẩm” ngày ấy nên Yến Lan cũng phải
một thời “điêu đứng” [45,tr.91]. Sau đó, cùng với nhiều văn nghệ sĩ đương thời ông
được đưa đi thực tế về nông thôn để thực hiện “ba cùng” với nông dân. Sau đợt phê
phán, Yến Lan đã “có sự phấn đâu cật lực để đổi khác” [78,tr.5] . Lần lượt những tập
thơ như trên đã nói ra đời, chúng mang đậm không khí thời sự những ngày xây dựng
cuộc sống mới và cuộc đấu tranh giành trọn vẹn đất nước: “ Thơ anh đã in dấu từng
bước đi của dân tộc trong những ngày đất nước bị chia cắt” [104, tr.27]. đến Tây Bắc,
Sa Pa cảm nhận cuộc sống từng ngày đổi thay, mang mầm của sức sống mới:
Sapa, Sapa
Rau dàn mặt đất
Bàn tay thành thị đến tăng gia
Sapa, Sapa
Biệt thự công viên Tây nghỉ mát
Nay hố bom tròn dê nhảy qua.
(Mùa xuân lên cao)
Nương theo gió xuân lên tận biên giới, anh xúc động trước mảnh đất tận cùng Tổ
quốc, hạnh phúc trong sự gần gũi thâm giao của hai dải đất: cây trồng bên này mà trái
vươn sang cả đôi bên:
Đi lên – đi lên cây số “không”
Mà vẫn dài thêm tình núi sông
Như gốc ổi bên phần đất Việt
Cành phía Trung – hoa tiếp tiếp bông.
(theo gió xuân lên biên giới)
Công cuộc hợp tác xã nông thôn cũng được Yến Lan ghi nhận với bao háo hức,
bỡ ngỡ của những ngày đầu đổi mới. Tuy đến nay, mô hình này không còn phù hợp,
hay nói chính xác hơn là nó đã thất bại, nhưng những ngày ấy nó lại là một sách lược
trong buổi đầu xây dựng hòa bình và công bằng xã hội:
Từ tổ đổi công
Tiến lên hợp tác.
Kinh nghiệm người già góp thành bóng mát
Gái trai góp lộc đầu xuân.
Ta dắt ruộng xa về với ruộng gần,
Cộng kép ghép đơn, cày sâu bừa lỏng;
Trâu tám ngõ ra, về chung một cổng
(Bài ca hợp tác thôn tôi)
1.2.3.Từ năm1965, Mĩ ồ ạt đổ quân vào chiến trường miền Nam, tăng cường đánh
phá miền Bắc hòng làm tê liệt nền kinh tế, đập tan hậu phương lớn của chiến trường
miền Nam, hòng xóa bỏ quyết tâm chiến đấu thống nhất Tổ quốc của dân tộc. Đất nước
là cả một chiến trường lớn. Sự khốc liệt được Yến Lan phản ánh ở mọi mặt của cuộc
sống rất đời thường.
Đó là những người dân vạn chài bất chấp sự cấm đoán, bất chấp súng đạn, tàu
chiến của giặc vẫn kiên cường bám biển để giữ lấy sự sống và nguồn tiếp tế cho chiến
trường miền Nam:
Mặc chúng nó tầm xa đại bác
Thùng mắm ván bay, cần câu phao dạt…
Mặc chúng nó kéo còi đổ bộ
Xăng tưới vạn nghề, lửa hun bãi sú…
Mặc chúng nó bay là mặt sóng
Thuyền máy, ca nô đan dày giữa lòng
Ta thuyền nan vượt bể tròng trành
Rẽ mái chèo theo ánh lân tinh
(Bài ca những người bám biển).
Đó là những con người thầm lặng ở cứ điểm Khe Sanh - con đường tiếp tế cho
chiến trường miền Nam. Biết chắc đó con đường huyết mạch của cuộc chiến, thế nên
giặc Mĩ tăng cường đánh phá đường Trường Sơn ấy. Khe Sanh, đường 9 trở thành một
trong những địa điểm ác liệt nhất ngày ấy. Yến Lan nhẹ nhàng đưa lời ru của người mẹ
Vân Kiều như muốn xoa dịu đi tính chất khốc liệt của những ngày máu lửa
Mẹ hát cho con
Sáu chàng dũng sĩ
Trên điểm cao làm sáu vị thiên thần
Dập xuống tro bùn hơn trăm quỷ sa tăng
Mẹ hát cho con
Những cụm đồi úp nón
Bom tọa độ đã phạt bằng trên ngọn
Vẫn mọc lên từng trận thét xung phong
Lật xe thù ngang bước phản công.
(Khe sanh – đường 9)
Đó là những người yêu xa người yêu, họ ở những trận tuyến khác nhau, nhưng
luôn nhớ về nhau và gặp nhau qua những chớp lửa: lửa nơi hậu phương em sơ tán , lửa
nơi chiến trường anh đang ngày đêm chiến đấu:
Em lên bếp đèn
Đánh que diêm nỏ
Pháo anh vừa nổ
Ta nhìn thấy nhau
Giữa hai chớp lửa.
(Giữa hai chớp lửa )
Đó là đội công tác chim Én tí hon của quê hương. Những em thiếu niên dũng
cảm, biết tập đánh trận, giết thù bất chấp hiểm nguy. Sự hi sinh của các em chính là
góp thêm một viên gạch cho việc dựng xây tương lai cho đất nước. Các em ngả xuống
rồi nhưng với quê hương thì các em vẫn còn quanh đây:
Ơi Én Đào ơi ! sống đây mà
Cùng về giải phóng cả quê ta
Vẫn mười sáu tuổi như hôm ấy
Bên những người thân sương nắng pha…
(Én Đào)
1.2.4. Trên tất cả chính là những đổi thay của quê hương Bình Định cho dù có
những quãng thời gian tác giả không ở gần bên, nhưng những gì thu thập được cùng
với nỗi nhớ da diết khiến tác giả có những loạt bài như vắt cạn cả tâm tư. Mỗi dòng,
mỗi chữ ta như cảm nhận được ông đang “ cùng được thở” với hơi thở quê hương.
Không còn là một Bình Định của những tháng ngày héo hắt đợi mong của 1935,
mà ở đó cuộc sống từ vật chất đến tinh thần đều xơ xác kiệt quệ, đàng thì chờ xe mà
sông nước phải ước mong thuyền... Bình Định 1945 đã ghi dấu sự đổi thay, một sự hồi
sinh đến mức thần kì:
Không, Bình Định đã qua cơn sốt rét,
Nước da vàng lột theo vỏ cây khô.
Dấu xe ngựa đã niêm đầy ngõ kiệt,
Trăng lạc loài đã gặp lại giữa đêm thu.
(Bình Định 1945)
Hai năm sau cách mạng tháng Tám, sức sống tràn căng cùng với niềm hi vọng
nhưng khó khăn chưa hề chấm dứt. Kẻ thù vẫn còn đó, chúng quyết không chấp nhận
thua một dân tộc bé nhỏ nên bao nhiêu những vũ khí hủy diệt hiện đại, chúng mang
vào trút xuống từng dải đất thân yêu.
Người băng nẻo tuông qua lòng Bình Định
Rứt quê hương như rứt tóc, rứt da
Cuộc gian khổ đã bắt đầu nặng gánh
Sông lại mong thuyền, tàu lại nhớ ga.
(Bình Định 1947)
Thế nhưng bom đạn hủy diệt càng khốc liệt bao nhiêu thì lại càng khơi dậy lòng
yêu nước và sự căm thù hừng hực bấy nhiêu. Già, trẻ, gái, trai đều một lòng chống
giặc. Từ những con người hiền lành, bình dị vô danh trở họ trở thành dũng sĩ:
Cha mẹ phá đường, bà cháu tản cư
Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thủy
Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân Sơn.
Gái quạt trấu cũng hóa thành dũng sĩ….
(Bình Định 1947)
Để rồi hai mươi năm đất nước Bắc – Nam chia cắt, cả một đời người với nỗi nhớ
quắt quay. Ngày chiến thắng, cứ ngỡ trong mơ. Trở lại quê hương sau cơn cách biệt,
vui sướng đấy mà cũng không nén được nỗi ngậm ngùi:
Tôi trở lại với mái đầu đốm bạc
Bé u – ơ nhà lạ đón nhìn “ông”
Láng giềng cũ quá nửa phần xiêu bạt
Cả bầu trời cũng vợi hết mênh mông.
(Bình Định 1975 – 1976)
Tâm trạng ấy, tâm trạng của thời đại: sung sướng ngập tràn mà nước mắt rưng
rưng. Thời gian không chờ đợi một ai, ngày trở lại thân quen, xa lạ, vui mừng mà cũng
hờn tủi trong nhau:
Mặt bè bạn đông dần quanh gác xép
Trời rưng rưng, sông nước cũng rưng rưng
Ngoài nghìn dặm, hai mươi năm cách biệt
Lạ vẫn từng quen, hờn tủi vốn vui mừng.
(Bình Định 1975 – 1976)
Giải phóng rồi, thống nhất rồi, niềm vui của ngày sum họp vẫn còn đầy ắp trong
nhau, nhưng trái tim nghệ sĩ của ông không dừng ngang đó, trái tim của những thổn
thức đời thường đang quặn lên trước những hệ lụy của cuộc chiến đang diễn ra:
Thị trấn bé cũng ngẩn ngơ lạc ngõ
Áo rằn ri tả tước góc rào gai
Vỏ chai, hộp găm đau lòng hố cỏ
Tiếng xới tìm chiu chít trẻ con lai
(Bình Định 1975 – 1976)
Thị trấn bé nhỏ chắc chắn không thể nào xa lạ đến mức làm lạc ngõ người con
mấy mươi năm vẫn đau đáu hướng về, mà cái lạc đây chính là hình ảnh “áo rằn ri”
đang còn phất phơ nơi góc rào gai. Điều đáng nói hơn chính là chiến tranh đã đi qua
nhưng một nỗi đau không hình hài đang vò xé những trái tim, hình ảnh “trẻ con lai”
đang chiu chít nhặt tìm những gì có thể để bảo tồn cuộc sống. Chúng là những đứa trẻ
vô tội nhưng chúng lại là nhân chứng của những đau thương, chúng vừa là hình ảnh
của quá khứ lại vừa là hiện tại của tương lai bằng xương bằng thịt, một tương lai mà
ông đã nhìn thấy chắc chắn rằng sẽ có nhiều xót xa.
Một chặng đường thơ kết thúc, hàng trăm bài thơ đã ra đời, sức sáng tạo của
người nghệ sĩ thật đáng trân trọng. Tuy nhiên, thơ Yến Lan giai đoạn này không hẳn đã
hoàn hảo, Chế Lan Viên đã nhận xét rằng : “Đôi phen, Yến Lan chạy theo con mắt,
chạy theo cảnh, theo ngoại hình, mà câu thơ nặng cảnh, nhẹ tình, nặng hình thức mà
rung động nhẹ” [110,tr.9] Thế nhưng nói đi rồi cũng cần phải nói lại Yến Lan không
phải là trường hợp duy nhất mà “cả một giai đoạn dài từ thưở kháng chiến chín năm
nhiều nhà thơ khi đạt được thực thì mất thơ, khi giữ được thơ thì mất thực” [78, tr.6]
mặt khác như nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tiềm đã từng phát biểu rằng . “Khi Tổ quốc
lâm nguy, nhà thơ đứng vào hàng ngũ cùng nhân dân chiến đấu, thì đương nhiên thơ
chuyên chở phải là chủ yếu” [98, tr15] mà đã là thơ chuyên chở thì xúc cảm đôi khi
khó song hành cùng hiện thực, từ đó ta thấy cái hạn chế nữa của Yến Lan trong giai
đoạn này chính là cảm xúc bao quát toàn bài chưa đủ mạnh để thâu tóm các chi tiết vì
thế bài thơ thường dàn đều và dễ bị kéo dài. Cái đóng góp lớn nhất của Yến Lan lúc
này đó chính là những trang viết đầy ắp chất hiện thực từ muôn mặt đời thường của
cuộc sống kháng chiến. Ông không giống như nhiều nhà thơ đương thời lấy hình tượng
trung tâm là anh bộ đội cụ Hồ, là những phút giây huy hoàng nơi tiền tuyến mà nguồn
mạch trong thơ ông chính là cuộc sống bình thường chung quanh, cho dù cuộc sống ấy
đang ở thời kì nào của lịch sử.
50 năm sau những ngày bị phê phán bởi tư tưởng chưa thông, chưa dứt được con
người cũ, năm 2007 Yến Lan và rất nhiều những văn nghệ sĩ ngày ấy đã được nhìn
nhận một cách nghiêm túc về những đóng góp của họ cho nền văn học nước nhà. Ba
tập thơ : Những ngọn đèn, Tôi đến tôi yêu và Lẵng hoa hồng được trao tặng giải
thưởng cấp nhà nước về văn học nghệ thuật. Đó là một cách tri ân - dẫu muộn màng
cho những năm tháng ông lặng lẽ dâng cho đời những tinh hoa của đời nghệ sĩ. Một bài
thơ ở một thời điểm chiêm nghiệm nào đó, ông đã từng ví mình như một cây đu đủ
lặng lẽ ở góc ao, khi bị trầy xước thì tự ứa nhựa để hàn vết thương và lặng lẽ dâng cho
đời quả ngọt, không đòi hỏi, không đợi chờ một sự hàm ơn, đó là một đặc điểm để ta
nhận ra Yến Lan chăng?
Ứa nhựa hàn vết đau
Tĩnh yên cành gió quật
Quả đu đủ góc ao
Lặng dâng đời quả ngọt.
(Đu đủ)
1.3. Sau ngày thống nhất đất nước
Sau ngày đất nước thống nhất. Những nhà thơ thuộc thế hệ Yến Lan bắt đầu bước
vào lứa tuổi "tri thiên mệnh". Có nhiều người đã từng lừng vang trên thi đàn trước cách
mạng, trong kháng chiến, nhưng đến giai đoạn này hầu như chẳng còn thấy tăm hơi, họ
dừng lại cả trên thi đàn lẫn cuộc đời mà nói như Chế Lan Viên " Dữ dội lắm, Xuân
Diệu gắng thế cũng chỉ 69 thôi" hoặc giả họ có cố gắng thì chỉ còn lại là những bài văn
vần chứ hoàn toàn chẳng thấy hồn thơ. Còn Yến Lan thì sao? Thơ ông liệu còn níu
được hồn người không? Tập thơ “ Cầm chân hoa” – giải thưởng văn học nghệ thuật
Xuân Diệu – Đào Tấn năm 1997 của tỉnh Bình Định là kết quả của những tháng ngày
ông tìm lại với thế mạnh của ông, thơ tứ tuyệt và một giọng tâm tình thủ thỉ về một
việc nào đó trong đời thường, một hình ảnh gây xúc động hay một tâm sự riêng tư.
“Sau 1975 thơ ca quay về với cái tôi trong muôn mặt đời thường, thơ trở về với tư duy
“hướng nội”, các nhà thơ có ý thức đào sâu hơn vào bản thể tâm hồn” [25, tr889].
Yến Lan cũng vậy, sau khi hoàn thành trách nhiệm của một công dân đối với đất nước,
trở lại với cuộc sống đời thường ta lại bắt gặp một Yến Lan với cái tôi trữ tình đời tư
đằm thắm.
Đó là cái nhìn thảng thốt của người thợ dệt khi đang hoàn thành tấm vải may áo
cưới cho cô dâu, sự thảng thốt về cái vô lí của kiếp nhân sinh: Để cho Người được
xúng xính với tà áo đẹp trong ngày cưới, thì bao nhiêu kiếp Bướm đã phải cuộn mình
trong tấm lụa, chúng mãi mãi không bao giờ được biết đến khu vườn đầy hoa lá với
bầu trời cao rộng ngoài kia
Vuốt xong sợi nhợ mắc vào go
Cô gái bên khung bỗng sững sờ
Cho đẹp vu qui tà áo cưới
Bao nhiêu hồn bướm cuộn vào tơ.
(Áo cưới )
Đó là tấm lòng, là tình thương bao la của người mẹ, lặng thầm gửi theo con trong
buổi tiễn đưa, giấu giọt nước mắt, giấu sự yếu lòng bằng việc thản nhiên xuống ruộng
cấy, sợ mình quyến luyến sẽ làm bận bước chân con, thi nhân đã thấy rằng người mẹ
ấy đang cấy lệch hàng sông:
Tiễn con ra khỏi rặng sầu đông
Ngoảnh lại, bà con đã xuống đồng
Sợ đứng nhìn theo con trễ bước
Cúi đầu mẹ cắm chệch hàng sông.
(Đưa con trong mùa cấy)
Đó là tâm sự ngổn ngang của tác giả khi về quê cũ, tìm lại những kỉ niệm mang
bóng dáng người mẹ thân yêu. Sự mất mát lớn lao trong cuộc đời đó chính là sớm mất
đi vòng tay nâng niu yêu thương của mẹ, cho nên những gì có liên quan đến mẹ đều trở
thành những kỉ niệm thiêng liêng cho dù đó là một gốc me cụt ngày xưa mẹ thường
ngồi tựa đó để ngóng con mà giờ đây năm tháng phôi pha mưa đã xói mòn.
Từ bữa ra đi chị ẵm bồng
Nay về trẻ xóm gọi bằng ông
Bạn xưa còn có cây me cụt
Mưa xói mòn nơi mẹ tựa trông.
(Cây me mẹ tựa)
Với Yến Lan có thể nói, có một nỗi ám ảnh nằm trong vô thức đó chính là tình
cảm với người mẹ thân yêu. Ta dễ bắt gặp trong thơ ông hình ảnh bến đò, dòng sông
gắn liền với mẹ:
Tiếng chim vít vịt vẳng kêu chiều
Cỏ ngập sông bồi, xóm quạnh hiu
Khói tỏa quanh năm mùi cúng giỗ
Thuyền ai về đậu khúc sông eo
(Bên sông quê ngoại)
Tiếng chim vít vịt ấy, nó là một mẫu hình chung của ca dao dân tộc, trong cuộc
đời hẳn rằng ai chẳng có một lần biết qua câu hát ru:
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau
(Ca dao)
Thế nên, một buổi chiều bên sông vắng, vẳng nghe tiếng vít vịt kêu, nỗi khát khao
mẹ khiến tác giả như nhìn thấy thuyền ai đậu bên bến sông eo đó, chắc mẹ sẽ về, sẽ ôm
con vào lòng. Tình yêu ấy, nỗi ước mong ấy ta có thể cảm nhận được, nó cũng khiến
tác giả đau lòng như người phụ nữ xưa kia xuất giá rồi bao giờ mới được về bên mẹ khi
mà cách trở đò giang ngày ấy chỉ là một lí do nhỏ ?
Không chỉ bến sông, con đò mà mảnh đất quê hương cũng mang hình ảnh của
người mẹ thân yêu, vì thế nên hai mươi năm xa cách ông luôn đau đáu nhớ về. Có 19
bài thơ tứ tuyệt viết về quê hương thì hết 9 bài Yến Lan đều nhắc tới mẹ và về mẹ. Ta
dễ hiểu tại sao ngày thống nhất không như những bạn bè khác, tìm một chốn mới nơi
thị thành để sinh sống, ông trở lại với quê hương với những kỉ niệm gắn bó, với những
gì gợi lại dáng hình mẹ thân yêu, để được gần gũi mẹ, cho dù đó chỉ còn là một phần
mộ đơn sơ hay qua dáng hình người chị:
Mười tám năm xa phần mộ mẹ
Chị gần sức yếu khó tìm thăm
Cậy đành bụi duối lâu không phát
Góp hộ nhành gai phủ bóng râm.
(Thanh minh)
Đó là cái nợ ân tình của hiện thực cuộc sống khốn khó của những ngày trở lại quê
hương; là sự tự trào mình không bắt nhịp kịp với cuộc sống, hay chính xác hơn cái hiền
lành quá đỗi khiến ông chậm rãi đến mức như lạc lõng giữa nhịp đời hối hả:
Nhà không vườn, không gác, không sân
Tôi nợ đời rau trái tôi ăn
Nợ hàng xóm trưa hè bóng mát
Nợ em cài bên cửa một vầng trăng.
(Nợ)
Vụng sắm cành đào không kịp tết
Ra giêng chợt hé một vài bông
Xuân người lả tả bay đi hết
Ngoảnh lại xuân ta mới chớm hồng
(Xuân muộn)
Là những tâm sự ngổn ngang của tuổi già khi tin bạn bè dần thưa thớt, không thể
đi thăm viếng được nhau vì sự cách trở cả về không gian địa lí lẫn điều kiện sức khỏe.
Để rồi khi tin bạn qua đời nỗi đau đớn như vò xé tâm can, chỉ biết lặng thầm tiễn bạn
bằng những giọt lệ hiếm hoi của tuổi già:
Lệ gói vào khăn thế tưới mồ
Nhường phần hương khói quyện tàn tro
Nghĩ thương hờn tủi nghìn trang trắng
Còn đợi tay thần gởi ý thơ.
(Tàn tro – nhớ Chế Lan Viên )
Thời kì về sống lại ở quê nhà Bình Định sau bao nhiêu dâu bể của đời người có lẽ
là thời kì đắc ý nhất của Yến Lan. “Thơ ông ngắn đi về câu chữ mà rộng ra về chủ đề.
Việc của đời nhòa đi để vang vọng của lòng được rõ lên”. [78, tr.6] Thơ chất chứa
những chiêm nghiệm sống giữa đời và có cả những khám phá thâm trầm từ sách vở.
Suốt một đời vất vả, đây là đoạn thanh nhẹ và đạt đạo của hồn ông, của thơ ông. Sự
gắn bó với quê hương như là sự trở về cuối cùng, đạt cái đích cuối cùng của cuộc đời.
Hơn hai mươi năm, trải qua bao cay đắng, ngọt bùi, đi khắp chân trời góc bể để rồi
Nhìn nhau cho tạng mặt mày
Hành trình còn một quãng này nữa thôi
Sơn Thanh Thủy Tú qua rồi
Chỉ còn suối trũng đá lồi đợi ta
Chần chừ bước nhọc khó xa
Ngày thời ngắn ngủi cái già hẩm hiu…
(Chút lòng gửi lại – di cảo)
Cứ bình lặng như thế bằng trái tim rung cảm của người nghệ sĩ trước cuộc đời,
cho đến khoảng mươi ngày trước khi về hội ngộ với “ Bàn thành tứ hữu” Yến Lan mới
thực sự dừng bút, ông còn để lại cho đời hàng trăm bài thơ tứ tuyệt. Những bài thơ rất
đỗi mộc mạc về những cảnh đời đang tiếp diễn, trong ấy có rất nhiều tâm sự về cảnh
đời của chính mình, những tâm sự ngổn ngang chỉ biết gửi vào trang giấy trắng. Người
già thường hay suy nghĩ, hay tưởng tượng đến cái kết của đời mình, đặc biệt là khi sức
tàn hơi mỏi. Yến Lan cũng vậy những ngày thàng cuối đời ông cũng thường hay tưởng
tượng ra một ngày kết thúc, một sự đón đợi của “ngày mai” và ông “đã thấy”, cái thấy
ấy được ông ghi nhận vào bài thơ cuối cùng:
Năm châu chín quận qua rồi
Còn xứ tâm hồn của bạn thôi
Một buổi chiêm bao ta đã thấy
Đau thương phiền muộn khác chi ngoài.
(Không khác)
Trước cách mạng trong khi các nhà Thơ Mới ngày ấy say sưa, hăm hở đến với
muôn mặt của tình yêu, một thứ tình yêu đang đòi hỏi tự do, trọn vẹn sau những năm
dài bị cấm đoán, bị đè nén, còn nếu không phải là tình yêu thì là tâm trạng chán
chường, tuyệt vọng, bế tắc trước cuộc sống thì Yến Lan với những vần thơ trầm lặng
về cuộc đời của chính mình của cuộc sống quanh mình, tình yêu có nói đến chăng cũng
chỉ thoảng qua rất nhẹ bởi mặc cảm sang hèn. Chính cái bình lặng trước cuộc đời ấy
mà khi cách mạng đến ông tiếp rất nhanh, không bị rơi vào cảnh “đi xa, về muộn” mà
rất hăng say, có thể nói ông là một trong những người hăng say nhất của văn nghệ sĩ
Bình Định ngày đó. Trong hai cuộc kháng chiến trong khi những cây bút khác say sưa
với các sự kiện thời sự nóng bỏng thì Yến Lan cũng lại lặng lẽ đến với những hình ảnh
của cuộc sống đời thường để ghi nhận những đổi thay. Trở lại sau những năm tháng tập
kết tác giả lại ghi nhận những gì bé nhỏ của cuộc sống quanh mình của chính bản thân
mình chứ không phải là sự thay da đổi thịt của đất nước qua những công trình. Chính
cách chọn góc nhìn lặng lẽ ấy khiến Yến Lan dường như khuất lấp so với những bè bạn
đương thời. Chỉ đến khi có một độ lùi thời gian nhất định thì những gì ông đóng góp
cho Thơ mới nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung mới được nhìn nhận một
cách nghiêm túc và trân trọng. Tất nhiên, nói như vậy không có nghĩa là thơ Yến Lan
toàn diện, toàn mĩ mà nó cũng có những hạn chế nhất định cả do nguyên nhân chủ
quan lẫn khách quan. Tuy nhiên nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tiềm: “Mong có
được đôi câu thơ tài hoa neo đậu được ở bến bờ tâm cảm người đời đâu phải nhà thơ
nào cũng có duyên cơ đạt được”[98, tr.10] mà với thơ Yến Lan thì chắc chắn rằng
không chỉ có một đôi câu cho dù người đọc có khó tính đến mấy.
Một đời thơ trải dài suốt mấy mươi năm, Yến Lan vừa là nhân chứng, vừa là một
trong những nhân vật tham gia tích cực vào hầu hết những biến động của lịch sử - văn
học hiện đại của dân tộc. Cái mà người đọc dễ nhận ra mà cũng dễ bỏ sót Yến Lan giữa
muôn vàn gương mặt những văn nghệ sĩ ngày ấy chính là chất bình dị, lặng thầm, bình
dị, lặng thầm đến đơn điệu. Tuy nhiên, khi thực sự đến với Yến Lan chúng ta lại thấy
rằng bên cạnh sự bình dị lặng thầm ấy là sự chân thành đến sâu sắc mà ông kí thác qua
từng câu từng chữ. Để khi trang thơ khép lại rồi mà ta vẫn thấy lòng mình vương vấn
rưng rưng.
Chương 2. HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ YẾN LAN
2.1. Hình tượng nghệ thuật là gì?
Hình tượng nghệ thuật là một thuật ngữ cho đến nay có nhiều ý kiên, quan điểm
khác nhau. Theo đó chúng tôi khảo sát để rút ra những ý kiến chung nhất, nhằm đi sâu,
khám phá được thế giới hình tượng nghệ thuật trong thơ Yến Lan.
Trước hết Từ điển Tiếng Việt, đã định nghĩa: “Hình tượng là sự phản ánh hiện
thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh
động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính”.[111, tr.427]
Còn theo Từ điển văn học tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng: “Hình tượng nghệ
thuật là phương thức chiếm lĩnh và tái tạo hiện thực riêng biệt, vốn có và chỉ có ở nghệ
thuật . Bất cứ hiện tượng nào được xây dựng lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ
thuật đều là hình tượng nghệ thuật”. Ở một đoạn khác tác giả lại nói: “Hình tượng nghệ
thuật là kết quả hoạt động tưởng tượng, nhằm tạo ra một thế giới ứng với những nhu
cầu và định hướng về tinh thần của con người, ứng với hoạt động có chủ đích, với lý
tưởng của con người” [32, tr. 594].
Trong cuốn Lí luận văn học tác giả Phương Lựu cho rằng : Hình tượng nghệ
thuật vừa là sự phản ánh, nhận thức đời sống, lại vừa là một hiện tượng kí hiệu giao
tiếp [64, tr.143]
Còn sách Lý luận và phê bình văn học, tác giả Trần Đình Sử kết luận :Hình
tượng nghệ thuật là tồn tại bản thể của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Hình
tượng nghệ thuật là tiêu điểm sáng tạo của nhà văn, làm cho văn bản ngôn từ trở thành
văn bản nghệ thuật . Hình tượng nghệ thuật luôn luôn sống động và đa dạng. [85, tr.63]
Cuối cùng trong Từ điển thuật ngữ văn học : các tác giả đều nhất trí: Hình tượng
nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện, tái tạo hiện thực theo quy
luật của tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật [30, tr.146].
Như vậy ta có thể hiểu một cách khái quát về hình tượng nghệ thuật như sau:
Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và cải tạo
hiện thực theo qui luật của nghệ thuật. Đó là bức tranh cuộc sống vừa cụ thể, cảm tính,
vừa khái quát và có ý nghĩa thẩm mĩ. Tính cụ thể, cảm tính, trực quan của hiện tượng
làm cho người đọc dường như tiếp xúc với chính cuộc đời thực trong màu sắc, âm
thanh, thần thái vốn có của nó. Nói như vậy không có nghĩa là hình tượng là sự sao
chép cuộc sống một cách giản đơn máy móc. Hình thức cụ thể của hình tượng là sản
phẩm hư cấu một cách sáng tạo những hiện tượng thực tế, qua đó tác giả trình bày bản
chất của sự vật, quy luật của cuộc sống. Chỉ ở cấp độ hình tượng nghệ thuật, tính “văn”
trong tác phẩm nghệ thuật mới bộc lộ rõ nhất vì nó không chỉ khu biệt một phương
thức phản ánh đặc thù của nghệ thuật mà còn là nơi hội tụ tài năng, tâm hồn và phong
cách của người nghệ sĩ.
Khám phá hình tượng nghệ thuật thơ Yến Lan, chúng tôi xin đi vào một vài khía
cạnh, mà ở đó thể hiện được hầu như đầy đủ về đặc điểm thơ Yến Lan, trải dài suốt gần
một thế kỷ. Đó là hình tượng thiên nhiên, hình tượng đất nước và hình tượng con
người.
2.2. Hình tượng thiên nhiên
2.2.1. Ngoài những hình ảnh lãng mạn về thiên nhiên như những nhà thơ mới
khác - phát hiện về thiên nhiên hoàn toàn mới khi cởi bỏ được cái áo ước lệ của thơ cũ
thì hầu như nước sông Côn, những bến đò và trăng đặc biệt là trăng rất riêng của Bình
Định là những hình tượng tràn ngập trong thơ Yến Lan từ những ngày đầu đến với
nàng thơ với một không khí u hoài, bàng bạc.
Con sông Côn của quê hương Bình Định ấy, nó ghi dấu ấn với Yến Lan từ thuở
lọt lòng
Quê ngoại bên kia bãi cát vàng
Mẹ tôi về, lỡ chuyến đò ngang
Cơn đau trở dạ, không giường chiếu
Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng.
(Bệnh trăng)
Để rồi từ đó sông Côn, bến sông quê hương đã gắn bó với tuổi thơ và nuôi dưỡng
hồn thơ của thi sĩ. Hình ảnh con đò, bến sông cứ trở đi trở lại mãi trong thơ Yến Lan
như một phương tiện nghệ thuật, tạo nên một không gian thơ đặc biệt ngập tràn sông
nước. 18/ 43 bài thơ trong giai đoạn này của Yến Lan mang hình ảnh bến sông, con đò
(thuyền), hẳn không phải là một sự tình cờ ngẫu nhiên.
Người mẹ sinh ra thi sĩ, thi sĩ tự đặt tên cho bến sông mình chào đời, để rồi bến
sông ấy trở thành một huyền thoại, tồn tại đấy, ai cũng biết mà tìm không thấy: Bến
My Lăng.
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
(Bến My Lăng )
Những ai đã từng đọc, từng biết đến thơ Yến Lan họ đều lần tìm cái bến ấy,
nhưng Bến My Lăng ở đâu? " ở trong lòng tôi và cũng trong lòng bạn" (Yến Lan), tự
nhiên, gần gũi mà sao cũng thấy xa lạ và đẹp, đẹp đến nao lòng. Một bến sông trăng kì
lạ, một ông lái đò say trăng đến kì lạ, một chàng kị mã hối hả giữa ánh trăng vàng như
dát ngọc…tất cả như hư ảo mà như thật về một cuộc kiếm tìm, chờ đợi hạnh phúc
trong cuộc đời. Ai đã từng chờ đợi ….sẽ thấy Bến My Lăng .
Bến sông cũng là hình ảnh về quê hương mỗi độ phải đi xa
Mưa đưa thương nhớ về làng.
Mưa làm xa những dặm đàng, bến sông.
(Nhớ làng)
Bến sông không chỉ là của riêng Yến Lan nữa, mà đâu đó người đọc như còn thấy
trong thơ ông nó trở thành bến lòng của con người, một khát khao hạnh phúc, một sự
đợi chờ đến cháy bỏng:
Em mơ tiếng khách bên sông gọi
Một khách qua ngang lỡ chuyến đò
Trong lúc lòng em khô héo đợi
Âm thầm nao chảy nước nguồn thơ.
(Bến lòng)
Và đây nữa, một làng quê Việt Nam giản dị được đẩy vào trang thơ ông với một
cái nhìn mới, một góc độ mới: cũng một chiều se lạnh bên sông, một bờ tre xào xạc,
một buổi vãn chợ nhưng tất cả như đều có cảm xúc rất người, hay nói chính xác hơn nó
hòa quyện cùng cảm xúc với con người trước một không gian bàng bạc:
Chiều nghe chuông chở rét qua sông
Chiều mộng lời vui ở cánh đồng
Tre nhại thi nhân trong xóm lạnh
Chợ tàn tiễn khách với lều không
(Chiều)
Không chỉ có sông nước, bến và thuyền mà đọc thơ Yến Lan người ta như còn
ngụp lặn giữa một trời trăng lung linh huyền ảo. Trăng vốn là tri kỷ của thi nhân từ
muôn đời nay. Có quá không khi nói rằng mỗi thi sĩ đều có riêng cho mình một nàng
trăng. Ít hay nhiều trong đời họ đều có những vần thơ về trăng với trăng và cho trăng.
Hoài Thanh trong phần nhận xét về thơ Yến Lan đã từng viết rằng: “và nhất là cái
vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định” [90, tr.171]. Trăng Bình Định
có gì lạ chăng? Giữa cái mênh mông diệu vợi của trời đất, những bóng tháp cổ chập
chùng cô tịch " vào những đêm trăng sáng thì tuyệt đẹp, nhưng huyền ảo đến rợn
người như đi vào một thế giới xa lạ (…) Trăng bao phủ tứ phía bằng một ánh sáng
lung linh chờn chợn khó phân biệt từ trên trăng tỏa xuống hay từ cát trắng chiếu lên.
Tơ trăng dày đặc, mỗi cử động hay di chuyển đều như lùa cả trăng theo" [89, tr.56]
Chính cái nét hoang dại đó tạo nên sức hút đến ám ảnh các nhà thơ Bình Định. Thế nên
trăng ở đây người ta có thể mang rao bán, trăng có thể khóc, cười, ngẩn ngơ thậm chí
ngả ngửa trần truồng…tất cả mọi cung bậc từ bình thường đến bất thường như của con
người. Với Yến Lan có lẽ cũng không ngoại lệ. Trăng trong thơ ông không nhiều như
thơ Hàn Mặc Tử, không cô đơn như trăng trong thơ Xuân Diệu, không ma quái như
Chế Lan Viên, không say đắm điên cuồng như trong thơ Hàn Mặc Tử mà trăng trong
thơ ông rất riêng nó góp phần làm phong phú thêm cho sắc thái trăng Bình Định- một
sức hút đến ám ảnh các nhà thơ, một vầng trăng không có tuổi cứ lung linh dịu dàng
tỏa khắp không gian. Trăng với ông là máu là thịt, là nguồn mạch yêu thương. Yến Lan
đưa người đọc đến với trăng của mình một cách yêu thương trân trọng : đó là cái nôi
êm ái lúc chào đời
Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng.
(Bệnh trăng)
Là người bầu bạn, là nguồn mạch yêu thương trong những tháng ngày thơ ấu:
Từ thuở lên hai, trăng đã yêu
Đã bồng, đã ấp, đã nâng niu
Ban ngày tôi ngủ trong lòng mẹ
Lại ngủ trong trăng lúc tắt chiều
(Bệnh trăng)
Tuổi yêu đương hoa mộng của mình trăng cũng là một nhân chứng không hề
vắng mặt tựa như trong một truyện thơ của thời xa xưa mà ta đã từng đọc ở đâu đó
Thuyền chàng còn khuất nương dâu
Thuyền nàng còn ghé bên cần nước reo.
Hai thuyền một yếu tay chèo
Thuyền nhiều trăng quá sao đèo hết trăng?
(Khuya)
Trăng là máu là thịt của thi nhân, thế nên có những khi dường như không thể nói
hết được lòng yêu trăng của mình mà thi sĩ đã nhận rằng mình mắc một căn bệnh mà
có lẽ đến bây giờ trong y bạ của thế giới cũng chưa hề từng ghi nhận tên một căn bệnh
nào như thế, bởi nó là của riêng thi sĩ Yến Lan : bệnh trăng - một căn bệnh của lòng si
mê, ngưỡng mộ mà không một loại biệt dược nào có thể chữa trị được hay nói cho
chính xác cũng không có ai can đảm nghiên cứu để tìm cách chữa trị.
Tôi đã thành người mắc bệnh trăng….
Bởi điệu tâm hồn, nhịp ái ân
Đêm đêm chờ đến để mong dâng
Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá
Như má yêu môi đến đến gần
(Bệnh trăng).
Căn bệnh ấy nó khắc vào tâm hồn vào từng hơi thở chàng để rồi buổi đầu đến với
nàng thơ, nó đã đường hoàng tìm được cho chàng một chỗ đứng vững chắc trên thi
đàn, trong lòng bạn đọc bằng một bến sông mà nơi ấy ánh trăng như được dát bằng
ngọc lưu ly, bến sông ấy có một ông lái đò say trăng đến độ để thuyền hồn bơi khỏi
bến sông trăng "vượt cả bến trăng cao", một chàng kỵ mã với áo giáp như dát bằng
trăng, bằng ngọc lưu ly, chàng hối hả gọi đò vì "sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi",
bến sông ấy - Bến My Lăng huyền thoại. Người đọc bước vào Bến My Lăng như ngộp
đi bởi ánh trăng, chỉ có thể thả hồn mình theo từng giọt vàng óng ánh mà chịu không
thể nào cầm nắm được mà nói như Hoài Thanh "Chỉ thấy mờ mờ những con đường
chảy, êm như những dòng sông,và nhất là cái vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà
thơ Bình Định". [90, tr.171]
Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tìm mặt trời nhưng chỉ giải trăng … trăng.
Từng áo chiều bọc vàng đua lảng tránh,
Để trăng buồn bao phủ Bến My Lăng.
(Bến My Lăng )
2.2.2. Thiên nhiên là tất cả những gì tươi đẹp, thân thuộc với cuộc sống, là hình
ảnh tươi rói về núi đồi, dòng sông….
Cũng hình ảnh làng quê, nhưng đã đi đâu mất cái vắng vẻ, đìu hiu, mất sức sống
của những ngày xưa, nó không phải là hình ảnh tuy “ nắng mới” nhưng lại “võ vàng”
hiu hắt; nó cũng không phải là những hàng cây lẽ ra là phải tỏa bóng mát thế nhưng lại
hóa ra là những cành, cọng lòng khòng, khẳng khiu khiến người ta có cảm giác nếu đi
giữa trời trưa nắng mà nhìn thấy những cành cây ấy thì cái nắng nóng chẳng những
không giảm đi mà lại ngột ngạt hơn:
Quê tôi nắng mới võ vàng
Dừa cao lểnh khểnh, cành xoan ngòng ngoèo
(Đi trong nắng mới)
Bây giờ đây là sức sống căng tràn, là sự no đủ. Trong cái nắng vàng lộng gió lời
ai đó hát véo von, dọc những hàng xoan đang tỏa bóng là hoa lạc nở trắng hứa hẹn một
mùa bội thu; còn đây nữa gió đưa tiếng hát vẳng lại khiến bê con dường như cũng hớn
hở, phấn khích, lồng lên như nhảy múa, ngọn gió lộng đi như đang thụ phấn cho những
vườn ngô đang tung cờ trắng xóa. Ngoài bãi này những quả dưa nằm lăn say giấc,
trong xóm kia vang tiếng gà cục tác. Trên vòm cao đàn ong đang say sưa hút mật nhãn,
hết những ngày sãi cánh tìm hoa, dưới bóng mát cánh võng đưa lời ru nhè nhẹ. Cuộc
sống đã đổi thay ở mọi khuôn hình góc độ. Người ta cảm nhận được ở tất cả các giác
quan cuộc sống đang ngồn ngộn căng tràn:
Câu ca dao: “Múc đổ trăng vàng…”
Em lại hát giữa ngày nắng lộng
Hoa lạc nở dọc hàng xoan tỏa bóng
Con bê lồng, gió động phấn ngô bay
Dưa gối đầu ngang bãi ngủ say
Gà nhảy ổ - cả xóm thôn cục tác
Thôi mỏi cánh những đàn ong tìm mật
Lời võng ru chao bóng nhãn quanh vườn.
(Chân đất… tay người)
Đâu đây cũng có cái vắng vẻ, nhưng cái vắng bây giờ khác hẳn cái vắng vẻ xưa
kia. Nếu ngày xưa “ con đàng thì ngút cheo leo, mình đi chỉ bóng cùng theo với mình”
cái cảm giác cô độc giữa cuộc đời nó đeo bám khiến ta mãi mãi không dứt ra được thì
giờ đây:
Bên kia theo cá thôn chài vắng
Bò dỡn non tơ cỏ phía này
(Ven Đà)
Theo con nước, theo luồng cá thôn chài bên kia vắng lặng, nhưng chắc chắn rằng
sau cái vắng lặng ấy ta dễ hình dung ra cái xôn xao, rôm rả của xóm chài khi thuyền
về, cá nặng trĩu vai. Cũng thế, thôn bên này bây giờ cũng im ắng bởi họ theo đàn bò
đang thích thú ra bãi chăn với những đám cỏ non tơ trải rộng.
Một buổi trưa
Thôn nhỏ đồi trưa cản gió đồi
Không gian lãng đảng một mùi thơm
Cau chưa nứt bẹ, cam chờ bói
Đàn sẻ đâu về sục đống rơm.
(Trưa đồi)
Cái im ắng, tĩnh lặng của sự sống đang đơm hoa kết trái, nét thanh bình của cuộc
đời sống trong tự do đang hân hoan nhảy múa trong tâm hồn tác giả, sự cảm nhận đến
tận cùng nét đẹp của cuộc sống đang diễn ra trước mắt khiến ta dễ dàng nhận thấy rằng
chúng ta sẵn sàng đánh đổi không tiếc máu xương để giữ lấy sự yên bình này cho đất
nước.
Không chỉ bó hẹp trong những thôn, làng, xóm, bãi. Thiên nhiên trong thơ Yến
Lan mở rộng ra mọi vùng đất nước trải dài theo bước chân của người thi sĩ – công dân
đến với đèo cao, suối sâu. Đến với cuộc sống của các dân tộc anh em vùng cao, cảm
nhận sự đổi thay từng giờ từng phút, đến từng ngóc ngách sâu xa. Núi non tươi sắc,
suối rừng róc rách hòa cùng tiếng khèn ai vắt vẻo vượt qua đồi qua núi đến với người
thương, đến với bản với nương, đến với người quen, người lạ, níu từng bước chân đang
bỡ ngỡ:
Đỉnh nối đỉnh dập dồn
Sẫm dần theo nắng rớt
Cả dãy Hoàng Liên Sơn
Núi thay màu từng phút.
Gác nhà giao tế cao
Dõi chừng về các rẻo
Lòng suối rừng xôn xao
Tiếng khèn lên vắt vẻo
(Sắc màu phong thổ)
2.2.3 Những năm tháng bình yên khi tiếng súng đã im, khi quân thù sạch bóng,
Yến Lan trở lại với cuộc sống đời thường và thi nhân lại trải lòng mình ra cùng với
người bạn thiên nhiên tri kỷ.
Đó là khoảnh khắc trân trọng chờ hoa nở. Sự sung sướng trong tâm hồn khi đón
đợi đài hoa từ từ khoe sắc, cảm nhận cái thanh tân, tinh khiết của đóa hoa đang hòa
quyện vào cái ban mai trong lành của vũ trụ:
Chùm hoa chưa nở ý chờ ai
Ong bướm vờn quanh rủ rỉ hoài
Hương phấn còn phong đài nhụy kín
Màu trinh hòa lạnh cả ban mai
(Màu trinh)
Là sự gắn bó vẹn tròn với thiên nhiên, với cỏ cây hoa lá thế nên những khoảnh
sân, những góc tường tác giả đều dành sự ưu ái của mình cho những khóm hoa, những
thân cây cho dù chỉ là mong manh thời khắc hay mùa tiếp mùa trổ bông:
Ngấp nghé hiên tây mấy khóm hồng
Nhài đơn giậu bắc, lựu tường đông
Yêu hoa há để thềm nam trống
Đêm mộng mai vàng đến trổ bông
(Thềm nhà phía nam)
Là người bạn tri âm tri kỷ, là chỗ “tâm tình lúc khó khăn”. Với Yến Lan thiên
nhiên là chỗ giao tiếp thân tình, mà nói như Mang Viên Long là: “Yến Lan là một nhà
thơ đã đến với thiên nhiên bằng tấm lòng trân trọng, chí thành và hồn nhiên”
Thức suốt đêm thu bóng nguyệt tà
Bài thơ viết tặng nghĩ không ra
Dầu vơi bấc lụn, đèn hiu hắt
Gác bút ra vườn hỏi ý hoa
(Hỏi ý)
2.3. Hình tượng đất nước
Mỗi con người đều mang trong tim hình bóng đất nước của mình. Những tình
cảm ấy nó như vô thức ăn sâu trong máu thịt không ai có thể cài đặt hay dứt bỏ. Bình
thường người ta có thể không biết đến sự tồn tại của nó, nhưng khi hữu sự mới hay
rằng trong tim mình ăm ắp tình đất nước. Với các thi nhân, đất nước có khi trở thành
một niềm đam mê, một cảm xúc bất tận khiến họ có thể sáng tác thành những tập thơ
lớn lừng danh . Có khi nó chỉ ẩn hiện đâu đó bằng những đường nét phác họa về một
con đường, một cánh đồng, một dòng sông, hay một mái chùa rêu phong cổ kính nhưng
chất chứa tình cảm của thi nhân với đất nước. Tác giả Hà Minh Đức đã nói rằng: “ Mỗi
nhà Thơ mới dường như đều có một quê hương để ca ngợi trong thơ và nhiều người lại
có một làng quê cụ thể với nhiều gắn bó yêu thương.” [21, tr.95]. Yến Lan cũng vậy,
đất nước cũng là một phần không thiếu trong thơ ông. Tuy nhiên lịch sử dân tộc có
những biến cố lớn lao thì trong thơ ông hình tượng về đất nước cũng có sự biến chuyển
thú vị.
2.3.1. Từ những tình cảm về Bình Định - về quê hương xứ sở với một thứ tình
cảm vô thức của con người với nơi chôn nhau cắt rốn, hay mở rộng hơn chỉ là những
cảm xúc về quê hương của bạn bè, nơi mà tác giả có dịp viếng thăm.
2.3.1.1. Trước hết đó chính là những hình ảnh về một vùng quê Bình Định , như
bao vùng quê khác của Việt Nam giai đoạn trước cách mạng bởi cái không khí vắng vẻ
đìu hiu khiến người đi xa không thể quên: một con đường làng dài thăm thẳm, không
một bóng người qua, chỉ có mình với bóng mình song hành cùng nhau, khiến người ta
có cái cảm giác cheo leo trống trải và cô độc:
Con đàng thì ngút cheo leo
Mình đi chỉ bóng cùng theo với mình
(Đi trong nắng mới)
Một mái chùa ẩn hiện bên bờ sông, tiếng chuông ngân đan cài trong bờ lau, cát
trắng, một không gian thoáng rộng nhưng cũng rất cô tịch
Chùa bên vẳng lại tiếng chuông ngân
Ẩn hiện bờ lau cát trắng ngần
(Chơi xuân)
Thế nhưng cái để níu lòng người lại với Bình Định qua thơ Yến Lan không chỉ có vậy.
Mà một “Bình Định 1935” mới thật sự gây ấn tượng. Năm 1935, hai năm sau cuộc đại
khủng hoảng ở các nước tư bản, “tàn phá nền kinh tế ở các nước này, đẩy lùi sản xuất
về mức cuối thế kỷ XIX” [36, tr 49], nó tác động nặng nề đến nước Pháp – “ mẫu quốc”
của Việt Nam thời ấy. Pháp đã trút gánh nặng ấy xuống các nước thuộc địa trong đó có
Việt Nam. Hậu quả nặng nề là một nền kinh tế bị vơ vét đến kiệt quệ để bù đắp cho
những tổn thất của “mẫu quốc”. Toàn cõi Việt Nam “ nạn đói diễn ra trầm trọng, hàng
vạn người phải rời bỏ làng xã. Thợ thủ công phá sản, nhà buôn nhỏ đóng cửa” [36,
tr.50] và Bình Định là một trong những vùng như thế. Một Bình Định mà cơ sở công
nghiệp không có, việc mua bán bị đình trệ, nông dân không có gạo ăn, mọi sinh hoạt
đều nương cậy vào sự giao lưu, tiếp tế của các vùng khác. Thế mà bằng tài năng trác
tuyệt của mình Yến Lan đã biến những điều khô khan ấy thành những câu thơ tài hoa:
Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt.
Đàng chờ xe, sông nước ước mong thuyền.
(Bình Định 1935)
Đời sống kinh tế là sự nương cậy, chờ, mong, cầu ước như thế và vì vậy nên điều
tất yếu là đời sống tinh thần cũng trở nên khô kiệt đến nỗi:
Tịch dương liễu không biết mình đang biếc.
Tương tư trời tương tư, nhạc triền miên.
(Bình Định 1935)
Thế nên nhìn đi đâu cũng thấy không khí nặng nề bao phủ khắp thành Bình Định
với những hình ảnh nhà cửa, thành quách, phố xá ngơ ngẩn, keo kiết, u sầu, cô quạnh,
xa xăm…mà mỗi khi nhắc về Bình Định ngày ấy bạn thơ không thể quên được những
câu thơ
Nhà ngơ ngẩn, những tường vôi keo kiết.
Nam - quách sầu, Đông - phố quạnh. Tây - môn xa.
(Bình Định 1935)
2.3.1.2. Vượt ra khỏi Bình Định thì quê hương ngày ấy trong thơ Yến Lan cũng
chỉ là những vùng quê của bạn bè mà ông có dịp ghé thăm.
Đến Nha Trang với Quách Tấn, ngắm những cánh buồm cô đơn “muốn tìm về
chân đảo xa, nơi có nhịp sóng dịu êm, mong vợi đi nỗi “sầu của kiếp người” [6, tr.11]
mà ông đã gọi thành một cái tên khiến người nghe gật đầu thú vị:
Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ
Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi
(Xa xanh)
Đây Thanh Hóa với hòn Trống Mái, người ta có thể xuất thần những vần thơ mà
chạm khắc vào đá; “tả nắng chiều trải ra như cánh chim trên khắp các trang viên” [110,
tr.6] mà như những cánh chim câu khép lại sau một ngày bay lượn, về lại trang viên, về
lại tổ ấm của mình khiến tâm hồn người xa quê có một chút gì đó ấm áp, quên đi bản
thân mình
Trống xa Mái ngẩn ngơ thơ đá chạm
Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang.
(Xa xanh)
Nguyễn Bao đã thốt lên rằng “ đó có lẽ là những câu thơ hay nhất và sớm nhất về
hòn Trống Mái của Sầm Sơn quê tôi” [6, tr.10].
Những từ ngữ “chiều bồ câu”, “thơ đá chạm”, “ sầu tam giác” là những tìm tòi táo
bạo của Yến Lan, là những khóm từ giàu hình tượng mà khó ai có thể nghĩ rằng nó đã
ra đời từ hơn sáu mươi năm về trước. Chính từ những từ ngữ, “những câu thơ điêu
luyện, tài hoa, những câu thơ có thể xếp vào loại đặc sắc” ấy mà Nguyễn Bao đã
khẳng định rằng Yến Lan đã “ góp phần khẳng định sự thắng lợi của Thơ mới trong
buổi đầu” [6, tr.10].
Đến Hà Tiên với Đông Hồ - Mộng Tuyết, ông ngắm biển, trời Hà Tiên một màu
xanh thẳm nối liền nhau như một tấm gương, trên đỉnh Tô Châu vầng trăng chênh
chếch, soi chiếu vào những hang sâu ẩn hiện ông thốt lên rằng mê cung:
Hà Tiên thẳm, mặt gương liền nước thủy
Nhòa mê cung trăng chếch đỉnh Tô Châu
(Xa xanh)
Và còn nữa đó là những Phan Thiết, Sông Cầu, Lăng Cô, Đà Nẵng…những nơi
mà ông đã từng ghé chân qua, nhưng sự xa cách bởi “cơm, áo nợ riêng tây”, bởi những
khó khăn của cuộc sống mà dù một lần ghé thăm ông cũng không quên được, chỉ lưu
lại trong kí ức những hình ảnh thân thương.
Xa xanh quá, chẳng đèo cao núi thẳm
Phải chăng vì cơm, áo nợ riêng tây
Ơi Phan Thiết, Sông Cầu, Lăng Cô, Đà Nẵng
Đến một lần chi để mãi không khuây.
(Xa xanh)
2.3.2. Vượt qua khỏi những tháng ngày xưa cũ bế tắc, ngột ngạt. Yến Lan đến với
mọi miền của Tổ quốc và đất nước trong thơ ông đã thay đổi. Đó không còn là những
hình ảnh u ám, buồn bã của Bình Định, cũng không chỉ là những kí ức về những miền
quê của bạn bè mà đất nước là tất cả những biến cố thăng trầm, những đau thương mất
mát, hay là những chiến thắng oai hùng trên khắp bờ cõi Việt Nam với những tình cảm,
ý thức trách nhiệm của một công dân trước vận mệnh của dân tộc.
Bom phạt bừa Uy Nỗ
Bom đào càn Cổ Loa
Bom cày đường chợ Tó
Bom vặt sắt sân ga
………..
Bom chui và bom nhảy
Bom cháy, bom phát quang
Hơi ép, tre bùng cháy
Mảnh chém rụi vườn xoan
Với tiếng vợ khóc chồng
Tay già ôm xác trẻ
(Pháo đài bay vào thành ốc)
Đế quốc Mĩ điên cuồng đánh phá miền Bắc. Chúng quyết tâm biến Hà Nội trở lại
thời đồ đá. Chúng quyết tàn phá, ngăn chặn hậu phương lớn của chiến trường miền
Nam, thế nên chỉ trong mười hai ngày đêm cuối tháng 12 – 1972 chúng đã thả xuống
Hà Nội và các thành phố lân cận “một khối lượng bom có sức công phá bằng năm quả
bom nguyên tử Mỹ đã ném xuống Nhật Bản hồi tháng 8 – 1945” [36,tr.286] Đau
thương tang tóc diễn ra khắp mọi vùng của Tổ quốc. Mẹ khóc con, vợ khóc chồng. Nhà
tan cửa nát.
Thế nhưng, đau thương càng chồng chất thì ý chí căm hận càng biến thành sức
mạnh chiến đấu. Nhà mất thì ở ngoài đồng, giường gãy kê tạm vào bờ, bát lành không
còn thì dùng bát mẻ, con người vẫn tồn tại, vẫn vững vàng ý chí:
Giường gãy kê bờ đồng
Cơm đơm vào bát mẻ
……
Mẹ nằm cùng với con
Chết như ngày còn sống
Xin nhường bớt ván hòm
Cho cửa lều đang dựng
(Pháo đài bay vào thành ốc)
Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”, Chế Lan Viên làm xúc động lòng người khi
dựng lại hình ảnh của “người anh du kích” bằng những câu:
Con nhớ anh con người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên )
Biết rằng ra đi là chấp nhận hi sinh, thế nên cái gì tốt nhường lại cho người còn
sống. Anh du kích đã nhường lại cho đồng đội của mình tấm áo, cho dù tấm áo ấy đã
vá víu nhiều nhưng chắc chắn rằng vẫn hữu ích trong lúc khó khăn chung của đất nước
trong cuộc chiến chống quân xâm lược. Cũng vậy, người lính Tây Tiến của Quang
Dũng hi sinh, anh “về” với “đất” bằng chính tấm áo xung trận hàng ngày, tấm áo ấy -
nói như Chính Hữu là “áo anh rách vai”, nhưng Quang Dũng đã sang trọng hóa bằng
cách khoác lên các anh bằng chiếc “ áo bào”, tấm chiến bào của vua chúa ngày xưa
xung trận – tấm áo thay cho manh chiếu, bởi chiếc chiếu dành lại cho đồng đội đang
còn tiếp tục sương gió xông pha nơi chiến trận: “ Áo bào thay chiếu, anh về đất” . Ở
đây, Yến Lan cũng đã đẩy những đau thương lên thành niềm tự hào không nguôi của
dân tộc. Mẹ và con đều đã chết bởi bom đạn của kẻ thù. Vậy hãy để mẹ con chúng tôi
nằm chung với nhau như ngày còn sống, ván còn lại này hãy để dành cho những túp
lều còn đang dựng dang dở. Có dân tộc nào mà nghĩa cử cao thượng như dân tộc ta
không ? Có đất nước nào để ta tự hào hơn chăng ? Thế nên những đau thương biến
thành khẩu hiệu hành động, đất nước từng ngày biến mất mát thành những chiến công:
Tháng bảy này không có cuộc giao ca
Một tiếng còi tầm chung cho cả nước
Đồng năm tấn đã dàn hàng rập bước
Chiếc thứ ba nghìn lộn cổ xuống khu Tư
(Tháng bảy này)
Cuộc sống chiến đấu từng thể hiện trong bài thơ “ Đất nước” của Nguyễn Đình
Thi: “Khói nhà máy cuộn trong sương núi, Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng”. Thì ở
đây công nhân, nông dân, chiến sĩ cũng đang thi đua trên từng “trận địa” để góp vào
chiến công chung cho Tổ Quốc. Từ quê hương Năm tấn của đồng bằng Bắc Bộ, đến
khu bốn, khu năm của miền Trung, và tận Sài Gòn nơi nào cũng tới tấp những tin chiến
thắng. Ở nơi này công nhân hối hả vào ca, ở ngoài kia nông dân đã sẵn sàng vào vụ,
mặc bom đạn kẻ thù, họ vẫn tay súng tay liềm, tay búa tay đạn vừa sản xuất vừa chiến
đấu để hưởng trọn niềm vui khi tin chiếc máy bay thứ ba nghìn của kẻ địch đã lộn cổ
xuống khu Bốn. Đây Khe Sanh đã thành mồ chôn giặc Mĩ, kia Sài Gòn đang từng bước
bầu lại chính quyền cho vùng giải phóng, đất nước đang tròn vẹn từng ngày:
Tin bay về từng phút, những chiến công
Cứ điểm Khe Sanh thành mồ giặc Mỹ
Ta đang sống những ngày bằng thế kỷ
Rạng khắp chân trời, tháng bảy Việt Nam .
………………..
Tháng bảy hành quân sâu khắp trong kia
Bà má Sài Gòn gặp con giải phóng
Tràng pháo tết nối liền theo tiếng súng
Vùng đất tự do bầu lại chính quyền
(Tháng bảy này)
Huế ơi, cách mạng đã về đây, những đau thương mất mát sẽ không còn nữa. Huế
không phải thâm trầm chịu đựng sự dày xéo của kẻ thù lên dấu tích cha ông nữa khi mà
thành cổ kia thành trụ súng chiến đấu, từng đồn địch bị xóa sổ khi cách mạng chấp
cánh để “Huế bay lên”
Gọi vỗ tay reo ngực nở tràn
Huế êm đềm, Huế tết Mậu Thân
Bỗng lên thành cổ kê nòng súng
Hăm tám ngày đêm nổ pháo xuân
……………..
Tôi gọi vang lừng mấy tối nay
Huế vùng lên, mọc cánh Huế bay
Lấp quân thù giữa bùn Mang Cá
Đạp quân thù lăn xuống Đèo Mây
(Gọi về Huế)
Trên hết là những đổi thay trên quê hương Bình Định. Không còn nữa những
tháng ngày buồn hiu hắt của cuộc sống tẻ nhạt trước cách mạng. Bình Định của những
ngày tháng gian khổ trong kháng chiến. Ruột quặn đau vì sự độc ác của kẻ thù, sự dã
man của cuộc chiến đã thúc đẩy Bình Định hành động để giành lấy chiến thắng, giành
lấy sự sống cho dù cái giá phải trả không phải là ít:
Ruột quặn đau vì thuốc độc Vĩnh Quang
Máu rỉ trán vì sân bay Gò Quánh
…………………….
Trời Bình Định hồng lên sắc trẻ
Xác quân thù, sắt vụn đã vùi chôn
Gian khổ nào chỉ riêng chúng con
Chiến thắng nào không có phần của mẹ.
(Chiến thắng này không riêng chúng con)
Biến cố thăng trầm của đất nước được Yến Lan ghi nhận bằng sự rung cảm của
trái tim người nghệ sĩ. Đuy Belay đã từng nói rằng: “ Thơ là người thư kí trung thành
của những trái tim” thì ở đây, với Yến Lan trong bài phát biểu của mình khi tham gia
hội thảo thơ miền Trung [47] ông đã tâm sự với các nhà thơ rằng “ Thơ là người thư kí
trung thành của trái tim rung cảm trước thời đại”, thế nên trái tim nghệ sĩ của ông đã
rung cảm mãnh liệt theo những dòng sự kiện của đất nước, để quê hương đất nước
trong thơ ông khoác lên mình tấm áo mới theo từng thời khắc đổi thay.
2.3.3. Cuộc sống yên bình sau những năm tháng chiến tranh, đất nước trong thơ
ông lại trở về với xứ sở, với Bình Định nhỏ bé thân yêu, đó là “sự trở về với ngọn
nguồn, ở đấy có thể tiếp sức cho ta về tinh thần và cũng ở đấy có thể chia xẻ với biết
bao vui buồn cùng làng quê” [21,tr.95] mà nói như tác giả Lê Văn Phú khi nhận xét về
thơ Yến Lan thì đó là “khắc khoải với quê hương, yêu quê hương đến đỗi, đến nỗi cuối
đời lại trở về với quê cũ”. [75, tr. 358].
Đó là quê mẹ sau hơn hai mươi năm cách biệt. Chiến tranh đã mang đi gần như tất
cả những gì thân thiết. Chồi lim, gốc mít lẫn cùng mái tranh, tất cả đều bị thiêu đốt bởi
lửa đạn kẻ thù, chỉ còn đây là những đám tàn tro. Người con xa quê ấy lần bước đi giữa
cảnh đổ vỡ, thế mà còn như cảm nhận được phảng phất đâu đây làn hương thời trẻ,
thực tại chăng, hay là ký ức đang trỗi dậy thổn thức?
Khó trụ vườn xưa để đợi mình
Chồi lim, gốc mít lẫn gio tranh
Chỉ riêng phảng phất hương thời trẻ
Theo bước đè lên đám miểng sành
(Về quê mẹ sau giải phóng)
Đó là Bến My Lăng ngày cũ. Tiếng gọi đò thảng thốt ngày xưa tưởng như đang
còn ngân vọng, tiếng gọi của sự khắc khoải lo lắng, oán trách. Cũng may tiếng mái
chèo khua nước đã đánh thức thực tại rằng mình không phải đang cô độc giữa đêm
trăng:
Thăm quê về lại bến trăng xưa
Còn tưởng đêm nay đứng gọi đò
Chưa kịp nhớ ra lòng có hẹn
Chèo ai cặp bến đã khua vang
(Nhớ bến My Lăng )
Và đây, hương vị quê hương nồng đượm, tình quê hương cháy bỏng khiến trọn
đời tác giả không muốn rời xa. Than Cù Lâm ấy, cá sông Côn này sự hòa quyện trong
món ăn dân dã khiến mùi thơm dậy bến Trường Thi, thế nhưng đó không phải là tất cả.
Cái thôi thúc trong lòng tác giả chính là hình bóng người mẹ thân yêu. Người mẹ tảo
tần hôm sớm, người mẹ suốt một đời dành tất cả cho con, người mẹ ra đi khi tác giả
còn thơ ấu, để bây giờ hình bóng ấy chỉ còn trong ký ức và chẳng ngạc nhiên khi với
Yến Lan mẹ và quê hương là một.
Than Cù Lâm nướng cá sông Côn
Mịt bến Trường Thi vị khói thơm
Xưa mẹ nuôi con từng miếng nạc
Phần mình xương xẩu cũng khen ngon
(Mùi cá nướng)
2.4. Hình tượng con người
2.4.1. Là ông lái đò, là chàng kị mã những con người như bước ra từ huyền thoại.
Là chàng và nàng, là em và anh (tôi) với những rung động đầu đời và khổ đau vì tình
yêu tan vỡ. Là những con người mờ ảo, nhợt nhạt trong cuộc sống đìu hiu trước cách mạng.
Cũng như bao nhà thơ mới thời ấy, Yến Lan cũng viết về đề tài tình yêu. Mà điều
đặc biệt là những mối tình dang dở, yêu đơn phương hoặc không môn đăng hộ đối.
Xuất hiện trong thơ Yến Lan có thể là hình ảnh của chàng hoặc nàng nào đó trong một
câu chuyện tình yêu của buổi đầu rung động.
Nàng từ tuổi sánh hoa,
Không hay chồng đã hỏi.
Chàng liền bữa đi qua,
Yêu mà không dám nói.
(Đường xưa )
Tuổi yêu đương cũng như bao con tim khác có lẽ nàng cũng yêu, cũng thầm
thương trộm nhớ bóng hình chàng mà không hay biết rằng cuộc nhân duyên của đời
mình đã được cha mẹ định đoạt, còn chàng thì “yêu mà không dám nói”, vì ngại ngùng
chưa dám ngỏ chăng hay vì sự chênh lệch gia thế? Để rồi khi người đến đưa nàng đi thì
ngọn cỏ cũng nghẹn sầu vì chàng gọi cố nhân. Cái cổng làng kia như cũng quen mặt
khi chàng dừng ngựa trong những lần đi tìm người xưa.
Từ nàng xa bãi sậy.
Cỏ nghẹn sầu cố nhân.
Cổng làng mà quạnh ấy,
Ngựa chàng đến mấy lần.
(Đường xưa)
Có khi con người được nhắc đến trong thơ Yến Lan là một hình ảnh nào đó thật
chung chung của một trái tim thiếu nữ đang thổn thức mơ mộng chuyện yêu đương,
đang vẽ cho mình một mẫu hình lí tưởng . Đó là một người vừa gặp ban mai, người mà
mỗi khi đọc sách nàng thường mơ tưởng, mà người ấy tất phải “ có nhiều duyên” và
“có tài”.
Chàng, chẳng chàng thì mới phải ai?
Là người, rồi gặp một ban mai ;
Là người, đọc sách, nàng mơ tưởng
Có, có nhiều duyên - có, có tài.
(Đọc sách)
Nếu không phải vì chuyện yêu đương của chàng và nàng thì con người lại xuất
hiện trong tâm sự về tình yêu của một kẻ “làm vườn”, chăm bẵm cho đóa hoa của mình
khoe hương sắc để rồi khi người có du khách ghé qua, mang theo hương nhụy đóa hoa
quý, kẻ làm vườn chỉ còn lại cánh hoa tàn cho ong bướm lả lơi.
Người sẽ về đâu, du khách ơi
Mang theo hương thấm của hoa rồi.
Để phần cho kẻ trong vườn cũ
Những đóa hoa tàn bướm lả lơi.
(Vô đề )
Bước ra khỏi những câu chuyện tình yêu, ta lại thấy thấp thoáng con người xuất
hiện trong thơ Yến Lan chính là nỗi cảm thương của tác giả đối với một dân tộc –dân
tộc Chàm- mà cuộc chiến tranh tang thương đã xóa sổ tất cả:
Vì lúc ấy, em ơi,
Chinh chiến cướp một người,
Chiều nay chim bạch câu
Về đậu ở bên lầu.
Một ngọn đèn cô quạnh.
Hai mái đầu trắng phau.
Không lẽ trời thu lạnh.
Mà vắng vẻ trước sau!
(Vắng vẻ)
Không chỉ hình ảnh hai mái đầu bạc cô quạnh bên nhau mà hình ảnh đầu bạc, tiễn
đầu xanh cứ lẩn khuất xuất hiện trong thơ Yến Lan, một niềm đau, một niềm thương
cảm của thi nhân dành cho những kiếp người xưa cũ:
Những người tóc bạc nhìn hương cháy
Bên cỗ quan tài sắp trẩy đi.
(Những người qua cửa)
Trên hết, nhắc đến con người trong thơ Yến Lan, bạn đọc khó có thể quên được
hình ảnh của những con người như bước ra từ thế giới huyền thoại, từ trong mộng ảo
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi đò, như hồi hả.
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
(Bến My Lăng )
Chàng kỵ mã của ngày xưa còn sót lại chăng, hay người của ngày xưa đi lại chốn
cũ. Người và trăng như hòa làm một hối hả trên con đường vắng lặng, ta như có thể
nghe được tiếng vó ngựa dồn dập của chàng và tiếng gọi đò vang vọng khắp mặt sông.
Phải chăng chàng chỉ đi được ở những nơi mà ánh trăng vàng soi rọi, chàng đi trên
trăng, đi cùng trăng và khi trăng khuất, chàng cũng sẽ phải biến mất thế nên tiếng gọi
đò càng thống thiết hơn bao giờ, hơn bất cứ ai. Tựa như trong truyện cổ tích, cô bé lọ
lem chỉ trở thành nàng công chúa xinh đẹp khi chuông đồng hồ chưa điểm mười hai
tiếng, vì thế nàng lúc nào cũng hối hả, vội vã, sợ phép màu không còn nữa. Chàng kỵ
mã cũng từ thế giới ấy bước ra chăng?
Trong thơ Yến Lan không chỉ có hình ảnh chàng kỵ mã như bước ra từ huyền
thoại ấy, mà còn có những con người dường như thoát tục, dường như họ là những
thiền sư của đời Lí, đời Trần ngày xưa còn sót lại.
Gió đẩy bờ lau chạy với lau
Níu chàm thu hẹp núp trong sâu
Bên cầu trúc đỏ phơi đầu bạc
Ông lão quên về, đứng thả câu.
(Khi hoa đào nở)
Nếu như trong bài Ngư nhàn của Không Lộ thiền sư hai câu thơ:
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền
Dịch thơ:
(Ông chài ngủ tít không người gọi
Tỉnh dậy thuyền trưa ngập tuyết rơi
Theo bản dịch của Tạ Ngọc Liễn )
Ngoại trừ sự vay mượn - tuyết – vốn không phải là có thực phổ biến ở nước ta,
còn lại thì cũng vẫn ông chài (trong hệ thống ngư tiều, canh, mục) và tuyết (trong hệ
thống phong, hoa, tuyết, nguyệt) vốn là những thi liệu ước lệ trong thơ cũ. Ông chài
trong thơ của Không Lộ thiền sư đã quên cái công việc độ nhật sinh nhai (đánh cá),
ông “như đang diễn ra một sự thoát xác để tâm linh hòa nhập vào màu xanh vô tận, vô
cùng”.[8, tr.67]. Còn trong bài thơ trên của Yến Lan thì ông lão (ông chài ) ở đây như
cũng đang rơi vào trạng thái “quên” của các thiền sư ngày ấy. Nghĩa là trong trạng thái
quên ấy có “ cùng tồn tại hai dòng thời gian, cái tĩnh tại hằng thường xuất hiện trong
cái không ngừng trôi đi” [107, tr.21]. Thật vậy, nếu như tiếng gió xô đẩy bờ lau xào
xạc cuốn đi nhắc nhở mọi người về sự hiện diện của thời gian hiện thực đang không
ngừng trôi đi, thì sự việc bên cầu trúc đỏ, phơi ra một mái đầu bạc bất động của “ông
lão quên về, đứng thả câu”, điều đó cho thấy một sự hòa nhập trọn vẹn giữa tâm hồn
ông lão với làn gió, với ngọn lau, cho ta thấy rằng có một thời gian thường tại, không
trôi đi, một khoảnh khắc cũng là mãi mãi. Người đọc như thấy ông lão có lẽ không chỉ
“quên về” mà dường như ông cũng quên luôn rằng mình đang thả câu, một kiểu câu cá
mà chẳng cần được cá, nó cũng thật giống cái tâm thế của Tam Nguyên Yên Đổ ngày
xưa ngồi câu cá : “ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”,
sự buông thả tâm hồn để hòa nhập vào một thế giới hư không, không ai chạm vào
được.
Cũng như thế, ta lại bắt gặp trạng thái quên của một ông lão trong thi phẩm Bến
My Lăng
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
(Bến My Lăng )
Sự buông thả thả tâm hồn trên con thuyền không neo đậu ấy đã dẫn đến phút hóa
thân, con người vốn dĩ ham hoạt động (câu cá, chở đò) mà ngay từ những câu thơ đầu
tiên này đã trở nên bất động. Giây phút hằng thường ấy, ông lão đã hóa thân hòa nhập
cùng vũ trụ. Sự lưu chuyển của thời gian hiện thực dường như trở nên không có thực
nữa mà chỉ cái khoảnh khắc hằng thường kia mới là thực tại đích thực. Thế nên, mặc
tiếng gọi đò hối hả, như oán như trách, ông lão đã thoát tục, để hồn mình phiêu diêu
vào cõi vô định cùng ánh trăng:
Mà ông lão say trăng đầu gối sách
Để thuyền hồn bơi khỏi Bến My Lăng
(Bến My Lăng )
2.4.2. Là những con người khỏe khoắn, mạnh mẽ trên khắp mọi vùng quê, chiến
đấu, lao động trên mọi lĩnh vực góp phần dựng xây đất nước.
Trước hết là những anh hùng của dân tộc, từ nhỏ đến lớn, bất kể gái trai, họ đã
làm rạng danh đất Việt, họ đi vào trang thơ của Yến Lan nhẹ nhàng, tự nhiên như hơi
thở, thay thế cho những con người mờ mờ ảo ảo của những ngày xưa:
Khi em Tám biết xả thân làm ngọn đuốc
Khi giữa pháp trường cỏ đá cũng trào sôi
Anh Trỗi hô : “Hãy nhớ lấy lời tôi”
Khi anh Trọng còn hiện hình trong mỗi tràng súng ngắn
Khi còn mãi sinh sôi những nụ cười chị Thắng
(Sài Gòn của chúng ta)
Nhưng anh hùng phải đâu chỉ có vậy bởi:
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm )
Thế nên, ta bắt gặp hình ảnh cô kỹ sư chăn nuôi, bâng khuâng, quyến luyến trước
đàn bò thân thiết khi cô đang trên đường đi nghỉ phép. Đặc điểm ngộ nghĩnh của từng
con vật mà ngày ngày cô gắn bó chăm sóc đã choán hết tâm tư, khiến cô dường như
quên luôn những gì định làm trong những ngày nghỉ phép, chỉ só sự nôn nao được trở
lại công việc thường ngày:
Buổi chiều về gặp mặt người thương
Cô cố quên câu chuyện trên đường
Nhưng với vẻ bâng khuâng không thể nào dấu hết
Ôi cỏ non, cỏ non xanh biếc
Vừa mới xa trên mắt đã dâng tràn
(Cỏ non)
Đã không còn nữa những chàng và nàng của tình yêu lãng mạn, dang dở. Cũng
không còn anh và em của những giàu sang cách biệt đầy mặc cảm. Con người trong thơ
Yến Lan đã thay hình đổi dạng. Đó là những chàng trai, những cô gái trên những công
trường lao động, đang thử sức mình với những thách thức khó khăn:
Trai đến dò mũi khoan
Thử sức bền đá hộc
Gái ngược phía thượng nguồn
Băng mình qua sóng nước
Em thành cô thợ máy
Giờ lấy hồ làm quê
Theo luồng cá đi về
(Tâm sự thác bà)
Là người chị, người anh, là cha, là mẹ trên mọi vùng tổ quốc đang ngày đêm cần
mẫn với những công việc vừa độ nhật mưu sinh, vừa góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc:
Chị ngồi thêu gối rua khăn
Dẻo đôi tay muốt bắt lần mối ren
Anh bào vân gỗ láng men
Phơi màu sông núi lên trên sơn mài
Mẹ mời bánh quả trầu cay
Lonh lanh bảy sắc trời mây xà cừ
….
Ngồi cùng cha chuốt nan thanh
Tâm tư như cũng đan quanh giỏ làn.
(Những nét cổ truyền)
Hay đây nữa, trong cuộc chiến với quân xâm lược, hình ảnh người mẹ quê hương
ngày đêm đương đầu với những hiểm nguy, chết chóc, nhưng mẹ vẫn hùng dũng hiên
ngang vượt lên tất cả để từ việc tải lương, gánh đạn cho đến xông pha trận mạc, dấu
chân mẹ đã in khắp mọi nơi, mặc những đánh đập khảo tra cho đến sự dụ dỗ của quân
thù, mẹ vẫn đinh ninh vững bước đi đến ngày chiến thắng:
Bao dọa dẫm phỉnh phờ khảo đánh
Mẹ vẫn đinh ninh một tấm gan lỳ
Trước tải lương diệt Pháp ở Phù Ly
Ngày đánh Mỹ đèo Nhong mẹ liền đêm gánh đạn
Cho đến trận này trước tầm pháo nặng
Khăn mẹ vung qua rào điện Đèo Son
Chân mẹ dày lên cọc cảng Quy Nhơn
Mẹ hùng dũng giữa đoàn quân giải phóng
(Chiến thắng này không chỉ riêng con)
Và với Yến Lan, nỗi niềm thao thiết vẫn là quê hương Bình Định. Không còn
những “cô em nằm xem kiếm hiệp”, hay những người bán hàng rong liếc “nhìn nhau
qua mẹt bánh”, cũng không phải là những con người như từ thế giới thần thoại, cổ tích
bước ra nữa, mà đó là những con người sống động của cuộc sống hôm nay. Cuộc sống
của những tháng ngày sôi động chiến đấu với kẻ thù, mà nói như Nguyễn Đình Thi:
“ôm đất nước những người áo vải, đã đứng lên thành những anh hùng”. Đó là người
cha, người mẹ, là bà, là cháu, là trai Bình Định, là gái quạt trấu…là những con người
bình dị của quê hương, họ đã làm nhòe đi cái tên riêng để rực sáng cái tên chung của
đất nước. Mỗi người là một nốt nhạc đang hòa trong bản hùng ca chiến đấu, chiến
thắng của dân tộc
Cha mẹ phá đường, bà cháu tản cư
Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thủy
Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân sơn
Gái quạt trấu cũng hóa thành dũng sĩ,
Cầu Bà Di đẩy dựng những toa goòng
(Bình Định 1947)
2.4.3. Bước ra khỏi cuộc chiến, Yến Lan lại quay về với cuộc sống đời thường,
với trái tim nghệ sĩ rung động trước những cảnh đời .
Lỡ đường xe khách ghé Lăng Cô
Bà cụ lần khân đến bán sò
Khăn vấn cắt ra từ áo lễ
Gấm nhà thế tộc cũ kinh đô
(Áo gấm )
Một vạt khăn vấn cũng gợi cho tác giả sự liên tưởng về kiếp người dâu bể. Một bà
cụ ngập ngừng bán sò độ nhật cho khách trên những chuyến xe xuôi ngược. Một chút
ngập ngừng, một chút e ngại của người bán hàng làm tác giả chú ý. Có gì đặc biệt
chăng? “ Khăn vấn cắt ra từ áo lễ, Gấm nhà thế tộc cũ kinh đô”. Thì ra mảnh vải từ
chiếc khăn vấn tóc là câu trả lời cho mọi sự thắc mắc. Sự cảm thương dâng tràn trong
tim tác giả. Ắt hẳn ngày xưa con người ấy sống trong khuê các, trướng rủ màn che, kẻ
hầu người hạ. Cuộc đời biến đổi để bây giờ ở tuổi xế chiều con người ấy đang lóng
ngóng, e ngại trong cuộc mưu sinh. Áo lễ ngày xưa hoặc đã rách, hoặc không còn được
phô bày cho đúng với môi trường sản sinh ra nó, thế nên nó được chủ nhân tận dụng
thành một manh vải để làm khăn vấn tóc. Âu cũng là một cuộc đổi thay cho phù hợp
với cuộc sống.
Nương theo một tiếng đàn điêu luyện, tác giả bắt gặp người nghệ sĩ đang trải tiếng
tơ lòng để kiếm sống. Thế nhưng thay vì cung đàn ấy được vang lên trong những đêm
trăng với những người tri kỷ, tri âm, hay ở những cung, những phủ, những buổi đàn ca
hát xướng để nhận được sự đồng cảm sâu sắc, sự tưởng thưởng xứng tài thì ở đây nó
đang lang thang nơi đầu đường, xó chợ, nơi cò kè bán chác. Thế nên thay vì là những
đường tơ thánh thót thì nó lại chính là tiếng nấc đớn đau của người nghệ sĩ. Còn đâu sự
nâng niu, cẩn trọng để rồi nửa đêm giật mình tỉnh giấc dưới một mái hiên, người nghệ
nhân xót xa cho cung đàn đang thấm lạnh dưới ánh trăng khuya.
Người nghệ nhân theo nấc tiếng đàn
Rải cùng chợ búa bước lang thang
Nửa đêm tỉnh giấc đầu hiên quán
Sợ lạnh đường tơ một ánh trăng
(Tơ đàn )
Qua thế giới hình tượng nghệ thuật ấy ta có thể cảm nhận được nguyên tắc nắm
bắt đời sống của Yến Lan ngay từ khi bắt đầu sáng tác thơ, ông đã rõ ràng khuynh
hướng: Lấy cuộc sống của mình, của những người xung quanh mình làm đề tài, từ cảnh
sắc phong vị miền Trung và những sắc thái tâm hồn dân dã mà tạo nguồn xúc cảm. Đi
qua những năm tháng chiến tranh, trong cuộc chiến đấu của dân tộc, thơ ông cũng có
lúc làm nhiệm vụ “chuyên chở” như Bác Hồ đã nói “ Văn hóa nghệ thuật cũng là một
mặt , anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” [7, tr.5] nhưng cái “chuyên chở” của Yến
Lan khác với các cây bút cùng thời. Nếu như họ lấy bối cảnh mặt trận, lấy hình ảnh
những anh bộ đội, những vị lãnh đạo để làm nòng cốt cho sáng tác của mình thì với
Yến Lan dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn hướng về cuộc sống thường ngày. Một
cuộc sống bình thường, giản dị . Phải chăng chính từ những gì bình dị nhất của cuộc
sống nên ngay từ khi ra đời thơ Yến Lan không phải là tâm điểm, gây chú ý trên văn
đàn, nó bình lặng, lẩn khuất trong muôn vàn những tác phẩm rực lửa ngày ấy. Chỉ đến
khi chất lửa đã qua đi, cuộc sống đã lắng dịu thì thơ Yến Lan mới được ghi nhận một
cách cẩn thận, nghiêm túc. Với công chúng, tác phẩm của ông vẫn len lõi tồn tại dù chỉ
bằng một vài câu câu thơ mà đôi khi họ không biết tác giả là ai, nhưng những câu thơ
ấy lại làm lay động lòng người.
Chương 3. CÁC PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN TRONG THƠ YẾN LAN
Nếu như hình tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình cho ta thấy nguyên tắc nắm bắt
đời sống của tác giả thì phương thức biểu hiện lại giúp cho ta việc khái quát đặc điểm
hình thức thơ. Hình thức bao gồm lời thơ, thể thơ, dòng thơ, từ ngữ, nhịp điệu, hình
ảnh, các hình thức tổ chức bài thơ, câu thơ… Tuy nhiên, chúng không phải là những gì
thuần túy kỹ thuật. Hình thức bao giờ cũng đi đôi với nội dung và tiêu chuẩn của hình
thức thơ “chủ yếu là khả năng thâm nhập vào các chiều sâu của hiện thực và tâm hồn
con người thời đại” [87,tr.272].
Trong tiến trình vận động và phát triển của thơ, các phương thức, phương tiện
biểu hiện cũng không ngừng biến động cho phù hợp với quan niệm mới về thơ. Tuy
nhiên đặc điểm riêng của ngôn ngữ thơ đòi hỏi phải có những phương thức, phương
tiện đặc thù mang tính kế thừa bền vững từ đời này sang đời khác. Bởi vậy, một câu
thơ, một bài thơ thực sự có sự sống bao giờ cũng là sự kết hợp độc đáo giữa truyền
thống và sự đổi mới trên lĩnh vực hình thức thơ. Yến Lan là nhà thơ đã trải qua hầu hết
những biến động của lịch sử thơ ca hiện đại, của lịch sử dân tộc. Vậy Yến Lan đã kế
thừa và góp phần cách tân truyền thống như thế nào? Những đặc sắc nào trong hình
thức thơ Yến Lan góp phần tích cực trong việc biểu hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình?
Qua nghiên cứu chúng ta có thể thấy được những thành công và đóng góp của Yến Lan
cho văn học đó chính là ngôn từ, dòng thơ và nhịp điệu.
3.1. Ngôn từ
Ngôn từ văn học là một hiện tượng nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo ra theo quy luật
chung của nghệ thuật. Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ là một trong những yếu tố
quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Vậy cái nền
ngôn ngữ của thơ Yến Lan là gì và ông đã có tác động, đổi mới như thế nào trên cái
nền đó?
3.1.1. Sự đóng góp của Yến Lan cho Thơ mới trong giai đoạn trước cách mạng
bằng hệ thống ngôn từ nghệ thuật - ngôn từ của cảm xúc - cảm giác và cách thức sử
dụng.
Trước cách mạng khi Thơ mới đã có những chuyển động mạnh mẽ để thoát ra
khỏi thơ cách luật và hệ thống ngôn từ đầy chất ước lệ. Phong trào Thơ mới đã khai
thác và sử dụng một hệ thống ngôn từ mới mẻ và giàu sức gợi cảm, có thể diễn tả
những sắc thái riêng và cụ thể của cảm xúc lãng mạn. Đó là cảm xúc về vẻ đẹp dịu
dàng của thiên nhiên, trạng thái hưng phấn hay tuyệt vọng trong tình yêu, và cả tâm
trạng cô đơn, bế tắc của các cá nhân trước cuộc sống được thể hiện bằng hệ thống ngôn
từ đầy cảm xúc như: bâng khuâng, mong manh, nhè nhẹ, đường trăng, hiu quạnh, du
dương, tha thiết, dịu dàng, da diết… Bên cạnh cái nền chung đó, chúng ta cũng ghi
nhận sự cố gắng cách tân của một số tác giả, đem đến cho từ vựng Việt Nam một số từ
ngữ mới, gợi cảm hơn và hình tượng hơn.
Tả một cánh buồm tìm về bến nghỉ ngơi sau một chặng hải trình Yến Lan gọi nó
là “sầu tam giác”, gọi một cái bến bình yên nơi chân đảo xa với nhịp sóng vỗ hiền hòa
êm dịu, tránh xa, khuất hẳn sự hung hãn của bão tố hay những con sóng lớn ngoài khơi
xa kia bằng nhịp sóng “hoãn hòa”:
Sầu tam giác buốm cô về lặng nghỉ
Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi.
(Xa xanh)
Chế Lan Viên đã thốt lên rằng ông yêu cái tên một tập thơ nước ngoài “Quả lê
tam giác” (la pavie triangulaire) thì đồng thời ông cũng nhắc đến rằng bạn mình có một
ngôn từ gọi cánh buồm cũng thật ấn tượng “sầu tam giác”, “ Nhưng sầu tam giác hay
hơn chứ và viết trước lê hơn bốn mươi năm” [110, tr.6]. Vậy sự cách tân của các thi
sĩ Việt Nam phải đâu chỉ là do sự “tiếp nhận thụ động” từ các nền văn học lớn trên thế
giới, mà nội lực của các thi sĩ của chúng ta cũng thật đáng khâm phục.
Đến thăm biển Sầm Sơn, trước cảnh nên thơ của bãi bờ, của hòn Trống, Mái ông
ngẩn ngơ gọi nơi này có thể khiến người ta lưu danh lại bằng những vần thơ có thể
chạm khắc vào đá. Khi tả nắng chiều trải ra trên khắp viên trang ông gọi đó là : “chiều
bồ câu” mà Nguyễn Bao đã nói rằng “đó là những câu thơ hay nhất về Sầm Sơn quê
tôi”.
Trống xa Mái ngẩn ngơ thơ đá chạm
Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang
(Xa xanh)
Ngoài sự tìm tòi hệ thống ngôn từ mới của cảm xúc Yến Lan còn làm phong phú
ngôn ngữ thơ mình bằng cách cụ thể hóa cái trừu tượng của cảm giác, của tâm trạng và
tình cảm con người.
Chẳng hạn, khi người ta nói tới hồn, một khái niệm mơ hồ không nắm bắt, không
hình dạng. Nhưng trong thơ Yến Lan người ta có thể thấy hồn có thể là khí, là chất
lỏng, là căn phòng, là hình khối để có thể cuộn bay, chảy loảng, mở rộng, khép chặt
hay chia cắt ra thành từng mảnh:
Lan can đỏ xuống dần từng bậc bậc
Hồn cuộn dần bậc bậc khói hương xây
Hồn tôi loảng trên bệ vàng thếp chảy
Cùng hồn trưa quấn quýt lấy giao lân
(Bình Định 1935)
Hồn tôi mở rộng đường sa mạc
Năm tháng chờ qua dấu lạc đà
(Lòng hè rộn giữa mùa đông)
Một mảnh hồn ta còn đọng mãi
Trên vành nong úa sắc thời gian
(Mùa xuân này lạnh lắm em ơi)
Hay tương tự như vậy, từ tấm lòng, tình ái, đến tình bạn bầu đều được Yến Lan
định danh một cách cụ thể khiến dường như ta có thể va chạm, nắm bắt:
Lòng tôi cũng vậy – cạn từ lâu
Nửa vì em tưới cây tình ái
Một nửa hòa chung suối bạn bầu.
(Khô)
Xứ thương nhớ, một mảnh hồn, suối bạn bầu, cây tình ái….là những sáng tạo mới
mẻ, táo bạo trong thơ Yến Lan . Cách dùng từ tân kì, cách cụ thể hóa cái trừu tượng đã
đem lại những cảm xúc mới mẻ trong thơ ông – vừa dễ cảm thụ vì nó được cụ thể hóa
được các cảm xúc lại vừa khó nắm bắt vì bản chất các khái niệm tình cảm trừu tượng.
Biện pháp “hữu hình hóa, vật chất hóa những cái vô hình, trừu tượng” [29,tr.113]
không phải chỉ xuất hiện trong thơ Yến Lan mà nó cũng thường xuất hiện trong thơ của
các tác giả cùng thời. Chẳng hạn như trong thơ Xuân Diệu ta dễ bắt gặp những cái vô
hình như “hồn”, “xuân” “khí trời” đều có thể được vật chất hóa thành những thứ có thể
tiếp xúc ôm ấp, ăn uống, cắn, riết… “trời ơi ta muốn cắn hồn em”, hoặc “ hỡi xuân
hồng ta muốn cắn vào ngươi” [29, tr.113]. Qua đó ta nhận thấy cách Xuân Diệu cụ thể
hóa các khái niệm trừu tượng thiên về tạo cảm xúc, cảm giác bằng rất nhiều động từ để
gợi . Còn trong thơ Yến Lan các khái niệm trừu tượng ấy được định danh trực tiếp
bằng các định ngữ: “xứ thương nhớ”, “cây tình ái”, “suối bạn bầu” . Đối tượng được
cụ thể hóa như vậy nên thơ Yến Lan thiên về tạo không gian. Ngoài việc cụ thể hóa các
đối tượng, Yến Lan còn có những cách so sánh độc đáo tạo ra một không khí thơ huyền
hoặc đặc trưng của ông trong giai đoạn này. Hình ảnh trong mối tương quan so sánh
hết sức bất ngờ, thú vị thể hiện một trí tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo độc đáo
của tác giả. Có khi ông so sánh con đường như một cánh tay bị phong hủi đang sủi thịt
da lên, hoặc ví tiếng cười tươi ròn như mảnh kim cương, hoặc so sánh sự tươi trẻ của
cuộc đời như sữa lúa – lúa đang ngậm sữa.
“Đường như cánh tay phong
Thịt đang sủi không cùng” (Hiu quạnh)
“Đời tươi trẻ và măng như sữa lúa”
“ Em thả tiếng cười trong gió sớm
Tươi ròn như những mảnh kim cương” (Lẫn tránh)
Bên cạnh sự so sánh sáng ý đó, Yến Lan cũng có những ý thơ so sánh có thể nói
là bí ẩn, khó hiểu đôi khi gây sự phản cảm đối với người đọc, chẳng hạn
“Có những bàn tay mang ngón tay
Lạc loài như một cánh chim bay”
(Có những bàn tay)
Hoặc
Những kẻ ngồi xe như bánh xe…
Tuy nhiên, đọc thơ Yến Lan giai đoạn này, người đọc có thể nhận thấy thế mạnh
của ông chính là tạo ra một không gian thơ đặc trưng tâm trạng mà ở đó những cái
thuộc về con người được dùng làm chuẩn mực để so sánh.
Nghe có tiếng quay tơ
Trong nhà nào rên xiết
Buồn như câu li biệt.
Tiễn nhau bên sông mờ
(Hiu quạnh)
Âm thanh tiếng quay tơ được mang ra để so sánh với một cuộc chia li ở bến sông.
Trong cái xã hội mà mỗi bước di chuyển là một khó khăn, một lần li biệt là một lần
khó hẹn ngày gặp lại. Vậy mà tiếng quay tơ ấy gợi ra một tâm trạng buồn của một cuộc
chia li bên bến sông. Bến sông ấy mờ đi vì lẽ gì? Hơi sương hay nước mắt làm nhạt
nhòa khung cảnh? Bước chân người lữ thứ trong đêm, lầm lũi bước đi trong tiếng quay
tơ của nhà nào vang vọng. Tâm trạng ấy sao mà buồn bã, mà cô độc. Cả một không
gian vắng lặng chỉ tiếng bước chân lầm lũi hòa cùng tiếng quay tơ trong một khe cửa
nào đó lọt ra. Thật ấn tượng.
3.1.2. Những chau chuốt, mới mẻ, bí ẩn đến khó hiểu của hệ thống ngôn từ trước
đã được thay thế bằng lớp ngôn từ trong sáng, tinh tế, gần gũi đời thường từ sau cách
mạng .
3.1.2.1.Khi thơ ca trở thành vũ khí tinh thần cho đấu tranh cách mạng và gắn bó
chặt chẽ với đời sống ngôn ngữ thơ ca phải thật đời thường, giản dị, dễ hiểu gắn với
hiện thực; mang không khí thời đại cần hạn chế đến mức thấp nhất sự khô khan đơn
điệu. Đó là một yêu cầu không hề đơn giản đối với các văn nghệ sĩ ngày ấy.
Cũng như nhiều tác phẩm văn học thời ấy, thơ ca Yến Lan cũng xuất hiện rất
nhiều những từ ngữ mới như: cách mạng, hội nghị, hợp tác xã, cán bộ, xã viên, đồng
chí, cửa hàng mậu dịch, công trường, khói lửa…để đưa được lớp từ ngữ ấy vào thơ đòi
hỏi người nghệ sĩ phải dụng công rất lớn:
Buồng phổi mới ngực phồng thân áo xám
Trăng mát đường về hội nghị cơ quan…
Chiều đại hội ráng lồng trên biểu ngữ
Đời căng buồm về xứ sở tự do
Đường cách mạng thơm từng trang lịch sử
(Bình Định 1947)
Từ hình ảnh người cán bộ miền hậu phương trong những ngày đầu đầy khó khăn
thử thách nhẹ nhàng bước vào thơ Yến Lan với một cái nhìn trìu mến, cảm thông; chất
chứa sự khích lệ và cảm phục đối với một người đồng chí khi mà hợp tác vừa mới
được xây dựng nên, mạ còn đang ở lúc đuôi gà vắt vẻo vậy mà nước sông mỗi lúc một
dâng to, nỗi lo lắng dâng tràn trong chuyến đi công tác:
Hợp tác mới dựng nên
Mạ đuôi gà vắt vẻo
Đồng chí tỉnh ủy viên
Mối lo lòng nặng trĩu
Nhìn hai trang sổ tay
Chữ dồn lên như sóng
Thêm một hàng mới ghi
“Số hai lại báo động”
Bàn cứu hạn huyện ngoài
Chống úng vào huyện giữa
Chương trình họp ngày mai
Huyện trong phòng đê vỡ
(Trên đười về huyện)
Đến sức nóng của chiến trường những ngày đấu tranh thống nhất đất nước.
Những pháo đài, đồn chốt, nợ máu, nợ đời, lũ ác ôn đến hàng rào điện tử, pháo tầm xa
… những từ ngữ khô khan sặc mùi chết chóc bước vào thơ Yến Lan tự nhiên như hơi
thở:
Đây là tiếng đấu tranh không ngừng tiếp nối
Từ bãi pháo tầm xa ta bắn tới
Từ bàn tay không, đấm bật chốt đồn
Nợ máu, nợ đời ta hỏi lũ ác ôn !
Đây là tiếng mở đường thênh thang ngang dọc
Bước Thánh Gióng lồng bước đi dân tộc
Mọi hàng rào điện tử sẽ tiêu ma…
(Tiếng dồn sức mạnh)
Và rồi cuộc sống không phải luôn chỉ có màu hồng. Cuộc sống mới ở những ngày
đầu đôi khi không như người ta tưởng, những va chạm khiến tâm trạng người ta có lúc
buồn bã, thất vọng là điều không tránh khỏi, cũng vẫn những từ ngữ của thời sự cuộc
sống ấy, nhưng tâm trạng chất chứa những hoài nghi, lo lắng, thậm chí là thất vọng
trước những gì đang diễn ra trong cuộc sống:
Cũng trong quãng đời
đi đó
đi đây
Tôi theo bước đôi người
hì hục lao vào cuộc sống
Tay làm gió xoay một chìu chong chóng
Tuông cỏ hoa chân vắt ngược bụi đàng
Những bước chân lê dài khua tiếng sắt
tiếng gang
Lấy cả giáo điều rán mỡ cho guồng máy nổ
Phút ương yếu lòng tôi luôn nhác sợ
Khi mỏi mê không biết tựa vào đâu
Từng bữa nghe như núi mọc lấn trong đầu
Đè nát xuống những nhớ thương ôm ấp
Chưa thử thịt da trước luồng bão táp
Nhưng lòng tôi lạnh dần tiếng chuông ngân…
(Tĩnh vật)
Tuy nhiên, cảm hứng chung nhất, giọng điệu phổ biến nhất vẫn là niềm vui, là ca
ngợi tự hào của những đổi mới trên quê hương, đất nước. Cuộc sống mới, hơi thở mới,
tư thế mới của dân tộc được thể hiện một cách sôi nổi hân hoan qua lớp thán từ và hô
ngữ được xuất hiện với tần xuất cao, bộc lộ cảm xúc trước sức sống, sức quật khởi của
quê hương:
Từ cuộc sống chiến đấu:
Ơi má, ơi ba ! con lắng từng nhịp thở
Trong quật khởi mỗi người đều có chỗ
Tôi nhìn những ánh mắt lóe niềm tin
Xốc tới quân thù, - ơi bạn, ơi em
(Nghe chiến thắng miền Nam tim tôi thành vô số)
Cho đến cuộc sống lao động:
Nào anh em ơi
Súng giáo không rời…
Này anh em ơi
Tay lái đừng lơi…
(Bài ca những người bám biển)
Từ tin chiến thắng ở quê nhà Bình Định:
Quy Nhơn – Quy Nhơn ơi
Thêm náo nức lòng tôi: con sóng nhỏ…
Khi mảnh vụn quân thù dạt xuống đại dương.
(Sức bật )
Cho đến thành công buổi đầu của hợp tác nơi những người con miền Nam tập kết
ra sinh sống:
Ôi nhớ buổi đầu góp chung mảnh đất
Tưởng như xẻ ngực góp da
Bây giờ chung sức tăng gia
Công vào một điểm gặt ra đấu đầy.
(Bài ca hợp tác thôn tôi)
Tất cả, tất cả tạo thành một bản hùng ca trong những ngày chiến đấu gian khổ trên
mọi mặt trận: xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất đất nước.
Không chỉ có lớp từ ngữ mang âm hưởng ngợi ca chung đó mà trong thơ Yến Lan
giai đoạn này còn có lớp từ ngữ mang giọng điệu đối đáp tâm tình như một cuộc trò
chuyện, nó hoàn toàn mang hơi thở của cuộc sống tự nhiên thường ngày, hoàn toàn
không phải “khắc phục kiểu diễn đạt thông thường của lời nói tự nhiên” [9,tr.118].
Cũng có thể nói rằng đấy là cách dụng công riêng của Yến Lan để đưa ngôn ngữ thơ
trở về hòa nhập với ngôn ngữ toàn dân: giản dị, dễ hiểu:
BÃI CÁT Kìa anh bước, đôi chân thoăn thoắt
GIÓ ĐỒNG Anh đã lại gần, anh đến sát thủy lôi
BIỂN Tay sờ quanh ánh mắt sáng ngời
BÀ MẸ Con trai hỡi con có nghe tiếng mẹ
Hãy cẩn thận, hãy lần tay nhè nhẹ…
BÃI CÁT Vặn trở lại, anh vừa vặn ngược
BIỂN Nắp đã dỡ rồi, nâng nhẹ nghe anh
Bao sợi dây chằng chịt phía trong thành…
Hình ảnh người chiến sĩ công binh đang mày mò phá những trái thủy lôi đặt ngầm
trong cát biển một mặt nhằm trả lại môi trường sống an toàn cho bà con nơi đây, một
mặt nhằm tận dụng số thuốc nổ quý giá cho các xưởng công binh chế tạo vũ khí. Bất
chấp hiểm nguy có thể cướp đi sự sống của mình nếu có bất cứ một sơ sót nào, anh
đang bình tĩnh đối mặt với tử thần. Sự rúng động tâm hồn của những con tim, đang lo
âu, thắc thỏm chờ đợi kết quả. Tất cả họ thốt ra những tiếng nói từ trái tim, sự yêu
thương dành cho người con ưu tú của đất nước.
Với vẻ mộc mạc, giản dị trong từng câu, từng chữ được sử dụng, có thể nói ngôn
từ trong thơ Yến Lan đã có một sự lột xác từ sau cách mạng tháng Tám. Từ bỏ những
cách sử dụng từ mới mẻ, trau chuốt đến bí ẩn của những ngày cũ, Yến Lan tiến gần
đến, hòa chung vào ngôn ngữ bình dị của toàn dân, tuy có những lúc ta cảm tưởng như
câu thơ là khẩu hiệu, khô khan và có một chút gì đó như đang lên gân, hay nói cách
khác là tác giả đang nói “chất thép” bằng “giọng thép” nhưng ta cũng cần phải ghi
nhận đó là sự cố gắng đáng quý của tác giả.
3.1.2.2. Giai đoạn từ sau 1975, ta bắt gặp trong thơ Yến Lan lại có một sự đổi
thay trong ngôn ngữ. Nó trau chuốt nhưng hoàn toàn không phải là sự bí ẩn đến khó
hiểu, nó giản dị đời thường nhưng lại vô cùng tinh tế, nó được chắt lọc trong một thể
đặc biệt: thể tứ tuyệt.
Với tổng số 443 bài thơ trong tuyển tập thơ tứ tuyệt của Yến Lan thì có khoảng
gần 70 bài được viết trước 1975, số còn lại được viết sau giải phóng. Sở dĩ chúng tôi
nói khoảng vì có một số bài thơ tác giả không để ngày tháng, khi khảo sát chúng tôi
phải dựa vào ngôn từ, hoặc những tài liệu khác để mà đoán định. Từ đó phát hiện ra sự
thú vị trên trong ngôn ngữ thơ tứ tuyệt của Yến Lan.
Trước hết đó là lớp từ ngữ mang âm hưởng văn học dân gian: sân khấu, truyền
thuyết, cổ tích. Chúng ta bắt gặp đầy đủ từ các thể loại sân khấu như tuồng, chèo; rồi
các điệu hát dân ca như lí, quan họ, đến các tác phẩm văn học dân gian như truyền
thuyết An Dương Vương, Từ Thức đến cổ tích Tấm Cám, Trương Chi…tất cả đều có
đặc trưng ngôn ngữ riêng của từng thể loại. Ở mỗi một tác phẩm chúng ta thường bắt
gặp cách nghĩ, cách trắc ẩn của tác giả khiến ta bất ngờ và thấm thía.
Chẳng hạn, chúng ta hẳn ai cũng tiếc thuơng cô Tấm khi cây cau bị chặt đổ.
Nhưng ít ai nghĩ tới rằng Tấm đã chuyển kiếp trong khi “ lẫn tránh sự truy sát” để rồi
lại được tái sinh, trở về, Tấm thành chú chim oanh bé xinh cất cao giọng hát, có lẽ chỉ
tấm lòng thi nhân mới thấy xót xa khi ở góc ao kia khóm trầu bỗng cô đơn lẻ bạn.
Cây cau đổ với kẻ trèo cau
Lên thẳng ngờ đâu những nhát dao
Người hóa chim oanh lên tiếng hát
Xót cay trầu một góc bên ao.
(Cây cau trong truyện Tấm Cám)
Rồi câu quan họ quyến rũ chúng ta bằng những thanh âm vang, rền, nền, nảy réo
rắt mà ai đã từng nghe thì không thể nào rứt ra được: “cây trúc xinh tang tình mà cây
trúc mọc, qua lối nhỏ bên bờ ao”, rồi thì những lời chào, mời da diết từ bài giã bạn
“người ơi người ở đừng về”, “người ơi người ở em về”…tất cả tất cả mà Yến Lan ví
như một sợi chỉ mành xuyên suốt tâm hồn người Việt cho dù đang ở đâu:
Rạo rực bờ ao, lá trúc tre
Ới “người ơi, người ở đừng về”
Một câu quan họ như mành chỉ
Xuyên suốt tâm hồn mọi nẻo quê
(Quan họ)
Không dừng lại ở đó, niềm tự hào, xúc động với nghệ thuật âm nhạc, sân khấu
truyền thống còn được Yến Lan thể hiện bằng một lớp từ ngữ đặc trưng, xây dựng nên
cả một không gian sân khấu riêng tạo nên một lối thưởng thức sân khấu riêng mà chỉ
những tâm hồn nhạy cảm, trân trọng nét văn hóa cổ truyền như Yến Lan mới có:
Lửa xuông tiết nghĩa, mẹo gian hùng
Đâu dễ nhìn ra lớp “Sóng tùng”
Binh lửa vừa lui, đèo núi dựng
“Gian nan là nợ khách anh hùng”
(Tuồng )
Những từ ngữ “tiết nghĩa”, “gian hùng”, “sóng tùng”, “binh lửa”, “khách anh
hùng” há chẳng phải là lớp từ thường xuất hiện trong sân khấu tuồng cổ đó hay sao?
Nó được Yến Lan khéo léo lẩy ra đặt trong một bài thơ tứ tuyệt, đặc biệt với câu tuyệt
lại là câu được trích dẫn nguyên văn thường thấy trong các tuồng tích cũ. Từ đó có thể
cảm nhận được tài dùng chữ của tác giả để tạo một không gian thơ đặc trưng thật tài
hoa.
Tiếp theo là lớp từ ngữ Hán Việt trang trọng với những thi liệu văn học cổ. Những
lớp từ ngữ này trong thơ Yến Lan chủ yếu là tạo dựng không gian. Một không gian
bảng lảng hư thực của giấc chiêm bao với màn sương khói và bóng trăng mờ tỏ:
Vụt đến rồi đi nghẹn hỏi chào
Chuyện trò thư cũ, chán rồi sao
Cầm tay, chạm phải màu sương khói
Lãng đãng bên tường bóng nguyệt hao.
(Chiêm bao)
Sự xa cách bạn bè trong những năm cuối đời khiến người ta khát khao gặp gỡ, sự
khắc khoải ấy đi cả vào giấc ngủ, để khi thoáng gặp nhau nghẹn ngào câu chào hỏi,
cầm tay nhau nhưng hụt hẫng chỉ là hương khói hư không, thảng thốt giật mình mới
biết chỉ là chiêm bao.
Một không gian hồi ức huyền hoặc mang đậm phong cách Yến Lan như từ những
ngày đầu đến với nàng thơ, phải chăng khung cảnh ấy, thời khắc ấy gợi nhớ, thức dậy
những cảm xúc ngày xưa?
Hương tạ trời khuya đẫm sắc quỳnh
Nửa nghiêng tiền kiếp nửa lai sinh
Lẫn vào sương khói ba canh mộng
Một cánh phù du lộ bóng hình
(Đêm hoa quỳnh nở nhớ Chế Lan Viên)
Cuối cùng là lớp từ ngữ dân dã Việt Nam đường hoàng bước vào một thể loại văn
học bác học, cao sang. Nhắc đến tứ tuyệt, đến thơ Đường luật thông thường người ta
hay liên tưởng đến lớp thi liệu cổ đầy tính ước lệ; nếu không phải tùng, trúc, cúc, mai
thì cũng là phong, hoa, tuyết, nguyệt rồi là hệ thống ngư, tiều, canh, mục…thế nhưng
vào đến Việt Nam theo thời gian, lớp lớp các thi nhân của chúng ta từng bước Việt hóa,
đưa thơ Đường dần rời xa chốn cao sang ấy mà đi gần đến với đời sống dân dã hơn.
Tất nhiên sự Việt hóa này không phải bằng cách tác động vào luật lệ chặt chẽ của thơ
cách luật mà chính bằng hệ thống ngôn từ dân dã, mộc mạc, thực tế ở đời sống nước ta.
Ngày xưa Nguyễn Trãi cũng đã đưa cây bèo, rau muống, cái cày, cái cuốc, bó củi vào thơ:
Ao cạn vớt bèo cấy rau muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen
(Thuật hứng, XXIV)
Đạp áng mây,ôm bó củi
Ngồi bên suối, gác cần câu
(Trần tình, V)
Đó là tâm trạng của một chí sĩ bất mãn với thời cuộc, lui về ở ẩn. Tuy nhiên, ta
vẫn nhận thấy thấp thoáng phía sau tư thế của “lão nông” vẫn là bóng hình của một
nhân sĩ mang nặng tâm trạng thời cuộc.
Cách chúng ta hơn 200 năm, nữ sĩ Xuân Hương cũng đã từng làm một cuộc cách
mạng trong thể thơ Đường luật bằng một chất giọng, một ngôn ngữ đậm đặc chất Việt:
những hang hốc, ốc nhồi, quả mít, cây đu, cái quạt, sư cụ, bà vãi, chẫu chàng, cóc,
nhái, ểnh ương đường hoàng, chễm chệ chiếm chỗ trong thơ bà:
Chàng cóc ôi! Chàng cóc ôi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé!
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!
(Khóc tổng cóc)
Không những vậy bà còn làm giàu thêm tiếng Việt bằng hệ thống từ láy được sử
dụng một cách điêu luyện: nhấp nhổm, hõm hòm hom, tùm hum, vắt vẻo, cheo leo,
mốc meo…
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo.
Ba chạc cây xanh hình uốn éo
Một dòng nước biếc cảnh leo teo
Thú vui quên cả niềm lo cũ
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(Quán Khánh)
Tuy nhiên, cách sử dụng từ láy điêu luyện đến mức tinh quái của Xuân Hương, nó
ẩn chứa một tầng nghĩa ngầm khiến chúng ta biết rằng bà là người duy nhất sử dụng nó
thành công, có lẽ sau bà không có người thứ hai vận dụng.
Còn ở đây, trong thơ tứ tuyệt Yến Lan ta cũng bắt gặp những cóc, ếch, dép đứt,
cây kim, nấm mồ, cái xẻng, cái cuốc, chiếc răng long, sư cụ, anh đồ tể, con lợn… bình
dị như nó vốn có vậy trong đời sống người Việt:
Chống hạn đào mương xẻng cuốc quằn
Đất cằn thêm nẻ nếp da nhăn
Phải chi sấm chuyển cơn giông đến
Con cóc gào mưa đỡ nghiến răng
(Trời hạn)
Hoặc
Điện Phật bao đời ám khói hương
Hằng đêm sư cụ thỉnh hồi chuông
Động giờ thức dậy anh đồ tể
Kê thớt mài dao đón lợn chuồng
(Báo giờ)
Cũng lớp từ láy mộc mạc, giản dị, phong phú: lẩy bẩy, nhá nhem, um tùm, mốc
meo, cheo leo, phỉnh phờ, dằng dặc, bịn rịn, lầm lũi, ngẩn ngơ…nhưng được Yến Lan
đưa vào tứ tuyệt thì câu thơ bỗng trở nên gần gũi, quen thuộc với đời sống. Nó cũng
chất chứa tâm sự của người cầm bút trước những cảnh đời:
Chợ cách đò giang, xóm, cách đèo
Phải đây nhà bạn đứng cheo leo?
Muốn vào, sợ đúng nơi tìm đến
Vườn cỏ um tùm, sách mốc meo
(Do dự)
Lác đác dần thưa mỗi độ hoa
Ngày thêm gầy guộc gốc mơ già
Tiện đi, xin nguyện làm que củi
Dành chỗ cho mầm sắp nứt ra.
(Gốc cỗi)
3.1.2.3. Một đặc điểm nữa trong nghệ thuật ngôn từ của Yến Lan đó là những câu
thơ chứa đựng hệ thống ngôn từ chuyển đổi cảm giác, tạo ra hệ thống từ vựng ẩn dụ,
nhân hóa mới lạ:
“Né hoa khe khẽ chân dời
Sợ lay rụng mất nụ cười thơm dâng” (Đầu năm ngoạn cảnh)
“Ấm nước chưa sôi lửa đã tàn
Bình trà pha loãng ngái mùi trăng” (Tiếc một ấm trà)
“Phù dung nở sớm nào hay biết
Hiu hắt đầu cành mấy tiếng chim” (Hiu hắt ngày dài)
“Tiếng ve xối xả ngập không gian” (Lang thang)
“Đêm đến nằm nghe cành liễu phất
Chợt nhìn quen thuộc tiếng chuông boong” (Tiếng chuông ngày cũ).
Đó chính là tư duy tương hợp của thơ tượng trưng Pháp mà từ những ngày đầu
các nhà Thơ mới, đặc biệt là nhóm thơ Bình Định chịu ảnh hưởng một cách sâu sắc.
Đó là “Những câu thơ chứa đựng sự kết hợp các trạng thái cảm giác thông qua sự liên
tưởng bất ngờ, nhiều khi táo bạo ít ai nghĩ tới” [31,tr.145]. Theo tác giả Nguyễn Hữu
Hiếu thì trong tư duy tương hợp ấy mọi trạng thái cảm giác hòa trộn vào nhau tạo ra
một không gian thơ huyền diệu, cảm giác này gọi cảm giác kia chan hòa trong từng câu
chữ. Chẳng hạn ở những câu thơ trên: “nhìn” được “tiếng chuông ngày cũ” thì đã là sự
hòa trộn thị giác và thính giác. Sự kết hợp ấy tạo nên một hình ảnh thị giác, tác động
trực tiếp vào giác quan và làm tâm hồn ta rung động. Hữu hình hóa được âm thanh
không chỉ tạo ra sự mới lạ về hình thức mà còn gợi ra, đánh thức sự liên tưởng xa xôi
đến những vùng kí ức xa vời mà lối thơ trình bày, mô tả thông thường không thể nào
đạt được. Hoặc “xối xả” là âm thanh tiếng nước chảy, mưa rơi, mạnh không ngớt mà ta
đã từng và có thể cảm nhận được sức nặng của sự va chạm bằng xúc giác, nay được
hoán đổi cho tiếng ve kêu tạo một cảm giác choáng ngợp trước không gian tràn ngập
tiếng ve mà ta có thể chạm tay vào được.
3.2. Dòng thơ
Trong một công trình nghiên cứu của mình Phương Lựu đã nói rằng: “Đặc điểm
quan trọng nhất của ngôn ngữ thơ là sự phân chia ra dòng thơ” [64, tr.371]. Vậy khi
xét về dòng thơ thì cũng có những vấn đề nào mà chúng ta cần phải quan tâm?
Thứ nhất trong các thể thơ cách luật thì đã có sự qui định trước về các dòng thơ: 5
chữ, 7 chữ hoặc 6 và 8 chữ …như vậy là luôn phải có sự cân xứng hoặc bằng nhau
giữa các dòng trên và dòng dưới, điều này không có gì phải bàn cãi. Tất nhiên cũng tồn
tại những trường hợp ngoại lệ đó là sự biến thể trong các thể loại nhằm nhấn mạnh một
ý nào đó về nội dung hoặc nghệ thuật và thường thì ở những trường hợp như vậy chúng
ta cũng dễ dàng khôi phục lại đúng với thể loại gốc nếu ta muốn.
Chẳng hạn:
Chị tức căm thay cho thằng Tô Định nó tham tàn
Nỡ đang tay độc ác làm cho rẽ thúy chia loan cho nó đành!
(Nỗi chị khuyên em – Trần Tuấn Khải )
Như trong trường hợp này thì ta thấy câu “lục” trong thơ lục bát đã được nới
thành 11 tiếng và câu “bát” thành 14 tiếng. Khi khôi phục thì chúng ta có thể hoàn
đúng với thể loại gốc của nó đó là:
Tức thay Tô Định tham tàn
Đang tay rẽ thúy chia loan cho đành.
Như vậy trong các thể cách luật cũ ta có thể thấy dòng thơ cũng chính là câu thơ
khi nó diễn đạt trọn vẹn một ý.
Còn từ trong hiện đại có khi phải đến hai ba dòng mới thành một câu trọn nghĩa:
Ơi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường.
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên )
Đôi khi để giữ sự cân đối giữa hai dòng, để làm nổi rõ vần, và có khi để nêu bật ý,
các tác giả thường vắt dòng:
Trời cao xanh ngắt. Ô kìa.
Hai con hạc trắng bay về bồng lai
(Tiếng sáo Thiên thai – Thế Lữ)
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi, và mắt chỉ
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi
(Ghen – Nguyễn Bính).
Những câu thơ vắt dòng như trên chiếm tỉ lệ không nhiều, tuy nhiên “chính loại
hình này góp phần mở rộng các khả năng diễn đạt của câu Thơ mới, mà thơ ca trước
đó không có được” [27,tr.170].
Vậy dòng thơ trong thơ Yến Lan như thế nào trong sự biến đổi đó của thơ ca dân
tộc?
3.2.1. Thơ 7 chữ của Yến Lan với những nét truyền thống và những cách tân
hiện đại
Với quan niệm câu thơ là dòng thơ để tiện khảo sát thì chúng tôi nhận thấy rằng
thơ 7 chữ chiếm một số lượng lớn trong sáng tác của Yến Lan. Những tập thơ viết
trong thời kỳ đổi mới ở miền Bắc với các thể thơ tự do chiếm đa số như các nhà thơ
khác đương thời, còn lại thì thơ 7 chữ trong sáng tác của Yến Lan chiếm đa phần. Cụ thể:
Tác phẩm Số bài (câu) 7 chữ T ổng số T ỉ lệ
Trước cách mạng 28 40 70%
Những ngọn đèn 4 31 13%
Tôi đến tôi yêu 5 30 17%
Lẵng hoa hồng 0 31 0%
Giữa hai chớp lửa 19 40 48%
Trường ca Én Đào 1272 (câu) 1272(câu) 100%
Tuyển tập tứ tuyệt. 364 443 82%
Thơ 7 chữ của Yến Lan qua các giai đoạn
Thơ 7 chữ của Yến Lan vừa mang nét truyền thống lại vừa có những cách tân. Sự
đổi mới đó thể hiện ở việc giải phóng về âm, vần cũng như phá cách về niêm, luật.
Nếu lấy một bài thất ngôn bát cú của thơ Đường luật thì một số vấn đề cơ bản về
niêm luật như sau:
Trước hết khi xét về niêm, tiếng thứ 2 của các cặp câu 1 - 8, 2 - 3, 4 - 5, 6 - 7 phải
trùng với nhau về thanh; về luật tiếng thứ 4 phải đối thanh với tiếng thứ 2, 6 trong câu;
gieo vần thì hầu hết đều là vần chân ở vị trí tiếng thứ 7 của các câu 1, 2, 4, 6, 8; còn đối
thì câu 3 đối câu 4, câu 5 đối câu 6.
Chẳng hạn khi xét một bài thơ thất ngôn bát cú kiểu mẫu ta có một ví dụ tiêu biểu sau:
Bước tới Đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Qua đèo Ngang – Bà huyện Thanh Quan)
1 2 3 4 5 6 7
Câu 1 T T - tới B B - ngang T T- xế B - tà
Câu 2 B B – cây T T - đá T B - chen B - hoa
Câu 3 B B - khom T T - núi B B - vài T
Câu 4 T T - đác B B - sông T T - mấy B - nhà
Câu 5 T T - nước B B - lòng B T - quốc T
Câu 6 B B - nhà T T - miệng T B - gia B - gia
Câu 7 B B - chân T T - đứng B B - non T
Câu 8 T T - mảnh B B - riêng T T - với B - ta
“Cắt đôi” một bài thất ngôn bát cú, chúng ta sẽ có một bài thất ngôn tứ tuyệt cũng
với niêm luật chặt chẽ như vậy.
Chính sự gò bó chặt chẽ của niêm, luật nên thơ 7 chữ của thể thơ cổ không thể
diễn tả hết được cảm xúc vì vậy Thơ mới ra đời, các tác giả có khi vẫn giữ thể thơ 7
chữ nhưng đã có sự cách điệu, nhằm giải phóng cảm xúc.
Chẳng hạn khi ta xét một bài thơ của Yến Lan cũng 8 câu, 7 chữ nhưng nó hoàn
toàn không phái là thất ngôn bát cú mà là hai khổ tứ tuyệt độc lập, tự do hơn về niêm,
luật và vần. Dòng thơ cũng không phải là một câu thơ trọn vẹn mà nó tràn sang dòng
khác, khiến cảm giác thông thoáng hơn, mới mẻ hơn.
Gió về đâu đó bước khoan thai
Trở nhẹ cành sương mở búp nhài.
Một áng hương đưa vừa đủ lọt
Kẽ bàn tay ấy bước ngang cây
Người sẽ về đâu du khách ơi
Mang theo hương thấm của hoa rồi.
Để phần cho kẻ trong vườn cũ
Những đóa hoa tàn bướm lả lơi.
(Vô đề)
Sự mới mẻ đấy là xu hướng chung của các nhà Thơ mới trong việc cố gắng cách
tân các thể thơ cách luật, đặc biệt là thơ Đường luật. Những bài thơ thất ngôn không bị
gò bó trong 4 câu hay 8 câu nữa mà dài ngắn khác nhau không hạn định và thường thì
chia thành từng khổ 4 câu như trên. Khi khảo sát các bài thơ 7 chữ giai đoạn trước cách
mạng của Yến Lan thì chúng tôi thấy có 24 bài có từ 2 khổ thơ trở lên. Cụ thể: 2 khổ (9
bài), 3 khổ (2 bài), 4 khổ (6 bài), 5 khổ (6 bài), 6 khổ (3 bài), 8 khổ, 10 khổ và 15 khổ
mỗi loại 1 bài. Mỗi khổ thơ như vậy gần như là một bài thất ngôn tứ tuyệt tuy ý không
tập trung và trọn vẹn bằng.
Không những đổi mới về câu thơ – dòng thơ về niêm, luật mà trong thơ 7 chữ của
Yến Lan còn mang âm hưởng lời nói của văn xuôi, cấu trúc tự do phá vỡ một trong
những nguyên tắc khắt khe của thơ cũ. Đoạn thơ miêu tả cảnh Mỹ ngụy tra tấn các em
thiếu niên trong đội công tác Chim Én sau trận phục kích giết chết một tên ác ôn khét
tiếng là một ví dụ:
Mỹ ngụy giở thêm trò ác độc,
Chúng xốc hai em chân lộn ngược,
Dập vào thép cứng những đường “ray”,
Vứt xuống vực lên… luôn tiếp tục.
“Con ai? Bay đến tự nơi nào?
Những đứa cầm đầu hiện ở đâu?
Đồng bọn chúng bay còn mấy mống?
Việc này tiếp tục đến bao lâu?”
(Én Đào)
3.2.2. Thơ tự do với sự dàn trải về ý qua những câu thơ vắt dòng hiện đại
Hiện thực đời sống chiến tranh muôn màu, muôn vẻ, bề bộn và sôi động vì thế
những vần điệu cũ, khuôn thước cũ đã hạn chế sự biểu hiện của thơ. Đây chính là cơ sở
để các thể loại thơ tự do phát triển, mở đến thơ không vần, thơ văn xuôi, thơ
dài…những thể thơ đầy năng động biến hóa, phù hợp với yêu cầu, nội dung, dung nạp
được nhiều liên tưởng, suy nghĩ, thích hợp với sự vận động của tư duy nghệ thuật. Thơ
Yến Lan cũng vậy. Những bài thơ, câu thơ kéo dài ghi nhanh, ghi nhiều chi tiết, hình
ảnh, tâm trạng có giá trị cao về nội dung, nghệ thuật gây được ấn tượng mạnh trong
lòng độc giả.
Hồi ức về những ngày tháng cũ ngột ngạt tù đọng bị đánh thức bởi một loạt những
hình ảnh xô đẩy nhau xuất hiện.
Tỉnh nhỏ,
Đìu hiu
Mặt trời ngủ giữa chiều,
Trở mình trên mái rạ.
Cây đứng nép bên đường,
Tay xương nắm lá,
Như tay người đưa thư
Áo vải tây vàng hai vai đã vá,
Đi giữa đường mấp mô,
Không có kẻ đợi chờ.
(Lại về tỉnh nhỏ)
Chỉ hai câu thơ nhưng được vắt qua 10 dòng, khái quát một bức tranh toàn cảnh
về không khí tù đọng của tỉnh nhỏ trước cách mạng. Sự uể oải, ngưng đọng đó thấm
vào cảnh vật đến cả mặt trời – nguồn gốc của mọi sự sống thiên nhiên kia cũng bị ảnh
hưởng. Một ông mặt trời ngủ ngày “ngủ giữa chiều”, đang “trở mình trên mái rạ” và
ngày bỗng tàn rất nhanh, tàn không phải vì địa hình heo hút mà tàn vì không có sự hoạt
động. Sự ngưng đọng tới mức mà một lá thư – thông tin của con người – đến đây từ
viễn xứ cũng trở thành thứ không có ai chờ đợi…
Trong cuộc sống ngột ngạt đó, con người còn bị câu thúc bởi những khuôn vàng
thước ngọc của lễ giáo khiến những khao khát hạnh phúc cá nhân trở thành thứ yếu.
Sau những ngày dang dở tình duyên
Con đỏ trên tay
thành người góa bụa
Tóc xanh vướng trong khăn tang dẫy dụa
Theo lệ hàng năm về quê ngoại bên sông
Lạc trong đám vợ chồng
Lòng gảy nửa khúc đàn lỡ nhịp
Không dám ước mơ một đường tơ nối tiếp
Không dám trườn qua “thước ngọc khuôn vàng”
Đục
Trong
một bước sang ngang
Mốc định mệnh ai đóng vào xương sống
Tổ kén lễ nghi bao trùm xác nhộng
Nồi ươm giết kiếp con ngài
Mỗi xuân về
mỗi kéo dài thêm
sợi chỉ tâm tình ai oán…
Một câu chuyện kể về người phụ nữ chịu cảnh góa bụa khi mái tóc còn xanh, con
còn đỏ hỏn. Bởi lễ nghi phong kiến, bởi khuôn vàng thước ngọc mà không dám bước
tiếp con trên con đường tìm hạnh phúc lứa đôi cho dù chị khát khao cháy bỏng. Những
dòng thơ dài ngắn, khúc khuỷu, đan xen, nối tiếp nhau như câu chuyện bất tận về cuộc
đời bất hạnh của chị, đó là mối cảm thông của thi nhân dành riêng cho chị và cho
những kiếp người bất hạnh ngày xưa.
Trong những ngày đầu dựng xây đất nước, tìm kiếm con đường phát triển tốt nhất
cho dân tộc, sao cho mọi người cùng được lao động, cùng được chia phần một cách
công bằng, mô hình hợp tác xã là sự lựa chọn sống còn của ngày ấy để thực hiện sự
công bằng. Tuy nhiên, ở bước đầu góp tài sản của mình vào hợp tác, rồi làm làm sao,
ăn như thế nào ai chia, ai giữ không phải đã có câu trả lời thỏa đáng. Tất cả những tình
cảm ngổn ngang của những cá nhân trong buổi đầu gia nhập hợp tác được ghi nhận lại
bằng những dòng thơ dường như bất tận. Sự động viên lúc này mới ý nghĩa làm sao:
Nuôi việc làm ăn như nuôi con qua đốt
Đến ngày con lẫy, con chơi;
Đến ngày mười tám, đôi mươi,
Đến ngày rộng vai dài vế;
Cái khó đan vào cái dễ
Nan mốt nan hai
Nuôi việc làm ăn từ hạt muối củ khoai,
Gian khổ, không dừng sức lớn.
(Bài ca hợp tác thôn tôi)
Trên mặt trận chống giặc ngoại xâm, một cuộc chiến, không phải một hai tháng,
một hai năm mà đã mấy chục năm trôi qua. Những người con của miền Nam tập kết ra
Bắc nhưng lòng vẫn canh cánh hướng về quê hương, nghe ngóng từng tin tức chiến sự.
Để rồi thời cơ quyết định đã tới, không khí khẩn trương của những ngày tiến đánh giải
phóng quê hương náo nức khiến họ không thể kìm chế:
Ta tiến lên với dòng Côn ào ạt
Cầu Đôi đây, bao lớp đã thay dầm
Vẫn nguyên liền nhịp thép đón quân sang
Không kín nữa Đèo Son, hầm cố thủ
Cái bọc độc cả quân đoàn ôm giữ
Kho hậu cần cho tất cả Tây Nguyên
Bộ mặt huênh hoang lũ lũ cuồng điên
Đã ư ử run dài cơn sốt.
(Hôm nay đã đến Bình Định ơi.)
Một câu thơ vắt tràn qua tám dòng, ôm chứa hết những diễn biến nóng bỏng tình
hình chiến sự của quê hương. Mỗi dòng thơ ta như cảm nhận được giọt nước mắt nóng
hổi và dòng máu đang sùng sục sôi lên trong huyết quản của những người con sau bao
năm chờ đợi. Sự đợi chờ ấy giờ đây đang được đền đáp.
3.3. Nhịp thơ
Thơ là tiếng nói của tình cảm, của trái tim căng tràn về cuộc sống. Cũng như nhịp
đập của trái tim khi xúc động, ngôn ngữ thơ cũng có nhịp điệu riêng của nó. Thế giới
nội tâm của nhà thơ không chỉ được biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà bằng cả âm
thanh nhịp điệu của từ ngữ ấy. Âm thanh nhịp điệu thêm hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra
những điều mà nhiều khi từ ngữ không thể nói hết. Tất nhiên, nói như vậy không có
nghĩa là ý nghĩa thơ tách độc lập với từ ngữ mà chính xác là từ ngữ, kết hợp với nhịp
điệu chúng ta sẽ có trường nghĩa thơ rộng mở hơn.
Trước hết cần xác định rõ nhịp thơ – nhịp điệu - trong một bài thơ, một câu thơ
không phải chỉ bộc lộ ở cách ngắt thành những đoạn tiết tấu như ta vẫn thường làm
trước đây mà do nhiều nhân tố tạo thành. “Thanh điệu của từ, thanh điệu của đoạn tiết
tấu, vần thơ…đều tham gia vào việc tổ chức nhịp điệu” [23, tr.384]. Do đặc điểm của
tiếng Việt là thứ ngôn ngữ đơn âm tiết, nên “nhịp điệu trong thơ Việt Nam chủ yếu dựa
vào sự tổ chức thanh điệu bằng trắc trong phạm vi câu thơ, hệ thống tiết tấu trong câu
thơ và đến cả thanh điệu của mỗi từ”. [23, tr.384]
Khi đọc một bài thơ hay, điều đầu tiên mà người đọc bị quyến rũ đó chính là sự
du dương, trầm bỗng như một bản nhạc. Tính nhạc đó được tạo thành chính là thanh
điệu trong ngôn ngữ của mỗi dân tộc. Tất nhiên trong văn xuôi cũng có những đoạn,
những phần mang tính nhạc mà chúng ta không thể phủ nhận được, tuy nhiên số đó chỉ
chiếm một phần không đáng kể. Trong thơ khi người nghệ sĩ càng làm chủ được vốn
ngôn từ phong phú của dân tộc thì tác phẩm của họ càng dễ đi sâu vào lòng bạn đọc.
Trong chúng ta ai mà không từng xúc động đến lặng người trước những âm điệu
thiết tha, khơi dậy những kỉ niệm yêu thương đằm thắm tự thuở ấu thơ khi đọc được
những dòng, những chữ Tố Hữu viết về quê mẹ:
Huế ơi quê mẹ của ta ơi
Nhớ tự ngày xưa tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu chiều lặng lặng
Mưa nguồn, gió biển nắng xa khơi
(Huế, Quê mẹ )
Không chỉ thanh điệu mà vần cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng
trong việc tạo thành nhịp điệu cho thơ. Nếu thanh điệu có tác dụng làm cho câu thơ
trầm bỗng thì “vần trong thơ có tác dụng nối dính các dòng thơ lại với nhau thành một
đơn vị thống nhất có âm hưởng riêng” [64, tr.369] dễ đi vào trí nhớ của bạn đọc. Một
điều dễ thấy rằng, trẻ con ngay từ khi chưa có ý thức tự giác trong việc học thuộc lòng
thì chính nhờ vần mà các khúc đồng dao dễ đi vào trí nhớ của chúng.
Chẳng hạn:
Dung dăng dung dẻ
Dắt trẻ đi chơi
Đến cổng nhà trời
Lạy dì lạy cậu
Cho cháu về quê…
(Đồng dao)
Khi khảo sát về nhạc điệu trong thơ Yến Lan giai đoạn trước cách mạng chúng
tôi nhận thấy cái tạo nên vị trí Yến Lan trong Thơ mới phần nào nằm ở đây.
Diễn tả tâm trạng cam chịu, buồn thương của một cô gái bị ép duyên dành cho
người yêu:
Ừ, sao mà tương tư
Thương gì nơi vàng giếng
Nhớ nào ở hương thu
Ngựa chàng sang hằng chuyến
Đường vẫn nao dòng cũ
Ngựa vào bước chân xưa
Áo chàng xanh lam lũ
Trời ơi, trời đừng mưa.
(Đường xưa)
Hai khổ thơ 40 chữ mà đến 29 chữ được dùng trong này là thanh bằng, kết hợp
với lối gieo vần gián cách trong từng khổ thơ, diễn tả một tâm trạng buông xuôi, cam
chịu. Chấp nhận sự chia rẽ, dang dở tình duyên của mình như là một định mệnh không
thể nào hoán đổi. Vẫn tương tư, vẫn thương, nhớ - những tính từ cảm xúc tăng cấp lần
theo âm điệu bằng – bằng - trắc, nàng biết rằng trái tim nàng vẫn lẩn quẩn bến nước hò
hẹn thấm đẫm hương, sắc mùa thu, vẫn biết ngựa chàng vẫn hàng ngày vượt một quãng
đường dài để đi tìm người yêu, nhưng nàng không thể và không dám bỏ lại tất cả sau
lưng để đi cùng tình yêu. Câu thơ cuối: “Trời ơi, trời đừng mưa” sử dụng toàn vần
bằng, nhịp thơ ngắt 2/3 sau cụm từ “trời ơi” như là một tiếng than, lại như là một lời
cầu xin, một chút cố gắng cuối cùng cho người yêu. Nhưng rồi ta cũng thấy rằng sự cố
gắng đó của nàng cũng chỉ là vô vọng mà thôi.
Trong cuộc sống, chúng ta ai chẳng có những lúc mong chờ một điều gì đó: tình
yêu, hạnh phúc, may mắn, cơ hội, hay chỉ đơn giản chỉ là một niềm vui nho nhỏ. Sự
mong chờ đến khắc khoải. Thế nhưng trớ trêu thay đôi khi chúng ta không nhận ra điều
ấy để rồi đến lúc nó trôi vuột đi, ta lại khắc khoải đợi mong:
Nhưng đêm kia / đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng / màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò,/ gọi đò,/ như hối hả.
Sợ trăng vàng / rơi khuất lối chưa đi.
Mà ông lão / say trăng / đầu gối sách
Để thuyền hồn / bơi khỏi Bến My Lăng.
Tiếng gọi đò /, gọi đò/ như oán trách.
Gọi đò -/ thôi,/ run rẩy cả ngành trăng.
Bến My Lăng còn lạnh, / Bến My Lăng
Ông lái buồn / đợi khách suốt bao trăng.
(Bến My Lăng )
Vẫn lối gieo vần gián cách của thơ mới, vẫn lối ngắt nhịp 3 / 5 của thơ 8 chữ thế
nhưng khi tiết tấu đoạn thơ bất chợt thay đổi thì cảm xúc dường như cũng dâng tràn,
sóng sánh. Hai câu thơ diễn tả hai trạng thái cảm xúc gọi đò, cùng nhịp 3/2/3 nhưng
nếu ở câu thứ nhất: “Chàng gọi đò,/ gọi đò,/ như hối hả” một trạng thái vội vã, gấp rút,
và sau đó câu thơ trở về nhịp 3/5 quen thuộc để lại một cảm giác nôn nóng đợi chờ, thì
ở câu thứ hai, vẫn một nhịp ấy nhưng câu thơ tiếp theo nhịp thơ vỡ vụn 2/1/5 thì một
cảm giác hụt hẫng đến rúng động cả tâm can người đọc về một sự tiếc nuối: hạnh phúc
đợi chờ đến mà không nắm bắt thì nó lại ra đi. “Gọi đò”, “thôi”, một khoảng lặng của
đợi chờ, khoảng lặng chấm dứt. Tiếng gọi vọng tới trăng cao, tiếng gọi chấm dứt để lại
khoảng không gian mênh mông vô tận run rẩy cả ngàng trăng.
“Tiếng gọi đò /, gọi đò / như oán trách.
Gọi đò -/ thôi,/ run rẩy cả ngành trăng”.
Hai câu kết, nhịp thơ đảo lộn 5/3 rồi lại 3/5: một chút khoảnh khắc xáo trộn tâm
tư rồi tất cả lại rơi vào sự đợi chờ mòn mỏi. Âm hưởng của vần “ăng” lan tỏa mãi, vấn
vương mãi trong lòng người đọc về một sự đợi chờ và tiếc nuối. Yến Lan đã hình
tượng hóa sự đợi chờ khát khao đó bằng hình ảnh ông lái đò bên Bến My Lăng, bến
của miền mong, tưởng.
Không phải chỉ có gieo vần gián cách mà thơ Yến Lan còn có một đặc điểm nữa
trong việc tạo nhạc tính để lôi cuốn người đọc và đồng thời lời thơ dễ đi vào trí nhớ
của độc giả đó là việc gieo vần phối hợp với phối thanh bằng trắc đều đặn. 11 khổ thơ
với 44 câu tác giả cứ xen kẽ gieo một câu bằng lại một câu trắc như bước chân một hai,
một hai đều đặn dẫn người đọc đến với Bình Định bằng thi phẩm Bình Định 1935:
Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt.
Đàng chờ xe, sông nước ước mong thuyền.
Tịch dương liễu không biết mình đang biếc.
Tương tư trời tương tư, nhạc triền miên.
Mây nổi đó nhưng hồn chừng xa xứ,
Trăng cô liêu trắng mộng hồ xa nao?
Xe lỗi hẹn với người trong lữ thứ,
Những cánh thuyền muôn dặm cũng hư hao…
Hoặc cách hiệp vần từng khổ 4 câu theo mô hình bằng – bằng – trắc – bằng
(BBTB):
Chiều nghe chuông chở rét qua sông
Chiều mong lời vui ở cánh đồng
Tre nhại thi nhân trong xóm lạnh
Chợ tàn tiễn khách với lều không
Ai nhại dùm ta tiếng võng đưa
Của bao người mẹ tự bao giờ
Những chiều năm xưa năm xưa ấy
Trong lúc ngoài trời lén đổ mưa
(Chiều)
Hoặc phối hợp hai kiểu hiệp vần trên trong cùng một bài thơ:
Ấy thế cho nên hàng xóm biết
Lời ong tiếng nhặng vẳng loang mau
Vào ra cổng trước xưa nay ít
Giờ lại kiêng dè cả giậu sau
Xuân thơ tuổi trẻ trầy qua rồi
Nhớ trộm yêu thầm chút vậy thôi
Một buổi nhà em gây xích mích
Bởi bên tường thiếu chiếc khăn phơi
(Gần nhà xa ngõ)
Khảo sát 46 bài thơ trước cách mạng của Yến Lan, chúng tôi thấy thơ ông thường
chia thành từng khổ 4 câu và có những cách phối thanh ở phần gieo vần như sau:
Kiểu TBBT TBTB BBTB Phối hợp Vần bằng Tự do Tổng số
(5) phối thanh (1) (2) (3) 2 + 3 (4) (6)
3 Số bài 3 9 15 12 4 46
6% Phần trăm 6% 20% 33% 26% 9% 100%
Như vậy tổng số kiểu phối thanh 2, 3, 4 ở thơ Yến Lan giai đoạn này chiếm đến
79%. Một điều chúng ta dễ nhận thấy là chính cách gieo vần với thanh bằng thì nhịp
điệu thơ thường nhẹ nhàng, sâu lắng. Nếu buông theo cảm xúc thì những bài thơ có
cách gieo vần này thường rất sâu, đi vào lòng người. Nhưng nếu có chủ đích trước để
tác phẩm đạt được nhịp điệu theo cách gieo vần đó, phối thanh đó thì nói như tác giả
Hà Minh Đức là “dụng công” lớn nhưng “hiệu quả lại kém sút” [23, tr.386]. Phải chăng
đây là đặc điểm để nhận ra thơ Yến Lan và cũng từ đây chúng ta cũng nhận thấy hạn
chế trong thơ của ông ? Ông đã có những bài thơ thật giàu cảm xúc, thực sự đưa người
đọc đến với một bến thơ mà chỉ mình ông tạo dựng được: Bến My Lăng, Bình Định
1935, Đường xưa, Vắng vẻ…nhưng bên cạnh đó thì cũng có những tác phẩm thực sự
chưa thuyết phục được bạn đọc bởi chính hạn chế trên. Trong khi các tác giả Thơ mới
đương thời hướng đến với sự tự do, phá cách để thơ hoàn toàn rời xa thơ cách luật, đạt
được sự tự do trong khi thi triển cảm xúc thì ông theo một cách nào đó lại gò thơ mình
theo một hướng đi riêng, tự do đó nhưng vô tình lại trói buộc trong một khuôn khổ do
chính ông đặt ra và hướng đến. Và có lẽ cũng chính đặc điểm này mà nhà nghiên cứu
Hoài Thanh đã có nhận xét về thơ ông rằng: “ Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng dần lâu
cơ hồ ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng sông”
[90, tr.171]. Êm quá, bình lặng quá đôi khi đơn điệu quá giữa cái sôi động của thế giới
thơ ngày ấy khiến nhắc đến những tác phẩm tiêu biểu của ngày ấy thì có thể có thơ Yến
Lan nhưng nhắc đến tác giả tiêu biểu thì hầu như Yến Lan thường vắng mặt. Đây phải
chăng chính là biểu hiện tất yếu về sự khắc nghiệt của tiêu chí nghệ thuật ?
3.3.2. Sau cách mạng tháng Tám, trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, khi đất
nước cần thì thơ Yến Lan thực sự đã gân guốc hơn khi phản ánh kịp thời những gì
đang diễn ra trong cuộc sống. Mặc dù vẫn chọn góc nhìn lặng lẽ, nhưng cảm xúc đã
dẫn dắt để Yến Lan có được những vần thơ mang hơi thở chung của thời đại rực lửa
đấu tranh.
Với kẻ thù hùng mạnh và hiện đại thì cuộc chiến không phải ngày một ngày hai
mà tất cả đã được Bác Hồ xác định là trường kỳ: năm năm, mười năm, hai mươi năm
hoặc lâu hơn thế nữa, nhưng điều chắc chắn rằng ta phải đánh đuổi được giặc xâm
lăng. Chính vì mục tiêu phục vụ cho cuộc trường kỳ kháng chiến đó mà việc sắp xếp
cuộc sống như thế nào, đòi hỏi một sách lược đúng đắn, sách lược đó chính là rời bỏ
những thành phố trung tâm, lập những cơ sở sản xuất tại các làng quê hòng phục vụ
cuộc chiến lâu dài của dân tộc.
Những tiết tấu ngắn gọn, gieo vần liên tiếp, kết câu hầu hết bằng thanh trắc thể
hiện được những hành động dứt khoát, khẩn trương và không kém phần chu toàn của
cả một tập thể:
Ra đi – ra đi, dốc trèo suối lội
Tháo rời máy những xưởng đường , xưởng sợi
Đe, búa vào rừng lập trại công binh
Đến xứ dừa nương thế lá tre xanh
Tước dó, giã rơm, đắp lò seo giấy
Về những cánh đồng hạn khô chờ cấy
Siết nồi hơi vặn chạy máy bơm
Tiếp đường mòn qua bãi mía, nương thơm
Sắp chữ, dập khuôn in đều sách báo
Giữ vẹn màu xanh công nhân trên áo
Sức cần lao dựng mới lại quê hương
Cái ốc, hòn bi đem ráp máy, chuyển guồng
Dây điện, lá tôn buộc che lều lán.
(Những thành phố ra đi)
Nơi nào cần phải rời bỏ và nơi nào cần phải bám trụ, tất cả đều là những quyết
định sinh tử với từng người và với toàn bộ cuộc chiến. Yến Lan đã đến với biển, đến
với môi trường hoạt động duy nhất của những ngư dân, để thấy được họ đã kiên cường
như thế nào trong cuộc đọ sức với giặc, bất chấp lệnh cấm, bất chấp súng đạn, bất chấp
cả thủy lôi:
Này anh em ơi
Tay lái đừng lơi
Mở “đường tiếp máu”
Ta chèo ra khơi…
Lượn theo nồm, bấc
Lênh đênh sóng dồi
Khoang ta chở chật
Cái ăn, cái mặc
Hòm đạn, nồi hơi…
(Bài ca những người bám biển)
Bằng thể thơ 4 chữ, nhanh chắc gọn, đặc biệt khi cần thiến tiết tấu thơ rã ra 3 -1,
hoặc 2-2 , nhịp thơ như những nhịp chèo gấp rút tránh tầm ngắm của kẻ thù, mang về
“cái ăn, cái mặc” và cả những khí tài cần thiết cho cuộc chiến. Với một tinh thần đồng
lòng và quả cảm như vậy thì chiến thắng tất yếu chỉ còn là thời gian.
Chiến tranh kết thúc, Yến Lan lại trở về với cuộc sống đời thường. Thơ ông lại
được trở về với góc tâm tình quen thuộc. Tuy nhiên, giai đoạn này Yến Lan tìm về với
thể thơ truyền thống: thơ tứ tuyệt mà tác giả Lê Thiếu Nhơn đã nói khi đọc những tác
phẩm mà ông sáng tác trong giai đoạn cuối đời này rằng “Nếu in trọn vẹn tuyển thơ này
sẽ khiến những ai nao núng cách tân, ồn ào cải tiến thơ phải giật mình” [119]. Cái giật
mình mà Thiếu Nhơn đề cập đến đó chính là nét chuẩn mực trong thể loại mà không
phải nhà thơ nào cũng có thể đạt đến:
Một chút nỗi niềm riêng của người con sớm mồ côi mẹ được thể hiện trọn vẹn
trong thi pháp nghiêm ngặt của thơ tứ tuyệt: hiệp vần, phối thanh, ngắt nhịp, niêm, luật
chặt chẽ. Bài thơ như một khúc ngân nhẹ nhàng mà thấm thía với bất kỳ ai cho dù có
vô tâm đến mấy khi được thưởng ngoạn:
Đò ngang gối bãi / bóng trăng lồng
Chợ khuất sương chiều / bóng trẻ trông
Ta ước như em / còn có mẹ
Dẫu cùng đăm đắm / một ven sông
(Chờ)
Thơ xưa thường tìm mối giao hòa với thiên nhiên, Yến Lan đã để tâm hồn mình
hòa nhập cùng vạn vật trong vũ trụ. Cảm nhận đến tận cùng một quy luật của tự nhiên:
tình mẫu tử thiêng liêng và sự đau đớn khi mất mát chia lìa không phải chỉ dành riêng
cho con người:
Chiều qua / gió dập tổ chim non
Mẹ mãi tìm mồi /để mất con
Tối đến / nương sao / bươi cát sạn
Nhặt từng mảnh vụn / của hoàng hôn.
(Tìm con)
Sự đồng cảm ở đây được tác giả thể hiện bằng nhịp điệu thơ trái với quy luật 4 -3
như thường thấy của thể loại này. Mặc dù vẫn cách gieo vần, phối thanh mực thước
nhưng nhịp điệu ở đây là nhịp điệu của cảm xúc: 2 – 5; 4 – 3; 2 – 2 – 3; 4 – 3 cái bình
thường xen kẽ với cái bất thường, sự xáo trộn đó lột tả hết nỗi lòng của chim mẹ và
đồng thời tác giả thể hiện được sự giao hòa, đồng cảm đến trọn vẹn giữa con người với
tự nhiên.
Mỗi nhà thơ thường có một phương thức biểu hiện tạo ra nét riêng cho phong
cách thơ của mình. Có thể Yến Lan không phải là người xuất sắc nhất, tiêu biểu nhất
trong việc tạo ra cái mới cho thơ Việt Nam từ những ngày đầu cũng như sau này.
Nhưng với những tìm tòi và cách tân của ông: ngôn ngữ của cảm xúc, chuyển đổi cảm
giác, những câu thơ vắt dòng hiện đại, những kiểu phối thanh hiệp vần tạo cảm xúc nhẹ
nhàng sâu lắng cho thơ; tuy có những lúc có quá đà, khiên cưỡng nhưng nhìn chung
hiệu quả nó mang lại cũng thật đáng trân trọng, đã góp phần vào thắng lợi của Thơ mới
trong những ngày đầu và khẳng định vai trò vị trí của thơ ca trong sự nghiệp cách
mạng cũng như trong đời sống của văn học dân tộc sau này.
KẾT LUẬN
1.Gần một thể kỷ sống và viết, Yến Lan để lại một sự nghiệp thi ca không phải là
ít: gần hai mươi tác phẩm gồm nhiều thể loại từ thơ ca, truyện ngắn, truyện thơ đến
dịch thuật…ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc cũng như của lịch sử thơ
ca Việt Nam. Đi qua hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, trải qua suốt những biến
động của những cuộc lột xác trong văn học Việt Nam, thơ Yến Lan cũng có những
đóng góp nhất định.
Với hướng tiếp cận nghiên cứu “Đặc điểm thơ Yến Lan”, luận văn một mặt khẳng
định những nét riêng độc đáo của Yến Lan, mặt khác làm toát lên được những đóng
góp của Yến Lan cho Thơ mới nói riêng và thơ ca nước nhà nói chung.
Như vậy, tìm hiểu về “Đặc điểm thơ Yến Lan” như một chỉnh thể nghệ thuật,
luận văn đi vào tìm hiểu giá trị thơ Yến Lan trên ba phương diện:
1) Tư tưởng, tâm hồn.
2) Tài năng nghệ thuật
3) Những đóng góp cho văn học nước nhà.
Qua nghiên cứu thơ Yến Lan và một số phương thức biểu hiện đặc sắc của nó
dưới cái nhìn tổng thể, chúng tôi đi đến kết luận sau:
1.1. Về nội dung, thơ Yến Lan thể hiện một con người có thái độ sống tích cực,
luôn trân trọng cuộc sống của mình trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trước cách mạng
trong lúc hầu hết những bạn bè trang lứa của ông thường có thái độ bi quan trước thời
cuộc và thậm chí trốn tránh thức tế bằng cách đi vào thế giới siêu thực, ma quái hoặc
chìm đắm trong tình yêu thì ông vẫn cố tìm lấy mặt tích cực của cuộc sống, dù là nhỏ
nhoi để tồn tại. Trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, Yến Lan tích cực, xông xáo đi
làm nhiệm vụ của một công dân đối với đất nước. Mặc dù có những lúc cuộc sống
không thuận lợi, không như ý muốn chủ quan, nhưng Yến Lan vẫn thể hiện một tấm
lòng hồn hậu, thủy chung, vẫn lạc quan tin yêu cuộc sống. Niềm tin yêu đó biểu hiện ở
tình cảm chân thành của ông đối với những gì bình dị nhất diễn ra ở chung quanh
mình. Mặt khác thơ Yến Lan còn thể hiện tình cảm gắn bó chân thành của con người
đối với quê hương đất nước, đặc biệt là đối với miền quê chôn nhau cắt rốn của mình.
Tình cảm đó được thể hiện tha thiết từ thuở mới chập chững bước lên thi đàn cho tới
ngày xuôi tay nhắm mắt. Đó là sự gắn bó vô tư, chí thành và hồn hậu nhất.
1.2. Về phương thức biểu hiện. Yến Lan cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ sự đổi mới
của văn học – trong xu hướng ảnh hưởng của thơ ca phương Tây, đặc biệt là thơ Pháp.
Có thể ông không phải là người tiêu biểu nhất, xuất sắc nhất trong việc tạo ra sự “đột
phá” trong việc tìm ra cách biểu hiện thật mới cho thơ. Nhưng thực sự chúng ta không
thể phủ nhận được sự đóng góp của ông cho những thắng lợi của phong trào Thơ mới
ngày ấy và “chiến công”của thể loại thơ trữ tình cách mạng, trữ tình thế sự, đời tư sau
này. Từ những khóm từ cảm xúc, cảm giác mới mẻ ngày ấy, đến những câu thơ vắt
dòng hiện đại, chứa đựng nhiều thông tin trong một giai đoạn thơ cần phản ánh nhiều
sự kiện và cuối cùng là sự phá cách trong phối thanh, gieo vần tạo nhạc điệu thơ biến
hóa dễ đi vào lòng người. Tuy nhiên, trong sự cố gắng đổi mới của mình, đôi khi Yến
Lan hơi lạm dụng gây ra sự tối nghĩa trong sử dụng từ ngữ và đơn điệu trong cảm xúc
thơ. Đây có lẽ cũng chính là những hạn chế cơ bản trong thơ Yến Lan khiến cho sự
nghiệp thơ có thể nói là đồ sộ của ông với những thành tựu cũng thật đáng trân trọng
nhưng chưa được giới thiệu rộng rãi đến bạn đọc. Tuy nhiên, những hạn chế này cũng
không phải chỉ chủ quan do ông.
2. Mặc dù sự nghiệp cầm bút của Yến Lan kéo dài hơn nửa thế kỷ, ông cũng góp
phần tích cực vào sự thắng lợi của Thơ mới nói chung và tiếng vang của nhóm thơ
Bình Định ngày ấy nói riêng. Nhưng tên tuổi của ông thường lu mờ, có thể nói là bị
chìm lấp đi trong khi các nhà nghiên cứu không tiếc bút mực khi viết về Chế Lan Viên
và Hàn Mặc Tử - hai thành viên của nhóm. Có một nhà nghiên cứu nào đó đã nói rằng:
“Cố ý để mà hiểu lấy tác giả. Vì lẽ rằng không có cái gì hoàn toàn ở đời này, ta hãy
tìm lấy ở trong cái thiếu kém một viên gạch, một miếng vôi mà góp vào sự xây dựng
một cái tòa lầu nghệ thuật…” [114, tr120]. Yến Lan có nhỏ hay không? Thiếu kém hay
là một nhà thơ lớn của văn học nước nhà? Thời gian đã và đang dần dần trả lời câu hỏi
ấy. Chúng tôi chỉ muốn khẳng định rằng: Những gì Yến Lan đã làm và đóng góp cho
văn học nước nhà thật đáng trân trọng. Chúng tôi xin mượn lời ông Nguyễn Thanh
Mừng, Chủ tịch hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bình Định, trong bộ phim tài liệu “Yến
Lan những trang đời còn lại” của Ban khoa giáo đài truyền hình Đà Nẵng để một lần
nữa nói lên cái vị trí của trong đời sống văn học Bình Định nói riêng, của Việt Nam nói
chung: “Những vần thơ như khắc chạm, những vần thơ như có nét đặc trưng của đời
sống văn hóa Bình Định. Yến Lan là một trong những bộ phận cấu thành của văn hóa
Bình Định”.
3. Về thơ ca Yến Lan vẫn còn nhiều vấn đề để ngỏ, chưa được nghiên cứu, đặc
biệt là mảng kịch thơ và thơ tứ tuyệt của ông. Để có một cái nhìn sâu sắc và toàn diện
hơn cần có sự đóng góp, nghiên cứu của nhiều người trên nguồn tư liệu đầy đủ hơn.
Trong điều kiện hạn hẹp về thơi gian và tư liệu, luận văn của chúng tôi chỉ tìm hiểu
được phần nhỏ trong sự nhiệp thi ca của ông. Chắc chắn công trình của chúng tôi còn
nhiều thiếu sót, người viết chỉ mong góp một phần nhỏ nào đó trong việc giữ gìn và tôn
vinh vẻ đẹp của một hồn thơ bình dị, từ đó thể hiện lòng mong muốn tìm hiểu những
vẻ đẹp trong thi ca dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Thị Ân (2004), luận án “ So sánh đặc trưng từ vựng của Thơ mới với thơ
truyền thống Việt Nam”, ĐHQG tp HCM – trường ĐH KHXH và NV.
2. Thục Anh (2001), “Chuyện tình duyên của thi sĩ Yến Lan”, báo Phụ nữ 5/2001.
3. Hoài Anh (1999), “Yến Lan, ông lái đò trên Bến My Lăng giao cảm”, Văn số (97/
1999).
4. Ban khoa giáo đài truyền hình Đà Nẵng (1998), Phim " Yến Lan những trang đời
còn lại".
5. Ban văn nghệ ĐTHVN - Mỗi tháng một chuyến đi, Phim " Ai về Bình Định
mà coi".
6. Nguyễn Bao (1996), “Từ Bến My Lăng”, Tuyển tập thơ Yến Lan, NXB Văn học.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Sách giáo khoa văn học 12, tập 1, NXB
Giáo dục.
8. Bộ giáo dục và đào tạo (2001), Thơ văn Lý Trần, NXB Giáo dục.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Sách giáo khoa văn học 10, tập 2, NXB
Giáo dục.
10. Văn Cao (1957) “Lời giới thiệu”, tập thơ Những ngọn đèn, NXB Hội nhà văn.
11. Anh Chi (2003), “Yến Lan tiền chiến và lận đận Bến My Lăng”, Thơ, phụ bản
báo Văn Nghệ (quý II/2003), (11).
12. Nguyễn Viết Chính (2006), “Yến Lan , những chặng đường thơ”, Báo Nông
nghiệp (3/2006), (8).
13. Ngô Kim Cúc (2002), “Còn đò bến My Lăng”, Thanh niên,(11).
14. Võ Chân Cửu (1990), “Một ngọn đèn sót”, Báo xuân Bình Định, tr15.
15. Phan Cự Đệ (2007), “Văn học lãng mạn Việt Nam 30-45”, NXB Văn học, tái bản
lần thứ 4.
16. Phan Cự Đệ - chủ biên- (2001), Lí luận phê bình văn học miền Trung thế kỷ XX,
NXB Đà Nẵng.
17. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học.
18. Lưu Nhi Dũ (1999), “Tình yêu, mùa xuân trong thơ Yến Lan”, Người lao động
xuân 1999, tr26.
19. Lưu Nhi Dũ (2001), “Trĩu nặng một tình yêu”, Người lao động, (9/10/2001)
20. Hà Minh Đức (2001), Văn chương – tài năng và phong cách, NXB KHXH, Hà
Nội.
21. Hà Minh Đức – Huy Cận (1993), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (60
năm phong trào Thơ mới ), NXB Giáo dục.
22. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998),Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
23. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo
dục.
24. Hà Minh Đức (1997), Một thời đại trong thi ca về phong trào Thơ mới 1932 -
1945, NXB KHXH, Hà Nội.
25. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX – viện văn
học -, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội.
26. Khổng Đức (1998), “Tưởng nhớ nhà thơ Yến Lan”, Tạp chí Văn, (85).
27. Lê Tiến Dũng (2004), Nhà phê bình và cái roi ngựa, NXB ĐHQG tp. HCM.
28. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lí luận văn học, NXB ĐHQG tp.HCM.
29. Lê Tiến Dũng (1998), Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn
1932 – 1945, NXB Giáo dục.
30. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2004), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Giáo dục
31. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), luận án “Những biểu hiện của khuynh hướng tượng
trưng trong Thơ mới Việt Nam 1932 – 1945”, ĐHQG tp HCM – trường ĐH
KHXH và NV.
32. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Chủ biên)
(2004), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới.
33. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn.
34. Từ Quốc Hoài “Yến Lan cốt cách một đời thơ”, Bình Định xuân Kỷ Mão 99, tr15.
35. Hội văn học nghệ thuật Việt Nam (1996), Phim " Yến Lan - một Bến My Lăng "
36. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học
Mac – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2006). Giáo trình lịch sử Đảng cộng
sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
37. Hội văn học nghệ thuật tỉnh Bình Định (2003), Tuyển tập thơ Bình Định thế kỷ
XX, NXB Văn học.
38. Quỳnh Hương (2002), “Nàng thơ tuyệt với của thi sĩ Yến Lan”, Gia đình và xã
hội, (2).
39. Thanh Huyền (2002), “Yến Lan bến sông và phố huyện”, báoVăn hiến (số 81).
40. Phan Huỳnh, Đào Đức Tuấn (1996), “Thi sĩ cuối cùng của “Bàn thành tứ hữu””,
Phụ nữ chủ nhật, (Số 32), tr 8 – 9.
41. Nguyễn Thụy Kha (1998), “ Yến Lan – ngày cuối cùng lặng lẽ”, Văn nghệ, (37),
tr5.
42. Nguyễn Thụy Kha (1996), “Về An Nhơn với Yến Lan”, Lao động, (55), tr5.
43. Khhrapchenko (1987), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn
học, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
44. Nguyễn Thị Lan (2006) “Trở lại Bến My Lăng”, báo Bình Định 22/9/ 2006.
45. Nguyễn Thị Lan (2001), Yến Lan – Nhớ mãi về anh, NXB Văn học.
46. Yến Lan (1957), Những ngọn đèn, NXB Hội nhà văn
47. Yến Lan (1987), Một vài tâm sự với các nhà thơ, Tham luận tại hội thảo thơ miền
Trung từ 24 đến 27 - 7 - 1987.
48. Yến Lan (1962), Tôi đến tôi yêu, NXB Văn học.
49. Yến Lan (1968), Lẳng hoa hồng, NXB Văn học.
50. Yến Lan (1978), Giữa hai chớp lửa, NXB Văn học
51. Yến Lan (1987), Thơ, NXB Văn học .
52. Yến Lan (1991), Cầm chân hoa, NXB văn học nghệ thuật An Nhơn.
53. Yến Lan (1996), Thơ tứ tuyệt Yến Lan, NXB Hội nhà văn.
54. Yến Lan (1996), Tuyển tập Yến Lan, NXB Văn học.
55. Yến Lan (2006), Tuyển tập thơ tứ tuyệt, NXB Văn học, Hà Nội.
56. Yến Lan (1965), Thư Bác đời ta, bản chép tay, chưa xuất bản.
57. Mang Viên Long (2001), “Tình băng hữu trong thơ Yến Lan”, báo Bình Định
9/3/01.
58. Mang Viên Long (2002), “Những bài thơ sau cùng của Yến Lan”, Bình Định
nguyệt san số, (10/ 2002).
59. Mang Viên Long(1990), “74 tuổi, nhà thơ Yến Lan - vẫn chờ xuân đến”, báo
xuân Bình Định, tr15.
60. Mang Viên Long (2001), “Cuối năm thăm phòng lưu niệm nhà thơ Yến Lan”,
Bình Định nguyệt san (12),(tr23.)
61. Mang Viên Long (2002), “Những bài thơ sau cùng của Yến Lan”, Bình Định
nguyệt san, (10), (tr21).
62. Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng (1968), Thi nhân Việt Nam tiền chiến,
quyển trung, Sống mới xuất bản.
63. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến, quyển hạ, NXB Văn học.
64. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa,
Thành Thế Thái Bình (1985), Lí luận văn học, (tái bản lần thứ 5), NXB
Giáo dục.
65. Nguyễn Thanh Mừng (1998), "Bóng tà dương của một đời thơ", 50 năm nhà xuất
bản văn học, NXB Văn học 1998, tr 442-443-447-449-450.
66. Nguyễn Thanh Mừng, “Đôi nét về thơ Bình Định qua phong trào Thơ mới 1932 –
1945”, Báo Bình Định.
67. Nguyễn Thanh Mừng (1993), “Năm tháng còn trên mấy đốt tay”, Bình Định
nguyệt san xuân Quý Dậu, tr14.
68. Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền Trang (2005), Huyền tích kinh xưa, NXB
Khoa học xã hội.
69. Nguyễn Thanh Mừng (1991), “Nhà thơ Yến Lan với Nha Trang”, Tạp chí
Nha Trang, (7).
70. Phạm Thị Ngọc, Vũ Nguyễn (2007), Điêu tàn- Tác phẩm và lời bình, NXB
Văn học .
71. Hồ Ngọc (1994), Tuyển tập kịch thơ, NXB Sân Khấu.
72. Bùi văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Các thể thơ ca và sự phát triển của hình
thức thơ ca trong văn học Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội.
73. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và Văn hóa từ một góc nhìn, NXB Văn học.
74. Lê Thiếu Nhơn (1997), "Thi sĩ Yến Lan, một đời người, một đời thơ", Hải quan
Việt Nam ,(109).
75. Ngô Văn Phú (2000), “Yến Lan, hồn thơ Việt”, Văn chương và người thưởng
thức. NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
76. Ngô văn Phú (1998), “Nhà thơ Yến Lan”, Nhân dân (ngày 18/10/1998).
77. Bá Phùng (1998), “Yến Lan một bóng cau giữa rừng”, Thế giới mới, tr 75-76-77-78.
78. Vũ Quần Phương (2001), “Lời giới thiệu”, Yến Lan - Thơ với tuổi thơ, NXB Kim
Đồng.
79. Đào Xuân Quý, 1999, Nhà thơ và cuộc sống, NXB Quân đội nhân dân 2003
80. Trần Huyền Sâm (2001) “Ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối với phong
trào Thơ mới Việt Nam (32 -45)”, Tạp chí văn học số (12),Tr 63.
81. Chu Văn Sơn (2000), “Thơ Điên của Hàn Mặc Tử thi học của cái tột cùng”, Tạp
chí văn học (11).
82. Chu Văn Sơn (2006), Ba đỉnh cao Thơ mới, NXB Giáo dục.
83. Trần Đình Sử(2003), Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục.
84. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà nội.
85. Trần Đình Sử (2000), Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục.
86. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, NXB ĐHQG Hà Nội.
87. Trần Đình Sử (2001), Thi pháp thơ Tố Hữu,NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
88. Quách Tấn (Quách Giao sưu tầm – biên soạn) (2000), Bóng ngày qua – về Bàn
thành tứ hữu, NXB Văn nghệ.
89. Nguyễn Toàn Thắng (2006), Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định, NXB Giáo
dục.
90. Hoài Thanh - Hoài Chân(2006), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học.
91. Trần Tiến Thành (2005), Thế giới nghệ thuật thơ Yến Lan, Luận văn thạc sĩ văn
học, trường Đại học KHXH và NV.
92. Thanh Thảo(2004), Mãi mãi là bí mật , NXB Lao động, tr 73-74-75.
93. Thanh Thảo (1995), “Nhà thơ của một bến sông”, Bình Định nguyệt san, (5), tr21.
94. Lan Thư (1998), “Yến Lan – Những lời kể cuối cùng”, Văn nghệ trẻ, (99).
95. Đỗ Lai Thúy, 2000, Mắt Thơ, NXB Văn hóa thông tin.
96. Đỗ Lai Thúy, 1999, Từ cái nhìn văn hóa, NXB Văn hóa dân tộc.
97. Lâm Bích Thủy (2007), “Người ẩn mình dưới tên gọi giai nhân”, Báo công an,
(48),tr.15.
98. Nguyễn Vũ Tiềm (2000), Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam, NXB Văn học.
99. Đinh Quốc Toàn (1992) “Yến Lan thi sĩ của miền quê trăng thơ”, Bình Định 10/4/ 92.
100. Đặng Tấn Tới (1998), Về lại Bến My Lăng, Bình Định nguyệt san, (11), Tr20.
101. Lê Ngọc Trà, Phùng Quý Nhâm, Hoàng Văn Cẩn (1997), Lý luận văn học, Đại
học quốc gia Tp. HCM, Trường Đại học sư phạm.
102. Trà Văn Tri (2002), “Yến Lan - Một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam và của
tỉnh Bình Định”, Văn nghệ Bình Định ,(39).
103. Phan Lai Triều (1995), “80 xuân, Yến Lan”, Báo Phụ nữ, (3-6-1995).
104. Võ Văn Trực (1998), Gương mặt những nhà thơ, NXB Văn học.
105. Tô Đình Tuân (1996), “Yến Lan và tiếng gọi đò trên Bến My Lăng”, Kiến thức
ngày nay, (206), tr 3-4-5-6-7-8.
106. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì
trung đại, NXB Giáo dục.
107. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Thơ văn thế kỷ XI – XVI, Thơ Thiền Lý – Trần, NXB
Văn nghệ tp.HCM.
108. Hưng Văn (1991), “Yến Lan vào tuổi 75: Vẫn còn trăng”, Sài Gòn giải
phóng,(4955).
109. Huyền Viêm (2000), “Yến Lan với bến My Lăng huyền thoại”, Kiến thức ngày
nay, (474).
110. Chế Lan Viên (1987), “Lời giới thiệu”, Yến Lan- Thơ, NXB Văn học.
111. Viện ngôn ngữ (1995), Từ điển Tiếng Việt, tái bản lần thứ 4, NXB Đà Nẵng,
Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng.
112. Viện văn học (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
113. Đăng Vũ (1998), “Nhớ ông lão "Bến My Lăng"”, Báo Văn nghệ tháng 10/1998.
114. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
(1900 – 1945), NXB ĐHQG Tp. HCM.
Các bài viết về Yến Lan trên Internet.
115.http://www.cinet.gov.vn/vanhoa/vanhoc/vhvietnam/tacgia/20/tho/tacphamtuyentap
116. http://evan.vnexpress.net/news/doi-song-van-nghe/chuyen-lang-van/2007109/.
117. http://vietbao.vn/van-hoa/Gap-ben-my-lang-cua-yen-lan/40075175/105/.
118. http://www.nld.com.vn/yen-lan-va-nhung-bai-tho-tu-tuyet-cuoi-cung.htm.
119. http://www.vietvan.vn/index.php:yen-lan-may-ban-gac-but-ra-vuon-hoi-y-hoa
120. www.baobinhdinh.com.vn/tuoithocuayenlan/3600A466 .
121. http://lethieunhon.com/read.php/3237.htm.yenlantrongmatcongai.
122. http://mangbinhdinh.com/forums/t/1679.alkyenlanbensongvaphohuyen.
123. http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu-tacpham.asp?.
124. http://www.vanchuongviet.org/vietnmese/vanhoc-tacpyham.sap?.
PHỤ LỤC
1/ CA DAO TRUYỀN THANH CỦA THỌ LÂM (YẾN LAN).
Cái dốt ra cổng mà treo
Để cho nó mốc, nó meo lụi dần
Cái khôn thì ấp trong chăn
Qua cơn thức ngủ vẫn gần hôm mai
Cái dốt ai rước mặc ai
Cái khôn đi lạc hỏi đài tìm ra.
************************
Từ khi anh bạn đường dây
Cái loa đóng cột dựng ngay giữa làng
Thế là thơ, kịch, cải lương
Sớm, trưa, chiều, tối rộn ràng lòng em.
Đi cấy cúi mặt lặng im
Giờ cảm đảnh mạ cất lên tiếng hò
Đáp bạn, nói ngang như cua
Giờ vào cuộc họp đắn đo từng lời
Ngỏ tình, anh rủ đi chơi
Em rào đón trước chuyện đời, chuyện ta
Duyên em thêm nết thêm tình
Chính nhờ các buối truyền thanh đắp bồi
Ơn này, ơn Đảng anh ơi
Đẹp người sẽ đẹp lứa đôi vợ chồng.
**********************
Nghĩ xưa cha mẹ càng thương
Biết đâu chớp bể mưa nguồn mà day
Bây giờ sương đông, tuyết tây
Bão trong lục địa, tố ngoài biển khơi
Làng quê đã có tin đài
Chỉ lo mưa nắng lòng ai – thất thường.
********************
Hoa cúc vàng, hoa trang đỏ thắm
Khéo vun trồng, mãi ngắm lòng ưa
Trên tường mắc một cái loa
Đến giờ nó nảy tiếng tơ tiếng đồng
Lắng tai nghe nhịp đời chung
Âm thanh quyện với sắc hương đẹp nhà
********************
Ra đi chín chợ ba thành
Học cô nâng giá,học anh tráo hàng
Tưởng bở, mang cả về làng
Hóa ra cái dại cầm bằng trắng tay
Phải chi nghe lấy tiếng đài
Ở ngay đầu ngõ nên bài học khôn
*******************
Người ta câu bể câu sông
Anh ngồi câu cá rồng rồng trong ao
Rồng rồng chẳng chịu cắn câu
Nó rỉa, nó rúc giây lâu mất mồi
Nhắc anh học lấy sự đời
Đừng hoài tai đón những lời rủ rê
Tin đài ta phải lắng nghe.
*******************
Hoa cau thơm nức vườn em
Xưa anh tìm đến theo tìm mùi hương
Đêm nay sững bước bên đường
Cái loa đầu xóm cầm chân anh rồi
Ước gì em đến sánh đôi
Chung tai nghe vọng lời lời nước non
*****************
Con trâu đạp phải cán mai
Cái đầu chẳng gãy cho tôi lấy chồng
Khen tôi giỏi việc cấy trồng
Chỉ vì lý sự không thông bạn cười
Mai này theo dõi tin đài
Điều hay lẽ đẹp mở mày thử xem
Dập dìu là gió cành chim.
******************
Mây mù ấp ngọn núi xa
Lúc em xếp giỏ, lúc cha tháo bừa
Chàng rể vừa dứt tiếng cưa
Cô dâu xếp gọn guồng tơ né tằm
Cơm chiều mẹ dọn lên mâm
Cũng vừa sân, ngõ vang trầm tiếng loa
Bát canh thêm ngọt lời ca
Bản tin càng mặn tiếng cà giòn tan
**********************
Con mèo lục đục mẻ rang
Con cún tưởng mở nhạc vàng đến nghe
Cu cườm trên chót đọt me
Nhìn quanh vắng bạn tìm về trúc mai
Lá hoa xao xuyến tiếng đài
Thanh tao tiếng bổng, khoan thai giọng trầm
Oanh kêu, nhạn hót, quyên ngâm
Tươi vui mở hội ca cầm đón xuân.
***********************
Câu dài gió thoảng qua tai
Câu ngắn rành rọt thấm dai trong lòng
Ngọn lửa thì phả hơi nồng
Đám sương bàng bạc lạnh lồng tóc da
Lời vàng thì của mẹ cha
Lời lời châu ngọc cái loa đem về
Em ơi, lẳng lặng mà nghe.
***********************
Tìm em Nhơn Hậu, Nhơn Thành
Em đang truyền đạt tình hình vụ đông
Tìm em – Nhơn Hạnh,, Nhơn Phong
Ngược lên Đập Đá, Nhơn Hưng tìm vào
Em đang cất giọng ca dao
Phổ điều chính sách thành câu ân tình
Tìm em - Nhơn Thọ cây xanh
Nhơn Hòa, Nhơn Lộc âm thanh còn lồng
Tìm em chẳng phải nhọc công
Nhơn Phúc, Nhơn Mỹ thêm nồng hơi tăm.
Tìm em cuối tháng, cùng năm
Dẫu khi nắng hạn mưa dầm vẫn ra
Biết em chẳng lúc nào xa
Nhưng yêu em, cứ nhẩn nha đi tìm.
**********************
Em về manh hết theo đi
Đôi chân em bước, đôi tay em cầm
Lưng, vai nắng dãi, mưa dầm
Môi hồng, mắt biếc âm thầm đợi duyên
Chỉ mong em để làm tin
Đôi tai lắng bấy lời khuyên, ghi lòng
Ở đây đài điện đã thông
Phổ câu hát ngọt, phổ dòng ca vui
Phổ niềm tin Đảng xây đời
Nên khung hạnh phúc ghép đôi chúng mình.
**************
2/ Từ ngày 24 đến 27 -7-1987, Hội nhà văn Việt Nam đã tổ chức hội thảo thơ miền
Trung tại thành phố Nha Trang. Hội nhà văn tỉnh Nghĩa Bình đã tham dự. Yến Lan đã
được mời phát biểu tại hội thảo. chúng tôi xin trích dẫn một vài ý trong phát biểu của
ông:
“… Chớ lấy tuổi tác, giai đoạn lịch sử mà phân biệt cũ mới. Đó là một sai lầm. có
phải bao giờ cái cổ hủ cũng thuộc về người già, về thời buổi trước, mà cái tân tiến là
sản phẩm đặc trưng của tuổi trẻ. Một điều đáng phấn khởi là gần đây, thơ đang ngày
càng tập hợp lại thành lực lượng đông đảo và rầm rộ tiến quân vào những mảnh đất
mới, đầy kỳ thú mời khai phá. Tiến quân về cả những chân trời xa, rất xa. Thơ đi gặt
hái và cả gieo trồng. xin các nhà thơ chúng ta hãy sáng mắt sáng lòng để sớm phân biệt
được mật hương và gai góc. Đừng nhầm lẫn cái mới và cái lạ. cái mới là cái phải chắt
lọc từ bao nhiêu cái đã có để thay thế. Cái lạ là cái được thấy lần đầu, nhưng thường là
lạ ở chỗ này nhưng lại nhìn quen ở chỗ khác. Hơn nữa, thể hiện cái lạ chưa sành,
thường làm cho nó thành ra lố lăng, lai căng và méo mó. Lại cón có cái dễ dãi nữa.
Xin hạn chế sản sinh ra những bài thơ chỉ đọc qua một phần, một nửa hay may
mắn lắm là một lần, rồi không nhớ gì nữa. chúng ta đi tìm cái mới, có bạn lứa đông vui.
Tất nhiên ở loại hình nghệ thuật nào cũng thế, thường do xu hướng cảm thụ, có khi do
ngẫu hứng nhất thời, đã tự phát nảy sinh ra thành trường phái. Trường phái chính thống
thường nhắm vào mục đích thay đổi hình thức và tư duy của một nền thơ ca nào đó đã
thành lì mòn, nhạt nhẽo đối với thời thượng. có khi chỉ một số ít người được tài năng
ưu đãi, xướng lên rồi thành trường phái. nói chung lại tôi rất đồng tình thơ có trường
phái nhưng đừng biến thành bè phái. Mà bè phái như các bạn thấy đó, tự bản thân nó
đã gây ấn tượng không hay rồi.
Điều này quan trọng lắm đấy các bạn ạ, bè phải vốn là nơi sản sinh ra nhiều tiêu
cực mà cũng có lúc khó thấy, tác động vào nội dung của tác phẩm, nó gây ra chia rẽ
hoặc tân bốc nhau, dần nghiêng về những việc phi văn hóa, văn nghệ để phục vụ cho
lợi ích cá nhân và dần đi xa chức năng tác phẩm. không nói đến những chức năng của
thơ hiện nay chúng ta làm kim chỉ nam để sáng tác, đã lâu đời, thơ đã được đánh giá là
một sán phẩm có bản chất thanh cao, vì vậy mà người có phong độ dùng thơ để di
dưỡng tính tình để nâng cao phẩm chất. chẳng lẽ người làm ra sản phẩm có phẩm chất
thanh cao ấy lại để sa sút phẩm chất của mình….”.
3/ CÒN MÃI NHÀ THƠ YẾN LAN.
(Nhà thơ Hữu Thỉnh – Phó tổng thư kí thường trực Hội Nhà văn Việt Nam – đọc
tại lễ tưởng niệm nhà thơ Yến Lan, tổ chức ở Hà Nội, ngày 8 -10 – 1998.)
Hôm nay Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản văn học, các nhà văn và nghệ sĩ
có mặt tại Hà Nội cùng đội ngũ những người cầm bút và bạn đọc của cả nước hướng về
Qui Nhơn, thương tiếc đưa tiễn nhà thơ Yến Lan, nhà thơ xuất sắc của văn học hiện đại
Việt Nam, một người con thân yêu của quê hương Bình Định về nơi an nghỉ cuối
cùng…
Ngay từ thuở nhỏ Yến Lan đã vừa học vừa làm, chăm sóc cha mẹ. năm mới
sáu tuổi đã mồ côi mẹ, Yến Lan luôn khao khát tình mẫu tử, khao khát tình thương yêu,
trìu mến của gia đình, quê hương. Ngay từ trên ghế nhà trường, thi sĩ Yến Lan đã hăng
say học tập, viết báo làm ca kịch, làm thơ và tham gia các hoạt động xã hội như việc
quyên góp cứu trợ cho đồng bào Thanh Nghệ Tĩnh trong nạn đói 1934. Tài năng của
Yến Lan sớm nảy nở và sớm được khẳng định. Truyện ngắn đầu tay của Yến Lan (bút
danh là Xuân Khai)được thưởng giải cao của báo Thanh - Nghệ - Tĩnh khi Yến Lan
chưa đầy hai mươi tuổi. truyện ngắn của Yến Lan liên tục được giới thiệu trên các tờ
Tiểu thuyết thứ Hai, Tiểu thuyết thứ Năm và nhiều tờ báo khác. Yến Lan viết cải
lương, viết kịch và thành lập đội kịch mang tên ông… Cùng với Tế Hanh và nhiều cây
bút đương thời, Yến Lan đã có những đóng góp lớn cho nền văn học và đã trở thành
bậc thầy mẫu mực cho nhiều các thế hệ nhà văn noi theo".
4/ Một số hình ảnh tư liệu về nhà thơ Yến Lan.
1:Yến Lan và dịch giả Thúy Toàn tại NXB Văn học.
2:Yến Lan (đứng, thứ 2 từ phải sang) cùng với các văn nghệ sĩ trong thời gian đi lao
động thực tế ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
3: Bãi bồi, bến sông Côn, hình ảnh đôi “my tằng lăng” mà sau này vào thi phẩm Yến
Lan chính là Bến My Lăng
4: Sông Côn – nỗi nhớ niềm thương của Yến Lan.
H:5. Cửa Đông thành Bình Định, Chế Lan Viên gọi là “Lầu tư tưởng”.
Đôi bạn thơ Yến Lan và Chế Lan Viên thường lên “lầu tư tưởng” này ngắm tháp Chàm
và bàn luận chuyện đời, chuyện thơ.
H:6. Cửa Đông thành Bình Định ngày nay. Ảnh của: Thiên Lộc.
H:7. Từ trái qua Yến Lan, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử tại lầu cửa Đông
thành Bình Định .
H:8.Yến Lan qua báo chí, gia đình lưu giữ.
H9.Nơi yên nghỉ của nhà thơ Yến Lan.
H10, 11. Phòng lưu niệm tại quê nhà: 19 Quang Trung, An Nhơn, Bình Định .
Nhà thơ Yến Lan (1916 – 1998 )