BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

___________________

Lê Thị Thể

ĐẶC ĐIỂM THƠ YẾN LAN

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số

: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

MỞ ĐẦU

1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài

1.1.

….

Mà ông lão say trăng đầu gối sách

Để thuyền hồn bơi khỏi Bến My Lăng

Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách

Gọi đò - thôi, run rẩy cả ngành trăng…

Bến My Lăng ấy ở đâu? Câu hỏi ấy đã vang lên trong tâm trí của biết bao

người khi tiếp xúc với thi phẩm ấy. Tiếng gọi đò ngày ấy, chỉ tiếng "gọi đò - thôi" mà

"run rẩy cả ngành trăng" dội vào tâm trí tuổi thơ, đi suốt cả cuộc đời của thi sĩ như

một nối niềm khắc khoải, đớn đau, oán trách và cũng tiếng gọi đò ấy thôi neo lòng

người lại với Bến My Lăng. Những ai yêu thơ, đã một lần lướt qua khu vườn Thơ mới

ngày ấy dường như đã để lòng mình lại, vương vấn Bến My Lăng, để tiếng gọi đò khắc

khoải ấy dẫn mình đến với chàng thi sĩ tài hoa xứ Đồ Bàn cũ, đến với Yến Lan. Có cái

gì đó như thật bất công, khi mà nếu hỏi Yến Lan là ai thì chắc câu trả lời không sẵn có,

nhưng nếu bảo rằng đó là tác giả Bến My Lăng thì họ liền "À…" thích thú. Phải chăng

đó là sự bất công hay nói như Chế Lan Viên "Có nhiều lí do. Nhưng thơ là cái đẹp lặng

im, đi lầm lũi trong im lặng" [110, tr.10] thế nên thi sĩ ấy như một kiếp tằm, rút ruột

nhả cho đời những sợi tơ óng ánh để rồi mình lặng im hóa kiếp chẳng ai hay, chỉ biết

rằng mình hoàn thành nhiệm vụ "trả nợ dâu" và thanh thản! Yến Lan là thế chăng? Mà

suốt gần trọn một thế kỷ dâng hiến cho đời biết bao khúc nhạc lòng mà người đời

dường như cố tình hờ hững. Điều đó cho thấy trong suốt một thời gian dài, tên tuổi và

sự nghiệp thơ văn của Yến Lan dường như bị lãng quên. Cho đến những năm gần đây

tác phẩm của ông - sau khi vượt qua sự sàng lọc khắc nghiệt của thời gian - đã được

tuyển chọn, in trong hàng loạt các tuyển tập những bài thơ hay, những câu thơ tài hoa

Việt Nam, những bài thơ tiêu biểu của thơ ca - đặc biệt là Thơ mới Việt Nam giai đoạn

1932 - 1945. Không chỉ có vậy, sự ghi nhận về thành quả hoạt động nghệ thuật của

Yến Lan còn ở giải thưởng Xuân Diệu - Đào Tấn của hội văn học nghệ thuật tỉnh Bình

Định 1997 cho tập thơ Cầm chân hoa; giải thưởng cấp nhà nước năm 2007 cho các tập

thơ từ sau 1945: Nhữmg ngọn đèn, Tôi đến tôi yêu, Lẵng hoa hồng. Tuy nhiên, việc

nghiên cứu và xuất bản thơ Yến Lan vẫn còn quá ít ỏi chưa xứng với những đóng góp

của ông cho thi ca dân tộc. Bởi vậy, nghiên cứu thơ ca Yến Lan để góp phần xác định

vị trí vốn có và những đóng góp của ông trong nền thi ca nước nhà là việc làm cần

thiết.

1.2. Nghiên cứu một tác gia văn học không chỉ dừng lại ở việc xác định vị trí

cá nhân của tác gia ấy. Mỗi nhà văn, nhà thơ đều thuộc về một giai đoạn lịch sử nhất

định. Bởi vậy nghiên cứu tác gia văn học còn có ý nghĩa không nhỏ về mặt lịch sử văn

học. Khám phá về đặc điểm thơ Yến Lan vì thế góp phần giúp cho việc hình dung diện

mạo thơ Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử dân tộc, qua những biến cố lịch sử cũng

là một việc làm cần thiết và quan trọng.

1.3.Qua đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ tích lũy được nhiều hơn tri thức

khoa học và phương pháp nghiên cứu để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và giảng

dạy thơ ca sau này.

2 . Lịch sử vấn đề

Yến Lan tên thật là Lâm Thanh Lang, sinh năm 1916, mất năm 1998, quê quán

xã Nhơn Hưng, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Cuộc đời trải dài gần suốt thế kỷ XX,

qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử dân tộc. Đời thơ của Yến Lan bắt đầu từ rất

sớm, 16, 17 tuổi Yến Lan đã nổi tiếng với bài thơ Bến My Lăng và chỉ chịu dừng lại

trước khi ông về cõi vĩnh hằng độ mươi ngày. Trải qua những lúc hưng thịnh khác

nhau nhưng nhắc đến Yến Lan là người ta nhắc ngay đến Bến My Lăng ngày trước

cũng như những thi phẩm - tình cảm máu thịt của ông đối với quê hương Bình Định và

đồng thời người đọc cũng không quên được những dòng tứ tuyệt tuyệt vời mà ông đã

say đắm gửi trao cho tới ngày nhắm mắt. Tuy nhiên, như trên đã nói, Yến Lan là một

tác giả văn học ít được nghiên cứu. Những ý kiến, nhận định về thơ Yến Lan thường

rải rác tản mạn. Chúng tôi xin điểm lại những nhận định cơ bản về thơ Yến Lan qua

những giai đoạn sau:

2.1. Những ý kiến nhận định trước 1945

2.1.1 Chế Lan Viên, Bến My Lăng, tập thơ đầu của Yến Lan, đăng trên tiểu

thuyết thứ Năm ngày 11/ 5/1939.

Nhận định về sự xuất hiện của Yến Lan trên thi đàn qua tập Bến My Lăng,

Chế viết : "Hình như mặt trời sắp mọc - không, hình dung như mặt trăng thì đúng

hơn".[11,tr.11]

Viết về thơ Yến Lan , Chế giới thiệu "đây là sự thực thu nhỏ lại , vô cùng nhỏ

lại, cho đến lúc người ta có thể lẫn nó với mơ màng …cũng ở đây, người ta thấy sự

giản dị của những câu ca dao, vẻ hiền hòa của bao nhiêu khúc hát cổ , một cái gì thân

mật, tuy rằng mới lạ với chúng ta , như mặt trăng có tự muôn đời, hôm nay vẫn còn

gây thơ mộng"[11, tr.11].Yến Lan đã nói rằng thực sự thì tập thơ chưa xuất bản, nhiều

nhà in sau khi đọc bài giới thiệu của Chế Lan Viên thì có liên lạc với Yến Lan để in tập

thơ, nhưng Yến Lan chưa ưng ý lắm, muốn sửa chữa và hoàn chỉnh hơn, thế rồi chưa

kịp xuất bản thì tập thơ thất lạc. Nó chỉ còn lại là những bài được đăng trên Tiểu thuyết

thứ Năm mà thôi.

2.1.2 Hoài Thanh, 1942, trong cuốn Thi nhân Việt Nam, thì nhận định về thơ

Yến Lan

Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay

hay, nhưng lâu dần cơ hồ như ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm

như những dòng sông, và nhất là cái vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình

Định [90, tr171]

Dường như tác giả Thi nhân Việt Nam không mấy mặn mà lắm với Yến Lan,

tuy nhiên trong nhận định của mình ông cũng nhận thấy một nét đặc trưng của thơ Yến

Lan mà cho đến tận bây giờ người đọc cũng vẫn bị cuốn hút: "cái không khí lạ lạ

nhưng nhẹ nhàng dễ khiến người ta thích". [90, tr171]

2.2 Những ý kiến nhận định từ 1945 cho đến trước 1975

2.2.1. Văn Cao, lời giới thiệu tập thơ “Những ngọn đèn”, NXB Hội nhà văn

1957.

Thơ Yến Lan càng ngày càng muốn đi gần lại cuộc sống hiện đại: một

người đi từ vùng thủ công nghiệp đến một thành phố kỹ nghệ. Từ một người hiền lành,

bình dị, Yến Lan đang trở thành một người muốn thúc đẩy một sức gì đang làm trì trệ

cuộc sống của chúng ta.[10,tr6]

Văn Cao đã nhận thấy sự thay đổi mạnh mẽ của Yến Lan với sự vận động đổi

thay của đời sống văn học nước nhà, trong khi những nhà thơ khác chỉ còn là "sáng

ánh lân tinh". Và chính sự nhạy bén đổi thay trước thời cuộc đó mà thơ Yến Lan "còn

có thể làm bạn đường với nhiều lứa tuổi khác".[10,tr.6]. Và trong cái đổi thay đó Văn

Cao đã nhấn mạnh về tính chiến đấu trong thơ Yến Lan: "Thơ anh bắt đầu biết đề cao

những hành động, tình cảm của con người anh yêu lên để đả phá những bọn phá hoại

sự xây dựng của xã hội".[10,tr8]

Do hoàn cảnh lịch sử của một thời mà những lời giới thiệu đầy trang trọng của

Văn Cao với tập thơ ấy cũng đã tạo thành một trong những đề tài bị phê phán, bị lên

án, và rồi những con người thời ấy cũng gặp không ít lận đận với cái án văn chương.

2.3. Những ý kiến nhận định về thơ Yến Lan sau 1975

2.3.1 Chế Lan Viên, lời giới thiệu “Thơ Yến Lan”, NXB Văn học 1987

Những vần thơ, những ngôn từ mà Yến Lan đã sử dụng từ những ngày đầu

được Chế giới thiệu như là một tài năng hiếm gặp trong những ngày đầu Thơ mới

Hiện đại mà Việt Nam, mà dân tộc. Một nhà thơ có tài là có thể sử dụng thập

bát ban võ nghệ, là như cây xương rồng có hai cực đối lập, gai rất là gai mà hoa lại

hoa rất dịu dàng. Lan không phải chỉ có loại thơ điêu khắc kỳ khu vào đá ấy, mà lại có

loại nước chảy đưa ru như nhạc.[110,tr.7]

Bước đường sáng tạo của Yến Lan trong những ngày đầu gặp cách mạng, bén

duyên với thơ ca cách mạng Chế viết:

Có những người cách mạng đến thì viết hay ra, có người viết chỉ dài ra, âm

vang ngắn lại. Có người thì tắt nghỉm…. Lan là người sau cách mạng, nhờ cách mạng

đã viết không những khác đi mà lại hay hơn.[110,tr.8]

Bên cạnh đó những hạn chế, lệch lạc trong thơ Yến Lan của giai đoạn chuyển

đổi ấy cũng được Chế đề cập một cách khách quan: "Có điều, ai ỷ vào sở trường của

mình, thì có lúc cái ấy thành sở đoản. Đôi phen, Yến Lan chạy theo con mắt, chạy theo

cảnh, theo ngoại hình, mà câu thơ nặng cảnh nhẹ tình, nặng hình thức mà rung động

nhẹ".[110,tr.9]

Tuy nhiên cũng như bao nhiêu nhà nghiên cứu khác Chế không thể không

nhận thấy một nét đặc biệt thành công của bạn mình đó chính là thơ tứ tuyệt, cho dù cả

hai người cùng học thể thơ ấy từ Quách Tấn, nhưng Yến Lan vẫn có gì đó của riêng

mình trong thể loại tưởng rằng đơn giản mà lại bác học này:"Yến Lan cũng là người

viết tứ tuyệt thành công. Biết bao bài tứ tuyệt trên các báo hiện nay chỉ là thơ bốn câu,

tứ tuyệt của Yến Lan có tình và có thế võ của tứ tuyệt". [110,tr.9]

Chế nói rằng đường văn chương của bạn không may mắn như mình, nhưng

Chế cũng khẳng định rằng Yến Lan cũng sẽ trở thành bất tử trên hải trình văn chương,

như những tên tuổi khác cho dù họ chỉ đóng góp vào sự nghiệp ấy chỉ một vài sản

phẩm mà thôi:"Có người chỉ bắt được một con cá thôi mà cũng thành bất

tử".[110,tr.10]

2.3.2 Nguyễn Bao, Từ Bến My Lăng …, bài giới thiệu về Tuyển tập thơ Yến

Lan , NXB Văn học 1996.

Trước hết tác giả khẳng định về vị trí "khiêm nhường nhưng vững chắc" của

Yến Lan trong Thơ mới và trong lòng bạn đọc đã được xác định từ những năm 1940

qua "Thi nhân Việt Nam". Tiếp đó tác giả viết về cái đã tạo nên giọng thơ rất Yến Lan

Có lẽ sự am hiểu thơ Đường và thơ Pháp cộng với chất thơ cổ điển của cha

ông từ bao thế kỷ đã góp phần cho nhà thơ trẻ ngày ấy tạo nên những khóm chữ giàu

hình tượng và mới mẻ của thơ ca Việt Nam từ sáu mươi năm trước.[6,tr.11]

Yến Lan mạnh trong tạo hình, bằng vài nét chấm phá nhà thơ đủ sức gợi lên

cả một khung cảnh, một tình huống, một tâm trạng.[6,tr.12]

2.3.3 Thơ văn Bình Định thế kỷ XX. Nxb Văn học , 2003.

Hội văn học nghệ thuật Bình Định giới thiệu về Yến Lan và những người bạn

trong nhóm tứ linh bằng những lời lẽ trang trọng:

Ký ức cũng nhắc nhở mọi người, nhất là những ai yêu thơ ca, rằng trên dải

đất này, vào giữa thế kỷ trước, thế kỷ XX, đã là nơi hội tụ nhiều ngôi sao lớn của thơ

ca dân tộc làm nên cả trường thơ Bình Định, như nhiều nhà nghiên cứu văn học đã

viết, ghi lại một dấu ấn không phai mờ trong tiến trình phát triển Thơ mới , tiến trình

hiện đại hóa văn học Việt Nam. Đó là những tên tuổi Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế

Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn …[37,tr.5-6]

2.4. Bên trên là những ý kiến nhận định về thơ Yến Lan, về những tập thơ của

riêng ông. Ngoài ra trong giai đoạn đổi mới sau này, qua một số tạp chí, một số tiểu

luận, nghiên cứu của một số tác giả ta còn thấy nhiều bài viết đề cập về Yến Lan.

Đó có thể là những bài viết về cuộc đời về con người ông như: Về An Nhơn

với Yến Lan; Yến Lan những lời kể cuối cùng; Những chuyện tình chưa kể của nhà

thơ Yến Lan; Yến Lan và bài thơ không cùng; Nhà thơ Yến Lan bây giờ sống ra

sao; Người ẩn mình dưới tên gọi giai nhân….các tác giả đã khai thác về cuộc đời

riêng, về chuyện tình, về bút danh Yến Lan, về bản tính hiền lành cần kiệm hay thậm

chí về cuộc đời nghèo khổ của Yến Lan từ những ngày thơ ấu sống với dì ghẻ cho đến

cuộc sống vất vả thời tem phiếu, đến tận khi tóc bạc răng long mà cuộc sống vẫn còn

cơ cực. Những bài viết ấy giúp ta hiểu thêm về nghị lực của một con người, về phẩm

chất tốt đẹp của nhà thơ trước những khó khăn vất vả của cuộc sống mà như một nhà

thơ đã từng nói :

Thói đời cơ cực đang giơ vuốt

Cơm áo không đùa với khách thơ

Tuy nhiên, bên cạnh những bài viết về cuộc đời riêng ấy, ta cũng bắt gặp

không ít những ý kiến đây đó nhận xét về thơ Yến Lan:

2.4.1. Viết về đặc điểm thơ Yến Lan ta bắt gặp:

Đinh Quốc Toàn, Yến Lan thi sĩ của miền quê trăng thơ, Bình Định 10/4/ 92

Nguyễn Thanh Mừng - Bóng tà dương của một đời thơ; 50 năm nhà xuất bản

văn học - NXB Văn học 1998.

Hoài Anh, Yến Lan, ông lái đó trên Bến My Lăng giao cảm, Văn số 97/

1999.

Ngô Văn Phú, Yến Lan, hồn thơ Việt - Văn chương và người thưởng thức.

NXb Hội nhà văn H. 2000

Anh Chi, Yến Lan tiền chiến và lận đận Bến My Lăng, Thơ, phụ bản báo

văn nghệ quý II/2003.

Võ Văn Trực, Từ bến My Lăng, - Gương mặt những nhà thơ, NXB Thanh

Hóa, 2004.

Thanh Thảo, 2004, Người cuối cùng của "trường thơ Bình Định" đã ra đi,

Mãi mãi là bí mật - phê bình và tiểu luận.

Qua các bài viết ấy, các tác giả, các nhà nghiên cứu đã khẳng định về những

nét rất riêng của Yến Lan : Ông không lao vào ca tụng tình ái, khao khát yêu đương

như những nhà thơ mới cùng thời mà đi vào chính hiện thực cuộc sống, cuộc sống của

chính mình và " cảnh sắc phong vị miền Trung" nhuần nhuyễn đến tự nhiên, để từ đó

tạo ra những nét " gần gũi", " đồng cảm", "trầm lặng, tinh nhã", "thanh sáng, tinh túy

và cao thượng" qua từng câu thơ, bài thơ.… Đặc biệt cái không khí trong thơ Yến Lan

mà như Hoài Thanh đã nhận xét gần nửa thế kỷ trước, nay lại được bạn đọc một lần

nữa làm sống dậy: " hư hư, thực thực", " bàng bạc, khắc khoải và ẩn chứa". Các tác giả

cũng ngợi ca sự khổ luyện trong lao động nghệ thuật mà Yến Lan đã khắc được những

"dấu ấn sâu sắc, khó phai" trong lòng người đọc. Hay thậm chí tác giả Hoài Anh đã

say mê ví thơ Yến Lan như "vị thuốc ngâm rượu bổ đặc sánh và có hậu, người uống

vào khiến tình cảm khỏe ra, nhưng vẫn vương chút chạnh trong tâm hồn".

2.4.2. Viết về hình tượng trong thơ Yến Lan ta thấy các bài viết sau:

Mang Viên Long, 74 tuổi, nhà thơ Yến Lan - vẫn chờ xuân đến, báo Bình

Định 1990.

Ngô Văn Phú, Yến Lan, hồn thơ Việt - Văn chương và người thưởng thức.

NXb Hội nhà văn H. 2000

Mang Viên Long, Tình hoa trong thơ Yến Lan, Bình Định nguyệt san

Mang Viên Long, Bình Định qua ba bài thơ của Yến Lan, Bình Định nguyệt san.

Thanh Huyền (2002), Yến Lan bến sông và phố huyện, Văn hiến số 81.

Nguyễn Thanh Mừng, Năm tháng còn trên mấy đốt tay, Bình Định nguyệt san.

Đặng Tấn Tới, Về lại Bến My Lăng, Bình Định nguyệt san.

Trước hết về hình tượng thiên nhiên. Với Yến Lan thì thiên nhiên với ông là

người bạn, nên ông đến với nó "bằng tấm lòng trân trọng, chí thành và hồn nhiên".

Qua hoa, lá mà Yến Lan " vẽ được khung cảnh" chất chứa tâm sự. Còn trăng nó là "một

lực hấp dẫn" không chỉ với riêng ông mà còn với các thi sĩ khác của xứ Đồ Bàn. Trăng

trong thơ ông "vừa lay động, vừa an tĩnh trong từng hơi thở", ông yêu trăng đến thành

"bệnh", " đờ đẫn đến quên hết mọi sự".

Quê hương Bình Định cũng là một hình tượng nghệ thuật đặc biệt trong thơ

ông. Ông "khắc khoải với quê hương" và viết về nó "sâu đậm và tạo ấn tượng lâu dài

trong lòng người đọc".

2.4.3 Ngoài ra thơ tứ tuyệt của Yến Lan cũng gợi nhiều cảm hứng trong các

bài viết

2.4.3.1. Chế Lan Viên, lời giới thiệu Thơ Yến Lan, NXB Văn học 1987

Yến Lan cũng là người viết tứ tuyệt thành công. Biết bao bài tứ tuyệt trên các

báo hiện nay chỉ là thơ bốn câu, tứ tuyệt của Yến Lan có tình và có thế võ của tứ tuyệt.

2.4.3.2. Nguyễn Bao, từ Bến My Lăng …, báo văn nghệ 1996

Chính bởi có tài khắc họa và điêu luyện trong chọn chữ , sắp xếp câu nên Yến

Lan đã nổi tiếng trong làng thơ hiện đại của chúng ta về tứ tuyệt

2.4.3.3. Từ Quốc Hoài, Yến Lan cốt cách một đời thơ, Bình Định xuân Kỷ

Mão 99

Thơ tứ tuyệt Yến Lan, những tác phẩm nghệ thuật được ông tinh lọc từ bao

cảnh đời, tình đời, giống như những bức tượng, những phù điêu được chạm khắc tinh

xảo, đặt bên cạnh ngọn cổ tháp - Bình Định 1935 - tạo nên một " bảo tàng văn hóa"

mang phong cách rất riêng của Yến Lan. Thơ tứ tuyệt Yến Lan mang đậm phong vị

Đường thi, song vẫn phảng phất cái không khí mơ hồ bảng lảng hư hư thực thực của

những bài kệ của các bậc thiền sư.

2.4.3.4. Mang Viên Long, Những bài thơ sau cùng của Yến Lan, Bình Định

nguyệt san số 10/ 2002

Thơ tứ tuyệt là loại thơ sở trường của ông, Yến Lan đã rất thành công khi

sáng tác thể thơ này. Lời, ý trong thơ tứ tuyệt của ông được chắt lọc, được dồn nén,

tích lũy để bùng vỡ thành tiếng thơ - dịu dàng, mà sâu sắc, luôn thấm sâu vào hồn

người đọc.

2.4.3.5. Đặng Tấn Tới, Về lại Bến My Lăng, Bình Định nguyệt san

Bên cạnh tứ tuyệt sâu lắng, nghiêm cẩn, chặt chẽ thi pháp Tống Đường của

Quách Tấn, tứ tuyệt có nét độc đáo bất ngờ của Chế Lan Viên, tứ tuyệt Yến Lan tinh tế,

tài hoa.

Như giọt sương tròn vẹn long lanh chứa cả đại ngàn và biển cả, tứ tuyệt - Yến

Lan - luôn được những đợt sóng thơ bất tận dồn nén, đưa về vô hạn

2.4.4. Từ điển văn học (Bộ mới), 2004, NXB Thế giới mới. Nguyễn Văn

Long giới thiệu về Yến Lan: "Thơ Yến Lan có cốt cách khỏe, hình ảnh và ngôn ngữ sắc

nét, giọng điệu phóng khoáng".[32,tr. 2116]

2.4.5. Năm 2005, Trần Tiến Thành bảo vệ luận văn cao học tại trường Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh với đề tài " Thế giới nghệ thuật

thơ Yến Lan". Trong luận văn này tác giả đã tìm hiểu những chi tiết về cuộc đời ảnh

hưởng đến thơ Yến Lan. Về thơ Yến Lan, tác giả luận văn đã khai thác ở phương diện

cảm hứng trong sáng tác, đi vào ngôn ngữ thơ và giọng điệu thơ Yến Lan. Tác giả luận

văn đã lập những bảng đối chiếu, so sánh về các thể thơ mà Yến Lan đã sử dụng qua

từng giai đoạn và những đặc điểm về lời thơ, câu thơ, giọng điệu riêng của Yến Lan để

từ đó kết luận:

"Kế thừa và dung hòa truyền thống, thơ Yến Lan vừa có sức vang vọng của

thanh âm nguồn cội, vừa có hơi thở thời đại nuôi sống hồn thơ. Phong cách nghệ thuật

thơ Yến Lan phát triển đa dạng, phong phú ở nhiều thể loại, ở những giai đoạn khác

nhau nhưng lại thống nhất trong cội nguồn gốc rễ. Với giọng thơ hiền hòa, nhỏ nhẹ mà

lay động, xoáy sâu trong dư ba vang vọng, Yến Lan đã mở ra cho đời và cho thơ một

lối đi giữa lòng cuộc đời." [91,tr113].

Có thể nói rằng đây là một công trình nghiên cứu khoa học công phu của tác

giả, đã góp phần vào nhìn nhận và đưa thơ Yến Lan đến gần người đọc hơn, là một tài

liệu tham khảo đáng quý cho những ai quan tâm đến thơ ca nói chung và thơ Yến Lan

nói riêng. Tuy nhiên, luận văn vẫn chưa có một sự đối sánh để đánh giá cho đúng, cho

xứng tầm những đóng góp của Yến Lan cho thơ ca nước nhà trong từng giai đoạn. Do

đó thơ Yến Lan dường như vẫn còn lẩn khuất.

Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu thơ ca Yến Lan:

- Việc tìm hiểu về thơ ca Yến Lan, ngoài lời bạt cho ba tập thơ của Yến Lan

thì còn lại hầu hết đều tản mạn ở các báo - đa phần là chuyên san của địa phương Bình

Định hoặc An Nhơn - chỉ là những bài nhận xét về một hoặc vài bài thơ của ông mà

người đọc tâm đắc.

- Các nghiên cứu đều thống nhất ở một số điểm sau: về phương diện nội dung,

thơ Yến Lan chan chứa tình cảm với con người, với quê hương đặc biệt là Bình Định -

thị trấn Bình Định - quê hương ông; về nghệ thuật, phần thành công nhất của ông chính

là sử dụng thể thơ tứ tuyệt một cách nhuần nhuyễn, ngôn ngữ thơ từ chỗ mơ hồ đã gần

gũi, đời thường và nồng thắm.

Vấn đề còn tồn tại:

- Cuộc đời thơ của Yến Lan trải dài theo hoàn cảnh lịch sử của đất nước: Từ

những ngày đầu của phong trào Thơ mới - với Bàn thành tứ hữu tại Bình Định, rồi khi

ông tập kết ra Bắc, những ngày kháng chiến và sau khi đất nước thống nhất giai đoạn

nào Yến Lan cũng sáng tác thơ không nhiều thì ít. Các sáng tác ấy đều có sự vận động

biến đổi theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thế nhưng các bài viết các công trình nghiên

cứu hầu như còn thiếu một chút sự chuyên sâu để nghiên cứu những bước vận động

biến đổi của nghệ thuật thơ Yến Lan qua từng giai đoạn.

- Nghiên cứu thơ ca Yến Lan tất nhiên còn nhiều vấn đề cần được đi sâu khai

thác những khía cạnh tiêu biểu, nổi bật tạo nên một vị thế đúng và xứng đáng với

những đóng góp của ông cho thơ Việt Nam nói chung; việc tiếp cận cũng cần được tiến

hành từ nhiều hướng phong phú hơn.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp mới của luận văn

3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu văn bản thơ có kết hợp với các yếu tố thời đại,

hoàn cảnh cá nhân của nhà thơ, luận văn nhằm khám phá thêm về đặc điểm thơ của

Yến Lan qua từng giai đoạn lịch sử.

3.1.1. Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình là một thể thống nhất bao hàm các thành tố

cấu trúc và quy luật riêng, thể hiện quá trình cái tôi của nhà thơ nội cảm hóa thế giới

khách quan bằng tưởng tượng của mình. Một mặt, thế giới nghệ thuật ấy gắn liền với

kinh nghiệm cá nhân, với phong cách sáng tác chủ quan của nhà thơ, mặt khác, nó

phản ánh trình độ nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử, một thời đại nhất định. Bởi vậy

luận văn khám phá đặc điểm thơ Yến Lan vừa như một sản phẩm sáng tạo độc đáo của

cá nhân, vừa như là một tiêu biểu cho khuynh hướng chuyển đổi trong sáng tác của văn

nghệ sĩ theo hoàn cảnh lịch sử của đất nước.

3.1.2. Tìm hiểu về đặc điểm thơ Yến Lan, luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu về

thế giới hình tượng trong thơ Yến Lan qua từng giai đoạn, có sự so sánh với các thi sĩ

tương ứng cùng thời.

3.1.3. Các đặc điểm thơ nói trên tất yếu phải được thể hiện ra bằng văn bản ngôn

từ. Bởi thế, một nhiệm vụ quan trọng nữa được đặt ra cho luận văn đó là: Nghiên cứu

những phương thức, phương tiện biểu hiện trong thơ Yến Lan qua từng giai đoạn. Trên

cơ sở đó luận văn phân tích mối tương quan biện chứng giữa nội dung và hình thức

trong sáng tác thơ của ông.

3.2. Đóng góp mới của luận văn

Thực hiện được các nhiệm vụ trên, luận văn sẽ làm nổi bật được những đặc trưng

tiêu biểu của thơ Yến Lan trong cái nhìn chỉnh thể. Kết quả của luận văn nhằm thể hiện

được những đóng góp của Yến Lan cho Thơ mới nói riêng và cho thơ ca Việt Nam nói

chung. Từ đó, luận văn mong góp phần nhìn nhận quá trình vận động của thơ ca dân

tộc từ góc độ văn hóa nghệ thuật.

Người viết cũng mong rằng kết quả của luận văn sẽ đóng góp một phần phục vụ

cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập thơ nói chung trong nhà trường hiện

nay.

4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phạm vi nghiên cứu

Trên cơ sở nguồn tư liệu có được, luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm thơ

Yến Lan và một số phương thức biểu hiện đặc sắc của của nó dưới cái nhìn tổng thể.

Còn những khía cạnh khác xin dành cho những công trình nghiên cứu khác.

Luận văn tập trung khảo sát thơ được in trong 10 tập thơ của Yến Lan đã được

xuất bản và một số tác phẩm thơ sưu tầm được trên các báo trước 1945 do gia đình nhà

thơ Yến Lan và bạn bè thân hữu của ông còn lưu giữ được. Phần văn xuôi, chỉ khi thật

cần thiết luận văn mới liên hệ phần nào để có cái nhìn toàn diện, bao quát hơn.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Giải quyết đề tài này, chúng tôi vận dụng các phương pháp chủ yếu sau đây:

4.2.1. Phương pháp cấu trúc - hệ thống

Quan niệm thơ Yến Lan là một chỉnh thể, luận văn chú ý tìm ra những thành tựu

tạo nên chỉnh thể này và quy luật cấu trúc của nó. Mọi đối tượng và vấn đề khảo sát

của luận văn được đặt ra trong tương quan hệ thống và trong quy luật của cấu trúc này.

4.2.2. Phương pháp phân loại, thống kê

Với từng thành tố của chỉnh thể cũng như các yếu tố thuộc phương thức,

phương tiện biểu hiện nghệ thuật ấy, khi cần thiết luận văn sẽ thực hiện phân loại và

thống kê qua các con số cụ thể.

4.2.3. Phương pháp so sánh đối chiếu

Để khẳng định những nét tiêu biểu cũng như những nét riêng thuộc phong cách của

Yến Lan (trong phạm vi giới hạn của đề tài), luận văn đặt tác giả và tác phẩm trong

mối tương qua so sánh với các tác giả, tác phẩm khác qua từng giai đoạn cụ thể.

4.2.4. Theo hướng điều tra xã hội học.

Để có được những tư liệu đầy đủ và chuẩn xác hơn, chúng tôi đã thực hiện việc đi

thực tế để sưu tập, chụp hình, trò chuyện và ghi âm những gì có liên quan đến cuộc đời

và sự nghiệp thơ văn của nhà thơ. Khi cần thiết chúng tôi sẽ có trích dẫn và phụ chú ở

phần phụ lục.

5. Cấu trúc của luận văn

Do đã có luận văn khai thác về cuộc đời của Yến Lan, do đó để phù hợp với logic

nội tại của vấn đề đặt ra nghiên cứu, ngoài mở đầu và kết luận, luận văn được triển

khai trong 3 chương và không có phần về tiểu sử, cuộc đời nói chung.

Chương 1: Bước đường sáng tạo nghệ thuật của Yến Lan

Chương 2: Hình tượng nghệ thuật trong thơ Yến Lan

Chương 3: Các phương thức biểu hiện trong thơ Yến Lan

Chương 1. BƯỚC ĐƯỜNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT

CỦA YẾN LAN

Cuộc đời lao động nghệ thuật của mỗi nhà văn nhà thơ hầu như đều gắn liền với

xã hội, với những biến động của thời cuộc mà mình trải qua. Nếu không bị động mà bị

cuốn theo những biến động thì ít hay nhiều bối cảnh sống của xã hội cũng để lại những

dấu ấn trong các tác phẩm của họ, Yến Lan cũng không phải là ngoại lệ. Cuộc đời lao

động nghệ thuật của ông trải dài gần ngót thế kỷ, đi qua những biến cố thăng trầm suốt

mấy mươi năm của dân tộc, lần giở những trang thơ của ông ta như đang đọc những

trang đời trước những biến thiên lịch sử của dân tộc. Những tác phẩm của ông gần như

cầm tay nhau bước vào đời, nó phản ánh về cuộc sống xã hội, về cuộc đời về tâm tư

tình cảm của ông, của con người nói chung, đó là thành quả lao động không mệt mỏi

suốt cuộc đời ông. Đọc Yến Lan ta bắt gặp một sự vận động của cái tôi trữ tình tuy tích

cực nhưng luôn ẩn chứa một sự trầm tư đến bình đạm trước cuộc sống mà nói như

Nguyễn Thanh Mừng đó là sự: “trầm lặng và tinh nhã cả trong văn chương lẫn cuộc

đời”. [65,tr. 442]

1.1. Trước cách mạng tháng Tám - với Bàn thành tứ hữu

1.1.1 Khi Yến Lan làm thơ, phong trào Thơ mới đã bắt đầu được vài năm. Công

chúng yêu thơ đương vồ vập tiếp nhận “những bài thơ mô tả những sóng gió ái tình và

khao khát yêu đương” [11,tr.11] bởi đây là đề tài phải kiêng dè, và bị cấm đoán suốt

hàng ngàn năm, giờ đây Thơ Mới đang bứt tung mọi xiềng xích để mọi cung bậc của ái

tình được đường hoàng lên tiếng, phơi mình ra trước nhân gian. Những vần thơ tình

yêu cháy bỏng đang làm háo hức bao tâm hồn thanh niên ngày ấy, nó bộc lộ những gì

mà họ không thể nói, không dám nói:

Đôi hơi thở tìm nhau trong bóng tối

Đôi linh hồn chìm đắm bể u sầu.

(Đêm tàn – Chế Lan Viên )

Hay

Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm

Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em…

Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh

Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!

(Tương tư chiều – Xuân Diệu )

Vậy mà trong thơ Yến Lan, những vần thơ yêu đương đôi lứa lại rất ít. Phải chăng

chàng không yêu? Hoàn toàn không phải vậy, bởi là con người nói chung và thi nhân

nói riêng thì tình yêu đôi lứa là một phần không thể thiếu trong cuộc sống và đặc biệt là

trong việc nuôi dưỡng nguồn cảm hứng cho thi nhân. Yến Lan cũng viết về thơ tình,

nhưng ta bắt gặp một thứ tình cảm thật nhẹ nhàng

Vì với tình tôi, phải nhẹ nhàng

Phải là ý ngọc, phải tim vàng

Phải là trọn vẹn, là trong sámg

Là một bài thơ khắc chữ " chàng"

(Đồng nội hồn tôi)

Sự xa cách nhớ nhung ta hoàn toàn không thấy chàng rên rỉ hay gào thét cho tung

hê trời đất, mà là sự lắng đọng trong tâm:

Em đi, ngày tháng biệt mùi tăm

Kén đã luân sinh mấy kiếp tằm

Một mảnh hồn ta còn đọng mãi

Trên vành nong úa sắc thời gian.

(Mùa xuân này lạnh lắm em ơi)

Tình yêu tan vỡ bởi sang hèn ngăn cách, ta đã bắt gặp nhiều những cung bậc về sự

oán hận, căm ghét số phận, đớn đau vật vã đến đày đọa bản thân, làm hao tốn bao

nhiêu giấy mực của các thi nhân, lấy bao nước mắt của đôc giả. Nhưng với Yến Lan, ta

không bắt gặp những sự oán than cay nghiệt đó mà vẫn chỉ là sự lặng thầm ray rứt với

bản thân:

Giận cái ngây thơ tự lúc đầu

Thấy rằng tường giậu chẳng ngăn nhau

Ai hay rẽ thúy chia uyên ấy

Còn bức thành cao giữa khó giàu

(Gần nhà xa ngõ)

1.1.2. Không vồ vập ca ngợi ái tình, không bị cuốn theo làn sóng thơ tình ái mà

thơ Yến Lan giai đoạn này, hay nói cho chính xác là khuynh hướng thơ của Yến Lan

ngay từ thuở ban đầu cầm bút chính là lấy cuộc sống của mình, lấy cảnh sắc quê hương

làm đề tài trong các sáng tác.

1.1.2.1. Tác phẩm đầu tiên đưa Yến Lan đến với công chúng chính là bắt nguồn từ

hoàn cảnh đặc biệt của bản thân. Từ tiếng gọi đò của cậu bé mỗi ngày khi mang thức

ăn cho mẹ đang bị ốm ở bên kia sông, cho đến tiếng gọi đò thê thiết trong đêm đi báo

tin mẹ qua đời. Tiếng gọi đò ấy dội vào tâm trí tuổi thơ, đi suốt cả cuộc đời của thi sĩ

như một nối niềm khắc khoải, đớn đau, oán trách. Để rồi tiếng gọi đò ấy đi vào thi

phẩm làm run rẩy bao tâm hồn, níu lòng người lại để đi tìm Bến My Lăng

Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách

Gọi đò - thôi, run rẩy cả ngành trăng…

(Bến My Lăng)

Ngày xưa, khi Tú Xương “vẳng nghe tiếng ếch bên tai” thì bỗng “giật mình còn

tưởng tiếng ai gọi đò”, đó là sự tưởng nhớ về những kỉ niệm êm đẹp của cuộc sống

miền thôn quê, tiếng gọi đò của khách sang sông khi dòng sông chưa bị lấp, đồng quê

chưa bị đô thị hóa, tiếng gọi trong tiềm thức đó là một sự tiếc nhớ. Còn trong văn học

giai đoạn 30 -45 này có hai bài thơ cùng chứa đựng những tiếng kêu não nùng trong

đêm vắng. Độc giả yêu thơ có lẽ không quên những âm thanh não nùng của hàng trăm

con quạ giật mình kêu hoảng loạn trong bóng đêm qua bài thơ Đêm thu nghe quạ kêu

của Quách Tấn.

Từ Ô Y Hạng rủ rê sang,

Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng…

Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng

Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng

Bồn chồn thương kẻ nương sòng bạc.

Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.

Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi

Tình hoang mang gợi tứ hoang mang…

Tiếng của một đàn quạ kêu rộn lên ở những bờ tre cạnh sông Côn nằm trên chặng

đường từ An Vịnh về Phú Phong đã gây cho Quách Tấn một ấn tượng mạnh mẽ, suốt

đời ông vẫn nhớ, nó khiến ông viết hẳn một bài thơ Đường nổi tiếng mà nhiều người

phải bàn đến. Giữa đêm khuya, tiếng đàn quạ kêu thật ấn tượng, tiếng kêu ấy thật não

nùng trong làng Thơ mới ngày ấy. Thế nhưng cái âm thanh trong bóng đêm ấy so với

tiếng gọi đò làm “run rẩy cả ngành trăng” kia thì có lẽ tiếng gọi đò ngày ấy nó không

chỉ ám ảnh suốt phần đời của tác giả mà nó cũng làm khắc khoải bao lớp người yêu

thơ. Nó đưa Yến Lan bước lên thi đàn của dân tộc, đóng dấu khai sinh tên gọi cho một

miền sông nước bằng Bến My Lăng.

Một tuổi thơ sớm chịu mồ côi đến hoàn cảnh sống đặc biệt của bản thân mình

cũng được Yến Lan bộc bạch :

Đây tôi sống trong xanh nghiêm thánh thất

Đèn lưu ly hao sáng mộng tràn đầy

Lan can đỏ xuống dần từng bậc bậc

Hồn cuộn dần bậc bậc khói hương xây

Hồn tôi loảng trên bệ vàng thếp chảy,

Cùng hồn trưa quấn quýt lấy giao lân.

Tám phương bạn – chợp hàng mi – mộng thấy

Xứ tâm tình, vàng rộn lá thu phân.

(Bình Định 1935)

Mẹ mất sớm, nhà nghèo, cha làm thủ từ ở Chùa Ông, gia đình cũng phải nương

nhờ nơi mái chùa ấy. Tuổi thơ gắn liền với việc hương khói của cha nơi điện Phật, thế

nên bạn bè quấn quýt trong giấc mơ nhiều khi lại chính là những linh vật trong huyền

thoại và cũng bởi một phần phận nghèo nên không ai muốn cho con kết bạn cùng.

Cũng chính cái cảnh nghèo khó ấy khiến những bâng khuâng xao xuyến buổi đầu rung

động nhiều khi thật bẽ bàng. Chàng hăm hở “băng đồng” đi hái hoa để tặng người, thế

nhưng cái dáng “thư sinh lam lũ”, nghèo nàn cộng với bó hoa đồng nội thì người ở lầu

cao kia “đâu dễ động tình” dù chàng đã đợi chờ đến khi hoa héo, đến độ “chòm mây

trên đỉnh núi” kia cũng héo theo. Vậy mà, chàng có trách ai đâu, chỉ âm thầm tự trách

mình quá đỗi vụng về nên chỉ hiểu được hoa thôi:

Trở lại cành trơ, tự hổ ngươi

Giá hoa còn đấy, hẳn đang tươi

Vụng về đến phải vô duyên vậy

Bởi hiểu hoa thôi chẳng hiểu người.

(Hoa tặng)

1.1.2.2. Tuy nhiên, hoàn cảnh riêng ấy không làm giảm đi tình cảm của chàng với

mảnh đất Bình Định thân yêu. Hầu như những thi phẩm trong giai đoạn này của Yến

Lan chính là thiên nhiên, cảnh sắc quê hương Bình Định với muôn hình muôn vẻ.

Một mảnh đất cằn cỗi khiến người ta không thể nào gieo trồng được gì cả, người

phải bỏ hoang, thành “đất góa”, “ruộng mồ côi”. Bởi cây cối nào có thể trụ được với

đất sỏi, đồi trọc ấy. Sự cằn cỗi đến đỗi mà “chuối chực bồng con, thân đã cỗi”, “ngọn

tre” không vượt lên nổi “lùm gai”:

Ở đây đất góa, ruộng mồ côi

Cao, thấp chen chân những lũng đồi:

Gò Hội, gò A nung sỏi đỏ

Gò Nghiêm, gò Mỹ trọc mưa trôi!

(Én Đào)

Chính cái cằn cỗi ấy mà không chỉ thực vật, động vật mà đến những sinh vật phù

du cũng khó tồn tại:

Lặn lội – cò, le vẫn đói mồi

Bàu Đưng, bàu Gốc mảng bèo phơi

Bàu Hồ cỏ vượt, bàu Sim cạn

Cái tép con tôm cũng lạc loài

(Én Đào)

Một cái tỉnh nhỏ không có sức sống, mà chỉ qua một đoạn thơ ngắn, tác giả đã

khái quát được sự mòn mỏi, đìu hiu, bế tắc của nó mà nói như tác giả Đỗ Lai Thúy đó

là: “Chỉ bằng mấy chục câu thơ mà Yến Lan đã làm được cái mà một nhà văn xuất sắc

như Nam Cao cũng phải dựng hẳn một thiên tiểu thuyết “sống mòn” nổi tiếng” [96,

tr.376]

Tỉnh nhỏ,

Võ vàng

Nắng thắt ngang hầu thị trấn

Gập ghềnh trên đường vắng:

Cuộc đời – hay cỗ xe bò-

Nhắm về phía mả mồ

Chậm rãi lê từng bước một.

(Lại về tỉnh nhỏ)

Người ta thường ví cuộc đời với muôn vàn những danh từ mĩ miều khác nhau,

vậy mà ở đây ngay tại cái thị trấn này, sự ngưng đọng, bế tắc của cuộc sống đến mức

tác giả ví nó như cỗ xe bò, chưa hết, cỗ xe bò ấy đang chậm rãi lê từng bước về phía

mã mồ. Một cuộc sống không hề còn có ý nghĩa, không tương lai, không đợi chờ.

Một phiên chợ nghèo xơ xác ven sông, trong cái lạnh của chiều cuối năm càng

làm nổi lên cái cám cảnh cho quê nghèo, buồn là vậy thế mà thi nhân nhìn thấy đây đó

chính là nét mộc mạc của quê mình, tiếng kẽo kẹt của bụi tre trước những cơn gió lạnh

thì chàng lại thấy rằng tre đang nhại tiếng thi nhân, hay chính xác hơn tre như cũng

đang tập làm thơ, nghe sao mà thi vị - hình như cố thi vị để mà tồn tại:

Chiều nghe chuông chở rét qua sông

Chiều mong lời vui ở cánh đồng

Tre nhại thi nhân trong xóm lạnh

Chợ tàn tiễn khách với lều không

(Chiều)

Một vầng trăng rất riêng của Bình Định, mà đã làm hao tốn bao giấy mực của các

thi nhân nơi đây, quyến rũ biết bao bạn đọc tìm đến với vầng trăng: thơ mộng, yêu

đương, giận hờn, ghen tuông, bỡn cợt, ma quái và dường như lại rất thật, thật đến độ

người ta có thể mang trăng rao bán, thấy trăng khóc, trăng cười và trăng ghì xiết yêu

đương. Hình ảnh trăng trong thói quen mang nặng tính ước lệ, nó thường đi liền với

quan niệm về sự ước nguyền, trong sáng, trọn vẹn. Thế nhưng với Hàn Mặc Tử trăng

gắn liền với hành trình tâm trạng của nhà thơ, nó hầu như không còn là một khách thể

thiên nhiên nữa mà dần dần nó biến dị một cách lạ thường, đặc biệt là khi nhà thơ ở

vào thời điểm ranh giới giữa sự sống và cái chết, lúc hồn thơ phải kịch liệt chống lại sự

tắt dần của sinh lực thì trăng trở nên rùng rợn

Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa

Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô

Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy

Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.

(Say trăng – Hàn Mặc Tử )

Với Chế Lan Viên sự tiếc thương thời đại cũ khiến ông đưa người đọc đến với

một thế giới xa lạ, rùng rợn của những nấm mồ hoang, huyệt lạnh, những đầu lâu

xương trắng với những linh hồn vật vờ của dân Hời. Chính vì vậy mà trăng trong thơ

Chế Lan Viên có thể gọi là một vầng trăng ma quái. Nếu không phải là cảnh trần

truồng tắm trăng để quay cuồng lăn lộn cùng trăng, để cho trăng chảy khắp thân thể,

trăng ghì riết lấy thịt da thì là cảnh dưới đáy mồ sâu, khi những linh hồn vong quốc

đang chạy trốn ánh sáng để thở than thì ánh trăng vỡ ra lả tả rơi từng mảnh từng sợi

vào từng ngóc ngách dưới đáy huyệt kia khiến những linh hồn hoảng loạn như phát

điên và họ nhìn thấy hình như trăng cũng đang điên:

Thôi hết rồi, bây giờ đầy ánh sáng

Đã tràn lan, hể hả, chảy mênh mang

À cũng còn vài vũng đêm u ám

Đang điên cuồng giãy dụa giữa vùng trăng

(Trăng điên - Chế Lan Viên )

Còn với Yến Lan, trăng lại là một phần máu thịt, trăng đã là cái nôi từ buổi chào

đời, trăng là người bạn suốt tuổi ấu thơ một sự gắn bó sâu sắc và đến bây giờ trăng

hình như đã trở thành người yêu, vì trăng cũng giận hờn nũng nịu và cũng ích kỷ muốn

giữ thi nhân cho riêng mình mà thôi

Trăng chẳng cho tôi mến một người

Một trang sách mở dưới ban mai

Một hoa hồng nở trong chiều mộng

Hay một hồn thơ sáng rực lời.

(Bệnh trăng)

Một Bình Định với những dấu vết thành quách cũ, những bóng tháp cổ kính thâm

u. Từ những suy tư về sự diệt vong của một dân tộc, một vương quốc - Chiêm Thành -

đôi bạn thi nhân – Yến Lan, Chế Lan Viên - của thành Đồ Bàn ngày ấy từng bá vai

nhau lên lầu cửa Đông nhìn những dấu vết thành quách cũ - thành Đồ Bàn - để rồi cùng

thương tiếc, cùng ngậm ngùi cho một dân tộc. Họ bàn với nhau phải viết một cái gì đó

cho dân Chàm, về dân Chàm. Thế rối người trước người sau Yến Lan với tập thơ

"Giếng loạn" viết về cuộc chiến tranh tang thương làm tan nát, xóa sạch một vương

quốc, để bây giờ nó chỉ còn là những dấu tích hoang phế, cuộc chiến ấy gieo đau khổ

cho bao kiếp Chiêm nương ngày xưa. Chế Lan Viên với tập "Điêu tàn", những tưởng

tượng về hồn ma bóng quế, tiếng nức nở của dân Hời ngày cũ tất cả xoáy sâu vào tâm

thức của người yêu thơ đương thời. Nếu như Chế Lan Viên từ những phế tích của

vương quốc Chiêm thành đưa người đọc đến với mối sầu vong quốc bằng những hình

ảnh kinh dị của thế giới cõi âm, những lời than khóc tiếc nuối cho một quá khứ oai

hùng, những hình ảnh rùng rợn của xương trắng đầu lâu, máu me…tất cả đánh vào

“tầm đón đợi” của lớp công chúng mới bước ra từ thế giới của những ước lệ và quy

phạm tạo ra một “khoảng cách thẩm mĩ” quá lớn, nó là cú sốc mà nói như Hoài Thanh

đó là “một niềm kinh dị” thì Yến Lan lại đi vào một khía cạnh khác: thân phận của

những Chiêm nương. Từ những gì còn sót lại của tập thơ Giếng loạn bị thất lạc ta có

thể cảm nhận được mối cảm thương của Yến Lan với những kiếp đời hồng nhan ngày

cũ bằng những dòng tâm tình như với chính những người phụ nữ của ngày hôm nay.

Nàng cũng yêu đương mơ mộng như bao thiếu nữ khác thế nhưng cuộc chiến tang

thương đã cướp đi của nàng người trong mộng bỏ lại song thân đầu bạc cô quạnh buổi

thu tàn đông lạnh, nàng tựa cánh chim câu lẻ bạn biết đi về đâu?

Vì lúc ấy, em ơi,

Chinh chiến cướp một người,

Chiều nay chim bạch câu

Về đậu ở bên lầu.

Một ngọn đèn cô quạnh.

Hai mái đầu trắng phau.

Không lẽ trời thu lạnh.

Mà vắng vẻ trước sau!

(Vắng vẻ)

Vết thương ấy không làm nàng rỉ máu vậy mà lần mòn giết nàng trong nỗi nhớ

không khuây để rồi một chiều sương nhạt, nàng như ngọn đèn dầu khô cạn, lặng lẽ đi

tìm người yêu ở cõi vô cùng, buồn đau thêm một lần rót xuống những mái đầu bạc

trắng :

Buồn rót trong hồn đắng biệt li

Ôi màu nên rộng ứa trên mi !

Những người tóc bạc nhìn hương cháy

Bên cỗ quan tài sắp trẩy đi

Mai mới mươi lăm, Mai của duyên

Của màu, của sắc, của thiên nhiên,

Vội vàng rụng trước xoan bừng ngõ

Theo nắng hanh vàng biệt mái hiên

(Những người qua cửa)

Để rồi một đêm trăng nào đó người ta như thấy bóng nàng lẩn khuất bên nhịp cầu,

những cánh sen lay động hay bước chân nàng đang lướt đi? Một sự cảm thương đến

xót xa bởi nàng như kiếp tằm non đã vội bị hóa bướm khi mà đời nàng chưa nếm đủ

mùi dâu :

Đêm nay sen nở lòng tươi thắm

Hứng bóng nàng qua những nhịp cầu

Từ tuổi tằm non sang tuổi bướm

Đời nàng chưa nếm đủ mùi dâu.

(Sen nở)

Tất cả, tất cả những nét riêng tư của cuộc đời, hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của Bình

Định, của vùng đất giao thoa bao nền văn hóa, của những phế tích đền tháp, lăng tẩm

tạo thành một dòng nhựa sống trong tâm hồn thi nhân. Chính vì vậy cho dù đi bất cứ

nơi đâu, ở bất cứ hoàn cảnh nào tấm lòng thi sĩ vẫn hướng về mảnh đất ấy với một tình

yêu vĩnh cửu:

Nhánh tòng, bá có đau vì xứ sở,

Chớ quặn mình thêm nức nở hồn tôi.

Không được sống , xin cho cùng được thở,

Vạn - lý - tình trong gió ngọt xa xôi.

(Bình Định 1935).

Có thể nói những tác phẩm giai đoạn trước cách mạng tháng Tám của Yến Lan

còn lại không nhiều, nhưng những gì còn đến ngày hôm nay cũng khiến ta cảm nhận

được sự đóng góp của ông cho nền văn học nước nhà dù là lặng thầm nhưng rất đáng

trân trọng. Hơn nửa thế kỷ trước Hoài Thanh đã từng nhận xét về thơ Yến Lan rằng:

“Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù. Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng

lâu dần cơ hồ như ngạt thở” [90, tr.171], cái sự mơ màng cơ hồ như ngạt thở ấy có

phải là của riêng Yến Lan không khi mà cả một thế hệ thi nhân lúc ấy chịu ảnh hưởng

mạnh mẽ từ thơ Pháp, đặc biệt sự ảnh hưởng của Baudelaire và chủ nghĩa tượng trưng?

Sự ảnh hưởng ấy để rồi tạo ra những câu thơ mà nói như Hoàng Ngọc Hiến đó là: “Có

những câu thơ người đọc chưa kịp hiểu ý nghĩa đã cảm thấy hay, thậm chí chưa bao

giờ hiểu ý nghĩa mà vẫn cứ ám ảnh…”[21, tr.156] thơ Yến Lan rơi vào trường hợp như

thế chăng? Tuy nhiên, cần nhìn nhận một cách chính xác những gì Yến Lan đã đóng

góp cho phong trào Thơ mới lúc ấy nói riêng và văn học Việt Nam nói chung đó chính

là sự cách tân trong câu chữ, góp phần mang lại thắng lợi cho Thơ Mới trên thi đàn văn

học nước nhà. Chế Lan Viên đã từng ghi nhận sự đóng góp ấy bằng một thái độ

nghiêm túc, nể phục:

“Năm 19935 khi nền Thơ mới còn chập chững, Lan đã có nhiều tìm tòi táo bạo.

Tả một cánh buồm cô đơn, tìm về nghỉ ngơi trên sóng đảo dịu dàng, Lan viết:

Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ

Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi

Năm kia tôi yêu cái tên một tập thơ nước ngoài Quả lê tam giác (la pavie

triangulaire). Nhưng sầu tam giác hay hơn chứ và viết trước lê hơn bốn mươi

năm….cánh ủ viên trang, chiều bồ câu, thơ đá chạm biết bao nhóm chữ phối hợp, cấu

trúc trong cái tương quan kỳ lạ, ngỡ như mới được viết hôm qua, giữa năm 86 này…”

[110, tr.6 – 7]

1.2. Sau cách mạng tháng Tám

Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ mở ra một trang sử mới trong lịch sử

dân tộc mà còn mở ra một trang sử mới cho văn học nước nhà. Bên cạnh tư thế mới

của một dân tộc “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” đó là sự xuất hiện của một phong cách

nghệ sĩ mới: nghệ sĩ – chiến sĩ. Có những nghệ sĩ cầm bút trước khi cầm súng, có

những người sau khi cầm súng mới biết đến ngòi bút như là một thứ vũ khí thứ hai

cũng vô cùng lợi hại. Họ đã tay súng tay bút đi suốt hai cuộc kháng chiến của dân tộc

tạo ra một thời kỳ rực rỡ cho văn học nước nhà. Lớp lớp các nhà văn nhà thơ ngày ấy

đặc biệt là những nhà Thơ Mới, cách mạng đã mang đến cho họ một đường đi một lối

thoát mới cho cuộc đời, đưa họ ra khỏi những cô đơn, chán nản tuyệt vọng của những

ngày cũ, chỉ cho họ con đường cần phải đi. Tất nhiên không phải ai ai cũng lập tức

chuyển hướng được ngòi bút của mình vốn dĩ đang phục vụ cho một cái tôi cá nhân

tuyệt đối sang để phục vụ cho cái ta chung, cho thời cuộc mà họ có một khoảng thời

gian “nhận đường” dài ngắn khác nhau, có người ngày một ngày hai, có người một hai

năm và cũng có người phải mất đến mười năm. Nhưng điều quan trọng nhất đó là họ

đang thực hiện nhiệm vụ của một công dân với Tổ quốc, khi Tổ quốc cần. Trước đây

họ có thể thuộc những trường phái khác nhau, những giọng điệu khác nhau nhưng bây

giờ họ đang cùng chung một chiến tuyến, cùng cất cao giọng trong cuộc chiến với quân thù.

Cũng như rất nhiều nhà thơ khác, sau cách mạng tháng Tám Yến Lan cũng tìm

đến với thơ ca cách mạng như một sự vận động tất yếu. Thơ ca với họ lúc này không

chỉ đơn thuần là sự giải trí mà nó còn như là một công cụ, một thứ vũ khí phục vụ cho

cách mạng. Tuy nhiên, mỗi người có một cách thể hiện rất riêng. Có người ngay thời

điểm ấy thơ ca cách mạng của họ rất phổ biến, rất quyết liệt, nhưng với thời gian nó

dần bị mai một đi, lặng lẽ mất đi do sự đào thải khắc nghiệt của tiêu chí nghệ thuật. Có

người chỉ bình lặng thôi những vần thơ về đất nước, nhưng đến tận bây giờ vẫn là

những câu thơ hay mà người ta vẫn còn ngâm ngợi. Yến Lan thuộc nhóm nào? Thơ

ông ngày ấy còn “sống” đến hôm nay không? Chế Lan Viên từng nhận xét rằng: “Có

những người cách mạng đến thì viết hay ra, có người viết chỉ dài ra, âm vang ngắn lại.

Có người thì tắt nghỉm…. Lan là người sau cách mạng, nhờ cách mạng đã viết không

những khác đi mà lại hay hơn” [110, tr.8].

Bốn tập thơ: Những ngọn đèn (1957), Tôi đến tôi yêu (1965), Lẵng hoa hồng

(1968), Giữa hai chớp lửa (1978); hai tập truyện thơ : Nước mắt ngọt (1967), Én Đào

(1979) và một bản thảo thơ diễn ca : thư Bác đời ta (1965) lần lượt được hoàn thành và

cho ra mắt. Đó là kết quả của cuộc hành trình suốt mấy mươi năm trải qua hai cuộc

kháng chiến từ trên miền núi xuống đến miền biển, từ miền Trung đến tận cùng miền

Bắc của Yến Lan “Thơ anh in dấu từng bước đi của dân tộc trong những ngày đất

nước chia cắt. Lòng anh cuồn cuộn thương nhớ quê Nam, hào hứng cùng chiến công

An Lão. …” [104, tr.27]. Tất nhiên con số tác phẩm không phải là quan trọng mà cái

quan trọng là vị trí của những tác phẩm đó trong đời sống văn học hôm nay.

1.2.1. Qua những thi phẩm trước cách mạng, điều ta nhận thấy rõ nhất trong thơ

Yến Lan đó là “một tâm hồn mạnh mẽ, thơ ông không mấy khi rơi vào bi lụy như phần

lớn thơ ca đương thời” [11, tr.34] không than khóc ủy mị, không buồn bã tuyệt vọng bế

tắc như các thi sĩ của Thơ mới đương thời thế nên ngay từ những ngày đầu cách mạng,

Yến Lan đã tiếp rất nhanh ngọn lửa đấu tranh, ông tích cực tham gia, vận động, cùng

bà con đi cướp chính quyền Huyện, những tháng ngày sôi sục ấy nằm mãi trong kí ức

của ông.

Tôi sống những ngày thân cò lặn lội

Gánh gạo, phá thành, đốt đuốc, dời kho

Cùng xứ sở chung ngọn đèn le lói

Ngày như đêm tiếp mãi lửa căm thù

(Bình Định 1947)

1947 -1948 khi Pháp tăng cường đổ bộ và đánh phá miền Trung hòng chiếm lại

từng dải đất trên lãnh thổ Việt Nam. Lòng căm thù khiến từng gốc cây, ngọn cỏ cũng

hóa thành vũ khí, thành trận địa chiến đấu:

Đất An Lão đâu nằm im chịu giặc

Rẫy dứa hầm chông, ngọn cau liên lạc

Anh cầm cày, chị bắt ốc ven sông

Đặt bẫy, gài mìn chờ cuộc phân công.

(An Lão)

Tuy nhiên, cái đáng nhớ chính là những hoạt động nghiêng về văn nghệ mà Yến

Lan đã làm trong thời kì này, đó chính là tuyên truyền đường lối, giải thích những thuật

ngữ cách mạng, bình những bài thơ văn hay trên báo và sáng tác những bài ca dao về

truyền thanh – một công việc mà ông phụ trách trong những ngày đầu cách mạng - để

tuyên truyền cho bà con quan tâm tới truyền thanh - tiếng nói cách mạng, tới những

thông tin bổ ích trong cuộc sống. Những bài ca dao ấy, nhiều bà con đương thời vẫn

còn nhớ:

Chẳng hạn:

Ăn dừa đập sọ dừa ra

Ăn chuối lột vỏ, ăn na bỏ cùi

Nghe ai, chợ quán trao lời

Phải lọc ra cốt phải xoi ra luồng

Kẻo mà lộn ghét thành thương

Nhầm người đoan chính ra phường gian ngoa

Ta về ta mở tiếng loa

Điều hơn lẽ thiệt phân qua tỏ tường

Hay

Dây tơ hồng dài nên dây tơ hồng rối

Dây truyền thanh dài đường lối thêm thông

Đôi ta xa chợ cách sông

Mà nên em vợ, anh chồng vì đâu

Phải chăng từ nối mối đầu

Tiếng loa bắc tới nhịp cầu tâm giao

1.2.2. Năm 1954, hiệp định Generve được kí kết, đất nước chia đôi, sông Bến Hải

chính là ranh giới. Khi biết rằng những kẻ cầm quyền mới sẽ điểm mặt những người

tham gia cách mạng để thủ tiêu thì Yến Lan quyết định đưa gia đình đi tập kết, một nửa

hân hoan về với độc lập tự do, một nửa kia rất đỗi ngậm ngùi khi phải xa lìa quê

hương.

Ta về phía bên kia giới tuyến

Tiếp nửa trời, sông, biển Việt Nam

Nửa nhành phổi, nửa con tâm

Nửa mình áo lụa, nửa mâm cơm vàng

(Khúc hát những người tập kết)

Trên đất Bắc, những ngày kháng chiến, những gì còn sót lại cộng với những sáng

tác mới nhất mãi đến năm 1957 ông mới đem in thành tập Những ngọn đèn, được Văn

Cao đề tựa. Tuy nhiên, một mặt nói như nhà thơ Vũ Quần Phương là “ thời thế và cảm

nghĩ người đọc lúc đó đã đổi khác, các bài viết lãng mạn đó không được đón nhận

nồng nhiệt mà còn bị phê phán là mang theo nỗi u buồn cá thể vào tâm trạng một Yến

Lan cách mạng” [78, tr.5] ; mặt khác những câu thơ về muôn mặt cuộc sống trong

những ngày kháng chiến như:

Bây giờ anh mới nghĩ ra:

Vì đời chật chội nên ta hẹp hòi

(chạy mưa)

Hay:

Bởi họ thiếu

Con tim

Khối óc

Luôn động đậy

nhưng chỉ là tĩnh vật

Họ không bằng tĩnh vật sống trong tranh

(Tĩnh vật)

mà được Văn Cao giới thiệu là: “Từ một người hiền lành, bình dị, Yến Lan đang trở

thành một người muốn thúc đẩy một sức gì đang làm trì trệ cuộc sống của chúng ta”

và “thơ anh bắt đầu biết đề cao những hành động, tình cảm của con người anh yêu lên

để đả phá những bọn phá hoại sự xây dựng của xã hội” [10,tr.6] đặt trong hoàn cảnh

của thời kì chống phong trào “Nhân văn giai phẩm” ngày ấy nên Yến Lan cũng phải

một thời “điêu đứng” [45,tr.91]. Sau đó, cùng với nhiều văn nghệ sĩ đương thời ông

được đưa đi thực tế về nông thôn để thực hiện “ba cùng” với nông dân. Sau đợt phê

phán, Yến Lan đã “có sự phấn đâu cật lực để đổi khác” [78,tr.5] . Lần lượt những tập

thơ như trên đã nói ra đời, chúng mang đậm không khí thời sự những ngày xây dựng

cuộc sống mới và cuộc đấu tranh giành trọn vẹn đất nước: “ Thơ anh đã in dấu từng

bước đi của dân tộc trong những ngày đất nước bị chia cắt” [104, tr.27]. đến Tây Bắc,

Sa Pa cảm nhận cuộc sống từng ngày đổi thay, mang mầm của sức sống mới:

Sapa, Sapa

Rau dàn mặt đất

Bàn tay thành thị đến tăng gia

Sapa, Sapa

Biệt thự công viên Tây nghỉ mát

Nay hố bom tròn dê nhảy qua.

(Mùa xuân lên cao)

Nương theo gió xuân lên tận biên giới, anh xúc động trước mảnh đất tận cùng Tổ

quốc, hạnh phúc trong sự gần gũi thâm giao của hai dải đất: cây trồng bên này mà trái

vươn sang cả đôi bên:

Đi lên – đi lên cây số “không”

Mà vẫn dài thêm tình núi sông

Như gốc ổi bên phần đất Việt

Cành phía Trung – hoa tiếp tiếp bông.

(theo gió xuân lên biên giới)

Công cuộc hợp tác xã nông thôn cũng được Yến Lan ghi nhận với bao háo hức,

bỡ ngỡ của những ngày đầu đổi mới. Tuy đến nay, mô hình này không còn phù hợp,

hay nói chính xác hơn là nó đã thất bại, nhưng những ngày ấy nó lại là một sách lược

trong buổi đầu xây dựng hòa bình và công bằng xã hội:

Từ tổ đổi công

Tiến lên hợp tác.

Kinh nghiệm người già góp thành bóng mát

Gái trai góp lộc đầu xuân.

Ta dắt ruộng xa về với ruộng gần,

Cộng kép ghép đơn, cày sâu bừa lỏng;

Trâu tám ngõ ra, về chung một cổng

(Bài ca hợp tác thôn tôi)

1.2.3.Từ năm1965, Mĩ ồ ạt đổ quân vào chiến trường miền Nam, tăng cường đánh

phá miền Bắc hòng làm tê liệt nền kinh tế, đập tan hậu phương lớn của chiến trường

miền Nam, hòng xóa bỏ quyết tâm chiến đấu thống nhất Tổ quốc của dân tộc. Đất nước

là cả một chiến trường lớn. Sự khốc liệt được Yến Lan phản ánh ở mọi mặt của cuộc

sống rất đời thường.

Đó là những người dân vạn chài bất chấp sự cấm đoán, bất chấp súng đạn, tàu

chiến của giặc vẫn kiên cường bám biển để giữ lấy sự sống và nguồn tiếp tế cho chiến

trường miền Nam:

Mặc chúng nó tầm xa đại bác

Thùng mắm ván bay, cần câu phao dạt…

Mặc chúng nó kéo còi đổ bộ

Xăng tưới vạn nghề, lửa hun bãi sú…

Mặc chúng nó bay là mặt sóng

Thuyền máy, ca nô đan dày giữa lòng

Ta thuyền nan vượt bể tròng trành

Rẽ mái chèo theo ánh lân tinh

(Bài ca những người bám biển).

Đó là những con người thầm lặng ở cứ điểm Khe Sanh - con đường tiếp tế cho

chiến trường miền Nam. Biết chắc đó con đường huyết mạch của cuộc chiến, thế nên

giặc Mĩ tăng cường đánh phá đường Trường Sơn ấy. Khe Sanh, đường 9 trở thành một

trong những địa điểm ác liệt nhất ngày ấy. Yến Lan nhẹ nhàng đưa lời ru của người mẹ

Vân Kiều như muốn xoa dịu đi tính chất khốc liệt của những ngày máu lửa

Mẹ hát cho con

Sáu chàng dũng sĩ

Trên điểm cao làm sáu vị thiên thần

Dập xuống tro bùn hơn trăm quỷ sa tăng

Mẹ hát cho con

Những cụm đồi úp nón

Bom tọa độ đã phạt bằng trên ngọn

Vẫn mọc lên từng trận thét xung phong

Lật xe thù ngang bước phản công.

(Khe sanh – đường 9)

Đó là những người yêu xa người yêu, họ ở những trận tuyến khác nhau, nhưng

luôn nhớ về nhau và gặp nhau qua những chớp lửa: lửa nơi hậu phương em sơ tán , lửa

nơi chiến trường anh đang ngày đêm chiến đấu:

Em lên bếp đèn

Đánh que diêm nỏ

Pháo anh vừa nổ

Ta nhìn thấy nhau

Giữa hai chớp lửa.

(Giữa hai chớp lửa )

Đó là đội công tác chim Én tí hon của quê hương. Những em thiếu niên dũng

cảm, biết tập đánh trận, giết thù bất chấp hiểm nguy. Sự hi sinh của các em chính là

góp thêm một viên gạch cho việc dựng xây tương lai cho đất nước. Các em ngả xuống

rồi nhưng với quê hương thì các em vẫn còn quanh đây:

Ơi Én Đào ơi ! sống đây mà

Cùng về giải phóng cả quê ta

Vẫn mười sáu tuổi như hôm ấy

Bên những người thân sương nắng pha…

(Én Đào)

1.2.4. Trên tất cả chính là những đổi thay của quê hương Bình Định cho dù có

những quãng thời gian tác giả không ở gần bên, nhưng những gì thu thập được cùng

với nỗi nhớ da diết khiến tác giả có những loạt bài như vắt cạn cả tâm tư. Mỗi dòng,

mỗi chữ ta như cảm nhận được ông đang “ cùng được thở” với hơi thở quê hương.

Không còn là một Bình Định của những tháng ngày héo hắt đợi mong của 1935,

mà ở đó cuộc sống từ vật chất đến tinh thần đều xơ xác kiệt quệ, đàng thì chờ xe mà

sông nước phải ước mong thuyền... Bình Định 1945 đã ghi dấu sự đổi thay, một sự hồi

sinh đến mức thần kì:

Không, Bình Định đã qua cơn sốt rét,

Nước da vàng lột theo vỏ cây khô.

Dấu xe ngựa đã niêm đầy ngõ kiệt,

Trăng lạc loài đã gặp lại giữa đêm thu.

(Bình Định 1945)

Hai năm sau cách mạng tháng Tám, sức sống tràn căng cùng với niềm hi vọng

nhưng khó khăn chưa hề chấm dứt. Kẻ thù vẫn còn đó, chúng quyết không chấp nhận

thua một dân tộc bé nhỏ nên bao nhiêu những vũ khí hủy diệt hiện đại, chúng mang

vào trút xuống từng dải đất thân yêu.

Người băng nẻo tuông qua lòng Bình Định

Rứt quê hương như rứt tóc, rứt da

Cuộc gian khổ đã bắt đầu nặng gánh

Sông lại mong thuyền, tàu lại nhớ ga.

(Bình Định 1947)

Thế nhưng bom đạn hủy diệt càng khốc liệt bao nhiêu thì lại càng khơi dậy lòng

yêu nước và sự căm thù hừng hực bấy nhiêu. Già, trẻ, gái, trai đều một lòng chống

giặc. Từ những con người hiền lành, bình dị vô danh trở họ trở thành dũng sĩ:

Cha mẹ phá đường, bà cháu tản cư

Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thủy

Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân Sơn.

Gái quạt trấu cũng hóa thành dũng sĩ….

(Bình Định 1947)

Để rồi hai mươi năm đất nước Bắc – Nam chia cắt, cả một đời người với nỗi nhớ

quắt quay. Ngày chiến thắng, cứ ngỡ trong mơ. Trở lại quê hương sau cơn cách biệt,

vui sướng đấy mà cũng không nén được nỗi ngậm ngùi:

Tôi trở lại với mái đầu đốm bạc

Bé u – ơ nhà lạ đón nhìn “ông”

Láng giềng cũ quá nửa phần xiêu bạt

Cả bầu trời cũng vợi hết mênh mông.

(Bình Định 1975 – 1976)

Tâm trạng ấy, tâm trạng của thời đại: sung sướng ngập tràn mà nước mắt rưng

rưng. Thời gian không chờ đợi một ai, ngày trở lại thân quen, xa lạ, vui mừng mà cũng

hờn tủi trong nhau:

Mặt bè bạn đông dần quanh gác xép

Trời rưng rưng, sông nước cũng rưng rưng

Ngoài nghìn dặm, hai mươi năm cách biệt

Lạ vẫn từng quen, hờn tủi vốn vui mừng.

(Bình Định 1975 – 1976)

Giải phóng rồi, thống nhất rồi, niềm vui của ngày sum họp vẫn còn đầy ắp trong

nhau, nhưng trái tim nghệ sĩ của ông không dừng ngang đó, trái tim của những thổn

thức đời thường đang quặn lên trước những hệ lụy của cuộc chiến đang diễn ra:

Thị trấn bé cũng ngẩn ngơ lạc ngõ

Áo rằn ri tả tước góc rào gai

Vỏ chai, hộp găm đau lòng hố cỏ

Tiếng xới tìm chiu chít trẻ con lai

(Bình Định 1975 – 1976)

Thị trấn bé nhỏ chắc chắn không thể nào xa lạ đến mức làm lạc ngõ người con

mấy mươi năm vẫn đau đáu hướng về, mà cái lạc đây chính là hình ảnh “áo rằn ri”

đang còn phất phơ nơi góc rào gai. Điều đáng nói hơn chính là chiến tranh đã đi qua

nhưng một nỗi đau không hình hài đang vò xé những trái tim, hình ảnh “trẻ con lai”

đang chiu chít nhặt tìm những gì có thể để bảo tồn cuộc sống. Chúng là những đứa trẻ

vô tội nhưng chúng lại là nhân chứng của những đau thương, chúng vừa là hình ảnh

của quá khứ lại vừa là hiện tại của tương lai bằng xương bằng thịt, một tương lai mà

ông đã nhìn thấy chắc chắn rằng sẽ có nhiều xót xa.

Một chặng đường thơ kết thúc, hàng trăm bài thơ đã ra đời, sức sáng tạo của

người nghệ sĩ thật đáng trân trọng. Tuy nhiên, thơ Yến Lan giai đoạn này không hẳn đã

hoàn hảo, Chế Lan Viên đã nhận xét rằng : “Đôi phen, Yến Lan chạy theo con mắt,

chạy theo cảnh, theo ngoại hình, mà câu thơ nặng cảnh, nhẹ tình, nặng hình thức mà

rung động nhẹ” [110,tr.9] Thế nhưng nói đi rồi cũng cần phải nói lại Yến Lan không

phải là trường hợp duy nhất mà “cả một giai đoạn dài từ thưở kháng chiến chín năm

nhiều nhà thơ khi đạt được thực thì mất thơ, khi giữ được thơ thì mất thực” [78, tr.6]

mặt khác như nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tiềm đã từng phát biểu rằng . “Khi Tổ quốc

lâm nguy, nhà thơ đứng vào hàng ngũ cùng nhân dân chiến đấu, thì đương nhiên thơ

chuyên chở phải là chủ yếu” [98, tr15] mà đã là thơ chuyên chở thì xúc cảm đôi khi

khó song hành cùng hiện thực, từ đó ta thấy cái hạn chế nữa của Yến Lan trong giai

đoạn này chính là cảm xúc bao quát toàn bài chưa đủ mạnh để thâu tóm các chi tiết vì

thế bài thơ thường dàn đều và dễ bị kéo dài. Cái đóng góp lớn nhất của Yến Lan lúc

này đó chính là những trang viết đầy ắp chất hiện thực từ muôn mặt đời thường của

cuộc sống kháng chiến. Ông không giống như nhiều nhà thơ đương thời lấy hình tượng

trung tâm là anh bộ đội cụ Hồ, là những phút giây huy hoàng nơi tiền tuyến mà nguồn

mạch trong thơ ông chính là cuộc sống bình thường chung quanh, cho dù cuộc sống ấy

đang ở thời kì nào của lịch sử.

50 năm sau những ngày bị phê phán bởi tư tưởng chưa thông, chưa dứt được con

người cũ, năm 2007 Yến Lan và rất nhiều những văn nghệ sĩ ngày ấy đã được nhìn

nhận một cách nghiêm túc về những đóng góp của họ cho nền văn học nước nhà. Ba

tập thơ : Những ngọn đèn, Tôi đến tôi yêu và Lẵng hoa hồng được trao tặng giải

thưởng cấp nhà nước về văn học nghệ thuật. Đó là một cách tri ân - dẫu muộn màng

cho những năm tháng ông lặng lẽ dâng cho đời những tinh hoa của đời nghệ sĩ. Một bài

thơ ở một thời điểm chiêm nghiệm nào đó, ông đã từng ví mình như một cây đu đủ

lặng lẽ ở góc ao, khi bị trầy xước thì tự ứa nhựa để hàn vết thương và lặng lẽ dâng cho

đời quả ngọt, không đòi hỏi, không đợi chờ một sự hàm ơn, đó là một đặc điểm để ta

nhận ra Yến Lan chăng?

Ứa nhựa hàn vết đau

Tĩnh yên cành gió quật

Quả đu đủ góc ao

Lặng dâng đời quả ngọt.

(Đu đủ)

1.3. Sau ngày thống nhất đất nước

Sau ngày đất nước thống nhất. Những nhà thơ thuộc thế hệ Yến Lan bắt đầu bước

vào lứa tuổi "tri thiên mệnh". Có nhiều người đã từng lừng vang trên thi đàn trước cách

mạng, trong kháng chiến, nhưng đến giai đoạn này hầu như chẳng còn thấy tăm hơi, họ

dừng lại cả trên thi đàn lẫn cuộc đời mà nói như Chế Lan Viên " Dữ dội lắm, Xuân

Diệu gắng thế cũng chỉ 69 thôi" hoặc giả họ có cố gắng thì chỉ còn lại là những bài văn

vần chứ hoàn toàn chẳng thấy hồn thơ. Còn Yến Lan thì sao? Thơ ông liệu còn níu

được hồn người không? Tập thơ “ Cầm chân hoa” – giải thưởng văn học nghệ thuật

Xuân Diệu – Đào Tấn năm 1997 của tỉnh Bình Định là kết quả của những tháng ngày

ông tìm lại với thế mạnh của ông, thơ tứ tuyệt và một giọng tâm tình thủ thỉ về một

việc nào đó trong đời thường, một hình ảnh gây xúc động hay một tâm sự riêng tư.

“Sau 1975 thơ ca quay về với cái tôi trong muôn mặt đời thường, thơ trở về với tư duy

“hướng nội”, các nhà thơ có ý thức đào sâu hơn vào bản thể tâm hồn” [25, tr889].

Yến Lan cũng vậy, sau khi hoàn thành trách nhiệm của một công dân đối với đất nước,

trở lại với cuộc sống đời thường ta lại bắt gặp một Yến Lan với cái tôi trữ tình đời tư

đằm thắm.

Đó là cái nhìn thảng thốt của người thợ dệt khi đang hoàn thành tấm vải may áo

cưới cho cô dâu, sự thảng thốt về cái vô lí của kiếp nhân sinh: Để cho Người được

xúng xính với tà áo đẹp trong ngày cưới, thì bao nhiêu kiếp Bướm đã phải cuộn mình

trong tấm lụa, chúng mãi mãi không bao giờ được biết đến khu vườn đầy hoa lá với

bầu trời cao rộng ngoài kia

Vuốt xong sợi nhợ mắc vào go

Cô gái bên khung bỗng sững sờ

Cho đẹp vu qui tà áo cưới

Bao nhiêu hồn bướm cuộn vào tơ.

(Áo cưới )

Đó là tấm lòng, là tình thương bao la của người mẹ, lặng thầm gửi theo con trong

buổi tiễn đưa, giấu giọt nước mắt, giấu sự yếu lòng bằng việc thản nhiên xuống ruộng

cấy, sợ mình quyến luyến sẽ làm bận bước chân con, thi nhân đã thấy rằng người mẹ

ấy đang cấy lệch hàng sông:

Tiễn con ra khỏi rặng sầu đông

Ngoảnh lại, bà con đã xuống đồng

Sợ đứng nhìn theo con trễ bước

Cúi đầu mẹ cắm chệch hàng sông.

(Đưa con trong mùa cấy)

Đó là tâm sự ngổn ngang của tác giả khi về quê cũ, tìm lại những kỉ niệm mang

bóng dáng người mẹ thân yêu. Sự mất mát lớn lao trong cuộc đời đó chính là sớm mất

đi vòng tay nâng niu yêu thương của mẹ, cho nên những gì có liên quan đến mẹ đều trở

thành những kỉ niệm thiêng liêng cho dù đó là một gốc me cụt ngày xưa mẹ thường

ngồi tựa đó để ngóng con mà giờ đây năm tháng phôi pha mưa đã xói mòn.

Từ bữa ra đi chị ẵm bồng

Nay về trẻ xóm gọi bằng ông

Bạn xưa còn có cây me cụt

Mưa xói mòn nơi mẹ tựa trông.

(Cây me mẹ tựa)

Với Yến Lan có thể nói, có một nỗi ám ảnh nằm trong vô thức đó chính là tình

cảm với người mẹ thân yêu. Ta dễ bắt gặp trong thơ ông hình ảnh bến đò, dòng sông

gắn liền với mẹ:

Tiếng chim vít vịt vẳng kêu chiều

Cỏ ngập sông bồi, xóm quạnh hiu

Khói tỏa quanh năm mùi cúng giỗ

Thuyền ai về đậu khúc sông eo

(Bên sông quê ngoại)

Tiếng chim vít vịt ấy, nó là một mẫu hình chung của ca dao dân tộc, trong cuộc

đời hẳn rằng ai chẳng có một lần biết qua câu hát ru:

Chiều chiều chim vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau

(Ca dao)

Thế nên, một buổi chiều bên sông vắng, vẳng nghe tiếng vít vịt kêu, nỗi khát khao

mẹ khiến tác giả như nhìn thấy thuyền ai đậu bên bến sông eo đó, chắc mẹ sẽ về, sẽ ôm

con vào lòng. Tình yêu ấy, nỗi ước mong ấy ta có thể cảm nhận được, nó cũng khiến

tác giả đau lòng như người phụ nữ xưa kia xuất giá rồi bao giờ mới được về bên mẹ khi

mà cách trở đò giang ngày ấy chỉ là một lí do nhỏ ?

Không chỉ bến sông, con đò mà mảnh đất quê hương cũng mang hình ảnh của

người mẹ thân yêu, vì thế nên hai mươi năm xa cách ông luôn đau đáu nhớ về. Có 19

bài thơ tứ tuyệt viết về quê hương thì hết 9 bài Yến Lan đều nhắc tới mẹ và về mẹ. Ta

dễ hiểu tại sao ngày thống nhất không như những bạn bè khác, tìm một chốn mới nơi

thị thành để sinh sống, ông trở lại với quê hương với những kỉ niệm gắn bó, với những

gì gợi lại dáng hình mẹ thân yêu, để được gần gũi mẹ, cho dù đó chỉ còn là một phần

mộ đơn sơ hay qua dáng hình người chị:

Mười tám năm xa phần mộ mẹ

Chị gần sức yếu khó tìm thăm

Cậy đành bụi duối lâu không phát

Góp hộ nhành gai phủ bóng râm.

(Thanh minh)

Đó là cái nợ ân tình của hiện thực cuộc sống khốn khó của những ngày trở lại quê

hương; là sự tự trào mình không bắt nhịp kịp với cuộc sống, hay chính xác hơn cái hiền

lành quá đỗi khiến ông chậm rãi đến mức như lạc lõng giữa nhịp đời hối hả:

Nhà không vườn, không gác, không sân

Tôi nợ đời rau trái tôi ăn

Nợ hàng xóm trưa hè bóng mát

Nợ em cài bên cửa một vầng trăng.

(Nợ)

Vụng sắm cành đào không kịp tết

Ra giêng chợt hé một vài bông

Xuân người lả tả bay đi hết

Ngoảnh lại xuân ta mới chớm hồng

(Xuân muộn)

Là những tâm sự ngổn ngang của tuổi già khi tin bạn bè dần thưa thớt, không thể

đi thăm viếng được nhau vì sự cách trở cả về không gian địa lí lẫn điều kiện sức khỏe.

Để rồi khi tin bạn qua đời nỗi đau đớn như vò xé tâm can, chỉ biết lặng thầm tiễn bạn

bằng những giọt lệ hiếm hoi của tuổi già:

Lệ gói vào khăn thế tưới mồ

Nhường phần hương khói quyện tàn tro

Nghĩ thương hờn tủi nghìn trang trắng

Còn đợi tay thần gởi ý thơ.

(Tàn tro – nhớ Chế Lan Viên )

Thời kì về sống lại ở quê nhà Bình Định sau bao nhiêu dâu bể của đời người có lẽ

là thời kì đắc ý nhất của Yến Lan. “Thơ ông ngắn đi về câu chữ mà rộng ra về chủ đề.

Việc của đời nhòa đi để vang vọng của lòng được rõ lên”. [78, tr.6] Thơ chất chứa

những chiêm nghiệm sống giữa đời và có cả những khám phá thâm trầm từ sách vở.

Suốt một đời vất vả, đây là đoạn thanh nhẹ và đạt đạo của hồn ông, của thơ ông. Sự

gắn bó với quê hương như là sự trở về cuối cùng, đạt cái đích cuối cùng của cuộc đời.

Hơn hai mươi năm, trải qua bao cay đắng, ngọt bùi, đi khắp chân trời góc bể để rồi

Nhìn nhau cho tạng mặt mày

Hành trình còn một quãng này nữa thôi

Sơn Thanh Thủy Tú qua rồi

Chỉ còn suối trũng đá lồi đợi ta

Chần chừ bước nhọc khó xa

Ngày thời ngắn ngủi cái già hẩm hiu…

(Chút lòng gửi lại – di cảo)

Cứ bình lặng như thế bằng trái tim rung cảm của người nghệ sĩ trước cuộc đời,

cho đến khoảng mươi ngày trước khi về hội ngộ với “ Bàn thành tứ hữu” Yến Lan mới

thực sự dừng bút, ông còn để lại cho đời hàng trăm bài thơ tứ tuyệt. Những bài thơ rất

đỗi mộc mạc về những cảnh đời đang tiếp diễn, trong ấy có rất nhiều tâm sự về cảnh

đời của chính mình, những tâm sự ngổn ngang chỉ biết gửi vào trang giấy trắng. Người

già thường hay suy nghĩ, hay tưởng tượng đến cái kết của đời mình, đặc biệt là khi sức

tàn hơi mỏi. Yến Lan cũng vậy những ngày thàng cuối đời ông cũng thường hay tưởng

tượng ra một ngày kết thúc, một sự đón đợi của “ngày mai” và ông “đã thấy”, cái thấy

ấy được ông ghi nhận vào bài thơ cuối cùng:

Năm châu chín quận qua rồi

Còn xứ tâm hồn của bạn thôi

Một buổi chiêm bao ta đã thấy

Đau thương phiền muộn khác chi ngoài.

(Không khác)

Trước cách mạng trong khi các nhà Thơ Mới ngày ấy say sưa, hăm hở đến với

muôn mặt của tình yêu, một thứ tình yêu đang đòi hỏi tự do, trọn vẹn sau những năm

dài bị cấm đoán, bị đè nén, còn nếu không phải là tình yêu thì là tâm trạng chán

chường, tuyệt vọng, bế tắc trước cuộc sống thì Yến Lan với những vần thơ trầm lặng

về cuộc đời của chính mình của cuộc sống quanh mình, tình yêu có nói đến chăng cũng

chỉ thoảng qua rất nhẹ bởi mặc cảm sang hèn. Chính cái bình lặng trước cuộc đời ấy

mà khi cách mạng đến ông tiếp rất nhanh, không bị rơi vào cảnh “đi xa, về muộn” mà

rất hăng say, có thể nói ông là một trong những người hăng say nhất của văn nghệ sĩ

Bình Định ngày đó. Trong hai cuộc kháng chiến trong khi những cây bút khác say sưa

với các sự kiện thời sự nóng bỏng thì Yến Lan cũng lại lặng lẽ đến với những hình ảnh

của cuộc sống đời thường để ghi nhận những đổi thay. Trở lại sau những năm tháng tập

kết tác giả lại ghi nhận những gì bé nhỏ của cuộc sống quanh mình của chính bản thân

mình chứ không phải là sự thay da đổi thịt của đất nước qua những công trình. Chính

cách chọn góc nhìn lặng lẽ ấy khiến Yến Lan dường như khuất lấp so với những bè bạn

đương thời. Chỉ đến khi có một độ lùi thời gian nhất định thì những gì ông đóng góp

cho Thơ mới nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung mới được nhìn nhận một

cách nghiêm túc và trân trọng. Tất nhiên, nói như vậy không có nghĩa là thơ Yến Lan

toàn diện, toàn mĩ mà nó cũng có những hạn chế nhất định cả do nguyên nhân chủ

quan lẫn khách quan. Tuy nhiên nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tiềm: “Mong có

được đôi câu thơ tài hoa neo đậu được ở bến bờ tâm cảm người đời đâu phải nhà thơ

nào cũng có duyên cơ đạt được”[98, tr.10] mà với thơ Yến Lan thì chắc chắn rằng

không chỉ có một đôi câu cho dù người đọc có khó tính đến mấy.

Một đời thơ trải dài suốt mấy mươi năm, Yến Lan vừa là nhân chứng, vừa là một

trong những nhân vật tham gia tích cực vào hầu hết những biến động của lịch sử - văn

học hiện đại của dân tộc. Cái mà người đọc dễ nhận ra mà cũng dễ bỏ sót Yến Lan giữa

muôn vàn gương mặt những văn nghệ sĩ ngày ấy chính là chất bình dị, lặng thầm, bình

dị, lặng thầm đến đơn điệu. Tuy nhiên, khi thực sự đến với Yến Lan chúng ta lại thấy

rằng bên cạnh sự bình dị lặng thầm ấy là sự chân thành đến sâu sắc mà ông kí thác qua

từng câu từng chữ. Để khi trang thơ khép lại rồi mà ta vẫn thấy lòng mình vương vấn

rưng rưng.

Chương 2. HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ YẾN LAN

2.1. Hình tượng nghệ thuật là gì?

Hình tượng nghệ thuật là một thuật ngữ cho đến nay có nhiều ý kiên, quan điểm

khác nhau. Theo đó chúng tôi khảo sát để rút ra những ý kiến chung nhất, nhằm đi sâu,

khám phá được thế giới hình tượng nghệ thuật trong thơ Yến Lan.

Trước hết Từ điển Tiếng Việt, đã định nghĩa: “Hình tượng là sự phản ánh hiện

thực một cách khái quát bằng nghệ thuật dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh

động, điển hình, nhận thức trực tiếp bằng cảm tính”.[111, tr.427]

Còn theo Từ điển văn học tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng: “Hình tượng nghệ

thuật là phương thức chiếm lĩnh và tái tạo hiện thực riêng biệt, vốn có và chỉ có ở nghệ

thuật . Bất cứ hiện tượng nào được xây dựng lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ

thuật đều là hình tượng nghệ thuật”. Ở một đoạn khác tác giả lại nói: “Hình tượng nghệ

thuật là kết quả hoạt động tưởng tượng, nhằm tạo ra một thế giới ứng với những nhu

cầu và định hướng về tinh thần của con người, ứng với hoạt động có chủ đích, với lý

tưởng của con người” [32, tr. 594].

Trong cuốn Lí luận văn học tác giả Phương Lựu cho rằng : Hình tượng nghệ

thuật vừa là sự phản ánh, nhận thức đời sống, lại vừa là một hiện tượng kí hiệu giao

tiếp [64, tr.143]

Còn sách Lý luận và phê bình văn học, tác giả Trần Đình Sử kết luận :Hình

tượng nghệ thuật là tồn tại bản thể của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Hình

tượng nghệ thuật là tiêu điểm sáng tạo của nhà văn, làm cho văn bản ngôn từ trở thành

văn bản nghệ thuật . Hình tượng nghệ thuật luôn luôn sống động và đa dạng. [85, tr.63]

Cuối cùng trong Từ điển thuật ngữ văn học : các tác giả đều nhất trí: Hình tượng

nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện, tái tạo hiện thực theo quy

luật của tưởng tượng, hư cấu nghệ thuật [30, tr.146].

Như vậy ta có thể hiểu một cách khái quát về hình tượng nghệ thuật như sau:

Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và cải tạo

hiện thực theo qui luật của nghệ thuật. Đó là bức tranh cuộc sống vừa cụ thể, cảm tính,

vừa khái quát và có ý nghĩa thẩm mĩ. Tính cụ thể, cảm tính, trực quan của hiện tượng

làm cho người đọc dường như tiếp xúc với chính cuộc đời thực trong màu sắc, âm

thanh, thần thái vốn có của nó. Nói như vậy không có nghĩa là hình tượng là sự sao

chép cuộc sống một cách giản đơn máy móc. Hình thức cụ thể của hình tượng là sản

phẩm hư cấu một cách sáng tạo những hiện tượng thực tế, qua đó tác giả trình bày bản

chất của sự vật, quy luật của cuộc sống. Chỉ ở cấp độ hình tượng nghệ thuật, tính “văn”

trong tác phẩm nghệ thuật mới bộc lộ rõ nhất vì nó không chỉ khu biệt một phương

thức phản ánh đặc thù của nghệ thuật mà còn là nơi hội tụ tài năng, tâm hồn và phong

cách của người nghệ sĩ.

Khám phá hình tượng nghệ thuật thơ Yến Lan, chúng tôi xin đi vào một vài khía

cạnh, mà ở đó thể hiện được hầu như đầy đủ về đặc điểm thơ Yến Lan, trải dài suốt gần

một thế kỷ. Đó là hình tượng thiên nhiên, hình tượng đất nước và hình tượng con

người.

2.2. Hình tượng thiên nhiên

2.2.1. Ngoài những hình ảnh lãng mạn về thiên nhiên như những nhà thơ mới

khác - phát hiện về thiên nhiên hoàn toàn mới khi cởi bỏ được cái áo ước lệ của thơ cũ

thì hầu như nước sông Côn, những bến đò và trăng đặc biệt là trăng rất riêng của Bình

Định là những hình tượng tràn ngập trong thơ Yến Lan từ những ngày đầu đến với

nàng thơ với một không khí u hoài, bàng bạc.

Con sông Côn của quê hương Bình Định ấy, nó ghi dấu ấn với Yến Lan từ thuở

lọt lòng

Quê ngoại bên kia bãi cát vàng

Mẹ tôi về, lỡ chuyến đò ngang

Cơn đau trở dạ, không giường chiếu

Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng.

(Bệnh trăng)

Để rồi từ đó sông Côn, bến sông quê hương đã gắn bó với tuổi thơ và nuôi dưỡng

hồn thơ của thi sĩ. Hình ảnh con đò, bến sông cứ trở đi trở lại mãi trong thơ Yến Lan

như một phương tiện nghệ thuật, tạo nên một không gian thơ đặc biệt ngập tràn sông

nước. 18/ 43 bài thơ trong giai đoạn này của Yến Lan mang hình ảnh bến sông, con đò

(thuyền), hẳn không phải là một sự tình cờ ngẫu nhiên.

Người mẹ sinh ra thi sĩ, thi sĩ tự đặt tên cho bến sông mình chào đời, để rồi bến

sông ấy trở thành một huyền thoại, tồn tại đấy, ai cũng biết mà tìm không thấy: Bến

My Lăng.

Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,

Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.

Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách,

Ông lái buồn để gió lén mơn râu.

(Bến My Lăng )

Những ai đã từng đọc, từng biết đến thơ Yến Lan họ đều lần tìm cái bến ấy,

nhưng Bến My Lăng ở đâu? " ở trong lòng tôi và cũng trong lòng bạn" (Yến Lan), tự

nhiên, gần gũi mà sao cũng thấy xa lạ và đẹp, đẹp đến nao lòng. Một bến sông trăng kì

lạ, một ông lái đò say trăng đến kì lạ, một chàng kị mã hối hả giữa ánh trăng vàng như

dát ngọc…tất cả như hư ảo mà như thật về một cuộc kiếm tìm, chờ đợi hạnh phúc

trong cuộc đời. Ai đã từng chờ đợi ….sẽ thấy Bến My Lăng .

Bến sông cũng là hình ảnh về quê hương mỗi độ phải đi xa

Mưa đưa thương nhớ về làng.

Mưa làm xa những dặm đàng, bến sông.

(Nhớ làng)

Bến sông không chỉ là của riêng Yến Lan nữa, mà đâu đó người đọc như còn thấy

trong thơ ông nó trở thành bến lòng của con người, một khát khao hạnh phúc, một sự

đợi chờ đến cháy bỏng:

Em mơ tiếng khách bên sông gọi

Một khách qua ngang lỡ chuyến đò

Trong lúc lòng em khô héo đợi

Âm thầm nao chảy nước nguồn thơ.

(Bến lòng)

Và đây nữa, một làng quê Việt Nam giản dị được đẩy vào trang thơ ông với một

cái nhìn mới, một góc độ mới: cũng một chiều se lạnh bên sông, một bờ tre xào xạc,

một buổi vãn chợ nhưng tất cả như đều có cảm xúc rất người, hay nói chính xác hơn nó

hòa quyện cùng cảm xúc với con người trước một không gian bàng bạc:

Chiều nghe chuông chở rét qua sông

Chiều mộng lời vui ở cánh đồng

Tre nhại thi nhân trong xóm lạnh

Chợ tàn tiễn khách với lều không

(Chiều)

Không chỉ có sông nước, bến và thuyền mà đọc thơ Yến Lan người ta như còn

ngụp lặn giữa một trời trăng lung linh huyền ảo. Trăng vốn là tri kỷ của thi nhân từ

muôn đời nay. Có quá không khi nói rằng mỗi thi sĩ đều có riêng cho mình một nàng

trăng. Ít hay nhiều trong đời họ đều có những vần thơ về trăng với trăng và cho trăng.

Hoài Thanh trong phần nhận xét về thơ Yến Lan đã từng viết rằng: “và nhất là cái

vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định” [90, tr.171]. Trăng Bình Định

có gì lạ chăng? Giữa cái mênh mông diệu vợi của trời đất, những bóng tháp cổ chập

chùng cô tịch " vào những đêm trăng sáng thì tuyệt đẹp, nhưng huyền ảo đến rợn

người như đi vào một thế giới xa lạ (…) Trăng bao phủ tứ phía bằng một ánh sáng

lung linh chờn chợn khó phân biệt từ trên trăng tỏa xuống hay từ cát trắng chiếu lên.

Tơ trăng dày đặc, mỗi cử động hay di chuyển đều như lùa cả trăng theo" [89, tr.56]

Chính cái nét hoang dại đó tạo nên sức hút đến ám ảnh các nhà thơ Bình Định. Thế nên

trăng ở đây người ta có thể mang rao bán, trăng có thể khóc, cười, ngẩn ngơ thậm chí

ngả ngửa trần truồng…tất cả mọi cung bậc từ bình thường đến bất thường như của con

người. Với Yến Lan có lẽ cũng không ngoại lệ. Trăng trong thơ ông không nhiều như

thơ Hàn Mặc Tử, không cô đơn như trăng trong thơ Xuân Diệu, không ma quái như

Chế Lan Viên, không say đắm điên cuồng như trong thơ Hàn Mặc Tử mà trăng trong

thơ ông rất riêng nó góp phần làm phong phú thêm cho sắc thái trăng Bình Định- một

sức hút đến ám ảnh các nhà thơ, một vầng trăng không có tuổi cứ lung linh dịu dàng

tỏa khắp không gian. Trăng với ông là máu là thịt, là nguồn mạch yêu thương. Yến Lan

đưa người đọc đến với trăng của mình một cách yêu thương trân trọng : đó là cái nôi

êm ái lúc chào đời

Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng.

(Bệnh trăng)

Là người bầu bạn, là nguồn mạch yêu thương trong những tháng ngày thơ ấu:

Từ thuở lên hai, trăng đã yêu

Đã bồng, đã ấp, đã nâng niu

Ban ngày tôi ngủ trong lòng mẹ

Lại ngủ trong trăng lúc tắt chiều

(Bệnh trăng)

Tuổi yêu đương hoa mộng của mình trăng cũng là một nhân chứng không hề

vắng mặt tựa như trong một truyện thơ của thời xa xưa mà ta đã từng đọc ở đâu đó

Thuyền chàng còn khuất nương dâu

Thuyền nàng còn ghé bên cần nước reo.

Hai thuyền một yếu tay chèo

Thuyền nhiều trăng quá sao đèo hết trăng?

(Khuya)

Trăng là máu là thịt của thi nhân, thế nên có những khi dường như không thể nói

hết được lòng yêu trăng của mình mà thi sĩ đã nhận rằng mình mắc một căn bệnh mà

có lẽ đến bây giờ trong y bạ của thế giới cũng chưa hề từng ghi nhận tên một căn bệnh

nào như thế, bởi nó là của riêng thi sĩ Yến Lan : bệnh trăng - một căn bệnh của lòng si

mê, ngưỡng mộ mà không một loại biệt dược nào có thể chữa trị được hay nói cho

chính xác cũng không có ai can đảm nghiên cứu để tìm cách chữa trị.

Tôi đã thành người mắc bệnh trăng….

Bởi điệu tâm hồn, nhịp ái ân

Đêm đêm chờ đến để mong dâng

Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá

Như má yêu môi đến đến gần

(Bệnh trăng).

Căn bệnh ấy nó khắc vào tâm hồn vào từng hơi thở chàng để rồi buổi đầu đến với

nàng thơ, nó đã đường hoàng tìm được cho chàng một chỗ đứng vững chắc trên thi

đàn, trong lòng bạn đọc bằng một bến sông mà nơi ấy ánh trăng như được dát bằng

ngọc lưu ly, bến sông ấy có một ông lái đò say trăng đến độ để thuyền hồn bơi khỏi

bến sông trăng "vượt cả bến trăng cao", một chàng kỵ mã với áo giáp như dát bằng

trăng, bằng ngọc lưu ly, chàng hối hả gọi đò vì "sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi",

bến sông ấy - Bến My Lăng huyền thoại. Người đọc bước vào Bến My Lăng như ngộp

đi bởi ánh trăng, chỉ có thể thả hồn mình theo từng giọt vàng óng ánh mà chịu không

thể nào cầm nắm được mà nói như Hoài Thanh "Chỉ thấy mờ mờ những con đường

chảy, êm như những dòng sông,và nhất là cái vừng trăng vẫn thường ám ảnh các nhà

thơ Bình Định". [90, tr.171]

Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh

Tìm mặt trời nhưng chỉ giải trăng … trăng.

Từng áo chiều bọc vàng đua lảng tránh,

Để trăng buồn bao phủ Bến My Lăng.

(Bến My Lăng )

2.2.2. Thiên nhiên là tất cả những gì tươi đẹp, thân thuộc với cuộc sống, là hình

ảnh tươi rói về núi đồi, dòng sông….

Cũng hình ảnh làng quê, nhưng đã đi đâu mất cái vắng vẻ, đìu hiu, mất sức sống

của những ngày xưa, nó không phải là hình ảnh tuy “ nắng mới” nhưng lại “võ vàng”

hiu hắt; nó cũng không phải là những hàng cây lẽ ra là phải tỏa bóng mát thế nhưng lại

hóa ra là những cành, cọng lòng khòng, khẳng khiu khiến người ta có cảm giác nếu đi

giữa trời trưa nắng mà nhìn thấy những cành cây ấy thì cái nắng nóng chẳng những

không giảm đi mà lại ngột ngạt hơn:

Quê tôi nắng mới võ vàng

Dừa cao lểnh khểnh, cành xoan ngòng ngoèo

(Đi trong nắng mới)

Bây giờ đây là sức sống căng tràn, là sự no đủ. Trong cái nắng vàng lộng gió lời

ai đó hát véo von, dọc những hàng xoan đang tỏa bóng là hoa lạc nở trắng hứa hẹn một

mùa bội thu; còn đây nữa gió đưa tiếng hát vẳng lại khiến bê con dường như cũng hớn

hở, phấn khích, lồng lên như nhảy múa, ngọn gió lộng đi như đang thụ phấn cho những

vườn ngô đang tung cờ trắng xóa. Ngoài bãi này những quả dưa nằm lăn say giấc,

trong xóm kia vang tiếng gà cục tác. Trên vòm cao đàn ong đang say sưa hút mật nhãn,

hết những ngày sãi cánh tìm hoa, dưới bóng mát cánh võng đưa lời ru nhè nhẹ. Cuộc

sống đã đổi thay ở mọi khuôn hình góc độ. Người ta cảm nhận được ở tất cả các giác

quan cuộc sống đang ngồn ngộn căng tràn:

Câu ca dao: “Múc đổ trăng vàng…”

Em lại hát giữa ngày nắng lộng

Hoa lạc nở dọc hàng xoan tỏa bóng

Con bê lồng, gió động phấn ngô bay

Dưa gối đầu ngang bãi ngủ say

Gà nhảy ổ - cả xóm thôn cục tác

Thôi mỏi cánh những đàn ong tìm mật

Lời võng ru chao bóng nhãn quanh vườn.

(Chân đất… tay người)

Đâu đây cũng có cái vắng vẻ, nhưng cái vắng bây giờ khác hẳn cái vắng vẻ xưa

kia. Nếu ngày xưa “ con đàng thì ngút cheo leo, mình đi chỉ bóng cùng theo với mình”

cái cảm giác cô độc giữa cuộc đời nó đeo bám khiến ta mãi mãi không dứt ra được thì

giờ đây:

Bên kia theo cá thôn chài vắng

Bò dỡn non tơ cỏ phía này

(Ven Đà)

Theo con nước, theo luồng cá thôn chài bên kia vắng lặng, nhưng chắc chắn rằng

sau cái vắng lặng ấy ta dễ hình dung ra cái xôn xao, rôm rả của xóm chài khi thuyền

về, cá nặng trĩu vai. Cũng thế, thôn bên này bây giờ cũng im ắng bởi họ theo đàn bò

đang thích thú ra bãi chăn với những đám cỏ non tơ trải rộng.

Một buổi trưa

Thôn nhỏ đồi trưa cản gió đồi

Không gian lãng đảng một mùi thơm

Cau chưa nứt bẹ, cam chờ bói

Đàn sẻ đâu về sục đống rơm.

(Trưa đồi)

Cái im ắng, tĩnh lặng của sự sống đang đơm hoa kết trái, nét thanh bình của cuộc

đời sống trong tự do đang hân hoan nhảy múa trong tâm hồn tác giả, sự cảm nhận đến

tận cùng nét đẹp của cuộc sống đang diễn ra trước mắt khiến ta dễ dàng nhận thấy rằng

chúng ta sẵn sàng đánh đổi không tiếc máu xương để giữ lấy sự yên bình này cho đất

nước.

Không chỉ bó hẹp trong những thôn, làng, xóm, bãi. Thiên nhiên trong thơ Yến

Lan mở rộng ra mọi vùng đất nước trải dài theo bước chân của người thi sĩ – công dân

đến với đèo cao, suối sâu. Đến với cuộc sống của các dân tộc anh em vùng cao, cảm

nhận sự đổi thay từng giờ từng phút, đến từng ngóc ngách sâu xa. Núi non tươi sắc,

suối rừng róc rách hòa cùng tiếng khèn ai vắt vẻo vượt qua đồi qua núi đến với người

thương, đến với bản với nương, đến với người quen, người lạ, níu từng bước chân đang

bỡ ngỡ:

Đỉnh nối đỉnh dập dồn

Sẫm dần theo nắng rớt

Cả dãy Hoàng Liên Sơn

Núi thay màu từng phút.

Gác nhà giao tế cao

Dõi chừng về các rẻo

Lòng suối rừng xôn xao

Tiếng khèn lên vắt vẻo

(Sắc màu phong thổ)

2.2.3 Những năm tháng bình yên khi tiếng súng đã im, khi quân thù sạch bóng,

Yến Lan trở lại với cuộc sống đời thường và thi nhân lại trải lòng mình ra cùng với

người bạn thiên nhiên tri kỷ.

Đó là khoảnh khắc trân trọng chờ hoa nở. Sự sung sướng trong tâm hồn khi đón

đợi đài hoa từ từ khoe sắc, cảm nhận cái thanh tân, tinh khiết của đóa hoa đang hòa

quyện vào cái ban mai trong lành của vũ trụ:

Chùm hoa chưa nở ý chờ ai

Ong bướm vờn quanh rủ rỉ hoài

Hương phấn còn phong đài nhụy kín

Màu trinh hòa lạnh cả ban mai

(Màu trinh)

Là sự gắn bó vẹn tròn với thiên nhiên, với cỏ cây hoa lá thế nên những khoảnh

sân, những góc tường tác giả đều dành sự ưu ái của mình cho những khóm hoa, những

thân cây cho dù chỉ là mong manh thời khắc hay mùa tiếp mùa trổ bông:

Ngấp nghé hiên tây mấy khóm hồng

Nhài đơn giậu bắc, lựu tường đông

Yêu hoa há để thềm nam trống

Đêm mộng mai vàng đến trổ bông

(Thềm nhà phía nam)

Là người bạn tri âm tri kỷ, là chỗ “tâm tình lúc khó khăn”. Với Yến Lan thiên

nhiên là chỗ giao tiếp thân tình, mà nói như Mang Viên Long là: “Yến Lan là một nhà

thơ đã đến với thiên nhiên bằng tấm lòng trân trọng, chí thành và hồn nhiên”

Thức suốt đêm thu bóng nguyệt tà

Bài thơ viết tặng nghĩ không ra

Dầu vơi bấc lụn, đèn hiu hắt

Gác bút ra vườn hỏi ý hoa

(Hỏi ý)

2.3. Hình tượng đất nước

Mỗi con người đều mang trong tim hình bóng đất nước của mình. Những tình

cảm ấy nó như vô thức ăn sâu trong máu thịt không ai có thể cài đặt hay dứt bỏ. Bình

thường người ta có thể không biết đến sự tồn tại của nó, nhưng khi hữu sự mới hay

rằng trong tim mình ăm ắp tình đất nước. Với các thi nhân, đất nước có khi trở thành

một niềm đam mê, một cảm xúc bất tận khiến họ có thể sáng tác thành những tập thơ

lớn lừng danh . Có khi nó chỉ ẩn hiện đâu đó bằng những đường nét phác họa về một

con đường, một cánh đồng, một dòng sông, hay một mái chùa rêu phong cổ kính nhưng

chất chứa tình cảm của thi nhân với đất nước. Tác giả Hà Minh Đức đã nói rằng: “ Mỗi

nhà Thơ mới dường như đều có một quê hương để ca ngợi trong thơ và nhiều người lại

có một làng quê cụ thể với nhiều gắn bó yêu thương.” [21, tr.95]. Yến Lan cũng vậy,

đất nước cũng là một phần không thiếu trong thơ ông. Tuy nhiên lịch sử dân tộc có

những biến cố lớn lao thì trong thơ ông hình tượng về đất nước cũng có sự biến chuyển

thú vị.

2.3.1. Từ những tình cảm về Bình Định - về quê hương xứ sở với một thứ tình

cảm vô thức của con người với nơi chôn nhau cắt rốn, hay mở rộng hơn chỉ là những

cảm xúc về quê hương của bạn bè, nơi mà tác giả có dịp viếng thăm.

2.3.1.1. Trước hết đó chính là những hình ảnh về một vùng quê Bình Định , như

bao vùng quê khác của Việt Nam giai đoạn trước cách mạng bởi cái không khí vắng vẻ

đìu hiu khiến người đi xa không thể quên: một con đường làng dài thăm thẳm, không

một bóng người qua, chỉ có mình với bóng mình song hành cùng nhau, khiến người ta

có cái cảm giác cheo leo trống trải và cô độc:

Con đàng thì ngút cheo leo

Mình đi chỉ bóng cùng theo với mình

(Đi trong nắng mới)

Một mái chùa ẩn hiện bên bờ sông, tiếng chuông ngân đan cài trong bờ lau, cát

trắng, một không gian thoáng rộng nhưng cũng rất cô tịch

Chùa bên vẳng lại tiếng chuông ngân

Ẩn hiện bờ lau cát trắng ngần

(Chơi xuân)

Thế nhưng cái để níu lòng người lại với Bình Định qua thơ Yến Lan không chỉ có vậy.

Mà một “Bình Định 1935” mới thật sự gây ấn tượng. Năm 1935, hai năm sau cuộc đại

khủng hoảng ở các nước tư bản, “tàn phá nền kinh tế ở các nước này, đẩy lùi sản xuất

về mức cuối thế kỷ XIX” [36, tr 49], nó tác động nặng nề đến nước Pháp – “ mẫu quốc”

của Việt Nam thời ấy. Pháp đã trút gánh nặng ấy xuống các nước thuộc địa trong đó có

Việt Nam. Hậu quả nặng nề là một nền kinh tế bị vơ vét đến kiệt quệ để bù đắp cho

những tổn thất của “mẫu quốc”. Toàn cõi Việt Nam “ nạn đói diễn ra trầm trọng, hàng

vạn người phải rời bỏ làng xã. Thợ thủ công phá sản, nhà buôn nhỏ đóng cửa” [36,

tr.50] và Bình Định là một trong những vùng như thế. Một Bình Định mà cơ sở công

nghiệp không có, việc mua bán bị đình trệ, nông dân không có gạo ăn, mọi sinh hoạt

đều nương cậy vào sự giao lưu, tiếp tế của các vùng khác. Thế mà bằng tài năng trác

tuyệt của mình Yến Lan đã biến những điều khô khan ấy thành những câu thơ tài hoa:

Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt.

Đàng chờ xe, sông nước ước mong thuyền.

(Bình Định 1935)

Đời sống kinh tế là sự nương cậy, chờ, mong, cầu ước như thế và vì vậy nên điều

tất yếu là đời sống tinh thần cũng trở nên khô kiệt đến nỗi:

Tịch dương liễu không biết mình đang biếc.

Tương tư trời tương tư, nhạc triền miên.

(Bình Định 1935)

Thế nên nhìn đi đâu cũng thấy không khí nặng nề bao phủ khắp thành Bình Định

với những hình ảnh nhà cửa, thành quách, phố xá ngơ ngẩn, keo kiết, u sầu, cô quạnh,

xa xăm…mà mỗi khi nhắc về Bình Định ngày ấy bạn thơ không thể quên được những

câu thơ

Nhà ngơ ngẩn, những tường vôi keo kiết.

Nam - quách sầu, Đông - phố quạnh. Tây - môn xa.

(Bình Định 1935)

2.3.1.2. Vượt ra khỏi Bình Định thì quê hương ngày ấy trong thơ Yến Lan cũng

chỉ là những vùng quê của bạn bè mà ông có dịp ghé thăm.

Đến Nha Trang với Quách Tấn, ngắm những cánh buồm cô đơn “muốn tìm về

chân đảo xa, nơi có nhịp sóng dịu êm, mong vợi đi nỗi “sầu của kiếp người” [6, tr.11]

mà ông đã gọi thành một cái tên khiến người nghe gật đầu thú vị:

Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ

Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi

(Xa xanh)

Đây Thanh Hóa với hòn Trống Mái, người ta có thể xuất thần những vần thơ mà

chạm khắc vào đá; “tả nắng chiều trải ra như cánh chim trên khắp các trang viên” [110,

tr.6] mà như những cánh chim câu khép lại sau một ngày bay lượn, về lại trang viên, về

lại tổ ấm của mình khiến tâm hồn người xa quê có một chút gì đó ấm áp, quên đi bản

thân mình

Trống xa Mái ngẩn ngơ thơ đá chạm

Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang.

(Xa xanh)

Nguyễn Bao đã thốt lên rằng “ đó có lẽ là những câu thơ hay nhất và sớm nhất về

hòn Trống Mái của Sầm Sơn quê tôi” [6, tr.10].

Những từ ngữ “chiều bồ câu”, “thơ đá chạm”, “ sầu tam giác” là những tìm tòi táo

bạo của Yến Lan, là những khóm từ giàu hình tượng mà khó ai có thể nghĩ rằng nó đã

ra đời từ hơn sáu mươi năm về trước. Chính từ những từ ngữ, “những câu thơ điêu

luyện, tài hoa, những câu thơ có thể xếp vào loại đặc sắc” ấy mà Nguyễn Bao đã

khẳng định rằng Yến Lan đã “ góp phần khẳng định sự thắng lợi của Thơ mới trong

buổi đầu” [6, tr.10].

Đến Hà Tiên với Đông Hồ - Mộng Tuyết, ông ngắm biển, trời Hà Tiên một màu

xanh thẳm nối liền nhau như một tấm gương, trên đỉnh Tô Châu vầng trăng chênh

chếch, soi chiếu vào những hang sâu ẩn hiện ông thốt lên rằng mê cung:

Hà Tiên thẳm, mặt gương liền nước thủy

Nhòa mê cung trăng chếch đỉnh Tô Châu

(Xa xanh)

Và còn nữa đó là những Phan Thiết, Sông Cầu, Lăng Cô, Đà Nẵng…những nơi

mà ông đã từng ghé chân qua, nhưng sự xa cách bởi “cơm, áo nợ riêng tây”, bởi những

khó khăn của cuộc sống mà dù một lần ghé thăm ông cũng không quên được, chỉ lưu

lại trong kí ức những hình ảnh thân thương.

Xa xanh quá, chẳng đèo cao núi thẳm

Phải chăng vì cơm, áo nợ riêng tây

Ơi Phan Thiết, Sông Cầu, Lăng Cô, Đà Nẵng

Đến một lần chi để mãi không khuây.

(Xa xanh)

2.3.2. Vượt qua khỏi những tháng ngày xưa cũ bế tắc, ngột ngạt. Yến Lan đến với

mọi miền của Tổ quốc và đất nước trong thơ ông đã thay đổi. Đó không còn là những

hình ảnh u ám, buồn bã của Bình Định, cũng không chỉ là những kí ức về những miền

quê của bạn bè mà đất nước là tất cả những biến cố thăng trầm, những đau thương mất

mát, hay là những chiến thắng oai hùng trên khắp bờ cõi Việt Nam với những tình cảm,

ý thức trách nhiệm của một công dân trước vận mệnh của dân tộc.

Bom phạt bừa Uy Nỗ

Bom đào càn Cổ Loa

Bom cày đường chợ Tó

Bom vặt sắt sân ga

………..

Bom chui và bom nhảy

Bom cháy, bom phát quang

Hơi ép, tre bùng cháy

Mảnh chém rụi vườn xoan

Với tiếng vợ khóc chồng

Tay già ôm xác trẻ

(Pháo đài bay vào thành ốc)

Đế quốc Mĩ điên cuồng đánh phá miền Bắc. Chúng quyết tâm biến Hà Nội trở lại

thời đồ đá. Chúng quyết tàn phá, ngăn chặn hậu phương lớn của chiến trường miền

Nam, thế nên chỉ trong mười hai ngày đêm cuối tháng 12 – 1972 chúng đã thả xuống

Hà Nội và các thành phố lân cận “một khối lượng bom có sức công phá bằng năm quả

bom nguyên tử Mỹ đã ném xuống Nhật Bản hồi tháng 8 – 1945” [36,tr.286] Đau

thương tang tóc diễn ra khắp mọi vùng của Tổ quốc. Mẹ khóc con, vợ khóc chồng. Nhà

tan cửa nát.

Thế nhưng, đau thương càng chồng chất thì ý chí căm hận càng biến thành sức

mạnh chiến đấu. Nhà mất thì ở ngoài đồng, giường gãy kê tạm vào bờ, bát lành không

còn thì dùng bát mẻ, con người vẫn tồn tại, vẫn vững vàng ý chí:

Giường gãy kê bờ đồng

Cơm đơm vào bát mẻ

……

Mẹ nằm cùng với con

Chết như ngày còn sống

Xin nhường bớt ván hòm

Cho cửa lều đang dựng

(Pháo đài bay vào thành ốc)

Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”, Chế Lan Viên làm xúc động lòng người khi

dựng lại hình ảnh của “người anh du kích” bằng những câu:

Con nhớ anh con người anh du kích

Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn

Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách

Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên )

Biết rằng ra đi là chấp nhận hi sinh, thế nên cái gì tốt nhường lại cho người còn

sống. Anh du kích đã nhường lại cho đồng đội của mình tấm áo, cho dù tấm áo ấy đã

vá víu nhiều nhưng chắc chắn rằng vẫn hữu ích trong lúc khó khăn chung của đất nước

trong cuộc chiến chống quân xâm lược. Cũng vậy, người lính Tây Tiến của Quang

Dũng hi sinh, anh “về” với “đất” bằng chính tấm áo xung trận hàng ngày, tấm áo ấy -

nói như Chính Hữu là “áo anh rách vai”, nhưng Quang Dũng đã sang trọng hóa bằng

cách khoác lên các anh bằng chiếc “ áo bào”, tấm chiến bào của vua chúa ngày xưa

xung trận – tấm áo thay cho manh chiếu, bởi chiếc chiếu dành lại cho đồng đội đang

còn tiếp tục sương gió xông pha nơi chiến trận: “ Áo bào thay chiếu, anh về đất” . Ở

đây, Yến Lan cũng đã đẩy những đau thương lên thành niềm tự hào không nguôi của

dân tộc. Mẹ và con đều đã chết bởi bom đạn của kẻ thù. Vậy hãy để mẹ con chúng tôi

nằm chung với nhau như ngày còn sống, ván còn lại này hãy để dành cho những túp

lều còn đang dựng dang dở. Có dân tộc nào mà nghĩa cử cao thượng như dân tộc ta

không ? Có đất nước nào để ta tự hào hơn chăng ? Thế nên những đau thương biến

thành khẩu hiệu hành động, đất nước từng ngày biến mất mát thành những chiến công:

Tháng bảy này không có cuộc giao ca

Một tiếng còi tầm chung cho cả nước

Đồng năm tấn đã dàn hàng rập bước

Chiếc thứ ba nghìn lộn cổ xuống khu Tư

(Tháng bảy này)

Cuộc sống chiến đấu từng thể hiện trong bài thơ “ Đất nước” của Nguyễn Đình

Thi: “Khói nhà máy cuộn trong sương núi, Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng”. Thì ở

đây công nhân, nông dân, chiến sĩ cũng đang thi đua trên từng “trận địa” để góp vào

chiến công chung cho Tổ Quốc. Từ quê hương Năm tấn của đồng bằng Bắc Bộ, đến

khu bốn, khu năm của miền Trung, và tận Sài Gòn nơi nào cũng tới tấp những tin chiến

thắng. Ở nơi này công nhân hối hả vào ca, ở ngoài kia nông dân đã sẵn sàng vào vụ,

mặc bom đạn kẻ thù, họ vẫn tay súng tay liềm, tay búa tay đạn vừa sản xuất vừa chiến

đấu để hưởng trọn niềm vui khi tin chiếc máy bay thứ ba nghìn của kẻ địch đã lộn cổ

xuống khu Bốn. Đây Khe Sanh đã thành mồ chôn giặc Mĩ, kia Sài Gòn đang từng bước

bầu lại chính quyền cho vùng giải phóng, đất nước đang tròn vẹn từng ngày:

Tin bay về từng phút, những chiến công

Cứ điểm Khe Sanh thành mồ giặc Mỹ

Ta đang sống những ngày bằng thế kỷ

Rạng khắp chân trời, tháng bảy Việt Nam .

………………..

Tháng bảy hành quân sâu khắp trong kia

Bà má Sài Gòn gặp con giải phóng

Tràng pháo tết nối liền theo tiếng súng

Vùng đất tự do bầu lại chính quyền

(Tháng bảy này)

Huế ơi, cách mạng đã về đây, những đau thương mất mát sẽ không còn nữa. Huế

không phải thâm trầm chịu đựng sự dày xéo của kẻ thù lên dấu tích cha ông nữa khi mà

thành cổ kia thành trụ súng chiến đấu, từng đồn địch bị xóa sổ khi cách mạng chấp

cánh để “Huế bay lên”

Gọi vỗ tay reo ngực nở tràn

Huế êm đềm, Huế tết Mậu Thân

Bỗng lên thành cổ kê nòng súng

Hăm tám ngày đêm nổ pháo xuân

……………..

Tôi gọi vang lừng mấy tối nay

Huế vùng lên, mọc cánh Huế bay

Lấp quân thù giữa bùn Mang Cá

Đạp quân thù lăn xuống Đèo Mây

(Gọi về Huế)

Trên hết là những đổi thay trên quê hương Bình Định. Không còn nữa những

tháng ngày buồn hiu hắt của cuộc sống tẻ nhạt trước cách mạng. Bình Định của những

ngày tháng gian khổ trong kháng chiến. Ruột quặn đau vì sự độc ác của kẻ thù, sự dã

man của cuộc chiến đã thúc đẩy Bình Định hành động để giành lấy chiến thắng, giành

lấy sự sống cho dù cái giá phải trả không phải là ít:

Ruột quặn đau vì thuốc độc Vĩnh Quang

Máu rỉ trán vì sân bay Gò Quánh

…………………….

Trời Bình Định hồng lên sắc trẻ

Xác quân thù, sắt vụn đã vùi chôn

Gian khổ nào chỉ riêng chúng con

Chiến thắng nào không có phần của mẹ.

(Chiến thắng này không riêng chúng con)

Biến cố thăng trầm của đất nước được Yến Lan ghi nhận bằng sự rung cảm của

trái tim người nghệ sĩ. Đuy Belay đã từng nói rằng: “ Thơ là người thư kí trung thành

của những trái tim” thì ở đây, với Yến Lan trong bài phát biểu của mình khi tham gia

hội thảo thơ miền Trung [47] ông đã tâm sự với các nhà thơ rằng “ Thơ là người thư kí

trung thành của trái tim rung cảm trước thời đại”, thế nên trái tim nghệ sĩ của ông đã

rung cảm mãnh liệt theo những dòng sự kiện của đất nước, để quê hương đất nước

trong thơ ông khoác lên mình tấm áo mới theo từng thời khắc đổi thay.

2.3.3. Cuộc sống yên bình sau những năm tháng chiến tranh, đất nước trong thơ

ông lại trở về với xứ sở, với Bình Định nhỏ bé thân yêu, đó là “sự trở về với ngọn

nguồn, ở đấy có thể tiếp sức cho ta về tinh thần và cũng ở đấy có thể chia xẻ với biết

bao vui buồn cùng làng quê” [21,tr.95] mà nói như tác giả Lê Văn Phú khi nhận xét về

thơ Yến Lan thì đó là “khắc khoải với quê hương, yêu quê hương đến đỗi, đến nỗi cuối

đời lại trở về với quê cũ”. [75, tr. 358].

Đó là quê mẹ sau hơn hai mươi năm cách biệt. Chiến tranh đã mang đi gần như tất

cả những gì thân thiết. Chồi lim, gốc mít lẫn cùng mái tranh, tất cả đều bị thiêu đốt bởi

lửa đạn kẻ thù, chỉ còn đây là những đám tàn tro. Người con xa quê ấy lần bước đi giữa

cảnh đổ vỡ, thế mà còn như cảm nhận được phảng phất đâu đây làn hương thời trẻ,

thực tại chăng, hay là ký ức đang trỗi dậy thổn thức?

Khó trụ vườn xưa để đợi mình

Chồi lim, gốc mít lẫn gio tranh

Chỉ riêng phảng phất hương thời trẻ

Theo bước đè lên đám miểng sành

(Về quê mẹ sau giải phóng)

Đó là Bến My Lăng ngày cũ. Tiếng gọi đò thảng thốt ngày xưa tưởng như đang

còn ngân vọng, tiếng gọi của sự khắc khoải lo lắng, oán trách. Cũng may tiếng mái

chèo khua nước đã đánh thức thực tại rằng mình không phải đang cô độc giữa đêm

trăng:

Thăm quê về lại bến trăng xưa

Còn tưởng đêm nay đứng gọi đò

Chưa kịp nhớ ra lòng có hẹn

Chèo ai cặp bến đã khua vang

(Nhớ bến My Lăng )

Và đây, hương vị quê hương nồng đượm, tình quê hương cháy bỏng khiến trọn

đời tác giả không muốn rời xa. Than Cù Lâm ấy, cá sông Côn này sự hòa quyện trong

món ăn dân dã khiến mùi thơm dậy bến Trường Thi, thế nhưng đó không phải là tất cả.

Cái thôi thúc trong lòng tác giả chính là hình bóng người mẹ thân yêu. Người mẹ tảo

tần hôm sớm, người mẹ suốt một đời dành tất cả cho con, người mẹ ra đi khi tác giả

còn thơ ấu, để bây giờ hình bóng ấy chỉ còn trong ký ức và chẳng ngạc nhiên khi với

Yến Lan mẹ và quê hương là một.

Than Cù Lâm nướng cá sông Côn

Mịt bến Trường Thi vị khói thơm

Xưa mẹ nuôi con từng miếng nạc

Phần mình xương xẩu cũng khen ngon

(Mùi cá nướng)

2.4. Hình tượng con người

2.4.1. Là ông lái đò, là chàng kị mã những con người như bước ra từ huyền thoại.

Là chàng và nàng, là em và anh (tôi) với những rung động đầu đời và khổ đau vì tình

yêu tan vỡ. Là những con người mờ ảo, nhợt nhạt trong cuộc sống đìu hiu trước cách mạng.

Cũng như bao nhà thơ mới thời ấy, Yến Lan cũng viết về đề tài tình yêu. Mà điều

đặc biệt là những mối tình dang dở, yêu đơn phương hoặc không môn đăng hộ đối.

Xuất hiện trong thơ Yến Lan có thể là hình ảnh của chàng hoặc nàng nào đó trong một

câu chuyện tình yêu của buổi đầu rung động.

Nàng từ tuổi sánh hoa,

Không hay chồng đã hỏi.

Chàng liền bữa đi qua,

Yêu mà không dám nói.

(Đường xưa )

Tuổi yêu đương cũng như bao con tim khác có lẽ nàng cũng yêu, cũng thầm

thương trộm nhớ bóng hình chàng mà không hay biết rằng cuộc nhân duyên của đời

mình đã được cha mẹ định đoạt, còn chàng thì “yêu mà không dám nói”, vì ngại ngùng

chưa dám ngỏ chăng hay vì sự chênh lệch gia thế? Để rồi khi người đến đưa nàng đi thì

ngọn cỏ cũng nghẹn sầu vì chàng gọi cố nhân. Cái cổng làng kia như cũng quen mặt

khi chàng dừng ngựa trong những lần đi tìm người xưa.

Từ nàng xa bãi sậy.

Cỏ nghẹn sầu cố nhân.

Cổng làng mà quạnh ấy,

Ngựa chàng đến mấy lần.

(Đường xưa)

Có khi con người được nhắc đến trong thơ Yến Lan là một hình ảnh nào đó thật

chung chung của một trái tim thiếu nữ đang thổn thức mơ mộng chuyện yêu đương,

đang vẽ cho mình một mẫu hình lí tưởng . Đó là một người vừa gặp ban mai, người mà

mỗi khi đọc sách nàng thường mơ tưởng, mà người ấy tất phải “ có nhiều duyên” và

“có tài”.

Chàng, chẳng chàng thì mới phải ai?

Là người, rồi gặp một ban mai ;

Là người, đọc sách, nàng mơ tưởng

Có, có nhiều duyên - có, có tài.

(Đọc sách)

Nếu không phải vì chuyện yêu đương của chàng và nàng thì con người lại xuất

hiện trong tâm sự về tình yêu của một kẻ “làm vườn”, chăm bẵm cho đóa hoa của mình

khoe hương sắc để rồi khi người có du khách ghé qua, mang theo hương nhụy đóa hoa

quý, kẻ làm vườn chỉ còn lại cánh hoa tàn cho ong bướm lả lơi.

Người sẽ về đâu, du khách ơi

Mang theo hương thấm của hoa rồi.

Để phần cho kẻ trong vườn cũ

Những đóa hoa tàn bướm lả lơi.

(Vô đề )

Bước ra khỏi những câu chuyện tình yêu, ta lại thấy thấp thoáng con người xuất

hiện trong thơ Yến Lan chính là nỗi cảm thương của tác giả đối với một dân tộc –dân

tộc Chàm- mà cuộc chiến tranh tang thương đã xóa sổ tất cả:

Vì lúc ấy, em ơi,

Chinh chiến cướp một người,

Chiều nay chim bạch câu

Về đậu ở bên lầu.

Một ngọn đèn cô quạnh.

Hai mái đầu trắng phau.

Không lẽ trời thu lạnh.

Mà vắng vẻ trước sau!

(Vắng vẻ)

Không chỉ hình ảnh hai mái đầu bạc cô quạnh bên nhau mà hình ảnh đầu bạc, tiễn

đầu xanh cứ lẩn khuất xuất hiện trong thơ Yến Lan, một niềm đau, một niềm thương

cảm của thi nhân dành cho những kiếp người xưa cũ:

Những người tóc bạc nhìn hương cháy

Bên cỗ quan tài sắp trẩy đi.

(Những người qua cửa)

Trên hết, nhắc đến con người trong thơ Yến Lan, bạn đọc khó có thể quên được

hình ảnh của những con người như bước ra từ thế giới huyền thoại, từ trong mộng ảo

Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,

Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly.

Chàng gọi đò, gọi đò, như hồi hả.

Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.

(Bến My Lăng )

Chàng kỵ mã của ngày xưa còn sót lại chăng, hay người của ngày xưa đi lại chốn

cũ. Người và trăng như hòa làm một hối hả trên con đường vắng lặng, ta như có thể

nghe được tiếng vó ngựa dồn dập của chàng và tiếng gọi đò vang vọng khắp mặt sông.

Phải chăng chàng chỉ đi được ở những nơi mà ánh trăng vàng soi rọi, chàng đi trên

trăng, đi cùng trăng và khi trăng khuất, chàng cũng sẽ phải biến mất thế nên tiếng gọi

đò càng thống thiết hơn bao giờ, hơn bất cứ ai. Tựa như trong truyện cổ tích, cô bé lọ

lem chỉ trở thành nàng công chúa xinh đẹp khi chuông đồng hồ chưa điểm mười hai

tiếng, vì thế nàng lúc nào cũng hối hả, vội vã, sợ phép màu không còn nữa. Chàng kỵ

mã cũng từ thế giới ấy bước ra chăng?

Trong thơ Yến Lan không chỉ có hình ảnh chàng kỵ mã như bước ra từ huyền

thoại ấy, mà còn có những con người dường như thoát tục, dường như họ là những

thiền sư của đời Lí, đời Trần ngày xưa còn sót lại.

Gió đẩy bờ lau chạy với lau

Níu chàm thu hẹp núp trong sâu

Bên cầu trúc đỏ phơi đầu bạc

Ông lão quên về, đứng thả câu.

(Khi hoa đào nở)

Nếu như trong bài Ngư nhàn của Không Lộ thiền sư hai câu thơ:

Ngư ông thụy trước vô nhân hoán

Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền

Dịch thơ:

(Ông chài ngủ tít không người gọi

Tỉnh dậy thuyền trưa ngập tuyết rơi

Theo bản dịch của Tạ Ngọc Liễn )

Ngoại trừ sự vay mượn - tuyết – vốn không phải là có thực phổ biến ở nước ta,

còn lại thì cũng vẫn ông chài (trong hệ thống ngư tiều, canh, mục) và tuyết (trong hệ

thống phong, hoa, tuyết, nguyệt) vốn là những thi liệu ước lệ trong thơ cũ. Ông chài

trong thơ của Không Lộ thiền sư đã quên cái công việc độ nhật sinh nhai (đánh cá),

ông “như đang diễn ra một sự thoát xác để tâm linh hòa nhập vào màu xanh vô tận, vô

cùng”.[8, tr.67]. Còn trong bài thơ trên của Yến Lan thì ông lão (ông chài ) ở đây như

cũng đang rơi vào trạng thái “quên” của các thiền sư ngày ấy. Nghĩa là trong trạng thái

quên ấy có “ cùng tồn tại hai dòng thời gian, cái tĩnh tại hằng thường xuất hiện trong

cái không ngừng trôi đi” [107, tr.21]. Thật vậy, nếu như tiếng gió xô đẩy bờ lau xào

xạc cuốn đi nhắc nhở mọi người về sự hiện diện của thời gian hiện thực đang không

ngừng trôi đi, thì sự việc bên cầu trúc đỏ, phơi ra một mái đầu bạc bất động của “ông

lão quên về, đứng thả câu”, điều đó cho thấy một sự hòa nhập trọn vẹn giữa tâm hồn

ông lão với làn gió, với ngọn lau, cho ta thấy rằng có một thời gian thường tại, không

trôi đi, một khoảnh khắc cũng là mãi mãi. Người đọc như thấy ông lão có lẽ không chỉ

“quên về” mà dường như ông cũng quên luôn rằng mình đang thả câu, một kiểu câu cá

mà chẳng cần được cá, nó cũng thật giống cái tâm thế của Tam Nguyên Yên Đổ ngày

xưa ngồi câu cá : “ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”,

sự buông thả tâm hồn để hòa nhập vào một thế giới hư không, không ai chạm vào

được.

Cũng như thế, ta lại bắt gặp trạng thái quên của một ông lão trong thi phẩm Bến

My Lăng

Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,

Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.

Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách,

Ông lái buồn để gió lén mơn râu.

(Bến My Lăng )

Sự buông thả thả tâm hồn trên con thuyền không neo đậu ấy đã dẫn đến phút hóa

thân, con người vốn dĩ ham hoạt động (câu cá, chở đò) mà ngay từ những câu thơ đầu

tiên này đã trở nên bất động. Giây phút hằng thường ấy, ông lão đã hóa thân hòa nhập

cùng vũ trụ. Sự lưu chuyển của thời gian hiện thực dường như trở nên không có thực

nữa mà chỉ cái khoảnh khắc hằng thường kia mới là thực tại đích thực. Thế nên, mặc

tiếng gọi đò hối hả, như oán như trách, ông lão đã thoát tục, để hồn mình phiêu diêu

vào cõi vô định cùng ánh trăng:

Mà ông lão say trăng đầu gối sách

Để thuyền hồn bơi khỏi Bến My Lăng

(Bến My Lăng )

2.4.2. Là những con người khỏe khoắn, mạnh mẽ trên khắp mọi vùng quê, chiến

đấu, lao động trên mọi lĩnh vực góp phần dựng xây đất nước.

Trước hết là những anh hùng của dân tộc, từ nhỏ đến lớn, bất kể gái trai, họ đã

làm rạng danh đất Việt, họ đi vào trang thơ của Yến Lan nhẹ nhàng, tự nhiên như hơi

thở, thay thế cho những con người mờ mờ ảo ảo của những ngày xưa:

Khi em Tám biết xả thân làm ngọn đuốc

Khi giữa pháp trường cỏ đá cũng trào sôi

Anh Trỗi hô : “Hãy nhớ lấy lời tôi”

Khi anh Trọng còn hiện hình trong mỗi tràng súng ngắn

Khi còn mãi sinh sôi những nụ cười chị Thắng

(Sài Gòn của chúng ta)

Nhưng anh hùng phải đâu chỉ có vậy bởi:

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước

(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm )

Thế nên, ta bắt gặp hình ảnh cô kỹ sư chăn nuôi, bâng khuâng, quyến luyến trước

đàn bò thân thiết khi cô đang trên đường đi nghỉ phép. Đặc điểm ngộ nghĩnh của từng

con vật mà ngày ngày cô gắn bó chăm sóc đã choán hết tâm tư, khiến cô dường như

quên luôn những gì định làm trong những ngày nghỉ phép, chỉ só sự nôn nao được trở

lại công việc thường ngày:

Buổi chiều về gặp mặt người thương

Cô cố quên câu chuyện trên đường

Nhưng với vẻ bâng khuâng không thể nào dấu hết

Ôi cỏ non, cỏ non xanh biếc

Vừa mới xa trên mắt đã dâng tràn

(Cỏ non)

Đã không còn nữa những chàng và nàng của tình yêu lãng mạn, dang dở. Cũng

không còn anh và em của những giàu sang cách biệt đầy mặc cảm. Con người trong thơ

Yến Lan đã thay hình đổi dạng. Đó là những chàng trai, những cô gái trên những công

trường lao động, đang thử sức mình với những thách thức khó khăn:

Trai đến dò mũi khoan

Thử sức bền đá hộc

Gái ngược phía thượng nguồn

Băng mình qua sóng nước

Em thành cô thợ máy

Giờ lấy hồ làm quê

Theo luồng cá đi về

(Tâm sự thác bà)

Là người chị, người anh, là cha, là mẹ trên mọi vùng tổ quốc đang ngày đêm cần

mẫn với những công việc vừa độ nhật mưu sinh, vừa góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc:

Chị ngồi thêu gối rua khăn

Dẻo đôi tay muốt bắt lần mối ren

Anh bào vân gỗ láng men

Phơi màu sông núi lên trên sơn mài

Mẹ mời bánh quả trầu cay

Lonh lanh bảy sắc trời mây xà cừ

….

Ngồi cùng cha chuốt nan thanh

Tâm tư như cũng đan quanh giỏ làn.

(Những nét cổ truyền)

Hay đây nữa, trong cuộc chiến với quân xâm lược, hình ảnh người mẹ quê hương

ngày đêm đương đầu với những hiểm nguy, chết chóc, nhưng mẹ vẫn hùng dũng hiên

ngang vượt lên tất cả để từ việc tải lương, gánh đạn cho đến xông pha trận mạc, dấu

chân mẹ đã in khắp mọi nơi, mặc những đánh đập khảo tra cho đến sự dụ dỗ của quân

thù, mẹ vẫn đinh ninh vững bước đi đến ngày chiến thắng:

Bao dọa dẫm phỉnh phờ khảo đánh

Mẹ vẫn đinh ninh một tấm gan lỳ

Trước tải lương diệt Pháp ở Phù Ly

Ngày đánh Mỹ đèo Nhong mẹ liền đêm gánh đạn

Cho đến trận này trước tầm pháo nặng

Khăn mẹ vung qua rào điện Đèo Son

Chân mẹ dày lên cọc cảng Quy Nhơn

Mẹ hùng dũng giữa đoàn quân giải phóng

(Chiến thắng này không chỉ riêng con)

Và với Yến Lan, nỗi niềm thao thiết vẫn là quê hương Bình Định. Không còn

những “cô em nằm xem kiếm hiệp”, hay những người bán hàng rong liếc “nhìn nhau

qua mẹt bánh”, cũng không phải là những con người như từ thế giới thần thoại, cổ tích

bước ra nữa, mà đó là những con người sống động của cuộc sống hôm nay. Cuộc sống

của những tháng ngày sôi động chiến đấu với kẻ thù, mà nói như Nguyễn Đình Thi:

“ôm đất nước những người áo vải, đã đứng lên thành những anh hùng”. Đó là người

cha, người mẹ, là bà, là cháu, là trai Bình Định, là gái quạt trấu…là những con người

bình dị của quê hương, họ đã làm nhòe đi cái tên riêng để rực sáng cái tên chung của

đất nước. Mỗi người là một nốt nhạc đang hòa trong bản hùng ca chiến đấu, chiến

thắng của dân tộc

Cha mẹ phá đường, bà cháu tản cư

Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thủy

Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân sơn

Gái quạt trấu cũng hóa thành dũng sĩ,

Cầu Bà Di đẩy dựng những toa goòng

(Bình Định 1947)

2.4.3. Bước ra khỏi cuộc chiến, Yến Lan lại quay về với cuộc sống đời thường,

với trái tim nghệ sĩ rung động trước những cảnh đời .

Lỡ đường xe khách ghé Lăng Cô

Bà cụ lần khân đến bán sò

Khăn vấn cắt ra từ áo lễ

Gấm nhà thế tộc cũ kinh đô

(Áo gấm )

Một vạt khăn vấn cũng gợi cho tác giả sự liên tưởng về kiếp người dâu bể. Một bà

cụ ngập ngừng bán sò độ nhật cho khách trên những chuyến xe xuôi ngược. Một chút

ngập ngừng, một chút e ngại của người bán hàng làm tác giả chú ý. Có gì đặc biệt

chăng? “ Khăn vấn cắt ra từ áo lễ, Gấm nhà thế tộc cũ kinh đô”. Thì ra mảnh vải từ

chiếc khăn vấn tóc là câu trả lời cho mọi sự thắc mắc. Sự cảm thương dâng tràn trong

tim tác giả. Ắt hẳn ngày xưa con người ấy sống trong khuê các, trướng rủ màn che, kẻ

hầu người hạ. Cuộc đời biến đổi để bây giờ ở tuổi xế chiều con người ấy đang lóng

ngóng, e ngại trong cuộc mưu sinh. Áo lễ ngày xưa hoặc đã rách, hoặc không còn được

phô bày cho đúng với môi trường sản sinh ra nó, thế nên nó được chủ nhân tận dụng

thành một manh vải để làm khăn vấn tóc. Âu cũng là một cuộc đổi thay cho phù hợp

với cuộc sống.

Nương theo một tiếng đàn điêu luyện, tác giả bắt gặp người nghệ sĩ đang trải tiếng

tơ lòng để kiếm sống. Thế nhưng thay vì cung đàn ấy được vang lên trong những đêm

trăng với những người tri kỷ, tri âm, hay ở những cung, những phủ, những buổi đàn ca

hát xướng để nhận được sự đồng cảm sâu sắc, sự tưởng thưởng xứng tài thì ở đây nó

đang lang thang nơi đầu đường, xó chợ, nơi cò kè bán chác. Thế nên thay vì là những

đường tơ thánh thót thì nó lại chính là tiếng nấc đớn đau của người nghệ sĩ. Còn đâu sự

nâng niu, cẩn trọng để rồi nửa đêm giật mình tỉnh giấc dưới một mái hiên, người nghệ

nhân xót xa cho cung đàn đang thấm lạnh dưới ánh trăng khuya.

Người nghệ nhân theo nấc tiếng đàn

Rải cùng chợ búa bước lang thang

Nửa đêm tỉnh giấc đầu hiên quán

Sợ lạnh đường tơ một ánh trăng

(Tơ đàn )

Qua thế giới hình tượng nghệ thuật ấy ta có thể cảm nhận được nguyên tắc nắm

bắt đời sống của Yến Lan ngay từ khi bắt đầu sáng tác thơ, ông đã rõ ràng khuynh

hướng: Lấy cuộc sống của mình, của những người xung quanh mình làm đề tài, từ cảnh

sắc phong vị miền Trung và những sắc thái tâm hồn dân dã mà tạo nguồn xúc cảm. Đi

qua những năm tháng chiến tranh, trong cuộc chiến đấu của dân tộc, thơ ông cũng có

lúc làm nhiệm vụ “chuyên chở” như Bác Hồ đã nói “ Văn hóa nghệ thuật cũng là một

mặt , anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” [7, tr.5] nhưng cái “chuyên chở” của Yến

Lan khác với các cây bút cùng thời. Nếu như họ lấy bối cảnh mặt trận, lấy hình ảnh

những anh bộ đội, những vị lãnh đạo để làm nòng cốt cho sáng tác của mình thì với

Yến Lan dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn hướng về cuộc sống thường ngày. Một

cuộc sống bình thường, giản dị . Phải chăng chính từ những gì bình dị nhất của cuộc

sống nên ngay từ khi ra đời thơ Yến Lan không phải là tâm điểm, gây chú ý trên văn

đàn, nó bình lặng, lẩn khuất trong muôn vàn những tác phẩm rực lửa ngày ấy. Chỉ đến

khi chất lửa đã qua đi, cuộc sống đã lắng dịu thì thơ Yến Lan mới được ghi nhận một

cách cẩn thận, nghiêm túc. Với công chúng, tác phẩm của ông vẫn len lõi tồn tại dù chỉ

bằng một vài câu câu thơ mà đôi khi họ không biết tác giả là ai, nhưng những câu thơ

ấy lại làm lay động lòng người.

Chương 3. CÁC PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN TRONG THƠ YẾN LAN

Nếu như hình tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình cho ta thấy nguyên tắc nắm bắt

đời sống của tác giả thì phương thức biểu hiện lại giúp cho ta việc khái quát đặc điểm

hình thức thơ. Hình thức bao gồm lời thơ, thể thơ, dòng thơ, từ ngữ, nhịp điệu, hình

ảnh, các hình thức tổ chức bài thơ, câu thơ… Tuy nhiên, chúng không phải là những gì

thuần túy kỹ thuật. Hình thức bao giờ cũng đi đôi với nội dung và tiêu chuẩn của hình

thức thơ “chủ yếu là khả năng thâm nhập vào các chiều sâu của hiện thực và tâm hồn

con người thời đại” [87,tr.272].

Trong tiến trình vận động và phát triển của thơ, các phương thức, phương tiện

biểu hiện cũng không ngừng biến động cho phù hợp với quan niệm mới về thơ. Tuy

nhiên đặc điểm riêng của ngôn ngữ thơ đòi hỏi phải có những phương thức, phương

tiện đặc thù mang tính kế thừa bền vững từ đời này sang đời khác. Bởi vậy, một câu

thơ, một bài thơ thực sự có sự sống bao giờ cũng là sự kết hợp độc đáo giữa truyền

thống và sự đổi mới trên lĩnh vực hình thức thơ. Yến Lan là nhà thơ đã trải qua hầu hết

những biến động của lịch sử thơ ca hiện đại, của lịch sử dân tộc. Vậy Yến Lan đã kế

thừa và góp phần cách tân truyền thống như thế nào? Những đặc sắc nào trong hình

thức thơ Yến Lan góp phần tích cực trong việc biểu hiện cảm xúc của chủ thể trữ tình?

Qua nghiên cứu chúng ta có thể thấy được những thành công và đóng góp của Yến Lan

cho văn học đó chính là ngôn từ, dòng thơ và nhịp điệu.

3.1. Ngôn từ

Ngôn từ văn học là một hiện tượng nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo ra theo quy luật

chung của nghệ thuật. Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ là một trong những yếu tố

quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Vậy cái nền

ngôn ngữ của thơ Yến Lan là gì và ông đã có tác động, đổi mới như thế nào trên cái

nền đó?

3.1.1. Sự đóng góp của Yến Lan cho Thơ mới trong giai đoạn trước cách mạng

bằng hệ thống ngôn từ nghệ thuật - ngôn từ của cảm xúc - cảm giác và cách thức sử

dụng.

Trước cách mạng khi Thơ mới đã có những chuyển động mạnh mẽ để thoát ra

khỏi thơ cách luật và hệ thống ngôn từ đầy chất ước lệ. Phong trào Thơ mới đã khai

thác và sử dụng một hệ thống ngôn từ mới mẻ và giàu sức gợi cảm, có thể diễn tả

những sắc thái riêng và cụ thể của cảm xúc lãng mạn. Đó là cảm xúc về vẻ đẹp dịu

dàng của thiên nhiên, trạng thái hưng phấn hay tuyệt vọng trong tình yêu, và cả tâm

trạng cô đơn, bế tắc của các cá nhân trước cuộc sống được thể hiện bằng hệ thống ngôn

từ đầy cảm xúc như: bâng khuâng, mong manh, nhè nhẹ, đường trăng, hiu quạnh, du

dương, tha thiết, dịu dàng, da diết… Bên cạnh cái nền chung đó, chúng ta cũng ghi

nhận sự cố gắng cách tân của một số tác giả, đem đến cho từ vựng Việt Nam một số từ

ngữ mới, gợi cảm hơn và hình tượng hơn.

Tả một cánh buồm tìm về bến nghỉ ngơi sau một chặng hải trình Yến Lan gọi nó

là “sầu tam giác”, gọi một cái bến bình yên nơi chân đảo xa với nhịp sóng vỗ hiền hòa

êm dịu, tránh xa, khuất hẳn sự hung hãn của bão tố hay những con sóng lớn ngoài khơi

xa kia bằng nhịp sóng “hoãn hòa”:

Sầu tam giác buốm cô về lặng nghỉ

Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi.

(Xa xanh)

Chế Lan Viên đã thốt lên rằng ông yêu cái tên một tập thơ nước ngoài “Quả lê

tam giác” (la pavie triangulaire) thì đồng thời ông cũng nhắc đến rằng bạn mình có một

ngôn từ gọi cánh buồm cũng thật ấn tượng “sầu tam giác”, “ Nhưng sầu tam giác hay

hơn chứ và viết trước lê hơn bốn mươi năm” [110, tr.6]. Vậy sự cách tân của các thi

sĩ Việt Nam phải đâu chỉ là do sự “tiếp nhận thụ động” từ các nền văn học lớn trên thế

giới, mà nội lực của các thi sĩ của chúng ta cũng thật đáng khâm phục.

Đến thăm biển Sầm Sơn, trước cảnh nên thơ của bãi bờ, của hòn Trống, Mái ông

ngẩn ngơ gọi nơi này có thể khiến người ta lưu danh lại bằng những vần thơ có thể

chạm khắc vào đá. Khi tả nắng chiều trải ra trên khắp viên trang ông gọi đó là : “chiều

bồ câu” mà Nguyễn Bao đã nói rằng “đó là những câu thơ hay nhất về Sầm Sơn quê

tôi”.

Trống xa Mái ngẩn ngơ thơ đá chạm

Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang

(Xa xanh)

Ngoài sự tìm tòi hệ thống ngôn từ mới của cảm xúc Yến Lan còn làm phong phú

ngôn ngữ thơ mình bằng cách cụ thể hóa cái trừu tượng của cảm giác, của tâm trạng và

tình cảm con người.

Chẳng hạn, khi người ta nói tới hồn, một khái niệm mơ hồ không nắm bắt, không

hình dạng. Nhưng trong thơ Yến Lan người ta có thể thấy hồn có thể là khí, là chất

lỏng, là căn phòng, là hình khối để có thể cuộn bay, chảy loảng, mở rộng, khép chặt

hay chia cắt ra thành từng mảnh:

Lan can đỏ xuống dần từng bậc bậc

Hồn cuộn dần bậc bậc khói hương xây

Hồn tôi loảng trên bệ vàng thếp chảy

Cùng hồn trưa quấn quýt lấy giao lân

(Bình Định 1935)

Hồn tôi mở rộng đường sa mạc

Năm tháng chờ qua dấu lạc đà

(Lòng hè rộn giữa mùa đông)

Một mảnh hồn ta còn đọng mãi

Trên vành nong úa sắc thời gian

(Mùa xuân này lạnh lắm em ơi)

Hay tương tự như vậy, từ tấm lòng, tình ái, đến tình bạn bầu đều được Yến Lan

định danh một cách cụ thể khiến dường như ta có thể va chạm, nắm bắt:

Lòng tôi cũng vậy – cạn từ lâu

Nửa vì em tưới cây tình ái

Một nửa hòa chung suối bạn bầu.

(Khô)

Xứ thương nhớ, một mảnh hồn, suối bạn bầu, cây tình ái….là những sáng tạo mới

mẻ, táo bạo trong thơ Yến Lan . Cách dùng từ tân kì, cách cụ thể hóa cái trừu tượng đã

đem lại những cảm xúc mới mẻ trong thơ ông – vừa dễ cảm thụ vì nó được cụ thể hóa

được các cảm xúc lại vừa khó nắm bắt vì bản chất các khái niệm tình cảm trừu tượng.

Biện pháp “hữu hình hóa, vật chất hóa những cái vô hình, trừu tượng” [29,tr.113]

không phải chỉ xuất hiện trong thơ Yến Lan mà nó cũng thường xuất hiện trong thơ của

các tác giả cùng thời. Chẳng hạn như trong thơ Xuân Diệu ta dễ bắt gặp những cái vô

hình như “hồn”, “xuân” “khí trời” đều có thể được vật chất hóa thành những thứ có thể

tiếp xúc ôm ấp, ăn uống, cắn, riết… “trời ơi ta muốn cắn hồn em”, hoặc “ hỡi xuân

hồng ta muốn cắn vào ngươi” [29, tr.113]. Qua đó ta nhận thấy cách Xuân Diệu cụ thể

hóa các khái niệm trừu tượng thiên về tạo cảm xúc, cảm giác bằng rất nhiều động từ để

gợi . Còn trong thơ Yến Lan các khái niệm trừu tượng ấy được định danh trực tiếp

bằng các định ngữ: “xứ thương nhớ”, “cây tình ái”, “suối bạn bầu” . Đối tượng được

cụ thể hóa như vậy nên thơ Yến Lan thiên về tạo không gian. Ngoài việc cụ thể hóa các

đối tượng, Yến Lan còn có những cách so sánh độc đáo tạo ra một không khí thơ huyền

hoặc đặc trưng của ông trong giai đoạn này. Hình ảnh trong mối tương quan so sánh

hết sức bất ngờ, thú vị thể hiện một trí tưởng tượng phong phú và sự sáng tạo độc đáo

của tác giả. Có khi ông so sánh con đường như một cánh tay bị phong hủi đang sủi thịt

da lên, hoặc ví tiếng cười tươi ròn như mảnh kim cương, hoặc so sánh sự tươi trẻ của

cuộc đời như sữa lúa – lúa đang ngậm sữa.

“Đường như cánh tay phong

Thịt đang sủi không cùng” (Hiu quạnh)

“Đời tươi trẻ và măng như sữa lúa”

“ Em thả tiếng cười trong gió sớm

Tươi ròn như những mảnh kim cương” (Lẫn tránh)

Bên cạnh sự so sánh sáng ý đó, Yến Lan cũng có những ý thơ so sánh có thể nói

là bí ẩn, khó hiểu đôi khi gây sự phản cảm đối với người đọc, chẳng hạn

“Có những bàn tay mang ngón tay

Lạc loài như một cánh chim bay”

(Có những bàn tay)

Hoặc

Những kẻ ngồi xe như bánh xe…

Tuy nhiên, đọc thơ Yến Lan giai đoạn này, người đọc có thể nhận thấy thế mạnh

của ông chính là tạo ra một không gian thơ đặc trưng tâm trạng mà ở đó những cái

thuộc về con người được dùng làm chuẩn mực để so sánh.

Nghe có tiếng quay tơ

Trong nhà nào rên xiết

Buồn như câu li biệt.

Tiễn nhau bên sông mờ

(Hiu quạnh)

Âm thanh tiếng quay tơ được mang ra để so sánh với một cuộc chia li ở bến sông.

Trong cái xã hội mà mỗi bước di chuyển là một khó khăn, một lần li biệt là một lần

khó hẹn ngày gặp lại. Vậy mà tiếng quay tơ ấy gợi ra một tâm trạng buồn của một cuộc

chia li bên bến sông. Bến sông ấy mờ đi vì lẽ gì? Hơi sương hay nước mắt làm nhạt

nhòa khung cảnh? Bước chân người lữ thứ trong đêm, lầm lũi bước đi trong tiếng quay

tơ của nhà nào vang vọng. Tâm trạng ấy sao mà buồn bã, mà cô độc. Cả một không

gian vắng lặng chỉ tiếng bước chân lầm lũi hòa cùng tiếng quay tơ trong một khe cửa

nào đó lọt ra. Thật ấn tượng.

3.1.2. Những chau chuốt, mới mẻ, bí ẩn đến khó hiểu của hệ thống ngôn từ trước

đã được thay thế bằng lớp ngôn từ trong sáng, tinh tế, gần gũi đời thường từ sau cách

mạng .

3.1.2.1.Khi thơ ca trở thành vũ khí tinh thần cho đấu tranh cách mạng và gắn bó

chặt chẽ với đời sống ngôn ngữ thơ ca phải thật đời thường, giản dị, dễ hiểu gắn với

hiện thực; mang không khí thời đại cần hạn chế đến mức thấp nhất sự khô khan đơn

điệu. Đó là một yêu cầu không hề đơn giản đối với các văn nghệ sĩ ngày ấy.

Cũng như nhiều tác phẩm văn học thời ấy, thơ ca Yến Lan cũng xuất hiện rất

nhiều những từ ngữ mới như: cách mạng, hội nghị, hợp tác xã, cán bộ, xã viên, đồng

chí, cửa hàng mậu dịch, công trường, khói lửa…để đưa được lớp từ ngữ ấy vào thơ đòi

hỏi người nghệ sĩ phải dụng công rất lớn:

Buồng phổi mới ngực phồng thân áo xám

Trăng mát đường về hội nghị cơ quan…

Chiều đại hội ráng lồng trên biểu ngữ

Đời căng buồm về xứ sở tự do

Đường cách mạng thơm từng trang lịch sử

(Bình Định 1947)

Từ hình ảnh người cán bộ miền hậu phương trong những ngày đầu đầy khó khăn

thử thách nhẹ nhàng bước vào thơ Yến Lan với một cái nhìn trìu mến, cảm thông; chất

chứa sự khích lệ và cảm phục đối với một người đồng chí khi mà hợp tác vừa mới

được xây dựng nên, mạ còn đang ở lúc đuôi gà vắt vẻo vậy mà nước sông mỗi lúc một

dâng to, nỗi lo lắng dâng tràn trong chuyến đi công tác:

Hợp tác mới dựng nên

Mạ đuôi gà vắt vẻo

Đồng chí tỉnh ủy viên

Mối lo lòng nặng trĩu

Nhìn hai trang sổ tay

Chữ dồn lên như sóng

Thêm một hàng mới ghi

“Số hai lại báo động”

Bàn cứu hạn huyện ngoài

Chống úng vào huyện giữa

Chương trình họp ngày mai

Huyện trong phòng đê vỡ

(Trên đười về huyện)

Đến sức nóng của chiến trường những ngày đấu tranh thống nhất đất nước.

Những pháo đài, đồn chốt, nợ máu, nợ đời, lũ ác ôn đến hàng rào điện tử, pháo tầm xa

… những từ ngữ khô khan sặc mùi chết chóc bước vào thơ Yến Lan tự nhiên như hơi

thở:

Đây là tiếng đấu tranh không ngừng tiếp nối

Từ bãi pháo tầm xa ta bắn tới

Từ bàn tay không, đấm bật chốt đồn

Nợ máu, nợ đời ta hỏi lũ ác ôn !

Đây là tiếng mở đường thênh thang ngang dọc

Bước Thánh Gióng lồng bước đi dân tộc

Mọi hàng rào điện tử sẽ tiêu ma…

(Tiếng dồn sức mạnh)

Và rồi cuộc sống không phải luôn chỉ có màu hồng. Cuộc sống mới ở những ngày

đầu đôi khi không như người ta tưởng, những va chạm khiến tâm trạng người ta có lúc

buồn bã, thất vọng là điều không tránh khỏi, cũng vẫn những từ ngữ của thời sự cuộc

sống ấy, nhưng tâm trạng chất chứa những hoài nghi, lo lắng, thậm chí là thất vọng

trước những gì đang diễn ra trong cuộc sống:

Cũng trong quãng đời

đi đó

đi đây

Tôi theo bước đôi người

hì hục lao vào cuộc sống

Tay làm gió xoay một chìu chong chóng

Tuông cỏ hoa chân vắt ngược bụi đàng

Những bước chân lê dài khua tiếng sắt

tiếng gang

Lấy cả giáo điều rán mỡ cho guồng máy nổ

Phút ương yếu lòng tôi luôn nhác sợ

Khi mỏi mê không biết tựa vào đâu

Từng bữa nghe như núi mọc lấn trong đầu

Đè nát xuống những nhớ thương ôm ấp

Chưa thử thịt da trước luồng bão táp

Nhưng lòng tôi lạnh dần tiếng chuông ngân…

(Tĩnh vật)

Tuy nhiên, cảm hứng chung nhất, giọng điệu phổ biến nhất vẫn là niềm vui, là ca

ngợi tự hào của những đổi mới trên quê hương, đất nước. Cuộc sống mới, hơi thở mới,

tư thế mới của dân tộc được thể hiện một cách sôi nổi hân hoan qua lớp thán từ và hô

ngữ được xuất hiện với tần xuất cao, bộc lộ cảm xúc trước sức sống, sức quật khởi của

quê hương:

Từ cuộc sống chiến đấu:

Ơi má, ơi ba ! con lắng từng nhịp thở

Trong quật khởi mỗi người đều có chỗ

Tôi nhìn những ánh mắt lóe niềm tin

Xốc tới quân thù, - ơi bạn, ơi em

(Nghe chiến thắng miền Nam tim tôi thành vô số)

Cho đến cuộc sống lao động:

Nào anh em ơi

Súng giáo không rời…

Này anh em ơi

Tay lái đừng lơi…

(Bài ca những người bám biển)

Từ tin chiến thắng ở quê nhà Bình Định:

Quy Nhơn – Quy Nhơn ơi

Thêm náo nức lòng tôi: con sóng nhỏ…

Khi mảnh vụn quân thù dạt xuống đại dương.

(Sức bật )

Cho đến thành công buổi đầu của hợp tác nơi những người con miền Nam tập kết

ra sinh sống:

Ôi nhớ buổi đầu góp chung mảnh đất

Tưởng như xẻ ngực góp da

Bây giờ chung sức tăng gia

Công vào một điểm gặt ra đấu đầy.

(Bài ca hợp tác thôn tôi)

Tất cả, tất cả tạo thành một bản hùng ca trong những ngày chiến đấu gian khổ trên

mọi mặt trận: xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất đất nước.

Không chỉ có lớp từ ngữ mang âm hưởng ngợi ca chung đó mà trong thơ Yến Lan

giai đoạn này còn có lớp từ ngữ mang giọng điệu đối đáp tâm tình như một cuộc trò

chuyện, nó hoàn toàn mang hơi thở của cuộc sống tự nhiên thường ngày, hoàn toàn

không phải “khắc phục kiểu diễn đạt thông thường của lời nói tự nhiên” [9,tr.118].

Cũng có thể nói rằng đấy là cách dụng công riêng của Yến Lan để đưa ngôn ngữ thơ

trở về hòa nhập với ngôn ngữ toàn dân: giản dị, dễ hiểu:

BÃI CÁT Kìa anh bước, đôi chân thoăn thoắt

GIÓ ĐỒNG Anh đã lại gần, anh đến sát thủy lôi

BIỂN Tay sờ quanh ánh mắt sáng ngời

BÀ MẸ Con trai hỡi con có nghe tiếng mẹ

Hãy cẩn thận, hãy lần tay nhè nhẹ…

BÃI CÁT Vặn trở lại, anh vừa vặn ngược

BIỂN Nắp đã dỡ rồi, nâng nhẹ nghe anh

Bao sợi dây chằng chịt phía trong thành…

Hình ảnh người chiến sĩ công binh đang mày mò phá những trái thủy lôi đặt ngầm

trong cát biển một mặt nhằm trả lại môi trường sống an toàn cho bà con nơi đây, một

mặt nhằm tận dụng số thuốc nổ quý giá cho các xưởng công binh chế tạo vũ khí. Bất

chấp hiểm nguy có thể cướp đi sự sống của mình nếu có bất cứ một sơ sót nào, anh

đang bình tĩnh đối mặt với tử thần. Sự rúng động tâm hồn của những con tim, đang lo

âu, thắc thỏm chờ đợi kết quả. Tất cả họ thốt ra những tiếng nói từ trái tim, sự yêu

thương dành cho người con ưu tú của đất nước.

Với vẻ mộc mạc, giản dị trong từng câu, từng chữ được sử dụng, có thể nói ngôn

từ trong thơ Yến Lan đã có một sự lột xác từ sau cách mạng tháng Tám. Từ bỏ những

cách sử dụng từ mới mẻ, trau chuốt đến bí ẩn của những ngày cũ, Yến Lan tiến gần

đến, hòa chung vào ngôn ngữ bình dị của toàn dân, tuy có những lúc ta cảm tưởng như

câu thơ là khẩu hiệu, khô khan và có một chút gì đó như đang lên gân, hay nói cách

khác là tác giả đang nói “chất thép” bằng “giọng thép” nhưng ta cũng cần phải ghi

nhận đó là sự cố gắng đáng quý của tác giả.

3.1.2.2. Giai đoạn từ sau 1975, ta bắt gặp trong thơ Yến Lan lại có một sự đổi

thay trong ngôn ngữ. Nó trau chuốt nhưng hoàn toàn không phải là sự bí ẩn đến khó

hiểu, nó giản dị đời thường nhưng lại vô cùng tinh tế, nó được chắt lọc trong một thể

đặc biệt: thể tứ tuyệt.

Với tổng số 443 bài thơ trong tuyển tập thơ tứ tuyệt của Yến Lan thì có khoảng

gần 70 bài được viết trước 1975, số còn lại được viết sau giải phóng. Sở dĩ chúng tôi

nói khoảng vì có một số bài thơ tác giả không để ngày tháng, khi khảo sát chúng tôi

phải dựa vào ngôn từ, hoặc những tài liệu khác để mà đoán định. Từ đó phát hiện ra sự

thú vị trên trong ngôn ngữ thơ tứ tuyệt của Yến Lan.

Trước hết đó là lớp từ ngữ mang âm hưởng văn học dân gian: sân khấu, truyền

thuyết, cổ tích. Chúng ta bắt gặp đầy đủ từ các thể loại sân khấu như tuồng, chèo; rồi

các điệu hát dân ca như lí, quan họ, đến các tác phẩm văn học dân gian như truyền

thuyết An Dương Vương, Từ Thức đến cổ tích Tấm Cám, Trương Chi…tất cả đều có

đặc trưng ngôn ngữ riêng của từng thể loại. Ở mỗi một tác phẩm chúng ta thường bắt

gặp cách nghĩ, cách trắc ẩn của tác giả khiến ta bất ngờ và thấm thía.

Chẳng hạn, chúng ta hẳn ai cũng tiếc thuơng cô Tấm khi cây cau bị chặt đổ.

Nhưng ít ai nghĩ tới rằng Tấm đã chuyển kiếp trong khi “ lẫn tránh sự truy sát” để rồi

lại được tái sinh, trở về, Tấm thành chú chim oanh bé xinh cất cao giọng hát, có lẽ chỉ

tấm lòng thi nhân mới thấy xót xa khi ở góc ao kia khóm trầu bỗng cô đơn lẻ bạn.

Cây cau đổ với kẻ trèo cau

Lên thẳng ngờ đâu những nhát dao

Người hóa chim oanh lên tiếng hát

Xót cay trầu một góc bên ao.

(Cây cau trong truyện Tấm Cám)

Rồi câu quan họ quyến rũ chúng ta bằng những thanh âm vang, rền, nền, nảy réo

rắt mà ai đã từng nghe thì không thể nào rứt ra được: “cây trúc xinh tang tình mà cây

trúc mọc, qua lối nhỏ bên bờ ao”, rồi thì những lời chào, mời da diết từ bài giã bạn

“người ơi người ở đừng về”, “người ơi người ở em về”…tất cả tất cả mà Yến Lan ví

như một sợi chỉ mành xuyên suốt tâm hồn người Việt cho dù đang ở đâu:

Rạo rực bờ ao, lá trúc tre

Ới “người ơi, người ở đừng về”

Một câu quan họ như mành chỉ

Xuyên suốt tâm hồn mọi nẻo quê

(Quan họ)

Không dừng lại ở đó, niềm tự hào, xúc động với nghệ thuật âm nhạc, sân khấu

truyền thống còn được Yến Lan thể hiện bằng một lớp từ ngữ đặc trưng, xây dựng nên

cả một không gian sân khấu riêng tạo nên một lối thưởng thức sân khấu riêng mà chỉ

những tâm hồn nhạy cảm, trân trọng nét văn hóa cổ truyền như Yến Lan mới có:

Lửa xuông tiết nghĩa, mẹo gian hùng

Đâu dễ nhìn ra lớp “Sóng tùng”

Binh lửa vừa lui, đèo núi dựng

“Gian nan là nợ khách anh hùng”

(Tuồng )

Những từ ngữ “tiết nghĩa”, “gian hùng”, “sóng tùng”, “binh lửa”, “khách anh

hùng” há chẳng phải là lớp từ thường xuất hiện trong sân khấu tuồng cổ đó hay sao?

Nó được Yến Lan khéo léo lẩy ra đặt trong một bài thơ tứ tuyệt, đặc biệt với câu tuyệt

lại là câu được trích dẫn nguyên văn thường thấy trong các tuồng tích cũ. Từ đó có thể

cảm nhận được tài dùng chữ của tác giả để tạo một không gian thơ đặc trưng thật tài

hoa.

Tiếp theo là lớp từ ngữ Hán Việt trang trọng với những thi liệu văn học cổ. Những

lớp từ ngữ này trong thơ Yến Lan chủ yếu là tạo dựng không gian. Một không gian

bảng lảng hư thực của giấc chiêm bao với màn sương khói và bóng trăng mờ tỏ:

Vụt đến rồi đi nghẹn hỏi chào

Chuyện trò thư cũ, chán rồi sao

Cầm tay, chạm phải màu sương khói

Lãng đãng bên tường bóng nguyệt hao.

(Chiêm bao)

Sự xa cách bạn bè trong những năm cuối đời khiến người ta khát khao gặp gỡ, sự

khắc khoải ấy đi cả vào giấc ngủ, để khi thoáng gặp nhau nghẹn ngào câu chào hỏi,

cầm tay nhau nhưng hụt hẫng chỉ là hương khói hư không, thảng thốt giật mình mới

biết chỉ là chiêm bao.

Một không gian hồi ức huyền hoặc mang đậm phong cách Yến Lan như từ những

ngày đầu đến với nàng thơ, phải chăng khung cảnh ấy, thời khắc ấy gợi nhớ, thức dậy

những cảm xúc ngày xưa?

Hương tạ trời khuya đẫm sắc quỳnh

Nửa nghiêng tiền kiếp nửa lai sinh

Lẫn vào sương khói ba canh mộng

Một cánh phù du lộ bóng hình

(Đêm hoa quỳnh nở nhớ Chế Lan Viên)

Cuối cùng là lớp từ ngữ dân dã Việt Nam đường hoàng bước vào một thể loại văn

học bác học, cao sang. Nhắc đến tứ tuyệt, đến thơ Đường luật thông thường người ta

hay liên tưởng đến lớp thi liệu cổ đầy tính ước lệ; nếu không phải tùng, trúc, cúc, mai

thì cũng là phong, hoa, tuyết, nguyệt rồi là hệ thống ngư, tiều, canh, mục…thế nhưng

vào đến Việt Nam theo thời gian, lớp lớp các thi nhân của chúng ta từng bước Việt hóa,

đưa thơ Đường dần rời xa chốn cao sang ấy mà đi gần đến với đời sống dân dã hơn.

Tất nhiên sự Việt hóa này không phải bằng cách tác động vào luật lệ chặt chẽ của thơ

cách luật mà chính bằng hệ thống ngôn từ dân dã, mộc mạc, thực tế ở đời sống nước ta.

Ngày xưa Nguyễn Trãi cũng đã đưa cây bèo, rau muống, cái cày, cái cuốc, bó củi vào thơ:

Ao cạn vớt bèo cấy rau muống

Đìa thanh phát cỏ ương sen

(Thuật hứng, XXIV)

Đạp áng mây,ôm bó củi

Ngồi bên suối, gác cần câu

(Trần tình, V)

Đó là tâm trạng của một chí sĩ bất mãn với thời cuộc, lui về ở ẩn. Tuy nhiên, ta

vẫn nhận thấy thấp thoáng phía sau tư thế của “lão nông” vẫn là bóng hình của một

nhân sĩ mang nặng tâm trạng thời cuộc.

Cách chúng ta hơn 200 năm, nữ sĩ Xuân Hương cũng đã từng làm một cuộc cách

mạng trong thể thơ Đường luật bằng một chất giọng, một ngôn ngữ đậm đặc chất Việt:

những hang hốc, ốc nhồi, quả mít, cây đu, cái quạt, sư cụ, bà vãi, chẫu chàng, cóc,

nhái, ểnh ương đường hoàng, chễm chệ chiếm chỗ trong thơ bà:

Chàng cóc ôi! Chàng cóc ôi!

Thiếp bén duyên chàng có thế thôi

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé!

Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!

(Khóc tổng cóc)

Không những vậy bà còn làm giàu thêm tiếng Việt bằng hệ thống từ láy được sử

dụng một cách điêu luyện: nhấp nhổm, hõm hòm hom, tùm hum, vắt vẻo, cheo leo,

mốc meo…

Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo

Đường đi thiên thẹo quán cheo leo

Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,

Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo.

Ba chạc cây xanh hình uốn éo

Một dòng nước biếc cảnh leo teo

Thú vui quên cả niềm lo cũ

Kìa cái diều ai nó lộn lèo.

(Quán Khánh)

Tuy nhiên, cách sử dụng từ láy điêu luyện đến mức tinh quái của Xuân Hương, nó

ẩn chứa một tầng nghĩa ngầm khiến chúng ta biết rằng bà là người duy nhất sử dụng nó

thành công, có lẽ sau bà không có người thứ hai vận dụng.

Còn ở đây, trong thơ tứ tuyệt Yến Lan ta cũng bắt gặp những cóc, ếch, dép đứt,

cây kim, nấm mồ, cái xẻng, cái cuốc, chiếc răng long, sư cụ, anh đồ tể, con lợn… bình

dị như nó vốn có vậy trong đời sống người Việt:

Chống hạn đào mương xẻng cuốc quằn

Đất cằn thêm nẻ nếp da nhăn

Phải chi sấm chuyển cơn giông đến

Con cóc gào mưa đỡ nghiến răng

(Trời hạn)

Hoặc

Điện Phật bao đời ám khói hương

Hằng đêm sư cụ thỉnh hồi chuông

Động giờ thức dậy anh đồ tể

Kê thớt mài dao đón lợn chuồng

(Báo giờ)

Cũng lớp từ láy mộc mạc, giản dị, phong phú: lẩy bẩy, nhá nhem, um tùm, mốc

meo, cheo leo, phỉnh phờ, dằng dặc, bịn rịn, lầm lũi, ngẩn ngơ…nhưng được Yến Lan

đưa vào tứ tuyệt thì câu thơ bỗng trở nên gần gũi, quen thuộc với đời sống. Nó cũng

chất chứa tâm sự của người cầm bút trước những cảnh đời:

Chợ cách đò giang, xóm, cách đèo

Phải đây nhà bạn đứng cheo leo?

Muốn vào, sợ đúng nơi tìm đến

Vườn cỏ um tùm, sách mốc meo

(Do dự)

Lác đác dần thưa mỗi độ hoa

Ngày thêm gầy guộc gốc mơ già

Tiện đi, xin nguyện làm que củi

Dành chỗ cho mầm sắp nứt ra.

(Gốc cỗi)

3.1.2.3. Một đặc điểm nữa trong nghệ thuật ngôn từ của Yến Lan đó là những câu

thơ chứa đựng hệ thống ngôn từ chuyển đổi cảm giác, tạo ra hệ thống từ vựng ẩn dụ,

nhân hóa mới lạ:

“Né hoa khe khẽ chân dời

Sợ lay rụng mất nụ cười thơm dâng” (Đầu năm ngoạn cảnh)

“Ấm nước chưa sôi lửa đã tàn

Bình trà pha loãng ngái mùi trăng” (Tiếc một ấm trà)

“Phù dung nở sớm nào hay biết

Hiu hắt đầu cành mấy tiếng chim” (Hiu hắt ngày dài)

“Tiếng ve xối xả ngập không gian” (Lang thang)

“Đêm đến nằm nghe cành liễu phất

Chợt nhìn quen thuộc tiếng chuông boong” (Tiếng chuông ngày cũ).

Đó chính là tư duy tương hợp của thơ tượng trưng Pháp mà từ những ngày đầu

các nhà Thơ mới, đặc biệt là nhóm thơ Bình Định chịu ảnh hưởng một cách sâu sắc.

Đó là “Những câu thơ chứa đựng sự kết hợp các trạng thái cảm giác thông qua sự liên

tưởng bất ngờ, nhiều khi táo bạo ít ai nghĩ tới” [31,tr.145]. Theo tác giả Nguyễn Hữu

Hiếu thì trong tư duy tương hợp ấy mọi trạng thái cảm giác hòa trộn vào nhau tạo ra

một không gian thơ huyền diệu, cảm giác này gọi cảm giác kia chan hòa trong từng câu

chữ. Chẳng hạn ở những câu thơ trên: “nhìn” được “tiếng chuông ngày cũ” thì đã là sự

hòa trộn thị giác và thính giác. Sự kết hợp ấy tạo nên một hình ảnh thị giác, tác động

trực tiếp vào giác quan và làm tâm hồn ta rung động. Hữu hình hóa được âm thanh

không chỉ tạo ra sự mới lạ về hình thức mà còn gợi ra, đánh thức sự liên tưởng xa xôi

đến những vùng kí ức xa vời mà lối thơ trình bày, mô tả thông thường không thể nào

đạt được. Hoặc “xối xả” là âm thanh tiếng nước chảy, mưa rơi, mạnh không ngớt mà ta

đã từng và có thể cảm nhận được sức nặng của sự va chạm bằng xúc giác, nay được

hoán đổi cho tiếng ve kêu tạo một cảm giác choáng ngợp trước không gian tràn ngập

tiếng ve mà ta có thể chạm tay vào được.

3.2. Dòng thơ

Trong một công trình nghiên cứu của mình Phương Lựu đã nói rằng: “Đặc điểm

quan trọng nhất của ngôn ngữ thơ là sự phân chia ra dòng thơ” [64, tr.371]. Vậy khi

xét về dòng thơ thì cũng có những vấn đề nào mà chúng ta cần phải quan tâm?

Thứ nhất trong các thể thơ cách luật thì đã có sự qui định trước về các dòng thơ: 5

chữ, 7 chữ hoặc 6 và 8 chữ …như vậy là luôn phải có sự cân xứng hoặc bằng nhau

giữa các dòng trên và dòng dưới, điều này không có gì phải bàn cãi. Tất nhiên cũng tồn

tại những trường hợp ngoại lệ đó là sự biến thể trong các thể loại nhằm nhấn mạnh một

ý nào đó về nội dung hoặc nghệ thuật và thường thì ở những trường hợp như vậy chúng

ta cũng dễ dàng khôi phục lại đúng với thể loại gốc nếu ta muốn.

Chẳng hạn:

Chị tức căm thay cho thằng Tô Định nó tham tàn

Nỡ đang tay độc ác làm cho rẽ thúy chia loan cho nó đành!

(Nỗi chị khuyên em – Trần Tuấn Khải )

Như trong trường hợp này thì ta thấy câu “lục” trong thơ lục bát đã được nới

thành 11 tiếng và câu “bát” thành 14 tiếng. Khi khôi phục thì chúng ta có thể hoàn

đúng với thể loại gốc của nó đó là:

Tức thay Tô Định tham tàn

Đang tay rẽ thúy chia loan cho đành.

Như vậy trong các thể cách luật cũ ta có thể thấy dòng thơ cũng chính là câu thơ

khi nó diễn đạt trọn vẹn một ý.

Còn từ trong hiện đại có khi phải đến hai ba dòng mới thành một câu trọn nghĩa:

Ơi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa

Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường.

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên )

Đôi khi để giữ sự cân đối giữa hai dòng, để làm nổi rõ vần, và có khi để nêu bật ý,

các tác giả thường vắt dòng:

Trời cao xanh ngắt. Ô kìa.

Hai con hạc trắng bay về bồng lai

(Tiếng sáo Thiên thai – Thế Lữ)

Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười

Những lúc có tôi, và mắt chỉ

Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi

(Ghen – Nguyễn Bính).

Những câu thơ vắt dòng như trên chiếm tỉ lệ không nhiều, tuy nhiên “chính loại

hình này góp phần mở rộng các khả năng diễn đạt của câu Thơ mới, mà thơ ca trước

đó không có được” [27,tr.170].

Vậy dòng thơ trong thơ Yến Lan như thế nào trong sự biến đổi đó của thơ ca dân

tộc?

3.2.1. Thơ 7 chữ của Yến Lan với những nét truyền thống và những cách tân

hiện đại

Với quan niệm câu thơ là dòng thơ để tiện khảo sát thì chúng tôi nhận thấy rằng

thơ 7 chữ chiếm một số lượng lớn trong sáng tác của Yến Lan. Những tập thơ viết

trong thời kỳ đổi mới ở miền Bắc với các thể thơ tự do chiếm đa số như các nhà thơ

khác đương thời, còn lại thì thơ 7 chữ trong sáng tác của Yến Lan chiếm đa phần. Cụ thể:

Tác phẩm Số bài (câu) 7 chữ T ổng số T ỉ lệ

Trước cách mạng 28 40 70%

Những ngọn đèn 4 31 13%

Tôi đến tôi yêu 5 30 17%

Lẵng hoa hồng 0 31 0%

Giữa hai chớp lửa 19 40 48%

Trường ca Én Đào 1272 (câu) 1272(câu) 100%

Tuyển tập tứ tuyệt. 364 443 82%

Thơ 7 chữ của Yến Lan qua các giai đoạn

Thơ 7 chữ của Yến Lan vừa mang nét truyền thống lại vừa có những cách tân. Sự

đổi mới đó thể hiện ở việc giải phóng về âm, vần cũng như phá cách về niêm, luật.

Nếu lấy một bài thất ngôn bát cú của thơ Đường luật thì một số vấn đề cơ bản về

niêm luật như sau:

Trước hết khi xét về niêm, tiếng thứ 2 của các cặp câu 1 - 8, 2 - 3, 4 - 5, 6 - 7 phải

trùng với nhau về thanh; về luật tiếng thứ 4 phải đối thanh với tiếng thứ 2, 6 trong câu;

gieo vần thì hầu hết đều là vần chân ở vị trí tiếng thứ 7 của các câu 1, 2, 4, 6, 8; còn đối

thì câu 3 đối câu 4, câu 5 đối câu 6.

Chẳng hạn khi xét một bài thơ thất ngôn bát cú kiểu mẫu ta có một ví dụ tiêu biểu sau:

Bước tới Đèo ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại trời non nước

Một mảnh tình riêng ta với ta

(Qua đèo Ngang – Bà huyện Thanh Quan)

1 2 3 4 5 6 7

Câu 1 T T - tới B B - ngang T T- xế B - tà

Câu 2 B B – cây T T - đá T B - chen B - hoa

Câu 3 B B - khom T T - núi B B - vài T

Câu 4 T T - đác B B - sông T T - mấy B - nhà

Câu 5 T T - nước B B - lòng B T - quốc T

Câu 6 B B - nhà T T - miệng T B - gia B - gia

Câu 7 B B - chân T T - đứng B B - non T

Câu 8 T T - mảnh B B - riêng T T - với B - ta

“Cắt đôi” một bài thất ngôn bát cú, chúng ta sẽ có một bài thất ngôn tứ tuyệt cũng

với niêm luật chặt chẽ như vậy.

Chính sự gò bó chặt chẽ của niêm, luật nên thơ 7 chữ của thể thơ cổ không thể

diễn tả hết được cảm xúc vì vậy Thơ mới ra đời, các tác giả có khi vẫn giữ thể thơ 7

chữ nhưng đã có sự cách điệu, nhằm giải phóng cảm xúc.

Chẳng hạn khi ta xét một bài thơ của Yến Lan cũng 8 câu, 7 chữ nhưng nó hoàn

toàn không phái là thất ngôn bát cú mà là hai khổ tứ tuyệt độc lập, tự do hơn về niêm,

luật và vần. Dòng thơ cũng không phải là một câu thơ trọn vẹn mà nó tràn sang dòng

khác, khiến cảm giác thông thoáng hơn, mới mẻ hơn.

Gió về đâu đó bước khoan thai

Trở nhẹ cành sương mở búp nhài.

Một áng hương đưa vừa đủ lọt

Kẽ bàn tay ấy bước ngang cây

Người sẽ về đâu du khách ơi

Mang theo hương thấm của hoa rồi.

Để phần cho kẻ trong vườn cũ

Những đóa hoa tàn bướm lả lơi.

(Vô đề)

Sự mới mẻ đấy là xu hướng chung của các nhà Thơ mới trong việc cố gắng cách

tân các thể thơ cách luật, đặc biệt là thơ Đường luật. Những bài thơ thất ngôn không bị

gò bó trong 4 câu hay 8 câu nữa mà dài ngắn khác nhau không hạn định và thường thì

chia thành từng khổ 4 câu như trên. Khi khảo sát các bài thơ 7 chữ giai đoạn trước cách

mạng của Yến Lan thì chúng tôi thấy có 24 bài có từ 2 khổ thơ trở lên. Cụ thể: 2 khổ (9

bài), 3 khổ (2 bài), 4 khổ (6 bài), 5 khổ (6 bài), 6 khổ (3 bài), 8 khổ, 10 khổ và 15 khổ

mỗi loại 1 bài. Mỗi khổ thơ như vậy gần như là một bài thất ngôn tứ tuyệt tuy ý không

tập trung và trọn vẹn bằng.

Không những đổi mới về câu thơ – dòng thơ về niêm, luật mà trong thơ 7 chữ của

Yến Lan còn mang âm hưởng lời nói của văn xuôi, cấu trúc tự do phá vỡ một trong

những nguyên tắc khắt khe của thơ cũ. Đoạn thơ miêu tả cảnh Mỹ ngụy tra tấn các em

thiếu niên trong đội công tác Chim Én sau trận phục kích giết chết một tên ác ôn khét

tiếng là một ví dụ:

Mỹ ngụy giở thêm trò ác độc,

Chúng xốc hai em chân lộn ngược,

Dập vào thép cứng những đường “ray”,

Vứt xuống vực lên… luôn tiếp tục.

“Con ai? Bay đến tự nơi nào?

Những đứa cầm đầu hiện ở đâu?

Đồng bọn chúng bay còn mấy mống?

Việc này tiếp tục đến bao lâu?”

(Én Đào)

3.2.2. Thơ tự do với sự dàn trải về ý qua những câu thơ vắt dòng hiện đại

Hiện thực đời sống chiến tranh muôn màu, muôn vẻ, bề bộn và sôi động vì thế

những vần điệu cũ, khuôn thước cũ đã hạn chế sự biểu hiện của thơ. Đây chính là cơ sở

để các thể loại thơ tự do phát triển, mở đến thơ không vần, thơ văn xuôi, thơ

dài…những thể thơ đầy năng động biến hóa, phù hợp với yêu cầu, nội dung, dung nạp

được nhiều liên tưởng, suy nghĩ, thích hợp với sự vận động của tư duy nghệ thuật. Thơ

Yến Lan cũng vậy. Những bài thơ, câu thơ kéo dài ghi nhanh, ghi nhiều chi tiết, hình

ảnh, tâm trạng có giá trị cao về nội dung, nghệ thuật gây được ấn tượng mạnh trong

lòng độc giả.

Hồi ức về những ngày tháng cũ ngột ngạt tù đọng bị đánh thức bởi một loạt những

hình ảnh xô đẩy nhau xuất hiện.

Tỉnh nhỏ,

Đìu hiu

Mặt trời ngủ giữa chiều,

Trở mình trên mái rạ.

Cây đứng nép bên đường,

Tay xương nắm lá,

Như tay người đưa thư

Áo vải tây vàng hai vai đã vá,

Đi giữa đường mấp mô,

Không có kẻ đợi chờ.

(Lại về tỉnh nhỏ)

Chỉ hai câu thơ nhưng được vắt qua 10 dòng, khái quát một bức tranh toàn cảnh

về không khí tù đọng của tỉnh nhỏ trước cách mạng. Sự uể oải, ngưng đọng đó thấm

vào cảnh vật đến cả mặt trời – nguồn gốc của mọi sự sống thiên nhiên kia cũng bị ảnh

hưởng. Một ông mặt trời ngủ ngày “ngủ giữa chiều”, đang “trở mình trên mái rạ” và

ngày bỗng tàn rất nhanh, tàn không phải vì địa hình heo hút mà tàn vì không có sự hoạt

động. Sự ngưng đọng tới mức mà một lá thư – thông tin của con người – đến đây từ

viễn xứ cũng trở thành thứ không có ai chờ đợi…

Trong cuộc sống ngột ngạt đó, con người còn bị câu thúc bởi những khuôn vàng

thước ngọc của lễ giáo khiến những khao khát hạnh phúc cá nhân trở thành thứ yếu.

Sau những ngày dang dở tình duyên

Con đỏ trên tay

thành người góa bụa

Tóc xanh vướng trong khăn tang dẫy dụa

Theo lệ hàng năm về quê ngoại bên sông

Lạc trong đám vợ chồng

Lòng gảy nửa khúc đàn lỡ nhịp

Không dám ước mơ một đường tơ nối tiếp

Không dám trườn qua “thước ngọc khuôn vàng”

Đục

Trong

một bước sang ngang

Mốc định mệnh ai đóng vào xương sống

Tổ kén lễ nghi bao trùm xác nhộng

Nồi ươm giết kiếp con ngài

Mỗi xuân về

mỗi kéo dài thêm

sợi chỉ tâm tình ai oán…

Một câu chuyện kể về người phụ nữ chịu cảnh góa bụa khi mái tóc còn xanh, con

còn đỏ hỏn. Bởi lễ nghi phong kiến, bởi khuôn vàng thước ngọc mà không dám bước

tiếp con trên con đường tìm hạnh phúc lứa đôi cho dù chị khát khao cháy bỏng. Những

dòng thơ dài ngắn, khúc khuỷu, đan xen, nối tiếp nhau như câu chuyện bất tận về cuộc

đời bất hạnh của chị, đó là mối cảm thông của thi nhân dành riêng cho chị và cho

những kiếp người bất hạnh ngày xưa.

Trong những ngày đầu dựng xây đất nước, tìm kiếm con đường phát triển tốt nhất

cho dân tộc, sao cho mọi người cùng được lao động, cùng được chia phần một cách

công bằng, mô hình hợp tác xã là sự lựa chọn sống còn của ngày ấy để thực hiện sự

công bằng. Tuy nhiên, ở bước đầu góp tài sản của mình vào hợp tác, rồi làm làm sao,

ăn như thế nào ai chia, ai giữ không phải đã có câu trả lời thỏa đáng. Tất cả những tình

cảm ngổn ngang của những cá nhân trong buổi đầu gia nhập hợp tác được ghi nhận lại

bằng những dòng thơ dường như bất tận. Sự động viên lúc này mới ý nghĩa làm sao:

Nuôi việc làm ăn như nuôi con qua đốt

Đến ngày con lẫy, con chơi;

Đến ngày mười tám, đôi mươi,

Đến ngày rộng vai dài vế;

Cái khó đan vào cái dễ

Nan mốt nan hai

Nuôi việc làm ăn từ hạt muối củ khoai,

Gian khổ, không dừng sức lớn.

(Bài ca hợp tác thôn tôi)

Trên mặt trận chống giặc ngoại xâm, một cuộc chiến, không phải một hai tháng,

một hai năm mà đã mấy chục năm trôi qua. Những người con của miền Nam tập kết ra

Bắc nhưng lòng vẫn canh cánh hướng về quê hương, nghe ngóng từng tin tức chiến sự.

Để rồi thời cơ quyết định đã tới, không khí khẩn trương của những ngày tiến đánh giải

phóng quê hương náo nức khiến họ không thể kìm chế:

Ta tiến lên với dòng Côn ào ạt

Cầu Đôi đây, bao lớp đã thay dầm

Vẫn nguyên liền nhịp thép đón quân sang

Không kín nữa Đèo Son, hầm cố thủ

Cái bọc độc cả quân đoàn ôm giữ

Kho hậu cần cho tất cả Tây Nguyên

Bộ mặt huênh hoang lũ lũ cuồng điên

Đã ư ử run dài cơn sốt.

(Hôm nay đã đến Bình Định ơi.)

Một câu thơ vắt tràn qua tám dòng, ôm chứa hết những diễn biến nóng bỏng tình

hình chiến sự của quê hương. Mỗi dòng thơ ta như cảm nhận được giọt nước mắt nóng

hổi và dòng máu đang sùng sục sôi lên trong huyết quản của những người con sau bao

năm chờ đợi. Sự đợi chờ ấy giờ đây đang được đền đáp.

3.3. Nhịp thơ

Thơ là tiếng nói của tình cảm, của trái tim căng tràn về cuộc sống. Cũng như nhịp

đập của trái tim khi xúc động, ngôn ngữ thơ cũng có nhịp điệu riêng của nó. Thế giới

nội tâm của nhà thơ không chỉ được biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà bằng cả âm

thanh nhịp điệu của từ ngữ ấy. Âm thanh nhịp điệu thêm hàm nghĩa cho từ ngữ, gợi ra

những điều mà nhiều khi từ ngữ không thể nói hết. Tất nhiên, nói như vậy không có

nghĩa là ý nghĩa thơ tách độc lập với từ ngữ mà chính xác là từ ngữ, kết hợp với nhịp

điệu chúng ta sẽ có trường nghĩa thơ rộng mở hơn.

Trước hết cần xác định rõ nhịp thơ – nhịp điệu - trong một bài thơ, một câu thơ

không phải chỉ bộc lộ ở cách ngắt thành những đoạn tiết tấu như ta vẫn thường làm

trước đây mà do nhiều nhân tố tạo thành. “Thanh điệu của từ, thanh điệu của đoạn tiết

tấu, vần thơ…đều tham gia vào việc tổ chức nhịp điệu” [23, tr.384]. Do đặc điểm của

tiếng Việt là thứ ngôn ngữ đơn âm tiết, nên “nhịp điệu trong thơ Việt Nam chủ yếu dựa

vào sự tổ chức thanh điệu bằng trắc trong phạm vi câu thơ, hệ thống tiết tấu trong câu

thơ và đến cả thanh điệu của mỗi từ”. [23, tr.384]

Khi đọc một bài thơ hay, điều đầu tiên mà người đọc bị quyến rũ đó chính là sự

du dương, trầm bỗng như một bản nhạc. Tính nhạc đó được tạo thành chính là thanh

điệu trong ngôn ngữ của mỗi dân tộc. Tất nhiên trong văn xuôi cũng có những đoạn,

những phần mang tính nhạc mà chúng ta không thể phủ nhận được, tuy nhiên số đó chỉ

chiếm một phần không đáng kể. Trong thơ khi người nghệ sĩ càng làm chủ được vốn

ngôn từ phong phú của dân tộc thì tác phẩm của họ càng dễ đi sâu vào lòng bạn đọc.

Trong chúng ta ai mà không từng xúc động đến lặng người trước những âm điệu

thiết tha, khơi dậy những kỉ niệm yêu thương đằm thắm tự thuở ấu thơ khi đọc được

những dòng, những chữ Tố Hữu viết về quê mẹ:

Huế ơi quê mẹ của ta ơi

Nhớ tự ngày xưa tuổi chín mười

Mây núi hiu hiu chiều lặng lặng

Mưa nguồn, gió biển nắng xa khơi

(Huế, Quê mẹ )

Không chỉ thanh điệu mà vần cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng

trong việc tạo thành nhịp điệu cho thơ. Nếu thanh điệu có tác dụng làm cho câu thơ

trầm bỗng thì “vần trong thơ có tác dụng nối dính các dòng thơ lại với nhau thành một

đơn vị thống nhất có âm hưởng riêng” [64, tr.369] dễ đi vào trí nhớ của bạn đọc. Một

điều dễ thấy rằng, trẻ con ngay từ khi chưa có ý thức tự giác trong việc học thuộc lòng

thì chính nhờ vần mà các khúc đồng dao dễ đi vào trí nhớ của chúng.

Chẳng hạn:

Dung dăng dung dẻ

Dắt trẻ đi chơi

Đến cổng nhà trời

Lạy dì lạy cậu

Cho cháu về quê…

(Đồng dao)

Khi khảo sát về nhạc điệu trong thơ Yến Lan giai đoạn trước cách mạng chúng

tôi nhận thấy cái tạo nên vị trí Yến Lan trong Thơ mới phần nào nằm ở đây.

Diễn tả tâm trạng cam chịu, buồn thương của một cô gái bị ép duyên dành cho

người yêu:

Ừ, sao mà tương tư

Thương gì nơi vàng giếng

Nhớ nào ở hương thu

Ngựa chàng sang hằng chuyến

Đường vẫn nao dòng cũ

Ngựa vào bước chân xưa

Áo chàng xanh lam lũ

Trời ơi, trời đừng mưa.

(Đường xưa)

Hai khổ thơ 40 chữ mà đến 29 chữ được dùng trong này là thanh bằng, kết hợp

với lối gieo vần gián cách trong từng khổ thơ, diễn tả một tâm trạng buông xuôi, cam

chịu. Chấp nhận sự chia rẽ, dang dở tình duyên của mình như là một định mệnh không

thể nào hoán đổi. Vẫn tương tư, vẫn thương, nhớ - những tính từ cảm xúc tăng cấp lần

theo âm điệu bằng – bằng - trắc, nàng biết rằng trái tim nàng vẫn lẩn quẩn bến nước hò

hẹn thấm đẫm hương, sắc mùa thu, vẫn biết ngựa chàng vẫn hàng ngày vượt một quãng

đường dài để đi tìm người yêu, nhưng nàng không thể và không dám bỏ lại tất cả sau

lưng để đi cùng tình yêu. Câu thơ cuối: “Trời ơi, trời đừng mưa” sử dụng toàn vần

bằng, nhịp thơ ngắt 2/3 sau cụm từ “trời ơi” như là một tiếng than, lại như là một lời

cầu xin, một chút cố gắng cuối cùng cho người yêu. Nhưng rồi ta cũng thấy rằng sự cố

gắng đó của nàng cũng chỉ là vô vọng mà thôi.

Trong cuộc sống, chúng ta ai chẳng có những lúc mong chờ một điều gì đó: tình

yêu, hạnh phúc, may mắn, cơ hội, hay chỉ đơn giản chỉ là một niềm vui nho nhỏ. Sự

mong chờ đến khắc khoải. Thế nhưng trớ trêu thay đôi khi chúng ta không nhận ra điều

ấy để rồi đến lúc nó trôi vuột đi, ta lại khắc khoải đợi mong:

Nhưng đêm kia / đến một chàng kỵ mã,

Nhúng đầy trăng / màu áo ngọc lưu ly.

Chàng gọi đò,/ gọi đò,/ như hối hả.

Sợ trăng vàng / rơi khuất lối chưa đi.

Mà ông lão / say trăng / đầu gối sách

Để thuyền hồn / bơi khỏi Bến My Lăng.

Tiếng gọi đò /, gọi đò/ như oán trách.

Gọi đò -/ thôi,/ run rẩy cả ngành trăng.

Bến My Lăng còn lạnh, / Bến My Lăng

Ông lái buồn / đợi khách suốt bao trăng.

(Bến My Lăng )

Vẫn lối gieo vần gián cách của thơ mới, vẫn lối ngắt nhịp 3 / 5 của thơ 8 chữ thế

nhưng khi tiết tấu đoạn thơ bất chợt thay đổi thì cảm xúc dường như cũng dâng tràn,

sóng sánh. Hai câu thơ diễn tả hai trạng thái cảm xúc gọi đò, cùng nhịp 3/2/3 nhưng

nếu ở câu thứ nhất: “Chàng gọi đò,/ gọi đò,/ như hối hả” một trạng thái vội vã, gấp rút,

và sau đó câu thơ trở về nhịp 3/5 quen thuộc để lại một cảm giác nôn nóng đợi chờ, thì

ở câu thứ hai, vẫn một nhịp ấy nhưng câu thơ tiếp theo nhịp thơ vỡ vụn 2/1/5 thì một

cảm giác hụt hẫng đến rúng động cả tâm can người đọc về một sự tiếc nuối: hạnh phúc

đợi chờ đến mà không nắm bắt thì nó lại ra đi. “Gọi đò”, “thôi”, một khoảng lặng của

đợi chờ, khoảng lặng chấm dứt. Tiếng gọi vọng tới trăng cao, tiếng gọi chấm dứt để lại

khoảng không gian mênh mông vô tận run rẩy cả ngàng trăng.

“Tiếng gọi đò /, gọi đò / như oán trách.

Gọi đò -/ thôi,/ run rẩy cả ngành trăng”.

Hai câu kết, nhịp thơ đảo lộn 5/3 rồi lại 3/5: một chút khoảnh khắc xáo trộn tâm

tư rồi tất cả lại rơi vào sự đợi chờ mòn mỏi. Âm hưởng của vần “ăng” lan tỏa mãi, vấn

vương mãi trong lòng người đọc về một sự đợi chờ và tiếc nuối. Yến Lan đã hình

tượng hóa sự đợi chờ khát khao đó bằng hình ảnh ông lái đò bên Bến My Lăng, bến

của miền mong, tưởng.

Không phải chỉ có gieo vần gián cách mà thơ Yến Lan còn có một đặc điểm nữa

trong việc tạo nhạc tính để lôi cuốn người đọc và đồng thời lời thơ dễ đi vào trí nhớ

của độc giả đó là việc gieo vần phối hợp với phối thanh bằng trắc đều đặn. 11 khổ thơ

với 44 câu tác giả cứ xen kẽ gieo một câu bằng lại một câu trắc như bước chân một hai,

một hai đều đặn dẫn người đọc đến với Bình Định bằng thi phẩm Bình Định 1935:

Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt.

Đàng chờ xe, sông nước ước mong thuyền.

Tịch dương liễu không biết mình đang biếc.

Tương tư trời tương tư, nhạc triền miên.

Mây nổi đó nhưng hồn chừng xa xứ,

Trăng cô liêu trắng mộng hồ xa nao?

Xe lỗi hẹn với người trong lữ thứ,

Những cánh thuyền muôn dặm cũng hư hao…

Hoặc cách hiệp vần từng khổ 4 câu theo mô hình bằng – bằng – trắc – bằng

(BBTB):

Chiều nghe chuông chở rét qua sông

Chiều mong lời vui ở cánh đồng

Tre nhại thi nhân trong xóm lạnh

Chợ tàn tiễn khách với lều không

Ai nhại dùm ta tiếng võng đưa

Của bao người mẹ tự bao giờ

Những chiều năm xưa năm xưa ấy

Trong lúc ngoài trời lén đổ mưa

(Chiều)

Hoặc phối hợp hai kiểu hiệp vần trên trong cùng một bài thơ:

Ấy thế cho nên hàng xóm biết

Lời ong tiếng nhặng vẳng loang mau

Vào ra cổng trước xưa nay ít

Giờ lại kiêng dè cả giậu sau

Xuân thơ tuổi trẻ trầy qua rồi

Nhớ trộm yêu thầm chút vậy thôi

Một buổi nhà em gây xích mích

Bởi bên tường thiếu chiếc khăn phơi

(Gần nhà xa ngõ)

Khảo sát 46 bài thơ trước cách mạng của Yến Lan, chúng tôi thấy thơ ông thường

chia thành từng khổ 4 câu và có những cách phối thanh ở phần gieo vần như sau:

Kiểu TBBT TBTB BBTB Phối hợp Vần bằng Tự do Tổng số

(5) phối thanh (1) (2) (3) 2 + 3 (4) (6)

3 Số bài 3 9 15 12 4 46

6% Phần trăm 6% 20% 33% 26% 9% 100%

Như vậy tổng số kiểu phối thanh 2, 3, 4 ở thơ Yến Lan giai đoạn này chiếm đến

79%. Một điều chúng ta dễ nhận thấy là chính cách gieo vần với thanh bằng thì nhịp

điệu thơ thường nhẹ nhàng, sâu lắng. Nếu buông theo cảm xúc thì những bài thơ có

cách gieo vần này thường rất sâu, đi vào lòng người. Nhưng nếu có chủ đích trước để

tác phẩm đạt được nhịp điệu theo cách gieo vần đó, phối thanh đó thì nói như tác giả

Hà Minh Đức là “dụng công” lớn nhưng “hiệu quả lại kém sút” [23, tr.386]. Phải chăng

đây là đặc điểm để nhận ra thơ Yến Lan và cũng từ đây chúng ta cũng nhận thấy hạn

chế trong thơ của ông ? Ông đã có những bài thơ thật giàu cảm xúc, thực sự đưa người

đọc đến với một bến thơ mà chỉ mình ông tạo dựng được: Bến My Lăng, Bình Định

1935, Đường xưa, Vắng vẻ…nhưng bên cạnh đó thì cũng có những tác phẩm thực sự

chưa thuyết phục được bạn đọc bởi chính hạn chế trên. Trong khi các tác giả Thơ mới

đương thời hướng đến với sự tự do, phá cách để thơ hoàn toàn rời xa thơ cách luật, đạt

được sự tự do trong khi thi triển cảm xúc thì ông theo một cách nào đó lại gò thơ mình

theo một hướng đi riêng, tự do đó nhưng vô tình lại trói buộc trong một khuôn khổ do

chính ông đặt ra và hướng đến. Và có lẽ cũng chính đặc điểm này mà nhà nghiên cứu

Hoài Thanh đã có nhận xét về thơ ông rằng: “ Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng dần lâu

cơ hồ ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng sông”

[90, tr.171]. Êm quá, bình lặng quá đôi khi đơn điệu quá giữa cái sôi động của thế giới

thơ ngày ấy khiến nhắc đến những tác phẩm tiêu biểu của ngày ấy thì có thể có thơ Yến

Lan nhưng nhắc đến tác giả tiêu biểu thì hầu như Yến Lan thường vắng mặt. Đây phải

chăng chính là biểu hiện tất yếu về sự khắc nghiệt của tiêu chí nghệ thuật ?

3.3.2. Sau cách mạng tháng Tám, trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, khi đất

nước cần thì thơ Yến Lan thực sự đã gân guốc hơn khi phản ánh kịp thời những gì

đang diễn ra trong cuộc sống. Mặc dù vẫn chọn góc nhìn lặng lẽ, nhưng cảm xúc đã

dẫn dắt để Yến Lan có được những vần thơ mang hơi thở chung của thời đại rực lửa

đấu tranh.

Với kẻ thù hùng mạnh và hiện đại thì cuộc chiến không phải ngày một ngày hai

mà tất cả đã được Bác Hồ xác định là trường kỳ: năm năm, mười năm, hai mươi năm

hoặc lâu hơn thế nữa, nhưng điều chắc chắn rằng ta phải đánh đuổi được giặc xâm

lăng. Chính vì mục tiêu phục vụ cho cuộc trường kỳ kháng chiến đó mà việc sắp xếp

cuộc sống như thế nào, đòi hỏi một sách lược đúng đắn, sách lược đó chính là rời bỏ

những thành phố trung tâm, lập những cơ sở sản xuất tại các làng quê hòng phục vụ

cuộc chiến lâu dài của dân tộc.

Những tiết tấu ngắn gọn, gieo vần liên tiếp, kết câu hầu hết bằng thanh trắc thể

hiện được những hành động dứt khoát, khẩn trương và không kém phần chu toàn của

cả một tập thể:

Ra đi – ra đi, dốc trèo suối lội

Tháo rời máy những xưởng đường , xưởng sợi

Đe, búa vào rừng lập trại công binh

Đến xứ dừa nương thế lá tre xanh

Tước dó, giã rơm, đắp lò seo giấy

Về những cánh đồng hạn khô chờ cấy

Siết nồi hơi vặn chạy máy bơm

Tiếp đường mòn qua bãi mía, nương thơm

Sắp chữ, dập khuôn in đều sách báo

Giữ vẹn màu xanh công nhân trên áo

Sức cần lao dựng mới lại quê hương

Cái ốc, hòn bi đem ráp máy, chuyển guồng

Dây điện, lá tôn buộc che lều lán.

(Những thành phố ra đi)

Nơi nào cần phải rời bỏ và nơi nào cần phải bám trụ, tất cả đều là những quyết

định sinh tử với từng người và với toàn bộ cuộc chiến. Yến Lan đã đến với biển, đến

với môi trường hoạt động duy nhất của những ngư dân, để thấy được họ đã kiên cường

như thế nào trong cuộc đọ sức với giặc, bất chấp lệnh cấm, bất chấp súng đạn, bất chấp

cả thủy lôi:

Này anh em ơi

Tay lái đừng lơi

Mở “đường tiếp máu”

Ta chèo ra khơi…

Lượn theo nồm, bấc

Lênh đênh sóng dồi

Khoang ta chở chật

Cái ăn, cái mặc

Hòm đạn, nồi hơi…

(Bài ca những người bám biển)

Bằng thể thơ 4 chữ, nhanh chắc gọn, đặc biệt khi cần thiến tiết tấu thơ rã ra 3 -1,

hoặc 2-2 , nhịp thơ như những nhịp chèo gấp rút tránh tầm ngắm của kẻ thù, mang về

“cái ăn, cái mặc” và cả những khí tài cần thiết cho cuộc chiến. Với một tinh thần đồng

lòng và quả cảm như vậy thì chiến thắng tất yếu chỉ còn là thời gian.

Chiến tranh kết thúc, Yến Lan lại trở về với cuộc sống đời thường. Thơ ông lại

được trở về với góc tâm tình quen thuộc. Tuy nhiên, giai đoạn này Yến Lan tìm về với

thể thơ truyền thống: thơ tứ tuyệt mà tác giả Lê Thiếu Nhơn đã nói khi đọc những tác

phẩm mà ông sáng tác trong giai đoạn cuối đời này rằng “Nếu in trọn vẹn tuyển thơ này

sẽ khiến những ai nao núng cách tân, ồn ào cải tiến thơ phải giật mình” [119]. Cái giật

mình mà Thiếu Nhơn đề cập đến đó chính là nét chuẩn mực trong thể loại mà không

phải nhà thơ nào cũng có thể đạt đến:

Một chút nỗi niềm riêng của người con sớm mồ côi mẹ được thể hiện trọn vẹn

trong thi pháp nghiêm ngặt của thơ tứ tuyệt: hiệp vần, phối thanh, ngắt nhịp, niêm, luật

chặt chẽ. Bài thơ như một khúc ngân nhẹ nhàng mà thấm thía với bất kỳ ai cho dù có

vô tâm đến mấy khi được thưởng ngoạn:

Đò ngang gối bãi / bóng trăng lồng

Chợ khuất sương chiều / bóng trẻ trông

Ta ước như em / còn có mẹ

Dẫu cùng đăm đắm / một ven sông

(Chờ)

Thơ xưa thường tìm mối giao hòa với thiên nhiên, Yến Lan đã để tâm hồn mình

hòa nhập cùng vạn vật trong vũ trụ. Cảm nhận đến tận cùng một quy luật của tự nhiên:

tình mẫu tử thiêng liêng và sự đau đớn khi mất mát chia lìa không phải chỉ dành riêng

cho con người:

Chiều qua / gió dập tổ chim non

Mẹ mãi tìm mồi /để mất con

Tối đến / nương sao / bươi cát sạn

Nhặt từng mảnh vụn / của hoàng hôn.

(Tìm con)

Sự đồng cảm ở đây được tác giả thể hiện bằng nhịp điệu thơ trái với quy luật 4 -3

như thường thấy của thể loại này. Mặc dù vẫn cách gieo vần, phối thanh mực thước

nhưng nhịp điệu ở đây là nhịp điệu của cảm xúc: 2 – 5; 4 – 3; 2 – 2 – 3; 4 – 3 cái bình

thường xen kẽ với cái bất thường, sự xáo trộn đó lột tả hết nỗi lòng của chim mẹ và

đồng thời tác giả thể hiện được sự giao hòa, đồng cảm đến trọn vẹn giữa con người với

tự nhiên.

Mỗi nhà thơ thường có một phương thức biểu hiện tạo ra nét riêng cho phong

cách thơ của mình. Có thể Yến Lan không phải là người xuất sắc nhất, tiêu biểu nhất

trong việc tạo ra cái mới cho thơ Việt Nam từ những ngày đầu cũng như sau này.

Nhưng với những tìm tòi và cách tân của ông: ngôn ngữ của cảm xúc, chuyển đổi cảm

giác, những câu thơ vắt dòng hiện đại, những kiểu phối thanh hiệp vần tạo cảm xúc nhẹ

nhàng sâu lắng cho thơ; tuy có những lúc có quá đà, khiên cưỡng nhưng nhìn chung

hiệu quả nó mang lại cũng thật đáng trân trọng, đã góp phần vào thắng lợi của Thơ mới

trong những ngày đầu và khẳng định vai trò vị trí của thơ ca trong sự nghiệp cách

mạng cũng như trong đời sống của văn học dân tộc sau này.

KẾT LUẬN

1.Gần một thể kỷ sống và viết, Yến Lan để lại một sự nghiệp thi ca không phải là

ít: gần hai mươi tác phẩm gồm nhiều thể loại từ thơ ca, truyện ngắn, truyện thơ đến

dịch thuật…ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc cũng như của lịch sử thơ

ca Việt Nam. Đi qua hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, trải qua suốt những biến

động của những cuộc lột xác trong văn học Việt Nam, thơ Yến Lan cũng có những

đóng góp nhất định.

Với hướng tiếp cận nghiên cứu “Đặc điểm thơ Yến Lan”, luận văn một mặt khẳng

định những nét riêng độc đáo của Yến Lan, mặt khác làm toát lên được những đóng

góp của Yến Lan cho Thơ mới nói riêng và thơ ca nước nhà nói chung.

Như vậy, tìm hiểu về “Đặc điểm thơ Yến Lan” như một chỉnh thể nghệ thuật,

luận văn đi vào tìm hiểu giá trị thơ Yến Lan trên ba phương diện:

1) Tư tưởng, tâm hồn.

2) Tài năng nghệ thuật

3) Những đóng góp cho văn học nước nhà.

Qua nghiên cứu thơ Yến Lan và một số phương thức biểu hiện đặc sắc của nó

dưới cái nhìn tổng thể, chúng tôi đi đến kết luận sau:

1.1. Về nội dung, thơ Yến Lan thể hiện một con người có thái độ sống tích cực,

luôn trân trọng cuộc sống của mình trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trước cách mạng

trong lúc hầu hết những bạn bè trang lứa của ông thường có thái độ bi quan trước thời

cuộc và thậm chí trốn tránh thức tế bằng cách đi vào thế giới siêu thực, ma quái hoặc

chìm đắm trong tình yêu thì ông vẫn cố tìm lấy mặt tích cực của cuộc sống, dù là nhỏ

nhoi để tồn tại. Trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, Yến Lan tích cực, xông xáo đi

làm nhiệm vụ của một công dân đối với đất nước. Mặc dù có những lúc cuộc sống

không thuận lợi, không như ý muốn chủ quan, nhưng Yến Lan vẫn thể hiện một tấm

lòng hồn hậu, thủy chung, vẫn lạc quan tin yêu cuộc sống. Niềm tin yêu đó biểu hiện ở

tình cảm chân thành của ông đối với những gì bình dị nhất diễn ra ở chung quanh

mình. Mặt khác thơ Yến Lan còn thể hiện tình cảm gắn bó chân thành của con người

đối với quê hương đất nước, đặc biệt là đối với miền quê chôn nhau cắt rốn của mình.

Tình cảm đó được thể hiện tha thiết từ thuở mới chập chững bước lên thi đàn cho tới

ngày xuôi tay nhắm mắt. Đó là sự gắn bó vô tư, chí thành và hồn hậu nhất.

1.2. Về phương thức biểu hiện. Yến Lan cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ sự đổi mới

của văn học – trong xu hướng ảnh hưởng của thơ ca phương Tây, đặc biệt là thơ Pháp.

Có thể ông không phải là người tiêu biểu nhất, xuất sắc nhất trong việc tạo ra sự “đột

phá” trong việc tìm ra cách biểu hiện thật mới cho thơ. Nhưng thực sự chúng ta không

thể phủ nhận được sự đóng góp của ông cho những thắng lợi của phong trào Thơ mới

ngày ấy và “chiến công”của thể loại thơ trữ tình cách mạng, trữ tình thế sự, đời tư sau

này. Từ những khóm từ cảm xúc, cảm giác mới mẻ ngày ấy, đến những câu thơ vắt

dòng hiện đại, chứa đựng nhiều thông tin trong một giai đoạn thơ cần phản ánh nhiều

sự kiện và cuối cùng là sự phá cách trong phối thanh, gieo vần tạo nhạc điệu thơ biến

hóa dễ đi vào lòng người. Tuy nhiên, trong sự cố gắng đổi mới của mình, đôi khi Yến

Lan hơi lạm dụng gây ra sự tối nghĩa trong sử dụng từ ngữ và đơn điệu trong cảm xúc

thơ. Đây có lẽ cũng chính là những hạn chế cơ bản trong thơ Yến Lan khiến cho sự

nghiệp thơ có thể nói là đồ sộ của ông với những thành tựu cũng thật đáng trân trọng

nhưng chưa được giới thiệu rộng rãi đến bạn đọc. Tuy nhiên, những hạn chế này cũng

không phải chỉ chủ quan do ông.

2. Mặc dù sự nghiệp cầm bút của Yến Lan kéo dài hơn nửa thế kỷ, ông cũng góp

phần tích cực vào sự thắng lợi của Thơ mới nói chung và tiếng vang của nhóm thơ

Bình Định ngày ấy nói riêng. Nhưng tên tuổi của ông thường lu mờ, có thể nói là bị

chìm lấp đi trong khi các nhà nghiên cứu không tiếc bút mực khi viết về Chế Lan Viên

và Hàn Mặc Tử - hai thành viên của nhóm. Có một nhà nghiên cứu nào đó đã nói rằng:

“Cố ý để mà hiểu lấy tác giả. Vì lẽ rằng không có cái gì hoàn toàn ở đời này, ta hãy

tìm lấy ở trong cái thiếu kém một viên gạch, một miếng vôi mà góp vào sự xây dựng

một cái tòa lầu nghệ thuật…” [114, tr120]. Yến Lan có nhỏ hay không? Thiếu kém hay

là một nhà thơ lớn của văn học nước nhà? Thời gian đã và đang dần dần trả lời câu hỏi

ấy. Chúng tôi chỉ muốn khẳng định rằng: Những gì Yến Lan đã làm và đóng góp cho

văn học nước nhà thật đáng trân trọng. Chúng tôi xin mượn lời ông Nguyễn Thanh

Mừng, Chủ tịch hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bình Định, trong bộ phim tài liệu “Yến

Lan những trang đời còn lại” của Ban khoa giáo đài truyền hình Đà Nẵng để một lần

nữa nói lên cái vị trí của trong đời sống văn học Bình Định nói riêng, của Việt Nam nói

chung: “Những vần thơ như khắc chạm, những vần thơ như có nét đặc trưng của đời

sống văn hóa Bình Định. Yến Lan là một trong những bộ phận cấu thành của văn hóa

Bình Định”.

3. Về thơ ca Yến Lan vẫn còn nhiều vấn đề để ngỏ, chưa được nghiên cứu, đặc

biệt là mảng kịch thơ và thơ tứ tuyệt của ông. Để có một cái nhìn sâu sắc và toàn diện

hơn cần có sự đóng góp, nghiên cứu của nhiều người trên nguồn tư liệu đầy đủ hơn.

Trong điều kiện hạn hẹp về thơi gian và tư liệu, luận văn của chúng tôi chỉ tìm hiểu

được phần nhỏ trong sự nhiệp thi ca của ông. Chắc chắn công trình của chúng tôi còn

nhiều thiếu sót, người viết chỉ mong góp một phần nhỏ nào đó trong việc giữ gìn và tôn

vinh vẻ đẹp của một hồn thơ bình dị, từ đó thể hiện lòng mong muốn tìm hiểu những

vẻ đẹp trong thi ca dân tộc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Thị Ân (2004), luận án “ So sánh đặc trưng từ vựng của Thơ mới với thơ

truyền thống Việt Nam”, ĐHQG tp HCM – trường ĐH KHXH và NV.

2. Thục Anh (2001), “Chuyện tình duyên của thi sĩ Yến Lan”, báo Phụ nữ 5/2001.

3. Hoài Anh (1999), “Yến Lan, ông lái đò trên Bến My Lăng giao cảm”, Văn số (97/

1999).

4. Ban khoa giáo đài truyền hình Đà Nẵng (1998), Phim " Yến Lan những trang đời

còn lại".

5. Ban văn nghệ ĐTHVN - Mỗi tháng một chuyến đi, Phim " Ai về Bình Định

mà coi".

6. Nguyễn Bao (1996), “Từ Bến My Lăng”, Tuyển tập thơ Yến Lan, NXB Văn học.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Sách giáo khoa văn học 12, tập 1, NXB

Giáo dục.

8. Bộ giáo dục và đào tạo (2001), Thơ văn Lý Trần, NXB Giáo dục.

9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Sách giáo khoa văn học 10, tập 2, NXB

Giáo dục.

10. Văn Cao (1957) “Lời giới thiệu”, tập thơ Những ngọn đèn, NXB Hội nhà văn.

11. Anh Chi (2003), “Yến Lan tiền chiến và lận đận Bến My Lăng”, Thơ, phụ bản

báo Văn Nghệ (quý II/2003), (11).

12. Nguyễn Viết Chính (2006), “Yến Lan , những chặng đường thơ”, Báo Nông

nghiệp (3/2006), (8).

13. Ngô Kim Cúc (2002), “Còn đò bến My Lăng”, Thanh niên,(11).

14. Võ Chân Cửu (1990), “Một ngọn đèn sót”, Báo xuân Bình Định, tr15.

15. Phan Cự Đệ (2007), “Văn học lãng mạn Việt Nam 30-45”, NXB Văn học, tái bản

lần thứ 4.

16. Phan Cự Đệ - chủ biên- (2001), Lí luận phê bình văn học miền Trung thế kỷ XX,

NXB Đà Nẵng.

17. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học.

18. Lưu Nhi Dũ (1999), “Tình yêu, mùa xuân trong thơ Yến Lan”, Người lao động

xuân 1999, tr26.

19. Lưu Nhi Dũ (2001), “Trĩu nặng một tình yêu”, Người lao động, (9/10/2001)

20. Hà Minh Đức (2001), Văn chương – tài năng và phong cách, NXB KHXH, Hà

Nội.

21. Hà Minh Đức – Huy Cận (1993), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (60

năm phong trào Thơ mới ), NXB Giáo dục.

22. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998),Lí luận văn học, NXB Giáo dục.

23. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo

dục.

24. Hà Minh Đức (1997), Một thời đại trong thi ca về phong trào Thơ mới 1932 -

1945, NXB KHXH, Hà Nội.

25. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX – viện văn

học -, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội.

26. Khổng Đức (1998), “Tưởng nhớ nhà thơ Yến Lan”, Tạp chí Văn, (85).

27. Lê Tiến Dũng (2004), Nhà phê bình và cái roi ngựa, NXB ĐHQG tp. HCM.

28. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lí luận văn học, NXB ĐHQG tp.HCM.

29. Lê Tiến Dũng (1998), Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn

1932 – 1945, NXB Giáo dục.

30. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2004), Từ điển thuật

ngữ văn học, NXB Giáo dục

31. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), luận án “Những biểu hiện của khuynh hướng tượng

trưng trong Thơ mới Việt Nam 1932 – 1945”, ĐHQG tp HCM – trường ĐH

KHXH và NV.

32. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Chủ biên)

(2004), Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới.

33. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn.

34. Từ Quốc Hoài “Yến Lan cốt cách một đời thơ”, Bình Định xuân Kỷ Mão 99, tr15.

35. Hội văn học nghệ thuật Việt Nam (1996), Phim " Yến Lan - một Bến My Lăng "

36. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học

Mac – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2006). Giáo trình lịch sử Đảng cộng

sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,

37. Hội văn học nghệ thuật tỉnh Bình Định (2003), Tuyển tập thơ Bình Định thế kỷ

XX, NXB Văn học.

38. Quỳnh Hương (2002), “Nàng thơ tuyệt với của thi sĩ Yến Lan”, Gia đình và xã

hội, (2).

39. Thanh Huyền (2002), “Yến Lan bến sông và phố huyện”, báoVăn hiến (số 81).

40. Phan Huỳnh, Đào Đức Tuấn (1996), “Thi sĩ cuối cùng của “Bàn thành tứ hữu””,

Phụ nữ chủ nhật, (Số 32), tr 8 – 9.

41. Nguyễn Thụy Kha (1998), “ Yến Lan – ngày cuối cùng lặng lẽ”, Văn nghệ, (37),

tr5.

42. Nguyễn Thụy Kha (1996), “Về An Nhơn với Yến Lan”, Lao động, (55), tr5.

43. Khhrapchenko (1987), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn

học, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

44. Nguyễn Thị Lan (2006) “Trở lại Bến My Lăng”, báo Bình Định 22/9/ 2006.

45. Nguyễn Thị Lan (2001), Yến Lan – Nhớ mãi về anh, NXB Văn học.

46. Yến Lan (1957), Những ngọn đèn, NXB Hội nhà văn

47. Yến Lan (1987), Một vài tâm sự với các nhà thơ, Tham luận tại hội thảo thơ miền

Trung từ 24 đến 27 - 7 - 1987.

48. Yến Lan (1962), Tôi đến tôi yêu, NXB Văn học.

49. Yến Lan (1968), Lẳng hoa hồng, NXB Văn học.

50. Yến Lan (1978), Giữa hai chớp lửa, NXB Văn học

51. Yến Lan (1987), Thơ, NXB Văn học .

52. Yến Lan (1991), Cầm chân hoa, NXB văn học nghệ thuật An Nhơn.

53. Yến Lan (1996), Thơ tứ tuyệt Yến Lan, NXB Hội nhà văn.

54. Yến Lan (1996), Tuyển tập Yến Lan, NXB Văn học.

55. Yến Lan (2006), Tuyển tập thơ tứ tuyệt, NXB Văn học, Hà Nội.

56. Yến Lan (1965), Thư Bác đời ta, bản chép tay, chưa xuất bản.

57. Mang Viên Long (2001), “Tình băng hữu trong thơ Yến Lan”, báo Bình Định

9/3/01.

58. Mang Viên Long (2002), “Những bài thơ sau cùng của Yến Lan”, Bình Định

nguyệt san số, (10/ 2002).

59. Mang Viên Long(1990), “74 tuổi, nhà thơ Yến Lan - vẫn chờ xuân đến”, báo

xuân Bình Định, tr15.

60. Mang Viên Long (2001), “Cuối năm thăm phòng lưu niệm nhà thơ Yến Lan”,

Bình Định nguyệt san (12),(tr23.)

61. Mang Viên Long (2002), “Những bài thơ sau cùng của Yến Lan”, Bình Định

nguyệt san, (10), (tr21).

62. Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng (1968), Thi nhân Việt Nam tiền chiến,

quyển trung, Sống mới xuất bản.

63. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến, quyển hạ, NXB Văn học.

64. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa,

Thành Thế Thái Bình (1985), Lí luận văn học, (tái bản lần thứ 5), NXB

Giáo dục.

65. Nguyễn Thanh Mừng (1998), "Bóng tà dương của một đời thơ", 50 năm nhà xuất

bản văn học, NXB Văn học 1998, tr 442-443-447-449-450.

66. Nguyễn Thanh Mừng, “Đôi nét về thơ Bình Định qua phong trào Thơ mới 1932 –

1945”, Báo Bình Định.

67. Nguyễn Thanh Mừng (1993), “Năm tháng còn trên mấy đốt tay”, Bình Định

nguyệt san xuân Quý Dậu, tr14.

68. Nguyễn Thanh Mừng, Trần Thị Huyền Trang (2005), Huyền tích kinh xưa, NXB

Khoa học xã hội.

69. Nguyễn Thanh Mừng (1991), “Nhà thơ Yến Lan với Nha Trang”, Tạp chí

Nha Trang, (7).

70. Phạm Thị Ngọc, Vũ Nguyễn (2007), Điêu tàn- Tác phẩm và lời bình, NXB

Văn học .

71. Hồ Ngọc (1994), Tuyển tập kịch thơ, NXB Sân Khấu.

72. Bùi văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Các thể thơ ca và sự phát triển của hình

thức thơ ca trong văn học Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội.

73. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và Văn hóa từ một góc nhìn, NXB Văn học.

74. Lê Thiếu Nhơn (1997), "Thi sĩ Yến Lan, một đời người, một đời thơ", Hải quan

Việt Nam ,(109).

75. Ngô Văn Phú (2000), “Yến Lan, hồn thơ Việt”, Văn chương và người thưởng

thức. NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

76. Ngô văn Phú (1998), “Nhà thơ Yến Lan”, Nhân dân (ngày 18/10/1998).

77. Bá Phùng (1998), “Yến Lan một bóng cau giữa rừng”, Thế giới mới, tr 75-76-77-78.

78. Vũ Quần Phương (2001), “Lời giới thiệu”, Yến Lan - Thơ với tuổi thơ, NXB Kim

Đồng.

79. Đào Xuân Quý, 1999, Nhà thơ và cuộc sống, NXB Quân đội nhân dân 2003

80. Trần Huyền Sâm (2001) “Ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp đối với phong

trào Thơ mới Việt Nam (32 -45)”, Tạp chí văn học số (12),Tr 63.

81. Chu Văn Sơn (2000), “Thơ Điên của Hàn Mặc Tử thi học của cái tột cùng”, Tạp

chí văn học (11).

82. Chu Văn Sơn (2006), Ba đỉnh cao Thơ mới, NXB Giáo dục.

83. Trần Đình Sử(2003), Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục.

84. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà nội.

85. Trần Đình Sử (2000), Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục.

86. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, NXB ĐHQG Hà Nội.

87. Trần Đình Sử (2001), Thi pháp thơ Tố Hữu,NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

88. Quách Tấn (Quách Giao sưu tầm – biên soạn) (2000), Bóng ngày qua – về Bàn

thành tứ hữu, NXB Văn nghệ.

89. Nguyễn Toàn Thắng (2006), Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định, NXB Giáo

dục.

90. Hoài Thanh - Hoài Chân(2006), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học.

91. Trần Tiến Thành (2005), Thế giới nghệ thuật thơ Yến Lan, Luận văn thạc sĩ văn

học, trường Đại học KHXH và NV.

92. Thanh Thảo(2004), Mãi mãi là bí mật , NXB Lao động, tr 73-74-75.

93. Thanh Thảo (1995), “Nhà thơ của một bến sông”, Bình Định nguyệt san, (5), tr21.

94. Lan Thư (1998), “Yến Lan – Những lời kể cuối cùng”, Văn nghệ trẻ, (99).

95. Đỗ Lai Thúy, 2000, Mắt Thơ, NXB Văn hóa thông tin.

96. Đỗ Lai Thúy, 1999, Từ cái nhìn văn hóa, NXB Văn hóa dân tộc.

97. Lâm Bích Thủy (2007), “Người ẩn mình dưới tên gọi giai nhân”, Báo công an,

(48),tr.15.

98. Nguyễn Vũ Tiềm (2000), Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam, NXB Văn học.

99. Đinh Quốc Toàn (1992) “Yến Lan thi sĩ của miền quê trăng thơ”, Bình Định 10/4/ 92.

100. Đặng Tấn Tới (1998), Về lại Bến My Lăng, Bình Định nguyệt san, (11), Tr20.

101. Lê Ngọc Trà, Phùng Quý Nhâm, Hoàng Văn Cẩn (1997), Lý luận văn học, Đại

học quốc gia Tp. HCM, Trường Đại học sư phạm.

102. Trà Văn Tri (2002), “Yến Lan - Một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam và của

tỉnh Bình Định”, Văn nghệ Bình Định ,(39).

103. Phan Lai Triều (1995), “80 xuân, Yến Lan”, Báo Phụ nữ, (3-6-1995).

104. Võ Văn Trực (1998), Gương mặt những nhà thơ, NXB Văn học.

105. Tô Đình Tuân (1996), “Yến Lan và tiếng gọi đò trên Bến My Lăng”, Kiến thức

ngày nay, (206), tr 3-4-5-6-7-8.

106. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì

trung đại, NXB Giáo dục.

107. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Thơ văn thế kỷ XI – XVI, Thơ Thiền Lý – Trần, NXB

Văn nghệ tp.HCM.

108. Hưng Văn (1991), “Yến Lan vào tuổi 75: Vẫn còn trăng”, Sài Gòn giải

phóng,(4955).

109. Huyền Viêm (2000), “Yến Lan với bến My Lăng huyền thoại”, Kiến thức ngày

nay, (474).

110. Chế Lan Viên (1987), “Lời giới thiệu”, Yến Lan- Thơ, NXB Văn học.

111. Viện ngôn ngữ (1995), Từ điển Tiếng Việt, tái bản lần thứ 4, NXB Đà Nẵng,

Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng.

112. Viện văn học (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

113. Đăng Vũ (1998), “Nhớ ông lão "Bến My Lăng"”, Báo Văn nghệ tháng 10/1998.

114. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

(1900 – 1945), NXB ĐHQG Tp. HCM.

Các bài viết về Yến Lan trên Internet.

115.http://www.cinet.gov.vn/vanhoa/vanhoc/vhvietnam/tacgia/20/tho/tacphamtuyentap

116. http://evan.vnexpress.net/news/doi-song-van-nghe/chuyen-lang-van/2007109/.

117. http://vietbao.vn/van-hoa/Gap-ben-my-lang-cua-yen-lan/40075175/105/.

118. http://www.nld.com.vn/yen-lan-va-nhung-bai-tho-tu-tuyet-cuoi-cung.htm.

119. http://www.vietvan.vn/index.php:yen-lan-may-ban-gac-but-ra-vuon-hoi-y-hoa

120. www.baobinhdinh.com.vn/tuoithocuayenlan/3600A466 .

121. http://lethieunhon.com/read.php/3237.htm.yenlantrongmatcongai.

122. http://mangbinhdinh.com/forums/t/1679.alkyenlanbensongvaphohuyen.

123. http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/tulieu-tacpham.asp?.

124. http://www.vanchuongviet.org/vietnmese/vanhoc-tacpyham.sap?.

PHỤ LỤC

1/ CA DAO TRUYỀN THANH CỦA THỌ LÂM (YẾN LAN).

Cái dốt ra cổng mà treo

Để cho nó mốc, nó meo lụi dần

Cái khôn thì ấp trong chăn

Qua cơn thức ngủ vẫn gần hôm mai

Cái dốt ai rước mặc ai

Cái khôn đi lạc hỏi đài tìm ra.

************************

Từ khi anh bạn đường dây

Cái loa đóng cột dựng ngay giữa làng

Thế là thơ, kịch, cải lương

Sớm, trưa, chiều, tối rộn ràng lòng em.

Đi cấy cúi mặt lặng im

Giờ cảm đảnh mạ cất lên tiếng hò

Đáp bạn, nói ngang như cua

Giờ vào cuộc họp đắn đo từng lời

Ngỏ tình, anh rủ đi chơi

Em rào đón trước chuyện đời, chuyện ta

Duyên em thêm nết thêm tình

Chính nhờ các buối truyền thanh đắp bồi

Ơn này, ơn Đảng anh ơi

Đẹp người sẽ đẹp lứa đôi vợ chồng.

**********************

Nghĩ xưa cha mẹ càng thương

Biết đâu chớp bể mưa nguồn mà day

Bây giờ sương đông, tuyết tây

Bão trong lục địa, tố ngoài biển khơi

Làng quê đã có tin đài

Chỉ lo mưa nắng lòng ai – thất thường.

********************

Hoa cúc vàng, hoa trang đỏ thắm

Khéo vun trồng, mãi ngắm lòng ưa

Trên tường mắc một cái loa

Đến giờ nó nảy tiếng tơ tiếng đồng

Lắng tai nghe nhịp đời chung

Âm thanh quyện với sắc hương đẹp nhà

********************

Ra đi chín chợ ba thành

Học cô nâng giá,học anh tráo hàng

Tưởng bở, mang cả về làng

Hóa ra cái dại cầm bằng trắng tay

Phải chi nghe lấy tiếng đài

Ở ngay đầu ngõ nên bài học khôn

*******************

Người ta câu bể câu sông

Anh ngồi câu cá rồng rồng trong ao

Rồng rồng chẳng chịu cắn câu

Nó rỉa, nó rúc giây lâu mất mồi

Nhắc anh học lấy sự đời

Đừng hoài tai đón những lời rủ rê

Tin đài ta phải lắng nghe.

*******************

Hoa cau thơm nức vườn em

Xưa anh tìm đến theo tìm mùi hương

Đêm nay sững bước bên đường

Cái loa đầu xóm cầm chân anh rồi

Ước gì em đến sánh đôi

Chung tai nghe vọng lời lời nước non

*****************

Con trâu đạp phải cán mai

Cái đầu chẳng gãy cho tôi lấy chồng

Khen tôi giỏi việc cấy trồng

Chỉ vì lý sự không thông bạn cười

Mai này theo dõi tin đài

Điều hay lẽ đẹp mở mày thử xem

Dập dìu là gió cành chim.

******************

Mây mù ấp ngọn núi xa

Lúc em xếp giỏ, lúc cha tháo bừa

Chàng rể vừa dứt tiếng cưa

Cô dâu xếp gọn guồng tơ né tằm

Cơm chiều mẹ dọn lên mâm

Cũng vừa sân, ngõ vang trầm tiếng loa

Bát canh thêm ngọt lời ca

Bản tin càng mặn tiếng cà giòn tan

**********************

Con mèo lục đục mẻ rang

Con cún tưởng mở nhạc vàng đến nghe

Cu cườm trên chót đọt me

Nhìn quanh vắng bạn tìm về trúc mai

Lá hoa xao xuyến tiếng đài

Thanh tao tiếng bổng, khoan thai giọng trầm

Oanh kêu, nhạn hót, quyên ngâm

Tươi vui mở hội ca cầm đón xuân.

***********************

Câu dài gió thoảng qua tai

Câu ngắn rành rọt thấm dai trong lòng

Ngọn lửa thì phả hơi nồng

Đám sương bàng bạc lạnh lồng tóc da

Lời vàng thì của mẹ cha

Lời lời châu ngọc cái loa đem về

Em ơi, lẳng lặng mà nghe.

***********************

Tìm em Nhơn Hậu, Nhơn Thành

Em đang truyền đạt tình hình vụ đông

Tìm em – Nhơn Hạnh,, Nhơn Phong

Ngược lên Đập Đá, Nhơn Hưng tìm vào

Em đang cất giọng ca dao

Phổ điều chính sách thành câu ân tình

Tìm em - Nhơn Thọ cây xanh

Nhơn Hòa, Nhơn Lộc âm thanh còn lồng

Tìm em chẳng phải nhọc công

Nhơn Phúc, Nhơn Mỹ thêm nồng hơi tăm.

Tìm em cuối tháng, cùng năm

Dẫu khi nắng hạn mưa dầm vẫn ra

Biết em chẳng lúc nào xa

Nhưng yêu em, cứ nhẩn nha đi tìm.

**********************

Em về manh hết theo đi

Đôi chân em bước, đôi tay em cầm

Lưng, vai nắng dãi, mưa dầm

Môi hồng, mắt biếc âm thầm đợi duyên

Chỉ mong em để làm tin

Đôi tai lắng bấy lời khuyên, ghi lòng

Ở đây đài điện đã thông

Phổ câu hát ngọt, phổ dòng ca vui

Phổ niềm tin Đảng xây đời

Nên khung hạnh phúc ghép đôi chúng mình.

**************

2/ Từ ngày 24 đến 27 -7-1987, Hội nhà văn Việt Nam đã tổ chức hội thảo thơ miền

Trung tại thành phố Nha Trang. Hội nhà văn tỉnh Nghĩa Bình đã tham dự. Yến Lan đã

được mời phát biểu tại hội thảo. chúng tôi xin trích dẫn một vài ý trong phát biểu của

ông:

“… Chớ lấy tuổi tác, giai đoạn lịch sử mà phân biệt cũ mới. Đó là một sai lầm. có

phải bao giờ cái cổ hủ cũng thuộc về người già, về thời buổi trước, mà cái tân tiến là

sản phẩm đặc trưng của tuổi trẻ. Một điều đáng phấn khởi là gần đây, thơ đang ngày

càng tập hợp lại thành lực lượng đông đảo và rầm rộ tiến quân vào những mảnh đất

mới, đầy kỳ thú mời khai phá. Tiến quân về cả những chân trời xa, rất xa. Thơ đi gặt

hái và cả gieo trồng. xin các nhà thơ chúng ta hãy sáng mắt sáng lòng để sớm phân biệt

được mật hương và gai góc. Đừng nhầm lẫn cái mới và cái lạ. cái mới là cái phải chắt

lọc từ bao nhiêu cái đã có để thay thế. Cái lạ là cái được thấy lần đầu, nhưng thường là

lạ ở chỗ này nhưng lại nhìn quen ở chỗ khác. Hơn nữa, thể hiện cái lạ chưa sành,

thường làm cho nó thành ra lố lăng, lai căng và méo mó. Lại cón có cái dễ dãi nữa.

Xin hạn chế sản sinh ra những bài thơ chỉ đọc qua một phần, một nửa hay may

mắn lắm là một lần, rồi không nhớ gì nữa. chúng ta đi tìm cái mới, có bạn lứa đông vui.

Tất nhiên ở loại hình nghệ thuật nào cũng thế, thường do xu hướng cảm thụ, có khi do

ngẫu hứng nhất thời, đã tự phát nảy sinh ra thành trường phái. Trường phái chính thống

thường nhắm vào mục đích thay đổi hình thức và tư duy của một nền thơ ca nào đó đã

thành lì mòn, nhạt nhẽo đối với thời thượng. có khi chỉ một số ít người được tài năng

ưu đãi, xướng lên rồi thành trường phái. nói chung lại tôi rất đồng tình thơ có trường

phái nhưng đừng biến thành bè phái. Mà bè phái như các bạn thấy đó, tự bản thân nó

đã gây ấn tượng không hay rồi.

Điều này quan trọng lắm đấy các bạn ạ, bè phải vốn là nơi sản sinh ra nhiều tiêu

cực mà cũng có lúc khó thấy, tác động vào nội dung của tác phẩm, nó gây ra chia rẽ

hoặc tân bốc nhau, dần nghiêng về những việc phi văn hóa, văn nghệ để phục vụ cho

lợi ích cá nhân và dần đi xa chức năng tác phẩm. không nói đến những chức năng của

thơ hiện nay chúng ta làm kim chỉ nam để sáng tác, đã lâu đời, thơ đã được đánh giá là

một sán phẩm có bản chất thanh cao, vì vậy mà người có phong độ dùng thơ để di

dưỡng tính tình để nâng cao phẩm chất. chẳng lẽ người làm ra sản phẩm có phẩm chất

thanh cao ấy lại để sa sút phẩm chất của mình….”.

3/ CÒN MÃI NHÀ THƠ YẾN LAN.

(Nhà thơ Hữu Thỉnh – Phó tổng thư kí thường trực Hội Nhà văn Việt Nam – đọc

tại lễ tưởng niệm nhà thơ Yến Lan, tổ chức ở Hà Nội, ngày 8 -10 – 1998.)

Hôm nay Hội Nhà văn Việt Nam, Nhà xuất bản văn học, các nhà văn và nghệ sĩ

có mặt tại Hà Nội cùng đội ngũ những người cầm bút và bạn đọc của cả nước hướng về

Qui Nhơn, thương tiếc đưa tiễn nhà thơ Yến Lan, nhà thơ xuất sắc của văn học hiện đại

Việt Nam, một người con thân yêu của quê hương Bình Định về nơi an nghỉ cuối

cùng…

Ngay từ thuở nhỏ Yến Lan đã vừa học vừa làm, chăm sóc cha mẹ. năm mới

sáu tuổi đã mồ côi mẹ, Yến Lan luôn khao khát tình mẫu tử, khao khát tình thương yêu,

trìu mến của gia đình, quê hương. Ngay từ trên ghế nhà trường, thi sĩ Yến Lan đã hăng

say học tập, viết báo làm ca kịch, làm thơ và tham gia các hoạt động xã hội như việc

quyên góp cứu trợ cho đồng bào Thanh Nghệ Tĩnh trong nạn đói 1934. Tài năng của

Yến Lan sớm nảy nở và sớm được khẳng định. Truyện ngắn đầu tay của Yến Lan (bút

danh là Xuân Khai)được thưởng giải cao của báo Thanh - Nghệ - Tĩnh khi Yến Lan

chưa đầy hai mươi tuổi. truyện ngắn của Yến Lan liên tục được giới thiệu trên các tờ

Tiểu thuyết thứ Hai, Tiểu thuyết thứ Năm và nhiều tờ báo khác. Yến Lan viết cải

lương, viết kịch và thành lập đội kịch mang tên ông… Cùng với Tế Hanh và nhiều cây

bút đương thời, Yến Lan đã có những đóng góp lớn cho nền văn học và đã trở thành

bậc thầy mẫu mực cho nhiều các thế hệ nhà văn noi theo".

4/ Một số hình ảnh tư liệu về nhà thơ Yến Lan.

1:Yến Lan và dịch giả Thúy Toàn tại NXB Văn học.

2:Yến Lan (đứng, thứ 2 từ phải sang) cùng với các văn nghệ sĩ trong thời gian đi lao

động thực tế ở các tỉnh miền núi phía Bắc.

3: Bãi bồi, bến sông Côn, hình ảnh đôi “my tằng lăng” mà sau này vào thi phẩm Yến

Lan chính là Bến My Lăng

4: Sông Côn – nỗi nhớ niềm thương của Yến Lan.

H:5. Cửa Đông thành Bình Định, Chế Lan Viên gọi là “Lầu tư tưởng”.

Đôi bạn thơ Yến Lan và Chế Lan Viên thường lên “lầu tư tưởng” này ngắm tháp Chàm

và bàn luận chuyện đời, chuyện thơ.

H:6. Cửa Đông thành Bình Định ngày nay. Ảnh của: Thiên Lộc.

H:7. Từ trái qua Yến Lan, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử tại lầu cửa Đông

thành Bình Định .

H:8.Yến Lan qua báo chí, gia đình lưu giữ.

H9.Nơi yên nghỉ của nhà thơ Yến Lan.

H10, 11. Phòng lưu niệm tại quê nhà: 19 Quang Trung, An Nhơn, Bình Định .

Nhà thơ Yến Lan (1916 – 1998 )