BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Tô Kim Yến
SỰ KẾT HỢP
PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ VÀ TRỮ TÌNH
TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Tô Kim Yến
SỰ KẾT HỢP
PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ VÀ TRỮ TÌNH
TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐOÀN THỊ THU VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết
quả nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được ai công bố trong bất kì một
công trình nào khác.
Họ và tên tác giả
Tô Kim Yến
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin kính gửi đến Cô, PGS.TS Đoàn Thị Thu Vân lời cảm
ơn sâu sắc về sự tận tình chỉ bảo tôi trong học tập, cũng như trong thời gian
tìm hiểu và trình bày hoàn chỉnh luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn quý Thầy Cô giảng dạy tại khoa Ngữ văn của
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình truyền đạt kiến
thức và kinh nghiệm quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Xin trân trọng cảm ơn quý Thầy Cô công tác tại Phòng Sau Đại học của
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tôi hoàn tất chương trình học tập và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn người thân và bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2014
Học viên
Tô Kim Yến
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG .......................................................... 16
1.1. Thể loại truyền kỳ .................................................................................... 16
1.1.1. Khái niệm “truyền kỳ” ...................................................................... 16
1.1.2. Nguồn gốc thể loại truyền kỳ ............................................................ 16
1.1.3. Đặc trưng thể loại .............................................................................. 18
1.1.4. Truyền kỳ trung đại Việt Nam .......................................................... 24
1.2. Truyền kỳ mạn lục ................................................................................... 28
1.2.1. Tác giả Nguyễn Dữ và thời đại của ông ........................................... 28
1.2.2. Nguồn gốc ......................................................................................... 30
1.2.3. Nội dung ............................................................................................ 32
1.2.4. Nghệ thuật ......................................................................................... 42
1.2.5. Liên hệ với “Tiễn đăng tân thoại” ................................................... 47
1.3. Những phương thức sáng tác trong tác phẩm văn học............................. 50
1.3.1. Phương thức tự sự ............................................................................. 50
1.3.2. Phương thức trữ tình ......................................................................... 51
1.3.3. Hiệu quả sự kết hợp các phương thức trong sáng tác văn học ......... 52
Chương 2. PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ VÀ TRỮ TÌNH TRONG
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC – NHỮNG DẠNG THỨC KẾT
HỢP VÀ TÁC DỤNG NGHỆ THUẬT ..................................... 54
2.1. Phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục ............................................ 54
2.1.1. Biểu hiện của phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục .............. 54
2.1.2. Ý nghĩa của phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục ................. 72
2.2. Phương thức trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục ........................................ 73
2.2.1. Biểu hiện của phương thức trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục .......... 73
2.2.2. Ý nghĩa của phương thức trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục ............. 80
2.3. Sự kết hợp hai phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục ...... 82
2.3.1. Yếu tố trữ tình xâm nhập vào cốt truyện .......................................... 82
2.3.2. Yếu tố trữ tình xâm nhập vào nhân vật ............................................. 96
2.3.3. Tác dụng nghệ thuật của việc kết hợp phương thức tự sự và trữ
tình trong Truyền kỳ mạn lục ............................................................ 99
Chương 3. ĐÓNG GÓP CỦA TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ĐỐI VỚI VĂN
XUÔI VIỆT NAM .................................................................... 105
3.1. Văn xuôi Việt Nam trước Truyền kỳ mạn lục với những chuẩn bị có
ý nghĩa tiền đề ............................................................................................... 105
3.2. Văn xuôi Việt Nam sau Truyền kỳ mạn lục với những kế thừa và phát
huy……. ………………………………………………………………...116
3.2.1. Ảnh hưởng của Truyền kỳ mạn lục đối với văn xuôi trung đại
Việt Nam (xuất hiện sau Truyền kỳ mạn lục) ........................................... 116
3.2.2. Vấn đề ảnh hưởng của Truyền kỳ mạn lục đối với văn xuôi hiện
đại Việt Nam ............................................................................................. 125
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 136
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 139
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TKML : Truyền kỳ mạn lục
TĐTT : Tiễn đăng tân thoại
LNCQ : Lĩnh Nam chích quái
VĐUL : Việt điện u linh
TTDT : Thánh Tông di thảo
NÔML : Nam Ông mộng lục
TKTP : Truyền kỳ tân phả
LTKVL : Lan Trì kiến văn lục
VTTB : Vũ trung tuỳ bút
TTNgL : Tang thương ngẫu lục
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong lịch sử Văn học Việt Nam, đặc biệt là trong văn xuôi tự sự Việt
Nam thời trung đại, có một tác giả mà cho tới nay chúng ta biết được duy nhất
một tác phẩm nhưng đây lại là một tác phẩm vô cùng đặc sắc. Đặc sắc từ
phương diện nội dung cho đến phương diện nghệ thuật. Lấy tên sách là Truyền
kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những chuyện lạ) nhưng căn cứ vào tính chất của
các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập, sao
chép đơn thuần mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Từ
khi ra đời đến nay, tác phẩm đã từng làm hao tổn tâm trí và giấy mực của nhiều
thế hệ. Từ các bậc Nho sĩ thời trước cho đến các nhà nghiên cứu văn học thời
hiện đại đều đánh giá cao và coi tác phẩm là một kiệt tác của nền văn học nước
nhà. Đặc biệt ở thế kỷ XVIII, một thế kỷ rực rỡ nhất của văn học trung đại, các
học giả nổi tiếng như Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đã từng ca
ngợi Truyền kỳ mạn lục là một thiên cổ kỳ bút, áng văn hay của bậc đại gia với
lời lẽ thanh tao tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen. Vì vậy, nghiên cứu
Truyền kỳ mạn lục là việc làm có ý nghĩa nhằm khám phá đầy đủ hơn các giá trị
của tác phẩm xứng danh này.
Truyền kỳ mạn lục không chỉ là mối quan tâm của người Việt Nam mà
còn là một tác phẩm văn học được sự quan tâm của độc giả và giới nghiên cứu
văn học trên thế giới. Ngay từ những năm sáu mươi của thập niên hai mươi, tác
phẩm đã được dịch ra tiếng Nga, các nhà nghiên cứu Xô - Viết khi nghiên cứu
văn học phương Đông thường chú ý tới Truyền kỳ mạn lục. Tác phẩm của
Nguyễn Dữ là một trong những đỉnh cao của văn học Việt Nam trung đại, ngày
càng trở thành mối quan tâm của các nhà nghiên cứu, càng chiếm được cảm tình
của bạn đọc. Càng ngày, người ta càng phát hiện và khẳng định vị trí, vai trò của
tác phẩm bởi sự ra đời của tác phẩm đã đánh dấu sự trưởng thành của truyện
ngắn Việt Nam trung đại, đánh dấu sự chuyển biến từ văn xuôi mang nặng tính
2
chức năng sang văn xuôi giàu tính nghệ thuật. Mặc dù, khi khai thác những đề
tài dân tộc, tác giả chú ý đến những truyền thuyết dân gian nhưng đồng thời
cũng đã vươn lên và có những bước đột phá trên cách ghi chép của lối biên soạn
truyện cổ. Tác phẩm biểu hiện một xu hướng thoát dần khỏi sự ảnh hưởng thụ
động của văn học dân gian và văn xuôi lịch sử để bước sang giai đoạn mới, giai
đoạn của văn xuôi tự sự, của truyện ngắn nghệ thuật.
Vì vậy, nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục phần nào giúp ta ứng dụng vào
việc tìm hiểu loại hình truyện ngắn trung đại Việt Nam. Đặc biệt hơn hết, sự ra
đời của Truyền kỳ mạn lục đã khẳng định một cách đầy đủ sự ra đời của thể loại
truyền kỳ cho nền văn xuôi trung đại Việt Nam. Sở dĩ tác phẩm được đánh giá
cao, được quan tâm như vậy là vì ngoài giá trị nội dung tư tưởng còn có những
thành tựu đặc sắc về phương diện nghệ thuật. Mặc dù viết theo thể loại truyền
kỳ, một thể loại ảnh hưởng từ văn học Trung Quốc, chuyên dùng hình thức kỳ
ảo, hoang đường làm phương tiện nghệ thuật nhưng tập truyện đã có nhiều đóng
góp đáng kể về nghệ thuật dựng truyện, xây dựng nhân vật, kết hợp hài hòa giữa
ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca
trong một lời văn trau chuốt, sinh động, giàu sức hấp dẫn. Đặc biệt tác phẩm còn
có sự kết hợp tinh tế, linh hoạt giữa phương thức tự sự và trữ tình, điều này đã
làm nên sự khác biệt rõ rệt với các tác phẩm trước nó như Việt điện u linh và
Lĩnh Nam chích quái. Vì vậy, nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục về phương diện
nghệ thuật, cụ thể là sự kết hợp phương thức tự sự và trữ tình, là một công việc
cần thiết, hữu ích để khẳng định rõ nét thêm những giá trị đặc sắc của tác phẩm
xứng danh “thiên cổ kỳ bút” này. Truyền kỳ mạn lục thực sự xứng đáng là một
tác phẩm tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ
Hán dưới ảnh hưởng của các sáng tác dân gian.
Hơn nữa, với tư cách là một tác phẩm được xếp vào loại đỉnh cao của văn
xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Truyền kỳ mạn lục đã được tuyển chọn để
giảng dạy ở nhiều cấp học, cụ thể là Chuyện người con gái Nam Xương được
3
dạy và học ở lớp 9, Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên được dạy học ở lớp
10, tác phẩm được giới thiệu trọn vẹn ở ngành Ngữ văn trong các trường đại học
và cao đẳng. Việc dạy học truyện truyền kỳ theo đúng đặc trưng của thể loại văn
chương là một điều khó khăn, trước hết phụ thuộc vào việc nhận thức những giá
trị thẩm mỹ đặc thù thể loại của người dạy và học, từ đó mới hiểu đúng, truyền
thụ đúng những giá trị cơ bản của từng tác phẩm cụ thể. Truyền kỳ mạn lục là
tập truyện đã tạo được nhiều hứng thú cho cả người dạy và người học nhưng
cũng là một tác phẩm không dễ dàng chiếm lĩnh và cần phải được tiếp tục khám
phá. Bởi vì nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục có ý nghĩa rất quan trọng kể cả
trong lí luận và trong thực tiễn cho nên việc nghiên cứu vấn đề đã nêu là một
điều cần thiết và rất hữu ích cho người viết để hiểu sâu hơn và giảng dạy đạt
hiệu quả tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Là người đang theo học và giảng dạy môn Ngữ văn tại trường Trung học
phổ thông, hơn ai hết, tôi cần phải thông hiểu ở một mức độ nhất định đối với
những tác phẩm văn học để đời của dân tộc, đặc biệt là những tác phẩm được
trích giảng trong chương trình sách giáo khoa ở cấp Trung học phổ thông. Do
vậy, tiến hành nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục và thực hiện tìm hiểu sự kết hợp
phương thức tự sự và trữ tình trong tác phẩm, trước hết chúng tôi nhằm góp
phần vào việc xem xét, phân tích và đánh giá tác phẩm ở một số phương diện
nghệ thuật đặc sắc, điều này đã mang lại những thành tựu đáng ghi nhận cho tập
truyện. Sau khi giải quyết được thoả đáng những vấn đề đã đặt ra trong đề tài,
người viết sẽ có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn về giá trị của tác phẩm. Từ
đó, bổ sung những kiến thức mới, cần thiết trong việc giảng dạy tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục ở các cấp học, giúp người học nhìn nhận đầy đủ những nét
đặc sắc nghệ thuật của tập truyện nói riêng và của cả văn xuôi trung đại Việt
Nam nói chung. Qua đó, đề tài cũng góp phần bồi dưỡng tinh thần trân trọng và
4
giữ gìn những tinh hoa của dân tộc trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật văn
chương của tiền nhân.
3. Lịch sử vấn đề
Truyền kỳ mạn lục ra đời vào cuối thế kỉ XVI. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm
đã được người đọc quan tâm và giới nghiên cứu đánh giá rất cao. Nhiều vấn đề
trong Truyền kỳ mạn lục là đối tượng, là đề tài của các công trình nghiên cứu từ
trước đến nay không chỉ ở trong nước mà còn ở ngoài nước, chẳng hạn ở Nga,
Trung Quốc, Nhật Bản… Chúng tôi xin được lược dẫn về những công trình,
những bài viết có liên quan đến đề tài đang nghiên cứu:
* Các công trình nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục trước thế kỉ XX:
Trước hết, cần kể đến Lời đề tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết
năm Vĩnh Định sơ niên 1547:
- Trong lời đề tựa, tác giả đã cho ta thấy xuất thân và con đường làm quan
của Nguyễn Dữ, chỉ ra lí do Nguyễn Dữ cáo quan về ở ẩn “Tập lục này là trứ
tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Sau khi đậu Hương tiến,
nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm tri huyện Thanh Tuyền.
Mới được một năm ông cáo quan về nuôi mẹ, thế rồi viết ra tập lục này để ngụ
ý”.
- Tác giả bài viết đã nhận xét: “Xem lời văn thì Truyền kỳ mạn lục không
vượt khỏi phên dậu của Tông Cát, nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ
khuôn phép, đối với việc giáo hoá ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu”. Rõ
ràng, đây là một thái độ trân trọng và sự khẳng định đóng góp lớn của Nguyễn
Dữ trong kho tàng văn học nước nhà.
Đây có lẽ là ý kiến đánh giá sớm nhất về tác phẩm, Hà Thiện Hán chủ yếu
khẳng định mục đích sáng tác Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là để nhắc nhở
khuyên răn con người biết làm điều thiện, tránh điều ác. Nguyễn Dữ đề cập đến
những chuyện liên quan đến cuộc sống thường nhật của con người, mục đích
5
cuối cùng là việc dạy người, dạy đời. Chính vì lẽ đó mà tác phẩm ngoài là một
tác phẩm văn học có giá trị còn là một cuốn sách có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.
Trên tinh thần kế thừa ý kiến của thế hệ đi trước, nhiều học giả, giới phê
bình và nghiên cứu của của Việt Nam trong giai đoạn thế kỉ XVIII – XIX, khi
đánh giá về Truyền kỳ mạn lục thường hết lời ngợi khen về giá trị của tác phẩm,
đặc biệt hết là về phương diện nghệ thuật, chẳng hạn như:
- Ôn Như hầu Vũ Khâm Lân (1702 - ?) trong Bạch Vân am cư sĩ phả kí coi
Truyền kỳ mạn lục là một “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời).
- Lê Quý Đôn (1726 – 1784) trong Kiến văn tiểu lục đánh giá văn chương
Truyền kỳ mạn lục là “lời lẽ thanh tao tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi
khen”. Và trong Nghệ văn chí phần Truyền kỳ ở Đại Việt thông sử có viết: “…
trứ tác Truyền kỳ mạn lục gồm bốn quyển, văn từ trong sáng, mỹ lệ”.
- Phan Huy Chú (1782 – 1840) trong Lịch triều hiến chương loại chí đã
từng khen rằng: “Bấy giờ học trò ông (Nguyễn Bỉnh Khiêm) thành đạt rất nhiều,
chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, Trương Thì Cử là
có tiếng nhất... Khi Nguyễn Dữ viết quyển Truyền kỳ mạn lục được ông sửa
chữa nhiều chỗ, sau thành áng văn hay của bậc đại gia”.
- Vũ Phương Đề (1697 - ?) trong Công dư tiệp kí coi Truyền kỳ mạn lục là
“thiên cổ kỳ bút”.
Như vậy, các học giả thế kỉ XVIII – XIX, đã chú ý nhiều tới mặt văn
phong, tới nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật xây dựng nhân vật nhưng họ chỉ cho
thấy cái nhìn tổng thể về tác phẩm, chưa thực sự chú ý một cách thích đáng tới
khía cạnh sự kết hợp giữa các phương thức sáng tác, chẳng hạn như mối quan hệ
giữa hai phương thức tự sự, trữ tình và tác dụng nghệ thuật của sự kết hợp
những phương thức ấy trong việc chuyển tải nội dung, tư tưởng của tác phẩm.
* Các công trình nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục từ đầu thế kỉ thứ XX
đến nay:
6
Bước vào thế kỉ XX, Truyền kỳ mạn lục đã tiếp tục được khảo cứu trên
nhiều phương diện cả về nội dung và nghệ thuật. Lời giới thiệu Truyền kỳ mạn
lục của Bùi Kỷ được Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch ra quốc ngữ in năm 1941:
- Khi đánh giá về phương diện nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục, Bùi Kỷ
viết: “Nguyễn Dữ học rất rộng, lại có tài viết văn dùng nhiều điển tích. Lối viết
nào cũng hay, về phần uyên bác có thể ngang với Bồ Tùng Linh, về phần vận
dụng các văn thể vượt hơn Đặng Trần Côn”.
- Về phương diện nội dung, tác giả bài viết cũng cho rằng Truyền kỳ mạn
lục đã đề cập đến vấn đề có liên quan trong cuộc sống của người phụ nữ xã hội
Việt Nam thời kì trung đại.
Ngoài một số công trình nghiên cứu chủ yếu về nghệ thuật viết truyện
ngắn, về thể loại của tác phẩm như công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Dân
Loại hình văn xuôi huyễn tưởng (Tạp chí Văn học, số 5, năm 1984), công trình
của Nguyễn Hữu Sơn Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỉ XVI – các bước nối tiếp
và phát triển (Tạp chí Văn học, số 5 và số 6, năm 1988), còn có khá nhiều bài
viết khác trong đó đáng lưu ý là các bài viết Truyền kỳ mạn lục một thành tựu
của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán - Văn học Việt Nam của Bùi Duy Tân
(Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2001). Trong bài viết, tác giả đã nhận định những
thành tựu vượt bậc về phương diện nội dung cũng như nghệ thuật của Truyền kỳ
mạn lục trong dòng truyện ký văn học trung đại Việt Nam. Bài viết của Bàn
luận thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Lại Văn Hùng
(Tạp chí Văn học, số 10, năm 2002) đã khẳng định lại một số vấn đề cơ bản về
thân thế Nguyễn Dữ và nguồn gốc, nội dung, nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục.
Bài viết Những biến đổi của những yếu tố kỳ và thực trong truyện ngắn truyền
kỳ Việt Nam (Tạp chí Văn học, số 6, năm 2004) của Vũ Thanh đã cho thấy sự
biến chuyển linh hoạt và sinh động của hai yếu tố kỳ và thực và tác dụng nghệ
thuật của sự biến đổi này trong tác phẩm.
7
Bộ sách Lịch sử văn học Việt Nam, tập II (sách Đại học Sư phạm – Nhà
xuất bản Giáo dục, năm 1978) có đoạn: “Nguyễn Dữ cũng đã ít nhiều nói lên
được đời sống cơ cực của nhân dân, đặc biệt tác giả đã chú ý đến đời sống tình
cảm của những con người nhỏ bé nhất là người phụ nữ bình dân”. Tác giả của
bộ sách này đã khẳng định số phận người phụ nữ bị đày đoạ vì loạn li, điêu đứng
vì thế lực cường quyền chủ yếu là người phụ nữ bình dân. Ngoài yếu tố ấy, theo
những người viết sách đồng tiền cũng là một “quyền lực tối cao” và ảnh hưởng,
chi phối đạo đức của con người. Đồng tiền gián tiếp gây nên những nỗi thống
khổ cho con người, và hơn ai hết đó chính là người phụ nữ.
Bộ sách Văn học Việt Nam (Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2001)
viết: “Truyền kỳ mạn lục có nhiều truyện miêu tả tình yêu nam nữ, hạnh phúc
gia đình trong hoàn cảnh khó khăn và đầy biến động của xã hội phong kiến”.
Trong đó, rõ nét nhất là Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Chuyện người
con gái Nam Xương. Đây là hai ví dụ tiêu biểu cho thái độ của tác giả: phản ánh,
lên án tình trạng đáng thương của người phụ nữ trong xã hội cũ. Cho dù tất cả
phụ nữ có đảm đang bao nhiêu, chung thuỷ và tình nghĩa bao nhiêu thì cũng phải
chịu số phận oan nghiệt trước cuộc đời dâu bể. Chuyện Lệ Nương là một câu
chuyện đầy bi kịch về sự chung thuỷ của tình vợ chồng trong cảnh đất nước bị
ngoại xâm. Ngoài đề tài tình vợ chồng, Truyền kỳ mạn lục còn đề cập khía cạnh
khác của đời sống con người lúc bấy giờ. Các câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn:
Chuyện nghiệp oan của Đào thị, Chuyện nàng Thuý Tiêu, Chuyện cây gạo,
Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây miêu tả những mối tình vụng trộm, trái hẳn với đạo lí
Nho gia “nam nữ thụ thụ bất tương thân”. Các tác giả trong bộ sách này cho
rằng Nguyễn Dữ đã táo bạo và phóng túng khi thể hiện quan hệ yêu đương
không lành mạnh giữa Trình Trung Ngộ và Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo,
giữa Hà Nhân và hai nàng họ Đào, họ Liễu trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây và
họ đã kết luận: đối với truyện này Nguyễn Dữ đã có lời phê bình để phê phán
những quan niệm đồi truỵ và khẳng định lại những giáo điều về “đức hạnh tiết
8
nghĩa” và bình luận thêm “tuy thông cảm với khát vọng yêu đương của con
người nhưng quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ nét tích cực của
lễ giáo nho phong. Điều đó phản ánh thái độ đầy mâu thuẫn trong tư tưởng và
tình cảm của Nguyễn Dữ”.
* Song song đó, còn có các bài viết, công trình đã nghiên cứu về một số
khía cạnh chuyên biệt của Truyền kỳ mạn lục có ý nghĩa trực tiếp đối với việc
thực hiện đề tài, chẳng hạn như:
Bài viết Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ (Tạp chí Văn học, số 1, năm 1987) của Nguyễn Phạm Hùng. Đây là
bài viết mà chúng tôi quan tâm nhất, nội dung bài viết có ý nghĩa định hướng
cho việc triển khai đề tài. Theo tác giả, Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm đã
đặt ra những vấn đề về người phụ nữ. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý nhận xét của
tác giả: “Niềm khát khao hạnh phúc gia đình là chủ đề chính của nhiều truyện.
Mâu thuẫn khao khát hạnh phúc đó với các thế lực tàn bạo của xã hội chính là
hạt nhân nghệ thuật của những truyện này”. Không phải đến Nguyễn Dữ thì vấn
đề này mới được nhắc đến. Thực ra, trong những tác phẩm của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Húc, chúng ta đã thấy những vấn đề ấy được đề cập. Tuy nhiên, ở
những tác giả ấy, niềm khao khát hạnh phúc của con người đặc biệt là người phụ
nữ trong xã hội phong kiến, và sự xung đột giữa khát khao cao đẹp của con
người với sự hẹp hòi, gò bó, tàn nhẫn của chế độ xã hội đương thời chỉ đơn
thuần dừng lại ở sự nhận thức trên bình diện tâm lí và được thể hiện trong suy
nghĩ, trong diễn biến nội tâm của nhân vật mà thôi. Đến Truyền kỳ mạn lục,
niềm khát khao ấy, mâu thuẫn ấy đã thực sự trở thành đối tượng của sự nhận
thức mang tính thẩm mĩ một cách trọn vẹn, đó trở thành ước vọng chung của
người phụ nữ trong đời sống văn học. Nguyễn Dữ đã phản ánh, lên án, phê phán
những gì của xã hội đã trái với đạo lí luân thường, trái với khát vọng tự do, hạnh
phúc chính đáng của con người. Đó chính là một trong những biểu hiện của trào
lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa. Và đây cũng chính là khuynh hướng sáng tác
9
chung của thời đại. Từ bài viết, ta có thể nhìn nhận tác phẩm của Nguyễn Dữ
được xem là mở đầu cho khuynh hướng phản ánh hiện thực xã hội đương thời
để rồi những thế hệ văn sĩ sau đó tiếp tục kế thừa và phát triển nó, tạo nên những
tên tuổi nổi tiếng như: Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương, Phạm Thái… Trong công trình này, Nguyễn Phạm Hùng đã đề
cập rất rõ về khuynh hướng sáng tác Truyền kỳ mạn lục ở phương diện nội dung,
tuy nhiên, về ở phương diện nghệ thuật tác giả vẫn còn chưa đi sâu, chưa đề cập
đến các phương thức sáng tác trong tác phẩm.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Dương (Đại học Sư phạm Hà Nội, năm
1996) đã nghiên cứu về Số phận người phụ nữ và các phương thức thể hiện số
phận ấy trong Truyền kỳ mạn lục. Tuy nhiên, hai phương thức tự sự và trữ tình
trong tác phẩm cũng chưa được quan tâm đúng mức mà tác giả chỉ khái quát về
các phương thức thể hiện số phận người phụ nữ trong tác phẩm.
Luận văn thạc sĩ Loại hình các nhân vật trong truyền kỳ trung đại Việt Nam
qua ba tác phẩm tiêu biểu: Thánh tông di thảo, Truyền kỳ mạn lục, Lan trì kiến
văn lục của Trương Thị Hoa (Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, năm
2011) đã tiếp cận và khai thác Truyền kỳ mạn lục theo loại hình nhân vật và
cũng chưa đề cập đến vấn đề mà luận văn đã đề ra.
Luận văn thạc sĩ Vị trí của thể loại truyền kỳ trong tiến trình phát triển của
văn học Việt Nam của Trần Nghi Dung (Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2012) đã tiếp cận tác phẩm từ góc nhìn thể loại để đi đến đánh giá vị
trí quan trọng của Truyền kỳ mạn lục nói riêng và tất cả những tác phẩm thuộc
thể loại truyền kì nói chung trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam.
Tác giả cũng không đặt ra vấn đề tiếp cận Truyền kỳ mạn lục theo phương thức
sáng tác nghệ thuật.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể, các học giả, các công trình nghiên cứu đã
có những nhận xét tương đối thống nhất về những đóng góp đáng kể về mặt
nghệ thuật của tập truyện. Tuy nhiên, do những mục đích khác nhau mà các tác
10
giả chưa quan tâm cụ thể và đi sâu vào sự biểu hiện cũng như hiệu quả quan
trọng của việc kết hợp hai phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn
lục.
Với mong muốn kế thừa và phát huy những thành tựu nghiên cứu Truyền
kỳ mạn lục của các thế hệ đi trước, chúng tôi chọn vấn đề sự kết hợp phương
thức tự sự, trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục nhằm cố gắng hoàn chỉnh và làm
nổi rõ hơn vấn đề đã nêu, hy vọng góp thêm ý kiến vào việc nghiên cứu một tác
phẩm văn học lớn và có giá trị nhiều mặt này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Như trên đã nói do yêu cầu và mục đích, nhiệm vụ cụ thể của đề tài,
chúng tôi chọn những biểu hiện của phương thức tự sự, phương thức trữ tình và
chỉ ra tác dụng nghệ thuật của sự kết hợp hai phương thức sáng tác ấy trong
Truyền kỳ mạn lục. Tác phẩm có tất cả hai mươi truyện, chia làm bốn quyển,
được viết theo lối tản văn, biền văn xen lẫn thơ ca, được Nguyễn Bỉnh Khiêm
phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ Nôm. Dù độ ngắn
dài của mỗi câu chuyện là khác nhau, dù mỗi câu chuyện chuyển tải mỗi tư
tưởng của tác giả là khác nhau nhưng nhìn chung thì tất cả những câu chuyện ấy
đều có sự kết hợp nhuần nhuyễn, linh hoạt giữa hai phương thức tự sự và trữ
tình. Tuy nhiên tuỳ mức độ thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm mà tác giả
có cách tổ chức, thể hiện sự kết hợp hai phương thức tự sự và trữ tình đậm nhạt
khác nhau trong mỗi câu chuyện. Điều này cũng cho chúng ta thấy tài năng sáng
tạo của một tác giả lớn. Để thuận tiện cho việc triển khai các vấn đề đã đặt ra,
chúng tôi đồng tình và sử dụng thứ tự các câu chuyện theo tập truyện Truyền kỳ
mạn lục, bản dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện, Nhà xuất bản Văn nghệ, Hội
nghiên cứu giảng dạy Văn học Thành phố Hồ Chí Minh, in lại năm 1988, cụ thể
như sau:
11
- Truyện thứ nhất: Câu chuyện ở đền Hạng Vương (Hạng Vương từ kí)
- Truyện thứ hai: Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái châu (Khoái Châu nghĩa
phụ truyện)
- Truyện thứ ba: Chuyện cây gạo (Mộc miên thụ truyện)
- Truyện thứ tư: Chuyện gã Trà đồng giáng sinh (Trà đồng gián đản lục)
- Truyện thứ năm: Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây (Tây viên kỳ ngộ kí)
- Truyện thứ sáu: Chuyện đối tụng ở Long cung (Long đình đối tụng lục)
- Truyện thứ bảy: Chuyện nghiệp oan của Đào thị (Đào thị nghiệp oan kí)
- Truyện thứ tám: Chuyện chức Phán sự đền Tản viên (Tản Viên từ phán sự
lục)
- Truyện thứ chín: Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên (Từ Thức tiên hôn lục)
- Truyện thứ mười: Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào (Phạm Tử Hư
du thiên tào lục)
- Truyện mười một: Chuyện yêu quái ở Xương Giang (Xương Giang yêu
quái lục)
- Truyện mười hai: Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Nưa (Na sơn
tiều đối lục)
- Truyện mười ba: Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào (Đông Trào
phế tự lục)
- Truyện mười bốn: Chuyện nàng Tuý Tiêu (Tuý Tiêu truyện)
- Truyện mười lăm: Chuyện bữa tiệc ở Đà Giang (Đà Giang dạ ẩm kí)
- Truyện mười sáu: Chuyện người con gái Nam Xương (Nam Xương nữ tử
lục)
- Truyện mười bảy: Chuyện Lý tướng quân (Lý tướng quân truyện)
- Truyện mười tám: Chuyện Lệ Nương (Lệ Nương truyện)
- Truyện mười chín: Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa (Kim Hoa thi thoại kí)
- Truyện hai mươi: Chuyện tướng Dạ Xoa (Dạ Xoa bộ soái lục)
12
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm của Nguyễn Dữ, được viết bằng chữ Hán,
ra đời vào thế kỉ XVI, đến nay đã nhiều lần tái bản. Khi thực hiện đề tài này,
chúng tôi đã dùng bản Truyền kỳ mạn lục do Trúc Khê Ngô Văn Triện (1943)
dịch, Nhà xuất bản Văn nghệ, Hội nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố Hồ
Chí Minh, in lại 1988, bởi vì Trúc Khê Ngô Văn Triện được giới nghiên cứu văn
học đánh giá rất cao về tài dịch thuật và vốn Hán học, đặc biệt là Văn Tâm trong
Từ điển Văn học (bộ mới) đánh giá: “vốn Hán học sâu rộng, và bút pháp cũng
khá nhuần nhị, ông truyền đạt tư liệu lịch sử có hệ thống (…) khá hấp dẫn với
những lời bình đúng mực” [32, tr.1828].
Theo yêu cầu của đề tài, trong luận văn này chúng tôi tập trung nghiên cứu
hai phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục và chỉ ra hiệu quả
thẩm mỹ của sự kết hợp hai phương thức trên trong tác phẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau đây:
- Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp được sử dụng chủ yếu trong
luận văn. Bằng phương pháp phân tích, chúng tôi tìm hiểu cụ thể và đào sâu mỗi
câu chuyện trong tác phẩm về các khía cạnh nội dung và nghệ thuật, từ đó tìm ra
những vấn đề có liên quan, phục vụ cho đề tài đang nghiên cứu. Sau khi phân
tích mỗi truyện cụ thể, phương pháp tổng hợp được sử dụng để tìm ra quy trình
hoặc sự đồng loạt, thống nhất trong cách kết hợp các phương thức tự sự và trữ
tình trong toàn tác phẩm Truyền kỳ mạn lục.
- Tiếp theo là phương pháp thống kê, phân loại. Sự kết hợp của phương
thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục được thể hiện ở nhiều truyện, ở
nhiều dạng thức khác nhau. Vì vậy, trên cơ sở khảo sát, lựa chọn những truyện
cụ thể có sự kết hợp hiệu quả các phương thức sáng tác kể trên, chúng tôi thống
kê, phân loại và khái quát thành những dạng thức thể hiện sự kết hợp của
phương thức tự sự và trữ tình trong toàn bộ tác phẩm (thống kê, phân loại cách
13
thức tổ chức, cách thâm nhập của yếu tố trữ tình vào cốt truyện, vào nhân vật
(ngôn ngữ, hành động, nội tâm) hay vào các tình tiết, sự kiện…) Từ đó, có thể
thấy rõ và sâu sắc hơn cách kết hợp của phương thức tự sự và trữ tình trong tác
phẩm để rút ra kết luận về tác dụng nghệ thuật của sự kết hợp của hai phương
thức ấy trong tác phẩm.
- Để làm rõ hơn nét độc đáo của việc kết hợp phương thức tự sự và trữ tình
trong Truyền kỳ mạn lục nói riêng và trong các tác phẩm thuộc thể loại truyền kỳ
hoặc những tác phẩm có những đặc trưng gần với thể loại truyền kỳ của văn học
trung đại Việt Nam nói chung, chúng tôi sử dụng phương pháp loại hình.
- Cuối cùng phương pháp so sánh cũng được sử dụng nhằm so sánh sự kết
hợp hai phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục và các tác phẩm
khác trước và sau khi Truyền kỳ mạn lục xuất hiện. Bên cạnh đó, so sánh giữa
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Việt Nam) và Tiễn đăng tân thoại của Cù
Hựu (Trung Quốc) cũng làm nổi bật sự độc đáo của Truyền kỳ mạn lục, một lần
nữa khẳng định giá trị nhiều mặt của “thiên cổ kỳ bút” này.
Ngoài ra, trong bài viết, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác
để bổ trợ cho việc tìm hiểu kỹ và sâu tác phẩm.
6. Đóng góp của luận văn
Trên tinh thần của thế hệ đi sau học hỏi, kế thừa và phát huy những thành
tựu nghiên cứu về Truyền kỳ mạn lục của các thế hệ đi trước, chúng tôi mong
muốn góp thêm một phần nhỏ vào kho tri thức liên quan đến tác phẩm bằng việc
bổ sung thêm một số thành tựu về mặt nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục, từ đó
có thể vận dụng những kiến thức thiết thực này một cách cụ thể, linh hoạt vào
thực tế giảng dạy Truyền kỳ mạn lục trong nhà trường.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có ba phần cơ bản: mở đẩu, nội dung và kết luận.
Mở đầu, người viết trình bày cụ thể về lí do chọn đề tài, mục đích nghiên
cứu, đối tượng và phạm nghiên cứu, phương pháp, những đóng góp của luận
14
văn, cấu trúc luận văn. Phần này, người viết chủ yếu là trình bày những vấn đề
chung diễn giải quá trình hình thành và thực hiện triển khai đề tài nghiên cứu sự
kết hợp phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục.
Nội dung, người viết thực hiện ba chương. Cụ thể như sau:
Ở chương 1 - Một số vấn đề chung, người viết trình bày những vấn đề
chung, chủ yếu là những lí thuyết làm cơ sở để triển khai nội dung đề tài đúng
hướng và đạt hiệu quả. Đó là những lí luận về thể loại truyền kỳ (khái niệm,
nguồn gốc và đặc trưng thể loại); những lí thuyết về các phương thức sáng tác
trong văn học, cụ thể là hai phương thức tự sự và trữ tình; những kiến thức có
liên quan đến Truyền kỳ mạn lục như tác giả, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm,
sự liên hệ giữa Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ với Tiễn đăng tân thoại của
Cù Hựu. Tất cả là những tiền đề rất quan trọng để người viết triển khai vấn đề
một cách khoa học.
Ở chương 2 - Phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục,
những dạng thức kết hợp và tác dụng nghệ thuật, người viết sẽ trình bày cụ thể,
đi sâu những vấn đề chính của đề tài, các biểu hiện của hai phương thức tự sự và
trữ tình, ý nghĩa riêng lẽ cũng như hiệu quả nghệ thuật của việc kết hợp của cả
hai phương thức ấy trong tác phẩm. Người viết sẽ thực hiện công việc phân tích,
thống kê, phân loại, tổng hợp, so sánh để rút ra kết luận một trong những điểm
đặc sắc về phương diện nghệ thuật của tác phẩm chính là sự kết hợp độc đáo
giữa hai phương thức tự sự và trữ tình. Và sự kết hợp này đã góp phần thể hiện
sâu sắc nội dung, tư tưởng của toàn tác phẩm, đồng thời cũng cho thấy vai trò
quan trọng trong việc thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của Truyền kỳ
mạn lục.
Ở chương 3 - Đóng góp về nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục trong nền văn
học Việt Nam, để hình thành cái nhìn toàn diện về tác phẩm, người viết đã trình
bày sự liên quan, ảnh hưởng giữa Truyền kỳ mạn lục với những tác phẩm xuất
hiện trước và sau nó, chủ yếu là các tác phẩm là truyện truyền kỳ hoặc những tác
15
phẩm có liên quan gần gũi đến thể loại truyền kỳ trong nền văn học Việt Nam.
Từ đó, người viết có thể khẳng định thành công vượt bậc về cả nội dung lẫn
nghệ thuật của tác phẩm vang bóng một thời này trong nền văn học trung đại
của Việt Nam.
Kết luận, người viết tổng hợp và khẳng định lại một lần nữa những kết quả
đạt được của đề tài. Đồng thời cũng trình bày lập trường, suy nghĩ và đánh giá
riêng của bản thân về tác phẩm “thiên cổ kỳ bút” trong lịch sử văn học nước
nhà.
16
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thể loại truyền kỳ
1.1.1. Khái niệm “truyền kỳ”
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “truyền kỳ” có nghĩa là “thể loại tự
sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở đời Đường. Tên gọi này
cuối đời Đường mới có. Kỳ có nghĩa là không có thực, nhấn mạnh tính chất hư
cấu” [20, tr.230]. Trong Từ điển Văn học (bộ mới) thì khẳng định rằng: Truyền
kỳ là “một hình thức văn xuôi tự sự Trung Quốc, bắt nguồn từ truyện kể dân
gian, sau các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, sử dụng các môtip kỳ
quái, hoang đường lồng vào trong cốt truyện có ý nghĩa trần thế” [32, tr.447].
Và theo tác giả Đoàn Lê Giang, chữ “kỳ” trong “truyền kỳ” có nguồn gốc từ tác
phẩm “Truyền kỳ” của Bùi Hình, cũng có nghĩa là kỳ lạ, hoang đường. Trong
tác phẩm Đường Tống truyền kỳ, Lỗ Tấn cho rằng “kỳ” trong khái niệm không
phải hiểu theo nghĩa là sự kỳ ảo, kỳ dị mà phải hiểu như một quan niệm văn học,
một phương pháp sáng tác, cách hiểu này bắt buộc các tác giả phải có sự coi
trọng yếu tố “lạ” trong khi sáng tác.
Nhìn chung, khái niệm “truyền kỳ” được hiểu khá thống nhất. Đó là một
thể loại văn xuôi tự sự thời trung đại, dùng những yếu tố hoang đường, kỳ lạ để
phác hoạ và phản ánh đời sống hiện thực, thể hiện quan điểm sống của bản thân
tác giả trước cuộc đời đầy dâu bể.
1.1.2. Nguồn gốc thể loại truyền kỳ
“Truyền kỳ” cũng giống như một số thể loại khác như “tiểu thuyết” hoặc
“thơ Đường luật” đều có nguồn gốc rất lâu từ Trung Quốc. “Truyền kỳ” được
xem là thể loại truyện ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc và thể loại này
thịnh hành nhất là ở thời Đường (từ năm 618 đến năm 774) [86, tr.1].
Vào đời Nguỵ Tấn (từ thế kỷ thú III đến thế kỷ thứ IV), chưa có khái
niệm “truyền kỳ” mà chỉ có khái niệm “tiểu thuyết”, nó tồn tại dưới dạng chí
quái (chuyện ghi chép những điều quái dị hoặc những chuyện dã sử). Thuật ngữ
17
“tiểu thuyết” chính là mầm mống của “truyền kỳ”. Vào đời Đường, người ta
vẫn còn nghĩ “tiểu thuyết” là một khái niệm đơn giản chỉ một dạng văn viết về
những chuyện lãng mạn, xa rời cuộc sống thực tế, không thể tin. Có người đã
gạt tiểu thuyết ra khỏi hệ thống văn học chính thống quốc gia. Do sự phân tầng
trong giai cấp xã hội, mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, nhu cầu phản ánh
hiện thực cuộc sống ngày càng cao, tiểu thuyết không ngừng mở rộng nội dung
và hoàn thiện về hình thức nghệ thuật, đạt đến độ chín trong các tác phẩm. Theo
thị hiếu xã hội, tác giả phải lựa chọn một kết cấu lạ để thể hiện tư tưởng, quan
điểm muốn gửi gắm. Từ đó, tiểu thuyết dần dần biến tướng và được thay thế bởi
khái niệm “truyền kỳ”. Với sự ra đời của truyện Cổ kính kí của Vương Độ (?-?),
Bổ Giang tổng Bạch viên truyện (không rõ tác giả), Du tiên quật (Trương Thốc),
truyền kỳ thật sự đã trở thành thể loại văn học chính thống tồn tại độc lập và
quan trọng trong nền văn học Trung Quốc. Một người thời Minh là Hồ Ứng
Luân đã từng khẳng định: “Những chuyện biến hoá kỳ lạ rất thịnh vào thời Lục
triều, có điều phần lớn là ghi chép lại những điều bịa đặt chứ đâu phải truyện
biến hoá, đến người đời Đường, mới có sự cấu tứ ly kỳ, mượn tiểu thuyết để gửi
gắm ngọn bút” [52, tr.659]. Truyền kỳ không chỉ là những truyện thuật lại
những chuyện được truyền trong dân gian mà nó còn là phương tiện ngôn ngữ
để tác giả thể hiện những suy nghĩ, những cảm xúc, những trăn trở trước cuộc
đời. Thể loại truyền kỳ tiếp tục phát triển ở đời Tống, Nguyên (1279 - 1368).
Cuối đời Nguyên, đầu đời Minh (thế kỉ XIV), có sự xuất hiện Tiễn đăng tân
thoại của Cù Hựu (1341 - 1427), đây là tác phẩm truyền kỳ nổi tiếng, tiêu biểu
cho thể loại truyền kỳ của Trung Quốc và có ảnh hưởng lớn đến truyền kỳ các
nước trong khu vực, tiêu biểu như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam… Sang đời
nhà Thanh (1644 - 1911), Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640 - 1715) ra đời
đã làm rạng danh cho thể loại truyền kỳ của nền văn học Trung Quốc.
Trong nền văn học Việt Nam, những mầm mống của “truyền kỳ” đã có mặt
từ rất sớm ở Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thánh Tông di thảo. Đến
18
Truyền kỳ mạn lục thì khái niệm “truyền kỳ” mới chính thức xuất hiện và thật sự
phát triển đến đỉnh cao về nội dung lẫn hình thức.
Nhìn tổng quát, ta thấy truyền kỳ là một thể loại văn xuôi xuất hiện khá
sớm trong lịch sử văn học Trung Quốc. Lúc đầu truyền kỳ chưa phải là một thể
loại độc lập, nó chỉ là loại chí quái xuất hiện thời Lục triều, về sau loại này phát
triển độc lập thành thể loại truyền kỳ và du nhập vào nhiều nước trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Bằng ý thức tự hào và giữ gìn tinh hoa của dân tộc, người
Việt Nam đã sáng tác truyện truyền kỳ theo cách riêng của mình. Những tác
phẩm luôn có sự kết hợp giữa sự tiếp thu và sáng tạo, gắn liền với các nền văn
hoá dân tộc (chủ yếu là văn hoá dân gian và văn xuôi lịch sử). Truyền kỳ của
văn học Việt Nam có đóng góp lớn cho thể loại truyền kỳ trong nền văn học
toàn khu vực đồng văn thời trung đại.
1.1.3. Đặc trưng thể loại
Đặc trưng của mỗi thể loại trong sáng tác văn học là một trong những vấn
đề quan trọng trong lý luận văn học. Người đọc có thể tiếp cận tác phẩm với
nhiều góc nhìn khác nhau. Xét về phương diện thể loại, truyền kỳ có những đặc
trưng về nội dung và nghệ thuật sau:
* Về nội dung:
Truyền kỳ là một thể loại văn học đậm giá trị phản ánh hiện thực. Yếu tố
kỳ lạ ở đây cần phải hiểu chính là những việc thực, người thực trong cuộc đời
nhưng được phản ánh bằng lối tư duy, sáng tạo mới lạ với kết cấu ly kỳ và
những chi tiết hoang đường. Tác phẩm truyền kỳ chứa đựng nội dung phản ánh
hiện thực xã hội rất đa dạng, phong phú. Có dạng chỉ đơn thuần là miêu tả cuộc
đời biến ảo như mơ, như mộng; có loại chuyên ca ngợi tình yêu lứa đôi nam nữ;
có loại thì chuyên ca ngợi những hào sĩ hiệp khách giang hồ; cũng có loại lên án,
phê phán thói hư tật xấu của tầng lớp thanh thiếu niên, thói ham tiền hám lợi của
các giai tầng thống trị...
19
Có thể thấy nơi đây một xã hội đầy rẫy những bất công, nhiễu nhương với
những thế lực uy quyền cậy thế hà hiếp người nghèo khổ. Vua quan thì kết bè
kết cánh, bóc lột nhân dân, người thấp cổ bé họng thì lại nhút nhát, chịu đựng.
Trong TKML, hiện lên khá rõ sự tàn nhẫn, vô nhân của bậc tối cao trong xã hội
đương thời. Đó là cảnh chính sự thối nát cuối triều nhà Trần và triều nhà Hồ.
Tác giả mượn chuyện vua nước người ngụ ý nhắc nhở vua nước mình qua lời
của Hồ Tông Thốc đối đáp với Hạng Vương trong Câu chuyện ở đền Hạng
Vương: “Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không ở sức; thu tấm lòng thiên
hạ, ở nhân chứ không phải bạo. Nhà vua thì chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương
cường làm đức. Chém Tống nghĩa là một tướng mạnh, vô quân đến đâu! Giết Tử
Anh là người đã hàng, bất võ quá lắm! Hàn sinh vô tội mà bị luộc, hình pháp
thái thường; A Phòng vô cố mà bị thiêu, hung uy quá tệ!”. Trong Chuyện đối
đáp của tiều phu ở núi Nưa, người tiều phu đã nhận xét về vua nhà Hồ “Ông ấy
thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc
cạn của kho để mở phố Hoa Nhai; hao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng
vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn…”, một triều đại mà “hình ngục có của
đút là xong, quan chức có tiền mua là được”, vua chẳng qua là hôn quân vô đạo
“kẻ dâng lời ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thưởng”. Chính thế, đời sống
nhân dân đã cơ cực lại còn cơ cực hơn, nạn đói kém ngày càng trầm trọng! Vợ
phải bán con để ma chay cho chồng “Người vợ nghèo kiết, không có tiền để đưa
ma chồng về quê được, phải đem bán con gái nhỏ Thị Nghi cho một nhà phú
thương họ Phạm” (Chuyện yêu quái ở Xương Giang) hoặc người chết hàng loạt,
hồn ma đói khát vất vưỡng, dân tình điêu đứng lầm than: “Cuối đời Trùng
Quang nhà Trần, người chết chóc nhiều, những oan hồn không chỗ tựa nương”,
“những oan hồn không chỗ tựa nương thường họp thành đàn lũ, hoặc gõ cửa
hàng cơm để kiếm ăn, hoặc đón cô gái chơi để kết duyên tạm, ai va chạm thì
bệnh nguy khốn, ai cầu cúng thì thấy hết phép hay, hoành hành ở đồng nội
không biết kiêng sợ gì cả” (Chuyện tướng Dạ Xoa). Lời tiên ông nói với vua Lê
20
Thánh Tông trong TTDT cũng cho thấy sự hời hợt của bậc tối cao trong việc trị
vì thiên hạ: “Đến đời Huệ Tông, trễ nãi chính trị, ruồng bỏ nhạc công, hàng
ngày say sưa hát hỏng, múa giáo tự xưng là tướng nhà trời, uỷ cả chính quyền
cho nhà Trần” (Truyện ký về một giấc mộng).
Những tệ lậu của xã hội, thói hoang dâm vô độ của trai gái, của những quan
nhân, thương buôn, sư sãi cũng được các tác giả chú ý thể hiện. Ở TKML, hồn
ma Nhị Khanh đã thể hiện sự đắm say trong ái ân xác thịt ngay lần gặp đầu tiên
với Trình Trung Ngộ (Chuyện cây gạo): “Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác
giấc chiêm bao, chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo
một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái
ân, cũng không thể được nữa”. Hay tính nết và hành động đáng chê trách của
nàng Hàn Than và sư Vô Kỷ: “hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, chẳng
khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh kệ
nữa” (Chuyện nghiệp oan của Đào thị). Quả thật, một xã hội loạn lạc, rối ren,
muôn vàn tội ác! Các tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực có giá trị để nhắc
nhở, thức tỉnh mọi người.
Ngoài ra, các tác phẩm thuộc thể loại truyền kỳ đều mang đậm giá trị
nhân đạo và giàu chất nhân văn.
Trước hết là sự phê phán, lên án những thế lực hung tàn mà tiêu biểu đó
chính là bọn vua quan, gây phiền nhiễu cho cuộc sống dân lành; những thanh
niên và cả sư sãi vô lương, đam mê sắc dục làm bại hoại thuần phong mỹ tục
của dân tộc. Thần Thuồng Luồng làm yêu làm quái cướp vợ người (Chuyện đối
tụng ở Long cung), viên quan họ Hoàng (Chuyện yêu quái ở Xương Giang) và
chàng lái buôn Trình Trung Ngộ (Chuyện ma cây gạo) đam mê sắc dục đến lâm
trọng bệnh và chết đi hoá thành những cô hồn ngạ quỷ…
Đồng thời các tác giả cũng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với những số phận
bất hạnh, hẩm hiu trong xã hội, đặc biệt là người phụ nữ; đề cao tình yêu chung
thuỷ, ca ngợi những tấm gương cương trực chính nghĩa của các anh hùng. Tình
21
yêu chân chính, tình vợ chồng thuỷ chung đến chết không thôi được khẳng định
giữa các nhân vật trong TKML như Trọng Quỳ và Nhị Khanh trong Chuyện
người nghĩa phụ ở Khoái Châu, Lệ Nương và Phật Sinh trong Chuyện Lệ
Nương. Những tấm gương phụ nữ tiết hạnh được ca ngợi như nàng Vũ Thị Thiết
trong Chuyện người con gái Nam Xương. Trong TKTP, nàng Nguyễn Cơ đẹp
người đẹp nết, chấp nhận hi sinh để bảo toàn tính mạng cho vua và các binh sĩ
(Truyện đền thiêng ở cửa bể)), nàng Liễu Hạnh son sắt với Đào Lang (Truyện
nữ thần ở Vân Cát). Trong LTKVL thì có nàng ca kỷ họ Nguyễn (Ca kỷ họ
Nguyễn), phu nhân họ Nguyễn hiếu thuận, tiết hạnh liều chết theo chồng (Người
con gái trinh liệt ở Cổ Trâu)…
Nhìn chung, các truyện truyền kỳ đều thể hiện đầy đủ hai nội dung cơ bản:
phản ánh hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Truyện truyền kỳ đã góp
phần hướng văn học trung đại Việt Nam đến gần việc thể hiện một cách chân
thực đời sống của quần chúng nhân dân, tỏ rõ được thái độ cảm thông, thương
xót của tác giả đối với những số phận bất hạnh, phê phán những thế lực chà đạp
nhân phẩm của con người, góp phần bảo tồn những nét những tinh hoa của
truyền thống văn hoá dân tộc.
* Về nghệ thuật:
Truyện truyền kỳ có sự ảnh hưởng rất lớn từ các truyện dân gian. Ảnh
hưởng rõ nhất đó chính là cốt truyện. Cốt truyện ở truyện truyền kỳ chịu sự ảnh
hưởng bởi các môtip cốt truyện dân gian. Trong TTDT, truyện Chồng dê có cốt
truyện rất quen thuộc với các truyện dân gian Lấy vợ cóc, Lấy chồng dê. Truyện
Ngọc nữ về tay chân chủ mang dáng dấp của truyện dân gian Sơn tinh, Thuỷ
Tinh. Trong TKML, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên được tác giả sử dụng trí tưởng
tượng phong phú sáng tạo lại từ truyện dân gian Từ Thức lên tiên, tương tự
Chuyện người con gái Nam Xương là phỏng tác của truyện cổ Vợ chàng Trương
rất phổ biến được truyền tụng trong dân gian. Trong TKTP, truyện Vân Cát thần
nữ được tác giả sáng tạo lại từ truyền thuyết Bà chúa Liễu Hạnh (một trong tứ
22
bất tử nổi tiếng trong văn hoá và trong văn học Việt Nam) bởi tấm gương tiết
hạnh đã hoá Thánh của người phụ nữ. Chuyện tình ở Thanh Trì trong LTKVL
khiến ta liên tưởng đến chuyện dân gian Trương Chi, Mỵ Nương bởi mối tình
son sắt, tình cảm thuỷ chung đáng trân trọng giữa người với người.
Các câu chuyện truyền kỳ có điểm tương tự với truyện dân gian ở cốt
truyện. Cách mở đầu là lời của tác giả giới thiệu về tên, quê quán hay nghề
nghiệp, xuất thân của nhân vật. Cách mở đầu rất quen thuộc trong các truyện
dân gian được thể hiện khá đậm nét trong các tác phẩm truyền kỳ. Thử quan sát
vài ví dụ: “Ngày xưa, ở làng Nam Xương có cô gái tên Vũ Thị Thiết, người đã
xinh đẹp lại thuỳ mị, nết na…” (Truyện dân gian Vợ chàng Trương). Trong
TKML thì “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình đã thuỳ mị,
nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp…” (Chuyện người con gái Nam Xương), hay
trong TTDT: “Cuối niên hiệu Nguyên Phong đời nhà Trần, ở Mai Châu có một
nữ yêu tinh biến hiện nhiều hình quái gở. Khi nó hiện ra người đầu to bằng
bánh xe, hoặc hai đầu sáu mình, ai trông thấy cũng chết khiếp…” (Truyện yêu
nữ ở Châu Mai). Tiếp nối đó là mạch kể của tác giả về hàng loạt sự việc, sự kiện
xoay quanh cuộc đời của nhân vật, qua đó thể hiện phẩm chất thiện hay ác, tốt
hay xấu của nhân vật. Kết thúc truyện truyền kỳ thường có hậu rất giống với các
truyện dân gian với tinh thần “thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”.
Các tình tiết trong truyện truyền kỳ còn ảnh hưởng nhiều từ các môtip
truyện dân gian. Chẳng hạn môtip người lấy vật trong các truyện Duyên lạ nước
hoa (TTDT), Truyện kỳ ngộ ở trại Tây (TKML)…; môtip vợ bị cướp trong các
truyện Chuyện nàng Tuý Tiêu và Chuyện đối tụng ở Long cung (TKML); môtip
con người xuống thuỷ cung, âm ty hay thiên tào trong các truyện Chuyện tướng
Dạ Xoa, Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào (TKML), Gặp Tiên ở hồ Lãng Bạc
(TTDT)…; môtip nằm mộng, điềm báo trong Tháp báo ân (LTKVL), Câu chuyện
ở đền Hạng Vương, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa (TKML); môtip thụ thai
thần kỳ được thể hiện trong khá nhiều truyện: Chuyện gã trà đồng giáng sinh,
23
Chuyện yêu quái ở Xương Giang (TKML), Thần nữ Vân Cát (TKTP), Duyên lạ
xứ hoa (TTDT)….
Truyện truyền kỳ là những truyện mang đậm thủ pháp nhân hoá, tạo ra
những yếu tố kỳ ảo, hoang đường. Sáng tác văn học nghệ thuật không chỉ tái
hiện cuộc sống hiện thực và con người một cách máy móc mà phải thể hiện,
phản ánh chúng sao cho mang tính nghệ thuật sáng tạo. Nhân hoá là một trong
những thủ pháp phổ biến trong văn học trong quá trình phản ánh một cách nghệ
thuật về đời sống hiện thực của con người. Đây là thủ pháp không chỉ quen
thuộc với những sáng tác dân gian mà còn phổ biến rộng rãi trong văn học viết
và đặc biệt trở thành thủ pháp quan trọng trong việc thể hiện yếu tố kỳ ảo trong
các truyện thuộc thể loại truyền kỳ. Các loại hoa được nhân hoá làm người và có
những cung bậc cảm xúc hỉ, nộ, ái, ố, si như Đào Nương và Liễu Nương trong
Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây, con cáo hoá thành xử sĩ họ Hồ và vượn già hoá tú tài
họ Viên luận bàn về chính sự như con người trong Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà
Giang (TKML), chiếc Tháp cũng có tình có nghĩa như con người trần thế trong
Tháp báo ân (LTKVL), con cóc và con ếch cũng có tính thiện và ác, cũng có
tham, sân, si giống như con người trong Bài ký dòng dõi con Thiềm thừ (TTDT).
Trong truyện truyền kỳ, quan niệm về thế giới, về con người vừa có
những đặc điểm phổ biến vừa mang những đặc thù của từng tác phẩm. Nhân
vật thường đơn giản, tính cách nhân vật thể hiện qua hành động, ngôn ngữ, nội
tâm ít mâu thuẫn do chịu ảnh hưởng của bút pháp trung đại. Đặc điểm sống còn
của truyện truyền kỳ là mang tính chất kỳ lạ. Tác giả cần phải xây dựng nên một
thế giới thật khác lạ với thế giới thực của cuộc sống con người. Hầu như, các
truyện truyền kỳ đều có sự đan xen giữa thế giới thực với thế giới ảo, giữa trần
thế và địa phủ, giữa người và ma. Chẳng hạn ở các truyện Chuyện cây gạo,
Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Chuyện nghiệp oan của Đào thị (TKML), Truyện hai
phật cãi nhau, Truyện yêu nữ Châu Mai (TTDT), hay Truyện đền thiêng ở cửa
bể, Truyện nữ thần ở Vân Cát (TKTP)…
24
Các văn bản văn học thuộc thể loại truyền kỳ đều là những tác phẩm
viết bằng văn xuôi, thường là tản văn, biền văn có dung lượng ngắn gọn. Tác
phẩm VĐUL của Lý Tế Xuyên gồm hai mươi bảy truyện, LNCQ của Trần Thế
Pháp gồm hai mươi hai truyện, NÔML của Hồ Nguyên Trừng gồm hai mươi tám
thiên mục (truyện), TTDT của Lê Thánh Tông gồm mười chín truyện, TKML của
Nguyễn Dữ gồm hai mươi truyện, TKTP của Đoàn Thị Điểm gồm ba truyện,
VTTB của Phạm Đình Hổ gồm chín mươi truyện, LTKVL của Vũ Trinh gồm bốn
mươi lăm truyện. TTNgL của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án gồm tám mươi chín
truyện. Số câu, số đoạn ở mỗi truyện không nhiều, chẳng hạn Truyện dòng dõi
con Thiềm thừ (TTDT) vỏn vẹn chỉ có sáu đoạn, tất cả có hai mươi chín câu, hay
Người làm mướn ở kinh thành (TTNgL) duy nhất một đoạn gồm bảy câu.
Tóm lại về mặt nghệ thuật, những nét đặc trưng cơ bản của truyện truyền
kỳ là chịu ảnh hưởng cốt truyện và các môtip truyện dân gian, mang yếu tố kỳ
ảo. Quan niệm về con người vừa cụ thể vừa phổ quát, dung lượng thì ngắn gọn
thường được thể hiện bằng hình thức văn xuôi, biền văn hay tản văn góp phần
quan trọng trong việc tạo sự hấp dẫn cho truyện và phản ánh chân thực cuộc
sống khách quan, qua đó bộc lộ thái độ, quan niệm sống của tác giả. Những đặc
trưng cơ bản về phương diện nội dung và nghệ thuật nêu trên đã góp phần tạo
nên sự độc đáo cho thể loại truyền kỳ, góp phần làm nên sự phong phú cho văn
xuôi trung đại Việt Nam nói riêng và thêm phần khẳng định những nét đặc sắc
cho nền văn học trung đại của các nước đồng văn nói chung.
1.1.4. Truyền kỳ trung đại Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ “truyền kỳ” được hiểu ở những cấp độ rộng hẹp
khác nhau. Có những nhà nghiên cứu xếp tất cả các tác phẩm văn xuôi có tính
chất thần linh ma quái hoặc kỳ dị vào thể loại truyền kỳ. Nhưng cũng có nhà
nghiên cứu cho rằng ngoài yếu tố ma quái, kỳ dị ra thì chi tiết hư cấu và tiêu chí
khẳng định thể loại là nhân vật chính của truyện phải là con người bằng xương
bằng thịt chứ không phải thần linh hay ma quỷ [87, tr.21]. Nguyễn Đăng Na
25
trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại nhận xét: “Đây là tác phẩm
đánh dấu sự chuyển biến đột khởi văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại. Có thể
nói, lần đầu tiên văn xuôi tự sự lấy con người làm đối tượng phản ánh và con
người với sức mạnh trí tuệ của mình đã trở thành chủ thể của vũ trụ. Trong văn
học, lần đầu tiên thần, thánh, phật tiên bị đẩy xuống hàng thứ dưới con người”
[40, tr.151]. Việc đề cao con người là một trong những nguyên nhân làm cho thủ
pháp nhân hóa trở nên phổ biến, hiệu quả trong tác phẩm. Khái niệm “Truyền
kỳ” lần đầu tiên xuất hiện trong trong nền văn học Việt Nam chính là đầu đề của
tập truyện TKML của Nguyễn Dữ. Sau đó là TKTP của Đoàn Thị Điểm, Tân
truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích. Ngay từ khi mới ra đời, thể loại truyện ngắn
truyền kỳ đã đạt được những thành tựu rực rỡ và là đỉnh cao của văn xuôi dân
tộc như TTDT, TKML, LTKVL.
Ngày nay, nhìn lại quá trình hình thành, phát triển của văn học trung đại
Việt Nam, có thể thấy TKML thực sự là một kiệt tác, trước và sau nó không có
tác phẩm truyền kỳ nào sánh bằng, đúng như lời nhận xét của Vũ Khâm Lân
trong Bạch Vân am cư sĩ phả kí: “Nguyễn Dữ chỉ để lại một tác phẩm nhưng đó
là một tác phẩm có giá trị, có thể nói là một tác phẩm xuất sắc, dẫn đầu trong
loại văn truyền kỳ trong văn học cổ Việt Nam”. Cũng giống như truyền kỳ đời
Đường (Trung Quốc), TKML là tác phẩm có nội dung đa dạng, phong phú xoay
quanh chủ đề tình yêu nam nữ trong đời sống hằng ngày và mang khuynh hướng
nhân văn chủ nghĩa. Rõ ràng, ta thấy giữa Việt Nam và Trung Quốc có mối quan
hệ tương đối đặc biệt. Đó là mối quan hệ của hai nước láng giềng rất gần gũi
nhau về lãnh thổ, văn hoá và phong tục. Hơn nữa, trước thế kỉ thứ X, nước ta
chịu ngót một ngàn năm đô hộ của phong kiến Trung Hoa (179 TCN đến năm
938) [88, tr.1], điều đó dẫn đến lẽ tất yếu của sự ảnh hưởng qua lại của văn học
hai nước, đó là sự ảnh hưởng qua lại và tiếp biến của các nước đồng văn.
Trong bài viết, chúng tôi xem xét những tác phẩm xuất hiện trước và sau
khi Truyền kỳ mạn lục xuất hiện, đó là những tác phẩm thuộc thể loại truyền kỳ
26
hoặc có liên quan gần gũi đến thể loại truyền kỳ nhằm có cái nhìn tổng thể về
quá trình hình thành và phát triển đến đỉnh cao của thể loại độc đáo này trong
nền văn học nước nhà. Bắt đầu từ VĐUL (Tập truyện về cõi u linh của nước
Việt) của Lý Tế Xuyên (đầu thế kỉ XIV). Đây là tập hợp các truyền thuyết về các
vị thần linh Việt Nam ở thời xa xưa. Ban đầu, tác phẩm gồm hai mươi bảy
truyện kể về các vị thần linh được thờ ở Việt Nam, bao gồm: các vua chúa (nhân
quân), bề tôi trung liệt (nhân thần), thần sông, thần núi (hạo khí anh linh). Có thể
thấy ở tác phẩm này đã chứa những yếu tố kỳ ảo. Tác phẩm là một cuốn thần
phả về những linh hồn bất tử của nước Đại Việt. Nhân vật trong truyện hầu hết
là thần linh vốn là những anh hùng dân tộc đã hiển thánh. Vì vậy, trong tập
truyện đã có xuất hiện thấp thoáng những yếu tố của bút pháp truyền kỳ và có
thể đây là giai đoạn mầm mống cho sự phát triển của truyền kỳ sau này. Tác
phẩm LNCQ (Chọn lựa những chuyện quái dị ở đất Lĩnh Nam) của Trần Thế
Pháp, ra đời cuối thế kỉ XIV - đầu thế kỉ XV. Đây là một tập hợp truyền thuyết
và cổ tích dân gian Việt Nam được biên soạn vào cuối đời Trần. Theo bản gốc
gồm hai mươi hai truyện, tác giả đã tập trung chép lại những truyện kể giàu chất
kỳ ảo như: Phù Đổng thiên vương, Truyện Rùa vàng, Truyện Ngư tinh… Cuối
thế kỉ XV, TTDT (Bản thảo để lại của Thánh Tông) ra đời, tương truyền là của
Lê Thánh Tông. Tác phẩm đã là một bước tiến xa hơn nữa cho thể loại truyền
kỳ. Tên tác phẩm là do người đời sau đặt, bao gồm mười chín truyện. Tập truyện
là một sáng tạo độc đáo và đặc sắc, mang tính chất của truyện truyền kỳ với
những truyện tiêu biểu như Lấy chồng dê, Tinh chuột, Duyên lạ xứ hoa… Tiếp
nối là NÔML (Chép lại những giấc mộng của Nam ông) của Hồ Nguyên Trừng.
Tác phẩm được tác giả soạn trong thời gian bị bắt sang Trung Quốc vào thế kỷ
XV. Tác phẩm không được chia số quyển cụ thể mà được chia thành 31 thiên
(truyện), nhưng thực tế chỉ còn 28 thiên.
Đến TKML (Sao chép tản mạn những chuyện kỳ lạ) của Nguyễn Dữ thì thể
loại truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam mới thật sự được khẳng định. Đây là tập
27
truyện bao gồm hai mươi tác phẩm cụ thể. Sự ra đời của TKML đã đưa thể loại
truyền kỳ Việt Nam đến đỉnh cao và chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong văn xuôi
tự sự Việt Nam. Tiếp theo đó là tác phẩm TKTP (Cuốn phả mới về truyền kỳ)
của Đoàn Thị Điểm ra đời ở thế kỉ XVIII, bao gồm ba truyện. Và thêm một
bước tiến xa hơn cho thể loại truyền kỳ trung đại Việt Nam là tác phẩm LTKVL
(Những chuyện nghe thấy ở Lan Trì) của Vũ Trinh, được ra đời vào khoảng đầu
năm 1789. Tác phẩm có dung lượng khá lớn, bao gồm ba quyển, tổng cộng có
45 thiên (truyện). Theo Nguyễn Đăng Na, đây chính là tác phẩm cuối cùng
thuộc thể loại truyền kỳ ở Việt Nam thời trung đại.
Nhìn chung, chúng ta có thể thấy thể loại truyền kỳ xuất hiện từ khi văn
xuôi trung đại Việt Nam xuất hiện. Ban đầu văn xuôi trung đại Việt Nam tồn tại
với những ba loại chính: truyện ghi chép dân gian, truyện lịch sử và truyện tôn
giáo. Từ thế kỉ XV, XVI trở đi, văn xuôi trung đại có những bước chuyển biến
quan trọng, tính chất ghi chép giảm dần thay vào đó là tính chất kỳ ảo, hư cấu
tăng dần. Ra đời khá sớm trong nền văn học Việt Nam thuộc thể loại truyền kỳ,
theo Trần Ích Nguyên, TKML ra đời sớm nhất là năm 1509, muộn nhất là năm
1547 [89, tr.11]. Thể loại văn học ấy được hình thành và phát triển theo chiều
dài lịch sử xã hội Việt Nam. Truyền kỳ trung đại đóng vai trò quan trọng trong
nền văn học nước nhà, đánh dấu bước tiến mới và xa hơn của sáng tác văn xuôi
trung đại. Cuộc sống hiện thực nước ta ở mỗi thời điểm lịch sử được thể hiện
một cách cụ thể trong tác phẩm. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố thực và
yếu tố kỳ lạ đã làm nên giá trị độc đáo, to lớn cho các tác phẩm truyền kỳ. Từ đó
có thể thấy bên cạnh đời sống thực, con người còn có đời sống tâm linh thật đa
dạng với biết bao điều kỳ lạ đang và đã xảy ra trong cuộc sống. Con người chấp
nhận và tin vào sự tồn tại của những chuyện kỳ lạ ấy. Chính vì thế, yếu tố kỳ ảo
được phản ánh thực ra chính là sự phản ánh đời sống tâm linh của con người
Việt Nam. Và nó được hiểu như một yếu tố nghệ thuật để xây dựng những tác
phẩm văn chương.
28
1.2. Truyền kỳ mạn lục
1.2.1. Tác giả Nguyễn Dữ và thời đại của ông
Đến nay, phần tiểu sử và thân thế của Nguyễn Dữ vẫn còn nhiều điều
chưa rõ. Có rất nhiều giả thuyết về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn chương
của Ông. Giả thuyết thứ nhất, các ông Hà Thiện Hán trong Bài tựa Truyền kỳ
mạn lục, Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp kí, Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu
lục, Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển đều cho rằng Nguyễn Dữ chính là
học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, từng đỗ đạt, làm quan và ở ẩn. Giả thuyết này
đang tồn tại ở giáo trình của Đại học sư phạm Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn. Giả thuyết thứ hai, nhà nghiên cứu Lại Văn Hùng dự đoán:
“Nguyễn Dữ sinh vào khoảng thập niên cuối thế kỉ XV và mất khoảng thập niên
thứ tư của thế kỉ XVI, thọ 50 tuổi” [25, tr.7] và thông tin mới nhất gần đây là:
Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài viết Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ - Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm
sáng tác Truyền kì mạn lục của Nguyễn Phạm Hùng [29, tr.2-3].
Nhìn chung, mặc dù còn nhiều điều chưa rõ về thân thế của tác giả nhưng
chúng ta có thể khẳng định chung nhất rằng: Nguyễn Dữ sinh vào những năm
cuối thế kỉ XV và trưởng thành ở những năm đầu của thế kỉ XVI. Đấy là thời kỳ
nhà nước phong kiến Việt Nam bắt đầu đi vào con đường nhiễu nhương, rối
loạn. Chế độ phong kiến suy yếu ngày càng trầm trọng mà một trong những biểu
hiện của nó là tình trạng rối loạn về chính trị với nhiều biến cố lớn xảy ra. Chỉ
trong vòng ba mươi năm kể từ Lê Thánh Tông (vị vua anh minh trị vì từ năm
1460 đến năm 1497) đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi lập nên nhà Mạc và trị
vì quốc gia từ năm 1527 đến 1529, đã có đến sáu đời vua bị giết hoặc bị phế
truất, cụ thể Lê Hiến Tông (trị vì từ năm 1497 đến tháng 5 năm 1504), Lê Túc
Tông (trị vì từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1504), Lê Uy Mục (trị vì từ năm 1505
đến năm 1509), Lê Tương Dực (trị vì từ năm 1510 đến năm 1516), Lê Chiêu
Tông (trị vì từ năm 1516 đến năm 1522), Lê Cung Hoàng (trị vì từ năm 1522
29
đến năm 1527). Những kỳ công mà vua Lê Thánh Tông dày công xây dựng đã
nhanh chóng sụp đổ. Vua Lê Hiển Tông đã từng than thở về tình trạng quan
trường hỗn loạn, suy nát và dù đã ra sức chấn chỉnh nhưng vẫn không cứu được
tình trạng suy vi đó. Đại Việt sử kí toàn thư đã viết: “Sao mà những kẻ tại chức
đều bị vị, không nghĩ đến phép tắc của triều đình. Người vì nước quên nhà thì ít,
người bỏ phận thiếu chức thì nhiều, tha giàu bắt nghèo, không chừa thói cũ
tham tiền khoét của vẫn theo lối xưa. Thế rồi chính sự phiền hà, lòng dân oán
hận, thổ mộc bừa bãi lại thêm đại hạn, đói khổ, nhân dân thất nghiệp, trộm cắp
nổi dậy. Vua quan hoang dâm xa xỉ, bất lực và chết yểu, các quyền thần đánh
lẫn nhau, giết nhau dưới cửa khuyết, dây máu chốn kinh sư” [82, tr.324]. Một
thời đại, một thế chế hỗn loạn, rối ren với những cuộc nội chiến khốc liệt, đau
thương. Nước ta lúc bấy giờ từ năm 1527 đến năm 1528 tồn tại một lúc ba triều
đại: Mạc, Lê, Nguyễn. Xã hội rối ren, cuộc sống nhân dân lâm vào cảnh cùng
cực khốn khó. Cuộc chiến tranh Lê - Mạc dai dẳng, quyết liệt. Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã từng thốt ra những lời thơ thống thiết trong bài “Cảm hứng” về cuộc
chiến ấy:
“Thái hoà vũ trụ bất Ngu, Chu,
Hổ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu.
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu.
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.”
Dịch thơ (Người dịch: Ngô Lập Chi):
“Non sông nào phải buổi binh thời,
Thù đánh nhau chi khéo nực cười.
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổi?
30
Núi xương, sông huyết, thảm đầy vơi.
Ngựa phi ắt có hồi quay cổ,
Thú dữ nên phòng lúc cắn người.
Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa,
Bến đầm say hát nhởn nhơ chơi.”
Tình trạng ấy gây nên sự xuống cấp, suy thoái đời sống tinh thần trầm
trọng trong hàng ngũ Nho sĩ. Tầng lớp người học rộng, hiểu nhiều, trung chính
liêm minh ngày càng ít, kẻ mê muội, nhút nhát, tư lợi ngày càng nhiều. Đứng
trước hiện thực như vậy, không ít những nho sĩ sống xu thời, khom lưng uốn gối
cầu cạnh tư lợi. Bên cạnh đó nhiều nho sĩ có khí tiết nhưng hoang mang, chán
chường, đổ vỡ niềm tin vào cuộc sống thực tại, treo ấn từ quan mà về quê sống
ẩn dật, trong số ấy có Nguyễn Dữ.
Được sinh ra và trưởng thành trong bối cảnh xã hội như thế, Nguyễn Dữ
không có lựa chọn nào khác hơn là phải chôn vùi ước mơ “hành đạo”. Cáo quan
về ở ẩn, đó là phản ứng tất yếu của Nguyễn Dữ cũng như của các nhà nho chân
chính đương thời đối với thời cuộc. Biểu hiện của sự phản ứng đó chính là viết
sách - sáng tác văn chương. Với ý thức “phát phẫn trứ thư” (phát phẫn viết
sách), Nguyễn Dữ đã dồn hết tâm sức vào những trang sách, tái hiện lại những
điều mắt thấy tai nghe có thêm phần hư cấu với một ước muốn, khát khao một
xã hội đức trị, con người biết yêu thương nhau, năng làm điều thiện, tránh xa
điều ác.
1.2.2. Nguồn gốc
Trong thế kỉ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như thế kỉ XV, mâu
thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã
hội phân hoá mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác
liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không
yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế đa dạng, phong phú
ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động này thì
31
không thể chỉ dùng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước một cách máy móc, sơ
sài. Nhu cầu phản ánh chân thực cuộc sống trong văn học ngày càng được giới
văn sĩ chú trọng. Từ nhu cầu ấy đòi hỏi văn sĩ phải đổi mới phong cách sáng tác,
mở rộng thể loại trong sáng tác văn học. Nguyễn Dữ cũng không ngoại lệ. Ông
không chỉ dựa vào những sự tích có sẵn từ trước, từ những truyện được kể hoặc
được ghi chép lại và truyền trong dân gian mà ông còn thể hiện sự tài hoa của
mình qua việc tổ chức lại kết cấu, cốt truyện, xây dựng lại hệ thống nhân vật,
thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ… Nguyễn Dữ đã tái tạo lại những câu chuyện
dân gian ấy thành những thiên truyện mới lạ và hấp dẫn.
TKML là một tập truyện gồm hai mươi truyện, viết bằng chữ Hán, theo
thể loại tản văn (văn xuôi), xen lẫn biền văn (văn có đối) và thơ ca, ở cuối mỗi
truyện có lời bình của tác giả (hoặc của một người có cùng quan điểm của tác
giả), được in trong khoảng năm 1768. Theo Lời tựa của Hà Thiện Hán viết năm
1547 thì Nguyễn Dữ viết ra tác phẩm này để ngụ ý trong thời gian ẩn cư ở rừng
núi xứ Thanh Hoá. Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế
Nghi sống cùng thời dịch ra chữ Nôm. Bùi Duy Tân nhắc lại một lần nữa thời
điểm và hoàn cảnh sáng tác TKML trong Từ điển văn học (bộ mới): “… Sau khi
bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa”, từ đó “trải mấy
mươi sương, chân không bước đến thị thành”, “để lại tập truyện chữ Hán nổi
tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Truyền kỳ mạn lục được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ
chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ Nôm” [32, tr.1123-1124].
Lấy tên sách là TKML, Nguyễn Dữ muốn thể hiện một thái độ sống khiêm
tốn của một người chuyên chỉ ghi chép lại những truyện cũ đã có từ rất lâu. Tuy
nhiên, Vũ Phương Đề không nghĩ vậy, trong Công dư tiệp kí, ông đã cho rằng:
căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là
một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục mà là một
sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác,
32
đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học
chữ Hán.
Là tác phẩm truyền kỳ có giá trị và mang tính dân tộc đậm nét, tác phẩm
được những người trong giới văn học dịch ra nhiều thứ tiếng và lưu hành rộng
rãi ở một số nước lớn như Pháp, Nga, Trung Quốc. Việc ảnh hưởng của văn học
Trung Quốc vào tác phẩm TKML chỉ là một phần, văn học dân gian truyền thống
và thành tựu của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam mới là nguồn gốc trực tiếp
nhất hình thành tác phẩm. Và đấy chính là yếu tố quan trọng đã mang lại tính
dân tộc sâu sắc cho tác phẩm. Trước đó, các nhà văn chỉ ghi chép các truyện dân
gian, các thần phả trong các đình, đền, miếu, hoặc chỉ đơn thuần dựa vào các
truyền thuyết dân gian đã có sẵn kèm theo là sự thêm bớt ít nhiều các chi tiết hư
ảo, kỳ quái nhằm tạo ra những câu chuyện lạ, hoàn chỉnh và hấp dẫn. Chẳng hạn
như LNCQ của Trần Thế Pháp, Thiên Nam Vân lục của Nguyễn Hãng. Với
TKML thì rất khác. Dựa vào một số truyện dân gian đã có, tác giả đã sắp xếp lại,
hư cấu thêm, sáng tạo ra một diện mạo mới cho tác phẩm. Việc sưu tầm, sửa
chữa, khai thác các đề tài dân gian là quá trình kế thừa và tiếp biến mang tính
liên tục. Người đi sau tiếp nối bước của người đi trước và song song đó đúc kết,
sáng tạo từ những tinh hoa của thế hệ trước và thực hiện bước tiến xa hơn.
1.2.3. Nội dung
Từ những công trình nghiên cứu TKML từ trước đến nay, ta thấy hiện có
rất nhiều văn bản. Ngoài bản được khắc in năm 1712 (có bài tựa của Hà Thiện
Hán viết năm Vĩnh Định sơ niên 1547), còn có một số bản chép tay. Các bản
này ngoài phần nguyên chữ Hán của Nguyễn Dữ còn có phần tăng bổ giải tạp
âm, chú thích điển cố và chữ khó. Nhiều bản dịch ra chữ quốc ngữ, trong đó bản
dịch của Trúc Khê Ngô Văn Triện năm 1943 được coi như đặc sắc nhất. Và đó
cũng là tư liệu chính cho bài viết này.
TKML gồm hai mươi truyện, chia làm bốn quyển. Cốt truyện chủ yếu lấy
từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian như Chuyện tướng Dạ Xoa,
33
Chuyện cây gạo, Chuyện người con gái ở Nam Xương... Nhiều trường hợp xuất
phát từ những vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn như đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà
Nam, đền thờ nàng Nhị Khanh ở Hưng Yên, đền thờ Văn Dĩ Thành ở Hà Nội…
Truyện được viết bằng chữ Hán theo hình thức văn xuôi, có xen những bài thơ,
ca, từ, biền ngẫu. Trừ truyện thứ mười chín: Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa thì
cuối các truyện đều có lời bình của tác giả (hoặc là lời bình của người đời sau có
cùng quan điểm với tác giả). TKML ra đời không rõ chính xác vào năm nào
nhưng theo các nhà nghiên cứu thì tác phẩm được sáng tác vào những năm
Nguyễn Dữ ở ẩn ở núi rừng Thanh Hoá. Như vậy, tác phẩm ra đời vào lúc triều
đại nhà Lê trên đà suy thoái với những vị vua hoang dâm tàn bạo. Những đau
thương của một thời đại cũng đã in đậm dấu ấn trong tập truyện.
Hai mươi truyện trong TKML, trừ hai truyện: Câu chuyện đối đáp của
người tiều phu núi Nưa và Chuyện nàng Tuý Tiêu, tất cả những truyện còn lại
toàn là truyện quỷ thần, ma quái, sau từng truyện, phụ thêm một bài bình. Theo
như ý kiến đánh giá của Bùi Kỷ, tất cả những lời bình ấy “đều là của tác giả”.
Trong xã hội cũ, những truyện trong văn học viết lấy cốt truyện từ những câu
chuyện kể dân gian cũng không ít. Những câu chuyện dân gian lúc đầu chỉ là
khẩu truyền và chỉ được xem là những truyện phiếm, truyện mua vui, giải trí. Về
sau nó đã không còn là những sáng tác truyền tụng trong dân gian nữa mà đã
chính thức được đi vào những trang văn viết. Tác giả đã chú tâm tạo thành văn
bản hoàn chỉnh, xếp đặt lại có mục, có chương một cách hệ thống. Tác giả đã
dùng những phương tiện nghệ thuật thích hợp để chuyển tải những cung bậc
trạng thái tâm hồn, những suy tư trăn trở của chính bản thân đối với con người
và cuộc đời. Vì vậy, dù rằng những truyện ấy vẫn có nhiều yếu tố hoang đường,
có phần nào là hư cấu nhưng ít nhiều đã có tác dụng đến đời sống tinh thần và ý
thức thẩm mĩ của người đọc. Đó là một trong những thành công của người sáng
tác văn chương.
34
Mỗi câu chuyện trong tác phẩm là mỗi niềm trăn trở, mỗi suy nghiệm của
tác giả trước cuộc sống nhân sinh. Tựu trung vào đấy là một tâm sự nặng trĩu
của một con người trọn lòng với đời, với những kiếp người bất hạnh, đặc biệt là
than phận của người phụ nữ. Nguyễn Dữ đề cao đạo đức làm người, khuyên con
người sống hành thiện tránh ác. Tác phẩm là toàn niềm khao khát cuộc sống
thanh bình, con người đối xử với nhau bằng tình yêu thương chân thành chứ
không phải là sự giả trá lọc lừa. Dựa vào nội dung, tư tưởng của TKML, chúng
tôi có thể chia ra thành các nhóm sau để thuận lợi cho khảo sát và tìm hiểu tác
phẩm (các truyện được đánh số thứ tự dựa vào trật tự sắp xếp trong tập truyện).
* Nhóm truyện thể hiện thái độ phê phán, đả kích của tác giả đối với
các đối tượng: hàng ngũ thống trị, lái buôn, học trò, thầy tu biến chất, lũ ma
quỷ quấy nhiễu cuộc sống nhân gian và những tín điều đạo đức phong kiến.
Trước hết, tác giả đã phê phán, lên án đối với hàng ngũ thống trị phong
kiến, đó là vua quan và các thuộc hạ dưới trướng. Nội dung này thể hiện qua ba
truyện số 1, số 12 và 15. Truyện số 1, Câu chuyện ở đền Hạng Vương xoay
quanh cuộc bàn luận của Hồ Tông Thốc (cuối đời Trần) và Hạng Vương trong
giấc mơ. Họ Hồ bàn luận và đánh giá cách hành xử, phúc và tội của Hạng
Vương khi còn tại thế. Câu chuyện thể hiện sự chê trách của tác giả đối với
chính sách bạo lực của Hạng Vũ “chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương cường
làm đức”, đồng thời cũng vạch trần thủ đoạn xảo trá bất nhân của Lưu Bang. Có
thể gọi là tiếng nói lên án thẳng thắn, nghiêm khắc đối với các triều đại phong
kiến “tiếm quyền đoạt lợi”. Thái độ này hoàn toàn trái ngược với những lời tán
tụng của nhiều thế hệ người Trung Hoa khi đề cập đến các bậc vua chúa. Truyện
12, Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Nưa kể về việc Hồ Hán Thương
(năm Khai Đại nhà Hồ) ra lệnh cho quan Cung phụng họ Trương đến núi Nưa
mời tiều phu về triều, câu chuyện xoay quanh việc đối đáp của họ Trương và
tiều phu về minh quân và thời cuộc, tiều phu không phụng mệnh về triều bởi lẽ
không muốn vướng vào vòng lợi danh, quyền quý. Truyện 15, Chuyện bữa tiệc
35
đêm ở Đà Giang, đó là cuộc nghị luận của Quý Ly (tướng nhà Trần) với cáo và
vượn (hoá thành người). Cáo và vượn khuyên Vua dẹp bỏ tục săn bắn thú rừng,
bỏ thú vui làm hại sinh linh. Cả ba truyện đều phê phán, công kích thói ỷ quyền
cậy thế của các thế lực tối cao và tham quan dưới trướng của triều đại phong
kiến. Lời của Tiều phu trong truyện 12 đã thể hiện rất rõ điều ấy: “Ta tuy chân
không bước đến thị thành, mình không vào đến cung đình, nhưng vẫn thường
được nghe tiếng ông vua bây giờ là người như thế nào. Ông ấy thường dối trá,
tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để
mở phố Hoa Nhai, hao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác,
xem tiền như đất bùn”. Truyện 17, Chuyện Lý tướng quân kể rõ và đả kích thói
lợi dụng hoàn cảnh bất hạnh của người khác mà chuốc lợi lộc cho riêng mình,
thói đục nước béo cò của bọn cường quyền phong kiến. Trước hết đó là tướng
quân Lý Hữu Chi với tội ác tày đình “Lý bèn làm những chuyện trái phép, dự lũ
trộm cướp như lòng ruột, coi người nho sĩ như cừ thù” lại mang tính tham lam,
dâm dục “thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không chán lại tậu ruộng vườn,
dựng nhiều nhà cửa”, vô tâm trước cảnh dân đói khổ: “Người trong vùng phục
dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều tay sưng vai
rách, rất là khổ sở nhưng hắn vẫn điềm nhiên không chút động tâm”. Kế đó là
tên Mỗ “vốn người tham bẩn, hối lộ dập dìu, lại lấy lộc trật mà hợm hỉnh ngông
nghênh khinh miệt những người có đức, chưa từng cất nhắc kẻ sĩ hiền để giúp
việc nước”. Lại thêm tên họ Đinh “bất mục với anh em, chẳng hoà với tôn tộc,
thừa dịp các cháu bé dại chữa lại chúc thư để chiếm cướp cả ruộng nương,
khiến họ không có miếng đất cắm dùi”. Tất cả bọn chúng đều là quan phụ mẫu
nhưng lúc nào chúng cũng cấu kết nhau để ăn lòn, bóc lột, áp bức nhân dân
nghèo khổ. Thật đáng chê cười!
Tác giả cũng đã phê phán sự ràng buộc nghiệt ngã của những nguyên tắc
đạo đức phong kiến đối với người phụ nữ, tiêu biểu là đạo tòng phu. Truyện số
2, Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu và truyện 16, Chuyện người con gái
36
Nam Xương cùng thể hiện một nội dung về thân phận hẩm hiu của người phụ nữ
trong xã hội. Họ bất hạnh ở mọi chiều, sống hay chết đều bị ràng buộc bởi quan
niệm tam tòng. Hai chữ “tòng phu” nghe như hợp lễ nhưng cũng chính nó đã
mang lại biết bao đau thương cho người phụ nữ trong xã hội đương thời. Họ
thuỷ chung trong tình nghĩa vợ chồng nhưng không được chồng yêu thương và
trân trọng. Một đằng bị chồng dùng để gán nợ cờ bạc (Chuyện người nghĩa phụ
ở Khoái Châu), một đằng bị chồng nghi oan mà phải quyên sinh (Chuyện người
con gái Nam Xương). Nàng Nhị Khanh và Vũ Thị Thiết là những cuộc đời tiêu
biểu cho những kiếp người bạc phận. Đạo tòng phu đã trở thành quy luật nghiệt
ngã làm lao đao biết bao nhiêu phận quần thoa trong bao thế kỉ!
TKML cũng lên án, bài trừ thói ham mê sắc dục của trai gái đương thời.
Cụ thể qua Chuyện cây gạo (truyện số 3), Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây (truyện số
5) và Chuyện yêu quái ở Xương Giang (truyện 11). Cả ba câu chuyện đều thể
hiện chung một vấn đề: cuộc sống ái ân, sắc dục khiến con người không chỉ mê
đắm lúc sống mà cả lúc chết biến thành cô hồn ngạ quỷ vẫn còn đeo đuổi. Lời
của hồn ma Nhị Khanh nói với Trung Ngộ ở lần đầu tiên gặp mặt trong Chuyện
cây gạo (truyện số 3): “Thân tàn một mảnh, cách với chết cũng chẳng bao xa.
Ngày tháng quạnh hiu, không người săn sóc. Nay dám mong quân tử quạt hơi
dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía rụng hồng rơi,
được trộm bén xuân quanh đôi chút, đời sống của thiếp như thế sẽ không phải
phàn nàn gì nữa”. Trong Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây, Hà Nhân đã ân ái với hai
hồn ma họ Liễu và họ Đào ngay lần gặp đầu tiên: “Sinh khuyên lơn dịu ngọt rồi
cùng tắt đèn đi nằm. Lửa đượm hương nồng, ái ân mười phân thoả nguyện”.
Còn Chuyện yêu quái ở Xương Giang, viên quan họ Hoàng vì say mê và quan hệ
ái ân với hồn ma Thị Nghi mà trở nên “điên cuồng hoảng hốt, mê lịm đi mà
không còn biết gì”. Những nhân vật ấy chỉ biết thoả mãn những ham mê thể xác,
đắm đuối bởi sự mê hoặc của ái tình, sống dễ dãi, buông thả theo nhu cầu nhục
dục. Cả ba truyện có chung một ý nghĩa bài trừ những thói mê đắm trong cuộc
37
sống tình dục của bọn thanh niên đương thời. Tuy nhiên không dừng ở những
biểu hiện bề nổi này, TKML còn ẩn ngụ một ý nghĩa sâu xa hơn: Mọi con người,
trong đó có người phụ nữ, đều khát khao tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Nỗi
niềm ấy được tác giả hết sức cảm thông và trân trọng. Tình cảm ấy không chỉ có
trong thế giới trần thế mà còn tồn tại trong những thế giới siêu nhiên. Từ những
người phụ nữ bằng xương bằng thịt đến những hồn ma, tinh cây cỏ hay những
thần tiên thoát tục cũng cần và khao khát hạnh phúc lứa đôi. Sự khao khát ấy thể
hiện qua những mối tình nồng nàn, thắm thiết của Trọng Quỳ - Nhị Khanh, Hà
Nhân - nàng Liễu, nàng Đào, Từ Thức - Giáng Hương… Có thể nói, lần đầu tiên
trong văn học trung đại Việt Nam, vấn đề trai gái và sắc dục được thể hiện rõ
ràng và sâu sắc đến thế. Và cũng lần đầu tiên niềm khao khát yêu đương của
người phụ nữ được cất lên tiếng nói. Ý nghĩa nhân văn của tác phẩm đã toát lên
một cách khách quan từ những hình ảnh nhân vật này.
Tác phẩm còn là lời kết án đanh thép đối với những hành vi đồi bại của
bọn đội lốt thầy tu. Đây là những kẻ tu hành giả hiệu, khoác lớp áo nâu sồng để
thực hiện những hành vi vô đạo đức. Truyện số 7, Chuyện nghiệp oan của Đào
thị kể về danh kỷ Hàn Than ở Từ Sơn, do tư thông với quan Hành Khiển nên bị
vợ quan đánh ghen. Ôm hận, Hàn Than thuê người thích sát gia đình quan Hành
Khiển, kế không thành, vì sợ tội nàng ta “phải cạo trọc đầu và mặc áo nâu sồng,
trốn đến tu ở chùa Phật Tích”. Sau lại bị một anh học trò phát giác quá khứ,
Hàn Than sợ nhục, phải ra đi đến nương nhờ chùa Lệ Kỳ. Ở đây, nàng ta lại tư
thông với sư Vô Kỷ “… nết cũ vẫn chưa trừ bỏ. Mỗi lúc ở nhà dưới đi lên, mặc
áo lụa, mang quần là, điểm môi son, tô má phấn. Cõi dục đã gần, máy thiền dễ
chạm, bèn cùng nhau tư thông. Hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa, chẳng
khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh kệ
nữa”. Truyện đã vạch trần những hành động lén lút, bất chính đáng phê phán
của những con người khoác áo nhà chùa, hằng ngày gõ mỏ tụng kinh nhưng
lòng còn đầy sắc dục.
38
Truyện 13, Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào xoay quanh
chuyện người dân ở huyện Đông Trào bị mất cắp “từ gà lợn ngỗng ngan đến cá
trong ao, quả trong vườn, phàm những cái gì có thể ăn được đều bị mất hết”.
Mượn chuyện quỷ thần với hình ảnh hai tên Hộ pháp lén lút trộm cắp của dân,
tác giả vừa lên án những kẻ núp bóng thần phật làm điều xằng bậy, vừa phơi bày
thực trạng những niềm tin thiêng liêng đang bị sụp đổ và khủng hoảng sâu sắc
trong một xã hội hỗn loạn, thực giả khó phân, vàng thau lẫn lộn. Từ cõi trần cho
đến cõi âm đều u ám, rối ren. Qua cuộc nói chuyện của các Hộ pháp khi đêm về,
ta càng não lòng hơn về cuộc sống thực tại của người dân: “Những con cá ăn
ngon lắm, nên ăn dè dặt mới thấy thú, há chẳng hơn những thức hương hoa nhạt
nhẽo họ thường dâng cúng chúng mình ư?”, “Chúng mình thật to đầu mà dại,
bấy nay bị người đời chúng nó lừa, ai lại đem cái oản, một vài lẻ gạo để lấp cái
bụng nghìn cân mà đi giữ cửa cho chúng nó bao giờ”. Từ đó, có thể thấy rõ
quan lại tham ô, nhũng nhiễu đến thế nào? Dân đen đói kém, cơ cực đến độ nào?
Truyện 19, Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa là cuộc đối thoại giữa hồn ma
nữ sĩ Ngô Chi Lan và Mao Tử Biên, tác giả không có lời bàn luận nhưng chúng
ta vẫn nhận ra ngụ ý phê phán đối với những “bài thơ xú ác”, không đạt đến
“lời chín lẽ tới”, không “khiến cho làng phong nhã phải phục” của nhiều nhà
thơ từ đời Trần đến đời Lê. Tác giả chỉ tỏ thái độ khen ngợi duy nhất đối với nhà
thơ Nguyễn Trãi qua lời nhận xét của Mao Tử Biên rằng: Nguyễn Trãi “có thể
chen vào môn hộ của Đỗ Thiếu Lăng được”. Nàng Ngô Chi Lan cả đời mệnh
danh “chữ tốt văn hay”, “thơ ca càng giỏi lắm”, được vua triều nhà Lê yêu tài
văn mặc, giao nhiệm vụ dạy cho các cung nữ nhưng chỉ vì hai câu thơ của “kẻ
thiển bạc” mà đã đau xót, phải mang hận đến suối vàng:
“Quân vương yếu dục tiêu nhàn hận,
Ưng hoán Kim Hoa học sĩ lai.”
Dịch nghĩa:
“Quân vương nếu muốn khuây buồn nản,
39
Hãy gọi Kim Hoa học sĩ vào.”
Và như:
“Yến bãi long lâu thi lực quyện
Lục canh lưu đãi hiểu miên trì.”
Dịch nghĩa:
Tiệc cạn lầu rồng sức thơ mỏi,
Canh dài giữ đợi giấc nằm trưa.”
Nội dung truyện thể hiện đầy đủ quan điểm của tác giả đối với thi nhân
đương thời. Phải chăng, tác giả muốn khẳng định sự đa sầu đa cảm, hay buồn
vui vì những lời khen chê của nhân thế là một khuyết điểm của nữ sĩ Ngô Chi
Lan và cả cho lớp văn thi sĩ đương thời?
* Nhóm truyện khuyên răn con người làm điều thiện, tránh điều ác, ca
ngợi những con người chính nhân quân tử, đề cao đạo đức làm người, bộc lộ
khát vọng về cuộc sống thanh bình, ấm no hạnh phúc.
Chuyện gã Trà đồng giáng sinh (truyện số 4) và Chuyện Phạm Tử Hư lên
chơi Thiên tào (truyện số 10) có ý nghĩa khuyên răn người làm quan hay học trò
nên bỏ thói kiêu mãn, tự cao tự đại với những gì mình đang có. Lời khuyên của
đạo nhân với tể tướng Dương Thiên Tích trong truyện số 4 là một ví dụ cụ thể:
“Này đức là nền từ thiện, của là kho tranh giành. Tích đức như mầm non rỏ một
giọt nước, sẽ nẩy nở lên, tích của như lửa đỏ gieo một khối băng, sẽ tàn lụi
xuống. Huống chi không vun mà lớn đó là mầm thiện ác, không giữ mà đầy là
cơ phúc hoạ, cái tình hình ỷ phục trong đó thật là đáng sợ”. Tư tưởng của tác
giả thể hiện trực tiếp: “Tôi chỉ khuyên ông cố làm điều lành”.
Truyện số 6, Chuyện đối tụng ở Long cung và truyện số 8, Chuyện chức
Phán sự đền Tản viên một mặt là bài xích quỷ thần. Thần mà không bảo bọc cho
con người ngược lại còn cướp vợ người, giả danh thổ thần để quấy nhiễu cuộc
sống dân chúng thì không xứng được tôn thờ, cúng tế. Mặt khác ca ngợi những
tấm lòng hết mình vì nghĩa vong thân, cứu người độ thế. Chẳng hạn như quan
40
thái thú họ Trịnh không sợ cường quyền, quỷ quái quyết đến được Long đình
kiện tội Thần Thuồng Luồng đã cướp vợ của mình là Dương Thị với Long
vương. Cuối cùng chính nghĩa thắng gian tà, vợ chồng đoàn tụ. Hay Ngô Soạn
cương trực, thẳng thắn, không dễ bị hồn ma quỷ doạ nạt, quyết đến âm ty để tìm
công lý cho Thổ công và người dân. Người nho sĩ ấy rất đáng là tấm gương tốt
cho mọi người noi theo. Các truyện thể hiện rõ một chân lí cuộc sống: bất kì ở
đâu và khi nào người hiền đều hưởng kết quả tốt, kẻ xấu bị trừng trị, công lí cuối
cùng sẽ chiến thắng. Đạo trời là vậy! “Đời người như khách qua đường, kẻ
trước đi qua kẻ sau tiếp đến; đạo trời không sai tơ tóc, làm lành được phúc mà
làm ác chẳng yên” (trích lời của Đức vua trong Chuyện đối tụng ở Long cung).
Đấy cũng là khát vọng của mọi người trong cuộc sống loạn ly đương thời.
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên (Truyện số 9) thể hiện thái độ chán chường
công danh phú quý thế gian. Lời của Từ Thức khi trả lời quan trên “Ta không
thể vì số lương năm đấu gạo đó mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một
mái chèo về nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy” dường như có cả
thái độ bất mãn đối với cõi trần. Phải chăng vì cõi đời đáng chán nản nên con
người phải tìm đến cõi tiên mà Từ Thức đã lạc vào con đường “chung quanh
toàn là những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan can, cỏ lạ hoa kì,
nở đầy trước cửa”, “… có người mặc áo gấm cưỡi con ly từ đàng bắc xuống, có
người bận xiêm lụa cưỡi rồng từ phía nam lên, có người đi kiệu ngọc, có người
cưỡi xe gió”. Thật sự là một cảnh thần tiên với những con người đã thoát tục!
Chuyện nàng Tuý Tiêu (Truyện 14) và Chuyện Lệ Nương (Truyện 18)
miêu tả sự trôi nổi lưu lạc của những người phụ nữ trong chốn bụi hồng. Nàng
Tuý Tiêu xa cách chàng Dư Nhuận Chi bởi Trụ quốc công họ Thân ra tay cướp
đoạt, rẽ thuý chia uyên. Nàng Lệ Nương chia lìa với chàng Phật Sinh bởi vì bọn
ngoại xâm ngang ngược áp bức, làm cho trâm gãy gương tan. Kết thúc hai
truyện khác nhau nhưng điểm chung là các nhân vật giữ trọn tình trọn nghĩa với
nhau, nàng Tuý Tiêu được trở về với Dư Nhuận Chi, còn nàng Lệ Nương thì thà
41
quyên sinh để trọn nghĩa với Phật Sinh. Có thể thấy từ đó một thông điệp: tình
yêu chung thuỷ sắc son không có thế lực nào tiêu diệt được. Và đó chính là một
trong những biểu hiện của đạo đức tốt đẹp mà cuộc sống con người cần hướng
đến.
Truyện 20, Chuyện tướng Dạ Xoa là cuộc đối thoại và sự thống lĩnh của
kỳ sĩ Văn Dĩ Thành đối với lũ quỷ. Truyện khẳng định trật tự kỉ cương ở bất cứ
nơi đâu - cõi trần hay cõi âm cũng cần phải có. Một người cương trực, đáng
kính, chỉ huy cả bọn ma quỷ đến nổi Diêm vương phải đề xuất một đội quân dạ
xoa để cai trị và quản lí cõi âm. Truyện nhấn mạnh việc tham ô bao giờ và ở đâu
cũng không được phép. Qua những hành vi của bọn quan tham, nhũng nhiễu, ăn
lễ rồi xoá sổ không bắt người, tác giả không chỉ phê phán tình trạng đút lót ở
chốn âm ty mà còn ngụ ý việc ở trần gian. Truyện đặt ra ranh giới khác biệt,
giữa một phía có kỷ luật và một phía phá kỷ luật, tác giả đặc biệt nhấn mạnh sự
phê phán phía thứ hai và đề cao phía thứ nhất.
Nhìn tổng thể, nếu chúng ta gác hết tất cả những thuyết báo ứng hay chi tiết
hoang đường thì Truyền kỳ mạn lục thực sự là một bộ truyện có nhiều ý nghĩa.
Tác phẩm không những mang đậm giá trị hiện thực mà còn mang tính giáo dục
sâu sắc. Hầu hết các truyện đều tái hiện lại bối cảnh xã hội ở thời Lý, Trần, Hồ,
Lê sơ và tuy bối cảnh ấy mang nhiều yếu tố hoang đường, kỳ ảo nhưng phía sau
đó chính là hiện thực xã hội phong kiến đương thời với đầy rẫy những kiếp
người đau khổ đáng thương. Tác phẩm phản ánh số phận bi thảm của những con
người nhỏ bé trong xã hội, những bi kịch tình yêu mà bất hạnh thường rơi vào
người phụ nữ; đồng thời cũng thể hiện tinh thần dân tộc, bộc lộ niềm tự hào về
nhân tài, văn hoá nước Việt, đề cao đạo đức nhân hậu, thuỷ chung và khẳng định
quan niệm sống lánh đục về trong của tầng lớp trí thức đương thời. Bên cạnh đó,
TKML còn phơi bày những tệ trạng đen tối của bọn vua quan xa hoa dâm loạn,
phung phí tài lực của nhân dân, bọn phú thương vung vãi tiền bạc để mua khoái
lạc ái tình, những thầy tu lợi dụng lòng tin của con người vào tôn giáo để thực
42
hiện những hành vi bất chính, những thanh niên đam mê sắc dục mà tự huỷ hoại
chính bản thân. Bên cạnh đó, tác giả còn thẳng thắn công kích những điều mê tín
dị đoan, bài xích, phê phán cả những thần thánh không chân chính.
Truyền kỳ mạn lục thể hiện rất rõ tinh thần nhân đạo của Nguyễn Dữ.
Xuất thân từ chế độ xã hội phong kiến, lẽ hiển nhiên là Nguyễn Dữ mang nặng
tư tưởng Nho gia. Tuy nhiên, ở tác giả, tư tưởng Nho gia được thể hiện có phần
mới mẻ hơn so với người cùng thời. “Trung quân ái quốc”, “Tam tòng tứ đức”
không phải theo nếp mòn suy nghĩ một cách cứng nhắc. TKML ít nhiều đã thoát
ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống để thể hiện một cách sinh động hiện
thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường kỳ lạ. Tác giả phơi bày những cái
xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục, xuất phát từ ý thức bảo vệ kỷ
cương, trật tự xã hội phong kiến. Nguyễn Dữ dường như phủ định triều đại mục
nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai. Một đất
nước thanh bình với thánh quân hiền thần để trừng phạt bọn gian ác, xiểm nịnh,
dâm tà. Một đất nước với những tấm gương tiết nghĩa, nhân hậu và thuỷ chung.
Ngoài tư tưởng Nho giáo, Truyền kỳ mạn lục cũng thể hiện không ít dấu ấn
của tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo. Biểu hiện rõ nhất của hai tư tưởng ấy chính là
sự khuyến khích con người hành thiện tránh ác và đối tượng chủ yếu tác giả
hướng đến để phục vụ là nhân dân. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực vừa có giá
trị nhân đạo.
1.2.4. Nghệ thuật
Ngoài những giá trị đáng ghi nhận về nội dung, Truyền kỳ mạn lục còn
gây ấn tượng cho người đọc bởi cách dựng truyện độc đáo. Tác phẩm khác hẳn
với những truyện kể dân gian bởi cách kể chuyện lạ, li kỳ. Đặc biệt, ở Truyền kỳ
mạn lục có sự kết hợp tinh tế những phương thức sáng tác tự sự, trữ tình. Giọng
điệu tác phẩm linh hoạt, có lúc than thở âm thầm, có khi phẫn nộ réo rắt, có lúc
là giọng cảm thông nghẹn ngào, cũng có lúc là giọng chua xót mỉa mai. Ngôn
ngữ thì đa dạng, phong phú nhưng gần gũi dễ tiếp nhận.
43
* Nghệ thuật xây dựng cốt truyện độc đáo:
Cốt truyện có sự sáng tạo của tác giả dù có sự ảnh hưởng từ cốt truyện
dân gian. Bởi những truyện đều có tên nhân vật cụ thể, đa phần là con người có
thực trong lịch sử Việt Nam, chẳng hạn Hồ Tông Thốc, Hồ Quý Ly, Ngô Chi
Lan, Hạng Vương…, tất cả họ đều có quê quán cụ thể chứ không được giới
thiệu một cách chung chung như trong cốt truyện dân gian “Ở một làng nọ…
có…”. Hơn nữa yếu tố thần, tiên, bụt không đóng vai trò ảnh hưởng, tác động
chủ yếu đến cuộc sống của nhân vật như trong truyện dân gian, mà ở TKML đối
tượng chính yếu là con người, yếu tố siêu nhiên chỉ xuất hiện một khi cần thiết.
Con người buộc phải trở thành yếu tố siêu nhiên để giải quyết vấn đề, những
biến cố trong đời sống thực tại. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các không gian
thực và ảo, sinh và tử, âm ty và tiên cảnh, thực và mộng… đã thể hiện rất rõ tài
hoa với trí tưởng tượng độc đáo của Nguyễn Dữ. Mỗi câu chuyện cụ thể là mỗi
nét đặc sắc riêng, tuy vậy giữa chúng cũng có một sự nhất quán chung về đặc
trưng của văn học viết. Phần lớn truyện trong tác phẩm đều có một cách xây
dựng cốt truyện. Mở đầu là sự xuất hiện của nhân vật chính gặp một nhân vật
thần thánh hay ma quỷ, sau đó vì một lí do nào đó mà rời bỏ nơi mình đang sống
và đến ở nơi khác. Kết thúc truyện bao giờ cũng là một sự giải thoát, thức tỉnh
(nhân vật chính chết hoặc được đạo sĩ cứu thoát ra khỏi cõi chết trở về nhân thế
hay được hoá kiếp).
Ở mười bốn truyện trong TKML, sau khi giới thiệu tên, quê quán nhân vật
chính thì xuất hiện những biến cố, lôi cuốn nhân vật vào vòng xoay cuộc đời.
Nhân vật chủ yếu tồn tại, hành động nhiều trong không gian ảo, kỳ quái. Những
biến cố xoay quanh cuộc đời nhân vật đó chính là những chất tạo tác, vận hành
nên cốt truyện. Biến cố trong các truyện thường là giấc mơ, là sự gặp gỡ hay lạc
bước của nhân vật chính đến một không gian khác (động tiên, âm ty, long
cung…). Còn năm truyện Chuyện gã Trà đồng giáng sinh, Chuyện người nghĩa
phụ ở Khoái Châu, Chuyện nàng Tuý Tiêu, Chuyện Lệ Nương, Chuyện người
44
con gái Nam Xương có dung lượng khá lớn về câu chữ giới thiệu về cuộc đời
hoặc lai lịch của nhân vật chính, đến nửa phần sau của truyện mới xảy ra biến
cố. Trong số truyện này, các nhân vật chủ yếu sống và hoạt động trong không
gian thực, những hành động của nhân vật trong cuộc sống ảo chỉ được giới thiệu
ngắn gọn, thoáng qua. Nhưng dù ở không gian thực hay ảo thì chung quy lại
nhân vật chính ở mỗi truyện đều phải trải qua một biến cố lớn có ảnh hưởng và
quyết định kết quả số phận của họ: hoặc chết, hoặc được cứu thoát ra khỏi cõi
chết hoặc hoá kiếp, chuyển thế. Điều này có phần gần với cốt truyện dân gian
bởi nó nhuốm màu kỳ bí, huyền ảo, ma quái. Riêng Câu chuyện đối đáp của
người tiều phu núi Nưa (Truyện 12) có cách xây dựng cốt truyện khác bởi tác
giả chỉ cốt mượn hình ảnh nhân vật ẩn sĩ này để phát ngôn cho quan niệm sống
và thái độ chính trị của mình.
* Nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, sinh động. Tác phẩm có ảnh hưởng
khá rõ lối kể chuyện rất quen thuộc của những tác phẩm văn học dân gian truyền
thống. Lối kể truyện ngôi kể thứ ba, thời gian trong truyện là thời gian tuyến
tính diễn ra theo trật tự từ quá khứ, hiện tại đến tương lai. Tác giả như một
người xa lạ hoàn toàn khách quan nghe và kể lại những chuyện này. Tuy vậy,
trong toàn tác phẩm cũng có nét độc đáo về cách kể. Các câu chuyện được xây
dựng theo lối trần thuật. Lời kể có cả lời của người trần thuật lẫn lời thoại của
các nhân vật. Điểm độc đáo ở đây là các lời kể đa dạng phong phú, biến chuyển
linh hoạt. Lời kể chuyện trong TKML không đơn thuần chỉ là lời của người kể
chuyện khách quan. Tác giả đã tài tình khi sử dụng lời của các nhân vật trong
truyện vừa là lời đối thoại vừa là lời dẫn truyện. Người kể với tư thế quan sát
diễn biến câu chuyện ở nhiều góc nhìn, ở nhiều thời điểm khác nhau nhằm thể
hiện cuộc sống của nhân vật cụ thể và sinh động.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật đa dạng, phong phú. Nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong TKML đã cho thấy rõ sắc màu của thi pháp trung đại. Hệ
thống nhân vật đa dạng từ con người đến thần thánh, ma quỷ, từ tầng lớp trên
45
cho đến tầng lớp dưới. Nhân vật được khắc hoạ chủ yếu là ở các hành động, ở
những biến cố hơn là thể hiện ở xung đột tư tưởng, tình cảm nội tâm. Tuy nhiên
trong TKML, tác giả cũng để cho các nhân vật thể hiện được nỗi niềm cảm xúc,
những dằn vặt của nỗi đau tâm hồn, những suy tư trải nghiệm về cuộc sống, dù
rằng sự thể hiện ấy chưa sâu sắc và triệt để. Nàng Nhị Khanh trong Chuyện
người nghĩa phụ ở Khoái Châu bịn rịn, quyến luyến khi chồng sắp sửa đi xa,
nghẹn ngào nhắn nhủ trong cuộc ly biệt: “Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng
mà bị người ta ghen ghét (….) chẳng lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam
chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo
mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng chịu khó đi theo. Thiếp
dám đâu đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương
phai, hồng rơi tí rụng, xin chàng đừng bận lòng đến chốn hương khuê”.
* Nghệ thuật kết hợp các phương thức nghệ thuật: tự sự, trữ tình:
Đan xen vào cốt truyện, lời thoại, hành động và những mâu thuẫn nội tâm
của nhân vật là những câu thơ, bài thơ với lối diễn đạt tràn đầy cảm xúc, giàu
nhạc điệu làm cho câu văn trong TKML như những tiếng hát, lời ca réo rắt mãi
trong lòng người đọc mỗi khi chạm đến: “Bọn chúng em thân bồ vóc liễu, không
thể cáng đáng được việc tần tảo ở gia đình”, “chỉ mong chàng sau buổi về quê,
tình cũ sẽ vấn vương không dứt, sớm lòng quyến luyến hương thổ để lại tính kế
tìm hoa”, “Xin chàng lưu ý, đừng để ấp yêu duyên mới mà lạt phai tình cũ”
(Truyện kỳ ngộ ở trại Tây). Hà Nhuận Chi trong Chuyện nàng Tuý Tiêu đã từng
ngâm:
“Liên hoa đoá đoá ỷ hồng hàm,
Tằng đối tiên gia ngọc chủ đàm.
Tuý vãn tiêu y hồ đắc khởi,
Sổ thanh hảo xướng vọng Giang Nam.”
Dịch nghĩa:
“Hoa sen đoá đoá nở càng tươi,
46
Góp mặt nhà tiên lúc nói cười.
Say kéo áo là nghe gọi dậy,
Giang Nam một khúc quyến hồn người.”
* Nghệ thuật sử dụng ngôn từ giản dị, gần gũi và giọng điệu đa dạng,
linh hoạt:
Ngôn ngữ TKML gần gũi, dễ hiểu dù rằng trong tác phẩm sử dụng không ít
những điển tích, điển cố. Tác phẩm vừa chịu ảnh hưởng phong cách trang nhã,
tượng trưng của văn học trung đại vừa có sự cách tân trong việc sử dụng ngôn
từ. Cách sử dụng uyển chuyển từ ngữ, câu văn linh hoạt không những tạo nên vẻ
đẹp tao nhã của văn chương mà còn thể hiện sự gần gũi, thân thiện cho người
đọc mỗi khi tiếp xúc. Tác phẩm có nguồn từ ngữ, thành ngữ giàu tính gợi hình
bình dị và dân dã: “lêu lổng”, “đường xá xa xăm”, “bàn cờ”, “hũ rượu”,
“chim mồi”, “chó săn”, “nhơ bẩn”, “áo vải”, “giày rách”, “ngủ lỳ”, “cái
mả”, “sửa mình chuốt nết”, “tủn mủn”, “vụn vặt”, “mình trần vóc tục”...
Giọng điệu thì đa dạng, linh hoạt. Có khi là giọng thờ ơ, lạnh lùng, bất mãn
trước thời cuộc “Cha ta thuở trước cứu sống cho hàng nghìn người, mà rút lại
không cứu sống được một đứa con. Làm thiện như thế phỏng có ích gì?” (lời
của Thiên Tích trong Chuyện gã Trà đồng giáng sinh), cũng có khi ân cần thiết
tha khi bàn phán chuyện đời “Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải
ở sức, thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không phải ở bạo” (lời của Hồ Tông
Thốc trong Câu chuyện ở đền Hạng Vương), có lúc đanh thép, hào hùng khi nói
đến khí phách của kẻ sĩ chân chính “Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin đem giấy
đến đền Tản Viên để hỏi hư thực. Không có sự thực như thế, tôi lại xin chịu thêm
tội nói càn” (lời Ngô Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên), cũng
có khi phê phán, đả kích sâu cay khi nhắc đến bọn dối trá, bất chính như ả Hàn
Than và sư Vô Kỷ trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị. Vị sư Pháp Vân đã
từng nhận xét về Hàn Than: “Người con gái này, nết không cẩn nguyệt, tính bén
lẳng lơ, tuổi đã trẻ trung, sắc lại lộng lẫy, ta e lòng thiền không phải đá, sắc đẹp
47
dễ mê người, tuy sen hồng chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng
nguyệt”. Sự biến chuyển linh hoạt của lời kể chuyện, từ ngữ phong phú và gần
gũi đã góp phần đáng kể cho thành công về mặt nghệ thuât của tác phẩm.
1.2.5. Liên hệ với “Tiễn đăng tân thoại”
Xoay quanh Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã có rất nhiều ý kiến,
đánh giá ngược chiều nhau. Có những ý kiến cho rằng tác phẩm là sự “sao
chép” và “mô phỏng” Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu. Chẳng hạn, Nhà nghiên
cứu Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú đều cho rằng TKML là do Nguyễn Dữ soạn,
đại khái “bắt chước” Tiễn đăng tập. Gần đây, vấn đề này cũng lại được đặt ra
và cũng có nhiều nhà nghiên cứu khẳng định Nguyễn Dữ đã ảnh hưởng rất nhiều
từ Cù Hựu để sáng tác nên TKML. Trong bài nghiên cứu Thử so sánh Tiễn đăng
tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc) với Kim ngao tân thoại của Kim Thời Tập
(Triều Tiên), Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ và Già tỳ tử của Asairey (Nhật
Bản), Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Cộng hoà Liên bang Nga B. Riftin viết:
“Thế kỷ XVI, khoảng sau năm 1527, Nguyễn Dữ ở Việt Nam lại phỏng theo Tiễn
đăng tân thoại để viết nên Truyền kỳ mạn lục, cũng đủ bốn quyển gồm hai mươi
truyện như tác phẩm Cù Hựu”.
Bên cạnh đó, có rất nhiều sự đánh giá ngược chiều của các nhà nghiên cứu
nhằm khẳng định thành công của Nguyễn Dữ khi sáng tác Truyền kỳ mạn lục.
Tác phẩm bước đầu làm nên những thành tựu có giá trị cho thể loại truyền kỳ,
cho nền văn học Việt Nam thời trung đại. Những ý kiến cho rằng Nguyễn Dữ đã
“bắt chước” và “phỏng theo” tác phẩm của Cù Hựu đã không được sự đồng
thuận của bạn đọc cũng như của các nhà nghiên cứu. Tiêu biểu, Nguyễn Đăng
Na đã lập luận: “Chứng cứ rõ ràng nhất để bảo rằng Nguyễn Dữ đã chịu ảnh
hưởng của Cù Hựu chính là Chuyện cây gạo trong Truyền kỳ mạn lục bởi nó
giống truyện Cây đèn mẫu đơn trong Tiễn đăng tân thoại. Nhưng nếu suy luận
như vậy, sẽ lý giải thế nào các hiện tượng sau đây: Truyện Hương ngọc của Bồ
Tùng Linh (1640 – 1715) giống Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây của Nguyễn Dữ.
48
Truyện Chuột đồng và chuột nhà của Tolstoi (1828 – 1910) giống truyện Bức
thư của một con muỗi của Lê Thánh Tông (1442 – 1497), truyện Thác đao điều
của Na Uy ở thế kỷ XVIII giống với truyện Lê Phụng Hiểu của Việt Nam ở thế kỷ
XV” [40, tr.212-213]. Bùi Duy Tân cũng khẳng định: “… đây là một sáng tác
văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này” [32, tr.1124]. Trần Thị Băng Thanh
cũng nhận định: “Nguyễn Dữ có chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ
mạn lục vẫn là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ, cũng như thể loại truyền kỳ Việt
Nam” [80, tr.599].
Quả thật, hai phía đánh giá khác biệt đã làm cho chúng ta không khỏi suy
nghĩ, nghiên cứu một cách cặn kẽ về mối liên hệ giữa Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ và Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu. Trong nghiên cứu văn học, ta
nên tránh lối xem xét một cách hời hợt, vội vã kết luận một cách phiến diện một
chiều. Nguyễn Đăng Na cho rằng: khi xem xét tác phẩm văn học, ta cần lưu ý
đến tính đồng loại hình của các nền văn học trên thế giới. Hơn nữa, truyện
truyền kỳ được xây dựng trên cơ sở cốt truyện dân gian, môtip truyện dân gian.
Cho nên cốt truyện truyền kỳ của các nước giống nhau là điều không có gì kỳ lạ
[40, tr.212].
Khi bàn về mối liên quan giữa TKML và TĐTT, nhiều học giả đã đối
chiếu và so sánh các phương diện của hai tác phẩm để tìm sự tương đồng và dị
biệt đảm bảo khoa học, khách quan. Dù nói thế nào đi nữa ta cũng không phủ
nhận mối quan hệ giữa hai tác phẩm này. Bởi chúng đều là những tác phẩm
được viết theo thể loại truyền kỳ với lối viết văn ngôn chữ Hán. Cả hai tác phẩm
đều có chung một hình thức lưu truyền, thịnh hành vào một thời nhất định trong
xã hội. Số truyện của hai sáng tác cũng tương đương nhau. TKML gồm hai mươi
truyện chia làm bốn quyển, không có phụ lục, cuối mỗi truyện có thêm lời nghị
luận ngắn gọn của tác giả. TĐTT gồm hai mươi mốt truyện (không tính truyện
phụ lục), cuối mỗi truyện thì có phụ lục Thu hương đình ký thay lời khen chê
của tác giả. Tuy hai tác phẩm ra đời ở hai thời đại cách nhau khoảng một thế kỷ
49
rưỡi, ở hai phương Nam, Bắc khác nhau nhưng xét về nội dung cơ bản có sự
giống nhau. Nhìn tổng thể, cả hai tác phẩm đều là sự cô phẫn của tác giả trước
cuộc sống nhiễu nhương và sự bát nháo của thời đại mình đang sống. Cả hai tác
phẩm đều không lấy đề tài văn nhân tài nữ hay chuyện phấn son là chính, mà cái
quan trọng nhất chính là ngụ cảnh tả tình, đề cập đến linh vị, thần thánh, ma quỷ
để thể hiện thái độ phẫn nộ, phê phán thực trạng xã hội phong kiến lúc bấy giờ
và khao khát một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phong cách nghệ thuật hai tác phẩm cũng có phần tương tự, chủ yếu là việc
xây dựng cốt truyện theo lối thời gian tuyến tính, dựa trên tinh thần thuyết nhân
quả, các nhân vật dù chưa được khắc hoạ tỉ mĩ nội tâm nhưng cũng mang sự
sống động và thiết thực, khơi gợi cảm xúc từ phía người đọc, giọng văn điểm
xuyết lời thoại nhân vật, nghệ thuật tả cảnh sắc sảo, khai thác đắc dụng diễn biến
tâm trạng của nhân vật. Song, ta không vì những căn cứ đó mà cho rằng TKML
của Nguyễn Dữ có quan hệ, đồng nhất với TĐTT của Cù Hựu. Rõ ràng, TKML
không phải là sự sao chép hay mô phỏng đơn thuần, rập khuôn với TĐTT. Ở mỗi
tác giả là mỗi sự độc đáo trong thủ thuật cắt xén, pha trộn, hư cấu một cách sáng
tạo tài tình những truyện kể dân gian và đó là một điều tất yếu trong quá trình
sáng tác văn học. Có thể khẳng định TKML là tác phẩm hoàn toàn có giá trị,
mang đậm giá trị hiện thực và nhân văn của con người Việt Nam. Xét kỹ về
phương diện nghệ thuật, cả hai tác phẩm đều có nét đặc sắc khác nhau, mỗi tác
giả đều chứng tỏ bản lĩnh sáng tác rất khác nhau, khó lòng cân đo ai hơn ai kém.
Về nội hàm tư tưởng, cả hai tác phẩm đều thống nhất chung mượn cảnh uất ức
của kẻ sĩ, thư sinh, mượn những chuyện li hợp, tình cảm trai gái hay những lời
bình luận những chuyện xưa hoặc những lời triết lí theo thuyết nhân quả của đạo
Phật mà thể hiện nỗi lòng xót xa, căm phẫn trước thời đại. Tuy vậy giữa hai tác
phẩm cũng có sự khác nhau cơ bản, TĐTT là sự cảm hoài của tác giả đối với
những truỵ lạc, mục nát của xã hội ở địa phương đương thời và qua đó giáo
huấn con người, còn TKML chính là sự tố cáo sâu sắc triều đại phong kiến đã đi
50
đến mục nát của nhà Trần, nhà Hồ, nhằm ẩn dụ tình hình chính sự triều Lê
đương thời, lên án sự xâm lược của giặc Minh, bài xích mê tín dị đoan, đề cao
phẩm chất thuỷ chung và khuyên bảo con ngươi hành thiện tránh ác. Dù có sự
giống nhau về tư tưởng, nội dung cũng như nghệ thuật khắc họa hình tượng
nhân vật, cốt truyện giữa hai tác phẩm nhưng rõ ràng giữa hai tác giả là hai sự
sáng tạo rất khác nhau. Mỗi tác phẩm là mỗi giá trị rất riêng, đậm đà bản sắc dân
tộc và tính thời đại. Trần Ích Nguyên trong Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân
thoại và Truyền kỳ mạn lục đã đánh giá về Truyền kỳ mạn lục: “Về kỹ xảo nghệ
thuật, ngôn ngữ văn tự thanh tân, điển nhã của Mạn lục có sức truyền cảm
không kém gì Tân thoại, đó là một trong những nguyên nhân khiến sách được
lưu truyền” [44, tr.283].
1.3. Những phương thức sáng tác trong tác phẩm văn học
1.3.1. Phương thức tự sự
Theo Từ điển thuật ngữ Văn học, tự sự có nghĩa là phương thức tái hiện
đời sống, bên cạnh hai phương thức khác là trữ tình và kịch trong sáng tác văn
học, được dùng làm cơ sở phân loại tác phẩm văn học [20, tr.263]. Phương thức
tự sự là phương thức sáng tác ra đời rất sớm ở phương Tây từ những thế kỉ
trước. Việt Nam cũng như các nước ở Ả Rập và các nước Đông Nam Á kể cả
Trung Quốc đã ảnh hưởng phương thức tự sự này từ phương Tây và phát mạnh
ở thế kỷ XX [45, tr.8].
Tự sự là một trong những phương thức sáng tác cơ sở mà các tác giả và
giới nghiên cứu văn học quan tâm khi tìm hiểu và đánh giá tác phẩm. Qua lối tự
sự, con người có thể hiểu rõ chính mình và thế giới khách quan. Jonathan Culler
(1998) đã nhận xét: “Tự sự là phương thức chủ yếu để con người hiểu biết sự
vật”. Thật vậy, muốn hiểu một sự vật, hiện tượng, hay một con người, lớp người
hay một địa phương, một nền văn hoá nào đó, người ta thường miêu tả về sự vật,
hiện tượng, những con người và địa phương, nền văn hoá ấy. Bản chất của tự sự
được hiểu đơn giản là một sự truyền đạt thông tin, là sự tạo phát một chiều trong
51
quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ. Văn bản tự sự là tổng hợp thông tin được
phát ra, và tự sự có thể thực hiện bằng cách thức miêu tả hoặc kể. Tác phẩm tự
sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó thông qua các sự kiện, hệ
thống sự kiện. Trong văn học, tự sự vừa là đặc trưng của thể loại vừa là phương
thức sáng tác. Yếu tố tự sự có mặt trong khá nhiều các thể loại khác như trữ tình
và kịch với tư cách là phương thức nghệ thuật để tạo nghĩa, truyền đạt thông tin,
biểu hiện giá trị thẩm mỹ nghệ thuật. Phương thức tự sự trong sáng tác văn học
được biểu hiện ở nhiều khía cạnh đa dạng và phức tạp.
Phương thức tự sự giúp nhà văn cũng như giúp người đọc tái hiện, phản
ánh hiện thực đời sống theo quy luật khách quan của nó. Bằng phương thức tự
sự trong tác phẩm, tác giả phản ánh hiện thực đời sống qua cốt truyện, hệ thống
nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật, qua các biến cố, sự kiện xảy ra trong
cuộc đời của con người. Chính vì thế, tác phẩm tự sự thường kể một câu chuyện
về ai đó hay về một cái gì đó hoàn toàn khách quan với tác giả, có tác dụng phơi
bày những mặt nhất định của bản chất con người và của thời đại. Tác phẩm tự sự
bao giờ cũng có cốt truyện, gắn liền với cốt truyện ấy là hệ thống nhân vật. Cốt
truyện được triển khai, nhân vật được khắc hoạ rõ nhờ hệ thống chi tiết nghệ
thuật mà nhà văn xây dựng, bao gồm những chi tiết nội tâm, chi tiết xung đột,
chi tiết ngoại hình, ngoại cảnh, phong tục, đời sống văn hoá, lịch sử… bên cạnh
đó còn có các chi tiết tưởng tượng, liên tưởng, những chi tiết hoang đường, kỳ bí
cũng được thể hiện rõ trong tác phẩm tự sự.
1.3.2. Phương thức trữ tình
Theo Từ điển Thuật ngữ Văn học, trữ tình là một trong ba phương thức
thể hiện đời sống, bên cạnh tự sự và kịch, làm cơ sở cho một loại tác phẩm văn
học [20, tr.254]. Cũng như tự sự, trữ tình tồn tại trong tác phẩm văn học vừa là
phương thức sáng tác vừa là yếu tố đặc trưng để phân biệt các thể loại văn học.
Khác với tự sự, trữ tình là phương thức phản ánh hiện tượng đời sống bằng cách
bộc lộ trực tiếp ý thức, cảm xúc, tình cảm của con người. Người đọc thông qua
52
tác phẩm trữ tình dường như cảm thấy bản thân mình có trong tác phẩm ấy bởi
những ấn tượng, những ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của tác giả đối với thế giới và
nhân sinh đã gửi gắm vào trong tác phẩm.
Phương thức trữ tình được biểu hiện ở các khía cạnh như ngôn từ, giọng
điệu, hình tượng nghệ thuật, đặc biệt là cái tôi trữ tình. Trong tác phẩm trữ tình,
cái tôi trữ tình giữ vai trò rất quan trọng vì nó là yếu tố cơ bản và trực tiếp nhất
để truyền tải nội dung, tư tưởng của tác phẩm và cái tôi trữ tình thường xuất hiện
dưới dạng nhân vật trữ tình. Yếu tố trữ tình thường thể hiện dưới dạng tái hiện
đời sống hiện thực bằng việc miêu tả phong cảnh thiên nhiên hoặc thể hiện tình
cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình trước thế giới khách quan. Những sự kiện
này sẽ làm cơ sở cho nhân vật trữ tình bộc lộ tâm trạng, cảm xúc, những cung
bậc tình cảm trước những đổi thay của cuộc đời. Người đọc có thể cảm nhận hết
thế giới nội tâm, tâm trạng, thái độ của nhân vật với con người, với cuộc đời,
thiên nhiên. Phương thức trữ tình được thể hiện ở các dòng thơ, bài thơ, điển
tích, điển cố và giọng điệu trầm hay bổng, rắn rỏi hay du dương.
1.3.3. Hiệu quả sự kết hợp các phương thức trong sáng tác văn học
Trong sáng tác văn học, không có sự chuyên biệt tuyệt đối nào giữa các
phương thức trong cùng một thể loại sáng tác. Một tác phẩm thuộc thể loại tự
sự, ngoài phương thức tự sự như kể, miêu tả… còn có thể có sự đan xen phương
thức trữ tình. Phương thức trữ tình trong các tác phẩm tự sự được thể hiện ở các
dạng khác nhau, chẳng hạn như câu thơ, bài thơ, ca, từ, các phép tu từ điệp, đối,
ẩn dụ, hoán dụ… Nhờ sự kết hợp ấy, người đọc không những biết được bản chất
của sự vật, hiện tượng khách quan mà con nhận ra được thái độ của tác giả đối
với cuộc sống và qua đó nâng cao nhận thức của bản thân đối với thế giới khách
quan. Và ngược lại trong một tác phẩm thuộc thể loại trữ tình, ngoài phương
thức trữ tình là chủ đạo còn có thể đan xen là phương thức tự sự. Phương thức tự
sự được thể hiện trong tác phẩm trữ tình dưới dạng cốt truyện, cách kể chuyện
và cách khắc hoạ ngoại hình và nội tâm của nhân vật. Nhân vật trữ tình mà tác
53
giả xây dựng cốt yếu là bộc lộ tâm trạng, cảm xúc nhưng để thể hiện được
những trạng thái tình cảm ấy đôi khi cũng cần đến việc kể, miêu tả cảnh hay
thuật lại sự vật, sự việc có liên quan cho việc thể hiện vấn đề. Nhờ sự kết hợp
ấy, người đọc không những cảm nhận sâu sắc thái độ, tình cảm và nhận thức của
tác giả đối với cuộc sống mà ít nhiều cũng nhận biết bản chất của con người,
cuộc sống hiện thực.
Các phương thức tự sự, trữ tình đều là những phương thức cơ bản, rất quan
trọng trong quá trình sáng tác văn học của mỗi tác giả. Các phương thức này có
thể cùng tồn tại trong một thể loại văn học. Không có sự tuyệt đối của phương
thức này hay phương thức khác trong một sáng tác mà tuỳ theo dụng ý của tác
giả khi xác định thể loại để lựa chọn phương thức nào là chủ đạo và phương
thức nào là phương thức bổ trợ. Tuỳ vào việc tác giả xác định thể loại khi sáng
tác, các phương thức được thể hiện ở những mức độ khác nhau - ít hay nhiều,
đậm hay nhạt. Tất cả các phương thức cùng tồn tại, bổ sung cho nhau để đạt đến
hiệu quả nghệ thuật nhất định và sự kết hợp đó sẽ truyền tải trọn vẹn nội dung
của tác phẩm và tư tưởng, quan điểm của tác giả đối với cuộc sống nhân sinh.
Và một tác phẩm thành công thì không thể thiếu sự đóng góp về mặt nghệ thuật,
trong đó có phần lớn là sự kết hợp độc đáo và nhuần nhuyễn giữa các phương
thức sáng tác.
54
Chương 2. PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ VÀ TRỮ TÌNH
TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC – NHỮNG DẠNG THỨC KẾT HỢP
VÀ TÁC DỤNG NGHỆ THUẬT
2.1. Phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi trung đại thuộc thể loại truyền kỳ.
Phương thức tự sự chính là phương thức sáng tác chủ đạo trong tác phẩm, mang
đặc trưng của thể loại.
2.1.1. Biểu hiện của phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục
Phương thức tự sự trong tác phẩm được thể hiện ở phương diện cốt truyện
(từ kết cấu, môtip truyện, tình huống truyện đến cách trần thuật), ở cách xây
dựng nhân vật và ở hệ thống sự kiện (bao gồm biến cố, không gian và thời gian
nghệ thuật). Qua những phương diện cốt truyện, nhân vật và sự kiện, Nguyễn
Dữ đã cho thấy một cách chân thật, sinh động khách quan về xã hội phong kiến
Việt Nam vào thế kỷ XVI.
2.1.1.1. Phương thức tự sự thể hiện ở phương diện cốt truyện
* Biểu hiện của cốt truyện thông qua kết cấu:
Cốt truyện được xây dựng trong TKML là những biểu hiện cơ bản nhất cho
phương thức tự sự. Đọc tác phẩm, chúng ta hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra? ai làm?
ở đâu? khi nào? câu chuyện được kết thúc như thế nào? Mục đích cuối cùng là
qua đó tác giả đã gửi gắm tư tưởng, quan niệm sống. Cốt truyện trong tác phẩm
nhìn chung đều đảm bảo kết cấu cơ bản: mở đầu, diễn biến (thắt nút), kết thúc
(mở nút). Tuy nhiên, bằng trí tưởng tượng hết sức độc đáo, Nguyễn Dữ đã tạo
nét riêng cho mỗi truyện về cách xây dựng cốt truyện. Chúng tôi mạn phép dựa
vào kết cấu mà tiến hành lập bảng thống kê các truyện để thấy rõ biểu hiện đầu
tiên của phương thức tự sự trong TKML (đính kèm phần phụ lục).
Từ bảng thống kê kết cấu cốt truyện, ta thấy 2/20 truyện có môtip: hội ngộ
- lưu lạc - đoàn viên (chiếm 10%), môtip hội ngộ - lưu lạc - không đoàn viên có
3/20 truyện (chiếm 15%), 15/20 truyện có môtip cốt truyện hội ngộ - biến cố -
55
thức tỉnh, giải thoát (chiếm 75%). Nguyễn Dữ thật sự có đóng góp không nhỏ
trong việc xây dựng kết cấu truyện mới lạ hơn kiểu truyền thống của các truyện
dân gian. Số lượng truyện có môtip cốt truyện truyền thống hội ngộ - lưu lạc -
đoàn viên rất ít, điều này có thể giải thích bởi sự thật nhiễu nhương của xã hội
đương thời nên việc con người tìm thấy niềm vui và hạnh phúc thật sự quả
không đơn giản. Có chăng trong những thực trạng rối ren ấy, con người luôn ở
trạng thái hoang mang về số phận, cuộc đời và từ đó có sự đổi thay về nhận
thức. Con người mong được giải thoát ở cuộc sống thực tại để đến được với
cuộc sống ở thế giới khác yên bình, hạnh phúc hơn. Từ cách xây dựng cốt truyện
như thế, ta thấy ở tác giả tư tưởng Đạo giáo chi phối khá rõ, qua tinh thần “hành
đạo cứu đời” hay tinh thần “ở ẩn”, “lánh đục tìm trong”. Có không ít truyện,
kết thúc con người được giải thoát nạn kiếp nhờ vào sự chỉ dẫn của Đạo nhân
hay Cư sĩ. Con người thật sự bình an, được giải thoát chỉ khi ở họ đã có sự thay
đổi nhận thức. Tư tưởng của Đạo giáo kết hợp với tư tưởng của Phật giáo đã
giúp các nhân vật thoát khỏi vòng luân hồi nghiệp chướng ở chốn nhân sinh.
Tiêu biểu như chàng Thiên Tích trong truyện số 4, nhân dịp xuống âm ty đã
nhận ra và thức tỉnh chuyện thiện ác ở đời, nhận biết sâu sắc quy luật nhân quả
“thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”. Thiên Tích trở thành con người biết hành
thiện ở cuối tác phẩm. Viên quan họ Hoàng trong truyện 11, đã ngộ ra và sớm
thoát khỏi sự u mê trong cõi trần đầy sắc dục sau một thời gian dài bên hồn Thị
Nghi. Lý Thúc Khoản trong truyện 17, cũng đã thức tỉnh và thật sự được giải
thoát khi từ địa phủ trở về nhân gian. Tư tưởng Nho giáo cũng để lại dấu ấn khá
rõ qua hình ảnh người Nho sĩ bất khuất chống lại tà thần. Có thể thấy rõ sự đan
xen của cả Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng tác giả nhưng quan trọng hơn cả là
tinh thần dân tộc và tình cảm nhân đạo như những đạo lý cơ bản mang giá trị
nhân văn - văn hoá dân tộc. Hình tượng con người mà Nguyễn Dữ xây dựng là
những con người luôn khao khát cuộc sống tốt hơn ở một thế giới khác, có thể là
non bồng, động tiên, long cung hayđịa phủ đầy huyền ảo. Kết cấu của các truyện
56
rất đa dạng, mỗi truyện là một câu chuyện khác nhau về con người, cảnh vật
nhưng tựu trung lại tất cả đều thể hiện quan niệm nhân sinh của người viết. Ở
cuộc sống trần tục con người khó thoát khỏi nạn kiếp đành hướng đến cảnh giới
của các đấng siêu nhiên mong mỏi tìm được sự bình yên và giải thoát. Phải
chăng đây là tâm lý hoang mang, sợ hãi trước thực cảnh đương thời và khao
khát được giải thoát của chính tác giả và của những người cùng thế hệ trong
cảnh đời đầy rẫy nhiễu nhương ấy?
* Biểu hiện của cốt truyện thông qua sự kiện:
Các sự kiện quan hệ chặt chẽ với nhau góp phần hình thành nên cốt truyện
của các truyện trong TKML. Các sự kiện có mối liên hệ nhất định để thúc tiến
cốt truyện và là điều kiện để nhân vật thể hiện tính cách và phẩm chất. Truyện
số 8 là một chuỗi dài sự kiện: Ngô Tử Văn đốt đền tướng giặc phương Bắc, hồn
tướng giặc đến đòi trả đền, thổ công báo mộng, Ngô Tử Văn bị đưa đến địa phủ,
tranh luận và đối chất, tướng giặc bị trừng phạt và Ngô Tử Văn sống lại, Ngô Tử
Văn được tiến cử giữ chức Phán sự. Truyện 16, cuộc đời bất hạnh của Vũ
Nương được mở ra bởi hàng loạt các sự kiện: chồng đi chinh chiến, Vũ Nương ở
nhà nuôi con, chồng về nghi oan trinh tiết, nàng tự tử ở bến sông Hoàng Giang,
được Linh phi cứu, Phan Lang xuống thuỷ cung, Vũ Nương nhờ Phan Lang báo
tin cho chồng, Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng. Để thiết lập một sự kiện
(tình tiết), tác giả đã liên tục tạo nhiều chi tiết, giữa chúng có mối liên quan chặt
chẽ nhằm thúc đẩy diễn biến cốt truyện đạt được hiệu quả nghệ thuật nhất định.
Truyện 14 được xây dựng bởi hàng loạt các sự kiện bao gồm các chi tiết nối kết
nhau:
- Sự kiện thứ nhất: Hội ngộ. Nguyễn Trung Ngạn giới thiệu nàng Tuý Tiêu
cho Dư Nhuận Chi, nhờ đó Dư Nhuận Chi gặp gỡ và yêu thương Tuý Tiêu. Sự
kiện được tạo bởi nhiều chi tiết trong đó có lời dặn dò của ông Nguyễn đối với
Dư Sinh: “Ả ấy kể cũng là người phong lưu, thầy nên khéo yêu thương lấy”.
57
- Sự kiện thứ hai: Quan trụ Quốc họ Thân bắt cướp Tuý Tiêu đem về làm
của mình. Bao gồm các chi tiết Dư Sinh làm đơn kiện Trụ quốc công trên triều
đình nhưng không thành, Dư Sinh buồn rầu chẳng thiết chuyện thi cử, chàng
nhìn thấy kiệu nàng Tuý Tiêu đi ngang mà “chỉ đắm đuối nhìn và ứa hai dòng
lệ, không nói được một lời nào”.
- Sự kiện thứ ba: Dư Sinh nhờ “chim yểng” đưa thư cho Tuý Tiêu. Sự kiện
này bao gồm các chi tiết Tuý Tiêu nhận được thư, nàng hồi âm, nàng đau lòng
đến sinh bệnh.
- Sự kiện thứ tư: Quan trụ quốc cho dời Dư Sinh đến nhưng dần dà viện cớ
không cho chàng gặp Tuý Tiêu. Bao gồm các chi tiết Trụ quốc dùng lời lẽ giải
thích với Tuý Tiêu, Tuý Tiêu chủ động đến gặp Dư Sinh nhưng không được bèn
dời Kiều Oanh đến “hầu hạ chăn gối” cho Dư Sinh, Tuý Tiêu và Dư Sinh hẹn
ước ngày trùng phùng.
- Sự kiện thứ năm: Đoàn viên. Bao gồm các chi tiết: Được sự giúp đỡ của
người “đầy tớ già”, Dư Sinh đã cướp được nàng Tuý Tiêu trở về. Vợ chồng sum
hợp, trụ quốc công “vì cớ xa xỉ mà phải tội”.
Từ câu chuyện, ta thấy tất cả các sự kiện, các chi tiết, tình tiết có mối quan
hệ chặt chẽ trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm: đề cao sự chung thuỷ của người
phụ nữ (Truyện 16), ca ngợi mối tình trong sáng và phê phán thói ỷ quyền ngang
nhiên cướp vợ người của tầng lớp thống trị (Truyện 14), đề cao những tấm
gương cương trực bảo vệ chính nghĩa (Truyện số 8). Quan niệm sống đạo đức
được thể hiện rất rõ trong tác phẩm. Những người có tình yêu chung thuỷ dù trải
qua bao nhiêu gian truân, cách trở cũng có ngày được sum họp và được đền đáp
xứng đáng. Còn ngược lại những người ham mê sắc dục, nhẫn tâm chia uyên rẽ
thuý sẽ bị trừng phạt một cách nghiêm minh. Cả hai mươi truyện trong TKML,
mỗi sự kiện đều mang một nội dung, ý nghĩa nhất định góp phần quan trọng
mang lại những nhận thức mới cho người đọc. Nói khác hơn, sự kiện là một
58
trong những yếu tố quan trọng trong việc cấu thành nên cốt truyện trong thể loại
văn xuôi tự sự nói chung, tiêu biểu là ở tuyệt tác của Nguyễn Dữ.
* Biểu hiện của cốt truyện thông qua không gian và thời gian nghệ
thuật:
Không gian và thời gian nghệ thuật trong TKML là một trong những yếu tố
giúp thể hiện rõ nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Dù tác giả muốn viết gì, miêu
tả sự kiện, hành động của bất kì nhân vật nào đi nữa thì tất cả cũng phải tồn tại
trong một không gian và thời gian nhất định. Ở tác phẩm, tác giả đã tái hiện
thành công không khí của một thời đại lịch sử dân tộc đầy biến động. Không
gian, thời gian được khắc hoạ với góc nhìn đa chiều, nhờ đó hoạt động của các
nhân vật cũng được mở rộng và phát huy hết tác dụng nghệ thuật. Con người
trong tác phẩm không chỉ có thể sống ở cõi trần còn có thể hoạt động trong cuộc
sống siêu nhiên. Theo mối liên hệ của các sự kiện, tác giả dẫn dắt người đọc đi
vào những vùng đất với những phong tục tập quán khác nhau ở mỗi vùng miền.
Con người có thể lùi vào dĩ vãng, có thể đắm chìm trong hiện tại hay mơ hồ
trong cuộc sống tương lai. Chính vì vậy, TKML không có sự giới hạn về không
gian và thời gian thể hiện.
Không gian nghệ thuật được Nguyễn Dữ thể hiện rất tài tình. Điểm thú vị
là tác giả đã linh hoạt đan xen không gian thực và không gian ảo ngay trong
cùng một sự kiện, cùng một cuộc đời của nhân vật. Không gian thực - ảo, trần
gian - địa giới, trần gian - thiên tào, sống - chết luôn hoà quyện vào nhau góp
phần thể hiện tư tưởng tác phẩm. Sự phối hợp này tạo nên bức tranh thật huyền
ảo và sinh động cho các truyện trong toàn tác phẩm. Với cách quan sát tài tình
và miêu tả tỉ mỉ, Nguyễn Dữ đã dẫn dắt người đọc đến rất nhiều nơi. Người đọc
có thể lạc vào những không gian khác nhau và trải nghiệm cảm xúc của mình
theo sự việc xảy ra trong phạm vi không gian ấy.
Không gian thực được thể hiện trong tác phẩm là những cảnh rất cụ thể, từ
cảnh đô thành nhộn nhịp đến làng quê, núi rừng hẻo lánh. Đó là cảnh sông nước
59
mênh mông, đền chùa tráng lệ, phủ đệ và dinh thự uy nghi, sang trọng. Đó là
những cảnh chiến tranh đã và đang diễn ra vô cùng khốc liệt. Không gian đời
sống thực tại của con người được Nguyễn Dữ xây dựng đa dạng. Từ không gian
nhỏ hẹp của gia đình, làng xã đến không gian rộng lớn như tỉnh lị ở đất nước ta
và cả ở Trung Hoa. Những không gian ấy tồn tại với những phong cảnh, con
người cùng phong tục tập quán rất riêng. Mảnh đất Trung Quốc có đền thờ Hạng
Vương; đất Khoái Châu thành Đông Quan có những người phụ nữ thuỷ chung,
giàu nghĩa tình; đất Bắc Hà âm u đầy yêu khí; đất Thường Tín xứ Sơn Nam có
những con người luôn hành thiện tích đức; đất Từ Sơn có những thanh niên
hoang dâm, những kẻ khoác áo tu hành nhưng sống buông thả theo dục vọng.
Bên cạnh không gian thực ấy, Nguyễn Dữ còn tạo ra thế giới tâm linh
huyền bí bằng trí tưởng tượng độc đáo. Trước hết là một không gian rộng lớn,
khoáng đạt, thanh thoát của chốn non bồng, động tiên, thuỷ cung. Một khung
cảnh thật tráng lệ, tuyệt mỹ với đủ màu sắc và hoa thơm cỏ lạ ở thế giới của thần
tiên “vòng quanh một bức từng gấm, vào trong một khung cửa son, thấy những
toà cung điện bằng bạc đứng sững”, “Trên gác có bà tiên áo trắng, ngồi trên
một cái giường thất bảo bên cạnh đặt một chiếc giường rất nhỏ bằng gỗ đàn
hương” (Truyện số 9), “… một khu có những bức tường bạc bao quanh, cái cửa
lớn khảm trai lộng lẫy, hai bên có những toà lầu châu điện ngọc, vằng vặc sáng
như ban ngày”, “gió thơm phưng phức, đượm ngát quanh hiên, hơi lạnh thấu
da, ánh sáng chói mắt” (Truyện số 10), kèm theo đó là “… cung gấm đai dao,
nguy nga lộng lẫy” (Truyện 16).
Bên cạnh đó cũng có một không gian tù túng, âm u, ngột ngạt đầy yêu khí
ở âm ty, địa phủ. Con người có thể cảm nhận được cái rùng rợn của loạt không
gian này qua những giác quan. Ngôi nhà của Nhị Khanh được tác giả miêu tả
thông qua sự quan sát của Trình Trung Ngộ: “… chung quanh có bức hàng rào
bằng gióng tre, thỉnh thoảng chen lẫn vào những khóm lau khô, trong có túp lều
gianh thấp nhỏ lụp sụp, dây vôi dây bìm leo đầy lên vách và lên mái”, “Thỉnh
60
thoảng có cơn gió thổi”, “một mùi tanh thối khó chịu”, “không biết là mùi gì”,
“thấy ở gian bên phía tả kê một chiếc giường mây nhỏ, trên giường có một cỗ
áo quan sơn son, trên quan phủ một tấm the hồng, dùng ngân sa đề mấy chữ
Linh cửu của Nhị Khanh” (Truyện số 3). Hay không gian nhà của nàng Liễu,
nàng Đào ở trại Tây: “… nếp nhà quạnh hiu, vài ba cây đào liễu xơ xác tơi bời,
lá trút đầy vườn, tơ vương khắp giậu” (Truyện số 5).
Rõ ràng, không gian thực và ảo đan lồng hài hoà, nhuần nhuyễn ở cả hai
mươi truyện trong TKML. Sự kết hợp độc đáo này đã không ngừng lôi cuốn cảm
xúc của người đọc theo mạch kể của câu chuyện. Người đọc thực sự trải qua
những trạng thái cảm xúc khó tả, có lúc êm ái, nhẹ nhàng, có lúc bồi hồi, xao
xuyến nhưng cũng có lúc lo lắng, hoang mang và sợ hãi. Sự chuyển đổi không
gian rất linh hoạt, nhân vật có khi đang tồn tại trong một không gian thực của
gia đình, chợ, làng bỗng lạc vào một không gian ảo của âm ty, thuỷ cung, động
tiên. Mười chín truyện trong tổng số hai mươi truyện có sự tồn tại cùng lúc
không gian thực và ảo (trừ truyện 14, duy nhất có một không gian thực). Truyện
thường được xây dựng được bắt đầu từ một không gian thực sau đó vì lí do nào
đấy (nằm mộng, lạc bước, đi kiện tụng) mà con người chuyển sang một không
gian ảo khác. Ở đó, các nhân vật được sống, chứng kiến hoặc tham gia vào một
sự việc nào đó đang diễn ra. Rồi nhân vật được trở lại trong không gian thực
mang theo sự thay đổi nhận thức đối với cuộc đời. Ví dụ như truyện số 1 được
mở ra từ một không gian rất thực, không gian trước cửa đền Hạng Vương nhưng
diễn biến của truyện lại diễn ra trong một không gian ảo giấc mơ của Hồ Tông
Thốc với cuộc trò chuyện, tranh luận của các nhân vật và kết thúc truyện là khi
Hồ Tông Thốc tỉnh giấc, trở về với không gian thực tại. Truyện số 2 cũng được
mở ra ở một không gian thực. Các sự việc lần lượt xảy ra trong cuộc đời Trọng
Quỳ và Nhị Khanh. Do chồng thua bạc gán nợ nên Nhị Khanh tìm đến cái chết
để trọn tình trọn nghĩa với chồng và vợ chồng gặp lại nhau trong một không gian
ma quái. Kết thúc là không gian thực của cuộc sống trần gian: “Trọng Quỳ bèn
61
không lấy ai nữa, chăm chỉ chăm nuôi hai con cho đến nên người”. Truyện số 9
được mở ra là không gian rất thực về cuộc đời Từ Thức. Tiếp đó, truyện diễn
biến trong một không gian hư ảo: động tiên. Kết thúc thì Từ Thức trở về cuộc
sống thực tại. Tương tự, truyện 19 được mở đầu với không gian thực, Mao Tử
Biên trên đường “qua hạt huyện Kim Hoa”, “thăm quê ở huyện Đông Hỷ thuộc
Thái Nguyên” nhưng diễn biến diễn ra trong một không gian ảo. Mao Tử Biên
nằm mơ và nói chuyện với Ngô Chi Lan, nhà thơ họ Sái. Kết thúc là không gian
thực: Mao Tử Biên tỉnh giấc. Nhưng dù nhân vật tồn tại ở không gian nào, thực
hay ảo thì họ vẫn thể hiện được đầy đủ phẩm chất của mình qua cách cách bố trí
khéo léo của Nguyễn Dữ. Có thể cho rằng không gian nghệ thuật trong tác phẩm
cũng là một trong những yếu tố hình thức mà tác giả sử dụng để gửi tư tưởng
sáng tác, quan niệm sống của bản thân mình trong cuộc đời. TKML có sự kết
hợp tinh tế giữa các góc cạnh của không gian và nhìn chung sự kết hợp ấy theo
một trật tự rõ ràng, hợp lí.
Bên cạnh sự thành công về không gian nghệ thuật, tác giả cũng đã tạo được
ấn tượng độc đáo khi xây dựng thời gian nghệ thuật. Thời gian trong TKML
cũng mang hai sắc thái thực và ảo.
Thời gian thực của cuộc sống là mốc thời gian gắn liền với những biến cố
lịch sử, gắn liền với số phận con người. Thời gian trong tập truyện trước hết là
thời gian tuyến tính. Mỗi câu chuyện là mỗi sự kiện cụ thể trong cuộc đời của
con người. Sự việc này có thể xảy ra trong một khoảnh khắc nhất định, có thể
được kéo dài đến hàng chục năm, hàng trăm năm hoặc lâu hơn nữa là trải qua
nhiều thế hệ. Thời gian thực là thời gian sống, hoạt động của con người trong
nghiệp mưu sinh, tình yêu, hôn nhân gia đình. Thời gian thực còn là lúc chiến
tranh xảy ra trên đất nước. Thời gian thực có khi thật ngắn ngủi như trong truyện
số 1, sự việc được diễn ra chỉ trong một giấc chiêm bao của Hồ Tông Thốc sau
khi đề bài thơ trước đền; Mao Tử Biên trong truyện 19 cũng trong một giấc mơ
khi đêm về đã gặp và trò chuyện với Ngô Chi Lan và nhà thơ họ Sái. Nhưng
62
cũng có khi ngược lại như truyện số 9 kể về nhân vật Từ Thức lạc vào cõi tiên
và kết duyên cùng nàng Giáng Hương, thời gian được kéo giản rất lâu đến mấy
trăm năm, khi Từ Thức ra đi là lúc “năm Quang Thái đời nhà Trần” khi trở về
trần là lúc “niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê”.
Bên cạnh thời gian thực của cuộc sống, trong tác phẩm còn có thời gian ảo
của thế giới siêu nhiên: địa giới, tiên giới. Thời gian thực của đời người là hữu
hạn còn thời gian ảo của thế giới siêu nhiên là vô hạn. Một thời khắc ngắn của
thế giới siêu nhiên được quy đổi bằng thời lượng rất dài trong cuộc sống thực
của con người. Biểu hiện cho điều này là cách xây dựng thời gian ở Chuyện
chức Phán sự đền Tản Viên (Truyện số 8). Ngô Tử Văn sau khi kiện tội hồn ma
tướng giặc đất Bắc ở Diêm La, tỉnh dậy thì hay “mình chết đã hai ngày rồi”.
Thời gian từ khi Từ Thức lạc bước đến cung tiên và kết duyên với Giáng Hương
đến khi rời khỏi động tiên, trở về trần thế là “một năm” của cuộc sống thần tiên.
Thời gian này được tác giả quy đổi bằng hàng trăm năm của cuộc sống ở trần
gian “từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm, ao sen đã dổi sang màu
biếc. Những đêm sương sa gió thổi, bóng trăng sáng nhòm qua cửa sổ, tiếng
thuỷ triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một nỗi buồn bâng
khuâng…”, Từ Thức tìm đường trở về quê, ngờ đâu giờ không còn ai biết đến
chàng nữa, một cụ già đã trả lời khi Từ Thức hỏi đường về “Thuở bé tôi nghe
nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất đến nay đã
hơn tám mươi năm, năm nay đã là năm thứ năm (1458) niên hiệu Diên Ninh là
đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi” (Truyện thứ 9). Trong truyện 17, thời gian
cho Lý Thúc Khoản chứng kiến thưởng phạt ở chốn âm ty được tính bằng “hai
ngày” của cuộc sống trần thế “Thúc Khoản giật mình tỉnh dậy, thấy người nhà
đương ngồi chung quanh mà khóc, nói mình chết đã hai ngày rồi”. Thời gian
thực và ảo đan lồng vào nhau thật tài tình. Từ đây, ta có thể nhận ra tác giả ý
thức về bước đi thời gian của kiếp người là hữu hạn. Đây là quy luật tất yếu của
cuộc sống trần thế!
63
Cái hay của Nguyễn Dữ là xây dựng không gian và thời gian nghệ thuật
thật ăn khớp với nhau, cả hai đều hướng đến việc thể hiện nội dung tác phẩm.
Ứng với không gian thực là một khoảng thời gian thực của đời người, ứng với
không gian ảo là thời gian ảo của thế giới siêu nhiên. Nguyễn Dữ thật sự thành
công khi dựng cảnh vừa hợp lý vừa thuận tình để cuối cùng tạo nên một bức
tranh chân thực, sinh động về đời sống của con người cũng như thực trạng xã
hội phong kiến nước ta vào khoảng thế kỉ XVI. Có thể nói Truyền kỳ mạn lục
vừa đậm tính hiện thực vừa giàu chất lãng mạn.
* Biểu hiện của cốt truyện thông qua cách trần thuật:
Cách trần thuật trong tác phẩm cũng có nhiều nét độc đáo. Người trần thuật
quan sát và thuật truyện một cách khách quan. Tuy vậy, người đọc cũng có thể
cảm nhận được tinh thần của người trần thuật một cách rõ ràng qua các chi tiết
giàu tính tạo hình và giọng điệu giàu cảm xúc. Giọng kể đa dạng đã mang lại
sức sống mới cho tác phẩm. Giọng kể khi điềm đạm: “Phạm Tử Hư quê ở Cẩm
Giàng, là người tuấn sảng hào mại không ưa kiềm thúc. Theo học nhà xử sĩ
Dương Trạm: Trạm thường răn Tử Hư về cái tính hay kiêu căng. Từ đấy chàng
hết sức sửa đổi, trở nên người có đức tính tốt” (Truyện số 10). Cũng có khi rắn
rỏi: “Năm Bính Dần (1386), vua Trần Phế Đế đi săn, đỗ lại trên bờ Bắc sông
Đà, đêm mở bữa tiệc ở trong trướng, có một con cáo từ dưới chân núi đi về phía
Nam, gặp con vượn già nhân bảo: Vua tôi Xương Phù vào rừng săn bắn, để ý
vào bọn ta lắm đó” (Truyện 15). Nhiều lúc lời nói của nhân vật trong truyện
đồng thời là lời trần thuật, điều này làm tăng thêm tính đa dạng trong cách kể.
Xin dẫn một đoạn:
“Quý Ly nói:
- Không nên.
Hồ nói: Đó là tôi thương những giống chim hèn muông yếu và xin nài cho
chúng. Chứ còn những giống tinh khôn lanh lẹn thì tự nhiên chúng biết xa chạy
64
cao bay đàng nam núi Nam, đàng bắc núi Bắc, há chịu trần trần một phận ấp
cây đâu!
Quý Ly nói:
- Nhà vua đi chuyến này, không phải vì ham thích chim muông. Chỉ vì nghe
ở đây có giống hồ tinh nghìn tuổi, nên ngài muốn đại cử để tiễu trừ, khiến loài
yêu gian không hề giở trò xằng bậy được, có thế thôi.
Viên đưa mắt cho Hồ rồi mỉm cười…”
Người trần thuật ở nhiều tư thế, nhiều góc quan sát, có khi nhìn con người
và sự vật ở góc độ cận cảnh “Hồ vội vàng sửa sang quần áo. Người ấy đưa ông
đến một cung điện nguy nga, quan hầu đứng sắp hàng răm rắp. Hạng Vương đã
ngồi chờ sẵn, bên cạnh có cái giường lưu ly, mời ông lên ngồi” (Truyện số 1),
có khi nhìn sự việc ở góc độ xa “Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày
đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa
đứng ở giữa dòng, theo sau có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng,
rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện” (Truyện 16), “Trên bờ sông ấy có một cái
chùa, chùa có cây gạo rất cổ, tương truyền đã sống hơn trăm năm. Linh hồn của
hai người bèn nương tựa vào cây gạo ấy làm yêu làm quái, hễ ai động đến cành
lá cây gạo thì dao gãy rìu mẻ, không thể nào đẳng phạt được” (Truyện số 3),
hoặc có khi chuyển điểm nhìn lên không trung bầu trời, ở một độ cao nhất định
“Một lúc gió thổi lên đùng đùng, người đứng cách mấy thước không trông thấy
nhau, dưới sông thì sóng tung cuồn cuộn vang trời động đất”, “Mọi người
ngẩng lên trông có sáu, bảy trăm lính đầu trâu gông trói hai người mà dẫn đi”.
Hoặc trong lúc trần thuật, người kể kết hợp cả tầm nhìn gần, cao và xa “… có
người ở thành Đông Quan (Hà Nội)”, “buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm,
trong thấy ở trong sương mù có xe ngựa đi đến ầm ầm, lại nghe thấy tiếng quát
rằng: Người đi đường tránh ra, xe quan Phán sự. Người ấy ngẩng đầu trông về
phía trước, người ngồi trên xe chính là Tử Văn” (Truyện số 8).
65
Nhìn chung cốt truyện trong Truyền kỳ mạn lục đảm bảo sự kế thừa những
tinh hoa của truyện dân gian dân tộc, tuy nhiên bên cạnh đó còn có sự sáng tạo
thành công của Nguyễn Dữ. Cốt truyện không lạ, môtip truyện quen thuộc
nhưng Nguyễn Dữ đã sáng tạo không gian thực và ảo đan xen sinh động, cách
kể linh hoạt, dạt dào cảm xúc. Chính vì thế tác phẩm đã mang lại cho người đọc
cảm giác vừa quen, vừa lạ, vừa thú vị, bay bổng, thanh thoát nhưng cũng không
ít những cảm xúc rùng rợn, ghê sợ. Người đọc sẽ thay đổi liên tục cảm giác, cảm
xúc theo nhân vật qua từng cảnh mà nhà văn tạo dựng. Chẳng hạn, cảnh đầy
huyền ảo, thi vị ở động tiên gây cảm xúc nhẹ nhàng lâng lâng cho Từ Thức khi
lạc lối; khung cảnh lạnh lẽo, âm u gây cảm xúc hoảng sợ, hoang mang cho họ
Hoàng khi bị hồn Thị Nghi đeo bám; khung cảnh u buồn tạo cảm xúc đau
thương, tuyệt vọng, bế tắc cho Vũ Nương khi bị Trương Sinh nghi ngờ, xua
đuổi. Người đọc được theo chân các nhân vật trong truyện gặp gỡ, sống cùng
với các thần tiên, ma quỷ. Từ đó, hiểu rõ hơn bối cảnh của xã hội phong kiến
đương thời ở Việt Nam, hiểu được những tâm tư nguyện vọng của người dân và
điều quan trọng là cảm nhận hết những giá trị giàu tính hiện thực và đậm chất
nhân văn của toàn tác phẩm. Nguyễn Dữ đã thật sự thành công khi xây dựng
hoàn chỉnh các cốt truyện, linh hoạt ở cách trần thuật, cách thiết kế không gian
nghệ thuật độc đáo và bố trí thời gian nghệ thuật co giản hợp lý, sinh động. Tất
cả tạo nên những cốt truyện trong Truyền kỳ mạn lục vừa có sự kế thừa của
những thành tựu văn học trước đó, lại vừa có sự sáng tạo, phát huy đặc sắc của
Nguyễn Dữ.
2.1.1.2. Phương thức tự sự thể hiện ở phương diện nhân vật
Nhân vật trong sáng tác văn học thường là đối tượng để tác giả thể hiện tư
tưởng, quan niệm của mình trước thế giới hiện thực khách quan. Thông qua
ngoại hình, lời nói, tính cách, hành động, nội tâm, ta thường thấy mỗi loại nhân
vật là đại diện cho một hạng người trong một xã hội nhất định. Nhân vật trong
tác phẩm văn học có thể là một cá thể hoặc một nhóm cá thể tồn tại khách quan
66
mang những đặc trưng của dân tộc, cộng đồng. Nhân vật trong Truyền kỳ mạn
lục đa dạng, phong phú từ thân thế, hoàn cảnh xuất thân đến ngoại hình, tính
cách và nội tâm. Không chỉ đơn thuần là con người bằng xương bằng thịt mà
nhân vật còn là những tiên nữ, thần thánh, ma quỷ, con vật, thực vật (cáo, vượn,
thuồng luồng, đào, liễu…). Hệ thống nhân vật đa dạng phong phú với các tính
cách khác nhau tạo nên một thế giới nhân vật rộng lớn. Chúng tôi xem xét và
tạm phân chia nhân vật thành bốn loại theo bình diện cấu trúc nhân vật với hi
vọng theo sự phân chia này, có thể hiểu tác phẩm sâu sắc hơn ở phương thức tự
sự.
* Nhân vật chức năng:
Đây là loại nhân vật đảm nhận chức năng thúc đẩy diễn biến cốt truyện.
chuyên đảm nhiệm một chức năng duy nhất trong Truyền kỳ mạn lục. Họ có thể
có tên gọi cụ thể như: Kiều Oanh, Hành Khiển, Kim tiên, Diêm vương, Lê Ngộ,
Liễu Nương, Đào Nương, ông Nguyễn... hoặc chỉ có tên gọi chung chung chỉ
một lớp người, một hạng người trong xã hội như: nàng hầu, nàng áo xanh, ông
già, bõ già, lũ quỷ, quần tiên, chúng tiên, thần Thuồng Luồng, đạo nhân, cư sĩ,
bạn cờ bạc, tiều phu, danh kỷ… Các nhân vật này được xây dựng với chức năng
làm phương tiện để làm nổi bật các nhân vật chính, góp phần khẳng định nội
dung, tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này có thể xuất hiện xuyên suốt tác phẩm
hay chỉ xuất hiện mỗi khi cần thiết, có rất ít hoặc không có sự thay đổi về phẩm
chất.
Nàng Kiều Oanh trong truyện 14, chỉ duy nhất một phẩm chất người tốt,
nàng xuất hiện ở một vài cảnh, với chức năng đưa thư, làm cầu nối cho tình
duyên Dư Nhuận Chi và Tuý Tiêu. Kiều Oanh đến hầu hạ Dư Nhuận Chi bởi sự
uỷ thác của Tuý Tiêu như lời của Kiều Oanh nói với Nhuận Chi: “Tuý Tiêu
nương tử sai tôi như vậy. Nương tử nghĩ lang quân một mình buồn tẻ, nên sai tôi
đến hầu hạ chăn gối, cũng như nương tử ở bên mình lang quân”. Nàng đã giúp
Dư Nhuận Chi tìm lại Tuý Tiêu sau bao ngày xa cách. Hay “nàng áo xanh”
67
trong truyện số 6, xuất hiện khi Trịnh Thái thú xuống Long cung tìm và kiện kẻ
đã bắt cóc vợ mình. Với mục đích giúp người, nàng đã sẵn sàng chấp nhận
nhiệm vụ điều tra kẻ bắt cướp Dương thị “Thiếp xin nhận công việc ấy” để tình
duyên hai họ Trịnh - Dương được trọn vẹn. Nguyễn Quỳ trong truyện 17 gặp gỡ
Lý Thúc Khoản, đảm nhận duy nhất chức năng đưa Lý Thúc Khoản xuống âm
ty chứng kiến việc xử tội của Diêm vương đối với con người đã tạ thế. Nhân vật
chức năng trong TKML cũng có thể là một nhóm cá thể tồn tại xuyên suốt
truyện. “Lũ quỷ” trong truyện 20 với những hành động càn gở, quấy nhiễu dân
lành, góp phần làm nổi bật phẩm chất kiên nghị của Văn Dĩ Thành. Hay bọn tà
thần xuất hiện trong truyện 13, chúng chỉ vì cảnh đói mà sinh lòng quấy rối, phá
phách cuộc sống người dân.
Những nhân vật chức năng được Nguyễn Dữ xây dựng đa dạng, phong phú
chứng tỏ trí tưởng tượng tuyệt vời của nhà văn. Nhân vật có thể xuất thân từ
tầng lớp trên như tiên, thần, vua chúa, quan thái thú, tướng quân; có thể xuất
thân từ tầng lớp trí thức, tu hành, thương nhân; và cũng có không ít những nhân
vật xuất thân từ tầng lớp thấp trong xã hội như thị nữ, nàng hầu, kỹ nữ, quản gia.
Do dụng ý của tác giả khi sáng tạo ra loại nhân vật này nên việc miêu tả ngoại
hình, cảm xúc, nội tâm không được quan tâm nhiều, đơn thuần chỉ giới thiệu
khái quát về hành động và lời nói của nhân vật mà thôi. Nhưng dù xuất thân thế
nào thì các nhân vật cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện nội
dung tác phẩm.
* Nhân vật loại hình:
Truyền kỳ mạn lục còn có những nhân vật có một hay nhiều tính cách đặc
trưng, tiêu biểu cho một một lớp người, một giai cấp trong xã hội. Để khắc hoạ
loại nhân vật này, tác giả thường tập trung miêu tả đậm đặc những nét tính cách
mang tính “loại hình” của nhân vật. Nhân vật trong văn học trung đại chủ yếu
được miêu tả theo thủ pháp ước lệ tượng trưng. Với sự xây dựng nhân vật theo
kiểu “loại hình hoá”, con người trong hai mươi truyện của TKML đều có sự
68
phân biệt rõ ràng “chính” và “tà”. Điều này có nguồn gốc sâu xa từ quan niệm
thẩm mỹ và đạo đức thời trung đại. Chẳng hạn hai tuyến nhân vật được phân
định rõ ràng trong truyện số 7, đại diện cho công lý chính nghĩa là sư cụ Pháp
Vân, ngược lại sư Vô Kỷ và Hàn Than là những con người đại diện cho sự dâm
dục, dối trá. Hay ở truyện số 8, đại diện phe chính nghĩa là Ngô Tử Văn, tiêu
biểu cho phe phi nghĩa là hồn ma tướng giặc phương Bắc và những bè cánh nhu
nhược, yếu hèn, tham của đút. Và cứ như thế, hàng loạt các nhân vật loại hình
được xây dựng như Trọng Quỳ, Trình Trung Ngộ, Dương Đức Công, Hà Nhân,
Thổ thần, Từ Thức, Phạm Tử Hư, Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết… Tác giả tập trung
nhiều vào việc miêu tả lời nói, cử chỉ, hành động thể hiện tính đặc trưng cho một
con người, một lớp người nhất định. Sự xuất hiện của loại nhân vật này được
nhà văn chăm chút khá nhiều. Ở truyện số 3, Nhị Khanh xuất hiện với cách miêu
tả: “… người con gái đã xốc xiêm rảo bước”, “người con gái cùng ả thị nữ
mang theo một cây hồ cầm, đi tới đầu cầu, thở dài và nói…”. Truyện số 5, hai
hồn hoa xuất hiện bằng hình hài hai cô gái để trêu đùa Hà Nhân: “hai người con
gái đứng ở bên trong bức tường đổ nhí nhoẻn cười đùa, hoặc hái những quả
ngon, bẻ bông hoa đẹp mà ném cho sinh nữa”. Ngôn ngữ và tính cách nhân vật
cũng được khắc hoạ khá kỹ lưỡng. Ở truyện số 7, lời của Hàn Than sau khi chết
trên giường cử “Thiếp buổi trước ngàn dâu xế bóng, cửa Phật nương mình,
đáng cười thay chưa dứt lòng trần, thêm ngán nỗi còn vương nợ nghiệp, đài
Dao mệnh đứt, đến nỗi chia bầy, sống còn chưa thoả yêu đương, chết xuống sẽ
cùng nhau quấn quýt (…), thác hoá đầu thai, để trả cho xong một cái nợ oan gia
ngày trước” đã kéo theo cái chết của Vô Kỷ và sự tái sinh để trả thù nhà quan
Hành Khiển, không ngờ sư cụ Pháp Vân cao tay đã trừ khử được mối hoạ oan
nghiệt. Truyện 11, sự ao ước se duyên với “người con gái 17, 18, mặc một cái
áo lụa đỏ” đã khiến viên quan họ Hoàng ngỏ ý: “Cô đã bơ ơ trơ trọi, không chỗ
tựa nương”, “nếu cô muốn về kinh thì tôi cho xuống ngồi nhờ thuyền”. Đáp lại
lời đó là sự biết ơn, chấp thuận của người con gái: “Nếu vậy thật là lòng trời.
69
Ngài quả giúp cho được như thế, thật là cái ơn cốt nhục sinh tử. Thiếp dù có nát
thân báo đền cũng không dám quản”. Cuối cùng cô gái về làm vợ và mang bệnh
trầm kha đến cho viên quan họ Hoàng. Những trạng thái tình cảm của nhân vật
được tác giả khai thác đặc biệt hay ngẫu nhiên, tập trung hay thoáng qua đều là
tuỳ vào dụng ý nghệ thuật. Điều kiện ngoại cảnh, môi trường sống ảnh hưởng rất
lớn đến sự hình thành tính cách và tâm lý của nhân vật. Lý Thúc Khoản do được
một lần xuống âm ty chứng kiến sự hành tội của Diêm vương đối với những
người gian ác nên về trần chọn cách sống xoá giấy nợ, chia ruộng đất cho dân,
từ bỏ vợ con, hái thuốc, tu luyện (Truyện 17), Phạm Tử Hư tính vốn “kiêu
căng” nhưng khi được theo học xử sĩ Dương Trạm thì tính nết được “sửa đổi,
trở nên người có đức tính tốt” (Truyện số 10), Trương Sinh chỉ vì lời nói ngây
thơ của Đản “Ô hay, thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không
như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít” mà trở nên “tin chắc đinh ninh là vợ hư,
ko còn cách gì tháo cởi ra được” để cuối cùng “tỉnh ngộ ra nỗi oan của vợ,
nhưng chẳng làm gì được” (Truyện 16). Tóm lại, trong Truyền kỳ mạn lục,
Nguyễn Dữ đã thành công nhiều mặt trong việc khắc hoạ dạng nhân vật loại
hình mang đặc tính chung của những hạng người nhất định trong xã hội.
* Nhân vật có tính cách riêng:
Đặc biệt hơn, loại nhân vật tính cách cũng bắt đầu xuất hiện trong Truyền
kỳ mạn lục. Nhân vật không chỉ thể hiện cái chung, cái phi ngã mà còn thể hiện
cái cá thể, đặc trưng riêng của mình. Nhân vật Ngô Chi Lan trong truyện 19,
được xem là người phụ nữ tốt, nhiều đức tính tốt đẹp “người nội trợ hiền”, “chữ
tốt văn hay”, “thơ ca càng giỏi lắm” được vua Lê Thánh Tôn mời vào triều để
dạy các cung nữ, tuy nhiên ở nàng cũng tồn tại nhược điểm đa sầu đa cảm, buồn
đau đáu trước những lời thị phi vô căn cứ của người đời. Văn Dĩ Thành trong
truyện 20, cai quản cả lũ quỷ với mục đích giữ bình an cho dân làng nhưng ở
chàng cũng có những tính tình cần hoàn thiện, chính Văn Dĩ Thành đã “vì mối
tình cũ” với Lê Ngộ nên đã bày cho Lê Ngộ cách cúng mua chuộc lũ quỷ để
70
không bắt hồn vợ con, cuối cùng gia quyến của Lê Ngộ thoát nạn và Văn Sĩ
Thành được Lê Ngộ lập miếu thờ phụng. Tuy nhiên, sự phân định giữa nhân vật
loại hình và nhân vật tính cách cũng chưa thật sự rõ ràng. Bước đầu chỉ có
những biểu hiện tiền đề cho việc hình thành loại nhân vật tính cách trong tác
phẩm. Có thể chính hệ thức thẩm mỹ của thời đại đã chi phối trong quá trình
sáng tác của Nguyễn Dữ.
* Nhân vật tư tưởng:
Nhân vật loại này thường mang một tư tưởng, một quan niệm nhất định của
tác giả. Nhà văn xây dựng nhân vật bởi những yếu tố mang tính chất lãng mạn,
tượng trưng, nhân vật tồn tại với những phẩm chất tốt đẹp, hoàn thiện (không
thay đổi). Nhân vật tư tưởng không chỉ được khắc hoạ qua các lời nói, hành
động mà còn qua các chi tiết đối lập, mâu thuẫn nội tâm, những đấu tranh tư
tưởng của chính nhân vật đối với những tác động của ngoại cảnh. Tiêu biểu là
Hồ Tông Thốc ở truyện số 1, dù rằng bị Hạng Vương mời đến và trách phạt như
thế nào ông cũng vẫn một mực bảo vệ lập trường và quan niệm sống của mình,
thống nhất với nội dung đã đề trước cửa đền:
“Bách nhị sơn hà khởi chiến phong.
Huề tương tử đệ nhập Quan Trung.
Yên tiêu Hàm Cốc châu cung lãnh,
Tuyết tán Hồng môn ngọc đẩu không.
Nhất bại hữu thiên vong Trạch tả,
Trùng lai vô địa đáo Giang Đông.
Kinh doanh ngũ tải thành hà sự?
Tiêu đắc khu khu táng Lỗ công”.
Ở truyện số 7, sư cụ Pháp Vân dù ở hoàn cảnh nào, trước sắc đẹp và sự
lẳng lơ của Hàn Than, đã kiên quyết và khuyên Vô Kỷ không nên nhận nàng vào
chùa “đừng để hối hận về sau”, Vô Kỷ không nghe, sư cụ bỏ chùa dời lên đỉnh
núi Phượng hoàng tu luyện. Đến khi gia đình quan Hành Khiển gặp nạn, sư cụ ra
71
tay trừ yêu nghiệt mà không hề mảy may vụ lợi. Đây là vị sư tu hành chân
chính, đáng kính hoàn toàn khác với sư Vô Kỷ. Ngô Tử Văn ở truyện số 8, luôn
giữ được tính bất khuất không sợ cường quyền, không sợ gian tà, dù bất cứ hoàn
cảnh nào vẫn “khảng khái”, “thấy sự tà gian thì không thể chịu được”. Trước
sự đe doạ của hồn tướng giặc phương Bắc “biết điều thì trả đền như cũ. Nếu
không thì vô cớ huỷ đến Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ”, hay sự
mắng phạt của Diêm vương: “Kẻ kia là một người cư sĩ, trung thần khích liệt,
có công với tiên triều, nên Hoàng thiên cho được huyết thực ở một toà đền để
đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo, tội nghiệp tự mình
làm ra, còn trốn đi đằng nào.” Hoặc trước cảnh âm u, lạnh lẽo đến ghê người
của âm phủ “gió tanh sông xám, hơi lạnh thấu xương”, Ngô Tử Văn vẫn mạnh
dạn kêu to: “Ngô Soạn này là kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì thì xin
bảo cho rõ, không nên bắt phải chết một cách oan uổng”. Trước sau người nho
sĩ ấy vẫn một mực đảm bảo phẩm chất tôt đẹp của mình và cuối cùng được đền
công hậu hĩnh là chức Phán sự ở đền Tản Viên. Thật là một tấm gương sáng cho
phẩm chất làm người!
Ở truyện 12, nhân vật tiều phu ở núi Nưa được xem như đại diện cho
những kẻ sĩ chân chính, chán cảnh đời trọc loạn, không muốn “buộc mình trong
áng lợi danh” đã thẳng thắn bộc lộ khí tiết khẳng khái, không xu phụ cường
quyền và bày tỏ quan niệm sống: “Ta là kẻ dật dân trốn đời, ông lão già lánh
bụi, gửi tính mệnh ở liều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng,
ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là hưu nai
tôm cá, quẩn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà đơn hè, nằm
mây mà ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn, chứ có biết gì đâu ở ngoài
là triều đại nào, là vua quan nào”.
Nhìn chung, trong Truyền kỳ mạn lục, nhân vật đa dạng từ người sống,
người chết (hồn ma) đến thần tiên, từ con người đến những cỏ hoa, động vật.
Khó phân định rạch ròi “ranh giới” giữa các loại nhân vật. Từ những lý thuyết
72
và thực tế phân tích tác phẩm, người viết nhận thấy một nhân vật có thể mang
biểu hiện của một loại nhân vật nhất định hoặc có thể cùng mang biểu hiện của
nhiều loại nhân vật. Điều cốt yếu là các nhân vật trong TKML tồn tại thành một
hệ thống có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể mối quan hệ này là đối sánh, đối
chiếu, đối lập hay bổ sung cho nhau góp phần phản ánh hiện thực. Mâu thuẫn,
xung đột giữa các tuyến nhân vật thiện - ác, chính nghĩa - phi nghĩa, tốt - xấu
dẫn đến kết quả là thiện thắng ác, phi nghĩa phải khuất phục trước chính nghĩa.
Những con người còn u mê được sự chỉ bảo của người đắc đạo để tìm ra ánh
sáng cho cuộc sống. Phải chăng điều này xuất phát từ ảnh hưởng mạnh mẽ của ý
thức hệ thời đại đối với tác giả hay xuất phát từ một nhân cách tốt đẹp khi ý thức
sâu sắc quy luật nghiệp quả ở đời? Chính vì lẽ đó, nhân vật là yếu tố biểu hiện
quan trọng của phương thức tự sự trong tác phẩm của Nguyễn Dữ nói riêng và
trong tác phẩm tự sự nói chung nhằm phản ánh đời sống của nhân dân, phản ánh
hiện thực đời sống trong một thời đại xã hội nhất định.
2.1.2. Ý nghĩa của phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục
Bằng các biểu hiện về phương diện cốt truyện, cách trần thuật và phương
diện nhân vật của phương thức tự sự, Nguyễn Dữ đã tái hiện đầy đặn, khách
quan hiện thực đời sống của nước ta vào những năm của thế kỉ XVI. Từ đó,
những con người ở thế hệ sau nhận thức rõ hơn về những biến động trong đời
sống xã hội, văn hoá, tôn giáo và kể cả về chính trị của một thời đại nhất định
trong lịch sử dân tộc. Thời đại hỗn loạn, kỉ cương phép nước đảo ngược, vua
quan thì cấu kết với nhau vơ vét, bòn rút tài lực nhân dân. Thực trạng đó được
tái hiện qua truyện số 1, truyện số 8, truyện 20. Nạn đói đang hoành hành dữ
dội, đe doạ cuộc sống của dân lành trong khi quan lại thì phủ phê trong cuộc
sống hưởng thụ, được tái hiện qua truyện 13, truyện 17. Cảnh chiến tranh loạn
lạc được tái hiện qua truyện số 2, truyện 16, truyện 18. Tâm trạng hoang mang,
sợ hãi của con người trước thời thế, mong muốn tìm đến một thế giới khác bình
yên, hạnh phúc hơn. Thái độ bất mãn của những người trí thức được thể hiện
73
qua cuộc sống ẩn dật nơi rừng sâu nước độc, hẻo lánh hang cùng mà tác giả đã
xây dựng ở các hình tượng nhân vật đạo nhân, ẩn sĩ, nhà tu đắc đạo qua truyện
số 4, truyện 12…
Phương thức tự sự trong Truyền kỳ mạn lục góp phần thể hiện đầy đủ tư
tưởng, quan niệm của Nguyễn Dữ. Bằng sự kể chuyện, cách thuật các sự kiện
xoay quanh những con người, tác giả đã chân thành nhắn nhủ con người nên
hành thiện tích đức, thẳng thắn phê phán những tham quan nhũng lại, vua chúa
hoang dâm vô độ, những thanh niên mê đắm sắc dục, thầy tu giả trá dối đời, ca
ngợi những tấm lòng chính nghĩa, đề cao những tấm gương phụ nữ tiết hạnh,
trung trinh. Phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam vào những
năm của thế kỉ XVI, tác giả thể hiện niềm khao khát mãnh liệt về một xã hội
khác tốt đẹp hơn. Qua phương thức tự sự, tác phẩm cho thấy cả giá trị hiện thực
lẫn giá trị nhân đạo.
2.2. Phương thức trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục
Phương thức trữ tình tồn tại trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục với tư cách
là chất liệu sáng tác, là phương thức bổ trợ để góp phần bộc lộ nội dung, tư
tưởng và các giá trị của toàn tác phẩm.
2.2.1. Biểu hiện của phương thức trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục
Biểu hiện của phương thức trữ tình trong TKML trước hết được thể hiện rất
rõ qua hệ thống ngôn ngữ. Việc đan xen độc đáo giữa văn xuôi với văn vần - các
câu thơ, bài thơ trong các truyện đã mang lại giá trị thẩm mỹ nhất định cho tác
phẩm. Bên cạnh đó, những yếu tố trữ tình còn thể hiện ở lời nói nhân vật và
ngôn ngữ bình luận của tác giả (trữ tình ngoại đề); cách sử dụng từ ngữ giàu cảm
xúc trong miêu tả hay giọng điệu đa dạng: phê phán, mỉa mai, giải bày, cảm
thương, phẫn nộ... Với dung lượng luận văn có hạn, người viết chỉ xoáy sâu biểu
hiện phương thức trữ tình ở một số khía cạnh tiêu biểu nhất.
74
2.2.1.1. Biểu hiện của phương thức trữ tình thông qua giọng điệu
Bên cạnh giọng kể chân thực, khách quan trong lối trần thuật, tác phẩm còn
có không ít giọng tha thiết, mỉa mai, giễu cợt, cảm thông… mang đậm tính chất
chủ quan của người trần thuật. Bằng giọng văn linh hoạt, đậm chất trữ tình, biến
chuyển theo từng tình tiết, từng nhân vật, Tác giả đã thể hiện những tình cảm,
lập trường, quan điểm của mình. Khi giới thiệu về sự xuất hiện của Trọng Quỳ
và Nhị Khanh, người kể đã dành những lời lẽ đầy thiện cảm: “Hai người thường
gặp nhau trong những bữa tiệc, mến vì tài, yêu vì sắc, cùng có ý muốn kết duyên
Châu Trần”, “Hai người vì xa cách nhau lâu, nên nay tình ái bội phần nồng
đượm, sự vui sướng không còn phải nói”. Ngô Tử Văn cũng được giới thiệu tỉ
mỉ qua sự ngưỡng mộ của chính người kể: “Chàng vốn khẳng khái nóng nẩy,
thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng bắc người ta vẫn khen là một
người cương thường”.
2.2.1.2. Biểu hiện của phương thức trữ tình thông qua việc đan lồng thơ
ca, văn tế trong quá trình kể chuyện
Yếu tố này thể hiện rất rõ biểu hiện phương thức trữ tình trong toàn tác
phẩm. Mười hai truyện trong tác phẩm có đan lồng thơ ca, đây là một số lượng
không nhỏ. Thơ là sáng tác của nhân vật xướng hoạ, đối thoại cùng nhau nhằm
miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của cảnh vật, thể hiện cảm xúc, tình cảm cá nhân về một
đối tượng đang được đề cập. Cũng có khi đó là những tâm tình của chính người
kể chuyện thể hiện nhận xét, đánh giá về đối tượng được kể. Với thơ ca trong
TKML, chúng tôi dựa vào nội dung và chia ra từng nhóm để thuận tiện trong khi
tìm hiểu.
Trước hết là những lời thơ phác hoạ cảnh thiên nhiên phong phú và đa
dạng. Bằng trí tưởng tượng tinh tế, Nguyễn Dữ đã mang lại cho mỗi bức tranh
thiên nhiên một vẻ đẹp khác nhau. Ở truyện số 7, bức tranh thiên nhiên tuy có
không khí hoang vắng, lạnh lẽo nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình.
Một cảnh thiên nhiên khoáng đạt, trong lành bởi các hình ảnh “Mù toả”, “Cát
75
phẳng”, “cây trường”, “Bến lạnh”, “Luỹ cổ” với những âm thanh của cuộc
sống “tiếng chuông nhỏ”, “nhạn kêu sương”:
“Mù toả tiếng chuông nhỏ,
Cát phẳng bóng cây trường.”
“Bến lạnh cá đớp nguyệt,
Luỹ cổ nhạn kêu sương”.
Và hàng loạt bài thơ ứng đáp giữa Hàn Than và Vô Kỷ phác hoạ cảnh thiên
nhiên ở mùa xuân, mùa thu của đất trời với hàng loạt các nhan đề như: “Mây
núi”, “Mưa núi”, “Gió núi”, “Trăng núi”, “Chùa núi”, “Tiểu đồng trong núi”,
“Vượn núi”, “Chim núi”, “Hoa núi”, “Lá núi”. Tất cả đã dựng nên một bức
tranh thiên nhiên tuyệt mĩ, phong phú và sinh động có mây, có núi, có những âm
thanh bình dị của cuộc sống như tiếng chim hót, tiếng vượn kêu sương, có tiếng
chuông chùa ngân vang... Đơn cử một cảnh thiên nhiên được vẽ nên từ cảm xúc
trước vẻ đẹp vũ trụ của nàng Hàn Than và sư Vô Kỷ:
“Xuân sang đỏ ối cành cành,
Mây thêu gấm dệt bao quanh bốn bề.
Sắc hương man mác rừng khe,
Cổ kim từng biết bao khi nở tàn.”
“ Lưng không bát ngát bốn bề,
Thu sang ngập úa, xuân về rợp xanh.
Chim kêu ríu rít đầu cành,
Tà dương bóng ngả chênh chênh ngàn đoài”.
Còn cảnh thiên nhiên ở truyện số 9 lại mang một vẻ đẹp vừa thực vừa ảo,
cảnh ấy đã tạo cho người đọc một cảm giác vừa thật trong cuộc sống lại vừa
huyền ảo trong chốn tiên bồng:
“Triều dương bóng rải khắp ngày xanh,
Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.
Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,
76
Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.
Lang thang đất lạ đàn ba khúc,
Nênh nổi thuyền câu rượu một bình,
Bến Võ chàng ngư, tìm thử hỏi,
Thôn Đào chỉ hộ lối loanh quanh.”
Bên cạnh lời thơ thể hiện vẻ đẹp thiên nhiên là lời thơ thể hiện những
nỗi nhớ mong, tình cảm sắt son của trai gái yêu nhau. Số phận của Tuý Tiêu
trong truyện 14, thật bất hạnh, gặp phải cảnh loạn lạc, lại bị quan trụ quốc công
bắt về dinh, buộc phải xa lìa người cùng chung chăn gối. Thật xúc động cho nỗi
niềm mong nhớ da diết của nàng khi xa cách tình lang:
“… Trông ai nước mắt thầm rơi,
Tấc gang bỗng cách đôi nơi mịt mùng.”
“Cửa hầu sâu thẳm nghìn trùng,
Sớm hôm khách những riêng lòng ngẩn ngơ”.
“Tình xưa kể đến bao giờ,
Cảm sầu mọi mối như tơ rối bời…”
“Mảnh tiên viết gửi trao đi,
Đau thương kể nỗi vân vi với người”.
Trong truyện 18, Lệ Nương cũng cùng cảnh ngộ ấy. Tình cảm nhớ thương
trong tuyệt vọng của nàng đối với Phật sinh thể hiện rõ trong lá thư nàng gửi lại
chàng:
“… Luống những mạch sầu đợt đợt,
Sóng lệ trùng trùng.
Nguyền xưa tan nát nghĩ mà đau,
Kiếp ấy lỡ làng sinh cũng uổng”.
“Xin chàng trân trọng lấy mình,
Liệu kết nhân duyên chốn khác,
Đừng vì tình một buổi,
77
Để lỡ kế trăm năm.
Man mác nỗi lòng,
Thư không xiết tả”.
Còn rất nhiều truyện có sự xuất hiện những lời thơ miêu tả cuộc truy hoan,
ân ái tình dục của vợ chồng, trai gái. Bằng những hình ảnh mang đậm chất ước
lệ tượng trưng, gợi cảm, Nguyễn Dữ đã khắc hoạ cụ thể bản chất của con người
trong cuộc sống phàm tục. Cuộc gặp gỡ, ấp yêu của Trình Trung Ngộ với Nhị
Khanh trong truyện số 3 sinh động nhờ các hình ảnh độc đáo:
“Giấc xuân mê mệt chốn hoang liêu,
Bỗng sượng sùng thay cuộc ấp yêu.
Măng ngọc vuốt ve nghiêng xuyến trạm,
Dải là cởi tháo trút hài thêu.
Mộng tàn gối bướm bâng khâng lạc,
Xuân hết cành quyên khắc khoải kêu”.
Mối tình tha thiết mặn nồng giữa Hà Nhân với chị em họ Đào, Liễu trong
truyện số 5 cũng được khắc hoạ tinh tế và tỉ mỉ bởi các hình ảnh giàu chất thơ
“gió xuân”, “trướng hồng”, “Vin cành”, “Đào non”:
“Mồ hôi dâm dấp áo là,
Mày xanh đôi nét tà tà như chau.
Gió xuân xin nhẹ nhàng nhau,
Thân non mềm chịu được đâu phũ phàng.”
“Cung sâu thưa điểm giọt rồng,
Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung linh.
Tài lang mặc sức vin cành,
Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi”.
Tình cảnh buồng khuê được phác hoạ độc đáo, hay đến thế là cùng! Cuộc
sống gối chăn khi đi vào Truyền kỳ mạn lục không hề thấy thô thiển, tục tằn mà
ngược lại rất đẹp, ý vị và trang nhã. Người viết đồng ý với nhận xét của Hà
78
Nhân: “Tình trạng trong chốn buồng xuân, tả đến như thế thì thật là diệu
tuyệt”. Tất cả là do tài năng miêu tả và trí tưởng tượng phong phú của một nhà
văn thiên tài!
Truyền kỳ mạn lục cũng đồng thời đong đầy những lời thơ chất chứa nỗi
buồn nhân thế, những suy nghiệm về cuộc đời và thời thế của những nhân
vật. Phải chăng, đó cũng là tâm sự thầm kín, sâu lắng của chính tác giả? Bài thơ
của Hồ Tông Thốc đề trước cửa đền Hạng Vương ở truyện số 1, cũng là suy
nghiệm đắt giá về thời thế chuyển xoay:
“Non nước trăm hai nổi bụi hồng,
Đem đoàn tử đệ đến Quang Trung.
Khói tan Hàm Cốc cung châu lạnh,
Tuyết rũ Hồng môn đấu ngọc không.
Thua chạy giời xui đường Trạch Tả,
Quay về đất lấp nẻo Giang Đông.
Năm năm lăn lộn hoài công cốc,
Còn được vùi trong mả Lỗ công”.
Lời ca của tiều phu trong truyện 12, là một minh chứng cho thái độ sống ẩn
dật, lánh đục về trong của một ẩn sĩ xa đời thoát tục:
“Sự đời biết bao mong manh,
Phong lưu Vương, Tạ, công danh Triệu, Tào.
Từ xưa khanh tướng ngôi cao,
Đá mờ rêu phủ đã bao nhiêu rồi.
Sao bằng ta được thảnh thơi,
Giấc mai bừng tỉnh mặt trời lưng không”.
Trong Truyền kỳ mạn lục có truyện chỉ xuất hiện một câu thơ, một bài thơ
như truyện số 1 chỉ có một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật nhưng cũng có
truyện xen lẫn rất nhiều bài thơ như truyện số 7 gồm một bài văn, bốn câu thơ
79
ngũ ngôn, mười bài thơ ngũ ngôn. Số lượng không nhỏ so với dung lượng của cả
truyện.
Phương thức trữ tình được thể hiện trong tác phẩm không chỉ ở thơ ca
mà còn được thể hiện qua văn tế - một thể loại văn học thể hiện sâu sắc nhất
tình cảm thương xót và tiếc nuối. Mật độ xuất hiện của văn tế không nhiều như
thơ (chỉ có 2 truyện trong tổng số 20 truyện) nhưng điều quan trọng là thể loại
ấy thể hiện sâu sắc tâm tư, tình cảm nhân vật. Bài văn tế xen vào truyện số 2, số
5 thể hiện tình cảm xót thương của người ở lại đối với người bạc phận. Đó là
những giọt nước mắt hối tiếc chân thành của Trọng Quỳ đối với Nhị Khanh
trong truyện số 2:
“Vợ chồng thân thiết,
Ai biết giữa đường,
Phút nên ly biệt”.
“Sắt cầm dìu dặt,
Lại gần keo loan,
Vừa vui sum họp,
Phút bỗng lìa tan.
Ta sao bạc quá,
Nàng đáng thương thay!”
Hay cảm xúc luyến tiếc, bi ai khôn tả của Hà Nhân khi đứng trước “nếp
nhà quạnh hiu” chỉ có “vài ba cây đào liễu xơ xác tơi bời, lá trút đầy vườn, tơ
vương khắp giậu” mà thương nhớ hai người yêu trong truyện số 5:
“Ngọc lấp thảm thương,
Hương vùi não nuột.
Thân theo bóng nhạn, phơ phất lưng trời,
Mộng tỉnh phồn hoa, bàng hoàng một phút.
Ôi! Một sớm chia phôi, nghìn thu đau xót”.
80
2.2.1.3. Biểu hiện của phương thức trữ tình thông qua lời trữ tình ngoại
đề (phần lời bình ở cuối mỗi truyện)
Tất cả lời bình các truyện đều được mở đầu bằng thán từ “Than ôi!” (trừ
truyện 19, không có lời bình), bên cạnh đó là hàng loạt những từ ngữ có ý nghĩa
trực tiếp biểu thị tình cảm, cảm xúc của người trần thuật như:
- “Than ôi, người con gái có ba đạo theo, theo chồng là một. Nàng Nhị
Khanh chết, có quả là đã theo chồng không? Thưa rằng không…” (Truyện số 2)
- “Than ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo cho
người thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải. Trung Ngộ là
một gã lái buôn không có trí thức, không đủ trách vậy!” (Truyện số 3)
- “Than ôi, thanh lòng không bằng ít dục. Dục nếu yên lặng thì lòng trống
rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng phẳng mà cái lý sẽ thắng, tà quỷ còn đến
quấy nhiễu làm sao được!” (Truyện số 5)
- “Than ôi! Theo về dị đoan chỉ là có hại. Huống chi đã theo lại còn không
giữ cho đúng phép, thì mối hại phỏng còn xiết nói được ư?” (Truyện số 7)
Quả thật, yếu tố trữ tình rải khắp Truyền kỳ mạn lục. Phương thức trữ tình
tồn tại và biểu hiện ở nhiều dạng thức khác nhau. Phương thức ấy không chỉ
được thể hiện thể hiện qua giọng điệu, lời văn, phép tu từ mà còn qua những bài
thơ, văn tế, lời trữ tình ngoại đề.Tất cả đã góp phần làm nên một tác phẩm
không những có giá trị về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật.
2.2.2. Ý nghĩa của phương thức trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục
Trong dòng văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam không phải chỉ đến tác
phẩm của Nguyễn Dữ mới có sự xuất hiện của phương thức trữ tình. Yếu tố trữ
tình đã xuất hiện ở các tác phẩm trước đó như Việt Điện u linh, Lĩnh Nam chích
quái, Thánh Tông di thảo, Nam Ông mộng lục. Có điều yếu tố trữ tình chưa thể
hiện rõ và thành công như ở Truyền kỳ mạn lục. Phương thức trữ tình được thể
hiện trong Truyền kỳ mạn lục có những ý nghĩa đáng ghi nhận cho tiến trình
sáng tác văn xuôi tự sự trung đại nước nhà. Sự xuất hiện đậm đặc các bài thơ,
81
văn tế cùng lời văn, từ ngữ giàu hình tượng, giọng điệu giàu cảm xúc cho thấy
sự kết hợp hài hoà giữa phương thức tự sự và phương thức trữ tình. Đó là một
minh chứng thiết thực cho sự tài hoa, sáng tạo độc đáo của Nguyễn Dữ.
Truyền kỳ mạn lục không chỉ là một tác phẩm truyện kể mà trong đó còn có
những bức tranh tâm trạng đặc sắc. Cách phối hợp và sử dụng phương thức trữ
tình trong tác phẩm đã góp phần làm tăng thêm sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.
Các yếu tố trữ tình như vốn từ ngữ giàu sức biểu tượng, lời văn uyển chuyển
giàu tính nhạc, giọng văn linh hoạt có khi mềm mại, nhẹ nhàng có khi rắn rỏi,
quyết đoán rất phù hợp với phong cách trang nhã của thi pháp văn xuôi trung
đại.
Với các biểu hiện của phương thức trữ tình trong truyện, Nguyễn Dữ đã tạo
được một bức tranh xã hội đầy đủ, sâu, rộng về sự việc và con người. Sáng tác
văn chương không phải là những gì rập khuôn, có sẵn mà cần phải biết kế thừa
và sáng tạo. Nhà văn không chỉ đơn thuần ghi chép hay thuật lại sự việc khách
quan mà còn chọn lọc, sáng tạo khi khai thác những trắc ẩn của “thế giới bên
trong” nhân vật. Nguyễn Dữ đã cho thấy một điều quan trọng: sáng tác văn
chương thời trung đại không chỉ thể hiện tính phi ngã mà còn quan tâm đến đời
sống riêng tư của con người. Nhà văn không chỉ có nhiệm vụ kể chuyện mà còn
phải quan tâm đến cảm xúc của nhân vật và truyền cảm xúc đó đến độc giả. Phải
làm sao cho độc giả thật sự được trải nghiệm, sống cùng nhân vật, có thể nảy
sinh tình cảm yêu, ghét, thương xót, phẫn nộ. Qua đó, người đọc nhận ra tư
tưởng, quan niệm của người viết. Đó chính là tư tưởng nghệ thuật tiến bộ của
Nguyễn Dữ trong sáng tác. Bằng phương thức trữ tình, Nguyễn Dữ đã đưa loại
hình tự sự Việt Nam thời trung đại đến gần hơn với độc giả trong cuộc sống hiện
đại, tạo nên sức sống lâu bền cho Truyền kỳ mạn lục trong tâm trí con người ở
nhiều thế hệ.
82
2.3. Sự kết hợp hai phương thức tự sự và trữ tình trong Truyền kỳ mạn lục
2.3.1. Yếu tố trữ tình xâm nhập vào cốt truyện
2.3.1.1. Yếu tố trữ tình xâm nhập vào sự kiện
Đây là dấu hiệu dễ nhận ra trong Truyền kỳ mạn lục. Phương thức trữ tình
thể hiện ở việc sử dụng yếu tố thần thoại, kỳ ảo đan lồng vào các sự kiện tạo nên
tính chất lãng mạn cho cốt truyện. Nguyễn Dữ tạo ra những sự kiện vừa làm nổi
bật bản chất đối tượng, hiện tượng vừa thể hiện thế giới chủ quan của con người.
Qua các sự kiện, những cảm xúc, ý nghĩ của nhân vật được thể hiện. Những suy
tư rất trữ tình đã thâm nhập vào những chân lý phổ biến nhất về sự tồn tại của
con người như sự sống, cái chết, tình yêu, lòng chung thuỷ, ước mơ, lý tưởng…
Hàng loạt các sự kiện thể hiện lòng chung thuỷ, những ước mơ và lý tưởng
tốt đẹp của con người. Truyện số 9 thể hiện thái độ trân trọng mối tình thơ mộng
giữa một nàng tiên với một kẻ sĩ đã treo ấn từ quan. Tác giả bày tỏ nhận thức
cuộc đời là vô thường. Sự kiện mở đầu truyện đầy lãng mạn: Tri huyện Từ Thức
cởi tấm áo cừu gấm trắng chuộc tội cho người con gái làm gãy cành hoa. Và
cũng từ sự kiện ấy dẫn đến hành trình “lênh đênh trên áng giang hồ các thắng
cảnh miền đông nam”, Từ Thức đã lạc vào động tiên, kết duyên với Giáng
Hương (người con gái từng được Từ Thức cứu). Đây thật sự là cơ duyên hy hữu
trong đời. Từ Thức đã vương vấn nỗi buồn, nỗi nhớ quê da diết khi “đối cảnh
chạnh lòng”, sự kiện cuối cùng của truyện: chàng từ biệt cảnh bồng lai để quay
về với cuộc sống trần thế, tâm trạng của nhân vật càng trĩu nặng hơn khi về đến
nơi thì cảnh và người nay đã khác. Các sự kiện trong truyện ngoài việc là các
“điểm mốc” thúc đẩy diễn biến cốt truyện còn là cơ sở, là điểm tựa cho các nhân
vật bộc lộ tâm sự. Tương tự, các sự kiện ở truyện 16 cũng thể hiện đậm nét của
phương thức trữ tình. Sự kiện nàng Vũ Nương vì chồng nghi oan nên nhảy sông
Hoàng Giang tự tử chứng minh sự trong sạch bộc lộ một tâm trạng uất ức đè
nặng trong tâm trí nàng. Nhảy sông không chỉ để kết liễu cuộc đời bất hạnh mà
còn là hành động khẳng định lòng chung thuỷ sắt son của Vũ Nương đối với
83
chồng. Nhịp điệu nhẹ nhàng, thương cảm cùng với cách sử dụng vế đối trong lời
Vũ Nương đã thể hiện sâu sắc tâm trạng người thiếu phụ bất hạnh: “Kẻ mệnh
bạc này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu
nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám”. Hay một chuyện tình thật
buồn nhưng cũng rất lãng mạn của Lệ Nương và Phật Sinh trong truyện 18. Mở
đầu là sự kiện Nguyễn thị và Lý thị cùng có lời ước hẹn duyên tình cho con
trong lễ cầu tự. Rồi chuyện tình đẹp như mơ đã diễn ra trong đời Lệ Nương và
Phật Sinh: “Vì cớ hai bên cha mẹ thân mật, nên họ cùng đi lại với nhau suồng
sã, thường cùng nhau xướng hoạ thơ từ. Tuy kỳ cưới xin chưa định, nhưng hai
tình gắn bó, đã chẳng khác chi vợ chồng vậy”. Chuyện tình ấy được kết thúc bởi
sự kiện Lệ Nương tự tử trong cảnh loạn lạc để giữ trọn lòng thuỷ chung với Phật
Sinh. Lời trăn trối của Lệ Nương trước lúc quyên sinh thật ngậm ngùi, chua xót:
“Bọn chúng ta vóc mềm tựa liễu, mệnh bạc như vôi, nước vỡ nhà tan lưu ly đến
đó. Nay nếu lại theo họ sang qua cửa ải tức là đến nước non quê người. Chẳng
thà chết rấp ở ngòi lạch, gần gũi quê hương, còn hơn là sang làm những cái cô
hồn ở bên đất Bắc”. Những hình ảnh đẹp đầy chất thơ được sử dụng trong lời
văn với cách so sánh độc đáo “vóc mềm tự liễu”, “mệnh bạc như vôi”… giọng
điệu thì trầm buồn, da diết, chan chứa nỗi niềm của người cô phụ. Sự kiện trong
truyện nhằm thể hiện và khẳng định sức sống mãnh liệt của tình yêu chân chính,
một tình yêu mãi mãi không thế lực nào có thể chia rẽ và tiêu diệt.
Hàng loạt các sự kiện cũng mang đậm suy tư trải nghiệm của nhân vật
đối với cuộc đời. Con người vì sắc đẹp, dục vọng nên dễ bị lôi cuốn vào chốn u
mê, lạc lối. Nếu không có ý thức lánh xa thì con người sớm muộn cũng bị huỷ
diệt. Trình Trung Ngộ trong truyện số 3 là một nhân vật tiêu biểu. Gặp gỡ và
yêu đương với hồn ma Nhị Khanh là một việc sai lầm. Kết cục truyện là sự kiện
Trình Trung Ngộ chết. Kết thúc này gợi nên cho người đọc suy ngẫm thấm thía
qua lời của tác giả: “cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo
cho người thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải”. Sự kiện
84
Đạo nhân trong truyện trừ tà diệt quỷ chứng tỏ chuyện ma quỷ không phải là
chuyện viễn vông. Niềm tin có thế giới khác ngoài cuộc sống thực, có ma quỷ là
một biểu hiện cuộc sống tâm linh của con người. Nó mang tính truyền thống của
văn hoá dân tộc, hãy nên thừa nhận đừng cho đó là những điều huyễn hoặc mà
khinh nhờn như lời tác giả đã nhắn nhủ “Không nên lấy cớ huyễn thuật mà cho
là chuyện nhãm, bảo rằng dị đoan mà dìm mất cái hay”. Truyện số 8 xuất hiện
hàng loạt các sự kiện: Ngô Tử Văn đốt đền, trừ diệt hồn ma tướng giặc phương
Bắc vì bình yên của cuộc sống dân lành, Ngô Tử Văn không sợ cường quyền,
kiên quyết kiện tội hồn tướng giặc và phe cánh của hắn vì lợi ích của mọi người
và cuối cùng chàng được dẩm trách chức phán sự ở đền Tản Viên. Các sự kiện
này mang đậm triết lí sống: cái chính nghĩa sẽ thắng gian tà. Quy luật nhân quả
cũng thể hiện rõ trong truyện số 10, với sự kiện Phạm Tử Hư được Dương Trạm
dẫn đến âm ty chứng kiến thưởng phạt của Diêm chúa và sự kiện Dương Trạm
khuyên Tử Hư: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Lưới trời thênh
thang, thưa nhưng chẳng lọt”.
Yếu tố trữ tình thâm nhập vào sự kiện rõ ràng và sâu sắc. Nhìn chung ở tất
cả các sự kiện diễn ra trong toàn tác phẩm đều được miêu tả bằng những hình
ảnh, âm thanh, màu sắc, giọng điệu cụ thể và gợi cảm. Đặc biệt các bài thơ, câu
thơ xuất hiện với vai trò là sự kiện quan trọng, mang ý nghĩa lớn trong tác phẩm.
Chẳng hạn, Hồ Tông Thốc trong truyện số 1 đã cảm tác bài thơ trước cửa đền
Hạng Vương và chính bài thơ này đã là nguyên nhân cho Hồ Tông Thốc gặp gỡ
với Hạng Vương. Cũng từ đó, ông có dịp bày tỏ quan điểm, nhận định về các vị
vua tiền triều ở Trung Hoa trên lập trường văn hoá Đại Việt. Bài văn tế mà
Trọng Quỳ sáng tác ở truyện số 3 cũng đóng vai trò như một sự kiện quan trọng,
sau khi Trọng Quỳ ngâm bài văn tế thì hồn Nhị Khanh xuất hiện, báo chuyện vị
lai cho Trọng Quỳ biết. Nhờ vậy nên kết thúc truyện tuy buồn nhưng có hậu:
“Trọng Quỳ bèn không lấy ai nữa, chăm chỉ chăm nuôi hai con cho đến nên
người. Đến khi vua Lê Thái Tổ tuốt gươm đứng dậy ở Lam Sơn, hai người con
85
trai đều đi theo, trải làm đến chức Nhập thị nội. Đến nay ở Khoái Châu hiện còn
con cháu”. Ở truyện số 5, nàng Đào đã không đến với Hà Nhân nữa vì nàng
nghĩ Hà Nhân đã yêu thương nàng Liễu nhiều hơn. Nàng tự hổ thẹn, viết một
tâm thư trao đến Hà Nhân. Nội dung bức thư là một bài thơ, có ý trách hờn Hà
Nhân đã thiên vị sắc tài:
“Băng sương cốt cách, tuyết tinh thần,
Nhị mởn ngành mềm đã xứng cân.
Khá trách Đông hoàng thiên vị lắm,
Một cành bỏ héo, một cành xuân.”
Hồi âm nàng Đào là một bài thơ chan chứa những tâm tình, những thương
nhớ của Hà Nhân:
“Tương tư nặng gánh khổ tâm thần,
Ân ái chưa hề lệch cán cân.
Dì gió, nhờ đem tin nhắn nhủ:
Hoa nào bỏ héo? Lá nào xuân.”
Sự kiện ấy diễn ra nên nàng Đào hiểu rõ tình ý Hà Nhân và “từ đấy mới đi
lại như trước”, tình yêu của họ càng trở thêm nồng đượm. Và khi Hà Nhân biết
hai nàng Đào, Liễu không phải là con người mà chỉ là những hồn hoa ở trại Tây,
chàng bèn bày lễ cúng tế, kèm theo là một thương cảm khôn xiết dành cho hai
người yêu:
“Hỡi ơi hai nàng,
Sương đọng ấy màu
Băng trong làm cốt.
Ưa vẻ thiên nhiên,
Ghét bề điểm chuốt.
Sắc nọ hẳn không hai,
Tài này đành có một”
“Ngọc lấp thảm thương,
86
Hương vùi não nuột.
Thân theo bóng nhạn, phơ phất lưng trời,
Mộng tỉnh phồn hoa, bàng hoàng một phút.
Ôi! Một sớm chia phôi, nghìn thu đau xót.”
“Linh thiêng ai hỡi có hay,
Hiến hưởng rượu này mới rót.
Than ôi thương thay!”
Và chính những nỗi niềm thương yêu, trân trọng ấy đã giúp cho hai linh
hồn Đào, Liễu được giải thoát “Đêm hôm ấy, chàng chiêm bao thấy hai nàng
đến tạ rằng: Đội ơn lang quân làm bài văn tế viếng, khiến cho thanh giá chúng
em càng bội tăng lên. Cảm vì tình ấy, nên chúng em về đây bái tạ”.
Sự kiện trong truyện số 7 là sự trêu đùa, mỉa mai của cậu học trò đối với
xuất thân và phẩm giá của Hàn Than. Và chính lời bài văn này đã lột trần bộ mặt
xảo trá và tội lỗi của Hàn Than, khiến nàng phải bỏ chùa Phật Tích trốn sang
“tu” ở chùa Lệ Kỳ, nơi đây các sự kiện quan trọng lại tiếp nối. Xin trích một số
câu trong bài bài văn:
“Mảng nghe:
Phật vốn từ bi, gọi tên là Giác,
Người mà thanh tĩnh, hoá giả thành chân.”
“Kính nghĩ am chủ ở núi Phật Tích là Đào thị:
Sổ ca nhạc rút tên ra khỏi.
Cửa Phạm vương núp bóng tìm vào.”
“Mùi thuyền dẫu bén,
Lòng tục chưa phai.”
Lại một bài thơ xâm nhập vào sự kiện. Dư Sinh viết phong thư buộc vào
chân con “chim Yểng” để liên lạc với Tuý Tiêu. Nhờ phong thư này, Tuý Tiêu
trùng phùng với tình lang sau những ngày xa cách. Lời thơ nhẹ nhàng, trầm
buồn, ai oán chính là nỗi niềm thương nhớ của Dư Sinh đối với Tuý Tiêu:
87
“Trông ai nước mắt thầm rơi,
Tấc gang bỗng cách đôi nơi mịt mùng.”
“Tình xưa kể đến bao giờ,
Cảm sầu mội mối như tơ rối bời.”
“Lặng ngồi gấp sách ủ ê,
Lòng này cảnh ấy khuây đi được nào.”
“Mảnh tiên viết gửi trao đi,
Đau thương kể nỗi vân vi với người.”
Nàng Tuý Tiêu được tin tức của Dư Sinh cũng hồi âm bằng những lời thơ
chan chứa ân tình tha thiết:
“Chương đài cành liễu nghiêng chao,
Biệt ly mang nặng biết bao oán sầu.”
“Bẻ bàng đổi khác tư dong,
Tóc xanh biếng chải, môi hồng biếng tô.
Thương xuân vách phấn đèn lu,
Trông gương ngấn lệ mơ hồ, ngại soi.
Tiện hồng thư mới tới nơi,
Chia loan càng xót xa đời biệt ly.”
“Nỗi lòng trăm mối vò tơ,
Thư dài đến mấy vẫn chưa hết lời.”
Cuộc gặp gỡ qua thư đã khiến cho Tuý Tiêu tương tư tình lang, ốm nặng,
bắt buộc Quan Trụ quốc phải tìm Dư Sinh cho nàng gặp gỡ.
Những phân tích trên cho thấy rõ những yếu tố trữ tình đã len lõi và thâm
nhập khá đồng đều, sâu sát vào các sự kiện quan trọng của truyện. Yếu tố trữ
tình vừa là điểm khởi đầu cho sự kiện mới vừa là điểm kết cho sự kiện trước đó
trong toàn cục cốt truyện.
88
2.3.1.2. Yếu tố trữ tình xâm nhập vào không gian - thời gian nghệ thuật
Không gian và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm đều là những không
gian, thời gian có thật trong cuộc đời. Mỗi vùng đất, mỗi mốc thời gian mà tác
giả xây dựng trong truyện đều là mỗi nơi ăn chốn ở tại một thời điểm nhất định
có thật ở nước ta (trừ truyện số 1, sự kiện được diễn ra ở vùng đất của nước
Trung Hoa). Thành Đông Quan (Hà Nội) trong những năm “họ Nhuận Hồ tiếm
vị” (Truyện số 2), đất Bắc Hà “trong năm Canh Ngọ (1330), niên hiệu Khai
Hựu nhà Trần” (Truyện số 3), phủ Thường Tín xứ Sơn Nam tại “triều vua Huệ
Tông nhà Lý”(Truyện số 4), đất Thiên Trường vào “khoảng năm Thiệu binh”
(Truyện số 5), huyện Vĩnh Lại ở Hồng Châu - Hải Dương vào đời “vua Minh
Tông nhà Trần” (Truyện số 6), đất Từ Sơn vào “Niên hiệu Thiệu Phong thứ 5
(1345) đời nhà Trần” (Truyện số 7), huyện Yên Dũng đất Lạng Giang vào
“năm Giáp Ngọ (1414)” (Truyện số 8), đất Hoà Châu “trong năm Quang Thái
đời nhà Trần” (Truyện số 9), Cẩm Giàng vào “đời Trần” (Truyện số 10), vùng
đất Phong Châu - Bạch Hạc, Vĩnh Yên “vào cuối đời nhà Hồ” đầu “nhà Lê”
(Truyện 11), không gian xứ Thanh Hoá vào những năm “Khai Đại nhà Hồ”
được thể hiện (Truyện 12, vùng đất Kiến Hưng “cuối đời Thiệu Phong nhà
Trần” (Truyện 14), Đà Giang vào “năm Bính dần (1386)” đời “vua Trần Phế
Đế (Truyện 15), huyện Đông Thành đời vua “Giản Định nhà Hậu Trần”
(Truyện 17), huyện Đông Sơn – Thanh Hoá vào “niên hiệu Kiến Tân năm kỷ
mão (1399) đời Trần” (Truyện 18), huyện Kim Hoa vào “cuối đời Đoan
Khánh” (Truyện 19) và không gian cuối cùng của tập truyện là Hạt Quốc Oai
“cuối đời Trùng Quang nhà Trần” (Truyện 20). Đời sống của con người và
cảnh vật ở mỗi vùng đất, mỗi thời điểm xã hội nhất định được tác giả phác hoạ,
miêu tả chân thật. Nhìn chung, các không gian được xây dựng đều là những
không gian có thật với thực trạng rối ren, loạn lạc, đầy chết chóc của nước ta ở
các triều đại Trần, Hồ, Lê. Theo thống kê thì có 14 truyện (chiếm 70%) tập
trung tả con người và sự việc diễn ra trong thời nhà Trần, nhà Hồ là 4 truyện
89
(chiếm 20%), còn lại 2 truyện (chiếm 10%) là tập trung vào đời nhà Lê. Xét kỹ,
có thể thấy tác giả tập trung nhiều vào thời vãn Trần, thực trạng nhiễu nhương
của một xã hội mà “binh lửa luôn năm, nhiều nơi bị đốt’ (Truyện 13), cảnh
“người chết chóc nhiều, những oan hồn không chỗ nương tựa” (Truyện 20).
Thời nhà Hồ, nhà Lê cũng không kém phần tối tăm, đổ nát “họ Nhuận Hồ tiếm
vị, ngày tháng hoang chơi, triều đình đổ nát, hỗn loạn xảy ra chỉ trong sớm tối”
(Truyện số 2) và triều nhà Lê “sau khi hỗn nhất” (Truyện 11). Với thực trạng
ấy, con người chỉ sống trong đói khổ và cái chết luôn chờ sẵn. Tác giả đã có cái
nhìn sâu sát, toàn diện xã hội theo trục thời gian khách quan và đưa ra lời bàn
luận chính xác về thời cuộc.
Tuy nhiên, sự thành công của Nguyễn Dữ không dừng lại ở đó. Ngoài
không gian - thời gian thực, tác giả còn tạo nên nhiều bức tranh về cảnh và
người ở cuộc sống hư vô. Không gian ấy có những thần tiên, có những hồn ma
bóng quế. Yếu tố trữ tình thâm nhập sâu trong cách xây dựng không gian này.
Cảnh vật và con người ở thế giới ảo được tác giả chăm chút kỹ lưỡng và nghiêm
túc. Tuỳ theo cốt truyện mà không gian ảo được biến đổi linh hoạt và phù hợp.
Nhân vật có thể được đặt chân và quan sát các cảnh trí kỳ lạ, hoàn toàn không
tồn tại trong cuộc sống thực. Ở đó, con người hẹn hò, trò chuyện, yêu đương hay
thay đổi nhận thức. Một không gian ảm đạm, hoang tàn đầy yêu khí rất đắc lực
cho việc chuyển tải nỗi buồn, nỗi xót xa của nhân vật trong truyện. Ở truyện số
2, những hình ảnh và âm thanh xuất hiện đầy sức gợi: “rêu biếc đầy sân, năm ba
tiếng quạ kêu ở trên cành cây xao xác” vào một buổi “bóng tà giọi cửa”.
Không gian gặp gỡ giữa Trọng Quỳ và Nhị Khanh trong truyện số 3 tối tăm,
ngột ngạt nhưng cũng rất lãng mạn với khung cảnh thơ mộng ở cầu Liễu Khê.
Trình Trung Ngộ tức cảnh sinh tình: “Nước non vẫn nước non nhà, cảnh còn
như cũ người đà khác xưa, làm sao khỏi cảm động bùi ngùi cho được”. Rõ ràng,
không gian trong truyện được tạo ra để truyền tải trực tiếp cảm xúc của nhân
vật, ý thơ dạt dào qua từ ngữ, hình ảnh sử dụng và kể cả giọng điệu.
90
Không gian trong tác phẩm vừa hư vừa thực và tuỳ theo bối cảnh của
truyện mà được xây dựng rộng hẹp khác nhau. Đặc biệt, mỗi không gian là một
bức tranh tuyệt mỹ về phong cảnh làng quê, đô thành với nhiều sắc thái, hình
ảnh phong phú góp phần chuyển tải tư tưởng truyện, trong đó thiên nhiên luôn là
điểm tựa, khởi phát cảm xúc của nhân vật. Nguyễn Dữ dành khá nhiều công sức
cho sự miêu tả, tu tạo phong cảnh. Thiên nhiên thay đổi linh hoạt ở mọi thời
điểm ở mọi không gian. Con người coi trọng thiên nhiên, xem nó là chỗ dựa tinh
thần căn bản và vững chắc để bày giải nỗi niềm. Nhìn từ một mặt nào đó,
Truyền kỳ mạn lục là những bức tranh phong cảnh được tác giả tạo nên làm cơ
sở để nhân vật bộc lộ tình cảm, cảm xúc trong từng khoảnh khắc nhất định.
Thời gian trong tác phẩm không chỉ vận hành theo quy luật khách quan mà
còn vận hành theo thế giới tâm linh: thời gian luân hồi, nghiệp báo. Đặc biệt,
Nguyễn Dữ sử dụng nhiều “đêm khuya”, thời điểm thuận tiện để nhân vật bộc lộ
cảm xúc, nỗi niềm. Đó là thời điểm để nhân vật chuyển từ thế giới thực sang ảo,
là điểm giao giữa ngày và đêm cũng là thời gian để các nhân vật gặp gỡ, chia li
hay giác ngộ và thời điểm để nhân vật thể hiện trạng thái tình cảm “Sinh buồn
rầu toan về thì mặt trời đã lặn, bèn ngã mình nằm ở một tấm ván nát trên một
cái cầu. Khoảng cuối canh ba, bỗng nghe tiếng khóc nức nở từ xa lại gần…”
(Truyện số 2), cảm xúc của Trọng Quỳ được biểu hiện trực tiếp qua trạng thái
“buồn rầu” và nỗi niềm khó tả của Nhị Khanh được biểu hiện gián tiếp qua
“tiếng khóc”. Trong truyện số 3, thời gian này là thời điểm Trình Trung Ngộ
biết Nhị Khanh chỉ là hồn ma bóng quế: “Đêm khuya người vắng, quả có người
con gái cùng ả thị nữ mang theo đến một cây hồ cầm, đi tới đầu cầu, thở dài và
than rằng…”, “Rồi đó canh ba đêm hôm ấy, nhân lúc đêm đen giời tối”, “chàng
trông vào thấy ở gian bên phía tả kê một chiếc giường mây nhỏ, trên giường để
một cỗ áo quan sơn son, trên quan phủ một tấm the hồng, dùng ngân sa đề vào
mấy chữ: Linh cữu của Nhị Khanh”. Nỗi niềm và cảm xúc của nàng Nhị Khanh
được thể hiện một cách gián tiếp thông qua tiếng “thở dài” và sự hoang mang,
91
sợ hãi của Trình Trung Ngộ bộc lộ ngay trong thời khắc này: “Trung Ngộ thấy
vậy, sởn gai dựng tóc, tất tả nhảy choàng ra khỏi cái nhà ấy”. Truyện số 5, cũng
vào lúc “Tối hôm ấy, quả nhiên hai nàng không đến. Khoảng gần nửa đêm, trời
bỗng nổi cơn mưa dữ dội, sinh đứng tựa lan can, buồn rầu ngơ ngẩn như kẻ mất
hồn”. Cảm giác “buồn rầu” với trạng thái “ngơ ngẩn như kẻ mất hồn” của Hà
Nhân được thể hiện rõ trong thời điểm ấy. Ở truyện 11, viên quan họ Hoàng đã
gặp gỡ với người con gái vào lúc “trăng tỏ sao thưa” trong trạng thái đau buồn
với tiếng khóc não nề “ai oán” khiến tâm trạng xót thương của ông không kiềm
chế được “Đêm sâu như vậy, tại sao mà cô khóc lóc thế, khiến lòng sắt đá cũng
phải ỉu mềm đi”.
Rõ ràng, thời gian “đêm khuya” xuất hiện đều đặn trong Truyền kỳ mạn
lục. Phải chăng thời điểm ấy rất dễ cho các yếu tố huyền ảo xuất hiện: giấc mơ,
ma quỷ, thần tiên và là thời khắc quan trọng để con người bày tỏ một cách trọn
vẹn nhất những cảm xúc, tình cảm của chính mình? Những nhu cầu tình cảm vợ
chồng, tình yêu trai gái được thể hiện, những ước mơ, khát vọng thầm kín của
con người được bộc lộ trọn vẹn nhất! Cuộc sống ái ân, những mặn nồng, những
hạnh phúc vô tận trong cuộc sống gối chăn được thể hiện rất rõ trong lúc đêm
về. Ở truyện số 2, Trọng Quỳ, Nhị Khanh qua bao nhiêu ngày xa cách, giờ gặp
lại, còn hạnh phúc nào bằng: “Đêm hôm ấy, buồng loan chung gối”, “Hai người
vì xa cách nhau lâu, nên này tình ái bội phần nồng đượm, sự vui sướng không
còn phải nói”. Trình Trung Ngộ, Nhị Khanh trong truyện số 3 cũng “cùng nhau
ân ái hết sức thoả mãn”; Truyện số 5, Hà Nhân và hai nàng Liễu, Đào “… cũng
tắt đèn đi nằm. Lửa đượm hương nồng, ân ái mười phân thoả nguyện”, cảnh
hoan lạc ái ân được miêu tả bằng những hình ảnh hoa mỹ, gợi tình rất tinh tế:
“Mồ hôi dâm dấp áo là,
Mày xanh đôi nét tà tà như chau.
Gió xuân xin nhẹ nhàng nhau,
Thân non mềm chịu được đâu phũ phàng.”
92
“Cung sâu thưa điểm giọt rồng,
Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung linh.
Tài lang mặc sức vin cành,
Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi.”
Cảnh và tình nơi chốn phòng the được phác hoạ cụ thể, sắc sảo đến thế là
cùng! Các nhân vật thường lạc bước đến thế giới ảo vào lúc “đêm khuya”. Chắc
có lẽ mốc thời gian này xuất hiện như là điểm khởi phát cho sự thức tỉnh trong ý
thức con người, là lúc con người nhận rõ giữa thiện và ác, xấu và tốt. Đây là sự
trùng hợp ngẫu nhiên hay chính là sự độc đáo về nghệ thuật trong sáng tác của
Nguyễn Dữ? Hay đó chính là biểu hiện của sự bất lực về tinh thần của con người
trước thực tế của thời đại? Con người chỉ có thể thụ động trong suy nghĩ và
vùng vẫy, đấu tranh trong tâm can, tư tưởng của mình. Đó chính là sự đau khổ,
dằn vặt, bế tắc. Thời gian này chính là thời gian mang ý nghĩa tượng trưng cho
một khát khao đổi đời, vượt thoát, từ giã cuộc sống thực đầy rẫy những nhiễu
nhương, bất công để đến thế giới khác dù thế giới ấy mơ hồ, viễn vông. Qua tác
phẩm, người đọc có thể cảm nhận được phần nào tình người của chính tác giả
đối với những số kiếp của con người.
Rõ ràng, không gian - thời gian nghệ thuật vừa thực vừa hư trong truyện
mang một nội dung nhất định, góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm,
trong đó có sự nhận thức rõ về quy luật cuộc đời giữa thực và hư, giữa những
đau đớn, xót xa với ước mơ, khát vọng.
2.3.1.3. Yếu tố trữ tình xâm nhập vào cách trần thuật
Cách trần thuật trong Truyền kỳ mạn lục được chúng tô khảo sát ở hai
dạng: Cách trần thuật mang tính chất trữ tình thể hiện tâm trạng, cảm xúc của
nhân vật và cách trần thuật mang tính chất trữ tình thể hiện tư tưởng, quan niệm
của tác giả. Cách kể chuyện ở một ngôi kể duy nhất (ngôi thứ ba) xuyên suốt 20
truyện. Tuy nhiên, ngôi kể ấy không hề khô khan mà ngược lại rất sinh động
nhờ cách thuật truyện giàu cảm xúc.
93
Cách trần thuật mang đậm yếu tố trữ tình thể hiện tâm trạng nhân vật được
bộc lộ ngôn ngữ hoặc trăn trở của nội tâm nhân vật. Giọng kể truyện linh hoạt
theo các cách kể chuyện. Chẳng hạn như tâm trạng lo lắng của Nhị Khanh “Nhị
Khanh nghe nói sợ hãi, mất ngủ quên ăn đến hàng tháng” khi nghe Lưu thị bảo:
“Tội gì mà bơ vơ trơ trọi, sống cái đời sương phụ buồn tênh” (Truyện số 2);
tâm trạng của Đạo nhân khi nói chuyện với Dương Đức Công “Ông Dương lại
hỏi về câu chuyện Ô Tôn. Đạo nhân buồn rầu không vui…” (Truyện số 4) hay
nỗi cô đơn, niềm thương nhớ dạt dào của người cô phụ Vũ Thị Thiết trong lời
kể: “Ngày qua tháng lại, thoát đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm bay vườn thuý,
mây ám non tần, nổi buồn hãi giốc thiên nhai, lại không thể nào ngăn được”
(Truyện 16)… Ngoài cách trần thuật thể hiện cảm xúc của nhân vật còn có cách
trần thuật thể hiện suy nghĩ chủ quan của tác giả đối với các nhân vật trong
truyện. Chẳng hạn truyện số 2, Từ Đạt và Phùng Lập Ngôn được tác giả giới
thiệu: “Phùng giàu mà Từ nghèo; Phùng xa hoa mà Từ tiết kiệm; Phùng chuộng
dễ dãi mà Từ thì giữ lễ. Lề thói hai nhà đại khái không giống nhau. Song cũng
lấy nghĩa mà chơi bời đi lại với nhau rất thân, coi nhau như anh em vậy”. Hay ở
truyện số 8, người kể đã đánh giá Ngô Tử Văn với tình cảm hâm mộ: “Chàng
vốn khẳng khái nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng bắc
người ta vẫn khen là một người cương phương”. Có thể thấy rõ giọng kể giàu
cảm xúc này được thể hiện ở tất cả các truyện.
Ngoài ra, TKML còn thể hiện những tư tưởng, quan niệm của chính tác giả
đối với con người và cuộc sống qua các lời bình luận cuối mỗi truyện. Sau khi
khảo sát 19 lời bình (theo thứ tự trong tập truyện, trừ truyện số 19 không có lời
bình), người viết có thể gom thành các nhóm lời trữ tình sau:
Lời trữ tình thể hiện sự ca ngợi những con người biết hi sinh cho những
mối tình đẹp đẽ, chân chính: tình yêu trai gái, tình cảm vợ chồng son sắt, thuỷ
chung. Đặc biệt là người phụ nữ. Truyện số 2, tấm gương người tiết phụ Nhị
Khanh thà thác thân mình giữ trọn nghĩa phu thê với Trọng Quỳ, chứ không chịu
94
theo người khác. Nhân vật được tác giả tôn trọng, ngợi ca bằng những lời đồng
tình, tha thiết: “Than ôi! Người con gái có ba đạo theo, theo chồng là một”,
“Đời xưa bảo theo, là theo chính nghĩa chứ không theo tà dục. Chết hợp với
nghĩa, có hại gì cho cái đạo theo. Theo nghĩa tức là theo chồng đó”. Truyện số
16, tác giả bày tỏ niềm cảm thương sự bất hạnh và trân trọng đức tính thuỷ
chung son sắt trong tình cảm vợ chồng của Vũ Nương: “Nếu không được trời
xét tâm thành, nước không làm hại, thì xương hoa vóc ngọc đã chôn vào họng
cá ở dưới lòng sông, còn đâu được lại thông tin tức để nết trinh thuần được nhất
nhất bộc bạch ra hết”. Truyện 18, tác giả đã đề cao tình yêu chân chính của
Phật Sinh và Lệ Nương: “Than ôi! Điều tín ước gần với lẽ phải thì lời nói tất
nên giữ đúng, nếu đối với lẽ phải mà chưa được ổn thì sự giữ đúng không cần.
Như chàng họ Lý kia, vì mối ẩn tình, giữa bền nước cũ, lưu lý hoạn nạn, vẫn
chẳng quên lời, thì thật đáng thương!”.
Sự cảm thương sâu sắc cũng dành cho những người phụ nữ đáng thương
qua lời trách móc những người chồng vô tâm. Đó là người vợ Nhị Khanh trong
truyện số 2: “Có người vợ như thế mà để cho phải hàm oan một cách ai oán,
Trọng Quỳ thật là tuồng chó lợn”. Nàng Vũ Thị Thiết trong truyện 16: “Làm
người đàn ông, tưởng đừng nên để cho giai nhân oan uổng thế này”.
Lời trữ tình thể hiện sự ca ngợi những con người trung liệt, biết hành
động vì chính nghĩa, không sợ cường quyền, đồng thời lên án gay gắt những
thế lực phi nhân và bè cánh của chúng. Thái độ này được thể hiện rõ ở lời bình
luận cuối truyện số 3, số 6 và số 8, số 13, số 20.
Chẳng hạn, đối với vị đạo nhân ở truyện số 3 đã trừ yêu diệt quái vì cuộc
sống ấm êm của dân lành: “Vị đạo nhân kia vì người trừ hại, công đức lớn lao;
nhà bình luận sau này, phải nên biết đến”. Hay chàng Ngô Tử Văn ở truyện số
8, cương trực, thẳng thắn, hành động “đốt đền” diệt trừ tà yêu quấy nhiễu dân
chúng, nhân dân tôn trọng kính thờ: “Nhân thế nức tiếng mà được giữ chức vị ở
Minh tào, thật là xứng đáng”.
95
Đối lập với thái độ tôn trọng những người cương trực vì chính nghĩa là thái
độ lên án gay gắt của tác giả đối với những thế lực quấy nhiễu, ức hiếp nhân
dân: “Than ôi! Chống được ách lớn thì thờ, cản được nạn lớn thì thờ, đó là phép
cúng tế. Hưởng sự cúng tế ấy thì phải cố danh tư nghĩa, đâu có lẽ nhận sự cúng
lại còn đi làm tai làm hoạ cho người. Thế thì cái tội của vị Thần Thuồng Luồng
chỉ phải bị đày vậy thôi” (Truyện số 6). “Than ôi! Cái thuyết nhà Phật thật là
vô ích mà có hại quá lắm. Nghe lời nói năng thì từ bi, quảng đại, tìm sự ứng báo
thì bắt gió mơ hồ. Nhân dân kính tin, đến nỗi có người phá sản để cúng cho nhà
chùa. Nay xem cái dư nghiệt ở trong một ngôi chùa nát mà còn gớm ghê như
thế, huống ngày thường cúng vái sầm uất, phỏng còn tai hại đến đâu.” (Truyện
số 13).
Lời trữ tình ngụ ý khuyên răn đạo đức cho mọi người: từ vua, quan đến
người bình thường. Chẳng hạn người làm trai phải tự sửa mình trong cuộc sống
gia đình: “Muốn tề được nhà, phải trước tự sửa mình lấy chính, khiến cho không
thẹn với vợ con, ấy là không thẹn với trời đât” (Truyện số 2). Người làm quan
nên hành thiện tích đức “Than ôi! Làm thiện ở người, giáng phúc cho người
thiện ở trời, sự cảm ứng ở giữa khoảng trời và người, thật là sâu mờ vậy thay!”,
“Ta mong những người làm quan nên biết cố gắng và nên biết soi gương”
(Truyện số 4). Kẻ sĩ nên xa rời sắc dục, theo chính đạo: “Than ôi! Thanh lòng
không bằng ít dục. Dục nếu yên lặng thì lòng trống rỗng mà điều thiện sẽ vào,
khí bằng phẳng mà cái lý sẽ thắng, tà quỷ còn đến quấy nhiễu làm sao được”
(Truyện số 5). Đặc biệt vua chúa là người đứng đầu muôn dân càng cần phải
giữa mình, tu đức để làm tấm gương sáng: “Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính
lòng mình để làm cái gốc chính triều đình, chính trăm quan, chính muôn dân,
đừng để cho kẻ xử sĩ phải bàn ra nói vào là tốt hơn cả” (Truyện 12).
Biểu hiện rõ nhất của yếu tố trữ tình trong các lời bình luận là từ cảm thán
“Than ôi!” mở đầu phần bình luận. Sắc thái biểu cảm của từ này rất đa dạng và
phong phú. “Than ôi!” không chỉ thể hiện sự thương xót, nuối tiếc, cảm thông
96
đối với những số phận hẩm hiu trong xã hội đương thời mà còn thể hiện sự cảm
kích, ngưỡng mộ sâu sắc đến những tấm gương cương trực, liệt nữ, tiết phụ.
“Than ôi!” cũng thể hiện cảm xúc chua xót, đắng cay của tác giả trước những
thói đời bạc bẽo, thực tế phũ phàng. Và “Than ôi!” cũng có thể là nỗi niềm khao
khát, ước mơ của chính tác giả trong cuộc đời lắm phong ba này…. Những tâm
tư, cảm xúc của người trần thuật thể hiện sâu sắc ở hàng loạt từ ngữ trực tiếp gợi
cảm xúc: “thật là phải lắm”, “không oan chút nào”, “thật là xứng đáng”, “có
hại gì đâu”, “chẳng có gì là quá đáng vậy”, “là tốt hơn cả”, “phỏng còn tai hại
đến đâu”, “thật là một người ngu vậy”, “tuồng chó lợn”, “oan uổng thế này”,
“hư tồi bậc nhất, không chuyển đổi được, không còn thể nói bàn gì nữa”, “thật
đáng thương”, “phỏng có nên không?”. Yếu tố trữ tình thâm nhập vào cách
trần thuật góp phần khẳng định được những quan điểm đạo lý truyền thống tốt
đẹp của nhân dân ta ở một thời đại nhất định.
2.3.2. Yếu tố trữ tình xâm nhập vào nhân vật
Trong Truyền kỳ mạn lục, yếu tố trữ tình đã xâm nhập vào nhân vật một
cách cụ thể và sâu sắc. Nhân vật tự sự trong tác phẩm tự sự thường được miêu tả
có ngoại hình, lời nói, tính cách, phẩm chất và được thể hiện thông qua hệ thống
các sự kiện nhất định trong truyện. Ở đây, ngôn ngữ, hành động của nhân vật
không đơn thuần là những yếu tố làm nổi bật bản chất nhân vật mà còn làm
phương tiện để tác giả thể hiện những suy tư, thái độ đối với cuộc sống. Rõ
ràng, xét về mặt thể loại, TKML thuộc thể loại văn xuôi tự sự, tuy nhiên nhân vật
trong tác phẩm rất ít hoặc không được miêu tả cụ thể, đầy đủ diện mạo, ngược
lại các nhân vật được tập trung thể hiện cảm xúc, suy nghĩ.
Yếu tố trữ tình thâm nhập vào nhân vật qua cách kể đa giọng điệu dạt dào
chất thơ thể hiện ở ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật với nhau hoặc lời độc
thoại nội tâm của nhân vật. Những câu thơ, bài thơ được đan lồng vào lời nói,
hành động góp phần thể hiện cảm xúc, tư tưởng, tình cảm của nhân vật. Điều
này thể hiện khá rõ ở 15 truyện trong tổng số 20 truyện của tác phẩm.
97
Ở truyện số 2, Nhị Khanh là người phụ nữ thương chồng, liều chết giữ trọn
đạo làm vợ, làm mẹ. Trong truyện, Nhị Khanh không được miêu tả cụ thể về
ngoại hình, tính cách mà chỉ được tác giả tập trung thể hiện những biến động
tâm lí trước biến cố xảy ra trong cuộc đời. Lời nói chia tay của Nhị Khanh với
Trọng Quỳ tràn đầy lưu luyến: “Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị
người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn
hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa” (…) “Vậy chàng nên chịu
khó đi theo. Thiếp dám đâu đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho
phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng thắc mắc bận lòng đến
chốn hương khuê”. Lời nói nhắn nhủ ngắn ngủi nhưng chứa chan biết bao nhiêu
là tình, nào tình phụ tử, nào tình phu thê, nào là lòng hiếu thuận, nào là sự thuỷ
chung. Tất cả là nỗi niềm thầm kín và sự hi sinh vô bờ của người thiếu phụ khi
xa chồng. Tình cảm vợ chồng sau những ngày xa cách được gửi gắm trong bài
thơ của Trọng Quỳ. Nỗi niềm, cảm xúc yêu thương của đôi vợ chồng được thể
hiện trực tiếp qua các hình ảnh ước lệ tượng trưng:
“Tình em thắm đượm vô ngần,
Số anh riêng lắm gian truân cũng kỳ.”
“Sầu gieo đỉnh núi chơi vơi,
Mịt mù gió bụi cách vời xa xăm.”
“Mắt mòn trông ngóng quê nhà,
Lòng đau nghĩ nỗi phương xa lạc loài.”
“Bến tiên khách lại trùng lai,
Mộng say Đỉnh Giáp, xuân tươi Nguồn Đào.”
Những từ ngữ gợi cảm xúc “nhớ”, “tình em thắm đượm”, “sầu”, “lòng
đau”, “yêu”… nhưng cũng không kém phần trang nhã, kín đáo nhờ các hình ảnh
ẩn dụ, tượng trưng “xe dây Tấn Tần”, “bến tiên”, “mộng say Đỉnh Giáp”,
“xuân tươi Nguồn Đào”. Qua lời thơ ấy, ta hiểu thêm tình yêu thắm thiết, keo
98
sơn của tình nghĩa vợ chồng. Sự ân hận khôn xiết của Trọng Quỳ cũng thể hiện
qua bài văn tế, khóc thương người vợ đã khuất:
“Vừa vui xum họp,
Phút bỗng lìa tan.
Ta sao bạc quá!
Nàng đáng thương thay!”
“Non mòn bể cạn,
Mối hận khôn khuây.”
Truyện 14 lại là nỗi niềm không kém xót xa của đôi tình nhân trẻ. Phong
thư của Dư Nhuận Chi viết gửi đến Tuý Tiêu là lời nhắn gửi đầy nhớ thương pha
lẫn trách hờn:
“Trông ai nước mắt thầm rơi,
Tấc gang bỗng cách đôi nơi mịt mùng.”
“Người nương trướng gấm êm ru,
Người ôm một mảnh trăng cù gió đông.
Ham vui nệm tía màn hồng,
Biết chăng kẻ chốn thư phòng thương đau.”
Nàng Tuý Tiêu cũng vô cùng đau xót trong lời khẳng định với Trụ quốc
công: “Quả có như vậy, tình sâu gắn bó, hờn nặng chia lìa, lời thể chung sống
chưa phai, điều hẹn cùng già đã phụ. Nay thì Sở mưa Yên tạnh, liễu héo đào
tươi, bằn bặt xa nhau, hờn ôm thiên cổ”.
Những nhân vật nam được xây dựng với khá nhiều tính cách khác nhau. Họ
có thể là người chồng tệ bạc, sẵn lòng đem vợ “gán nợ” cờ bạc hoặc đa nghi,
độc đoán gián tiếp hại chết người vợ của mình, như Trọng Quỳ, Trương Sinh.
Họ có thể là những người ham mê sắc dục và chết trong sự u mê như Vô Kỷ và
Trình Trung Ngộ. Họ có thể là những trang quân tử cương trực như Ngô Tử Văn
hoặc những ẩn sĩ bất mãn với đời lánh đục về trong như Từ Thức, người tiều
phu ở núi Nưa. Nhưng dù ở tính cách nào thì diễn biến nội tâm của họ cũng khá
99
phức tạp. Những tâm tư, nguyện vọng, ước mơ, lý tưởng được thể hiện khá đầy
đủ. Trọng Quỳ nức nở, ăn năn tội lỗi, thốt lời đau khổ khôn lường khi liệm tang
người vợ bất hạnh:
“Ta sao bạc quá,
Nàng đáng thương thay.”
Lời Trình Trung Ngộ dạt dào yêu thương đối với hồn ma Nhị Khanh, chàng
quyết tâm đi tìm nàng: “Chỗ vợ ta ở có lâu đài lộng lẫy, có hương hoa ngạt
ngào, ta phải đi theo chứ không thể lẩn quẩn trong chốn bụi hồng này được.”.
Vô Kỷ sẵn lòng bỏ kinh kệ mà theo đuổi sắc tình lục dục với Hàn Than. Khi
Hàn Than qua đời, Vô Kỷ đau buồn khôn cùng, than vãn tha thiết, não nề: “Em
ơi, em vì anh mà chết oan uổng. Nếu anh được theo em cùng chết, anh rất sẵn
lòng, khỏi để em vò võ một mình ở nơi chín suối”, “nếu có linh thiêng, xin sớm
cho anh được theo về dưới đất”. Điều này phải chăng cho thấy sự hoang mang
và ước mơ được đến với một thế giới khác tốt đẹp, hạnh phúc hơn?
Nhìn chung các nhân vật trong tác phẩm đều mang tính phổ biến, tiêu biểu
cho một tư tưởng, một quan niệm sống. Mỗi dạng nhân vật là mỗi bài học nhằm
tuyên truyền, bảo vệ những giá trị tích cực của lễ giáo phong kiến. Lối xây dựng
nhân vật theo khuynh hướng lãng mạn, đậm chất trữ tình.
2.3.3. Tác dụng nghệ thuật của việc kết hợp phương thức tự sự và trữ
tình trong Truyền kỳ mạn lục
2.3.3.1. Sự kết hợp hai phương thức tự sự và trữ tình góp phần mang lại
sự hấp dẫn, đa dạng về phương diện nghệ thuật của Truyền kỳ mạn lục
Đối với cốt truyện, sự kết hợp này góp phần làm mới lạ những kết cấu
quen thuộc của lối truyện truyền kỳ. Người trần thuật vừa kể chuyện đời của
nhân vật vừa khám phá đời sống nội tâm của họ. Các sự kiện trở nên phong phú,
giàu màu sắc hơn. Trong quá trình xây dựng cốt truyện, không những có các sự
kiện, những biến cố xoay quanh cuộc đời nhân vật, mà còn có yếu tố miêu tả
cảnh vật và diễn biến nội tâm nhân vật. Kết hợp hai phương thức sáng tác làm
100
cho cách trần thuật hoàn toàn xoá bỏ sự rập khuôn, cứng nhắc của một tác phẩm
văn xuôi tự sự. Giọng điệu thì linh hoạt, sinh động. Có khi khách quan có khi
dạt dào cảm xúc chủ quan. Chẳng hạn một giọng kể rắn rỏi, khách quan xen lẫn
bút pháp miêu tả khi người trần thuật việc làm của Hồ Tông Thốc: “Ông xốc áo
vùng dậy, té ra là một giấc chiêm bao, bèn mua rượu và nem bày một lễ cúng ở
đầu thuyền trước khi rời khỏi đó” (Truyện số 1). Giọng kể thật truyền cảm nhờ
sự sử dụng phép đối: “Nếu còn nghĩ đến tình xưa thì ngày ấy tháng ấy xin đến
chờ em ở cửa đền Trưng Vương” (Truyện số 2).
Trong TKML xuất hiện rất nhiều hình tượng nghệ thuật giàu chất thơ, gắn
liền với cuộc sống của một nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Hình ảnh
“sông” và “cầu”, “thuyền”, “đình”, “đền” xuất hiện đồng đều trong TKML.
Đấy là không gian gặp gỡ, hẹn hò, chia biệt và cũng là nơi xảy ra những sự kiện
mới cho truyện.
- “Bèn ngồi tựa vào bức lan can trên cầu, ôm đàn gẩy mấy bài Nam cung,
mấy điệu Thu tứ”, “Hai người bèn đưa nhau xuống thuyền.” (Truyện số 3).
- “Rồi kẻ vít cuối thuyền, kẻ leo đầu thuyền, thuyền tròng trành mấy lần
xuýt lật sấp xuống.” (Truyện số 4)
- “Về đời Minh Tông nhà Trần, có quan Thái Thú họ Trịnh làm quan ở
Hồng Châu, vợ là Dương thị nhân khi về nhà, đỗ thuyền ở bên cạnh một ngôi
đền thuỷ tộc.” (Truyện số 6)
- “Một hôm Từ Thức dậy sớm trông ra bể Thần Phù ở phía ngoài xa vài
chục dặm, thấy có một đám mây ngũ sắc, đùn đùn kéo lại như một đoá sen mọc
lên, vội chèo thuyền ra thì thấy một trái núi rất đẹp” (Truyện số 9)
2.3.3.2. Sự kết hợp phương thức tự sự và trữ tình góp phần thể hiện trọn
vẹn, sâu sắc nội dung tác phẩm và tư tưởng tác giả Truyền kỳ mạn lục
Đây chính là tác dụng cơ bản, quan trọng nhất của sự kết hợp này trong
TKML. Sự kết hợp này đều hướng đến mục đích cuối cùng là phản ánh cuộc
sống hiện thực của xã hội phong kiến đương thời.
101
TKML thể hiện sự phản kháng, phê phán thực trạng xã hội và các thế
lực phong kiến bất nhân đương thời. Các truyện: 3, 5, 7, 8, 11, 12, 13, 15, 20
thể hiện mạnh mẽ tinh thần phản kháng, phê phán thực trạng xã hội và các thế
lực thống trị bất nhân đương thời. Thực trạng xã hội đầy biến động, loạn xảy ra
khắp nơi, nạn đói hoành hành, vua chỉ lo hưởng lạc, quan thì tham ô cường bạo,
cướp bóc của dân, thanh niên thì sa đà vào sắc dục, nhà tu hành thì giả trá khôn
lường, tất cả tạo nên bức tranh cuộc sống nhem nhuốc và tăm tối. Đó là hiện
thực nhiễu nhương, tồi tệ của xã hội, chính trị thời vãn Trần với “vạ Trần Khát
Chân”, “người chết chóc nhiều”, “những oan hồn không chỗ nương tựa”,
“binh lửa muôn năm, nhiều nơi bị đốt”, cuối đời nhà Hồ “Trương Phụ chia binh
vào cướp, lấn chiếm kinh kỳ”. Một hiện trạng suy đồi về đạo đức con người, dân
phong đồi tệ: “một đôi trai gái loã lồ mà cùng nhau cười đùa nô giỡn”, “ở chốn
thanh tịnh nhưng nết cũ vẫn chưa trừ bỏ”, “Hai người đã yêu nhau, mê đắm say
sưa” “chẳng còn để ý đến kinh kệ nữa”. Đời sống người dân lâm vào thảm cảnh
thương đau và chết chóc “Người trong vùng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì
em đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách, rất là khổ sở”… Tất cả
hiện thực của một thời đại được tái hiện chân thật, khách quan trong Truyền kỳ
mạn lục. Xuất phát từ một tấm lòng nhân đạo, Nguyễn Dữ nghiêm túc lên án,
phê phán thực trạng xã hội ấy, đặc biệt là giai cấp thống trị vô lương tâm: Vua
thì thờ ơ “Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng
cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi
châu ngọc”, “ hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ
dùng lời ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thưởng…”, quan lại thì dâm dục, ỷ
quyền, dung túng bè cánh dưới trướng làm chuyện sàm bậy, bắt cóc phụ nữ, bóc
lột nhân dân “Bấy giờ có quan Trụ Quốc họ Thân thầm đi chơi phố, trông thấy
Tuý Tiêu đẹp, bắt cướp đem về làm của mình. Sinh làm đơn kiện tận triều đình,
nhưng vì họ Thân uy thế rất lớn, các toà các sở đều tránh kẻ quyền hào, gác bút
không dám xét xử”, “Quyền vị đã cao, Lý bèn làm những việc trái phép, dự lũ
102
trộm cướp như lòng ruột, coi người nho như cừ thù, thích sắc đẹp, ham tiền
tài”. Những thế lực ấy đáng phê phán, lên án và “kết tội” thích đáng nhưng
trong tác phẩm thì bọn chúng vẫn tồn tại và ra sức bòn rút nhân dân.
TKML thể hiện ước mơ công lí, khát khao công bằng của nhân dân. Ước
mơ, khát khao công lí, công bằng trong xã hội là một lí tưởng sống tốt đẹp của
con người cho dù ở một quốc gia, một thời đại nào. Số truyện trong tác phẩm
không nhỏ (7 truyện: 4, 6, 9, 10, 12, 17, 19) đã thể hiện rõ nét nội dung này.
Trong thực trạng xã hội tối tăm đầy rẫy những bất công, con người luôn hi vọng,
hướng đến một cuộc sống tốt hơn dù rằng hi vọng ấy mong manh, mơ hồ.
Những khát vọng ấy, do đó chỉ dừng ở mức nhận thức, suy nghĩ của con người.
Những quy phạm nghiêm ngặt của chế độ phong kiến đương thời đã kìm hãm và
gò con người vào khuôn khổ chính thống nhất định: “tam cương ngũ thường”,
“tam tòng tứ đức”…
Có thể thấy tác giả đã cố công xây dựng những hình tượng nhân vật mang
lý tưởng cao đẹp: cương trực thảng thắn bênh vực dân nghèo và đòi lại công
bằng cho kẻ yếu. Vì yên bình cho cuộc sống nhân dân, Ngô Tử Văn không ngại
trắc trở, đe doạ nào, kể cả cái chết. Đó cũng là những con người chọn lối sống
lánh đục tìm trong, xa rời danh lợi, ẩn mình để giữ vững sự cao khiết của tâm
hồn. Lời của Từ Thức và người tiều phu núi Nưa là những minh chứng: “Ta
không thể vì số lương năm đấu gạo mà buộc mình trong áng danh lợi”, “Ta là
kẻ dật dân trốn đời, ông lão già lánh bụi, gửi tính mệnh ở liều tranh quán cỏ,
tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng”, “chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều đại
nào, là vua quan nào”.
TKML thể hiện khát vọng về một tình yêu chân chính, về hạnh phúc lứa
đôi. Cuộc sống tình cảm trai gái, những yêu đương nhục dục là vấn đề nhạy
cảm, dường như không được phép xuất hiện trong dòng văn học bác học mang
tính cao nhã thời trung đại. Trong tác phẩm, tác giả đã đột phá khi thể hiện nội
dung này bằng sự kết hợp giữa lối kể chuyện độc đáo cùng với cách khai thác
103
diễn biến nội tâm, bộc lộ cảm xúc của các nhân vật. Vấn đề tình yêu chân chính,
khát vọng hạnh phúc lứa đôi có thể nói lần đầu tiên được thể hiện với tần suất
cao và phát huy hết tác dụng của nó. Các truyện số 2, 14, 18 thể hiện rõ nhất mối
tình vợ chồng son sắt. Tuy ở ba câu chuyện là ba kết thúc khác nhau nhưng điểm
chung chính là khát khao được hạnh phúc lứa đôi đằm thắm, bền lâu trong cuộc
sống. Cốt truyện bắt đầu đều là sự gặp gỡ giữa các cặp trai gái, quen biết và kết
duyên, bởi nguyên nhân khách quan nên vợ phải xa chồng. Số phận người phụ
nữ thật bi thương nhưng ở họ vẫn nồng cháy tình yêu thương chồng và thuỷ
chung son sắt. Trước nhất là tình duyên lỡ làng của Trọng Quỳ và Nhị Khanh ở
truyện số 2: Nàng Nhị Khanh đã phải “lấy đoạn dây tơ thắt cổ mà chết” để trọn
vẹn tình chồng nghĩa vợ với Trọng Quỳ; Còn Trọng Quỳ vì biến cố gia đình và
thời thế nên đã cách xa với người vợ Nhị Khanh tuy nhiên “ở chốn quê người
đất khách, nhưng hồn mộng không đêm nào không ở bên mình Nhị Khanh”, sau
khi vợ chết, Trọng Quỳ “rất ăn năn tội lỗi của mình”, “chỉ tự nhận tội lỗi của
mình”. Vợ chồng đã bỏ qua ranh giới giữa người và ma mà gặp gỡ, ân ân ái ái
như khi còn sống. Chuyện tình Nàng Lệ Nương và Phật Sinh trong truyện 18
cũng không kém phần đau thương và cao đẹp. Lệ Nương thà chọn cách quyên
sinh thủ tiết với Phật sinh chứ không chịu cảnh “cô hồn ở bên đất Bắc.” trong
khi đó Phật Sinh “không lấy ai nữa” kể từ khi Lệ Nương tạ thế. Tình chồng
nghĩa vợ thuỷ chung son sắt của họ đã được tác giả trân trọng ngợi ca. Tuy tất cả
họ không được sum vầy trong cuộc sống hôn nhân trần thế nhưng cũng trọn vẹn
thuỷ chung ở chốn âm ty. Dù sống hay chết tất cả họ vẫn giữ mối tình keo sơn
bền chặt. Họ luôn yêu thương nhau, vượt qua khoảng cách giữa người và ma mà
tìm lại nhau, nối duyên tình dang dở. Điều đáng quý ở những nhân vật này là sự
chung thuỷ, họ tìm thấy nhau và có ý thức giữ gìn nghĩa tình cao đẹp ấy.
TKML thể hiện một niềm cảm thông, thương xót vô biên cho những kiếp
người bất hạnh. Tình thương ấy bao trùm cho tất cả những con người nghèo
khổ, có số phận éo le, nghiệt ngã trong xã hội, đặc biệt là đối với người phụ nữ.
104
Từ những người phụ nữ tài hoa xuất chúng chốn triều đình đến những phụ nữ
bình thường chốn dân dã đều có chung số phận bất hạnh, ngang trái trong cuộc
đời. Có tài sắc nhưng đoản mệnh như nàng Ngô Chi Lan. Chung thuỷ, tiết hạnh
nhưng bị chồng nghi oan dẫn đến phải tự tử như nàng Vũ Thị Thiết. Bị chồng
bạc tình gán nợ cờ bạc, phải tự tử để trọn nghĩa phu thê như nàng Nhị Khanh.
Nàng Tuý Tiêu, Lệ Nương đang vui vầy hạnh phúc bên người mình yêu bỗng
phải chia uyên rẽ thuý bởi những thế lực bạo tàn. Tác giả dành riêng cho họ một
tình thương xót sâu xa, một niềm thông cảm vô bờ bến.
Tóm lại, tự sự và trữ tình là hai phương thức sáng tác khác nhau, một bên
kể sự việc, một bên tả tâm trạng. Hai phương thức tưởng chừng là độc lập, mang
đặc trưng cho từng thể loại. Nhưng Nguyễn Dữ đã cho thấy chúng có mối liên
hệ mật thiết, bổ sung cho nhau làm nên sự thành công và giá trị đặc sắc cho tác
phẩm. Sự kết hợp này trong Truyền kỳ mạn lục đã mở ra bước ngoặc mới cho sự
phát triển văn xuôi trung đại Việt Nam. Thể loại truyền kỳ nhờ đó trở nên phong
phú, đa dạng hơn ở phương diện nghệ thuật cũng như nội dung thể hiện. Sự kết
hợp giữa kể chuyện khách quan với thể hiện đời sống nội tâm của nhân vật đã
làm tăng sức hấp dẫn cho truyện. Đánh giá cao về tác phẩm, Tạ Ngọc Liễn trong
Danh nhân văn hoá trong lịch sử từng nhận xét: “Trong hai mươi truyện, truyện
nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng
đạo đức của Nguyễn Dữ. Đó là những mong muốn của ông về một xã hội mọi
người được sống yên bình trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm
yêu thương giữa con người với con người… Giá trị lớn của Truyền kỳ mạn lục
là ở những nội dung nhân văn đó.” [37, tr.173]. Truyền kỳ mạn lục được mệnh
danh “thiên cổ kỳ bút” chắc hẳn có phần đóng góp không nhỏ của sự kết hợp
độc đáo này.
105
Chương 3. ĐÓNG GÓP CỦA TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
ĐỐI VỚI VĂN XUÔI VIỆT NAM
Nội dung phản ánh của truyện truyền kỳ khá đa dạng và phong phú. Tác
giả đã sử dụng những yếu tố kỳ lạ, hoang đường nhằm tái hiện một cách sinh
động hiện thực đời sống xã hội đương thời và qua đó thể hiện tư tưởng, quan
điểm sống của chính tác giả. Vì vậy, luận văn chọn nghiên cứu những tác phẩm
là truyện truyền kỳ hoặc có liên quan gần gũi đến thể loại truyền kỳ (truyện
mang yếu tố kỳ ảo, hoang đường). Và do phạm vi đề tài, dung lượng bài viết có
hạn nên chúng tôi chỉ tập trung khai thác những đóng góp về nghệ thuật, chủ yếu
là sự kết hợp hai phương thức sáng tác tự sự và trữ tình của Truyền kỳ mạn lục
trong nền văn học Việt Nam. Tất cả những thành tựu khác thuộc phương diện
nghệ thuật cũng như nội dung chúng tôi mạn phép không đi sâu đến.
3.1. Văn xuôi Việt Nam trước Truyền kỳ mạn lục với những chuẩn bị có ý
nghĩa tiền đề
Trước Truyền kỳ mạn lục, nhiều tác phẩm tồn tại với hình thức chích quái
hoặc đó là những truyện lưu truyền trong dân gian và được ghi chép lại mang
yếu tố hoang đường, kỳ ảo. Cụ thể là:
* Việt điện u linh (Tập truyện về cõi u linh của nước Việt) là tập truyện
chữ Hán, gồm 27 truyện. Theo Đại Việt thông sử và Kiến Văn tiểu lục của Lê
Quý Đôn; Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú thì Lý Tế Xuyên
(? - ?) chính là tác giả của tác phẩm này. Tác phẩm được biên soạn từ hồi đầu
thế kỷ XIV, bài tựa cuốn sách được viết vào năm 1329 [74, tr.5]. Truyện là tập
hợp các truyền thuyết lưu hành trong dân gian về các vị thần linh Việt Nam ở
thời xa xưa. Các vị thần thì đa dạng: “Các thần vốn có phẩm loại không ngang
nhau, có vị là tinh tuý của núi sông, có vị là nhân vật kiệt linh, khí thế rừng rực
lúc đương thời, anh linh toả rộng đến đời sau” [74, tr.15-16]. Rõ ràng tác phẩm
bộc lộ một thái độ thành kính, trân trọng của người nước ta đối với những bậc có
công với đất nước, được nhân dân thờ phụng. Ngoài giọng kể khách quan của
106
người kể, trong tác phẩm còn thấy giọng tán thưởng ca ngợi của chính người kể
đối với các “vị thần” của quốc gia. Giọng điệu này thể hiện rõ ở các bài thơ ở 7
truyện cụ thể: Khước địch thiện hựu, trợ thuần đại vương uy địch dũng cảm,
hiền thắng đại vương; Chứng an minh ứng hựu quốc công; Quả nghị cương
chính uy huệ vương; Quảng hựu thánh hựu uy tế phu ứng đại vương; Xung thiên
dũng liệt chiêu ứng uy tín đại vương; Khai thiên trấn quốc trung phụ tá dực đại
vương; Thiên hộ linh ứng chương Vũ Quốc Công. Những bài thơ tồn tại trong
truyện như là yếu tố nghệ thuật tất yếu góp phần xây dựng cốt truyện và thể hiện
nội dung của Việt Điện u linh:
“Yếu thắng, khắc thắng,
Yếu thành, khắc thành.
Phương dân giai thuận phục,
Bang gia hưởng thái bình.
Ngũ niên trung lạc nghiệp,
Thất miếu tự an linh.
Thử thời quan bỉ lý,
Thiên tế vọng bằng trình.”
Dịch ý như sau:
“Muốn thắng, được thắng,
Muốn nên việc, được nên.
Dân các phương đều thuận phục,
Nhà nước hưởng thái bình
Trong năm năm vui giữ nghiệp,
Bảy miếu được yên lành.
Ở thời này, xem lẽ kia,
Trông khoảng trời mây, trông đường chim bằng vượt.”
Nhân vật trong tác phẩm cũng được xây dựng bởi nhiều chi tiết kỳ ảo,
hoang đường, đa phần các nhân vật là con người có thật trong lịch sử Việt Nam.
107
Họ có những đặc điểm hết sức phi thường. Ví như hai anh em Phùng Hưng và
Phùng Hãi trong Bố cái đại vương: người anh thì “sức rất là khoẻ mạnh, có thể
bắt hổ vật trâu”, người em thì cũng “có sức khoẻ, có thể vác mười nghìn cân đá
hoặc một chiếc thuyền nhỏ nặng mười hộc đi hơn mười dặm”. Phùng Hưng chết
hiển linh, “thường hiện về trong đám dân quê”. Mọi người cho là thần “lập
miếu”, “thờ cúng”, “cầu tạnh cầu mưa, không có điều gì là không linh ứng”.
Và sự linh ứng cuối cùng là Phùng Hưng hoá thành ông già đầu bạc báo mộng
cho Ngô Tiên về sự thắng lợi của trận đánh ở sông Bạch Đằng. Hay các nhân vật
Triệu Quang Phục và Lý Nam đế, Lý Ông Trọng, Lý Thường Kiệt… đều là
những anh hùng dân tộc trong lịch sử nước ta. Bên cạnh những trang quân tử
kiên trung còn có những người phụ nữ trung liệt trong và ngoài nước. Họ là nữ
tướng yêu nước đánh giặc ngoại xâm như Trưng Trắc, Trưng Nhị trong Nhị
Trưng phu nhân hay là những người phụ nữ bình thường trong cuộc sống nhưng
phẩm chất cao quý đáng lưu sử xanh như nàng Mỵ Ê (vợ Sạ Đẩu) trong Hiệp
chính hựu thiện trinh liệt chân mãnh phu nhân. Khi Sạ Đẩu chết trận, nàng thà
“lấy chăn vải trắng quấn quanh mình, rồi nhảy xuống dòng sông” tự vẫn chứ
không chịu “hầu” nhà vua “ở thuyền ngự”. Sự tiết hạnh ấy há chẳng phải đáng
kính sao? Và đáng là tâm gương sáng cho đám quần thoa đương thời cũng như
hậu thế. Người phụ nữ thuỷ chung ấy được nhà vua đánh giá với thái độ thành
kính: “vượt lên trên bậc kỳ vĩ anh linh”. Kỳ diệu thay! Mỵ Ê chết rồi bèn đến
báo mộng cho Vua: “Tôi nghe cái đạo làm vợ là chỉ có một chồng mà thôi.
Quốc vương nước tôi trước kí tuy không dám tranh đua với bệ hạ nhưng cũng là
một nam tử có kỳ tài ở một phương (…) chẳng may mà nước tan vua chết (…)
Nhờ có ơn lớn của bệ hạ sai sứ đưa tôi về được suối vàng gặp chồng”. Vua lập
đền “xa gần cầu đảo đều thấy linh ứng”. Rõ ràng, những yếu tố kỳ lạ, hoang
đường đầy rẫy trong VĐUL. Những yếu tố này góp phần thể hiện thế giới tâm
linh của con người thời đại, đó chính là cứu cánh giúp con người thoát khỏi sự
108
bất công của cuộc sống đương thời, đồng lúc thể hiện khát khao một xã hội công
bằng và đạo đức.
* Lĩnh Nam chích quái (Chọn lựa những câu chuyện quái dị ở đất Lĩnh
Nam) là tập truyện viết bằng chữ Hán, bao gồm truyền thuyết và các truyện cổ
tích dân gian, được ra đời vào cuối đời Trần, tương truyền là do Trần Thế Pháp
(? - ?) sưu tầm và tập hợp. Theo Vũ Quỳnh, Kiều Phú thì tác phẩm gồm 22
truyện [46, tr.13], chia làm hai tập. Tuy ít nhiều có chịu ảnh hưởng của văn hoá
ngoại lai nhưng thực sự LNCQ là tác phẩm văn chương có giá trị, đậm đà tính
dân tộc. Tác phẩm chủ yếu thể hiện tinh thần nhân đạo, nhân văn, đề cao quan
niệm sống nghĩa tình, sự phóng khoáng, cởi mở trong quan hệ giữa người với
người nước ta. Tác phẩm là bức tranh về người và cảnh của nước ta trong những
ngày chưa bị sự ràng buộc của bất kì một khuôn khổ chế độ xã hội nào. Đây là
tác phẩm chép về những câu chuyện kỳ lạ được truyền khẩu trong dân gian từ
rất lâu đời. Do là những truyện dân gian được chép lại nên có những hạn chế tất
yếu do sự chi phối của thời đại nhưng nhìn chung đấy là một tác phẩm có giá trị,
tạo những cơ sở làm tiền đề cho những các tác phẩm ra đời sau nó. Chính lẽ đó
mà cách đây non năm trăm năm Vũ Quỳnh mới có thể “ôm lấy mà đọc”, Kiều
Phú đã thấy rằng “đem biểu dương mà nêu ra chẳng là điều nên làm hay sao!”
[46, tr.28]. Do đặc trưng của thể loại tự sự cho nên phương thức chủ đạo trong
Lĩnh Nam chích quái chính là tự sự. Bên cạnh đó cũng có nhen nhóm xuất hiện
yếu tố trữ tình ở một số truyện mà biểu hiện chủ yếu là những yếu tố kỳ ảo,
những bài thơ, giọng điệu kể… Rõ nhất ở 8 truyện: Truyện Đổng thiên vương;
Truyện Lý Ông Trọng; Truyện Giếng Việt; Truyện núi Tản Viên; Truyện hai vị
thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt; Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không;
Truyện Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải; Truyện Hà Ô Lôi. Các bài thơ
xen lẫn, kết hợp với cách trần thuật đã tạo nên cốt truyện hoàn chỉnh. Tuy chưa
thực sự thể hiện nội tâm của nhân vật nhưng sự kết hợp ấy đã làm tăng sự đa
dạng, hấp dẫn cho cốt truyện, đồng thời cũng góp phần thể hiện nội dung truyện.
109
Truyện Lý Ông Trọng thể hiện lòng yêu, ghét của nhân dân rất rõ, ca ngợi chính
nghĩa, ghét phi nghĩa, đề cao những anh hùng mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Lời bài thơ ở cuối truyện đã nêu rõ:
“Văn võ toàn tài đại trượng phu,
Hàm Dương khiển tượng khiếp quần Hồ,
Vĩnh khương nhất nhập đàm kinh mộng,
Huyết thực nam thiên tráng đế đô.”
Dịch ý như sau:
“Võ giỏi văn tài đấng trượng phu,
Hàm Dương đồng tượng khiếp quần Hồ.
Vĩnh khương ứng mộng bàn kinh truyện,
Hương lửa trời Nam vững đế đô.”
Truyện Đổng thiên vương mang đậm tính chất truyền kỳ bởi cách xây
dựng nhân vật phi thường, bởi những sự kiện ly kỳ. Với sự kiện giậc Ân xâm
lược nước ta, Hùng Vương cầu sự cứu giúp từ Long Vương. Nhân vật “cụ già”
xuất hiện với dáng vẻ khác thường “cao hơn chín thước, mặt vàng bụng lớn,
mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca múa.” , “cụ già không
ăn uống, cũng không nói năng”. Cụ già mách bảo vua về vận nước về sau, xong
bèn “bay lên không mà đi”. Sự tiên đoán huyền cơ của cụ già sau ba năm được
linh ứng - “giặc Ân tới”. Nhân vật chính trong truyện là một nhân vật phi
thường, có sức mạnh và tài trí tuyệt đỉnh. Một phú ông ở huyện Tiên Du sinh ra
một bé trai “ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được” nhưng
khi có sứ giả đến thì câu nói đầu tiên của đứa bé là “Mau về tâu vua rèn một con
ngựa sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và
một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại”. Hàng loạt
những chi tiết kỳ ảo có tác dụng nghệ thuật nhằm ca ngợi, thể hiện sự kính trọng
của nhân dân ta đối với những anh hùng cứu nước. Đồng thời, đó cũng là ước
mơ, khát vọng của nhân dân về một vị anh hùng “kinh bang tế thế”, sức mạnh
110
phi thường để cứu rỗi nhân dân thoát khỏi cuộc sống điêu linh. Những vị ấy
được “hoá thần” và được nhân dân thành kính thờ phụng:
“Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn,
Vạn tử thiên hồng diễn thế gian,
Thiết mã tại thiên danh tại sứ,
Anh hùng lẫm lẫm mãn giang sơn.”
Dịch ý như sau:
“Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn,
Vạn tía muôn hồng rỡ thế gian.
Ngựa sắt bay rồi tên vẫn đó,
Anh hùng sống mãi với giang san”
Mẫu nhân vật này khá nhiều trong LNCQ như Ông Trọng, hai bà Trinh linh
phu nhân họ Trưng… Và không chỉ có loại nhân vật anh hùng được nhân dân
thần thánh hoá, còn có loại nhân vật là những loại thực vật động vật thành tinh
tác oai tác quái quấy nhiễu cuộc sống dân lành, buộc nhân dân phải lập đền lập
miếu thờ cúng và dâng phẩm vật hàng năm. Loại nhân vật ấy cũng được xây
dựng rất kỳ quái. Chẳng hạn như cây cổ thụ thành tinh trong truyện“Mộc tinh”:
“Cây trải qua mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay hình
đổi dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật.” “biến hoá khôn lường,
thường ăn thịt người”. Hoặc trong Hồ Tinh: “con Cáo trắng chín đuôi sống hơn
ngàn năm, có thể hoá thành yêu quái, thành người hoặc thành quỷ, đi khắp nhân
gian”. Trong Ngư tinh cũng vậy “có con tinh ngư xà (…) dài hơn năm mươi
trượng, chân nhiều như chân rết, biến hoá vạn trạng, linh dị khôn lường”, “lại
ăn thịt người nên ai cũng sợ”… Và tất nhiên, nhân dân ước vọng diệt trừ tai hoạ,
diệt trừ những thế lực hà hiếp, bóc lột mình nên song song với những nhân vật
phản diện ấy là những nhân vật Long Quân, Pháp sư, xuất hiện để bài trừ hiểm
hoạ yêu tinh. Chính vì quan niệm đề cao chính nghĩa, đả phá phi nghĩa của dân
ta cho nên cốt truyện trong LNCQ thường kết thúc có hậu, thế lực tàn ác bị tiêu
111
trừ, còn lại là những bậc anh hùng có công với đất nước, những con người đức
hạnh kiên trung.
* Thánh Tông di thảo (Bản thảo để lại của Thánh Tông) cũng là tập
truyện viết bằng chữ Hán, gồm 19 truyện, chia làm hai quyển thượng và quyển
hạ, tương truyền là của Lê Thánh Tông, trị vì từ năm 1460 đến 1497 trong lịch
sử Việt Nam. Tên tác phẩm do người đời sau đặt, được viết theo thể loại truyền
kỳ, tạp ký và ngụ ngôn. Đây là tác phẩm có những thành tựu đáng kể, vừa dựa
vào các sự kiện lịch sử và những truyện dân gian, vừa có những hư cấu, sáng tạo
độc đáo. Tất cả đã tạo nên TTDT có giá trị nhiều mặt, đặc biệt là tiến trình phát
triển thể loại văn xuôi tự sự trung đại ở nước ta. Với những môtip khá quen
thuộc của truyện dân gian như người lấy vậy, nhân vật là con vật mang đặc điểm
của con người, tác giả đã hư cấu, nhân hoá, xây dựng lại thành những truyện
giàu ý nghĩa giáo dục đạo đức hay mang sắc thái ngụ ngôn như lấy chồng dê
chẳng hạn ở: Bức thư của con muỗi, Lời phân xử cho anh điếc và anh mù,
Truyện dòng dõi con thềm thừ. Ở mỗi truyện tác giả đều gửi gắm những suy
nghĩ, quan niệm về thế giới nhân sinh. Cuối mỗi truyện trong tác phẩm đều có
lời bàn đầy cảm xúc và bày tỏ thái độ, tư tưởng của người viết. Quan niệm của
tác giả được thể hiện trực tiếp qua cốt truyện, kiểu nhân vật và cả ngôn ngữ kể
truyện mang đậm tính chất kỳ ảo. Truyện chồng dê cho thấy thái độ tôn trọng, đề
cao người phụ nữ hiếu hạnh, thuỷ chung. Mẹ cô gái mất, nàng phải “ba năm hết
tang phục mới dám nói đến chuyện hôn thú”, “thường mỗi ngày hai buổi cúng
cơm, khóc lóc thảm thiết”. Nàng có kỳ duyên với một “chàng tiên” đội lớp dê
“Bỗng một đêm, dê hoá thành một chàng trai lên thẳng giường ngồi”. Mối tình
kỳ lạ giữa “tinh vật” và “chúa hoa” đằm thắm, lưu luyến, đầy nước mắt của đôi
trai gái yêu nhau được thể hiện qua lời khấn:
“Hỡi chàng tiên lại đánh xe,
Nội hoa, chàng dội lốt dê lạc đường.
Tầng mây kia hẳn quê chàng,
112
Mây tuôn mù mịt lòng càng nhớ thương.
Hãy về từ tạ Ngọc Hoàng,
Tình xưa nghĩa cũ dở dang sao đành.”
Truyện bức thư của con muỗi cho thấy quan niệm tôn trọng lối sống ẩn
dật, thanh bần qua việc xây dựng cách nghĩ đối lập của “muỗi rừng” và “muỗi
nhà” về cách chọn lối sống. Bức thư “muỗi rừng” gửi “muỗi nhà” viết:
“Trộm nghĩ: Lũ ta sinh ở Bắc Hà.
Thân nương gấm vóc.
Mỏng manh như tơ trời trong ánh nắng,
Nhỏ nhen tựa hạt bụi đầu sợi lông.”
“Cho nên kẻ tham ăn ban ngày, nếu không tay đạp tan thây,
cũng bị mảnh quạt tống đi xa lắc;
Đứa tham ăn buổi tối, chẳng bị khói hun mù mắt, ắt lửa
hồng thiêu cháy tấm thân.
Sao bằng:
Ở đầu trâu sừng quật không kinh,
Đậu lưng dê, đuôi xua chẳng tới.
Đốt lau nát nhưng thân nương vững chắc;
Lá sen cụp mà chân nghỉ bình yên.
Muỗi nhà, muỗi nhà!
Ta nói không nghe, thì làm than trong lửa, làm bụi trên khói
chưa biết ngày nào đó thôi!
Nên mau mau lo liệu…”
Tác phẩm cũng cho thấy thái độ phê phán gay gắt đối với những con người
tham lam, ích kỷ đến mức vô lương qua lời bàn của Sơn Nam Thúc trong Truyện
người hành khất giàu: “Còn như lũ người làng, đã chẳng giúp đỡ gì khi mụ còn
sống, lại còn rủ nhau đến chia của khi mụ chết, thật là vô sỉ trong đám vô sỉ, ăn
mày trong đám ăn mày”. Bên cạnh đó là thái độ ngưỡng mộ, trân trọng đối với
113
những con người chính trực, nghĩa khí, phê phán, lên án thói tham dục, tàn độc.
Truyện dòng dõi con Thiềm thừ mượn chuyện con vật Cóc và Ếch để ngụ ý ám
chỉ con người “Ôi! Thế mới hiểu rõ câu nói của tiên triết: Phàm những người ít
lòng tham dục mà không bảo toàn được tấm thân thì xưa nay ít có; còn những
kẻ nhiều lòng tham dục mà vẫn bảo toàn được tấm thân, xưa nay cũng hiếm.
Thật đúng là vậy?”. Và tư tưởng này chúng ta đã gặp lại ở tác phẩm Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ.
* Nam Ông mộng lục (Chép lại những giấc mộng của ông già phương
Nam) là tập hồi kí chữ Hán đầu tiên và là tác phẩm đầu tiên mở đường cho
khuynh hướng viết về “người thực, việc thực” trong văn xuôi tự sự Việt Nam.
Tác hẩm bao gồm 28 thiên do Hồ Nguyên Trừng (? - ?) soạn trong thời gian bị
bắt đưa sang Trung Quốc vào thế kỷ XV. Tuy là tác phẩm có nhiều chi tiết sự
việc và con người thực nhưng cũng có nhiều truyện xuất hiện những yếu tố kỳ
ảo, hoang đường. Ngay cả nhan đề đã mang đầy tính chất mơ hồ, huyền ảo. Câu
chuyện Linh hồn của Tổ định ngôi kể về chuyện thật, người thật là vua Trần
Anh Tông tìm người nối ngôi nhưng lại có sự kiện mang đậm yếu tố kỳ lạ: “Khi
Nhân vương thị tịch, con trai ngài là Anh vương chưa có con đích nối ngôi, mà
mới chỉ có con trai thứ. Anh vương có ý chờ đích tử rồi sau mới định việc nối
ngôi”, “Đến khi trà tỷ Nhân vương, lúc gói tro cốt ngài lại (….), thì xá lỵ của
ngày bay vào trong tay áo người cháu thứ mà phát ra ánh sáng. Cứ lấy viên xá
lỵ đó ra thì nó lại bay vào tay áo người cháu thứ như trước”. Minh vương được
lập thế tử và lên ngôi vua vì đích mẫu sinh con trai nhưng không nuôi được. Sự
kiện việc thật, người thật trong lịch sử nước ta được tác giả đã kể lại với sắc thái
kỳ ảo như vậy nhằm minh chứng cho những bậc kỳ tài nước Việt cùng với thái
độ, ngưỡng vọng thành kính của con dân nước Việt đồng thời tỏ thái độ ngưỡng
vọng của con dân nước Việt đối với các bậc đế vương đáng kính! Trong Truyện
sức mạnh thần kỳ, tác giả thuật lại xuất thân và kỳ tài của Lê Phụng Hiểu mang
đầy nét hoang đường “người Thanh Hoá, sinh ra đã to lớn lạ thường, ăn uống
114
nhiều bằng mười người”, “Năm mười hai, mười ba tuổi, thân mình đã dài tới
bảy thước”. Sự kỳ lạ này còn thể hiện ở biệt tài đánh giặc “Phụng HIểu cầm
một con dao ngắn, gọi là chước đao, chặt cây làm vũ khí”, “Ông dùng hơn
mười người đánh hơn vạn giặc”. Tuy vậy, ông đã từ chối chức tước quyền thế
nơi triều chính, chỉ mong “cho ruộng đất để tự cấy cày lấy ăn mà thôi”. Và khi
được vua cho cầm quân thì “Phụng Hiểu lấy cớ không có khả năng” để từ chối
và “chỉ mong được ở chốn ruộng vườn, đợi khi phải dùng đến việc binh, xin làm
tiên phong phá trận, báo đền đất nước mà thôi”. Quả đúng là một tấm gương
sáng về một trang anh hùng nghĩa khí, không vụ lợi, không màng công danh,
chức quyền, chỉ một lòng vì nước, vì dân, gắn bó với cuộc sống thanh bạch chốn
quê nhà. Yếu tố kỳ ảo được sử dụng khi xây dựng hình tượng nhân vật Phụng
Hiểu nhằm mục đích ca ngợi, biết ơn và cả tự hào sâu sắc đối với người anh
hùng dân tộc!
Trong NÔML, không hề thấy có lời bàn luận của người viết (tách riêng)
như các tác phẩm trước đó, nhưng những thái độ, tư tưởng, quan điểm của người
viết đều được thể hiện trực tiếp trong cách kể chuyện, xây dựng cốt truyện. Đối
với những kỳ nhân, kỳ tài tác giả dành những chi tiết hoang đường cho xự xuất
thân, trưởng thành nhằm thể hiện niềm tự hào dân tộc. Chẳng hạn sự thụ thai kỳ
lạ, dẫn đến sự ra đời của Chiêu Văn Đồng Tử trong Sự ứng nghiệm của bản tấu.
Đạo sĩ Đạo Thâm đã dâng tờ tấu chương làm lễ cầu tự cho Trần Thái vương và
được sự ứng nghiệm kỳ lạ: “Thượng đế đã chấp nhận bản tấu, sẽ lập tức sai
Chiêu Văn Đồng Tử giáng sinh vào vương cung, ở lại bốn kỳ”. Thật vậy, “hậu
cung có thai và quả đã sinh con trai, trên hai cánh tay có vằn thành chữ: Chiêu
Văn Đồng Tử”. Theo đúng lời Thượng đế, “Đến năm 48 tuổi” Chiêu Văn Đồng
Tử “ốm hơn một tháng”. Các con lập đền chay tiếp tục dâng bản tấu lên Thượng
đế “xin giảm tuổi sống của mình để cha được thêm tuổi thọ”. Và bản tấu ấy một
lần nữa được chứng nghiệm: bệnh của Chiêu Văn Đồng Tử bèn khỏi, “quả
nhiên ngài được thọ thêm 12 năm”. Sự cao thượng của những con người thi ân
115
bất cầu báo được tác giả gửi gắm qua hình tượng nhân vật sư Quán Viên - một
cao nhân đắc đạo, trong truyện Khỏi bệnh trong giấc mộng. Trần Anh vương
được khỏi chứng “đau mắt” nhờ giấc mộng được vị sư Quán Viên chữa trị. Khi
vương ban ân thì Quán Viên: “đều đem hết các thứ được ban thưởng ra bố thí,
không giữ lại đồng nào, vẫn mặc áo rách trở về núi như chẳng có việc gì xảy
ra”.
Nhìn chung, bốn tác phẩm kể trên ra đời trước Truyền kỳ mạn lục đã để lại
những thành tựu đáng kể về nội dung lẫn nghệ thuật. Do chịu sự chi phối của ý
thức hệ phong kiến và tư duy thần linh chủ nghĩa cho nên những trước tác ấy
mang đậm những chi tiết hoang đường, kỳ ảo. Con người tin vào thế giới siêu
nhiên, xem những thế giới ấy như là một nơi bày tỏ khát vọng và ước mơ thời
thế, là cứu cánh giúp con người thoát khỏi cảnh đau thương, mất mát và chết
chóc. Nơi ấy là thế giới rất khác thế giới hiện tại. Ở nơi ấy, con người có thể
thực hiện được ước mơ, khát vọng và có cuộc sống yên bình. Dù ở thời đại nào,
người dân nước Việt cũng thể hiện lòng yêu chuộng hoà bình, đề cao đạo đức,
chính nghĩa, đả phá, phê phán những thế lực vụ lợi, tàn nhẫn đi ngược với lợi
ích chính đáng của con người. Tất cả tinh thần ấy thể hiện rất rõ trong văn học
nước ta kể từ dòng văn học dân gian cho đến văn học viết qua nhiều giai đoạn.
Do sự ràng buộc về lễ giáo nho phong, do sự kìm hãm của chế độ phong kiến
đương thời nên con người cá nhân không thể làm gì khác hơn là phải chọn một
trong ba con đường: hoặc đấu tranh để diệt vong, hoặc biến chất để tồn tại, hoặc
chán ngán đời tìm cuộc sống ẩn dật để giữ mình. Cần phải công nhận sự đóng
góp đáng kể của bốn tác phẩm trong quá trình phát triển thể loại truyền kỳ ở
dòng văn xuôi trung đại Việt Nam. Đặc biệt, một trong những thành công về
phương diện nghệ thuật ở Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thánh Tông di
thảo và Nam Ông mộng lục là đã có mầm mống của sự kết hợp các phương thức
sáng tác trong cùng một thể loại để thể hiện đầy đủ nội dung tác phẩm và tăng
116
thêm phần hứng thú, hấp dẫn cho người đọc. Đây thật sự là những cơ sở làm tiền
đề đáng kể cho sự thành công sau này của Nguyễn Dữ.
3.2. Văn xuôi Việt Nam sau Truyền kỳ mạn lục với những kế thừa và phát huy
3.2.1. Ảnh hưởng của Truyền kỳ mạn lục đối với văn xuôi trung đại
Việt Nam (xuất hiện sau Truyền kỳ mạn lục)
Tiếp nối cho sự thành công của Truyền kỳ mạn lục là các tác phẩm Truyền
kỳ tân phả, Lan Trì kiến văn lục, Vũ trung tuỳ bút, Tang thương ngẫu lục được
ra đời. Mỗi tác phẩm là mỗi thành công mới về cách xây dựng truyện theo thể
loại truyền kỳ.
* Truyền kỳ tân phả (Cuốn phả mới về truyền kỳ), còn có tên gọi khác
là Tục truyền kỳ (Viết nối truyện truyền kỳ). Đây là tác phẩm văn xuôi chữ Hán
có xen thơ, hành và văn tế của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748). Trong Nam
sử tập biên (quyển 5, viết năm 1724) và Gia phả họ Đoàn thì Truyền kỳ tân phả
gồm có ba truyện: Hải khẩu linh từ, Vân Cát thần nữ, An ấp liệt nữ. Còn ba
truyện chưa rõ người viết đó là: Bích câu kỳ ngộ, Long hổ đấu kỳ, Tùng bách
thuyết thoại [12, tr.5]. Ở đây, chúng tôi chỉ tìm hiểu ba truyện đích xác là của
Đoàn Thị Điểm còn những truyện khác xin không bàn đến. Dưới góc độ thể loại,
Truyền kỳ tân phả ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng từ thành tựu về nghệ thuật lẫn
nội dung của TKML. Phan Huy Chú đã nhận xét khi so sánh TKTP với TKML:
“Lời văn hoa lệ, nhưng khí cách yếu ớt, không bằng văn của Nguyễn Dữ”. Ắt
hẳn giữa hai tác phẩm này phải có sự kế thừa và sáng tạo. Đóng góp mới cơ bản
của TKTP về phương diện nội dung là sự nhất quán tư tưởng của tác giả trong
toàn tập truyện: ca ngợi tình yêu, đề cao đạo đức và những tài hoa của người phụ
nữ. Còn về phương diện nghệ thuật thì tác phẩm của nữ sĩ họ Đoàn chưa thực sự
thành công trong việc thể hiện đời sống nội tâm nhân vật bởi chỉ chủ yếu là khắc
họ tài hoa, tài năng thiên phú của nhân vật. Điều này có lẽ do “tác giả nhiều khi
nhẹ về kể chuyện, nặng về phô trương kiến thức” hoặc giả “nữ sĩ muốn đưa vào
tác phẩm tài chơi chữ, tài xướng hoạ thơ văn” [12, tr.24]. Là một tác phẩm
117
thuộc thể loại văn xuôi tự sự nhưng khi trực tiếp đọc tác phẩm, người viết có
cảm nhận đây có lẽ là những giai thoại lịch sử đậm chất thơ. Tuy vậy cũng
không thể phủ nhận tác dụng nghệ thuật của các yếu tố trữ tình xuất hiện trong
tác phẩm bởi những hiệu quả đáng ghi nhận về cách dùng từ, lời văn nghệ thuật.
Những biểu hiện dễ thấy của sự kết hợp giữa phương thức tự sự và trữ tình trong
TKTP là những chi tiết kỳ ảo, những lời thơ, văn tế, giọng điệu trữ tình, hình ảnh
ước lệ tượng trưng cùng cách dùng phép đối đã góp phần làm mượt mà lời của
người kể chuyện. Lời của nàng Nguyễn Cơ trong Hải khẩu linh từ lục (Truyện
đền thiêng ở cửa bể) thật dạt dào cảm xúc, là ngôn ngữ của một người tài hoa và
phong nhã: “Trộm nghĩ, dời củi khỏi bếp tranh, phòng cháy trước khi lửa cháy.
Dùng dâu ràng cửa tổ, phòng mưa trước lúc chưa mưa”. Bên cạnh đó vua Long
Khánh cũng không kém phần văn mặc với những lời lẽ hợp lý hợp tình, nhịp
nhàng giàu tính thuyết phục: “Kẻ sâu mọt bên ấp mọn kia dám gây thù với nước
lớn, hôn mê, ngông cuồng thật là vô lễ. Nước Việt ta đất rộng binh mạnh. Lại há
không san phẳng được đất Đồ Bàn quét sạch hang lỗ của Bồng Nga để rửa mối
nhục đời Thiệu Khánh hay sao?”. Còn đây là bài văn tế thể hiện lòng thương
tiếc cùng với lòng biết ơn của Vua đối với sự hi sinh của Nguyễn Cơ:
“Than ôi hồn chừ! Yểu điệu phong ty”
“Than ôi thương thay! Hồn bỏ trẫm đi”
“Hồn hiu quạnh chừ! Không chốn y qui.
Hồn có thiêng chừ! Cùng trẫm truy tuỳ.
Hồn phảng phất chừ! Giữ nơi biên thuỳ.
Thương thay hồn chừ! Hương chén quỳnh chi!”
Những thán từ “Than ôi…!”, “Thương thay…” thể hiện đầy đủ cảm xúc
thương tiếc, xót xa của người ở lại đối với người đã khuất. Nguyễn Cơ là người
phụ nữ đã vì nghĩa hi sinh khi Đô đốc vùng Nam Hải làm mưa làm gió ở cửa bể
đòi bắt phi tần vì “còn thiếu người nội trợ”. Nàng ngậm ngùi khi nhận ra “cái
nguy sóng gió kia, chứng nghiệm đã báo trước. Nếu không phải là oan khiên
118
ngày trước cũng tất là nghiệp chướng kiếp ngày nay” và thực hiện một nghĩa cử
cao đẹp: “Thiếp không dám tham luyến phồn hoa, tiếc thân bồ liễu, xin trả cho
xong cái nợ trước mắt vậy”. Cái chết oan khiên ấy khiến linh khí không tiêu tan
mà linh ứng báo mộng cho vua Thánh Tông giải trừ nghiệt oan và cuối cùng
báo mộng lần hai: “Nhờ ơn Thánh Hoàng tế độ u hồn, nay thiếp đã đăng tiên,
tiêu dao ở nơi mây trắng vậy.”
Có nhiều truyện mật độ xuất hiện của thơ dày đặt chiếm dung lượng lớn
trong toàn truyện, chẳng hạn Vân Cát thần nữ lục xuất hiện nhiều bài thơ, bài
hát, đặc biệt có cả các câu đối: “Ví với hoa là hoa biết nói, ví với ngọc là ngọc
có hương.”; “Sơn nhân bằng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ lâm phàm; Văn tử đới
trường cân, tất thị học sinh thị trướng”... Những lời thơ dạt dào cảm xúc cũng
xuất hiện trong An ấp liệt nữ lục. Lời thơ của phu nhân họ Nguyễn vừa là lời
tâm sự chân thành, vừa là lời khuyên của người vợ hiểu đạo lý đối với chồng
mình. Qua lời thơ, ta nhận thấy rõ phẩm cách tốt đẹp của người phụ nữ:
“Nhật xuất đoan phi nguyệt xuất quang,
Lương nhân độc tự ỷ tiên sang.
Chu công vị ngộ quan tâm thiết,
Tương thuỷ hà phương khứ lộ trường.
Yến dật thảng vong kim chức nghiệp,
Kê minh nhẫn thính cổ thi chương.
An thuỳ thiêm trích đồng long thuỷ,
Miễn sử tam thần hối quản lang.”
Dịch nghĩa:
“Mặt trời mọc rạng đông rồi,
không phải ánh sáng mặt trăng nữa,
Thế mà lang quân vẫn còn
nằm chễm chệ trên giường thất bảo,
Chồng đã không như Chu công
119
ngồi đợi sáng để lo toan việc nước,
Thiếp đành theo gót Tương phi không quản đường
cùng trẫm mình dưới sông tự vẫn.
Chàng nếu mải yên vui,
nhãng quên chức phận hiện tại,
Thiếp còn lòng nào nghe đọc thơ Kê minh
của người vợ hiền đời cổ,
Ấy ai rỏ thêm giọt nước vào đồng hồ cho đêm thêm dài.
Để cho thiếp khỏi nỗi băn khoăn về lang quân
mỗi buổi sớm hàng ngày.”
Yếu tố kỳ ảo là sự linh ứng của mộng mị. Ranh giới giữa con người và hồn
ma không phân định được rõ ràng. Con người có thể vào thế giới ma quái và
ngược lại hồn ma cũng rất tự nhiên đi lại trong những giấc ngủ của con người để
gặp gỡ, nhắn nhủ hay kết tình. Ba truyện trong TKTP đều xoay quanh thể hiện
khí tiết của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến: họ chung thuỷ, vì
nghĩa vong thân và hơn hết nữa họ là “vũ khí” lợi hại để chế thắng những thế lực
bất nhân, tàn bạo. Đây cũng là giá trị nhân đạo ở tác phẩm của Hồng Hà nữ sĩ.
Sự kết hợp giữa phương thức tự sự và trữ tình đã làm cho cốt truyện uyển
chuyển, mềm mại hơn phù hợp thể hiện tích cách nhân vật và nội dung của toàn
truyện.
* Lan trì kiến văn lục (Chép những truyện thấy và nghe ở Lan Trì) là
một tập truyền kỳ có giá trị, được viết bằng chữ Hán do Vũ Trinh (1759 - 1828)
biên soạn. Tác phẩm bao gồm 45 truyện, nội dung phong phú có những đóng
góp mới cho truyện ký trung đại Việt Nam. Bên cạnh việc ca ngợi sự thuỷ chung
trong tình yêu, nói lên khao khát hạnh phúc lứa đôi, phê phán những kẻ có
quyền có thế nhưng độc ác, còn có sự đả kích sâu cay những con người vô lương
tâm sẵn sàng giết vợ giết con để đạt đến mục đích. Ngoài ra thực trạng rối ren
trong thi cử đương thời cũng được nhắc đến trong tác phẩm. Sự kết hợp của
120
phương thức tự sự và trữ tình biểu hiện rõ nhất ở những lời bàn luận cuối tác
phẩm, và xen lẫn trong cốt truyện là những bài thơ, giọng điệu dạt dào cảm xúc,
nhiều hình ảnh ước lệ gợi cảm. Đọc tác phẩm, có thể cảm nhận hết tác dụng
nghệ thuật của sự kết hợp những yếu tố trữ tình với nội dung cốt truyện. Trong
Tháp báo ân, lời than của “cô gái” khi mắc “chứng phong” thể hiện sự dằn xé
nội tâm cao độ, phần nào bộc lộ tâm trạng đau khổ của nhân vật cũng như nỗi
lòng thương cảm của tác giả đối với số phận và khát khao hạnh phúc của người
phụ nữ bất hạnh: “Đời tàn nhơ bẩn, may được gặp nhau trong bóng tối. Nếu
nhìn nhau lúc sáng trời thì một tối giao hoan đâu mà có được! Ai hay một độ gió
xuân lại tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận đến suốt đời! Hỡi ơi Lưu Lang,
với mặt mũi này mà gặp lại chàng, thiếp chịu đựng sao nổi”. Chiều sâu nội tâm
nhân vật đã được khắc hoạ cụ thể hơn so với những tác phẩm trước đó. Lời của
“cô gái” có nỗi tủi nhục, có niềm hi vọng, có sự oán hận số kiếp trái ngang cũng
có phần tiếc nuối cho tình duyên dang dở. Hay lời của người trần thuật bộc lộ
trực tiếp thái độ của mình khi nhắc đến những người “đoán số xem tướng” ở
đầu truyện Thầy tướng: “Bọn đoán số xem tướng tồi thường chỉ nói dựa để lấy
tiền của những kẻ ngu ngốc thôi. Còn sau đó có đúng hay không, có ai mà đòi
lại được tiền của chúng. Nhưng cũng có trường hợp đúng một cách lạ lùng”. Ở
một số truyện trong LTKVL có phần lời bàn của “Lan Trì Ngư Giả”. Ở phần
này, tập trung thể hiện thái độ, quan điểm, tư tưởng của tác giả đối với việc và
người trong xã hội đương thời. Trong Hổ nhân đức có lời bàn luận như sau: “Hổ
là loài ác thú mà còn biết nghe tiếng van xin ai oán của con người. So với bọn
ngồi ghế cao giữa chốn công đường, róc xương hút tuỷ sinh dân, nghe tiếng kêu
oan thảm thiết dưới nhà thì bỏ ngoài tai, mất hết lương tâm, ắt phải hổ thẹn với
con hổ này. Ước gì có phép thả con hổ này ra, và xin mời những ông quan ấy
vào rọ”. Thật hay, ý tình của tác giả bộc lộ trực tiếp không chút ngại ngùng, vừa
ca ngợi “lòng nhân” của Hổ cũng vừa đay nghiến, lên án những tội ác vô nhân
của tầng lớp thống trị đối với nhân dân. Nguyện vọng thật thống thiết của tác giả
121
là mong muốn nhân dân có được cuộc sống công bằng, yên bình thể hiện qua
cụm từ cảm thán: “ước gì có…”.
* Vũ trung tuỳ bút (Tuỳ theo ngọn bút viết trong khi mưa) là tập truyện
chữ Hán của Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), gồm 90 truyện dài ngắn khác nhau,
thuộc thể loại kí trong dòng văn học Việt Nam nhưng có rất nhiều chi tiết kỳ ảo,
hoang đường (mang dáng dấp của truyện truyền kỳ). Tác phẩm có nhiều giá trị
khác nhau, vừa là tác phẩm văn học mang tính hiện thực cao, vừa là tư liệu đắt
giá cho những công trình học thuật khảo cứu sử học và xã hội học. Ở tác phẩm,
phương thức tự sự và trữ tình kết hợp chặt chẽ. Nội dung được thể hiện sâu sắc
bởi tác giả đã vạch trần bộ mặt xảo trá, ác ôn của bọn thống trị đàng ngoài dưới
thời Lê mạt; tái hiện chân thực cảnh sống cơ cực của nhân dân; phê phán những
đồi phong bại tục của xã hội đương thời; ca ngợi những danh lam thắng cảnh
của đất nước. Tất cả đều được thể hiện bằng lối miêu tả tỉ mỉ, giọng điệu đa
dạng, sử dụng khá nhiều lời cảm thán, nhận xét để bày tỏ tình cảm, thái độ trước
các sự kiện. Ở tác phẩm này, tác giả chủ yếu là kể chuyện về việc, về người
trong thời đại nhất định của lịch sử Việt Nam, tuy nhiên bên cạnh lối trần thuật
(ngôi thứ 3), tác giả còn xen vào đó những lời nhận xét, đánh giá giàu cảm xúc,
bày tỏ rõ quan điểm của mình “Ôi! Nếu trời sinh ra cây ra đá mà làm hết thảy
như hình cầm thú thì tạo vật cũng phải hết nghề, còn có gì đáng thưởng ngoạn
nữa!” (Hoa thảo); “Than ôi! Thói ấy thật đáng thương thay!” (Hôn lễ); “Ôi!
Người con gái của vợ chẳng phải là về hàng con gái của chồng ư?”, “Thế mà
các quan đương sự thấy những kẻ lấy nhau càn bậy như vậy lại điềm nhiên
không hỏi đến, thương luân bại hoá như vậy còn gì tệ hơn. Ta bảo rằng những
kẻ kế phụ mà lấy cả con gái riêng của vợ thì nên lấy cái luật loạn luân mà bắt
tội thật nặng cũng đáng” (Tệ tục); “Ôi! Mẹo lừa ấy cũng tai quái thật! Nhưng
nếu chủ nhà giàu kia không ham mộ quan tân khoa, muốn cho con mình được
làm bà quan, cầu lấy cái phúc mà mình chẳng hề có thì dẫu mẹo lừa tai quái
đến đâu cũng không thể lừa được” (Mẹo lừa)… Bên cạnh đó, trong nhiều truyện
122
cũng có sự đan xen những bài thơ. Cụ thể, trong Nguyễn Nghiêu Minh, nhân vật
“ta” có nhã hứng đọc mấy câu tứ tuyệt để thể hiện cảnh an nhàn, vui thú điền
viên:
“Tựa hiên bảo trẻ chia nòi cúc,
Vốn cách sinh nhai cụ huyện già,
Khen lũ trẻ thơ hay biết ý,
Quanh thềm tưới nước học trồng hoa.”
Nhiều câu đối cũng xuất hiện trong Vũ trung tuỳ bút:
“Nhân dục vô nhai, nhân khởi năng vi thiên tính giả;
Thiên dự hữu hạn, thiên quả tất tong nhân nguyện hồ.”
Hay:
“Trí thuỷ nhân sơn, thích ý nguyện hi quân tử lạc;
Thiên niên quốc lộc, tâm nhàn dưỡng thái bình thân.”
(Y học Trung Hoa)
VTTB của Phạm Đình Hổ là một tác phẩm kí có giá trị, đặc biệt về phương
diện nghệ thuật được Nguyễn Đăng Na đánh giá rất cao: “Đọc tác phẩm của
Phạm Đình Hổ, ta thấy có chiều sâu của người uyên thâm Hán học, có chất
thiệp liệp của người trải đời, có cái ngạo nghễ, hóm hỉnh của bậc hàn nho thanh
bạch, có cái tinh tế của trí thức kinh kỳ biết thưởng thức ăn chơi… Đấy là nét
riêng trong phong cách ký của Phạm Đình Hổ mà các tác giả ký khác không có
được” [41, tr.57].
* Tang thương ngẫu lục (Ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu) là tập ký
bằng chữ Hán mang đậm tính chất truyền kỳ do Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án
soạn khoảng cuối thể kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Tập truyện bao gồm 89 truyện,
được chia làm hai quyển, quyển Thượng có 40 truyện, quyển Hạ có 49 truyện.
Đây là tập truyện có giá trị nhiều mặt, phản ánh xã hội đương thời qua những
câu chuyện hoang đường bởi lẽ cuộc đời đầy biến động, tai ương gieo rắc khắp
nơi, vua hiền tôi trung dường như không còn nữa, cuộc sống nhân dân điêu linh,
123
đầy bất trắc. Con nguời hoang mang, lo âu trước thời đại bao nhiêu thì thể hiện
khát vọng trong thế giới tâm linh bấy nhiêu. Họ gửi gắm tâm sự, niềm u uất vào
thần thánh, ma quỷ. Thế giới tâm linh vừa là nơi mà họ có thể tự do bày tỏ khát
khao, nguyện vọng cũng như thái độ trước thời thế mà không có bất kì ai có thể
áp chế. Con người hoàn toàn tin tưởng chuyện ma quỷ, thần tiên là có thật.
Chính vì vậy, trong TTNgL yếu tố hoang đường, kỳ bí thể hiện hàng loạt, rộng
khắp các truyện. Chẳng hạn như sự ra đời thần kỳ của vua nước Việt được thể
hiện rất rõ trong truyện Thần Tông hoàng đế. Hoàng hậu Trịnh (triều Lê) mang
thai đến kì sinh nở, “lên giường cữ” nhưng chưa sinh được. Vua nằm mộng có
người báo: “Hoàng tử còn ở chợ Báo Thiên, hậu cung đã sinh mau sao được.”.
Nội Giám theo lệnh vua đến chợ Báo Thiên thì gặp một lão già “tuổi chừng 81,
82, đương nằm ở mặt đất mà rên hừ hừ, ngắc ngoải chờ chết”. Nội giám về tâu
vua và bèn chạy ra lần hai thì thấy lão già đã chết, đương khi ấy ở hậu cung
“hoàng hậu sinh thế tử”. Những suy ngẫm về thuyết tiền thân, hậu thân được
tác giả bày tỏ ở cuối truyện: “Quả có chuyện ấy thật thì tiền thân vua Lý Thần
Tông là thầy tu Từ Đạo Hạnh, hậu thân là lão già ở chợ Báo Thiên, lại hậu thân
là vua Thần Tông triều Lê; một ông sư, một lão ăn mày, tái sinh vào bậc đế
vương, khiến người không thể hiểu nổi”. Điềm báo và sự ứng nghiệm “quốc
biến” cũng được thể hiện qua hiện tượng “có vật gì mọc lên ở hòn đảo, giữa hồ
Hoàn Kiếm, sáng rực bốn bề, bay sang đến bờ nam thì tắt. Sóng hồ cuộn lên
(…), tôm cá nổi lên mặt hồ không biết bao nhiêu mà kể” trong truyện Hồ Gươm.
Trần Văn Vỹ trong truyện Ma Đồng Xuân nằm mộng thấy hồn ma nữ đến bảo:
“Nhà Lê Sắp mất, ông cũng thi không đỗ, đừng đọc sách để nạt tôi nữa” và
đúng như lời trong mộng “Năm ấy, ông Trần đi thi không đỗ. Chưa bao lâu, xảy
ra quốc biến”.
Những sự kiện mang tính chất kỳ ảo xuất hiện rất nhiều trong tác phẩm.
Sự mang thai kỳ lạ của “người con gái” kéo theo là sự ra đời của nhân vật xuất
chúng phi thường trong Núi Đông liệt: “Trong núi có bàn cờ đá, cạnh bàn cờ,
124
có nốt bàn chân, to hơn chân người thường. Có người con gái dẫm chân vào
đấy, bụng thấy cảm động, rồi có mang, sinh ra một đứa con gái”. Điều kỳ lạ
hơn, đứa con gái ấy “lọt lòng đã biết nói, biết quá khứ và vị lai”. Cách xây dựng
nhân vật, cách xây dựng cốt truyện cũng có nhiều điểm khá giống tác phẩm của
Nguyễn Dữ. Chẳng hạn nhân vật Mỗ trong Sông Độc chính trực không sợ gian
tà, tận tâm tiêu diệt con rắn độc trừ hại cho nhân dân hay hình tượng người phụ
nữ tiết trinh, tài hoa như: Đoàn phu nhân (Liệt phụ Đoàn phu nhân), Đoàn Thị
Điểm (Bà vợ thứ ông Nguyễn Kiều)…
Nhìn chung từ những điều phân tích trên, có thể nhận định: Truyền kỳ tân
phả của Đoàn Thị Điểm, Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh, Vũ Trung tuỳ bút
của Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án là
những tác phẩm tự sự có giá trị, tiếp nối quan điểm, lối viết tiến bộ của Nguyễn
Dữ. Đó là những môtip truyện rất quen thuộc như người trung liệt cương chính
được người dân tôn trọng, khi chết đã “hoá thần” ngàn năm được thờ phụng,
người kết duyên với tinh vật, hay sự thụ thai kỳ quái, những liệt nữ với phẩm
chất cao quý; những kết thúc có hậu phù hợp với suy nghĩ, ước vọng của nhân
dân... Việc sử dụng nhiều chi tiết hoang đường, kỳ ảo như là yếu tố nghệ thuật
bổ trợ cho việc xây dựng cốt truyện vừa làm sinh động cho đặc trưng của thể
loại lại vừa thể hiện sâu sắc ngụ ý của tác giả trong sáng tác. Những truyện có
các sự kiện thật, người thật cũng được “phủ” lên một “diện mạo” thần kỳ, quái
đản, hoang đường. Những con vật hoá kiếp thành người, những con người khát
khao hạnh phúc khi chết hoá thành những cô hồn ngạ quỷ tìm về kết nối duyên
xưa để thoả khát vọng ân ái nhục thể, những cái chết oan đeo bám hại chết
người… Rõ ràng, trong dòng truyện, ký mang nhiều yếu tố kỳ ảo, hoang đường
luôn có sự kế thừa giữa tác phẩm ra đời sau đối với tác phẩm trước đó. Sự kết
hợp hai phương thức tự sự và trữ tình ở những tác phẩm xuất hiện trước Truyền
kỳ mạn lục chỉ là sự ngẫu hứng, tản mạn chứ chưa thật sự sâu sắc trong tác
phẩm. Và đó chính là cơ sở vững chắc làm tiền đề cho tác phẩm của Nguyễn Dữ
125
ra đời ở thế kỉ XVI. Đến Truyền kỳ mạn lục, sự kết hợp giữa phương thức tự sự
và trữ tình mới thực sự nhuần nhuyễn và đạt hiệu quả nghệ thuật cao. Những
truyện, ký ra đời sau đó ít nhiều đều cho thấy ảnh hưởng không nhỏ của Truyền
kỳ mạn lục bên cạnh sự xuất hiện những cái mới phù hợp với yêu cầu thời đại.
3.2.2. Vấn đề ảnh hưởng của Truyền kỳ mạn lục đối với văn xuôi hiện
đại Việt Nam
3.2.2.1. Đối với văn xuôi hiện đại giai đoạn 1930 đến 1945
Giai đoạn 1930 đến 1945 là giai đoạn văn học phát triển theo khuynh
hướng lãng mạn. Tuy từ văn xuôi đến thơ ca đã có những cách tân lớn từ đề tài,
nội dung – tư tưởng đến bút háp nghệ thuật do ảnh hưởng văn hoá – văn học
phương Tây nhưng trong một số tác phẩm vẫn còn vương vấn ít nhiều không khí
và cảm hứng trung đại. Tư duy thần linh chủ nghĩa đã ăn sâu vào tâm tưởng của
người nước ta. Vẫn còn tồn tại niềm tin vào sức mạnh của thần linh, niềm tin ma
quỷ là có thật và ma quỷ vẫn hiện hữu đây đó trong cuộc sống của con người.
Đương nhiên, những yếu tố hoang đường trong văn học giai đoạn này cũng có
sự cách tân so với dòng văn học trước đó. Ngoài việc thể hiện lòng tin vào thế
giới siêu nhiên, tác giả hiện đại còn gửi gắm vào trong nó sự hoang mang, khó
lý giải về một số hiện tượng của cuộc sống trước biến động của xã hội đương
thời. Và tất cả những điều đó được thể hiện ở các tác phẩm tiểu thuyết, truyện
ngắn hiện đại giai đoạn 1930 đến 1945. Tiêu biểu là Hồn bướm mơ tiên của
Khái Hưng và Ai hát giữa rừng khuya của Tchya.
* Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng, tác phẩm gồm 11 chương, thể hiện
một chuyện tình lãng mạn nhưng không kém phần dau khổ bởi sự dằn xé nội
tâm giữa khát vọng hạnh phúc với lòng mộ đạo trong tâm trí một đệ tử xuất gia.
Khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa được thể hiện từ cách xây dựng cốt truyện,
nhân vật, sự kiện. Kèm theo đó là những chi tiết lạ kỳ, ngôn ngữ trau chuốt, đa
giọng điệu, ngay tên tác phẩm cũng thể hiện một không gian hư hư ảo ảo: Hồn
bướm mơ tiên. Tất cả đã làm nên thành công cho tiểu thuyết đầu tay này của
126
Khái Hưng. Tác phẩm là một câu chuyện tình buồn, lãng mạn nhưng rất thanh
cao giữa ni sư Lan và chàng trai Ngọc. Tình yêu với Ngọc đã xuất hiện trong trái
tim “chú tiểu Lan”, và tình yêu ấy âm thầm dằn vặt trái tim và tâm hồn Lan mỗi
khắc mỗi giờ. Cô đau khổ tột cùng khi phải đấu tranh trong suy nghĩ giữa tình
yêu trần thế với tình yêu nhân loại, giữa đường tình và đường đạo. Xây dựng
nhân vật, tác giả ít khắc hoạ ngoại hình mà chủ yếu là miêu tả những diễn biến
nội tâm tinh tế. Lời cầu nguyện của Lan với Phật tổ thật cảm động lòng người:
“… phù hộ cho đệ tử… có đủ nghị lực… xa lánh trầm luân… đệ tử đã giốc lòng
tin mộ đạo, không ngờ nay mới biết lòng trần tục vẫn chưa giũ sạch. Nhưng đệ
tử xin thể trước Đức Từ Bi”. Tâm khảm của Lan lúc nào cũng xót xa với ý nghĩ:
“Ta rất có tội với đức Phật tổ”. Một niềm tin vào Đạo chân thành và sâu sắc
nhưng càng mộ đạo bao nhiêu thì nỗi đau trong Lan càng thấm thía bấy nhiêu.
Khi Ngọc nói lời thương nhớ, Lan đau xót ngăn lời Ngọc nhưng cũng chính là
ngăn lòng mình: “Không bao giờ thế được… Thôi ông đừng nói nữa, mỗi lời nói
của ông như đốt như xé ruột kẻ tu hành này, ông nên về đi”. Bút pháp miêu tả
thật thơ mộng, mượt mà, giàu chất thơ khi tác giả phác hoạ nên bức tranh tình
yêu trong một không gian, thời gian nghệ thuật trữ tình. Giọng kể ở đây cũng dạt
dào cảm xúc: “Hai người nhìn nhau, bóng trăng khuyết rọi đầu cành… giòng
sông thấp thoáng dưới bóng trăng như một giải lụa trắng… rồi lẫn với sương
mù”. Không gian rộng mênh mông với bóng trăng khuyết và dòng sông thấp
thoáng rất hữu tình nhưng cũng chứa đầy sự tan thương vụn vỡ. Cảnh vật thực
trong đêm trăng như chìm lắng vào cõi xa xăm, hư ảo, tất cả người, cả cảnh rồi
thì cũng “lẫn với sương mù”,“Lúc hai người ở con đường hẻm đi ra, thì mặt
trời đã khuất sau đồi. Gió chiều hây hẩy đã mát, mùa lúa chín bốc lên thơm
phức, khiến Ngọc ngắm cảnh nơi thôn dã êm đềm, trong lòng xiết bao tình
cảm”, “Ngoài sân ánh trăng chiếu lờ mờ, rặng tường hoa lồng bóng xuống lối
đi lát gạch, mấy cây đại không lá ẻo lả, uốn thân trong vườn sân um tươi. Vạn
vật có vẻ dịu dàng như muôn màu thiền êm đềm tịch mịch”…
127
Nhưng chuyện tình yêu dù đẹp đến đâu, thơ mộng đến đâu rồi bỗng chốc
cũng tan biến theo cõi hư vô! Những chi tiết kỳ lạ được gửi trong tác phẩm là
câu chuyện chú tiểu Lan kể cho Ngọc nghe về nguồn gốc chùa Long Giáng:
“Ngọc Hoàng thượng đế muốn giúp nhà vua tỉnh ngộ, liền cho một nàng tiên
nga giáng thế đầu thai, tức là Văn Khôi công chúa (…) Sau vì nhà vua cố ý kén
phò mã, công chúa liền đương đêm lẻn bước trốn đi, nhờ cá các thần tiên đưa
đường tới nơi này xin thụ pháp đức Cao Huyền hoà thượng”, “Nhà vua nổi
giận” ra lệnh đốt chùa “bổng một con rồng vàng hiện lên phun nước tắt ngay”.
Còn câu chuyện Ngọc bịa ra để dò xét tình ý của chú tiểu Lan nghe cũng thật
hoang đường, kỳ lạ: Ngọc nằm mơ thấy cùng đi với một nhà sư trẻ trên con
đường quanh co, cây cối um tùm, một lúc tới cảnh bồng lai… thế rồi, nhà sư trẻ
biến thành một giai nhân, người con gái ấy lại là chú Lan. Cốt truyện được mở
đầu là một khung cảnh vui nhộn, nên thơ bởi những cảnh gặt lúa cùng những lời
trêu ghẹo bằng bài hát ví của các cô gái với Ngọc:
“Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài nhời
Đi đâu vội mấy anh ôi?
Công việc đã có chị tôi ở nhà.”
“Anh về kẻo tối anh ơi,
Kẻo bác mẹ mắng rằng tôi dỗ dành.”
Nhưng kết thúc truyện thật buồn, thật bi ai. Kết thúc mối tình trần thế của
đôi trai gái là sự tan vỡ nhường lại sự trường tồn cho tình yêu bác ái của kiếp tu
hành. Ngọc và Lan yêu nhau nhưng không đến được với nhau và họ chấp nhận
“yêu trong tư tưởng”. Một kết thúc chuyện tình yêu không có hậu nhưng tình
mộ đạo lại rất đẹp, bởi lẽ giống như Lan từng nghĩ: “Tôi không có gia đình nữa.
Đại gia đình của tôi nay là nhân loại, là vũ trụ, mà tiểu gia đình tôi là… hai linh
hồn đôi ta, ẩn núp dưới bóng từ bi Phật tổ”. Rõ ràng niềm tin vào Đạo đã ăn sâu
vào tư tưởng của con người Lan. Tin Đạo, theo Đạo thì con người mới được
128
thanh nhàn, giải thoát. Quả thật là một chuyện tình buồn nhưng rất đẹp, chỉ có
thể tồn tại ở những con người theo chân Phật tổ như Lan. Tình yêu cá nhân đạt
dưới tình bác ái đối với nhân loại: “Trên đời chỉ có lòng bác ái mới là đáng kể”.
* Ai hát giữa rừng khuya của Tchya (Đái Đức Tuấn) có tất cả 13
chương, mỗi chương là một nhan đề mang đậm chất ma quái: “Ma không đầu”,
“Xác ma cười”; “Ma rừng”… Truyện là một bí mật về tiếng hát vang giữa
khuya ở rừng Hạt Đông Giao. Nhân vật kể chuyện là “Tôi” được tường tận mắt
thấy “hai hồn ma không đầu” thi thố võ nghệ tại chân làng Gôi, chính “Tôi” đã
nghe thấy cụ Móm và cụ Trần Công Chất kể lại cuộc đời bi thảm của “những
ai” có tiếng hát giữa rừng khuya. Tấn bi kịch về năm số phận, năm con người
bất hạnh. Hai anh em Lê Mạnh Khôi và Lê Trọng Việt võ nghệ cao cường vì “bị
tình nghi, phải bắt giải lên Tỉnh lỵ” và phải “nhận án tử tại làng Gôi”. Vì chết
oan nên hai bóng ma không đầu thường ở chân làng thi thố tài năng võ nghệ.
Anh chị của Oanh Cơ đã gặp nạn bị Hổ vồ chết tại rừng tại Hạt Đồng Giao vì tài
ca hát rất hay. Số phận Oanh Cơ cũng được định từ đó phải chết vì Hổ tha. Ba
linh hồn chết oan không được siêu sinh tịnh độ nên mỗi lúc đêm về người Hạt
Đồng Giao vẫn nghe thấy tiếng hát oai oán đến lạnh người: “Từ ngày nàng bị
Hổ tha vào rừng, thì cứ những đêm mưa gió bấc, những đêm u ám không trăng,
trên quãng đèo Ô Quý Hồ lại văng vẳng có giọng đờn ca não nuột, ai bạo gan
xông xáo trong đêm khuya rừng vắng, thì thấy ba cái bóng ma ngồi đàn hát cho
một con cọp lớn ngồi nghe”. Thực rõ, trong tác phẩm này ít nhiều đã kế thừa và
được gợi hứng từ nghệ thuật xây dựng truyện ở Truyền kỳ mạn lục.
Trước tiên là ở cốt truyện: mặc dù có sự cách tân đáng kể trong cốt truyện
“truyện lồng truyện” nhưng cốt yếu của truyện vẫn là số phận của những con
người bất hạnh, tiêu biểu là Oanh Cơ và Trọng Việt. Họ gặp gỡ, kết duyên và
cuối cùng là sự huỷ diệt. Các chuỗi sự kiện diễn ra mang nặng không khí ma
quái của người chết, ma quỷ đeo bám, ám ảnh và xúi giục con người lương thiện
đến chỗ chết. Trải qua bao gian truân khổ ải, những con người thiện lương chết
129
oan ức, tức tửi biến thành những cô hồn ngạ quỷ vất vưởng “hai oan hồn oan ức
của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày không tiêu đi được nên tụ lại thành bóng, hấp
thụ mãi khí thiêng của trời đất”. Những oan hồn đó là những kẻ “bị thác lại là
người mệnh bạc, vì nghiệp chướng mà chết oan, chết yểu”. Họ đã chết rất lâu
nhưng vẫn chưa giải thoát “Nhiều khi linh hồn còn muốn sống thêm nữa trên cõi
trần thế, bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn vẫy vùng nữa”, họ“vẩn quanh
bên mình ta, chỉ đợi có dịp là tất cả trở về sống chung với ta, dẫu rằng trong
một phút.”. Cốt truyện có nhiều chi tiết kỳ ảo, tưởng tượng hết sức hoang
đường. Nhiều giả thuyết xung quanh tiếng hát giữa rừng khuya. Có người cho
rẳng: “đó là một thứ hồ ly lạc mãi từ bên Tàu đi lầm đường núi thẳm qua Vân
Nam sang tới xứ Lào rồi lần mò tới Đồng Giao thì không đi nữa, vì tìm được địa
thế hợp với nó”. Người khác lại cho rằng: “con quái vật ấy trong hang đá nứt
mà chui ra, trước là con vượn trắng, rùng mình một cái biến ngay ra cô gái rõ
đẹp, vô phúc ai gặp phải thì nó quyến rũ đưa vào hang, đàn bà nó không thèm
bắt, nhưng đàn ông thì túm ngay làm chồng. Kẻ nào đi lại cùng nó, nó rút hết
xương tuỷ, trong ba ngày phải chết”. Chính vì những điều bí ẩn đó mà khiến
“Tôi” đi tìm sự thật về câu chuyện huyền bí ấy. Cuối cùng thì “bí mật” cũng
được“vén màn”: đó là hồn phách của năm con người chết oan, tủi hờn, không
được siêu thoát.
Cách xây dựng nhân vật: Hai tuyến nhân vật rất rõ trong truyện là phe
thiện và phe ác, mâu thuẫn đấu tranh kịch liệt. Đại diện cho phe ác là Nguyễn
Quán, kẻ cầm đầu quân cướp, là một ác nhân, sẵn sàng vì lòng thù hận cá nhân
mà hãm hại người hiền. Thầy Thông ỷ quyền cậy thế “phó nhậm ở Phong Thổ”,
xem mạng người như cỏ rác, “kế độc mưu sâu”, đã gieo biết bao tai hoạ cho con
người lương thiện: “bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu nhân vật điêu linh,
thế mà không tỏ vẻ gì hối hận cả lại còn đắc ý là đằng khác”, chỉ vì ham mê sắc
tài của Oanh Cơ mà trực tiếp hại chết chồng và anh chồng của nàng, bắt nàng
làm vợ “Sở dĩ tôi yêu mợ quá”, “tôi có nói thêm vào nên họ mới bị xử trảm”.
130
Con Hổ vì muốn được nghe tiếng đàn tuyệt kỷ của ba anh em Oanh Cơ nên quật
chết Quản Văn và Huyền Cơ và tra tấn hai hồn ma ấy để tìm tung tích Oanh Cơ
mà bắt về. Hổ dồn ép và quyết tha Oanh Cơ vào rừng thẳm. Hình tượng các
nhân vật này có nhiều điểm giống quan trụ quốc họ Thân, Trần Khát Chân, Lý
Hữu Chi trong Truyền kỳ mạn lục. Mẫu nhân vật “hồn ma bóng quế” kết thành
bầy lũ để dặm doạ con người. Chính chúng đã đeo bám ám hại Trọng Việt nhiều
lần. Hai con ma rừng nói với Mạnh Khôi và Trọng Việt khi chúng bị anh em của
họ trừ khử: “yêu chưa thoả, sống, anh không muốn làm chồng em, chết, rồi anh
sẽ làm chồng em, anh nghe chưa”. Đúng như lời hai con ma nữ đó nói, cả hai
anh em đều chết thảm thương, oan ức và trở thành hai con “ma không đầu”.
Nhân vật và chi tiết này gợi nhớ đến “lũ quỷ” và hồn ma Nhị Khanh trong
Truyền kỳ mạn lục. Tất cả những nhân vật ấy đại diện cho bọn ác ôn, gây thảm
hoạ cho con người trên cuộc sống dương gian.
Đại diện cho phe thiện là Lê Trọng Việt, người cương trực không sợ ma
quỷ, không sợ cường quyền, dù khi biết án tử, bị đưa ra pháp trường nhưng
Trọng Việt vẫn bình tĩnh không hề khiếp sợ, ngược lại còn khuyên vợ quay về
và tái giá. Quả thật là một người quân tử! “Em khá mau về đi, đừng ở chốn rơi
thịt đổ máu này làm gì! Ngày nay anh sở dĩ đương tuổi thanh niên mà bỏ vợ con,
chịu bất đắc kỳ tử một cách thảm thiết thế này chẳng qua vì tiền oan nghiệp trái
đó mà thôi…”, “một mai anh chết rồi em nên quên hẳn anh đi, chọn lấy một kẻ
xứng đáng trao thân gửi phận…”, “Thôi, anh nói thế đủ rồi, em đứng dậy đi về
đừng bịn rịn dùng dằng nữa”. Ở nhân vật Trọng Việt ta thấy dáng dấp Văn Dĩ
Thành, Ngô Tử Văn trong Truyền kỳ mạn lục, một người không sợ ma quỷ,
ngược lại còn áp chế chúng. Lời van xin của lũ “ma rừng” khi Trọng Việt
khống chế, tiêu diệt chúng rất rõ cho sự cương trực này: “Ông Trọng Việt Ơi!
Ông ác làm chi, ông tắt đèn đi! Chúng tôi biết lỗi rồi, chịu phục ông rồi. Ông
cứu cho lần này, lần sau không bao giờ dám phá ông nữa… Riêng hai đứa tôi,
chúng tôi sẽ đội ơn ông và phù hộ cho ông”.
131
Nàng Oanh Cơ trong truyện là người đẹp người lại đẹp nết, tư phong trang
nhã lại có tài hát xướng, chung thuỷ, nàng cũng từng nghĩ khi chồng chết:
“Người không thể một đời yêu đến hai lần”. Số phận lao đao, bạc mệnh có phần
rất giống các nhân vật nữ tài sắc vẹn toàn nhưng bất hạnh, đoản mệnh như Lệ
Nương, Vũ Thị Thiết trong tác phẩm của Nguyễn Dữ. Nhân vật “ông già” trong
truyện có phần giống với “đạo nhân” trong Truyền kỳ mạn lục. Lão xuất hiện và
chỉ cách cho anh em Trọng Việt “đào mồ, bỏ bùa” giúp trừ khử tà yêu mà
không nhận tiền, không nhận báo đáp.
Quan điểm, tư tưởng: Niềm tin vào luật nhân quả, báo ứng cũng được thể
hiện rõ trong Ai hát giữa rừng khuya, đây là điểm “rất gần” với Truyền kỳ mạn
lục. Lê Trọng Việt cam chịu với số phận oan khiên bởi lẽ chàng tin vào quy luật
“thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”. Câu nói trăn trối của chàng với Oanh Cơ
trước lúc xử trảm đã chứng minh điều đó “chẳng qua là vì tiền oan nghiệp trái
mà thôi, có cưỡng cũng vô ích. Thân phụ chúng ta, xưa xông pha trong vòng
khói lửa, chém giết tàn sát cũng nhiều, các oan hồn bởi thế mới theo dõi dòng
họ nhà ta mà trả thù, báo oán”. Nhân vật kể chuyện “Tôi” tin tưởng chuyện ma
quỷ là có thật. Ngay từ đầu tác phẩm, “Tôi” đã khẳng định: “ta chỉ biết bởi cớ
có nhiều âm hồn còn muốn sống nữa nên khi có xảy ra những chuyện kỳ dị mà,
nếu mắt ta chịu khó bỏ hết các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm xem xét đôi chút
đến nhẽ huyền vi của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không có sự gì là
hoang đường cả. Trên đời này chỉ hoàn toàn có sự thật mà thôi, cái gì có thể
xảy ra được đều là sự thật cả”. Quan điểm này cũng khá gần với Nguyễn Dữ ở
lời bàn luận “không nên lấy cớ huyễn thuật mà cho là chuyện nhảm”.
Nhìn chung yếu tố kỳ ảo đan lồng trong cốt truyện, yếu tố ấy trải dài theo
mạch kể, theo từng sự kiện, từng hành động, lời nói của nhân vật. Không khó
nhận ra những điểm tương đồng giữa Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng, Tiếng
ai hát giữa rừng khuya của Đái Đức Tuấn với Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ. Với hình thức văn xuôi tự sự, một số tiểu thuyết giai đoạn này phảng phất
132
nhiều bóng dáng của truyện xưa bởi cách xây dựng cốt truyện, nhân vật và cả sự
kiện. Đầy rẫy những yếu tố hoang đường, kỳ ảo. Mỗi tác phẩm là mỗi nét độc
đáo của tác giả nhưng nhìn chung các tác phẩm vẫn tồn tại tư tưởng tâm linh, tin
vào thế giới siêu nhiên của con người.
3.2.2.2. Đối với văn xuôi hiện đại sau 1975 đến nay
Sau năm 1975, đời sống văn học có rất nhiều thay đổi, đặc biệt từ năm
1986 trở đi. Ở giai đoạn này văn học hiện đại chuyển sang một khuynh hướng
mới. Tác động của các phong trào sáng tác theo khuynh hướng chủ nghĩa hiện
thực huyền ảo của thế giới cũng chi phối ít nhiều đến nền văn học nước ta trong
giai đoạn này. Phong trào nở rộ với các tác giả tên tuổi: Nguyễn Thị Ấm, Tạ
Duy Anh, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Đại Ban…
Như chúng ta đã biết yếu tố kỳ ảo đã xuất hiện trong nền văn học nước ta từ rất
lâu, tuy nhiên ở thời trung đại, nó là một yếu tố nghệ thuật biểu hiện cho tín
ngưỡng tâm linh, cho một niềm tin tuyệt đối của con người vào các thế lực siêu
nhiên. Còn ở đây, nó đóng vai trò là một thủ pháp nghệ thuật, là một phương
pháp sáng tác theo khuynh hướng siêu nhiên, huyền ảo nhằm mục đích thể hiện
sự khát khao, trăn trở của con người trong quá trình đi tìm chân lí của cuộc sống
nhân sinh hoặc truyền tải một thông điệp về cuộc sống từ góc nhìn, quan niệm
riêng của tác giả. Với cuộc sống thực tại nhiều bộn bề lo toan, con người càng
có nhu cầu hướng đến một thế giới chân - thiện - mỹ, đi sâu khám phá đời sống
tâm linh của con người và những mặt trái của nó. Qua yếu tố kỳ ảo, hoang
đường, nhà văn muốn gửi gắm tiếng chuông cảnh tỉnh tinh thần và ý thức của
con người về sự suy đồi những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Yếu tố
kỳ ảo của văn học giai đoạn này (đặc biệt là tiểu thuyết và truyện ngắn) không
còn biểu thị niềm tin tuyệt đối vào đấng siêu nhiên cứu rỗi linh hồn của con
người, mà là yếu tố nghệ thuật thể hiện tình cảnh tha hoá đạo đức và thái độ
hoang mang của con người trước cuộc sống ngổn ngang, rối rắm. Yếu tố kỳ ảo,
133
hoang đường được thể hiện dưới nhiều hình thức, xin dẫn một số tác phẩm tiêu
biểu:
Trước nhất là Giấc ngủ nơi trần thế của Nguyễn Thị Ấm. Tác phẩm là bức
tranh xã hội nhiễu nhương, đạo đức con người bị tha hoá trầm trọng “Những
người kiếm sống vừa lương thiện vừa bất lương”, “Những người này thường mê
cờ bạc. Đàn ông thì ba cây, tổ tôm, xốc đĩa… Đàn bà đánh tam cúc. Giấc mơ
của những canh bạc thường lớn hơn giấc mơ nơi cuộc đời”. Chính vì thú vui
“tam cúc” và cách “kiếm tiền” bằng nghề bất chính mà “người đàn bà mặt rỗ”
đã nhẫn tâm đưa “một đứa trẻ cởi truồng mặc một cái áo xỉn màu, khoảng một
tuổi đương ngủ” cho cô gái cùng với một viên thuốc ngủ, cô gá kiếm tiền bằng
cách bế nó đi khắp nơi phố chợ để lợi dụng lòng thương hại của người khác. Vì
đồng tiền, vì lòng ích kỷ nên cô gái đã gián tiếp hại chết đứa bé vô tội. Cô “sợ
muộn” giờ về mà đang tâm làm ngơ trước một đứa trẻ trong tình cảnh “Thằng
bé bắt đầu tỉnh. Lần này nó quá mệt vì đói và ngấm thuốc ngủ. Nó mở mắt thao
láo nhìn cô”. Con người ở đây lạnh lùng, vô cảm trước cảnh tình của đứa trẻ.
Đứa bé đã chết, sau một ngày “uống thuốc”, “dầm mưa” để kiếm tiền về cho
mẹ. Hình ảnh thật đau lòng “Thằng bé thõng thượt. Nó đã chết. Người nó xám
đen”. Nỗi đau số phận của một đứa trẻ thơ ngây được thể hiện qua chi tiết kỳ ảo
xuất hiện ở cuối tác phẩm như lời cảnh tỉnh những con người vô lương và cũng
là lời kêu thống thiết của những đứa trẻ con “có giấc ngủ nơi trần thế” này:
“Con chim xanh lúc nãy chính là linh hồn của thằng bé. Những linh hồn đau
khổ nơi trần thế thường được lên thiên đàng. Thằng bé lên tới thiên đàng kể với
bạn nó rằng: Hơn một năm nó sống dưới trần gian, nó toàn được ngủ. Giấc ngủ
liên miên nơi trần thế…”
Hồn trinh nữ của Võ Thị Hảo cũng là tác phẩm tiêu biểu cho lời lên án,
phê phán sự tàn nhẫn vô nhân đạo của con người. Một võ quan trẻ vì danh lợi,
tiền tài mà tiếp tay xử tử những người do vua bí mật chỉ định. Nhiều người vô
tội chết oan vì thói bất nhân của Vua và người võ sĩ này. Trong số những người
134
bất hạnh ấy có người bạn thân cùng đồng cam cộng khổ với anh ở chiến trường.
Chỉ vì người ấy mắt kém nên vô tình dâng lên cho vua một trái đào bị sâu và
cũng vì vậy anh ta đã bị vua gán cho cái tội khi quân và bí mật xử tử. Người võ
sĩ trẻ “lập công” được vua ban đai vàng, ngà ngọc. Trong đêm tân hôn của
chàng võ sĩ, hồn của một người phụ nữ trẻ hiện về. Đó là linh hồn của vợ người
bạn mà anh đã giết, nàng tự tử chết theo chồng, giờ oan ức tìm đến đòi chàng võ
sĩ trả mạng: “Hãy trả chồng cho ta, kẻ giết bạn kia, trước khi mi vào giường
cưới”. Kết thúc truyện là người vợ từ chối ăn nằm, chàng ta giận dữ gào thét lên
và bỏ đi biệt xứ. Người trinh nữ còn lại nỗi cô đơn, sống âm thầm như một cái
bóng “hễ nghe có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt”, với
tâm trạng lo sợ “em sợ người ta sẽ lại gửi đến cho em đôi bàn tay đầy máu và
gương mặt người yêu xưa chẳng biết cười” và nàng đã chết trong nỗi buồn tuyệt
vọng, trên mộ nàng mọc lên loại cây “nở những nụ hoa tròn tròn màu tím buồn
man mác”. Quy luật nhân quả thể hiện khá rõ trong tác phẩm “gieo nhân gặt
quả”. Rõ thật “nụ cười” của người võ sĩ là một nụ cười đẫm máu, đau thương
và chết chóc. Nguyên nhân chính là do ác tâm gây ra “khi người ta cười, chính
đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau (…) mà đôi mắt muốn cười trước hết
trong lòng phải cười đã”, trong lòng chàng ta biết bao nhiêu là sự than khóc
thảm thiết, bao nhiêu tiếng gọi ai oán của các oan hồn bất hạnh cho nên nụ cười
ấy “dữ dằn, đe doạ như một con sói”. Tâm trạng của nhân vật cũng được thể
hiện qua lối suy nghĩ, ngôn ngữ và hành động.
Trong Điếu cày của Phạm Hải Vân, yếu tố kỳ ảo xuất hiện nhằm vạch rõ và
lên án thói nghiện ngập, đam mê cuồng nhiệt “thuốc lào” thái quá dẫn đến bệnh
hoạn của thanh thiếu niên Hà Nội, tiêu biểu là nhân vật Đặng Vi Yên. Hình
tượng “cô gái” tượng trưng cho thói đam mê nghiện ngập, đó là ma quỷ đeo ám
hại chết con người. Càng say mê nó thì con người càng lâm vào tình trạng bệnh
hoạn ngày càng trầm trọng, nguy cấp: “cổ họng đau lại, tức ngực khó thở”, “tự
mình thấy xuống sức” từ “điếu cày”. Sự thức tỉnh của Yên cuối tác phẩm là hồi
135
chuông cảnh tỉnh của tác giả đối với những “con nghiện”. Một lần“Yên đâm
ngờ, bèn ra chiều lả lơi, bất chợt đưa tay rờ, lạnh người vì thấy dưới lớp vải chỉ
là một lỗ hổng lớn. Bị lộ, nàng vùng ra chạy toan, Yên lôi lại xem cho rõ, bỗng
thấy tay tóm vào khoảng không, mất đà suýt ngã người con gái biến mất”. Từ
đó, Yên không hút thuốc lào nữa mà “chỉ nghe đến tiếng rít điếu cày” thì “đã
bủn rủn chân tay”.
Những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đầy rẫy những chi tiết huyền ảo.
Những bí ẩn của cuộc sống được thể hiện rất rõ trong Chảy đi sông ơi, Con gái
thuỷ thần… Truyền thuyết huyễn hoặc về con trâu đen thường xuất hiện vào
nửa đêm trên dòng sông “Toàn thân bóng nhẫy, đôi sừng cao vút, mõm thở phì
phì, con trâu phi trên mặt nước như phi trên cạn. Con trâu phì bọt, nước dãi của
nó tựa như trứng cá. Nếu ai may mắn hóp được bọt ấy sẽ có sức lực phi thường,
bơi lặn dưới nước giỏi như tôm cá” (Chảy đi sông ơi). Tác phẩm Con gái thuỷ
thần được mở ra từ một truyền thuyết “Trận bãi ấy, ở bãi Nổi trên sông Cái, sét
đánh cụt ngọn cây muỗm đại thụ”, “có đôi giao long cuốn chặt lấy nhau vẫy
vùng làm đục cả một khúc sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây muỗm, có một đứa bé
mới sinh đang nằm”. Đứa bé ấy chính là “con thuỷ thần” để lại và người dân
thường gọi đó là “Mẹ Cả”. Câu chuyện về “con trâu đen”, “Mẹ Cả” đã là đích
khám phá, là mục tiêu duy nhất cho nhân vật “tôi” đi tìm suốt quảng đời. Một
hành trình vật vã tìm kiếm sự thật được kết thúc ở sự hoang mang tột độ của
“tôi” trước những biến động của cuộc sống. Và đó cũng là những mạch cảm
xúc, suy tư của tác giả trước cuộc đời. Thế giới này kỳ bí, vô tận và theo đó là
niềm khát khao muốn tìm ra bản chất, chân lý cuộc sống của con người. Càng đi
tìm con người càng cảm thấy bản thân bất lực trước những bí ẩn của thế giới
siêu nhiên.
Nhìn chung, những tác phẩm văn xuôi Việt Nam sau 1975 có sử dụng
nhiều yếu tố kỳ ảo, hoang đường. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong sáng tác
văn học phương Tây đã và đang ảnh hưởng sâu vào tư tưởng nghệ thuật cũng
136
như phong cách sáng tác của các tác giả đương thời. Không thể máy móc kết
luận những tác phẩm theo khuynh hướng này chịu ảnh hưởng từ Truyền kỳ mạn
lục hay các tác phẩm truyền kỳ trung đại. Vẫn là những yếu tố kỳ ảo như: tinh
vật, thần tiên, ma quái… xuất hiện không ít trong các tác phẩm văn học giai
đoạn này nhưng ở chúng có sự gửi gắm mới cho những tư tưởng, những quan
niệm mới về con người đương đại. Đây là biểu hiện tính thời đại của một tác
phẩm. Những hồn ma bóng quế, các vị thần tiên hay những tinh vật… với tư
cách hình tượng nghệ thuật không chỉ đơn thuần truyền tải một niềm tin vào thế
giới tâm linh mà đó còn thể hiện tâm trạng lo sợ, hoang mang, trăn trở trước bể
dâu cuộc đời. Các tác giả cũng không ngừng lo âu khắc khoải về sự suy mòn của
nhân tính, của đạo lý truyền thống. Giữa lúc giá trị đạo đức bị tấn công từ nhiều
phía, ở hiền chưa chắc đã gặp lành, con người tìm đến yếu tố kỳ ảo để tìm đến
một giải pháp thăng bằng tâm linh giữa xã hội đầy biến động. Và sự cách tân
này là minh chứng cho sự sáng tạo phong phú của văn học hiện đại. Vẫn là yếu
tố hoang đường đã có từ rất lâu trong nền văn học dân tộc nhưng các tác giả đã
thổi vào nó những hơi thở mới phản ánh thế giới tinh thần của con người Việt
Nam trong thời kì mới. Những sáng tạo ấy đã góp phần tạo sức sống bền vững
cho văn học nước nhà trải qua ở nhiều thế hệ.
KẾT LUẬN
Truyền kỳ mạn lục không nhằm phản ánh một thế giới truyện cổ tích, thần
thoại hay những truyện huyễn tưởng, mơ hồ nữa mà đã chuyển sang phản ánh
137
một cách chân thật, toàn diện những vấn đề của xã hội đương thời. Những câu
chuyện viết về các nhân vật, các sự kiện lịch sử được Nguyễn Dữ mô phỏng và
thể hiện theo xu hướng ấy rất rõ ràng và sâu sắc. Cái thực có phần bị lấn át bởi
cái kỳ ảo nhưng cái kỳ ảo không phải là mục đích chính của việc sáng tác, nó chỉ
là phương tiện nghệ thuật để tác giả chuyển tải nội dung hoặc chỉ đơn giản tạo
hấp dẫn đối với người đọc. Sự kết hợp hai phương thức tự sự và trữ tình vừa
đảm bảo đặc trưng của thể loại vừa góp phần cách tân thể loại văn xuôi tự sự
trung đại Việt Nam. Một tác phẩm có giá trị phải có sự kế thừa những tinh hoa
của các tác phẩm đi trước đồng thời cũng phải có sự đổi mới nhất định phù hợp
với nhu cầu thẩm mỹ thời đại. Điều này đòi hỏi tài năng thực sự của tác giả. Và
Nguyễn Dữ đã làm được điều ấy, TKML thật sự “có yếu tố ổn định, truyền
thống, lại vừa có các yếu tố đổi mới do tiến trình văn học và do tài năng sáng
tạo của nhà văn đóng góp vào” [38, tr.346].
Truyền kỳ mạn lục có nội dung phong phú, đa dạng. Tập truyện là bức
tranh xã hội toàn diện và đầy đủ những mâu thuẫn nội tại của nó. Tác phẩm vừa
là bức tranh đời sống hiện thực vừa là bức tranh của đời sống tâm linh của con
người. Bằng những yếu tố kỳ ảo, hoang đường, tác giả đã thể hiện sâu sắc những
tư tưởng và quan điểm sống của mình. Nhà văn đã sử dụng tài tình các yếu tố
nghệ thuật ấy để chuyển tải kín đáo những suy nghiệm trăn trở trước hiện thực
cuộc sống. Có những truyện thẳng thắn vạch trần, phê phán chế độ chính trị đen
tối, rối ren, hủ bại mà nguyên nhân là những hôn quân bạo chúa, những tham
quan chuyên nhũng nhiễu, áp bức dân lành. Có truyện đả kích kịch liệt những
hành vi vô đạo đức của thanh niên, nhà sư giả hiệu khiến bại hoại thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Lại có truyện khẳng định quyền sống chính đáng của con
người, ca ngợi tình nghĩa vợ chồng hạnh phúc lứa đôi. Cũng có truyện thể hiện
lý tưởng thanh cao của những sĩ phu bất mãn với đời, chọn cách sống lánh đục
về trong. Trong TKML, đề tài tình yêu được viết nhiều hơn cả. Tác giả xoay
quanh những mối quan hệ giữa con người và ma quỷ nhằm gửi gắm thái độ phê
138
phán chế độ, lên án những sự đồi bại về đạo đức của con người, thể hiện ước mơ
về một xã hội có công lí, bày tỏ niềm thương cảm sâu sắc đến số phận của con
người bất hạnh trong xã hội phong kiến đương thời đặc biệt là người phụ nữ.
Thế giới nghệ thuật trong tác phẩm không chỉ là thế giới của hiện thực đời
thường của con người mà còn là thế giới siêu nhiên huyền bí của thần linh và ma
quỷ. Trong thế giới ấy, con người luôn có sự tương giao, hoà hợp với thiên
nhiên. Nhân vật chính không chỉ là con người mà con có những tinh vật, thần
thánh hay ma quái, yêu tinh… Tất cả tạo nên tính chất ly kỳ, thú vị cho tác phẩm
thuộc thể loại truyền kỳ. Toàn tác phẩm là những mong muốn của tác giả về một
xã hội tốt đẹp và yên bình hơn. Ở đó, con người được sống an lành trong nền
đức trị, trong sự công bằng, trong tình yêu thương.
Giá trị lớn của tác phẩm chính là ở những nội dung nhân văn, nhân đạo như
đã kể trên. Và đóng góp cho sự thành công trong việc chuyển tải cho những nội
dung này là sự sử dụng kết hợp hai phương thức sáng tác tự sự và trữ tình nhuần
nhuyễn, tinh tế trong tác phẩm. Trong truyện, các yếu tố hoang đường, những
bài thơ câu hát đậm chất trữ tình, đa dạng về giọng điệu xuất hiện như những
phương tiện hữu hiệu chuyển tải những tâm sự, nỗi niềm u uất trong trái tim nhà
văn. Việc kết hợp giữa hai phương thức tự sự và trữ tình có vai trò rất quan
trọng không chỉ mang lại sự đa dạng, phong phú về mặt nghệ thuật mà còn góp
phần truyền tải trọn vẹn, sâu sắc nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Truyền kỳ
mạn lục là cả một thế giới thần, tiên, ma, quỷ tồn tại cùng với thế giới con
người. Những chuyện quái dị xen kẽ những chuyện đời thường, tình tiết thực lẫn
với tình tiết ảo với những bói toán, cầu cúng, tu tiên, những kiếp luân hồi,
nghiệp báo… Con người không chỉ sống, tồn tại trong một thế giới thực mà còn
sống, suy nghĩ trong một thế giới ảo khác. Phải chăng niềm tin vào thế giới tâm
linh chính là đôi cánh đã nâng cao sự tưởng tưởng sáng tạo của nhà văn?
Nhìn chung, phương thức tự sự và trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn, hài hoà
trong tác phẩm của Nguyễn Dữ là điểm mới trong quá trình sáng tác văn xuôi
139
trung đại Việt Nam. Truyền kỳ mạn lục như một số nhà nghiên cứu nhận định là
tác phẩm văn học đúng nghĩa. Tác phẩm này không khô khan, rập khuôn với các
tác phẩm văn xuôi tự sự gần thể loại trước đó. Đây là tác phẩm có giá trị cho thể
loại truyền kỳ trung đại Việt Nam, có đóng góp không nhỏ vào thành tựu chung
của nền văn học dân tộc. Có thể nói chỉ đến Truyền kỳ mạn lục xuất hiện thì
truyền kỳ mới đạt được những thành tựu đáng giá và là cơ sở cho sự tiếp nối
những thành công của tác giả các thế hệ sau với những sáng tác cùng hoặc gần
gũi với thể loại truyện truyền kỳ. Kết thúc bài viết, chúng tôi mạn phép mượn lời
nhận định của Nguyễn Đăng Na trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại
lần nữa khẳng định đóng góp của tác phẩm trong nền văn học dân tộc: “Với
Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ đã phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào
quỹ đạo nghệ thuật, là người mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học Việt
Nam trung đại” [40, tr.213].
1. Lại Nguyên Ân (2005), Từ điển văn học Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia,
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Nguyễn Huệ Chi (2009), Truyện truyền kì Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục.
3. Nguyễn Huệ Chi (2009), Truyện truyền kì Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo dục.
Hà Nội.
140
4. Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Thuvien.com.
5. Phạm Tú Châu (1999) “Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ Hán của
6. Nguyễn Văn Dân (1984) “Loại hình văn xuôi huyễn tưởng”, Tạp chí Văn
Việt Nam”, Tạp chí Hán Nôm, (3), tr.8.
7. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, Nxb
học, (5), tr.12-13.
8. Nguyễn Dữ (Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch) (1988), Truyền kì mạn lục, Nxb
Giáo dục.
9. Nguyễn Thị Dương (1996), Số phận người phụ nữ và các phương thức thể
Văn nghệ.
hiện số phận ấy trong Truyền kỳ mạn lục, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại
10. Trần Nghi Dung (2012), Vị trí của Truyền kỳ mạn lục trong nền văn học
học sư phạm Hà Nội.
11. Đặng Anh Đào (2006) “Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm Tp. HCM.
12. Đoàn Thị Điểm (Ngô Lập Chi và Trần Văn Giáp dịch) (2013), Truyền kỳ
Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (12), tr.6.
13. Hà Minh Đức, Phạm Thành Hưng, Đỗ Văn Khang (2012), Lý luận văn học,
tân phả, Nxb Trẻ Hồng Bàng.
14. Biện Minh Điền (2006) “Vấn đề tác giả và loại hình tác phẩm văn học trung
Nxb Giáo dục.
15. Lê Đạt, Lê Minh Hà (2006), Truyện cổ viết lại, Nxb Trẻ.
16. Đoàn Lê Giang (2010), Vũ nguyệt vật ngữ của Ued Akanari và Truyền kì
đại Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu Văn học, (12), tr.18-19.
mạn lục của Nguyễn Dữ, Trang điện tử Khoa Văn học và Ngôn ngữ,
17. Trần Văn Giáp (1984), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 1, Nxb Văn hoá.
Trường Đại học khoa học xã hội nhân văn.
141
18. Trần Văn Giáp (1990), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 2, Nxb Khoa học
19. Lê Bá Hán, Hà Minh Đức (1978) “Phần nguyên lý chung”, Cơ sở lý luận
Xã hội.
20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ Văn
văn học (tập 1), Nxb Giáo dục.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục.
22. Hà Thiện Hán (1547), Lời tựa Truyền Kì mạn lục.
23. Dương Quảng Hàm (1994), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Giáo dục.
24. Nguyễn Văn Hanh, Lê Đình Kỵ (1976) “Phương pháp sáng tác và trào lưu
học, Nxb Giáo dục.
25. Lại Văn Hùng (2002) “Bàn về tác giả, tác phẩm Truyền kì mạn lục”, Tạp
văn học”, Cơ sở lý luận văn học (tập 4), Nxb Giáo dục.
26. Nguyễn Phạm Hùng (1987) “Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền
chí Văn học, (10), tr.7.
27. Nguyễn Phạm Hùng (1991), Xung đột nghệ thuật và tư tưởng thẩm mỹ
kì mạn lục của Nguyễn Dữ”, Tạp chí Văn học, (1), tr.11-12.
28. Nguyễn Phạm Hùng (2006) “Tính toàn vẹn của lịch sử văn học”, Tạp chí
trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Văn hoá Hà nội.
29. Nguyễn Phạm Hùng (2010), Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời
nghiên cứu và thảo luận, (8), tr.18.
điểm sáng tác Truyền kỳ mạn lục, Trang mạng Văn học và ngôn ngữ,
30. Trương Thị Hoa (2011), Loại hình các nhân vật trong truyền kì trung đại
Trường khoa học xã hội nhân văn Tp. HCM.
Việt Nam qua ba tác phẩm tiêu biểu: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn
lục, Lan trì kiến văn lục, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học sư phạm
Tp. HCM, Tp. HCM.
142
31. Nguyễn Xuân Hoàn (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến
32. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ
tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thuận Hoá.
33. Phạm Đình Hổ (Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch) (2012), Vũ Trung tuỳ
điển Văn học (bộ mới), Nxb Thế giới.
34. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án (Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch) (2012), Tang
bút, Nxb Hồng Bàng.
35. Nguyễn Ngọc Hiệp (2007), “Đời sống của nhân vật truyền kỳ ngoài tác
thương ngẫu lục, Nxb Hồng Bàng.
phẩm và trong lòng tín ngưỡng dân gian Việt Nam”, Tạp chí Văn học
36. Đinh Gia Khánh (2006), Văn học Việt Nam thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX,
dân gian, (2), tr.22-23.
37. Tạ Ngọc Liễn (2008), Danh nhân văn hoá trong lịch sử, Nxb Thanh niên.
38. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc
Nxb Giáo dục.
Hoà, Thành Thế Thái Bình (1996), Lí luận Văn học, Tái bản lần thứ 5,
39. Nguyễn Đăng Na (2006), Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học,
Nxb Giáo dục.
40. Nguyễn Đăng Na (2006), Văn xuôi tự sự Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục.
41. Nguyễn Đăng Na (2007), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - những
con đường giải mã văn học trung đại, Nxb Giáo dục.
42. Hoài Nam (2011), Thơ, văn xuôi và những kết hợp nghệ thuật, trang mạng
vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục.
43. Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền
www.CAND.com.vn.
44. Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền
kì mạn lục, Nxb Văn học.
kì mạn lục, Nxb Văn học.
143
45. Vương Trí Nhàn (2013) “Vài nét về phương thức tự sự của người Việt”,
46. Trần Thế Pháp (Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San dịch) (2013), Lĩnh
Tạp chí Văn học online.
47. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Nam chích quái, Nxb Trẻ TP. Hồ Chí Minh.
48. Trần Đình Sử, So sánh văn học và văn hoá: Nguyễn Dữ và tiên thoại Trung
Nxb Giáo dục.
49. Trần Đình Sử (2012), Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại
Quốc qua truyện Từ Thức lấy vợ tiên, Trang mạng Thuvien.24
50. Trần Đình Sử (2013), Từ kinh điển đến hậu kinh điển, trang mạng Viện Văn
học sư phạm Hà Nội.
51. Nguyễn Hữu Sơn (1988) “Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỉ XVI - các
học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.
52. Bùi Duy Tân (1999), Truyền kỳ mạn lục - một thành tựu của truyện kí văn
bước nối tiếp và phát triển”, Tạp chí Văn học, (5), tr.5-6.
học viết bằng chữ Hán, khảo và luận một số tác giả, tác phẩm văn học
53. Bùi Duy Tân (2001), Truyền kì mạn lục một thành tựu của truyện kí văn học
trung đại Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
54. Bùi Duy Tân (2004), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Nxb
viết chữ Hán - Văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
55. Bùi Duy Tân (2004), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb
Giáo dục.
56. Bùi Duy Tân, Nguyễn Hữu Sơn, Phạm Đức Duật, Nguyễn Đức Dũng
Giáo dục.
57. Lê Thời Tân (2013), Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc hay là một lược
(2006), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục.
sử văn xuôi tự sự Trung Quốc, trang mạng Phê bình văn học.
144
58. Lê Văn Tấn (2010), Nguyễn Dữ và 19 lời bình trong Truyền kỳ mạn lục,
59. Bùi Duy Tân, Lại Văn Hùng (2007), Lê Thánh Tông – về tác giả tác phẩm,
trang mạng Trường Đại học Hà Nội.
60. Đỗ Ngọc Thạch, Truyện ngắn - Đặc trưng thể loại, trang mạng Doko.
61. Vũ Thanh (2004), “Những biến đổi của những yếu tố kỳ và thực trong
Nxb Giáo dục.
62. Vũ Thanh (2007), Thể loại truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại - quá trình
truyền kì Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (6), tr.22.
nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm, in trong văn học Việt Nam thế kỉ X
63. Trần Nho Thìn (2006) “Thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam”, Tạp chí
đến thế kỉ XIX - những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục.
64. Nguyễn Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
Văn học, (9), tr.12-13.
65. Đinh Gia Trinh (1996) “Tính cách văn chương Việt Nam trước thời Âu
hoá, Nxb Giáo dục.
66. Đinh Gia Trinh (1996) “Tính cách văn chương Việt Nam trước thời Âu
hoá”, Tạp chí Thanh Nghị, (2), tr.6-7.
67. Vũ Trinh (Hoàng Văn Lâu dịch) (2004), Lan Trì kiến văn lục, Trung tâm
hoá”, Tạp chí Thanh Nghị, (3), tr.3.
68. Hồ Nguyên Trừng (Ưu Đàm và La Sơn dịch) (2001), Nam ông mộng lục,
Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Nxb Thuận Hoá.
69. Đoàn Thị Thu Vân, Lê Trí Viễn, Lê Thu Yến, Phạm Văn Phúc (2008), Văn
Nxb Văn học.
70. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học
học trung đại Việt Nam (thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX), Nxb Giáo dục.
71. Lê Trí Viễn (1999), Văn học trung đại Việt Nam, Giáo trình Khoa Ngữ văn
xã hội.
trường Đại học sư phạm Tp. HCM.
145
72. Trần Ngọc Vương (2003) “Một số vấn đề liên quan tới tính đặc thù của văn
73. Trần Ngọc Vương (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X đến XIX - những vấn
học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (5), tr.26-27.
74. Lý Tế Xuyên (Trịnh Đình Rư dịch) (2012), Việt Điện u linh, Nxb
đề về lí luận và lịch sử, Nxb Giáo Dục.
75. Lê Thu Yến (2003), Văn học Việt Nam - Văn học trung đại những công
Hồng Bàng.
76. Lê Thu Yến, Đoàn Thị Thu Yến, Lê Văn Lực, Phạm Văn Nhu (2003), Văn
trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
77. Phạm Thu Yến (2004), Giáo trình văn học dân gian, Nxb Đại học Sư phạm,
học trung đại – những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục.
78. Đại học Sư phạm (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
79. Đại học Sư phạm (2001), Văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
80. Đại học Sư phạm (2004), Văn học thế kỉ XV - XVII, Nxb Khoa học Hà Nội.
81. Tổ bộ môn Lý luận văn học trường Đại học sư phạm Hà Nội (2012) “Thể
Hà Nội.
82. Nhiều tác giả, Truyền kỳ mạn lục - Lời tựa, nguồn: http://4phuong.net/
83. Luận văn Thạc sĩ, Nghiên cứu số phận người phụ nữ trong Truyền kì mạn
loại văn học”, Cơ sở lý luận văn học, (tập 3), Nxb Giáo dục Việt Nam.
84. Luận văn So sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục, mã số 82288,
lục, nguồn: tailieu100.com
85. Thể thao và du lịch Vĩnh Phúc (2010) “Những người cầm tình con Hổ”, Tạp
Thư viện trực tuyến Việt Nam.
86. Thư mục Niên
chí Văn học, (3), tr.14-15.
biểu văn học Trung Quốc, trang mạng
http://www.doko.vn/tailieu/thu muc lich su van hoc trung quoc 332992.
146
87. Luận văn Thủ pháp nhân hoá trong truyện truyền kì Việt Nam, trang mạng
88. Niên biểu lịch sử Việt Nam, trang mạng Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
89. Phát triển vì cộng đồng (2013), Tìm hiểu thêm về giá trị của Truyền kỳ mạn
Thư viện 24.com
90. Lưu Hiệp (Phan Ngọc dịch) (2007), Văn tâm điêu long, Trung tâm văn hoá
lục, trang mạng Thuvien24.
91. Aristotle (Nhiều người dịch) (2007), Nghệ thuật thi ca, Trung tâm văn hoá
ngôn ngữ Đông Tây, Nxb Lao động.
92. B. Riftin, Thử so sánh Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc) với
ngôn ngữ Đông Tây, Nxb Lao động.
Kim ngao tân thoại của Kim Thời Tập (Triều Tiên), Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ và Già tỳ tử của Asairey (Nhật Bản),
93. R. Wellek và A. Warren (Nguyễn Mạnh Cường dịch) (1949), Lý luận Văn
https://wikipedia.org/wiki/Truyền kỳ mạn lục.
học, Nxb Văn học.
Bảng tóm tắt kết cấu cốt truyện trong Truyền kỳ mạn lục:
Diễn biến
Kết cấu cốt truyện
Mở đầu
Kết thúc
Thắt nút Phát triển Cao trào
Truyện 1: Câu chuyện ở đền Hạng
Vương
(mở nút) Ông Hồ bừng tỉnh, lễ làm ở cúng đầu thuyền trước khi rời khỏi.
Tông Hồ Thốc nằm mơ thấy có một người ông đưa đến cung điện nguy nga.
thần Lão họ Phạm nhờ ông Hồ gột rửa điều nhơ tiếng xấu của Hạng ở vương trần gian.
Hạng vương và Hồ Tông bàn Thốc luận về tội phước và của các bậc đế vương và của Hạng vương khi tại thế.
Hồ Tông Thốc người cuối đời Trần, người hay thơ lại giỏi mỉa mai giễu cợt. Nhân đi qua đền Hạng Vương nên đề bài thơ ở trước đền.
Truyện 2: Chuyện
người nghĩa phụ ở Khoái
Từ Đạt và Phùng Lập Ngôn là đôi bạn rất thân ở đất Khoái Châu.
Châu
Trọng Quỳ không vợ cưới nữa, chăm lo cho hai đến con khi trưởng thành.
Cha mẹ Nhị tạ Khanh thế, nàng vào ở với bà cô Lưu thị. Bà cô ép duyên nàng tướng với họ quân Bạch. Nàng Nhị Khanh dùng dây tơ thắt cổ tử. tự Trọng Quỳ nằm mơ hồn thấy Nhị Khanh hiện về và trước báo Trọng Quỳ trai (con Phùng Lập và Ngôn) Nhị Khanh (con gái Từ trở Đạt) thành phu thê. Trọng lêu Quỳ
việc
sự tương lai.
lổng và đã cha theo vào Nghệ An.
nhờ bõ già tìm đi Trọng Quỳ. Vợ chồng gặp mặt. Chẳng bao lâu Trọng Quỳ dùng Nhị Khanh để gán nợ cờ bạc.
Truyện 3: Chuyện cây gạo
Trình Trung Ngộ Nhị và Khanh hẹn hò và ân ái
Đạo nhân ra tay trừ khử. Hồn ma không con nữa, đạo nhân phất áo đi non vào sâu. Trình Trung là Ngộ người dân buôn đất Bắc Hà. Chàng đã gặp Nhị Khanh.
Trình Trung tìm Ngộ hiểu tông tích của Nhị Khanh. tìm Chàng đến nhà thì nàng hay Nhị Khanh thị nữ và chính là những hồn ma. Trình Trung Ngộ bệnh nặng và chết bên quan tài nàng Nhị Khanh. Cả biến hai thành hồn ma toạ trên cây gạo và quấy nhiễu dân chúng.
Truyện 4: Chuyện
gã Trà đồng giáng sinh
Dương Thiên từ Tích giã vợ con, ra đi biệt tích.
Đức công được trở lại dương gian. Vợ Đức Công mang thai. Thiên Tích ra đời
Sau 24 năm Đức Công mất. Thiên Tích vào ở rễ cho gia đình giàu có họ Hoàng. Thiên Tích Dương Đức Công là người phủ Thường Tín xứ Sơn Nam, tuổi, 50 Đạo sĩ cho tiền biết kiếp của Thiên Tích và khuyên Thiên Tích hành thiện để tránh tai
hoạ. Đạo cứu nhân Thiên Tích thoát nạn.
nhân từ phúc hậu nhưng chưa có con. Đức Công ốm và nặng chết. đỗ đạt, làm tính quan hẹp tình hòi, báo “ân phục bằng cái tơ, bằng oán cái tóc”.
Truyện 5:
Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây
Hà Nhân trò học quê ở Thiên Trường. Hà Nhân ân ái với hai nàng và đọ sánh tài văn chương.
Hà Nhân gặp gỡ hai người con Liễu gái nương và Đào nương.
Hà Nhân đã biết hai nàng ấy chính qua hai hồn hoa ở một dinh cơ của quan Thái sư. Sinh tỉnh ngộ, bày mâm cỗ cúng cho hai nàng. Hai nàng hiện về cảm tạ Hà Nhân.
thị Thần
Truyện 6: Chuyện
Dương bị Thuồng Luồng bắt.
đối tụng ở Long cung
Trịnh Thái thú gặp gỡ Bạch long hầu và được xuống Long phát cung kiện đơn giống quỷ quái.
Long Vương trị tội Thần Thuồng Luồng và cho vợ chồng họ Trịnh trở lại dương gian.
Trịnh Thái Thú bằng lời lẽ chính trực và sự ngay thẳng đã đối tụng và tố cáo Thần Thuồng Luồng với Long Vương.
Huyện Vĩnh Lại ở Hồng có Châu giống quỷ tộc. Quan thú Thái họ Trịnh và vợ là Dương thị đi thuyền ngang qua.
Truyện 7: Chuyện
nghiệp oan của Đào thị
thị, Đào tiểu tự Hàn Than - ả danh kỹ nổi tiếng ở Từ Sơn. Hàn Than thường đi lại với quan Hành khiển là Nguỵ Nhược Chân.
Sư Pháp Vân giúp Nhược trừ Chân khử tà yêu. Pháp Vân biến mất.
Hàn Than gặp và ân ái với sư Kỷ. Vô Nàng bệnh chết, và Vô kỷ cũng chết theo. Cả hai đầu thành thai hai người trai con vào nhà Nhược cốt Chân yếu trả thù.
Vợ Nhược bèn Chân bắt Hàn Than đánh một trận, ôm hận Hàn Than thuê thích khách đến nhà Nhược trả Chân thù. Hàn Than sợ tội cạo trọc đầu, mặc áo sồng nâu trốn ở chùa Phật Tích. Do bị một học trò vạch trần tội lội nên nàng tới trốn chùa Lệ Kỳ.
Truyện 8: Chuyện chức Phán
sự đền Tản Viên
Diêm vương xét tội Ngô Tử Văn phá đền. Ngô Văn Tử Tử Ngô Văn đốt đền tướng giặc họ Thôi. Về nhà phát bệnh, trong Ngô Tử Văn, người đất Lạng Giang, trung trực, Diêm trị vương hồn tội tướng giặc. Và cho Tử Văn trở về Ngô Tử Văn không bệnh mà mất và trở thành
quan Phán sự ở đền Tản Viên.
ngay thẳng, không sợ yêu tà.
trình bày đầu đuôi sự việc, Diêm vương điều tra.
nhà. Dân lập làng đền mới và đập tan hài tướng cốt giặc.
cơn hoang mang gặp cư sĩ đòi trả lại toà đền. Tử Ngô Văn gặp Thổ công, hiểu được cơ sự. Ngô Tử Văn đến Minh ty đòi công lẽ bằng.
Truyện 9:
và
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên
đi Tri huyện Từ Thức ở Tiên Du cứu đã một cô gái.
Thức Từ bất mãn với quan lộ, treo ấn tín, từ quan sống cuộc sống ẩn dật. Từ Thức lạc vào cõi tiên và kết duyên cùng tiên nữ Giáng Hương. Từ Thức vào núi Hoành Sơn không biết đâu.
Vì nhớ quê nhà, Từ Thức xin trở được về cõi trần. đến Về quê, không ai là quen thuộc.
Truyện 10:
Chuyện Phạm Tử Hư lên
Dương Trạm chết, Phạm Tử chầu Hư bên mả ba năm rồi mới về.
chơi Thiên tào
Phạm Tử Hư gặp lại thầy trong mơ. Tử Hư theo Dương Trạm lên chơi Thiên tào. Tử Hư đỗ tiến sĩ và được thầy điềm báo những việc hung hoạ cát phúc. Phạm Tử quê Hư Cẩm Giàng, theo học xử sĩ Dương Trạm. Dương kể Trạm cho Tử Hư nghe những chuyện phúc hoạ trong đời.
Thị Nghi Thị Nghi tư Viên quan Người Hoàng về
Truyện
11: Chuyện
yêu quái ở Xương Giang
- người con gái bị bán mẹ vào nhà phú thương họ Phạm.
họ Hoàng gặp và kết duyên với hồn ma Thị Nghi. Hoàng điên bệnh cuồng, mê lịm không biết gì.
trần gian. hai Sau năm, Hoàng có đi dịp ngang Tam Giang, chàng sợ vội hãi lên ngựa đi mau.
thông với họ Phạm, bị người vợ họ Phạm đánh chết. Hồn Thị Nghi yêu hưng tác quái ở Xương Giang. Người làng bèn đào mả vứt xương xuống sông.
cũ khăn rách giầy trị hết bệnh cho Hoàng, dùng bùa trừ diệt yêu quái. Hoàng biết sự được thật. Diêm vương đòi họ Hoàng đến âm ty vì tội ham mê sắc.
Truyện 12: Câu chuyện đối đáp
Tiều phu vẫn ra vào động núi Na, đất Thanh Hoá.
của người tiều phu núi Nưa
đi
Hán Thương đoán người tiều phu ấy là một ẩn sĩ bèn sai Trương Công mời.
Trương Công phụng lệnh và có cuộc đối thoại với ẩn sĩ về sự được mất ở đời. Mỗi người đều có lý riêng để bảo vệ quan niệm của mình. Tiều phu không theo Trương Hán Thương sai Trương Công đi mời ẩn sĩ lần thứ hai, đến nơi không thấy ẩn sĩ mà thấy chỉ bài thơ với giọng trào phúng: “Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn, Hán Thương sai người đốt núi, không thấy gì cả, thấy chỉ hạc con đen lượn trên không nhảy múa. hai Sau năm, nhà Hồ gặp tai hoạ như
lời thơ. về
Công triều.
Cao Vọng đầu sơn khách tứ sầu”.
Truyện 13: Chuyện
Văn Tư Lập ở huyện Đông Trào.
Văn Tư Lập đền công hậu hĩnh cho người áo vải. Người áo vải giương cung bắn diệt trừ tai hoạ cho dân.
cái chùa hoang ở huyện
Đông Trào
Dân chúng khổ về nạn cắp. trộm Biết được nạn do bọn quái yêu hoành hành, bèn xin bùa trừ khử, nạn không dứt mà còn dữ dội hơn.
Văn Tư Lập theo lời Vương tiên sinh chỉ bảo nên tìm đến người mặc áo vải, đeo cung, cưỡi ngựa để xin diệt trừ ma quái. Người đeo cung sợ làm không việc được trong bèn đem trốn đi. ấy Người vô tình chứng kiến cuộc trò chuyện của các vị hộ pháp: vì đói quấy mà nhiễu dân chúng.
Truyện 14:
Chuyện nàng Tuý Tiêu
Dư Nhuận Chi nhờ sự giúp đỡ của đày tớ già, cướp kiệu đón Tuý Tiêu về.
Trụ quốc bị công tội. Nhuận đỗ Chi tiến sĩ, sống với Tuý Tiêu đến già.
Tuý Tiêu bị Trụ quan họ quốc Thân bắt cướp. Dư Nhuận Chi chim nhờ Yểng đưa thư cho Tuý Tiêu.
Dư Nhuận Chi người đất Kiến Hưng, được Nguyễn Trung Ngạn giới thiệu quen và biết chung sống với danh kỷ Tuý tiêu.
Tiêu Tuý tư tương sinh ốm. Dư Nhuận Chi với tư cách là anh họ Trụ được quốc công vời vào phủ nhưng không cho người hai gặp mặt. Tuý Tiêu và Dư Nhuận Chi qua lại nàng nhờ hầu Kiều Oanh.
Truyện 15: Chuyện
bữa tiệc ở Đà Giang
Vua Trần Phế Đế đi săn. Cáo và Vượn hoá thành người để ngăn cản.
bỏ săn
Quý Ly khuất phục trước những lý lẽ họ của Viên, Hồ. ý Đồng khuyên Vua việc bắn. Quý Ly và người hai họ Viên, họ đối Hồ về thoại việc săn bắn. Mỗi bên đều muốn bênh vực cho lý lẽ của mình. Quý Ly sai người theo dõi đến chân thì núi đó biết là chính hiện thân của Cáo và Vượn già.
Người họ Viên (Vượn hoá thành), họ người (Cáo Hồ thành) hoá cửa đến hành cung yết kiến. sai Vua tướng Quý Ly tiếp đãi.
Thị
Truyện 16:
Chuyện người con gái Nam Xương
là Trương lập sinh đàn, giải oan cho trên vợ bến sông Hoàng Giang.
Trương Sinh trở về. Qua lời kể của con trẻ, chàng Trương ghen tuông, ngờ vợ thất với tiết có người cái “bóng trên vách”. lập giải cho Trương Sinh mắng nhiếc, đuổi vợ ra khỏi Vũ nhà. nương tự tử bến ở Hoàng Giang. Phan Lang nằm mơ gặp Vũ nương.
Vũ nương nhờ Phan Lang trao cho Trương Sinh chiếc hoa vàng và bảo Trương Sinh đàn oan nàng.
Vũ Thiết, người con gái thuỳ mị, nết na ở Nam Xương, chồng Trương Sinh đã đi chinh chiến, ma chay cho mẹ chồng và nuôi con thơ.
Truyện 17: Chuyện Lý tướng
quân
Lý Thúc Khoản chứng kiến cha mình bị xử tội, chàng giật mình tỉnh lại.
Lý Hữu Chi, tướng quân nhà hậu Trần, tham quan, độc vô ác, nhân.
Thầy tướng số cho biết điều phúc hoạ nhưng Lý họ không tin lại càng bạo ngược hơn trước. Năm 40 tuổi thì Lý Hữu Chi chết.
Lý Thúc từ khoản vợ bỏ con, đem chia ruộng đất cho người, đốt hết văn tự nợ, vào rừng hái thuốc tu luyện.
Thúc Lý Khoản (con trai Lý Hữu Chi) được Nguyễn Quỳ dẫn đến âm ty. Thúc Lý Khoản chứng kiến hình phạt và hậu đãi cho những con người đã chết.
Truyện 18:
Chuyện Lệ Nương
Sinh Phật rầu, buồn bài dâng sách nhờ thế vua để tìm lại Lệ Nương.
Nguyễn Thị Lệ sinh Nương, Lý Thị sinh Phật Sinh. Hai con qua lại như vợ chồng. Lệ Nương bị vào bắt trong cung.
Phật Sinh tỉnh dậy táng cải cho Lệ Nương và từ đó không lấy ai nữa và tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Nguyễn Thị Diễm và người đàn bà họ trong Lý ngày cầu tự, giao ước tình duyên cho con các trong tương lai.
Lã Nghị trốn, chạy Lệ Nương tự vẫn. Phật Sinh đau thương và gặp Lệ Nương trong giấc Lệ mơ. Nương từ chối việc Phật Sinh đưa nàng về quê mai táng.
Truyện 19: Cuộc nói chuyện
ở Tử lạc vào trang Ngô
Mao Biên bước gia của Chi Lan.
thơ ở Kim Hoa
tập Lã
Ngô Chi chữ Lan văn tốt hay, người huyện Kim Hoa. 40 Năm tuổi nàng mất. ông
Mao Tử Biên tỉnh giấc và truy tìm di cảo và thịnh hành thơ Đường của Sái. trò Cuộc chuyện giữ Tử Mao Biên và vợ chồng Ngô Chi Lan về những ưu điểm và hạn chế của các thơ nhà đương thời.
Tất cả đều không có tình cảm với các nhà chỉ thơ, riêng Nguyễn là Trãi các được nhân các vật đánh giá cao về tài và đức.
Truyện 20:
Chuyện tướng Dạ Xoa
Văn Dĩ Thành hào hiệp, không để chịu quỷ ma mê hoặc.
Lê Ngộ thoát nạn, lập miếu thờ Văn Dĩ Thành, làng dân khấn vái đều ứng nghiệm.
Dĩ Văn Thành chỉ phương cứu thức vợ của Lê thoát Ngộ khỏi cái chết là bày mâm cỗ cho các quỷ sứ. Dĩ Văn Thành chấp nhận cái chết đến âm ty nhận chức, chàng giải thích cho Lê Ngộ biết về nghiệp số ở đời.
Văn Dĩ Thành lập kỷ cương với đối chúng quỷ. Sứ giả chốn Minh ty đến Dĩ mời Thành về phụng lệnh Diêm Vương.