BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ____________________________________
NGUYỄN VĂN THƯƠNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ HỮU THỈNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010.
3TMỤC LỤC3T ............................................................................................................................................ 2
3TMỞ ĐẦU3T .............................................................................................................................................. 3
3T1.Lí do chọn đề tài:3T ........................................................................................................................................ 3
3T2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:3T .............................................................................................................. 3
3T3.Lịch sử vấn đề:3T............................................................................................................................................ 4
3T4.Phương pháp nghiên cứu:3T .......................................................................................................................... 25
3T5.Những đóng góp mới của luận văn:3T ........................................................................................................... 26
3TCHƯƠNG 1: CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ HỮU THỈNH. 3T ........................................ 27
3T1.1.Cảm hứng nghệ thuật:3T ............................................................................................................................ 27
3T1.2. Cảm hứng nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh:3T .......................................................................................... 29
3T1.2.1.Cảm hứng thế sự:3T ............................................................................................................................ 29
3T1.2.2. Cảm hứng trữ tình:3T ......................................................................................................................... 54
3TCHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC VÀ HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG THƠ HỮU THỈNH. 3T .............................................................................................................. 71
3T2.1. Hình tượng quê hương, đất nước trong thơ Hữu Thỉnh:3T ......................................................................... 71
3T2.1.1 Hình tượng quê hương, đất nước trong chiến tranh. 3T ......................................................................... 72
3T2.2.2 Hình tượng quê hương, đất nước trong thời bình. 3T ............................................................................ 78
3T2.2 Hình tượng con người trong thơ Hữu Thỉnh:3T .......................................................................................... 87
3T2.2.1 Hình tượng người lính:3T .................................................................................................................... 87
3T2.2.1.1. Hình tượng người lính trong chiến tranh:3T ................................................................................. 87
3T2.2.1.2. Hình tượng người lính sau chiến tranh:3T .................................................................................... 97
3T2. 2. 2 Hình tượng người mẹ:3T ................................................................................................................. 106
3T2.2.2.1. Hình tượng người mẹ trong chiến tranh. 3T ............................................................................... 106
3T2.2.2.2. Hình tượng người mẹ sau chiến tranh. 3T .................................................................................. 120
3TCHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THƠ HỮU THỈNH3T ........................................................................... 128
3T3.1. Ngôn ngữ:3T ........................................................................................................................................... 128
3T3.1.1. Tiếp thu văn học, văn hóa dân gian:3T .............................................................................................. 128
3T3.1.2. Ngôn ngữ đời thường. 3T .................................................................................................................. 137
3T3.2. Giọng điệu:3T ........................................................................................................................................ 142
3T3.2.1. Giọng điệu tâm tình:3T ..................................................................................................................... 145
3T3.2.2. Giọng điệu suy tư, triết lí:3T ............................................................................................................. 153
3T3.3. Nghệ thuật cấu tứ trong thơ Hữu Thỉnh:3T .............................................................................................. 164
3T3.3.1. Khái niệm cấu tứ trong thơ trữ tình:3T .............................................................................................. 164
3T3.3.2. Cấu tứ trong thơ Hữu Thỉnh:3T ........................................................................................................ 167
3TKẾT LUẬN3T ....................................................................................................................................... 174
3TTÀI LIỆU THAM KHẢO3T ................................................................................................................. 178
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài:
Trong số các nhà thơ trực tiếp tham gia chiến đấu và trưởng thành trong giai đoạn
kháng chiến chống Mỹ, Hữu Thỉnh là một nhà thơ có phong cách riêng khá độc đáo.
Những nhà thơ thuộc thế hệ trước hay cùng thời với ông như: Thu Bồn, Phạm Tiến Duật,
Nguyễn Duy…hầu hết đã được tìm hiểu một cách có hệ thống qua một số công trình
nghiên cứu trong những năm gần đây. Trong khi đó, thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh,
mặc dù đã được khám phá qua một vài công trình và không ít các bài viết, nhưng nhìn
chung vẫn chưa có sự có mặt của một công trình hệ thống, có sức mạnh thâu tóm toàn bộ
những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh.
Thiết nghĩ, việc tìm hiểu một nhà thơ đã từng được biết đến từ rất sớm và đã có
những đóng góp nhất định nền văn học dân tộc nói chung và thơ ca hiện đại nói riêng như
Hữu Thỉnh trong tình hình hiện nay là công việc cần thiết.
Việc làm này về mặt khoa học không chỉ cho phép chúng ta có cái nhìn bao quát,
toàn diện hơn về thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh; nhận diện ra được đặc trưng phong
cách riêng của nhà thơ trong cái nhìn so sánh, mà còn có ý nghĩa lịch sử. Do vậy, luận
văn này sẽ tìm hiểu những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh. Trước
những lí do trên, chúng tôi đã chọn vấn đề “Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh” làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn.
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích của đề tài, chúng tôi xác định đối tượng và phạm vi nghiên
cứu của luận văn này như sau: chúng tôi chỉ nghiên cứu thơ của Hữu Thỉnh (không xét
đến thể loại trường ca) bao gồm tất cả những tập thơ của Hữu Thỉnh. Do đó, có thể xác
định các tài liệu chủ yếu sử dụng trong luận văn là:
Toàn bộ các tập thơ của Hữu Thỉnh và các bài thơ lẻ được in chung với trường ca
của ông.
Những bài nghiên cứu, bài giới thiệu thơ Hữu Thỉnh.
Những tài liệu lí luận văn học nói chung và thơ ca nói riêng.
Bên cạnh đó, trong những trường hợp cụ thể nhất định, không loại trừ khả năng
chúng tôi sử dụng trường ca của chính tác giả hay một số tác phẩm thơ, tập thơ của
những nhà thơ khác để liên hệ đối chiếu.
3.Lịch sử vấn đề:
Sau khi tìm hiểu những nguồn tư liệu khác nhau, chúng tôi nhận thấy có không ít
các bài viết về thơ Hữu Thỉnh. Ở đây, chúng tôi xin được phép sơ lược nội dung cơ bản
của số bài viết mà theo chúng tôi chúng có giá trị thiết thực đối với luận văn.
Có thể nói công trình nghiên cứu thơ Hữu Thỉnh một cách có hệ thống và công phu
đầu tiên là chuyên luận Thi pháp thơ Hữu Thỉnh của Nguyễn Nguyên Tản [130]. Chuyên
luận gồm 4 chương, “chương thứ nhất nhằm giới thiệu khái quát về thơ Hữu Thỉnh, còn
lại ba chương là để lần lượt giải quyết ba nhiệm vụ quan trọng. Thứ nhất, tìm hiểu con
người với tư cách là hạt nhân cốt lõi của thế giới nghệ thuật; thứ hai, tìm hiểu về không
gian, thời gian, những hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật; và cuối cùng là tìm hiểu
những phương thức và phương tiện tổ chức thế giới nghệ thuật như kết cấu, ngôn ngữ”
[130, 179].
Trong chương thứ hai: quan niệm nghệ thuật về con người, Nguyễn Nguyên Tản
đã trình bày ba dạng con người quan trọng nhất trong thơ Hữu Thỉnh: con người đồng
cảm, con người tình nghĩa và con người cô đơn.
Thứ nhất: con người đồng cảm.
Theo Nguyễn Nguyên Tản, có hai chiều đồng cảm chủ yếu trong thơ Hữu Thỉnh,
và hai chiều đồng cảm này tạo thành một thể thống nhất trong tác phẩm trữ tình trên cơ
sở gắn bó giữa nhân tố tự thuật tâm trạng và nhân tố nhập vai. “Trong đó, ở chiều thứ
nhất, nhà thơ tìm sự đồng cảm của mọi người với những tâm tư tình cảm của anh và thế
hệ. Nhà thơ không ngần ngại bộc lộ thân phận và những nỗi niềm của thế hệ mình, thế hệ
nhà thơ tự ý thức [130, 20]. Và trong chiều kích thứ nhất, “con người trong thơ Hữu
Thỉnh là con người - tâm sự, con người - đối thoại”. Tác giả cũng không quên chỉ ra đặc
trưng của đối tượng hô gọi trong thơ Hữu Thỉnh trong sự đối chiếu với các nhà thơ đương
thời. Đó là “những người, vật cụ thể, những người thân, đồng đội, rất xác đinh; gọi để
giãi bày, chia sẻ tâm tình” [130, 24]. Và một đặc điểm đáng lưu tâm nữa, “nhân vật đối
thoại trong thơ Hữu Thỉnh phần nhiều là vắng mặt trong cuộc thoại, cách trở không gian,
có khi cách trở âm dương, nhưng lại hiện ra rõ nét trong tâm tưởng và hình dung của
nhà thơ” [130, 24].
Biểu hiện cụ thể của con người tâm sự trong thơ Hữu Thỉnh cũng được khám phá
đúng mực. Theo đó, “con người tâm sự nhìn vào mọi vật đều thấy có tâm sự” [130, 25]
và điều này được đảm bảo bằng một suối nguồn sức mạnh lí tưởng của chủ thể:“thường
đồng nhất suy tư của mình với những vui buồn, ấm lạnh của thế giới xung quanh, và
nhiều khi nó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ tâm tình, thể hiện tư tưởng “đồng hóa thế giới””
[130, 26]. Đây cũng là lời giải thích hợp lí cho việc “không e ngại bộc lộ những tình cảm
riêng tư, đời thường ngay cả trong thơ về chiến tranh” [130, 29]. Nhưng có lẽ điều khiến
suy nghĩ chúng ta dừng lại lâu hơn ở sự ngẫm nghĩ về nét đặc trưng của con người tâm sự
trong thơ Hữu Thỉnh không phải là những đặc điểm nêu trên. Và theo Nguyễn Nguyên
Tản, nét khu biệt này là “cái riêng tư đôi khi lại trổi lên” một cách mạnh mẽ rõ rệt so với
những đồng nghiệp đương thời bởi lẽ “theo quan niệm của Hữu Thỉnh, cá nhân là chủ
thể đất nước nương theo, sự tồn vong của đất nước được quyết định bởi từng cá nhân,
từng cá nhân hợp thành dân tộc, đất nước; hạnh phúc của dân tộc không thể nào trọn
vẹn, nếu một cá nhân còn đau khổ, bất hạnh” [130, 32].
Ở chiều kích thứ hai con người đồng cảm trong thơ Hữu Thỉnh đã “hóa thân sâu
sắc vào các “nhân vật trữ tình nhập vai”, diễn tả một cách xúc động và tinh tế thế giới
tâm hồn của chúng trong từng cảnh ngộ cụ thể” [130, 34]. Và nét đặc sắc nhất trong cách
thể hiện của Hữu Thỉnh chính là những nét vẽ thành hình của chiều sâu tâm lí, tình cảm:
“Nhà thơ đồng cảm da diết đến cháy lòng với con người ở mọi chiều cảm xúc, nỗi niềm
hạnh phúc và khổ đau, nhẫn nại hi sinh mà chứa chan hy vọng, nhưng chủ yếu là sự đồng
cảm với nỗi đau thương bất hạnh, thiệt thòi, hi sinh” [130, 34].
Thứ hai: Con người tình nghĩa.
Con người tình nghĩa trong thơ Hữu Thỉnh luôn mang tấm lòng thơm thảo với quê
hương và hiếu nghĩa với mẹ. Đó cũng là con người của sự biết ơn sâu sắc trước tình
thương lớn lao từ hậu phương, từ sự sẻ chia đùm bọc của các đồng nơi chiến trường. Mọi
vật của quê hương (con suối, bờ tre, cánh rừng, ngôi nhà, bầu trời, ngọn lửa…) đều trở
thành đối tượng để nhà thơ bộc bạch tiếng nói tri ân.
Sở hữu một tấm lòng trắc ẩn luôn tồn tại dưới dạng thức sẵn sàng rung động một
cách mãnh liệt trước những éo le của đời sống cũng là một khía cạnh vô cùng quan trọng
của con người tình nghĩa trong thơ Hữu Thỉnh (những ai vắng mặt trên đời khi chưa kịp
ăn bữa cơm cuối cùng, những người vợ có chồng hi sinh ngoài biển, giờ bước thêm bước
nữa, những người vượt biên, xác để lại giữa biển khơi,…).
Thứ đến là những nỗi niềm nhớ thương vời vợi của con người tình nghĩa. Thơ Hữu
Thỉnh có sự hiện hữu một tần số cao của các từ “nhớ thương” trong tất cả các thể loại,
trường ca cũng như thơ ngắn.
Thứ ba: Con người cô đơn.
Trong phần này tác giả chỉ ra nguyên nhân khách quan và chủ quan của sự hình
thành con người cô đơn trong thơ Hữu Thỉnh. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên
nhân chủ quan: “Con người cô đơn trong thơ Hữu Thỉnh xuất hiện trên cái nền chung ấy,
nhưng cô đơn cũng cô đơn hơn, thất vọng cũng thất vọng hơn, đau xót cũng đau xót hơn.
Bởi như đã nêu ở trên, anh là người của khát vọng được đồng cảm, cháy bỏng, da diết,
bức xúc” [130, 53]. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những biểu hiện cụ thể của con
người này trong thơ Hữu Thỉnh (chủ yếu là trường ca Biển và tập Thư mùa đông). Sự góp
mặt ở tần số cao của cảm giác này trong mảng thơ tình Hữu Thỉnh cũng được tác giả chú
ý phân tích ở hầu hết các vết xước dễ nhận diện của nó. Nhưng quan trọng hơn, người
viết đã tựa vào đặc điểm này để làm đòn bẩy cho một sự giải thích mang tính chất nhân
quả: chính sự cô đơn dày đặc đã thai nghén và chỉ huy sở thích ưa triết lí của thơ Hữu
Thỉnh.
Trong chương tiếp theo, Nguyễn Nguyên Tản trình bày những biểu hiện của không
gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh.
Về không gian nghệ thuật.
Trong phần này, tác giả khảo sát các dạng không gian nghệ thuật cụ thể như:
không gian con đường; không gian thiên nhiên, đất nước; không gian làng quê và một số
dạng không gian khác.
Thứ nhất: không gian con đường.
Nguyễn Nguyên Tản tiếp cận đối tượng của mình bằng cách chia nhỏ nó thành hai
dạng cơ bản: con đường trong thời chiến và trong thời bình.
Trong thời chiến không gian con đường trước hết là những con đường cụ thể trên
những nẻo trường xung trận của người lính. Đó có thể là con đường đầy chông gai, gian
khổ; nhưng cũng không vắng bóng niềm vui, những âm thanh rộn rã, những màu sắc rợn
ngợp hết lòng cổ vũ cho người chiến sĩ cách mạng. Một cách cụ thể, “con đường trong
trường ca Đường tới thành phố là con đường vận động có hướng của tập thể người lính”
[130, 72] để “trở thành biểu tượng khái quát cho bước trưởng thành của quân đội cách
mạng. Mỗi địa danh trên con đường ấy như những cột mốc trên chặng đường giải phóng
nhân dân, gợi lên chiều sâu lịch sử” [130, 74].
Trong giai đoạn thời bình, không gian con đường cũng có những biểu hiện khá rõ
nét của nó. “Trong trường ca Biển có con đường từ đất liền đến các đảo xa. Con đường
mà người lính trải qua từ tuổi thơ tràn đầy kỉ niệm, qua những năm tháng ở chiến trường
đánh Mỹ đến khi làm người lính đảo, mang ý nghĩa điển hình cho một thế hệ con người”
[130,78]. Còn “con đường trong Thư mùa đông là đường đời, con đường của nhà thơ
với tư cách một cá nhân – đi tìm người, tìm tri âm tri kỉ, tìm cái đẹp và cái thiện như mơ
ước và quan niệm của mình” [130, 78].
Tác giả còn chỉ rõ những điểm khác biệt cơ bản về chất của không gian con đường
trong hai giai đoạn sáng tác này: “So với con đường viết trong chiến tranh, con đường
trong thơ viết vào thời bình, tính chất cụ thể ít đi, tính ước lệ tăng lên” [130, 78].
Thứ hai: Không gian thiên nhiên, đất nước.
Theo Nguyễn Nguyên Tản, không gian thiên nhiên nổi bật nhất trong thơ Hữu
Thỉnh là không gian rừng và biển. Trong đó, việc nhân hóa không gian rừng núi Trường
Sơn là nét đặc trưng quan trọng nhất của dạng không gian này cũng như tính ước lệ,
tượng trưng là trái tim của dạng không gian biển.
Thứ ba: Không gian làng quê.
Tiếp thu một số ý kiến nhận xét về không gian làng quê trong thơ Hữu Thỉnh,
Nguyễn Nguyễn Tản cũng cho rằng nét đặc trưng dễ nhận biết nhất của không gian làng
quê trong thơ Hữu Thỉnh là những yếu tố mang đậm màu sắc của hồn quê đồng bằng
trung du Bắc Bộ (từ khung cảnh thiên nhiên đến đồ vật, cây cối). Tác giả cũng chỉ ra
được mối liên đối âm thầm nhưng vô cùng hiệu quả của dạng không gian này với các
dạng không gian khác như: chiến trường, hải đảo,…để chỉ ra những giá trị thiết thực của
chúng trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề.
Bên cạnh ba dạng không gian chính yếu trên, người viết còn dẫn chúng ta lướt qua
một sô biểu tượng không gian khác như: hình tượng cỏ, gốc sim, đất đai, ngọn lửa.
Về thời gian nghệ thuật.
Thời gian nghệ thuật được tác giả mổ xẻ trên hai phương diện: trong thơ trữ tình –
sử thi và trong thơ trữ tình thế sự.
- Trong thơ trữ tình sử thi.
Vấn đề này được giải mã ở ba khía cạnh then chốt của nó: điểm nhìn trần thuật,
thời gian đồng hiện và nhịp độ trần thuật.
+ Điểm nhìn trần thuật.
Trên cơ sở phân tích và chứng minh cụ thể, tác giả đã đưa ra những mô hình
chung nhất của điểm nhìn nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh và chốt lại những điểm nhấn
sinh động đó bằng một nhận xét mang tính kết luận: “Sự miêu tả, trần thuật trong thơ
Hữu Thỉnh có một điểm chung là bao giờ cũng bắt đầu từ một điểm nhìn hiện tại (…).
Anh thường chọn một mốc thời gian nào đó của hiện tại rồi từ đó ngược dòng quá khứ
hồi tưởng và liên tưởng; thời gian quá khứ được tái hiện bao giờ cũng được quy kết về
cái mốc hiện tại đó. Từ cái mốc đã cắm anh tiếp tục triển khai “cái hiện tại tiếp diễn”
cho đến đích của sự kiện” [130, 100].
+ Thời gian đồng hiện: “Đồng hiện quá khứ với hiện tại đã trở thành thủ pháp
chính trong miêu tả nhân vật ở các trường ca và thơ trữ tình của Hữu Thỉnh” [130,104].
Và “trong sự kết hợp giữa quá khứ hiện tại và tương lai nhìn chung ở các trường ca
Hữu Thỉnh, thời gian hiện tại thường chiếm vị trí ưu tiên, nhưng không phải là cái hiện
tại đứng yên mà là hiện tại đang vận động” [130, 108].
+ Nhịp độ trần thuật. Trong phần này, tác giả chỉ ra các cách thức cơ bản tạo nên
nhịp độ trần thuật trong thơ Hữu Thỉnh: sự phối hợp giữa các thành phần trần thuật, sự
luân phiên, phối xen các sự kiện cũng như các đoạn tả cảnh, tả tình, hồi tưởng…
- Trong thơ trữ tình thế sự.
Đặc điểm đáng lưu tâm nhất của thời gian nghệ thuật trong thơ trữ tình thế sự của
Hữu Thỉnh là thước đo âm bản cho những nỗi thảng thốt lo ngại không ngừng trước sự
hủy hoại của các giá trị, là sự ngưng trệ trong cảm giác trước những nỗi đau muôn thuở
của con người, là sự nhanh chân trong toan tính để đưa con người tiến gần hơn đến bến
bờ tuyệt vọng.
Trong chương bốn, tác giả chuyên luận trình bày những đặc điểm cơ bản về thi
pháp kết cấu và ngôn từ nghệ thuật của thơ Hữu Thỉnh.
- Thi pháp kết cấu chia thành hai phần nhỏ: kết cấu trường ca và kết cấu thơ trữ
tình.
Về kết cấu của trường ca.
Người viết đã cố gắng nêu lên những đặc điểm cơ bản về mặt kết cấu của trường
ca Hữu Thỉnh và khá thành công với kết quả thu được của mình. Theo tác giả, phép liên
tưởng như là một nguyên tắc kết cấu chủ yếu nhất trong trường ca Hữu Thỉnh. Nhưng rõ
ràng đó không phải nhân vật duy nhất ta bắt gặp trong vở tuồng sinh động này. Bởi lẽ
nhà thơ còn kết hợp nó với các thủ pháp khác như: kết cấu theo chủ đề và tư tưởng chủ
đề (chẳng hạn trường ca Sức bền của đất), theo thời gian - không gian (Đường tới thành
phố), theo lịch trình nhân vật, theo chuỗi liên tưởng ( đây là dạng kết cấu “phổ biến và
nổi bật nhất trong các trường ca của Hữu Thỉnh” [130, 127]).
Về kết cấu của thơ trữ tình.
Theo Nguyễn Nguyên Tản, các bài thơ ngắn trong Tiếng hát trong rừng và Thư
mùa đông “có kết cấu thật đa dạng, tuy nhiên có thể quy về 6 kiểu kết cấu: kết cấu theo
bằng liên tưởng kết hợp với kết cấu theo thời gian và không gian, kết cấu theo logic quy
nạp, kết cấu đầu cuối tương ứng, kết cấu theo thời gian, kết cấu đối xứng – tương phản,
kết cấu theo lối trùng điệp ý” [130, 131]. Trong đó, các bài thơ thuộc Tiếng hát trong
rừng được biết đến như những bài thơ có dạng kết cấu giản dị hơn so với phần còn lại
của sự so sánh.
- Ngôn từ nghệ thuật. Ở phần này tác giả nghiên cứu các phương diện:
phương thức tạo hình, gợi cảm và phương thức nhạc điệu.
+ Phương thức tạo hình gợi cảm.
Thứ nhất: về mặt từ ngữ. Trong phần này tác giả đã đi sâu vào việc phân tích một
cách cụ thể những biểu hiện của ngôn ngữ dân dã, đời thường trong thơ Hữu Thỉnh và
xem đây như một đặc điểm quan trọng của ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh.
Thứ hai: Các phương thức biểu hiện ngữ nghĩa. Ba phương thức được khơi sâu
nhất mà các con chữ trong phần này có trách nhiệm gánh lấy là: so sánh ẩn sụ và nhân
hóa. Và trong từng phương thức nghệ thuật, tác giả đã không tiếc công mô hình hóa thật
cụ thể những dạng thức nhỏ của từng loại cũng như không ngừng tạo dựng và củng cố ở
chúng ta cảm giác yên tâm và tin tưởng vào những điều mà tác giả đã trình bày. (Chẳng
hạn, có bốn dạng so sánh cơ bản trong thơ Hữu Thỉnh).
Theo Nguyễn Nguyên Tản, trong thơ ngắn của Hữu Thỉnh, so sánh và nhân hóa là
phương thức chủ yếu trong giai đoạn sáng tác trong chiến tranh; trong khi ngôi vị thống
ngự của nó trong giai đoạn sáng tác trong thời bình (Thư mùa đông) là phương thức ẩn
dụ. Trong biện pháp ẩn dụ, tác giả tìm hiểu ở các cấp độ: ẩn dụ cụm từ, ẩn dụ cấp độ
câu. Và trong ẩn dụ cấp độ câu, “ta thấy nổi lên tư tưởng đồng hóa thế giới nội tâm của
con người thông qua phương thức “ngoại giới hóa nội tâm và nội tâm hóa ngoại giới”
[130, 154]. Theo tác giả, đây chính là căn nguyên “đem đến cho thơ Hữu Thỉnh một
“chất xa lạ mê ly”, một thứ bùa mê đầy quyến rũ” [130, 155]. Bên cạnh đó, tác giả cũng
lưu ý một đặc điểm khá quan trọng khác về phương thức ẩn dụ trong thơ Hữu Thỉnh. Đó
là sự góp mặt của các điển cố: “Thơ Hữu Thỉnh chứa khá nhiều điển cố. Điều đặc biệt là
những điển cố mà thơ anh gợi ra không hề có tính bác học mà đậm chất dân dã, lấy từ
ca dao, tục ngữ, cổ tích của dân tộc” [130, 158].
+ Nhạc điệu. Tác giả giải quyết sức nặng của vấn đề bằng việc đào sâu các yếu tố:
nhịp điệu, tiết tấu, vần, sự trùng điệp và đối xứng trong ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh. Thể
thơ trong thơ Hữu Thỉnh khá đa dạng nhưng đặc trưng nhịp điệu thơ Hữu Thỉnh nằm ở
các bài thơ năm chữ, tám chữ và tự do. Vần trong thơ Hữu Thỉnh cũng khước từ những
khuôn khổ chật hẹp của thi luật, “anh không ngại sử dụng vần thông, thậm chí vần ép
(ép vận), nhiều trường hợp lặp lại nguyên cả tiếng có gieo vần” [130, 169]. Nhưng bất
chấp điều đó “nhạc tính trong thơ Hữu Thỉnh vẫn rất dồi dào do anh rất chú ý đến sự
hòa hòa thanh điệu, tiết tấu” [130, 169].
Bên cạnh công trình trên của Nguyễn Nguyên Tản, còn có một số công trình và bài
viết khác về nội dung hay nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh.
Thứ nhất: về phương diện nghệ thuật.
- Về giọng điệu:
Trong bài viết “Nhân đọc Từ chiến hào tới thành phố” [135], Đào Thái Tôn đã
đưa ra những đánh giá “sơ bộ” về thành công và hạn chế của tập thơ cùng tên của Hữu
Thỉnh. Tác giả của bài viết ngắn này đã có những nhận xét đáng chú ý về giọng điệu của
thơ Hữu Thỉnh: “…tôi đã thấy ở anh cái gì riêng trong giọng thơ, trong cách biểu hiện.
Một trong những cái riêng đó là sự vận dụng nhuần nhị chất liệu văn học và cách nói
của tục ngữ ca dao Việt Nam đồng bằng Bắc Bộ” [135]. Ở một chỗ khác, Đào Thái Tôn
đã có cái nhìn khá sâu sắc: “Nếu Thanh Thảo trong trường ca của mình cho bạn đọc một
cách nói mới, thậm chí táo bạo trong thơ so với trước đó - một cách nói thông minh, sắc
sảo làm người đọc có cảm giác rằng khi anh viết anh nghĩ rồi mới cảm thì Hữu Thỉnh
dân dã đằm thắm mượt mà và thủ thỉ như quê mùa làm cho người đọc được cảm nhận ít
khi phải qua khâu nghĩ ngợi. Nếu Thanh Thảo hát bè cao thì Hữu Thỉnh hát bè trầm.”
[135].
Nguyễn Trọng Tạo cũng đọc lại “Thư mùa đông” qua bài viết “Hữu Thỉnh, thành
phố hồn quê” [131]. Trong bài viết khá ngắn này, Nguyễn Trọng Tạo đã có những nhận
xét đáng chú ý về phương diện giọng điệu. Và ông bắt mạch được “giọng” của Hữu
Thỉnh trong sự so sánh với Thanh Thảo: “Nếu như hồn thơ Thanh Thảo là những tia
chớp từ trên trời xuống thì hồn thơ Hữu Thỉnh là sự xum xuê của cây cối từ đất lên”
[131]. Và tác giả cũng cho rằng: “Chính cái giọng nhà quê ấy đã tạo nên thần sắc cho
thơ Hữu Thỉnh” [131]. Điểm yếu và điểm mạnh trong nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh cũng
được lưu ý: “Đọc thơ Hữu Thỉnh lâu nay dễ nhận thấy anh chặt ở câu mà lỏng ở bài. Có
người bảo anh là nhà thơ nhiều câu ít bài, kể cũng có lí của họ” [131].
Trên tạp chí nghiên cứu văn học số 9, năm 2003, Nguyễn Đăng Điệp đã trình bày
những suy nghĩ của mình về “Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ” [30]. Trong bài
viết này, tác giả đã chỉ ra những thay đổi cơ bản về giọng điệu thơ Hữu Thỉnh trước và
sau chiến tranh, cũng như đưa ra đánh giá của mình về giọng điệu thơ của tác giả.
Sự thay đổi về giọng điệu của thơ Hữu Thỉnh những năm sau chiến tranh so với
những năm chiến tranh đã được chỉ rõ: “Cái chất ru vỗ, ngọt ngào mang tính sử thi trong
“Đường tới thành phố” và giai đoạn trước đó đã nhường chỗ cho chất giọng ưu tư, chua
chát đau đời” [30]. Sự chuyển biến này có thể nhìn nhận một cách rõ ràng qua các
phương diện: tư duy thơ và cấu trúc của hình tượng cái tôi trữ tình.
Thứ nhất: sự thay đổi về tư duy thơ: “Nếu trước đây, điều quan tâm lớn nhất với
Hữu Thỉnh nói riêng và các thi sĩ chống Mỹ nói chung là lời tâm niệm “Chúng tôi làm
thơ ghi lấy cuộc đời mình”, thì ở chặng sau, cái nhìn của nhà thơ mang tính hướng nội
rất sâu. Những mảnh vỡ tâm trạng, những loa âu khắc khoải, những bể dâu cuộc đời
được nói đến một cách riết róng qua góc nhìn đời tư. Không còn ở đây cái nhìn của
chúng tôi mà là cái nhìn của chính tôi” [30].
Thứ hai: sự thay đổi về cấu trúc của hình tượng cái tôi trữ tình: “Đó là cái tôi đa
diện mà mặt trội của nó là những suy tư về cõi người. Đó không phải là cái tôi hiện lên
trong quầng sáng sử thi mà là hiện lên trong chính cuộc sống thô ráp thường ngày” [30].
Về giọng điệu thơ Hữu Thỉnh, tác giả cho rằng: “Thơ Hữu Thỉnh không nghiêng về
gam giọng sôi nổi, hào hùng mà nghiên về trầm lắng” [30]. Và trong cái trầm lắng đó,
người ta bắt gặp: “Cảm xúc đau đớn, xót xa thường trực trong hồn thơ Hữu Thỉnh hiện ra
như một ám ảnh, trở thành nhịp mạnh trong cấu trúc giọng điệu thơ anh. Tuy nhiên,
chiều sâu và nét riêng trong cái nhìn nghệ thuật của Hữu Thỉnh chính là những suy tư
không ngừng về nhân thế bằng chất giọng trầm lắng” [30].
Trong bài viết “Hữu Thỉnh và chút thảng thốt trước thời gian”, Nguyễn Hoàng
Sơn ngoài việc đưa ra một số đánh giá về nội dung chủ đạo của tập Thương lượng với
thời gian, cũng đã có lời nhận xét về sự giọng điệu của Hữu Thỉnh trong tập thơ này.
Theo tác giả bài viết, cách dùng những hình ảnh thơ trực tiếp “có thể làm cho giọng điệu
thơ phong phú hơn” nhưng đó không phải là nét đặc trưng của giọng điệu thơ Hữu
Thỉnh: “Dầu sao thì đây cũng là một hướng nỗ lực đổi mới, tuy còn lâu mới thay thế
được giọng thơ chủ đạo: tình cảm, nhỏ nhẹ, tài hoa, đôi khi bay bướm trong mô - típ
dân gian..., giọng thơ làm nên bản sắc của Hữu Thỉnh” [116].
- Về mặt ngôn ngữ:
Trên mục văn hóa số ra ngày 23/07/2007, báo Bình Thuận đăng bài viết:“Đọc tập
thơ Thương lượng với thời gian của Hữu Thỉnh” của Đỗ Quang Vinh. Trong bài viết khá
ngắn này, tác giả đã đưa ra những nhận xét đáng lưu ý về nghệ thuật của tập thơ nói riêng
và phong cách nghệ thuật thơ của Hữu Thỉnh nói chung. Tác giả nhận diện hai phương
diện nổi bật của nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh: tiếp thu những tinh hoa ca dao tục ngữ
truyền thống và cách chắc lọc dồn nén của thơ Đường: “Về nghệ thuật, anh vẫn tiếp tục
đi sâu, phát huy thế mạnh của bút pháp truyền thống; đồng thời có sự trăn trở, tìm tòi,
cách tân một cách chừng mực, thận trọng (…). Vẫn là những câu thơ mang “hồn vía” ca
dao, tục ngữ dân gian nhưng khi lọc qua tư duy của Hữu Thỉnh thì nó bỗng đẹp lên một
cách lung linh và mới mẻ như vừa được phát hiện lần dầu (…). Hữu Thỉnh học tập cái
chắt lọc, dồn nén của Đường thi và tỏ ra kiệm lời hơn về mặt ngôn từ để tạo cho người
đọc một tâm thế tiếp cận thâm trầm, hướng nội theo thi pháp phương Đông” [171].
Nguyễn Văn Tùng trong bài viết “Phong cách nghệ thuật của nhà văn là gì” [137]
cũng đã lưu ý một khía cạnh nổi bật trong phong cách nghệ thuật thơ của Hữu Thỉnh:
“Phong cách nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh chủ yếu thể hiện ở phương diện ngôn ngữ”.
Trong đó, tác giả bài viết cho phép nhận định của mình dừng chân ở khai mặt đáng chú ý.
Thứ nhất: “ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh thẩm thấu được nhiều vẻ đẹp của ngôn ngữ dân
gian”. Tác giả bài viết này cũng đi đến cái cốt lõi của cách tiếp thu đó: “Ông đã vận
dụng một cách nhuần nhuyễn những nét tinh túy nghệ thuật từ những câu tục ngữ, ca dao
trong thơ mình và điều đó tạo nên một hiệu quả thẩm mỹ đặc biệt” [137]. Thứ hai: tính
triết luận của ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh: “Tính triết luận sâu sắc cũng là một đặc điểm nổi
bật trong phong cách ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh. Vì thế nhà thơ đã dâng tặng bạn đọc
những cảm xúc đặc biệt, những nhận thức mới mẻ về thế giới tâm hồn con người ẩn chứa
bao điều bất ngờ thú vị” [137].
Có thể nói công trình nghiên cứu đáng nhớ nhất về mặt ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh
trong những năm gần đây là luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học của Nguyễn Thị Hoa: “Phép
lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh” [56]. Trong công trình này, một cách
hệ thống, tác giả đã đi sâu vào việc tìm hiểu hai phương diện nghệ thuật nổi bật trong
ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh: phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp. Dĩ nhiên, tất cả những gì có
thể thu hoạch được của công trình không thể không cần đến sự trợ giúp đầy hiệu quả -
ánh sáng hổ trợ của các lí thuyết ngôn ngữ học. Một cách cụ thể và rõ ràng hơn, như sự
nhận xét của chính tác giả, chúng ta muốn gọi luận văn này là “sự vận dụng lí thuyết
ngôn ngữ về phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp vào việc nghiên cứu hai hiện tượng này
trong thơ Hữu Thỉnh” [56,108]. Một điều đáng lưu ý nữa, một nét giản dị thông minh để
có thể đảm bảo tính tập trung của vấn đề, phạm vi nghiên cứu của luận văn này chỉ dừng
lại ở tập “Từ chiến hào tới thành phố” của Hữu Thỉnh.
Trong tất cả sự cố gắng đáng biểu dương của tác giả, hai khía cạnh nghệ thuật này
đã lần lượt được trình bày một cách khá cụ thể và thuyết phục ở khía cạnh biểu hiện cụ
thể cũng như những giá trị nghệ thuật mà nó tạo dựng trong văn bản thơ.
Cấu trúc luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lí luận (29 trang) trình bày
những khái niệm cơ bản về liên kết văn bản và hệ thống các phép liên kết văn bản.
Chương 2: Phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh (28 trang) trình bày
một cách cụ thể những dạng thức của phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp với sự chắc chắn
của các số liệu thống kê cụ thể. Về phép lặp từ vựng, tác giả khảo sát ở hai khía cạnh: lặp
từ và lặp ngữ. Trong phép lặp từ, người viết thống kê cụ thể các dạng thức: lặp danh từ,
động từ, tính từ, phó từ, đại từ, số từ, kết từ, trợ từ. Theo đó, tác giả đã dẫn chúng ta đi
đến sự khẳng định: lặp danh từ là dạng thức lặp từ vựng phổ biến nhất trong thơ Hữu
Thỉnh. Cụ thể, chúng ta có thể dẫn ra đây kết quả khảo sát của tác giả [56, 49].
Lặp Lặp Tiểu Lặp Lặp Lặp Lặp số Lặp Tổng Lặp danh động loại tính từ đại từ phó từ kết từ từ trợ từ số từ từ
Số
lần 107 35 25 19 15 6 9 9 225 lặp
Tỉ
lệ 47,6% 15,5% 2,6% 11,1% 8,4% 6,6% 4,0% 4,0% 100%
Trong phần tìm hiểu phép lặp ngữ trong thơ Hữu Thỉnh, Nguyễn Thị Hoa đã đưa ra
những số liệu cụ thể của hai dạng lặp ngữ phổ biến nhất trong thơ Hữu Thỉnh: lặp ngữ
danh từ và ngữ động từ.
Tiểu loại Lặp ngữ danh từ Lặp ngữ động từ Tổng số
Số lần lặp 80 72 152
Tỉ lệ (%) 52,3% 47,4% 100%
Bên cạnh đó, căn cứ vào vị trí của các yếu tố lặp, người viết cũng đã khảo sát phép
lặp từ ngữ trong thơ Hữu Thỉnh ở các dạng: lặp nối tiếp, lặp cách quãng, lặp vòng tròn,
lặp đầu – cuối, lặp đầu, lặp cuối. Tương tự như các phần trên, tác giả cũng cung cấp cho
chúng ta những con số thống kê cụ thể, mà từ đó có thể bật lên những lời kết luận chính
xác về bản chất của đối tượng nghiên cứu.
Tiểu Lặp nối Lặp cách Lặp vòng Lặp đầu – Lặp đầu Lặp cuối loại tiếp quãng tròn cuối
Số lần 15 181 17 13 45 11 lặp
Tỉ lệ 5,3% 64,2% 6,02% 4,6% 16,0% 3,9%
Số liệu thống kê cho thấy phép lặp cách quãng là dạng lặp nổi bật nhất trong thơ
Hữu Thỉnh.
Thứ hai: Phép lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh.
Dựa vào số liệu thống kê, tác giả đã đi đến sự khẳng định: “So với phép lặp từ
vựng, thì lặp ngữ pháp được sử dụng ít hơn trong thơ Hữu Thỉnh” [56, 57]. Người viết
tìm hiểu hiện tượng này trong thơ Hữu Thỉnh ở các dạng thức cụ thể của nó bao gồm: lặp
đủ, lặp thiếu, lặp thừa, và lặp khác. Trong đó, “lặp đủ trong thơ Hữu Thỉnh chiếm tỉ lệ
cao nhất” [56, 57]. Trong phần tiểu kết của chương này, Nguyễn Thị Hoa đã cung cấp
cho chúng ta những kết luận mang tính chất tổng kết vô cùng quan trọng về phép lặp từ
vựng và lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh: “Trong lặp từ vựng, tác giả sử dụng lặp từ
vựng dưới nhiều hình thức song chủ yếu là kiểu lặp cách quãng, lặp đầu và lặp từ. Còn
lặp vòng tròn, lặp đầu - cuối và lặp ngữ chiếm một tỉ lệ nhỏ hơn. Và phần lớn ở khối
lượng thực từ với tần số cao.
Đối với ph́ép lặp ngữ pháp, tác giả sử dụng lặp đủ với số lượng nhiều nhất. Còn
lặp thiếu, lặp thừa, lặp khác sử dụng với tần số rất thấp. Tuy nhiên, lặp ngữ pháp vẫn
tạo nên sự liên kết và giá trị ngữ nghĩa riêng biệt” [56, 59 – 60].
Chương 3: Giá trị nghệ thuật của phép lặp từ vựng và ngữ pháp trong thơ Hữu
Thỉnh (45 trang). Trong chương này tác giả phân tích và miêu tả cụ thể những giá trị nghệ
thuật của phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh chủ yếu ở các khía cạnh
tạo nên giá trị nhận thức, giá trị miêu tả, giá trị biểu cảm, giá trị liên kết và nhạc điệu cho
câu thơ. Trong từng trường hợp cụ thể, người viết đã cố gắng bám sát văn bản thơ để có
thể ghi nhận và giải thích từng khía cạnh cụ thể của vấn đề. Đáng chú ý, tác giả cũng
không quên đúc kết lại vấn đề trong một nhận xét mang tính tổng kết: “Hiện tượng lặp từ
vựng trong thơ Hữu Thỉnh đã góp phần tạo tính nhạc và nhịp điệu hài hòa cho câu thơ.
Lặp từ vựng góp phần tạo nên giá trị miêu tả cho tác phẩm, đồng thời còn nhấn mạnh,
trình bày để duy trì chủ đề cho văn bản, tô đậm hình ảnh, hình tượng và còn tạo ra giá
trị biểu cảm gây nên những cảm xúc trong lòng độc giả và diễn đạt chính xác tư tưởng
tác giả. Lặp từ vựng còn tạo nên mối liên kết vững chắc cho tác phẩm. Hiện tượng lặp
ngữ pháp tạo nên một nhịp điệu thơ rất riêng, ngoài ra còn có tác dụng duy trì sự tồn tại,
miêu tả sự việc, kích thích thúc giục hành động…Lặp ngữ pháp tạo nên sự liên kết vững
chắc trong cấu trúc bài thơ và những nét đẹp riêng ở tính nghệ thuật đã gây hứng thú đối
với người đọc, người nghe” [56, 107].
Như vậy, công trình “Phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh” là
một sự cố gắng đáng ghi nhận trong việc tìm hiểu phong cách nghệ thuật của tác giả qua
hai khía cạnh nghệ thuật cụ thể. Nhìn một cách tổng quát, luận văn đã “tập trung vào việc
khảo sát, thống kê, miêu tả và phát hiện các giá trị, các đặc điểm cách sử dụng mà tác
giả đã dùng” [56,108]. Và trong một chừng mực nào đó, tác giả đã khá thành công trong
nhiệm vụ giải quyết những đòi hỏi không thể khước từ của luận văn bởi lẽ “phong cách
nghệ thuật của một nhà thơ là quy luật thống nhất các yếu tố của chỉnh thể nghệ thuật.
Và trong thơ Hữu Thỉnh nét riêng ấy được chúng ta phát hiện ra sự lặp đi lặp lại của từ
vựng và cấu trúc ngữ pháp” [56, 107].
- Về mặt phong cách:
Lưu Khánh Thơ có lẽ là một trong những người đầu tiên tiếp xúc và khám phá thơ
Hữu Thỉnh. Trong bài viết “Hữu Thỉnh – một phong cách thơ sáng tạo” [156], Lưu
Khánh Thơ đã có những phát hiện đáng lưu tâm về thơ và trường ca của Hữu Thỉnh.
Theo đó, những điểm mạnh và yếu trong phong cách thơ Hữu Thỉnh được tác giả bài viết
chỉ ra: “Một trong những điểm làm thơ Hữu Thỉnh thành công là sự vận dụng nhuần
nhuyễn và biến đổi hợp lí, linh hoạt những câu ca dao, tục ngữ (…). Nét đặc trưng này
cũng là một điểm mạnh và là yếu tố cơ bản hình thành cá tính thơ Hữu Thỉnh làm nên nét
đặc sắc trong thơ anh (…). Vốn kiến thức phong phú này làm thơ Hữu Thỉnh thêm giàu
có, tạo thuận lợi cho những tìm tòi sáng tạo của thơ anh. Hữu Thỉnh tiếp thu truyền
thống văn hóa dân tộc không những chỉ là ở cách nói, cách ví von, so sánh, mà còn ở tư
duy, cách liên tưởng độc đáo ở một âm hưởng xa xôi khó nhận biết. Phải chăng sự ảnh
hưởng đó là nguyên nhân khiến cho Hữu Thỉnh có được những câu thơ hay, mới lạ trong
diễn đạt, bất ngờ trong cảm xúc?” [156].
Ở một chỗ khác trong bài viết này, người viết cũng nói thêm điểm mạnh của nhà
thơ: “Mặc dù vậy, ta vẫn có cảm giác Hữu Thỉnh là cây bút có kĩ thuật và ít khi vội vàng.
Chỗ mạnh của Hữu Thỉnh là sự quan sát tinh tế, sắc nhọn là cảm xúc mạnh và sâu”
[156]. Hay: “dù viết ở nhiều thể loại khác nhau nhưng phẩm chất thơ Hữu Thỉnh là đằm
thắm, hồn hậu, nghiêng về phía rợp mát. Cái chìm đắm yêu thương lấn át cái ồn ào sôi
sục. Với thơ anh, người đọc cảm nhận ít khi qua khâu suy xét, nghĩ ngợi, có thể hiểu ngay
và rung động với tâm tình của tác giả” [156].
Trong bài viết “Thư mùa đông của Hữu Thỉnh” [52] , Trần Mạnh Hảo đã đưa ra
những biểu hiện về sở trường và phong cách thơ Hữu Thỉnh:
“Đâu phải cứ viết nhiều là dễ lan man, còn cứ viết ngắn thì dễ hay cô đọng. Hữu
Thỉnh có khả năng làm ngược lại điều đó” [52];“…Chữ nghĩa của ông khá chừng mực.
Do đó thơ ông ở bề sâu về thực chất có thể thoát được “tản mạn, tràn lan”” [52]; “Hữu
Thỉnh suy tưởng bằng lãng mạn, lấy mơ mộng mà nghĩ ngợi, lấy cái hư mà diễn đạt cái
thực, lấy cái buâng quơ, thảng thốt mà rành mạch, mà bình tâm, lại biết lấy cái đau mà
thưởng ngoạn cái vui và ngược lại”; “thực ra Hữu Thỉnh là nhà thơ của niềm cô
đơn…Cái vui của Hữu Thỉnh cũng là là cái vui hụt, âm bản của nỗi buồn…Khi đụng tới
nỗi buồn, nỗi đau, Hữu Thỉnh thường có được thơ hay” [52].
Lí Hoài Thu cũng góp thêm cách đánh giá, khám phá riêng của mình về thơ Hữu
Thỉnh trong bài viết “Thơ Hữu Thỉnh, một hướng tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc đến hiện
đại” [160]. Tác giả đã có những đánh giá vô cùng quan trọng về một số thủ pháp nghệ
thuật đặc trưng của thơ Hữu Thỉnh.
Thứ nhất: sự ảnh hưởng của văn học và văn hóa dân gian: “Dù viết về chiến tranh
hay tình yêu, tâm trạng con người hay non sông, mây gió, thơ Hữu Thỉnh đều thấm đẫm
sắc vị dân gian. Điều đó thể hiện trong cả cảm xúc, suy nghĩ lẫn chất liệu sáng tạo”
[160]. Theo tác giả, thơ Hữu Thỉnh chủ yếu vận dụng từ văn hóa và văn học dân gian ở
các nguồn sau: cảm hứng dân ca, sử dụng lại nguyên mẫu những câu ca dao (theo hướng
tương đồng tương tác hay tương phản, đối lập). Nhưng điều đó không hề tương đương
với một sự biên soạn giản đơn mà chúng ta có thể bắt gặp trơng thơ Hữu Thỉnh: “Hữu
Thỉnh vừa rất có ý thức trong việc đi sâu khai thác cái hay cái đẹp của dân gian, dân tộc,
vừa biết dồn tâm lực, tài năng cho việc tìm kiếm, sáng tạo cái mới” [160]. Bởi lẽ, “với
thơ ca dân gian, Hữu Thỉnh tiếp nhận tư tưởng nhân văn, niềm cảm thông với từng số
phận con người, nhưng anh biết gạt bớt phần kể lể, thở than và thay vào đấy sự đong đầy
của tâm trạng” [160].
Lí Hoài Thu cũng phát hiện một yếu tố rất đáng lưu tâm về phương diện nghệ thuật
của thơ Hữu Thỉnh: “Một trong những tiềm năng của hồn thơ Hữu Thỉnh là sự nhạy cảm
của trực giác” [160]. Người viết cho rằng : “Sự kết hợp giữa cái vô hình và cái hữu hình,
cái cụ thể và cái trừu tượng không còn là thao tác xa lạ đối với thơ hiện đại. Điều quan
trọng là anh phải tạo được cái riêng trên cơ sở của nguyên tắc chung ấy. Hữu Thỉnh tỏ
ra thuần thạo và có nhiều thành công trên phương diện này” [160].Và “đây chính là một
đặc điểm thi pháp nổi trội, một ưu thế của thơ Hữu Thỉnh” [160].
Thơ Hữu Thỉnh, theo Lí Hoài Thu, có sự kết hợp với tần số rất cao giữa cái hữu
hình và cái vô hình mà xét từ phương diện sinh thành, ảo giác chính là bà mẹ đẻ của nó.
Từ đó, tác giả cho rằng: “Ảo giác cũng là một trong những nét tiêu biểu của bút pháp tạo
hình thơ Hữu Thỉnh” [160]. Tác giả cũng nêu lên đặc điểm của yếu tố ảo giác trong thơ
Hữu Thỉnh: “Ảo giác trong thơ Hữu Thỉnh là sự thể hiện tư chất lành mạnh, trong sáng
của tâm hồn người lính, đồng thời cũng là một thách thức mở rộng không gian hiện thực
của thơ”. Và “dù viết về thiên nhiên, không gian chiến tranh hay tình yêu, thơ Hữu Thỉnh
luôn luôn là sự kết hợp giữa cái thực và cái ảo, giữa vật thể và tâm tưởng” [160].
Tóm lại, về đặc trưng nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh, Lí Hoài Thu cho rằng: “Thơ anh
có sự kết hợp giữa phẩm chất dân tộc và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lí và xúc cảm
tràn trào, giữa hiền hòa lắng đọng và mãnh liệt sục sôi” [160].
Đỗ Quang Vinh cũng có nhận xét tương tự với Lưu Khánh Thơ về phong cách
phong cách nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh: “Vẫn là sự quan sát cực kỳ tinh tế như thường
thấy trong hàng loạt các bài thơ đã góp phần làm nên chân dung thơ Hữu Thỉnh, để định
hình một phong cách thơ dân tộc - hiện đại” [171].
Trong bài viết “Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ” [30], Nguyễn Đăng Điệp
còn chú ý đến tính triết lí và sự đan xen của yếu tố thực và ảo trong thơ Hữu Thỉnh. Ông
cho rằng: “Triết lí trong thơ Hữu Thỉnh nhiều khi xuất phát từ những chi tiết rất nhỏ
nhoi, bình dị” [30], và nó “được nảy sinh từ những suy ngẫm không ngừng về lẽ sống, về
cách xử thế, về quan hệ người, về cái cao cả mong manh đang bị bủa vây bởi cái thấp
hèn, hung bạo…” [30]. Bên cạnh đó, người viết cũng trình bày cách đánh giá của mình
về sự đan xen của các yếu tố thực và ảo trong thơ Hữu Thỉnh: “Đưa thơ về phía ảo, hình
tượng thơ sẽ lấp lánh vẻ đẹp của những giấc mơ. Đó cũng là một thủ pháp mà Hữu Thỉnh
thường xuyên sử dụng” [30].
Nhưng Hữu Thỉnh không chỉ được biết đến như một nhà thơ của các yếu tố ảo mà
còn, theo Nguyễn Đăng Điệp, là nhà thơ của những tứ thơ lạ: “Thơ Hữu Thỉnh không gây
ấn tượng theo kiểu Lê Đạt trong “Bóng chữ” hay Nguyễn Quang Thiều trong “Sự mất
ngủ của lửa”. Hữu Thỉnh là nhà thơ mạnh về tứ. Không chỉ nhuần nhuyễn trong việc lập
tứ cho chỉnh thể toàn bài mà nhiều khi, trong thơ Hữu Thỉnh tứ nằm ngay ở đơn vị câu”
[30].
Bên cạnh đó, tác giả cũng đã góp phần lí giải nguyên nhân của sự thành công của
Hữu Thỉnh trên con đường đổi mới thơ của mình: “Nguyên nhân ấy nằm trong cái ăng-
ten thơ Hữu Thỉnh, trong cách bắt sóng rất riêng của anh. Hữu Thỉnh là người đặc biệt
nhạy cảm với vấn đề thân phận” [30].
Thanh Thảo cũng bắt gặp hơi hướng ca dao trong tập thơ này của Hữu Thỉnh.
Nhưng điều quan trọng hơn, ông đã nhận diện được cái tạng thơ của nhà thơ này: “Có lẽ,
cái tạng của Hữu Thỉnh nằm ở những bài thơ, câu thơ giản dị một cách dân dã, hồn hậu
nhưng nặng trĩu nỗi đời” [140]. Và theo cảm quan của Thanh Thảo, sở dĩ, thơ Hữu Thỉnh
có thể băng qua sự khắc khe của thị hiếu thẩm mỹ và có sức trụ lại được trong lòng bạn
đọc là nhờ sự có mặt của phẩm chất dân dã, mộc mạc ấy: “Những bài thơ của Hữu Thỉnh
“găm” được vào lòng người đọc, thường là những bài thơ giản dị chân tình như vậy, chứ
không phải ở những câu thơ mà một số người “khen lấy được” hay lấy lòng gì đó” [140].
Thanh Thảo cũng chỉ ra được cái mạch ngầm thao túng hồn thơ Hữu Thỉnh, nơi
nhà thơ có thể vượt lên trên số phận để có thể viết những dòng tâm huyết của đời mình:
“Mỗi nhà thơ đi qua cuộc đời này theo một lối riêng, và trong khi hướng về phía trước
những nhà thơ cũng hướng về phía sau, về nơi từ đó mình ra đi. Hữu Thỉnh đã không
quên nhìn về cái làng nghèo, mái tranh nghèo nhà mình, đã không quên cái gốc gác nông
dân của mình. Và bây giờ, anh cũng không quên cái gốc lính của mình” [140].
Lê Thị Bích Hồng trong bài viết Vài kỉ niệm với nhà thơ chống Mỹ Phạm Tiến
Duật [59] đã dẫn lại những suy nghĩ của nhà thơ Phạm Tiến Duật về phong cách thơ
Hữu Thỉnh. Theo đó, Phạm Tiến Duật cho rằng: “Anh nói thơ Hữu Thỉnh có cách nói
giản dị, tự nhiên của đời sống chiến trường, sự tinh tế về cảm giác, một thế giới đa sắc
màu của thiên nhiên vùng đồng bằng Bắc Bộ (…). Từ trong cội nguồn dân tộc, hành trình
thơ Hữu Thỉnh đi tìm “Mẫu số chung của sự đồng cảm”. Vì thế, thơ anh ấy có sự kết hợp
giữa phẩm chất dân tộc và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lý và độ cảm xúc, giữa sự
hiền hòa lắng đọng và mãnh liệt, giữa khả năng kéo dài và thu hẹp dung lượng phản ánh
(trường ca dài và trữ tình ngắn)” [59].
Mai Quốc Liên trong một bài viết khá ngắn đăng trên tạp chí Hồn Việt cũng đã có
những nhận xét đáng chú ý về phong cách thơ Hữu Thỉnh. Tác giả đặc biệt lưu ý phẩm
chất tinh tế cùng phong thái ít nhiều nữ tính của thơ Hữu Thỉnh: “Trong các thi sĩ thời
nay, hiếm có người nào có thể có sự tinh tế trong thơ như Hữu Thỉnh. Kể cả các nhà thơ
nữ là những người sở trường về điểm này. Đôi lúc, chúng ta thấy thơ Hữu Thỉnh quá
nhiều “nữ tính”, quá nhiều “dịu dàng”… là như vậy” [90].
“Đường đời, đường thơ Hữu Thỉnh” [18] cũng là bài viết rất có giá trị của Anh
Chi. Trong bài viết khá công phu này, tác giả đã trình bày một cách có hệ thống những
đánh giá của mình về gần như toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Hữu Thỉnh về trường ca cũng
như thơ. Về hai tập thơ Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian, bên cạnh việc
nhận xét phương diện nội dung, tác giả còn bộc bạch một cách nghĩ, cách đánh giá riêng
của mình về phong cách thơ Hữu Thỉnh. Theo Anh Chi, điều đáng lưu ý nhất trong
phong cách thơ Hữu Thỉnh là phong cách mộng mơ gắn liền với nhận thức. Điều này
không phải đợi đến Thư mùa đông hay Thương lượng với thời gian, mà ngay trong
những trường ca của mình, đặc điểm này đã để lại những dấu ấn nhất định. So với giai
đoạn sáng tác trước, từ Thư mùa đông trở về sau, “Hữu Thỉnh vẫn là một thi sĩ thật giàu
mơ mộng, cũng như thời anh ở chiến trường bom đạn bời bời vẫn cứ mơ mộng (…). Thơ
Hữu Thỉnh in trong tập Thơ mùa đông, thể hiện những nhìn nhận về lẽ sống, về tình đời
những năm đầy xáo động (…). Là mơ mộng đấy, và cũng là nhận thức đấy chứ!” . Và
“sau tất cả mộng mơ, nhà thơ nhận biết một bài học cuộc sống” [18]. Đến Thương
lượng với thời gian, cái chất mộng mơ ấy vẫn đứng vững: “Hữu Thỉnh càng tỏ rõ cái cá
tính nhận thức bằng mơ mộng với tầm khái quát hiện đại” [18]. Và cũng theo Anh Chi,
bên cạnh phẩm chất mộng mơ gắn liền với nhận thức, thơ Hữu Thỉnh còn sở hữu một nét
đáng chú ý về mặt ngôn ngữ: “Thơ Hữu Thỉnh, ngoài phẩm chất độc đáo là mộng mơ để
đạt tới những nhận thức cuộc sống, như chúng tôi có nói đến ở trên, còn những phẩm
chất khác nữa. Đó là sự kiệm lời” [18].
- Về mặt hạn chế của nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh.
Trong “Thư mùa đông của Hữu Thỉnh” [52], Trần Mạnh Hảo đã nêu ra hạn chế
của phong cách thơ Hữu Thỉnh: “Một số bài thơ trong “Thư mùa đông”, rõ ràng Hữu
Thỉnh chưa thoát khỏi hơi trường ca” [52]. Hay “khi ra khỏi rơm rạ, bọt bèo, buồn đau,
tha thiết, cô đơn, nghĩa là đi ra khỏi sở trường năm phần trăm ruộng cá thể của mình, thế
nào không ít thì nhiều; Hữu Thỉnh sa vào cõi không tìm thấy mình, cũng đôi lúc uốn éo,
lan man, dễ dãi…Đôi khi không làm chủ được ngòi bút, ông đã sa vào sáo cũ.” [52].
Thanh Thảo cũng có sự đánh giá của mình về những mặt mạnh và yếu của Hữu
Thỉnh trong tập “Thư mùa đông” . Thanh Thảo cho rằng chính thói quen ưa rút ra kết
luận, hay nói chính xác là những triết lí, đã tạo ra những ngăn trở khó chịu trong việc tiếp
cận tư tưởng chủ đề của từng bài thơ. Và điều đó, theo ông là những rào cản vô hình mà
không phải bất cứ người đọc nào cũng có thể vượt qua, bất chấp sự làm việc tận tụy của
trí hiểu [140].
Vũ Nho trong bài viết “Về tập Thương lượng với thời gian của Hữu Thỉnh” [106]
cũng nhận xét: “Nếu cần phải kể nhược điểm của Hữu Thỉnh trong tập này thì có thể thấy
sự chưa nhuần nhuyễn trong phần một của tập; một đôi bài đã có dấu hiệu của sự lặp lại
trong cách dùng hình ảnh, trong cấu tứ; và đôi chỗ Hữu Thỉnh làm duyên quá mức thành
ra điệu đàng hoặc lủng củng” [106].
- Về mặt nội dung.
Gần như cùng thời điểm của bài viết trên, Trịnh Thanh Sơn cũng có những cách
hiểu của mình về tập “Thư mùa đông” của Hữu Thỉnh qua bài viết “Nỗi cô đơn trong
Thư mùa đông” [117]. Có thể nói, như tiêu đề của bài viết Trịnh Thanh Sơn, nỗi cô đơn
dường như là bạn đường của Hữu Thỉnh trong dưỡng đường cuộc đời. Cô đơn đã quán
xuyến tất cả từ mạch thơ đến hồn thơ: “Có thể nói, cả 36 bài thơ trong Thư mùa đông là
sự tiếp nối của một cô đơn dằng dặc” [117, 25]. “Thơ Hữu Thỉnh luôn tự dằn vặt và toàn
những dấu hỏi. Anh khai thác tâm trạng bơ vơ ở nhiều cung bậc và nhiều khía cạnh, có
lúc làm người đọc phải rưng rưng nghẹn ngào” [117, 25-26]. Và “Đằng sau nỗi chán
chường và ngờ vực ấy, ta nhận ra tấm lòng nhân hậu, đằm thắm yêu thương của người
thi sĩ muốn níu kéo để được sẻ chia, đôi khi mất bình tĩnh đến thành hốt hoảng” [117,
26].
Và đây là lời kết của tác giả bài viết về tập thơ trên: “Có thể nói Thư mùa đông
của Hữu Thỉnh đã được viết trong một cảm hứng về sự cô đơn của con người, nhất quán
và phong phú trong những tầng lớp cung bậc đặng khám phá vùng tâm thức của nhân
thế” [117, 26].
Nguyễn Trọng Tạo trong “Hữu Thỉnh, thành phố hồn quê” [131], đã nhận diện ra
chất “hồn quê” trong tập thơ này: “Ngay từ Lời thưa đầu sách, Hữu Thỉnh tự nhận mình
là con người của rơm rạ, đồng quê (…). Những thứ ta thường gặp ở chốn quê mùa quen
nhàm tưởng chẳng còn gì để nói, riêng đối với Hữu Thỉnh nó luôn luôn có một đời sống
sing động và mới mẻ đến ngỡ ngàng. Anh cảm và nói về nó bằng thứ văn hóa nhà quê
thật đẹp và thật ngộ” [131]. Nguyễn Trọng Tạo cũng chỉ ra cái riêng của Hữu Thỉnh khi
viết về đồng quê: “Văn hóa nhà quê của Hữu Thỉnh khác với Nguyễn Bính mà gần với
Hoàng Cầm trong Về Kinh Bắc” [131].
Về mảng thơ tình của Hữu Thỉnh, Lí Hoài Thu cũng chỉ ra được những nét chủ
yếu: “Thơ tình yêu của Hữu Thỉnh đã cảm hóa lòng người bởi dư vị cay đắng xót xa. Anh
đặc biệt nhạy cảm trước sự đơn lẻ của cá thể tình yêu” [160].
Về tập Thương lượng với thời gian, Trần Đăng có những gợi ý bổ ích qua bài viết
“Nghe Hữu Thỉnh thương lượng với thơ” [25]. Tác giả cho rằng dòng chảy xuyên suốt
tập thơ không gì khác hơn “sự tiếc nuối thời gian đã mất, hay đúng hơn là sự tự ý thức về
cái hữu hạn của chính mình” [25]. Qua tập thơ này, “Hữu Thỉnh gửi gắm cả một đời
chiêm nghiệm của mình. Ở đó có sự tắc nghẹn với bao nỗi khổ tâm (…). Đó là quãng
thời gian không phải sau chiến tranh, con người vừa thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của đạn
bom chết chóc nên ùa vỡ mừng vui, sống tử tế với nhau hơn, nhân hậu với nhau hơn, mà
là quãng thời gian của mấy mươi năm vật lộn với gian khó, trong đó có biết bao sự
"phản thùng, thớ lợ", biết bao cặn lắng của những oan khuất” [25] nên không ít khi Hữu
Thỉnh “bức bối ngột ngạt đến khó thở”. Nhưng rõ ràng, đích đến của thi sĩ không hề có
dấu hiệu làm quen với nỗi bi quan thuần túy. Tác giả “vẫn còn tin vào thời gian đang
ủng hộ ông, không phải để làm quan mà để tiếp tục làm thơ” bởi lẽ “bật ra được những
câu thơ như thế là Hữu Thỉnh đã gặp được "một bàn tay", chưa chắc đã ấm áp nhưng đủ
tin cậy để có thể nắm chặt hơn mà không sợ "phản thùng" [25].
Trên báo Đại đoàn kết số ra ngày 26/08/2006, Vũ Nho cũng có những đánh giá về
những thành công và hạn chế của tập Thương lượng với thời gian của Hữu Thỉnh qua bài
viết “vài cảm nhận về tập thơ Thương lượng với thời gian của Hữu Thỉnh” [106]. Theo
tác giả, phần thứ nhất của tập thơ là “những trải nghiệm thế sự sau những va quệt, xây
xát được thể hiện khá đậm đặc và tập trung” được “nói ra một cách ào ạt và riết róng”.
Và “Nếu có thể thấy điểm mới, sự khác biệt ở Hữu Thỉnh thì chính là mảng thơ trải
nghiệm thế sự, những chiêm nghiệm về lẽ đời, thói đời, luật đời. Có nhiều điều bức xúc,
có không ít những ngậm ngùi, có những ấn tượng mạnh” [106].
Nhận định về thơ phần thứ hai, thơ tình Hữu Thỉnh, Vũ Nho cho rằng: “Thơ tình
Hữu Thỉnh không có cái bồng bột, mạnh mẽ, ào ạt của tuổi trẻ. Nhưng tình yêu của anh
vẫn có một giọng điệu riêng và sắc màu riêng. Hữu Thỉnh biết cách làm mới, nói khác
những điều trong tình yêu tưởng như đã cũ” [106].
Nguyễn Vũ Phượng Hoàng cũng có sự cảm nhận riêng của mình về tập Thương lượng
với thời gian qua bài viết “Gặp nhà thơ trong tập thương lượng với thời gian” [57]. Tác giả cho
rằng, qua tập thơ này, “Đối với nhà thơ Hữu Thỉnh, nhân loại và thời gian đang trở về trong thơ
hiện đại, không phải bằng con đường xưa của vĩnh cửu, mà là từ những giá trị và những dự cảm
- cao thượng và đau khổ, kỳ vĩ và không hoàn hảo, đúng như nhân loại của thời mà chúng ta
đang sống” [56]. Tập thơ đã “phác thảo một tình trạng đáng buồn của hiện thực, thay vì tiếng
thét, Thương lượng với thời gian đã đóng lên thập giá những miếng vá sống, với tinh thần và
thanh điệu hiện đại” [57].
Như vậy, các tác giả trên trong từng bài viết cụ thể của mình, đã đề cập đến thơ
Hữu Thỉnh ở các khía cạnh: nghệ thuật (thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật;
phương tiện tổ chức thế giới nghệ thuật: kết cấu, ngôn ngữ; giọng điệu: trầm lắng, mang
tính triết lí; hình ảnh thơ: có sự đan xen, kết hợp giữa cái thực và ảo; cách tổ chức tứ thơ
mới lạ …); nội dung: nỗi buồn, sự cô đơn, sự trăn trở suy tư về cuộc đời, thân phận con
người...Có điều đáng lưu ý, ngoài hai công trình khá công phu, việc đánh giá những đặc
điểm về nội dung và nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh cũng chỉ thường trú trong khuôn khổ
những bài phê bình ngắn. Đó là chưa tính đến phạm vi nghiên cứu của các bài viết hay
các công trình này hầu tập trung một cách cụ thể vào một tập thơ trữ tình ngắn hay
trường ca hoặc gộp chung hai thể loại ấy lại trong mối nhiệt thành cụ thể. Trong khi đó,
vẫn chưa có một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về thế giới nghệ thuật thơ
Hữu Thỉnh qua tất cả những tập thơ trữ tình ngắn của ông.
Do đó, với đề tài này, chúng tôi muốn phát triển thêm những gì đã được khám phá,
tìm hiểu về thơ Hữu Thỉnh ở các phương diện trên, cũng như sẽ trình bày thêm cách nghĩ
của mình về những biểu hiện chủ yếu nhất, đặc trưng nhất của nội dung và nghệ thuật thơ
Hữu Thỉnh. Cụ thể là: sẽ đề cập đến những đặc trưng về nội dung và nghệ thuật trong cái
nhìn toàn diện, bao quát tất cả những tập thơ của ông. Về phương diện nghệ thuật thơ
Hữu Thỉnh, chúng tôi sẽ cố gắng khảo sát ở các góc độ: ngôn ngữ, giọng điệu, cấu tứ.
4.Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sẽ được viết với sự hỗ trợ của các phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp tổng hợp: luận văn sẽ hệ thống hoá các kiến đánh giá về thơ Hữu
Thỉnh đồng thời sử dụng một số kiến đánh giá đó trong quá trình phân tích tác phẩm.
Phương pháp so sánh: để làm rõ một số vấn đề về nội dung hay nghệ thuật, chúng
tôi sẽ vận dụng phương pháp so sánh, đặt nhà thơ Hữu Thỉnh bên cạnh những nhà thơ
cùng thời với ông để tìm ra những nét riêng biệt của Hữu Thỉnh so với những nhà thơ
này.
Phương pháp lịch sử cụ thể: chúng tôi sẽ đặt thơ Hữu Thỉnh trong hoàn cảnh cụ thể
của nó (trước và sau chiến tranh) để thấy được sự tác động của hoàn cảnh vào thơ ông
cũng như nhận diện được cảm quan lịch sử được tác giả phản ánh trong tác phẩm.
Phương pháp phân tích tác phẩm: người viết sẽ vận dụng phương pháp này để làm
rõ những khía cạnh cụ thể nào đó về mặt nội dung hay nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh.
Bên cạnh đó, luận văn cũng sẽ phối hợp nghiên cứu theo hướng thi pháp thi pháp
học để làm rõ những vấn đề về nghệ thuật của thơ Hữu Thỉnh.
5.Những đóng góp mới của luận văn:
Với đề tài này, chúng tôi sẽ cố gắng trình bày tất cả những đặc trưng về nội dung
và hình thức của toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Hữu Thỉnh (tính đến thời điểm này,
2009), đưa ra những suy nghĩ của mình về thể loại thơ của tác giả. Từ đó, hi vọng luận
văn sẽ góp thêm một cái nhìn về sự nghiệp thơ của Hữu Thỉnh một cách đầy đủ và bao
quát hơn qua tất cả những tập thơ trữ tình ngắn của tác giả.
Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương
Chương 1: Cảm hứng nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh.
Chương này nghiên cứu những cảm hứng nghệ thuật nổi bật trong thơ Hữu Thỉnh
bao gồm:
- Cảm hứng trữ tình
- Cảm hứng thế sự
Chương 2: Hình tượng quê hương, đất nước và hình tượng con người trong thơ
Hữu Thỉnh
Chương này chủ yếu nói về hình ảnh quê hương đất nước hình tượng con người
trong thơ Hữu Thỉnh ở các khía cạnh sau:
- Hình tượng quê hương, đất nước: trong chiến tranh và sau chiến tranh.
- Hình tượng con người:
+ Hình tượng người lính
+ Hình tượng người mẹ
Chương 3: Nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh
Chương này nghiên cứu một số khía cạnh nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh:
- Ngôn ngữ
- Giọng điệu
- Cấu tứ
CHƯƠNG 1: CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG THƠ HỮU THỈNH.
1.1.Cảm hứng nghệ thuật:
Cảm hứng nghệ thuật là trạng thái tâm lí, tình cảm bao trùm lên toàn bộ quá trình
sáng tác của nhà văn nói riêng và người nghệ sĩ nói chung. Đó là sự kết tinh, sự tập trung
cao độ của trí tuệ, cảm xúc dồi dào và trạng thái hưng phấn để tạo thành sự kích thích,
thôi thúc nhà văn không ngừng sáng tạo.
Trong mỹ học và nghiên cứu văn học, khái niệm cảm hứng chủ đạo được hình
thành “với tư cách là một nhân tố tư tưởng nồng nhiệt trong sáng tạo nghệ thuật”. Trong
hệ thống mỹ học, Hegel cho rằng cảm hứng chủ đạo là “trung tâm điểm”, là “vương
quốc thật sự” của nghệ thuật, mắc xích của mối tương tác hữu cơ giữa chủ thể sáng tạo
và chủ thể tiếp nhận nghệ thuật. Hegel “xem nghệ thuật như sự miêu tả cảm tính các tư
tưởng, một hình thức chân lí tuyệt đối”. Ông cũng cho rằng cảm hứng chủ đạo là biểu
hiện của tâm hồn người nghệ sĩ nhiệt thành xâm nhập vào bản chất của đối tượng, trở
thành tương ứng với nó, gần như là xuyên suốt với nó. Theo ông, cảm hứng chủ đạo cần
được xác tín là: “sản phẩm của tinh thần phong phú và hoàn thiện, một cá tính mà trong
đó tất cả những lực lượng bản thể phổ quát đều được thực hiện” [53, 208]. “Cảm hứng
là sức mạnh của tâm hồn được thể hiện trong chính nó, là nội dung chủ yếu của lí tính và
ý chí tự do” [53, 208].
E. G. Ruđneva trong Dẫn luận nghiên cứu văn học quan niệm rằng: “Sự lí giải,
đánh giá sâu sắc và chân thực – lịch sử đối với các tính cách được miêu tả vốn nảy sinh
từ ý nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư tưởng sáng tạo của
nhà văn và tác phẩm của nhà văn” [110, 141]
Bielinxki quan niệm về cảm hứng chủ đạo một cách cụ thể hơn: “Trong những tác
phẩm thơ ca đích thực, tư tưởng không phải là một khái niệm trừu tượng, được diễn tả
một cách giáo điều, mà nó tạo thành linh hồn tỏa vào trong tác phẩm, giống như ánh
sáng chiếu vào pha lê. Tư tưởng trong sáng tạo thi ca, đó chính là cảm hứng. Cảm hứng
là sự thiết tha và nhiệt thành nồng cháy gợi lên bởi một tư tưởng nào đó”. Bên cạnh đó,
Bielinxki còn đề cao vai trò của việc nghiên cứu cảm hứng chủ đạo của nhà văn trong tác
phẩm để tìm hiểu đặc điểm sáng tác của họ.
Ở nước ta, vai trò của cảm hứng nghệ thuật trong sáng tạo thơ văn nói chung cũng
đã được chú ý từ rất lâu. Khi bàn luận về làm thơ, Lê Quý Đôn xem khái niệm cảm hứng
như một trạng thái đong đầy của cảm xúc: “Trong lòng có cảm xúc thực sự, rung cảm
nên lời” [39, 93].
Nguyễn Quýnh đề cao vai trò của “cái hứng” trong thơ: “Người như sông biển,
chữ như nước, hứng thì như gió, gió thổi từ sông biển cho nên nước lay động làm thành
gợn, thành sóng, thành ba đào. Hứng chạm vào người ta cho nên chữ nổi dậy, không thể
nín được mà sinh ra ở trong lòng, ngâm vịnh ở ngoài miệng, viết nên ở bút nghiên, giấy
mực. Gió không bám nổi vào chỗ nào nhất định, hứng cũng biến động, không ở yên, mỗi
cái tuy ở phương Đông, Tây, Nam, Bắc mà buộc ra rất nhanh. Người làm thơ không thể
không có gió vậy” [39, 103].
Trong lí luận văn học và mỹ học hiện đại, thuật ngữ cảm hứng, cảm hứng chủ đạo
được nhấn mạnh trong mối quan hệ biện chứng giữa văn học và hiện thực, giữa nhà văn
và người đọc. Trong Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi cho rằng: “cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say
đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá
nhất định, gây tác động đến những người tiếp xúc tác phẩm [43, 39]. Cảm hứng thống
nhất với đề tài, tư tưởng tác phẩm sẽ đem đến cho tác phẩm “một không khí xúc cảm tinh
thần nhất định, thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố của tác phẩm”, là “cái mức căng
thẳng cảm xúc, mà nhờ đó nghệ sĩ khẳng định các nguyên tắc thế giới quan của mình
trong tác phẩm [43, 39].
Thuật ngữ cảm hứng theo cách hiểu của Phùng Quý Nhâm là: “nhiệt hứng, niềm
say mê, là sự trào dâng của tư tưởng – tình cảm cao độ của nghệ sĩ khi họ chiếm lĩnh bản
chất của cuộc sống, của con người, và nó được thể hiện và biểu hiện một cách nghệ thuật
trong tác phẩm” [105, 81]. Xem cảm hứng như là khâu khởi đầu của quá trình sáng tạo
nghệ thuật là một ý kiến khó có thể nghi ngờ về tính thuyết phục, nhưng rõ ràng nó chưa
làm lắng xuống cảm giác đợi chờ vào một xác minh cụ thể hơn về bản chất của vấn đề. Ở
một chỗ khác, Phùng Quý Nhâm đã lưu ý khá kĩ điều này: “Ở đây ta xem cảm hứng là
một thành tố quan trọng trong tác phẩm. Cảm hứng trong tác phẩm văn học không chỉ là
nội dung tình cảm mà đúng hơn là nội dung tư tưởng – tình cảm được thể hiện và biểu
hiện một cách nghệ thuật, một cách thẩm mỹ trong tác phẩm” [105, 81].
Huỳnh Như Phương và Nguyễn Văn Hạnh trong Lí luận văn học- vấn đề và suy
nghĩ, cũng đã nhấn mạnh vai trò quyết định của cảm hứng chủ đạo đối với sự thành công
của tác phẩm: “Bộc lộ khuynh hướng tư tưởng của tác phẩm, cảm hứng chủ đạo thấm
nhuần vào toàn bộ cấu trúc của tác phẩm, vào thế giới hình tượng, bao gồm không gian,
thời gian, tính cách nhân vật, vào xung đột và cốt truyện, vào ngôn từ và giọng điệu của
một bài thơ, một truyện ngắn, một thiên tùy bút hay một cuốn tiểu thuyết” [51, 210].
1.2. Cảm hứng nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh:
1.2.1.Cảm hứng thế sự:
Bàn về văn học sau chiến tranh, Vũ Văn Sỹ cho rằng:
“Vẫn trên cơ sở nâng cao trách nhiệm xã hội của nhà thơ nhưng thái
độ thẩm mĩ của người cầm bút đối với những giá trị tinh thần của
cộng đồng, đối với các quan hệ thế sự là đặc biệt là đối với các giá trị
cá nhân, bản ngã đều có sự điều chỉnh rõ rệt. Các nhà thơ đã ý thức
đặt lên hàng đầu thế giới nội cảm, sự trải nghiệm cuộc đời để khơi
dậy nguồn cảm hứng nghệ thuật (…). Hướng ngòi bút vào các vấn đề
xã hội, nhà thơ đặt lên hàng đầu những suy nghĩ cá nhân và bộc lộ
chính kiến của riêng mình một cách trầm tư suy cảm (…). Sự trăn trở
trong ý thức tự phát cá nhân, dần dần chuyển vào ý thức nghệ thuật”
[126, 100].
Vũ Tuấn Anh cũng nhìn nhận: “Nhìn chung, cái tôi hiện thực – thế sự biểu hiện
thái độ tích cực – xã hội của nhà thơ: sự phẫn nộ trước những cái phi lí, nỗi lo âu về sự
xuống cấp của nhân cách và những giá trị tinh thần. Đọng lại trong thơ là nỗi buồn, nỗi
đau thế sự.” [2, 131].
Trong công trình “Cái tôi trữ tình trong thơ” [108], Lê Lưu Oanh đã chỉ ra một số
biểu hiện cụ thể đặc trưng nhất của khía cạnh cái tôi thế sự - đời tư. Thứ nhất: “tôn trọng
sự thật là mô – típ trữ tình phổ biến” [108, 80]. Thứ hai: “Trách nhiệm công dân, đạo
đức nghệ sĩ được đặt ra âm thầm nhưng khá quyết liệt” [108, 80]. Thứ ba: “Xuất hiện
giọng nói ngược, những cái nhìn giải cổ tích với một kiểu nhận thức lại” trước những
“sự phức tạp của đời sống với sự đảo lộn của các giá trị, những quan hệ chuẩn mực cũ”
[108, 81]. Thứ tư: “Cảm nhận về trạng thái xã hội hiện tại với những khiếm khuyết, băng
hoại về môi trường và nhân cách, chứa đầy những thông tin nhức nhối về số phận của
con người” [108, 83].
Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ nằm trong xu hướng chung đó. Thế nên
không có gì quá ngạc nhiên khi chúng ta bắt gặp sự hiện hữu của cảm hứng này trong thơ
ông. Điều này vừa mang tính quy luật vừa dung chứa cảm quan của người nghệ sĩ trước
cuộc sống.
Theo sự quan sát của chúng tôi, cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh chủ yếu thể
hiện ở hai khía cạnh: thân phận con người và những vấn đề thuộc về đạo đức xã hội.
Nếu chúng ta đồng thuận với quan điểm trên của Lê Lưu Oanh và xem nó như hệ
trục tọa độ để trình diễn những đường biến thiên của cảm hứng thế sự trong thơ Hữu
Thỉnh, thì chúng ta, một cách khá dễ dàng, nhận ra rằng: cảm hứng thế sự chủ yếu nhất
trong thơ Hữu Thỉnh nằm gọn trong đặc điểm thứ tư. Điều này có nghĩa là những đặc
điểm còn lại không có tiếng nói trong thơ ông. Nói khác đi, nó nằm ngoài giềng mối quan
tâm của nhà thơ.
Trong những biểu hiện thành hình của cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh,
chúng tôi nhận thấy thân phận con người là nét cảm hứng nổi bật nhất của thơ ông. Và
trong cái vựa nhỏ tận tụy của tâm hồn này, có những nỗi ám ảnh then chốt thường xuyên
bật lên như những lò xo. Đó là nỗi cô đơn và nỗi ám ảnh về thời gian.
Thực ra vấn đề trăn trở về thân phận con người không hề mang phẩm chất xa lạ với
thơ ca đương thời: “Trong nỗi buồn và cô đơn của cái tôi cá nhân đương đại, có thể
nhận ra những triết lí về thân phận và con người. Đồng thời, từ góc độ nhân bản, có thể
xem đó như sự nhạy cảm trước mọi nỗi đau nhân thế, trước sự không hoàn thiện của
cuộc sống. Đó cũng là một biểu hiện ngược, trạng thái “âm bản” của nỗi niềm khao khát
hạnh phúc, sự đồng cảm và tình người…” [2, 135].
Và điều này gần như đã trở thành chủ đề quen thuộc của thơ ca giai đoạn sau 1975.
Vũ Tuấn Anh cũng cho rằng: “Nỗi buồn và sự cô đơn trở thành những chủ đề thể
hiện đậm nét nhất trong thơ” [2, 130].
Về khía cạnh nỗi buồn, cô đơn trong thơ giai đoạn 1975 – 2000, Lê Lưu Oanh
cũng nhận xét:
“Sự cảm nhận về con người thân phận bộc lộ qua trạng thái cô đơn
và nỗi buồn, hai dấu hiệu của một triết học bi kịch về con
người…Niềm cô đơn và nỗi buồn vừa gắn với sự tan vỡ của giấc mơ,
bất lực trước những đòi hỏi tất yếu trước những sự tha hóa của những
giá trị đời sống không gì ngăn cản nổi, vừa gắn với sự tự ý thức về cái
khó chia sẻ, là dấu hiệu của sự tự cắt đứt mối dây liên hệ đời sống khi
một mình đối diện với những nỗi đau, đặc biệt là nỗi đau tinh thần”
[108, 98].
Như vậy, về phương diện này, Hữu Thỉnh không hề vô can với dòng chảy chính
của nền thi ca giai đoạn sau 1975. Hai khía cạnh nỗi buồn và cô đơn là thứ rượu mạnh
được chưng cất một cách công phu từ những cây nho hay hạt gạo đầy nhân bản của tâm
hồn nhà thơ.
Trước hết là nỗi buồn, nỗi cô đơn.
Nhận xét về tập Thư mùa đông của Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo cho rằng: “Khi
đụng tới nỗi buồn, nỗi đau, niềm hiu quạnh của kiếp người, Hữu Thỉnh thường có thơ
hay” [52].
Đó là nỗi đau tột cùng khi nhà thơ đi viếng mộ anh trai mình: “Em đã qua những
cơn sốt anh qua/ Em đã gặp những trận mưa anh từng gặp/ Vẫn không ngờ có một trưa
Phan Thiết/ Em một mình đứng khóc ở sau xe” (Phan Thiết có anh tôi).
Suy tư không ngớt về thân phận con người đã đem đến cho Hữu Thỉnh những dòng
thơ chứa đầy tâm trạng đau buồn: “Tôi ngồi buồn như lá sen rách…Tôi ngồi buồn đếm
ngón tay/ Có mười ngón tay đếm đi đếm lại/ Đếm đi đếm lại trời ngả sang chiều” (Nghe
tiếng cuốc kêu). Con người tình cảm thất bại trước nỗi buồn của mình, trong khi con
người triết nhân cũng không có giải pháp sáng sủa nào hơn. Sự phân chất nỗi buồn trong
nhiều trường hợp chỉ đem lại sự phản hồi bằng những thông điệp “vô thanh” mang màu
sắc “oan nghiệt”: “Tôi ngồi nhặt sỏi đếm buồn/ Gió đi tìm khói chon von mấy đồi/ Mây
kia ham sự nhất thời/ Bao nhiêu oan nghiệt mắt người ngước lên” (Vô thanh).
Kí tức tuổi thơ với những “cánh diều để chỏm”, những “quân bài tam cúc” trong
tâm thức Hữu Thỉnh cũng không có gì lạc quan trong cái nhìn hồi ức của ông: “Bánh đa
phồng giữa chợ/ Che bớt một phần buồn” (Nghe tiếng cuốc kêu). Mối quan hệ giữa
người với người là tất yếu trong mọi xã hội. Thế nhưng, chợ trong cái nhìn của nhà thơ
chẳng qua là môi trường để trao đổi nỗi buồn của con người: “Mẹ ơi mây héo con xin mẹ/
Cho con lên an ủi mặt trăng buồn/ Chợ tan trường cũng tan như chợ/ Bán được buồn hay
mua được buồn hơn”.
Như vậy, nỗi buồn trong thơ Hữu Thỉnh không đơn thuần là tâm trạng thoáng qua,
không phải là kết quả vu vơ của như một “mốt” của tâm hồn; mà là những hệ lụy tất yếu
của những hụt hẫng về tinh thần trước những trăn trở không nguôi về số phận và thân
phận của con người. Ta thấy ở đây sự thiếu vắng đến rợn ngợp đối tượng để nhà thơ có
thể chia sẻ, giãi bày tâm trạng. Và đó là nguyên cớ lí tưởng để đưa tâm trạng này đến gần
hơn với bến bờ của nỗi cô đơn.
Con người cô đơn phải đối mặt một cách thường xuyên trước những thay đổi của
các giá trị cuộc sống. Những từ ngữ chưa từng thấy trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn trước
đã xuất hiện như những nhân chứng tin cậy cho sự chuyển biến trong cách nhìn nhận thế
giới khách quan và con người. Điều này mang phẩm chất của một sự giải thiêng, hay trần
tục hóa những giá trị từng được ca ngợi trước kia. Suồng sã hơn, bình dị hơn dẫu rằng có
phần xót xa hơn: kỷ niệm bị đem bán, chợ đen, lừa đảo, hợp đồng hai chiều, gian dối, vùi
dập, bôi xóa, phản loạn, đề phòng,…
Ngay bài mở đầu tập Thư mùa đông, cảm giác cô đơn đã manh nha như một khúc
dạo đầu đầy tâm sự: “Tôi ấy mà những chiếc cốc vô danh…Tôi ấy mà cánh diều nhỏ cô
đơn…Tôi ấy mà một cuống rạ bơ vơ” (Lời thưa); “Cô đơn đầy đường không ai thèm
nhặt/ Ngõ đứng trông người…” (Đi dưới cây)
Nhà nghiên cứu Trịnh Thanh Sơn đã có nhận xét rất đáng lưu tâm về sự cô đơn
trong tập Thư mùa đông của Hữu Thỉnh:
“Có thể nói, cả 36 bài thơ trong Thư mùa đông là sự tiếp nối của một nỗi
cô đơn dằng dặc” [117, 25]. “Thơ Hữu Thỉnh luôn tự dằn vặt và toàn những
dấu hỏi. Anh khai thác tâm trạng bơ vơ ở nhiều cung bậc và nhiều khía
cạnh, có lúc làm người đọc phải rưng rưng nghẹn ngào” [117, 25-26]. Và
“Đằng sau nỗi chán chường và ngờ vực ấy, ta nhận ra tấm lòng nhân hậu,
đằm thắm yêu thương của người thi sĩ muốn níu kéo để được sẻ chia, đôi khi
mất bình tĩnh đến thành hốt hoảng” [117, 26].
“Hữu Thỉnh cô đơn trước tượng Bayon, cô đơn trước đường đời đầy gập
gềnh, trắc trở. Cô đơn ngay trong cả những nghiêng ngả yêu thương” [117,
30].
“Tự mình là cả núi non
Vẫn không thoát được cô đơn giữa trời”
(Trước tượng Bayon)
Lúc bị “trượt chân” trên trường vào thành phố, Hữu Thỉnh đi cùng với “vết sẹo”
của cuộc đời. Khi “đi dưới cây”, phận người cũng không thoát khỏi sự thao túng đó:
“Cô đơn đầy đường không ai thèm nhặt
Ngõ đứng trông người”
(Đi dưới cây).
Nguyễn Đăng Điệp đã rất có lí khi ông cho rằng:
“Trong sự hình dung của tôi, cô đơn là một phần/điều kiện của sự sáng tạo.
Sáng tạo đích thực không đồng nghĩa với sự ồn ào. Những cảm nhận, những
suy tư về cõi thế phải được lắng/lọc lại trong cô đơn, cái giây phút một mình
đối diện với nhịp thở của trang giấy, tiếng cựa mình của cây bút trên tay.
Lắng qua sự cô đơn, Hữu Thỉnh mới có được những câu thơ nghẹn ngào”
[30].
Và một điều rất dễ hiểu, cảm giác cô đơn này được chuyển tải nằng nhiều màu sắc
và cung bậc khác nhau của tâm trạng. Chính liều lượng và sự đậm đặc của cảm giác chia
nhỏ ấy góp phần tham gia vào việc hình thành phản ứng tráng gương trong tâm tư của
nhân vật trữ tình.
Trong Thư mùa đông, nỗi cô đơn gần như là một biểu tượng thất truyền được giải
mã và phanh phui một cách thống thiết.
Đó là cảm giác bơ vơ, lặng lẽ: cô đơn giữa trời, côi cút dưới bầu trời, lặng lẽ lo
âu, đám cưới đi qua có người đứng khóc, nắng nôi một mình, lặng lẽ bước dưới cây,…
Con người luôn luôn cảm thấy cảm giác bị nô dịch dưới sức mạnh của trạng thái bị động:
Bị đám gai của hoa hồng xua đuổi, bị lột trần trơ trẽn, ngã vì roi mơ mộng, bị rủa chết
đi, mong tàn tật, mong mồ côi,…Sự rợn ngợp, thảng thốt luôn bủa vây lấy con người như
những dây leo sống kí sinh một cách thực thụ: nhớn nhát đi tìm người, Cá quẫy lòng ao
cũng giật mình, Đá đang rợn ngợp trước tôi,... Con người cô đơn thường xuyên tự ví von
mình với thiên nhiên như một cố gắng tuyệt vọng để an ủi số phận: hay héo như cây, hay
buồn như nước, cuống rạ bơ vơ, mảnh đời lấm láp, chiếc cốc vô danh, cánh diều nhỏ cô
đơn, khúc ca buồn,… Sự xuất hiện của các từ gợi lên cảm giác đau đớn, day dứt, chông
chênh một mặt là những dấu hiệu chăm chỉ của sự tự bạch, tự nhận thức của chủ thể, mặt
khác nó càng làm giàu có thêm bộ sưu tập của nỗi cô đơn: để quên, mưa ẩm cả hồn, ngồi
buồn, gạt cỏ bước lên, đi trên gai, chết, tan nát, nhẹ dạ, cả tin, nhọc nhằn, nghiêng ngả,
trượt chân, gọi tàn cơn mưa, xót xa thầm, muối xót ở trong tôi, oan khuất, đắng cay, than
thở,…
Cảm thức cô đơn đã không những xâm chiếm và làm chủ tâm trạng của nhân vật
trữ tình trong sự tự nhận thức bản thân mà còn chi phối cả việc nhận thức thế giới. Đây
cũng là điều mà Nguyễn Nguyên Tản nhìn thấy được: “Quan niệm con người cô đơn đã
chi phối cách nhìn thế giới. Có cả bầu khí quyển nặng nề bao bọc lấy con người” [130,
56]. Và như những môi giới đáng tin cậy, chúng ta có thể dẫn ra những dấu hiệu của cảm
giác này. Đó có thể là những hình ảnh phát ngôn cho sự đổi thay: Trời đang chớp gió,
mây đen đi đóng cửa trời, ba bẩy tấm gươmg mờ/ Với bao nhiêu lối quặt, Tôi ngồi gọi tên
những quân bài tam cúc/ Còn lại thôi rồi tiếng cuốc kêu, chiều biển động, chim đói phải
quay về mùa cũ,… Những hình ảnh gợi nhớ đến cảm giác bơ vơ, trơ trọi: Trời bỏ không,
khung cây hoang vắng, trời để ngỏ, trăng cũng lẻ, mặt trời cũng lẻ, biển cô đơn, cô đơn
đầy đường không ai thèm nhặt, ruộng không mùa, cây mất lá, chùa lạc chuông,…Hay sự
không trọn vẹn, luôn bị thách thức bởi sự hủy hoại: bóng mát bị trả thù, tiếng chim tan
vỡ, đá chen hết người, cánh đồng xác xơ vì mưa đá, mảnh trời chiều không bớt gắt, nắng
gay gắt,…Sự phụ thuộc, bị thao túng, trói buộc hay hệ lụy của nỗi ám ảnh chết chóc:
Những dòng sông bị cầm tù trong rét buốt, Rét biến thành dây để trói tôi, Hoa ngủ quên
trong lá mơ hồ,…
Cảm thức cô đơn là kết quả âm tính của sự khác khao được giãi bày, chia sẻ tâm
tư, tình cảm với những tri âm, tri kỷ; hay nói đúng hơn là một phương trình vô nghiệm
của con người đồng cảm trong thơ Hữu Thỉnh. Đây cũng là điều mà Nguyễn Nguyên Tản
đã nhận thấy được khi khám phá khía cạnh này: “Con người cô đơn trong thơ Hữu Thỉnh
xuất hiện trên cái nền chung ấy nhưng cô đơn cũng cô đơn hơn và đau xót cũng đau xót
hơn. Bởi như đã nêu ở trên, anh vốn là con người của khát vọng được đồng cảm, cháy
bỏng da diết, bức xúc” [130, 53].
Đến “Thương lượng với thời gian”, cảm thức này vẫn tồn tại bên cạnh cảm thức
chủ đạo: cảm thức về thời gian. Điều này dẫn đến một hệ quả tất yếu: không gian vũ trụ
đã trở nên nhòe đi để nhường lãnh địa cho sức mạnh của thời gian. Trong đó, rõ rệt nhất
là hình tượng của thiên nhiên (đặc biệt là hình tượng cây). Không gian vũ trụ không còn
là dấu ấn nổi bật, mặc dù vẫn xuất hiện ở một số câu thơ (và những câu thơ này hầu hết
nằm trong lãnh địa của các bài thơ tình): Có một mình so chỉ/ Khâu lành cho không gian
(Áo ai); Chỉ còn một mình anh/ Với chiều qua cửa sổ (Ước).
Nhân vật trữ tình có lúc đã thú nhận nguyên do của nỗi niềm:
“…Người ở gần ta hay xa đây
Hình như ta gặp mà chưa gặp
Một chút tri âm ở cuối đường”
(Tuyết trắng).
Khát vọng tìm kiếm sự thông cảm hay đồng cảm của Hữu Thỉnh cũng không đem
lại kết quả gì đáng ghi nhớ, nói đúng hơn là không có kết quả. Sự liên hệ giữa người với
người gần như rơi vào tình trạng tuyệt vọng: “Đi qua nhiều mũ áo/ Tìm kiếm một bàn
tay” (Buổi sáng thức dậy).
Hữu Thỉnh khao khát sự bình yên cho tâm hồn, nhưng mong mỏi này dường như
cũng bị đánh chặn lại ngay từ những bước chân đầu tiên của nó. “Nhà thơ viết về sự bình
yên bằng cái không bình yên, lúc nào cũng thảng thốt, đi tìm một cái gì đại loại như dĩ
vãng, đại loại như tương lai, đại loại như chính mình” [52]. Nỗi cô đơn trong Thương
lượng với thời gian đôi khi được diễn đạt bằng nhiều trạng thái im lặng của nhân vật trữ
tình:“Những chùm quả bình yên/ Rơi xuống triền núi vắng/ Trời muốn nói câu gì/ Ngó ta
rồi im lặng?” (Bình yên); “Ta im lặng vì quá nhiều mây trắng” (Nghẹn),…
Ngay trong cả tình yêu, nỗi cô đơn cũng hết sức bền bỉ.
Trong 36 bài của tập Thư mùa đông có 10 bài thơ tình (Tám câu, Em, Thơ viết ở
biển, Thảo nguyên, Bình yên, Ấm lạnh, Em còn nhớ chăng, Tạm biệt Sầm Sơn, Chăn – đa
em ơi, Tự thú) và “hầu hết các bài thơ tình của Hữu Thỉnh thời kì này mang sắc thái tình
cảm đau đớn, mất mát, chông chênh, nhớ thương, li biệt, ít thấy sắc thái hòa hợp, đồng
cảm, mặn nồng. Âm hưởng chung là buồn lặng. Sự xa cách là mô – típ phổ biến (hầu như
bài nào cũng diễn đạt tình yêu trong xa cách), nhân vật trữ tình thường ở trạng thái cô
đơn”. [130, 58]
Trong Thư mùa đông: Xuân về chưa đủ lá/ Mưa ẩm cả hồn anh (Tám câu); Vắng
cánh buồm một chút đã cô đơn (Biển); Em đã thành muối xót ở trong tôi (Tạm biệt Sầm
Sơn); Đã biết em cách trở/ Cớ gì còn đa mang (Chăn – đa em ơi),…
Trong Thương lượng với thời gian: Một đầu ghế bỏ không/ Quay về vùng cách
biệt (Nha Trang ngày em đến), Mua gì cho đỡ rét/ Bán gì vơi cô đơn? (Sắm Tết), Tuyết
trắng đi tìm nơi trắng đậu/ Bắt đầu từ những hạt cô đơn (Tuyết trắng)…
Tuy nhiên, có một điều khá rõ ràng, không phải Hữu Thỉnh là nhà thơ được biết
đến như thi sĩ của nỗi cô đơn. Đó là một phán đoán mang tính chắc chắn. Trong nền văn
học Việt Nam, có không ít các nhà thơ đã bày tỏ tâm trạng đó trong thơ của mình.
Mỗi thời đại mang cho mình những quan điểm nghệ thuật và những tư duy thơ
khác nhau. Do đó, dù cùng phản ánh một vấn đề, mỗi giai đoạn có một cách biểu hiện
riêng cho mình mà qua đó người ta, giống như những nhà khảo cổ học, có thể dựng lại cả
đời sống tinh thần của một thời đại bằng những mảnh vỡ tin cậy.
Nhận định về sự khác nhau cơ bản về chất giữa nỗi buồn, nỗi cô đơn trong thơ
giai đoạn 1975 – 2000 so với thơ ca trung đại và Thơ mới, Lê Lưu Oanh cho rằng:
“Trước đây, cái buồn bao trùm thế giới, con người chỉ là một tế bào của thế
giới mênh mông ấy. Lí do thật trăm hình nghìn vẻ: “Nước chảy khôn xiết âu
lòng trúc” (Nguyễn Trãi), “Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn” (Bà huyện Thanh
Quan), “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Xuân Diệu). Trong nỗi buồn
và sự cô đơn ấy thấm nhuần thái độ hoặc hiểu đời, hoặc tinh thần phê phán
quay lưng với hiện thực mang tính khinh bạc, phỉ báng, chửi bới hoặc lạnh
lẽo, hắt hiu. Hiện nay, hai trạng thái đó không hoàn toàn bế tắc, xa rời hiện
thực mà lại do ý thức rất ý thức về nhân cách và hoàn cảnh. Con người phải
tách ra để suy ngẫm nên cô đơn. Con người hiểu vì sao tồn tại các bi kịch cá
nhân, bi kịch xã hội cho nên buồn” [108, ].
Trong thơ Việt Nam sau 1975, cảm giác cô đơn đã được xác lập lại theo những
cung bậc khác. Đặc biệt sau thời kì đổi mới, tâm trạng này dường như thức dậy một cách
mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Nó đã thoát khỏi tù ngục cấm kị trước đó để trở thành một tâm
trạng mang tính phổ biến cao trong thơ ca giai đoạn đương thời.
Đọc thơ giai đoạn 1975 – 2000, chúng ta không lạ gì những cảnh huống nhân vật
trữ tình đối diện với chính mình trong nỗi cô đơn. Tập Một chấm xanh của Phùng Khắc
Bắc là một minh chứng sáng sủa cho điều này.
“Không phải ngẫu nhiên ta bắt gặp trong thơ Phùng Khắc Bắc những ẩn dụ
về nỗi buồn, lẻ loi, cô đơn. Sống giữa tấp nập, Phùng Khắc Bắc luôn cảm
thấy như bị lạc lỏng giữa hoang vắng. Lạc giữa chợ (“Hôm nay ta như lạc
giữa chợ Đồng Xuân”). Lạc trong “cơn hồng thủy”, lạc giữa khu rừng “siêu
văn minh”, tưởng trái đất vừa có triệu trái bom H nổ”. Lạc giữa đống xác
đồng đội và kẻ thù, với “những cây súng ngỗn ngang đang nằm hối hận”
(…). Lạc giữa ngã ba đời (“Ta như lạc giữa ngã ba đời / Có lúc thang thang
về đâu không biết nữa” ). Và đặc biệt là lạc giữa sự sống (“Tiếng cục đất
rơi vào nắp quan tài lục bục làm ta bừng tỉnh giữa đời”). [45, 498].
Cũng khắc họa nỗi buồn, nỗi cô đơn, nhưng khía cạnh này trong Một chấm xanh
là “nỗi buồn, nỗi cô đơn của con người lịch sử trong buổi đầu non nớt, tách khỏi sự bao
cấp của cộng đồng” [45, 498]. Trong khi đó, dường như đây không phải là nguyên cớ
sâu xa giải thích sự có mặt của cảm giác này trong thơ Hữu Thỉnh. Nỗi buồn, nỗi cô đơn
trong thơ Hữu Thỉnh không xuất thân từ những biến đổi về mặt tinh thần trên giác độ lịch
sử mà thoát thai từ độ lệch của cảm quan về tinh thần xã hội.
Như vậy, xét về nguồn gốc, nỗi cô đơn trong thơ Hữu Thỉnh không khác xa mấy
cảm giác ấy trong thơ ca giai đoạn từ sau 1975 đến nay. Nó vẫn có hành trạng từ những
mặc cảm không được đáp ứng, thỏa mãn trong các khía cạnh: tình yêu, tình đời, tình
người…Nhưng có điều đáng ghi nhớ nhất ở Hữu Thỉnh là gần như, cảm giác này thường
trực trong thơ ông một cách tận tụy. Nó đã vượt khỏi khuôn khổ của những nỗi niềm
mang phong cách thoáng qua hay đơn giản chỉ là một khía cạnh sơ đẳng của tâm lí con
người nói chung để chạm đến bến bờ của tâm trạng mang tính chất ám ảnh.
Đặc điểm thứ hai trong cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh là sự trăn trở, suy tư
trước những thăng trầm của cuộc đời, của lòng người; của đạo đức xã hội… Nói một
cách ngắn gọn đó là những biểu hiện của thể tài đạo đức thế sự. Những biến đổi khôn
lường của cuộc sống đã khắc sâu vào tâm trí của nhà thơ những dấu chỉ sâu đậm đến nỗi
nó đã sản sinh trong ông nhu cầu bộc bạch khó lòng cưỡng lại.
Thơ ca giai đoạn từ 1975 – 2000 đã đánh dấu bước chuyển mình đáng lưu ý của
thể loại thơ này. Đó cũng là điều mà Phạm Quốc Ca thấy được:
“Khi cuộc sống trở lại bình thường thơ trữ tình thế sự lại có mặt. Nhìn
chung thể tài này chỉ phát triển trong nền văn học phi sử thi hóa, không còn
bị áp lực của cảm hứng ngợi ca và cái nhìn lãng mạn đối với hiện thực (…).
Với thể tài thế sự, trong thơ sau 1975 đã hình thành một dòng thơ hiện thực.
Cảm hứng chính của thơ trữ tình thế sự là sự thật, một cảm hứng lớn của
nền văn học, nghệ thuật đổi mới” [15, 51].
Lê Lưu Oanh cũng chỉ ra những đặc điểm cơ bản của cảm hứng này trong thơ giai
đoạn 1975 – 2000:
“Những cảm nhận về trạng thái xã hội hiện tại với những khiếm khuyết và
băng hoại về môi trường và nhân cách…Trạng thái xã hội ấy được trình bày
qua những nỗi bất hạnh của con người mà sức mạnh và chiều sâu trữ tình
đạt được nhờ bộc lộ những sự thật tàn nhẫn: thua thiệt, khổ sở, nghèo đói,
mòn mỏi, bất công, chạy trốn quá khứ, xa lánh cội nguồn, suy thoái đạo đức,
mơ ước lụi tàn, tài năng rơi rụng…” [108, 62].
Như vậy, sự trăn trở về những vấn đề: đạo đức xã hội, tình người, tình đời trong
thơ Hữu Thỉnh là sự tiếp nối dễ hiểu của thơ ca truyền thống và là một giọng điệu trong
rất nhiều giọng điệu của thơ ca hiện đại Việt Nam giai đoạn từ sau 1975.
Tiếp xúc với thơ Hữu Thỉnh, chúng tôi cho rằng: trong cảm quan về trạng thái tinh
thần xã hội, Hữu Thỉnh đặc biệt chú tâm đến vấn đề băng hoại về nhân cách, đạo đức của
con người. Nói chính xác hơn “mô – típ chủ đề nổi bật trong thơ trữ tình thế sự là quan
hệ giữa người với người” [15, 54]. Và chúng ta nhận thấy cảm quan này giữ vai trò rất
nổi bật trong cảm hứng thế sự của thơ Hữu Thỉnh.
Thói thường của cuộc đời, sự vô tâm, vô cảm của con người đã để lại trong tiềm
thức nhà thơ những dấu hỏi lớn. Nó như những vực sâu địa ngục của trái tim, những cái
giếng sâu nhất mà bàn tay con người đã từng đào trong địa ngục tình cảm. Hữu Thỉnh
cũng như bao nhà thơ khác bằng lòng với việc phản ánh những vết xước đó bằng ống
kính trần tục. Và trong chuỗi phản ứng nhiệt thành này, những thứ chất lỏng màu xám
của tinh thần đã kết tủa lại trong một dạng thù hình duy nhất, như là bằng chứng sinh
động của sự đổi thay của các giá trị tinh thần. Đó là sự thắc mắc khôn nguôi và khắc
khoải về tình người hay nói đúng hơn là mối quan hệ giữa người với người:
“Tôi hỏi người:
- Người sống với nhau như thế nào?”
(Hỏi)
Hay đạo đức của xã hội:
“Người than thở vì mất mùa nhân nghĩa”
(Tạp cảm)
Sự xuống cấp của đạo đức xã hội trước sức mạnh ru vỗ của cuộc sống kim tiền đã
làm tê liệt lòng trắc ẩn của con người. Những gì là chuẩn mực của truyền thống đều có
mùi cửa sổ, những cái mới trổi lên như một sự ngạo nghễ khó chịu mà chúng ta phải chấp
nhận. Con người phải trải qua những cơn chóng mặt dịu dàng của sự sụp đổ tinh thần và
không ngớt cảm thấy “bất hạnh” ngay trong hạnh phúc nhỏ nhoi của mình. Nhân nghĩa
mất mùa, luật nhân quả thì an phận trong cái nôi ngoài mong đợi của nó:
“Luật nhân quả
ngủ gật
trên bậc cửa”
(Bất hạnh).
Không những thế, “đường nhân quả” trong niềm tin của Hữu Thỉnh nhiều lúc đã
sa sầm vào bến bờ nhiêu khê, trắc trở. Không dễ để “người yêu người sống để yêu nhau”
bao giờ. Người ta hoàn toàn có thể trông đợi vào những chuyển biến tích cực nào đó, nơi
mà tình người sống trở lại với vị thế hàng đầu, chứ không thể, một cách dễ dàng, nhìn
thấy sự viên mãn của đạo đức xã hội ngay trong ý chí chủ quan của mình. Trong bài
“Chạm cốc với Xa – in”, Hữu Thỉnh viết:
“Đường nhân nghĩa chừng nào còn lắm bụi
Anh hiểu vì sao tôi ít lời”
Sự nhạt nhẽo đến mức vô tâm, lạnh lùng của tình người đôi lúc khiến Hữu Thỉnh
đau xót. Thay vì nâng đỡ nhau lên từ những vấp ngã, những thất bại trên đường đời, con
người lại cảm thấy vô cùng hạnh phúc và thảnh thơi khi nhìn vào thất bại của tha nhân.
Với họ, đau khổ của người khác là hạnh phúc sâu sắc nhất của mình. Sự lạnh nhạt này là
ranh giới vô hình cầm tù mọi mối liên hệ mang tính nhân văn mà con người vẫn thường
hay khát khao vươn tới: “Gập ghềnh đường tôi đi/ Không một ai ngó tới/ Bỗng nhiên họ
xúm lại/ Gặp bùn tôi trượt chân/ Không phải đỡ tôi lên/ Họ xem cho đỡ tẻ” (Tôi bước
vào thành phố)
Trong cảm quan của Hữu Thỉnh, những biểu hiện trên không hoàn toàn là những
hiện tượng bất chợt mang tính lẻ loi mà gần như, một cách tuyệt đối và chắc chắn, đã trở
thành một quy luật phổ biến của xã hội. Lấy suy nghĩ của loài cây vô tri giác, Hữu Thỉnh
đã nói lên sự khắc nghiệt của tình đời:
“Bão trời ta coi khinh
Bão người không chịu nổi”
(Một thoáng làm người).
Ở đây, tiếng cười – tiếng khóc; cái cao cả - tầm thường, thô kệch hòa trộn vào nhau
trong ánh chớp duy nhất của niềm trắc ẩn không nguôi. Hữu Thỉnh không chỉ nhìn thấy
sự đổi thay của các giá trị nhân bản ở mặt biểu hiện bề nổi của nó, mà còn cảm nhận
được những “tiếng chim hót trong bụi mận gai” của lòng người. Con người luôn biết
cách đổi mới các phương pháp tồn tại của mình. Dù rằng, đó là những thay đổi trái với
đạo lí nhân bản. Họ không ngại đẩy nhau lên đồi gió hú để mặc tình nạn nhân tự do khiêu
vũ với bầy sói hay biến thành những con chim ẩn mình chờ chết trong chuỗi vỡ mộng.
Trong thời chiến, khi đứng giữa ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, con
người sống rất chân thành với nhau (Những năm tháng Trường Sơn bạn bè trong trẻo
quá). Nhưng đến thời điểm này, cách sống đó tỏ ra không hợp với xu hướng của thời đại
nữa. Tình nghĩa không còn là thước đo duy nhất hữu hiệu cho giá trị sự sống. Để vươn tới
vinh quang con người sẵn sàng lấy lòng nhau, giẫm đạp nhau, lừa nhau, chơi xỏ nhau,
hãm hại nhau…: “Kẻ phản phúc vừa lau tay sạch sẽ/ Cười súng sính…Chậu cảnh biến
thành vật lót tay” (Bất hạnh); “Đụng một kẻ ngấm đủ mặt cái ác…Đố kị, gian manh,
thấp khớp, tháo dạ” (Thấy); “Thương cảm, phản thùng, khoan dung, thớ lợ” (Sang thế
kỉ).
Với nỗi ưu tư không ngớt đó, Hữu Thỉnh đã phần nào nhận diện được nguyên nhân
của những thất bại về đạo đức. Bởi lẽ, nếu trong y học, con dao mỗ là bằng chứng sống
động nhất cho sự thất bại trong việc sử dụng thuốc, thì trên bình diện đạo đức của con
người, tất cả những biểu hiện trên có vai trò tương đương với những minh chứng điển
hình cho sự biến dạng, méo mó của đời sống tinh thần xã hội:
- “Ta vay bóng mát mà không trả
Trời hiểu vì sao ta lại mất mùa”
(Đất ngày thường)
- “Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
Bị hư danh gạt về một phía
Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười
Vừa bắt gặp nụ cười
Thì lại nghe tiếng cuốc”
(Nghe tiếng cuốc kêu).
Trong vòng quay khắc nghiệt của cơ chế thị trường và sự xuống dốc của đạo đức
xã hội, nhà thơ Thu Bồn cũng từng có cảm giác lạc lõng, cuộc đời với ông những lúc ấy
không gì ngoài “ảo ảnh”, “phù du”: “Chợ huyền thoại con mua dăm ảo ảnh/ Quán phù
du con đến nghiêng bầu/ Rượu thế sự chảy tràn ly đắng/ Non không cao biển chẳng còn
sâu” (Chợ huyền thoại).
Khi bộc lộ cái nhìn của mình về khía cạnh đạo đức xã hội các nhà thơ giai đoạn
này đã không sao ngăn nổi những âm thanh và cuồng nộ từ những điều trông thấy mà
đau đớn lòng của cuộc đời.
Sự chênh lệch về mức sống đã trở thành ranh giới lí tưởng cho việc làm tệ hại đi
mối giao tế của những người bạn tâm giao:
“Mỗi khi sang chơi nhà bạn
Chú chó lông ngông thay chủ nhận người”
(Hai nhà, Trần Ngọc Thụ).
Ranh giới giàu nghèo ấy ngày càng bành trướng một cách vô độ sức mạnh của
mình. Trần Nhuận Minh đã nhận thấy điều đó trong những buổi “họp phố”. Trong mọi
huống cảnh: đuổi việc, cúp lương, chủ, thợ, họ vẫn mặc nhiên chia thành hai phe để đối
chọi với nhau. Nhà thơ đã đặt những xung đột riêng tư ấy vào mối quan hệ lớn hơn: quốc
gia, dân tộc.
“Lỡ mai nước có giặc
Lấy ai ra chiến trường”
(Họp phố).
Trước những thay đổi ghê gớm của những giá trị tinh thần, Phạm Tiến Duật cũng
không thể không thừa nhận sức mạnh của nó. Người lính trong thơ ông trở về với thời
bình cùng bao niềm trắc ẩn. Họ không còn phù hợp với lối sống mới nữa. Trong thơ
Phạm Tiến Duật, cảm giác cô đơn, bơ vơ đã đến cùng với những “luật chơi” mới của
cuộc đời mới:
“Điều cần biết thì chưa biết
Điều nên quên thì chưa quên”
(Luật chơi).
Đôi khi, nhà thơ cũng nghe thấy được sự lúng túng trong việc phân chất mớ bòng
bong của những nhập nhằng giữa tốt – xấu, thiện – ác:
“Việc đời tháo gỡ từ đâu
Ra hiên thở khói thuốc lào gọi hoa”
(Hoa lưu ly)
Trước những đổi thay của các giá trị tinh thần tốt đẹp, sự xuống cấp trên bình diện
rộng rãi của đạo đức xã hội, mỗi nhà thơ đã chọn lựa cho mình những cách thức giải
quyết khác nhau. Phạm Tiến Duật chùn chân trước thực tại, cảm thấy bế tắc và gần như
không thể dàn hòa với nó. Ông quay về với những năm tháng Trường Sơn hào hùng trong
trí nhớ, tức là thực hiện chuyến hành hương về quá khứ với tâm trạng giông tố không
ngừng trong những dòng thác tự thú mãnh liệt và day dứt: “Có lẽ vong hồn bạn đã quở
trách tôi/ Trót lãng quên những dãy rừng già suốt mười năm bom nổ/ Lá bứa quên chua,
củ nâu quên chát/ Nên tôi giữa thị thành cơn sốt lại bùng lên…Bạn ở nơi nào trong
khoảng rừng đen/ Khoảng rừng tối, khoảng rừng mưa khoảng rừng trở gió” (Cảm ơn
cơn sốt)
Hữu Thỉnh cũng trốn tránh thực tại. Nhưng ông không phải là bạn đồng hành với
Phạm Tiến Duật. Ông vẫn cư trú trong ngôi nhà hiện thực của mình. Có điều, ngôi nhà ấy
không bình thường như những nơi tránh gió mưa khác, mà để tránh giông bão thế sự. Và
ông đã thấy câu trả lời thiết thực từ tiếng vọng chân thành của thiên nhiên.
Chúng ta biết rằng, ý tưởng tìm về thiên nhiên, hòa nhập vào thiên nhiên không xa
lạ gì trong quan niệm của các nhà tư tưởng lớn trên thế giới. Aristote từng nói rằng:
“Trong mọi sự vật của thiên nhiên đều có cái gì đó kỳ diệu” [3]. Hay một câu nói thời
danh mang màu sắc minh triết của Walt Whitman: “Sau khi anh đã nếm đủ mùi của kinh
doanh, chính trị, tiệc tùng và vân vân - anh thấy được rằng cuối cùng chẳng có món nào
làm anh thỏa mãn hoặc có giá trị lâu bền – vậy thì còn lại cái gì? Còn lại thiên nhiên”.
Trong Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp từng nói: “thơ ở lưng chừng giữa "động" (cảm
xúc xao xuyến) và "tĩnh" (sự bình tâm, an nhiên)”. Phải chăng đó cũng là cứu cánh duy
nhất của con người mà Hữu Thỉnh cảm thấy được trong những cố gắng không ngớt của
mình?
Đây cũng là điều mà Hoàng Ngọc Hiến đã phát hiện được ở Thương lượng với thời
gian:
“Anh níu lấy thiên nhiên, tựa vào thiên nhiên để lấy lại sự bình tâm,
sự an nhiên, sự thanh thản. Không có sự bình tâm này, trước sau sẽ
quay cuồng, điên loạn với đa đoan của thế sự và chìm nổi của dâu
bể…. Hữu Thỉnh dường như còn cảm nhận dược cái kì diệu của “mây
trắng” và “cành hoa bưởi”, của “tiếng gà trưa” và “nhành sim
tươi”, của “trời xanh” và “mây thắm”, của “mặt trăng buồn” và
“những cánh chim vụt hiện”... Anh còn nghe được hoa trong vườn
Nguyễn Huệ kể sự nghiệp người anh hùng bằng ngôn ngữ của “mùi
hương thao thiết” và “mây thắm trên đầu”” [54].
Với thực tế tình đời được trang trí bằng trái tim bị thương, Hữu Thỉnh đã níu lấy
thiên nhiên, tựa vào thiên nhiên để phần nào giữ lại sự “bình tâm, an nhiên, thanh thản”
của một sinh linh. Đó là một sự nhượng bộ trước một sức ỳ không chịu nổi trước hiện
thực. Trước mức độ thường xuyên của “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” trong
cõi nhân sinh, với một tâm trạng ngao ngán đến tuyệt vọng trước những sự ngang trái và
độc địa, những sự phản phúc và gian trá... bày ra trước mắt, thậm chí trưởng thành mãi
lên trong giềng mối huênh hoang và nghênh ngang bất tận, tác giả đã tìm đến thiên
nhiên, vịn vào thiên nhiên như một điểm tựa mang tính chất cứu tinh, dù chỉ là níu lấy
“một cành hoa bưởi”. Vịn vào bờ vai thiên nhiên, nhà thơ không hề theo đuổi ước vọng
làm vơi đi hình ảnh con quạ trên số phận, càng không có bất cứ dấu hiệu gì để chứng tỏ
rằng ông đang khắc khoải tìm ra câu trả lời cho “một câu hỏi lớn không lời đáp” ấy.
Đâu là chỗ sự thật kết thúc, đâu là nơi những ám ảnh trong lòng bắt đầu; không phải là
nhiệm vụ phải giải quyết đến kì cùng của thiên nhiên. Với những nỗi khát khao cháy
bỏng hầu như có thể sánh chúng với nỗi hãi hùng khủng khiếp khi tìm ra bản chất của
vấn đề, thiên nhiên cũng chùng bước trước thực tại ảm đạm: “Tỉnh thức/ Những hàng
cây bật khóc” (Thương lượng với thời gian).
Nguyễn Quang Thiều cũng tìm về thiên nhiên: “trốn lo âu về lại cánh đồng”, và
sự trở về này mang dấu ấn của một cuộc hồi hương từ đô hội thị thành . Nhưng thiên
nhiên, kẻ giữ quyền năng làm tươi lại cuộc đời con người trong những bất mãn khôn
nguôi trước cuộc sống là những cánh đồng, những dòng sông, hoa cỏ của chốn làng quê.
“Với đồng quê cũng có nghĩa là tìm đến chốn bình yên tuyệt đối. Trong thơ Nguyễn
Quang Thiều, đất đai, sông nước không chỉ là nơi cư ngụ, không chỉ là nơi thanh lọc tâm
hồn sau những bão giông đời sống mà quan trọng hơn, đó là nơi có khả năng tái sinh
những vẻ đẹp kì diệu nhất, nơi chiến thắng những cằn cỗi trong đời sống tinh thần” [29,
262].
Hữu Thỉnh “níu lấy thiên nhiên, tựa vào thiên nhiên để lấy lại sự bình tâm, sự an
nhiên, sự thanh thản” bởi ông có niềm tin tưởng lớn lao vào sự thanh cao, thẳng thắn và
trong sạch của thiên nhiên. Nguyễn Quang Thiều tìm về đồng ruộng không chỉ để tìm
kiếm khát vọng thứ nhất – “sự bình yên tuyệt đối”, mà còn để được “tái sinh” và làm
dịu đi “những cằn cỗi trong đời sống tinh thần”. Tuy nhiên, nếu thiên nhiên trong thơ
Nguyễn Quang Thiều là đồng ruộng, thì cây là biểu tượng mà Hữu Thỉnh ưu ái hơn cả.
Và ý nghĩa biểu trưng của hình tượng cây ở đây không gì khác hơn sự thanh cao, vô tư,
thẳng thắn, trong sạch…
Cây là sự che chở đầy nhân ái với con người (Thấm mệt tôi ngồi nghỉ/ Bóng mát
một chùm gai” (Buổi sáng thức dậy)), luôn cảm thông với những khó khăn, chật vật của
con người (Đáng tiếc họ phải nộp thuế thu nhập cao/ Dù hoa sữa lúc đầu không muốn
thế” (Giải thích)). Lời khuyên của người mẹ trong bài Lời mẹ là một minh triết vô cùng
sâu sắc: “Hãy yêu lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng/ Đến với ai gặp nạn/ Xong
rồi, chơi với cây”. Phải chăng đó là người bạn thành thật duy nhất là bàn tay thực sự mà
con người hằng khát khao tìm kiếm sau khi đã “qua nhiều mũ áo” ?
Những tính chất phẩm chất tốt đẹp này đang yếu dần đi ở chính bản thân con
người. Hơn một lần Hữu Thỉnh so sánh mình với cây: “Tôi như cây biết giấu lá vào đâu/
Giữa gió bụi cõi người” (Bóng mát); “Tôi hay héo như cây/ Tôi hay buồn như nước”
(Tôi bước vào thành phố).
Trong cảm quan nghệ thuật của Hữu Thỉnh, cây luôn luôn mang phẩm chất thanh
cao. Nó đối lập hoàn toàn toàn với nỗi đa đoan của lòng người. Trong bài Một thoáng
làm người, cây muốn đổi bóng với con người, và chỉ trong chốc lát, nó đã không thể
không thay đổi ý định bởi: “Bão trời ta coi khinh/ Bão người không chịu nổi”.
Trăn trở về đạo đức xã hội, Hữu Thỉnh luôn luôn hướng tới sự vượt lên trên những
điều tầm thường, tẻ nhạt. Trong tâm hồn của nhà thơ luôn có sự ngự trị của ý thức tự
hoàn thiện bản thân trước những cám dỗ hay nói rõ hơn là những cạm bẫy cuộc đời:
“Chiếc ly còn trên bàn/ Thêm một ngày kỉ niệm chưa bị đem bán/ Em chưa đứng chợ
đen/ Kiếm ăn bằng lừa đảo…Anh cầm đũa vuốt tóc em/ Thêm một ngày bằng bàn tay
sạch/ Uống nước còn biết tự xấu hổ/ Chưa hất cặn sang mặt người khác…Thêm một lần
đi trên gai/ Thêm một ngày được làm người lương thiện” (Một ngày).
Trước những thất bại hay những gì chưa hoàn thiện của bản thân, cái tôi Hữu
Thỉnh luôn khát khao giữ lương tri trong sạch và luôn mang ý thức tự vươn lên những
vấp ngã:
“Tôi cố lách qua cặn lắng của đời mình
Dưới đáy cốc của hi vọng”
(Cặn lắng)
Nhân vật trữ tình vẫn giữ lòng nhân hậu chào đón người cùng thời với bao hân
hoan, như hình tượng loài cây xanh tươi đầy bóng mát, như phẩm cách thủy chung của
ngôi sao hôm mỗi chiều lại hiện trong lòng giếng, nhẫn nại, sẻ chia, yên ủi và lấp lánh dịu
hiền: “Mặc ai xô dạt mỗi ngày/ Múc đau lòng giếng vẫn đầy sao hôm” (Những ngời đi
lại phía tôi). Đức tính bao dung là liều thuốc hữu hiệu giúp con người vượt lên những
nghiệt ngã trên đường đời: Lấy khoan dung làm chiếc phao bơi/ Khiến cay đắng cũng
nhuốm màu tha thứ (Gửi người bộ hành lặng lẽ). Đó là lời tự bạch thấm đẫm tính nhân
văn của một tấm lòng luôn hướng đến sự hòa hợp, cảm thông, chia sẻ.
Những trầm tích qua bao nỗi xót xa lắng đọng lại trong kí ức nhà thơ như những
dạng đồng đẳng thân thuộc của cảm quan về nhân sinh. Những triệu chứng thầm lặng
của sự sa sút tinh thần phần nào đã được giải mã qua mối nhiệt tình trăn trở của một trái
tim không ngớt đập lên trong chuỗi khát khao hướng về những điều tốt đẹp của giá trị
tinh thần. Và điều này còn dài hơn những nỗi đau thương. Dù thế nào đi chăng nữa, như
một định mệnh giản dị, thơ ca nói chung không phải là nơi người ta có thể lưu trữ một
cách an toàn những bí mật của tâm hồn. Bên cạnh những suy tư không ngừng về nhân
thế, về thân phận của con người, ta còn bắt gặp một sự hiện hữu quan trọng khác trong
thơ Hữu Thỉnh: sự chiêm nghiệm về thời gian.
Có thể nói, trong hai tập thơ gần đây nhất của Hữu Thỉnh, thời gian xuất hiện
không chỉ với tư cách một đối tượng thẩm mỹ, mà đã đường hoàng trở thành một đối
tượng để tác giả suy ngẫm về những vấn đề có mối giao tế mật thiết đến thân phận con
người. Cảm thức này được thể hiện sâu sắc trong Thương lượng với thời gian. Rõ ràng,
tên tập thơ đã phần nào hé mở một cách trung thực những gì ẩn kín bên trong. Trong
trường hợp này, thước đo từ sự ngẫu nhiên thuần túy về mặt hình thức đến những biểu
hiện cụ thể của nội dung, là một phương pháp thực nghiệm mà trong tất cả những cố
gắng chưa từng thấy của nó, đã phần nào ngoi lên những dấu hiệu kém thuyết phục.
Cảm thức về thời gian là một biểu hiện không mới trong thơ ca. Và trong những
bình thông nhau mang tính chất nội tại thầm kín này, chúng tôi không có tham vọng trình
bày một cách thật cụ thể những điểm giống và khác nhau lớn nhất giữa Hữu Thỉnh và
những tên tuổi khác cùng thời hay cách xa, mà chỉ cho phép cái nhìn của mình gói gọn
một cách giản dị trong những biểu hiện và đặc điểm chủ yếu nhất của cảm thức thời gian
trong tập Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian.
Thư mùa đông đã bật lên những niềm thảng thốt đâu tiên của cái tôi Hữu Thỉnh
trước thời gian. Trong cảm giác của nhân vật trữ tình, thời gian “không còn được đong
đếm bằng “những chặng đường tất bật” mà chan chứa niềm vui, bằng “hai mươi năm”,
“mười bốn năm”, bằng “trùng điệp những ngày qua” đầy tính chất bi tráng như trước
đây” [130, 113].
Thời gian đến đây được cân đong từng ngày trước những mối đe dọa mang tính
chính quy của sự hủy hoại, cám dỗ, bất hạnh: “…Thêm một ngày kỉ niệm chưa bị đem
bán/ Thêm một ngày bình yên nhìn các con…Anh cầm đũa vuốt tóc em/ Thêm một ngày
bằng bàn tay sạch” (Một ngày); Anh đi tìm một ngày cau ấp bẹ (Im lặng); Tôi nép dưới
mái hiên/ Cố tin rằng hôm nay không có người bất hạnh” (Thơ dưới mái hiên),… Có khi
nó dừng lại trong cảm giác trong sự nhận thức của con người trước những nỗi đau muôn
thuở của thân phận: “Nguyễn Du viết Kiều hơn hai trăm năm/ Gió vẫn lạnh trên vai
người phận bạc” (Mười hai câu); “Chùa xưa sư vẫn đây/ Khói nhang buồn thăm thẳm”
(Chăn – đa em ơi). Sự nhanh chân của thời gian trong nhiều trường hợp không đồng
hành cùng những tín hiệu của hi vọng mà chỉ bồi đắp thêm những thách thức: “Chưa
viết giấy đã cũ/ Chưa viết sông đã đầy/ Chưa viết chợ đã đông/ Chưa viết đồng đã bạc”
(Tạp cảm). Đó là một thời gian đầy bất trắc và tráo trở - kho lưu trữ vô tận của những đổi
thay. Trước những thao túng mạnh mẽ ấy, giá trị chân chính của văn chương không khỏi
đứng trong trình trạng đặc biệt nguy hại: “Câu thơ đứng giữa trời/ Vó nhện cất sương
rơi” (Tạp cảm).
Đọc Thương lượng với thời gian, ta thấy rất rõ tư thế của con người đối với thời
gian: tư thế ngang hàng. Con người ở đây xem thời gian như một đối tác để có thể
“thương lượng”, khế ước. Nhưng rõ ràng đây là một cuộc đàm phán mang tính chất
không dễ dàng. Nanh vuốt thời gian luôn có xu hướng siêng năng săn đón và đẩy con
người vào những vực thẳm không tên. Nếu thời gian tỏ ra nhân nhượng với nổ lực đáng
trân trọng của con người bao nhiêu thì đó là những bằng chứng của việc nới lỏng sự siết
chặt không ngừng trong niềm kiêu hãnh vô biên của nó bấy nhiêu. Dĩ nhiên, Hữu Thỉnh
không phải là người đầu tiên đề cập đến điều này trong thơ ca, nhưng rõ ràng, đối với
ông, sự chóng vánh, mong manh, hữu hạn của kiếp người, của cuộc đời, là một ám ảnh
thực sự. Ở đó, con người không được hô hấp cái thiêng liêng của không khí thiêng
đường mà phải luôn làm quen với những nhịp thở hổn hển trong sự giày vò của cơn
chóng mặt khi đi men theo vực thẳm của tâm hồn: “Hôm nay thì tiếc. Mai thì sợ/ Tuột
cương trăng cũ lại sang rằm” (Năm đi); “Sau mỗi lần chạm cốc/ Biết đời còn mấy ai?”
(Năm tháng trên vai); “Đời nhanh quá vui buồn chưa kịp cũ” (Thưa thầy); “Cây vẫn
đây mà năm đã qua” (Gửi người bộ hành lặng lẽ);
Đó cũng là sự tiếc nuối thời gian đã mất, hay đúng hơn là sự tự ý thức về cái hữu
hạn của đời người: “Trẻ trung thế chỗ em rồi/ Thắm tươi thế chỗ thắm tươi thuở nào”
(Đi chợ Vĩnh Yên); “Mua đào tiễn mỗi xuân đi/ Năm năm tháng tháng chắc gì đã em”
(Tiễn xuân).
Nhưng có lẽ, điều làm con người phải nghĩ suy nhiều nhất, đắn đo nhiều nhất là sự
trơ ỳ của thời gian, sự lặp đi lặp lại một cách tẻ nhạt đến mức vô nghĩa lí của những công
thức mang tính ổn định. Đây hoàn toàn không phải là những hợp kim tình cờ, mà là hiện
thân của những gì trở thành nỗi khắc khoải giải tỏa của con người trong sa mạc của thất
vọng: “Buổi sáng lo kiếm sống/ Buổi chiều tìm công danh/ Buổi tối đem trí khôn ra mài
rũa” (Thương lượng với thời gian); “Đi suốt ngày đời vẫn nguyên chỗ cũ” (Thấy).
Hữu Thỉnh đã không thể chối từ sự cảm nhận tính chất mong manh của đời người
trong ánh chớp của muôn vàn sự bất trắc, hiểm nguy thường xuyên rình rập khi con
người lặng lẽ đi vào “ngõ thu” của cuộc đời với những “cánh diều mong manh” trong
khi ngày “mau sập chiều”, “xoáy vực” thì “chông chênh”, chỉ một cơn gió, bóng mẹ già
“bỗng thành thiên thu”...
Nhận xét về sự khác biệt về thời gian nghệ thuật trong Thư mùa đông và thơ Hữu
Thỉnh giai đoạn trước, Nguyễn Nguyên Tản cho rằng: “Trong thơ trữ tình sử thi, thời
gian với những giây phút chuyển giao từ đêm sang ngày, từ mùa nọ sang mùa kia hiện ra
với bao vẻ đẹp sáng tươi ấm áp: “Suối cứ đổ trong bình minh nõn chuối”, “Có đám mây
mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”, “Và mùa xuân, anh đã nghe rõ mùa xuân/ Hoa xoan
rụng trước của hầm tím cát”, “Ve vẫn kêu úp mặt vào cây/ Không sương sớm để cho
lòng lẫng bẫng”. Bây giờ là thời gian hiện ra với bao hư vô, hư ảo: “Bồ đề mùa lá rụng/
Bay mờ trong hư vô”; “Tôi ngồi buồn đếm ngón tay…Đếm đi đếm lại trời ngả sang
chiều”” [130, 112].
Từ Thư mùa đông đến Thương lượng với thời gian là cuộc hành trình đi từ thảng
thốt đến ám ảnh trong sự nhận thức về thời gian của Hữu Thỉnh. Thư mùa đông khiến
chúng ta tập trung sự chú ý vào sự hiện diện của nỗi cô đơn với bằng cách dùng nhiều
những lát cắt bộ phận qua các thời điểm trong ngày (buổi sáng, trưa, chiều) để đánh dấu
sự đổ vỡ, mất mát. Đặc biệt là chuỗi thời gian buổi chiều trở đi trở lại như những điệp
khúc (chiều biển động, chiều bỏ không, chiều gió bạc, hoa tặng chiều nay ai dẫm nát, em
không phải chiều mà nhuộm anh đến tím,…). Đó là những dấu hiệu chứng tỏ, thời gian
dù đang tấu lên khúc nhạc gì của lòng người, vẫn có xu hướng được nhận thức bằng
dạng thức cụ thể. Thương lượng với thời gian xác tín sự lên ngôi và thống ngự của thời
gian bằng cách đi sâu hơn vào những bi kịch tinh thần trước sự đe dọa và hủy hoại của
thời gian. Con người đến đây đã nhìn rõ bản chất của nó (Đem cho. Đem cho/ Không giữ
lại chút gì/ Đòi lại. Đòi lại/ Không hề thương tiếc – Thời gian). Thời gian trong Thư mùa
đông là thời gian của “nỗi cô đơn, lo ngại cho sự đỗ vỡ của các giá trị tình cảm và đạo
đức” [130, 112]. Đến Thương lượng với thời gian, nó đã trở thành một sự nhận thức
hoàn chỉnh bản chất của đối tượng trong mối quan hệ với tình đời: “Đôi luống thời gian/
Ai ải mùi đời” (Mồ hôi đón ngõ). Một hằng số có sức ám ảnh xuyên suốt tập thơ không
gì khác hơn sự mong manh, hữu hạn, chóng vánh của thân phận con người trước: Mua
đào tiễn mỗi xuân đi/ Năm năm tháng tháng chắc gì đã em (Tiễn xuân), Gió neo tay mẹ
bỗng thành thiên thu (Ngõ thu), Vừa trong mơ cùng tôi/ Cây ra đường đã bụi/ Vừa dào
dạt cùng tôi/ Biển đã thành sương khói (Vừa trong mơ cùng tôi), Cây vẫn đây mà năm đã
qua (Gửi người bộ hành lặng lẽ), Sống một ngày lội qua cả kiếp người (Thấy)…
Trên đây là những biểu hiện cơ bản của cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh mà
chúng tôi nhận thấy được. Tuy nhiên, bên cạnh những điều trên, chúng tôi muốn nói
thêm rằng, một điều gần như khu biệt về mặt giọng điệu giữa tác giả và các nhà thơ khác:
cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh chủ yếu được chuyển tải bằng chất giọng suy tư,
triết lí (không ngừng về nhân thế) một cách trầm lắng. Nhân vật trữ tình thơ thế sự Hữu
Thỉnh không có thói quen buộc người khác nhớ đến mình như một đại biểu của chất
giọng tự thú hay giễu nhại. Nói khác đi, hai loại giọng điệu nổi bật của thơ thế sự sau
1975 này hoàn toàn mất hút vào vùng không gian bên ngoài nhiệt tình sáng tạo nghệ
thuật của Hữu Thỉnh. Đây cũng là nét khu biệt dịu dàng dễ nhận thấy.
Nếu sự chưa hài lòng có năng khiếu giữ chúng ta ở lại lâu hơn trong những lời
phân trần chính đáng, thì có lẽ, linh cảm sẽ bảo chúng ta hướng về nguyên nhân của
những cung bậc cảm xúc trong cảm hứng thế sự thơ Hữu Thỉnh. Về vấn đề này, chúng
tôi cảm thấy không có bất kì lí do nào cản trở sự đồng tình của mình với cách hiểu và
“Cảm xúc đau đớn, xót xa ấy thường trực trong hồn thơ Hữu Thỉnh,
giải thích của Nguyễn Đăng Điệp:
hiện ra như một ám ảnh, trở thành nhịp mạnh trong cấu trúc giọng
điệu thơ anh. Tuy nhiên, tôi nghĩ chiều sâu và nét riêng trong cái nhìn
nghệ thuật của Hữu Thỉnh chính là những suy tư không ngừng về
nhân thế bằng chất giọng trầm lắng (…). Đó không phải là những
suy tư trừu tượng, những triết lí đại ngôn, mà là những suy tư xuất
phát từ những cảm nhận rất riêng của một trái tim đa cảm. Người thơ
ấy phải là một người hết lòng tin yêu vẻ đẹp cao cả của con người.
Chính vì thế mà hay buồn. Chính vì thế mà biết coi nỗi đau của người
khác cũng là những vết cứa không nguôi trong tâm khảm mình” [30].
Nếu chúng ta khẳng định rằng: “chiều sâu và và nét riêng trong cái nhìn nghệ
thuật của Hữu Thỉnh chính là những suy tư không ngừng về nhân thế” thì ngay lúc đó,
lập luận của chúng ta đã mang tất cả dấu hiệu lạc quan trong việc gợi lên những ý kiến
phản bác mới. Những nhà phản biện nghiêm nghị sẽ có quyền chất vấn rằng: là nhà thơ
không ai không ít hay nhiều “trăn trở”, “suy tư” về nhân thế. Và thực tế, không phải đợi
đến Hữu Thỉnh, chúng ta mới có những vần thơ mang màu sắc suy tư ấy. Như vậy, rõ
ràng, ý kiến trên chưa sở hữu nhiều giá trị chân xác về mặt khoa học. Và nếu ta tiếp tục
phúc đáp lời phản biện chân thành và hết sức chính đáng ấy bằng sức mạnh sơ đẳng của
một cụm từ mang phẩm chất bổ sung thuần túy rằng: “chiều sâu và và nét riêng trong cái
nhìn nghệ thuật của Hữu Thỉnh chính là những suy tư không ngừng về nhân thế bằng
chất giọng trầm lắng” (như Nguyễn Đăng Điệp đã nêu); thì kết quả, theo chúng tôi, có
lẽ cũng không tiến xa hơn ngoài việc làm sống lại những mối thất vọng cũ. Bởi lẽ, niềm
hi vọng duy nhất của chúng ta, tức là phần khu biệt về giọng điệu của Hữu Thỉnh so với
các đồng nghiệp về thể tài này (“bằng chất giọng trầm lắng”) vẫn chưa có đủ năng lực
khu biệt một cách rạch ròi và rõ ràng cái riêng, cái đặc trưng quan trọng nhất của Hữu
Thỉnh khi đặt nó vào sự đối sánh một cách nghiêm túc. Trên thực tế, cũng có không ít
những nhà thơ khác cũng “suy tư không ngừng về nhân thế” và giọng điệu của họ vẫn
nằm trong sự quản lí thường trực của sự “trầm lắng”.
Như vậy, tần suất và tính chất đậm nhạt của giọng điệu không giúp đỡ chúng ta
nhiều lắm trong việc đưa ra một đặc trưng có giá trị nhất về cảm hứng thế sự trong thơ
Hữu Thỉnh. Các khía cạnh này, trong chừng mực nhất định, chỉ gợi lên hướng giải thích
cho một phần của vấn đề. Điều quan trọng nhất, theo chúng tôi, nằm ở nội hàm của
những khía cạnh được nói đến. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng, hệ tọa độ mà các
vấn đề được đề cập trong cảm quan thế sự trong thơ Hữu Thỉnh là hai vấn đề luôn được
nhà thơ quan tâm: thân phận con người (nổi bật nhất là sự cô đơn) và vấn đề băng hoại,
xuống cấp của đạo đức.
Thơ Hữu Thỉnh không có những đặc điểm mà gần như trở thành nét son nổi bật
trên gương mặt thơ ca giai đoạn 1975 – 2000: “Những dự cảm tương lai không hề tốt đẹp
và không chỉ là hạnh phúc mà còn có cả bất hạnh, cả hi vọng lẫn tuyệt vọng…Ít hoặc hầu
như không có cảm giác về sự thay đổi đáng tin cậy. Vì thế không có chiều thời gian tương
lai trong loại thơ này mà chỉ tồn tại trạng thái bất ổn, lo âu”.
Nguyễn Quang Thiều với Sự mất ngủ của lửa, đã rất thành công trong việc đưa ra
ánh sáng những điều được chờ đợi này: “Trạng thái này được Nguyễn Quang Thiều dựng
lại rất có hồn trong cảm nhận về một làng quê nghèo đói, cay đắng, ao tù, với bầu trời
sắp bão oi nồng cơn sốt, có những cơn gió dại loang lỗ, điên cuồng quần quật trong đêm
trường, với ánh trăng chói gắt như mặt trời mùa hè hay với những tiếng chó sủa đầy ráo
riết và mang rợ” [108, 83].
Nguyễn Quang Thiều cũng hết sức trăn trở, suy tư về thế sự. Nhưng những hải
đảo trầm mặc nổi lên trong thơ ông (qua tập Sự mất ngủ của lửa) cơ bản nhất là: “trăn
trở về sự suy kiệt của cõi thế và khả năng tái sinh của nhân loại” [29, 263]. Tuy nhiên,
“sự suy kiệt về cõi thế” ở đây không nhằm vào vấn đề sự cô đơn hay ám ảnh về thời gian
(thân phận con người) hay các vấn đề đạo đức như trong thơ Hữu Thỉnh. Đi qua các lối
quanh của biểu tượng lửa trong Sự mất ngủ của lửa, chúng ta phần nào đọc được bức
thông điệp đầy nhiệt huyết đã được mã hóa một cách cẩn thận và công phu của Nguyễn
Quang Thiều: “Dùng lửa làm biểu tượng, Nguyễn Quang Thiều đã phát đi một bức thông
điệp kêu cứu cho những giá trị văn hóa truyền thống ngày càng bị mai một, là sự hồi cố
và tìm kiếm những bóng dáng của quá khứ…” [58].
Nhận xét về tập Sự mất ngủ của lửa, Phạm Quốc Ca cũng cho rằng: “Thơ Nguyễn
Quang Thiều mang mặc cảm của con người hiện đại, dị ứng với mặt trái văn minh đô thị.
Nhà thơ cho rằng đó là thế giới của “bệnh điên ánh sáng”, của “cơn viêm xoang khổng
lồ”, ăn rỗng từng vòm đức hạnh…” [15, 144].
Một chấm xanh cũng có những vẻ sinh động riêng trong mối quan tâm về thế sự
của Phùng Khắc Bắc. Đó không phải là thiên đường bị khánh kiệt nhân nghĩa hay những
ám ảnh đằng đẵng của con người trong cuộc chiến kém hiệu quả nhằm chống lại sự bủa
vây và thao túng của nỗi cô đơn và sự ám ảnh của thời gian như trong thơ Hữu Thỉnh.
Hai hằng số này trong thơ Hữu Thỉnh như tiếng gọi của tai ương hay là sự bổ trợ hoàn
toàn cho những khối u tinh thần mang đầy vẻ sống động của hiện thực. Một chấm xanh là
“sự thụ cảm trí tuệ về người lính và số phận con người sau chiến tranh” [45, 504]. Nó sở
hữu phẩm chất suy tư về lối sống và giá trị mang đầy tính nhân bản của cuộc sống: sống
– chết, thiện – ác, chân thực – giả dối, đúng – sai… “Phùng Khắc Bắc không phản ánh
hiện thực trực tiếp mà đi sâu vào những suy tưởng về thân phận, về số kiếp và thế giới
tâm linh của con người” [157]. Trong các đối cực của cuộc sống, những suy ngẫm về sự
sống và cái chết trở thành một nội dung nổi bật. Đó là cột thu lôi ưu tú, nơi cho phép tác
giả thu được những ánh chớp chói chang có giá trị ngang hàng với những lẽ phải thiêng
liêng (Bài thơ riêng cho những người chết, Cô đơn, Ta chết đây, Trước mộ em trai ở
nghĩa địa Hà Lầm,…). Phùng Khắc Bắc tỏ ra không mấy chú tâm đến sự cô cạn đến lạnh
lùng, vô cảm của tình người. Ông đặc biệt nhạy cảm với tình trạng phân liệt cục bộ của
đời sống tinh thần con người. Ông ưa thích vị ngọt của sự viên mãn tuyệt đối: con người
của ông là sự xuyên thấm và tổng hợp trọn vẹn của tinh thần và vật chất (Ta là ta phần
xác lẫn phần hồn, (Con chó đá)); và cảnh báo mạnh mẽ sự ưu thế đang lên của phép
thắng lợi tinh thần (Ta đã bị thu nhỏ rất nhiều (Không đề IV)).
Đó là những điểm khác biệt rõ nét mà chúng ta có thể nhận thấy về cảm hứng thế
sự trong thơ của mỗi tác giả.
Trong thơ Hữu Thỉnh, hai vấn đề thân phận con người và đạo đức xã hội không
tồn tại một cách hoàn toàn tách biệt trong những tổ ấm cá nhân của mình. Chúng được
kết nối với nhau theo luật nhân quả. Chính những thay đổi, xuống cấp về những giá trị
tinh thần, mà chủ yếu nhất là những vấn đề về đạo đức đã manh nha một cách mạnh mẽ
cảm giác hụt hẫng và trong sự hỗ trợ của một môi trường áp suất lí tưởng của tinh thần,
nó đã dễ dàng đưa con người đến sự cảm nhận chân thực nhất về những hình ảnh bất
hạnh của đời mình. Trong đó, có nỗi cô đơn.
Tuy nhiên, vấn đề đạo đức ở đây không hề mang tính chất chung chung, siêu
hình. Nó được soi rọi liên tục bằng áng sáng của một chuẩn mực nhất định. Và theo
chúng tôi, đó là sự ảnh hưởng của quan niệm “luật nhân quả” của Phật giáo. Chúng ta có
thể dễ dàng bắt gặp những biểu hiện của yếu tố này trong không ít những bài thơ của tác
giả: luật nhân quả (Bất hạnh), đường nhân nghĩa (Chạm cốc với Xa - in), mùa nhân
nghĩa (Tạp cảm),…
Đây cũng là nét khác biệt cơ bản dễ nhận thấy giữa Hữu Thỉnh và Phùng Khắc
Bắc. Tác giả của Một chấm xanh liên lạc một cách thường xuyên với những biểu tượng
mang màu sắc Thiên chúa giáo. “Thơ Phùng Khắc Bắc để lại một ấn tượng đậm nét ở
người đọc về biểu tượng hạt bụi, quầng bụi, hạt cát, hạt phù sa (…). Biểu tượng hạt bụi
(cát bụi) gợi ta nhớ đến một triết lí trong Kinh thánh: thân cát bụi trở về cát bụi (…). Ý
thức về con người, vế số phận khiến Phùng Khắc Bắc tìm thấy ở hạt bụi vô thức chỗ
nương tựa cho tư tưởng, như một công cụ biểu đạt” [45, 496].
Tóm lại, cảm hứng thế sự là cảm hứng đặc trưng và nổi bật nhất của thơ Hữu
Thỉnh ở giai đoạn sáng tác sau chiến tranh. Dù rằng, đến giai đoạn này, cảm hứng trữ tình
vẫn tồn tại nhưng thông qua cảm hứng thế sự, chúng ta có điều kiện nhận diện thơ Hữu
Thỉnh một cách đầy đủ và toàn diện hơn.
1.2.2. Cảm hứng trữ tình:
Cảm hứng trữ tình trong giai đoạn sáng tác trước 1975 đã đem lại cho thơ Hữu
Thỉnh khám phá thành công về hình tượng người lính, người mẹ, quê hương – đất nước.
Có thể nói đây là ba đối tượng quan trọng nhất trong giai đoạn sáng tác trong chiến tranh
của Hữu Thỉnh.
Với hình tượng người lính, Hữu Thỉnh đã đem góp thêm vào thơ ca chống Mỹ
những vần thơ đẹp và đầy chất sáng tạo khi viết về đối tượng khá quen thuộc này:
“Năm anh em trên một chiếc xe tăng
Như năm bông hoa nở cùng một cội
Như năm ngón tay trên một bàn tay
Đã ra trận cả năm người như một”
(Năm anh em trên một chiếc xe tăng)
Xây dựng hình tượng người lính, Hữu Thỉnh thường đặt họ vào thế đối lập với
hoàn cảnh chiến trường. Chiến trường càng khắc nghiệt, ác liệt bao nhiêu, hình tượng
người lính càng hiện lên với vẻ chân thực và đẹp đẽ bấy nhiêu về ý chí, quyết tâm sắt đá
của mình: Ngã ba Chân Vạc, Trên cao điểm mùa xuân, Kỷ niệm về bữa cơm ăn đứng,…
“Không còn lá để cho bom xé nữa
Không còn cây để cho bom bén lửa
Mọi quả bom đều rơi trúng đất
Trên ngã ba Chân Vạc chúng tôi”
(Ngã ba Chân Vạc)
Cũng như những nhà thơ khác cùng thời, Hữu Thỉnh cũng chú ý khai thác và làm
nổi bật khía cạnh trẻ trung, hồn nhiên, pha chút tinh nghịch của người lính. Đây cũng là
sự bổ sung cần thiết để hoàn thiện thêm bức tranh chân thực và sinh động về hình tượng
trung tâm của thơ ca chống Mỹ. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp vẻ đẹp tinh thần này qua
các bài thơ: Câu cá bên bờ Sê – Pôn, Tắm mưa, Tắm mưa trên cao điểm, Sau trận
đánh,…
“Một số anh thì đuổi nhau trên cát
Một số anh thì đổ dế, hái hoa”
(Sau trận đánh).
Khía cạnh lãng mạn trong tâm hồn của người lính cũng được Hữu Thỉnh chú ý với
những biểu hiện khá cụ thể của nó. Chẳng hạn, khi nghe tiếng hát trong rừng của một cô
gái, phẩm tính nghệ sĩ trong người lính như được đánh thức. Nó bật dậy giữa không gian
đầy vắng lặng tràn đầy chất thơ của núi rừng:
“Anh vịn vào tiếng hát vượt gian lao
Những năm Trường Sơn bạn bè trong trẻo quá
Tiếng hát đi rồi căn hầm còn đó
Thành chiếc hộp đàn giữa lòng đất âm sâu”
(Tiếng hát trong rừng)
Như vậy, hình tượng người lính trong thơ Hữu Thỉnh trong chiến tranh hiện lên với
tất cả những biểu hiện cụ thể và chân thực của đời sống vật chất và tinh thần. Và nhìn
chung những biểu hiện này không nằm ngoài xu hướng chung của thơ ca đương thời. Tất
cả được đảm bảo trong môi trường của cái nhìn lí tưởng hóa, ca ngợi, khẳng định.
Hình ảnh người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh cũng được viết với một cảm hứng trữ tình
sâu sắc và đầy cảm động. Người mẹ vĩ đại là vậy, thủy chung, son sắt là vậy mà vẫn rất
gần gũi, rất thân thiết với mỗi chúng ta. Người mẹ trong thơ ông hiện lên qua kí ức
nguyên sơ và sâu nặng của những đứa con chiến đấu ở chiến trường:
“Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ
Mẹ ở nhà đã cất áo bông
Mẹ có ra bờ sông
Qua bến đò tiễn con dạo trước
Đường xuống bến có mười sáu bậc
Mẹ nhớ thương con đã bạc mái đầu”
(Sức bền của đất)
Qua cái nhìn của người lính – nhân vật trữ tình, hình tượng người mẹ hiện lên như
là hiện thân của quê hương thân thuộc, có khi hóa thân thành biểu tượng cho Tổ quốc.
Nhưng quan trọng hơn hết, nổi bật hơn hết, trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn này, hình
tượng người mẹ chủ yếu được khắc họa qua lăng kính mối quan hệ cá nhân. Người mẹ ở
đây có thể là người mẹ của mỗi nhân vật trữ tình nhưng cũng bao hàm cả ý nghĩa biểu
trưng cho người mẹ của tất cả mọi người. Đó là sự tinh tế và thành công dễ nhận thấy của Hữu Thỉnh khi ông viết về đề tài khá quen thuộc của thơ ca chống Mỹ này.
“Xúc động quá quê ơi
Nỗi căm giận không cứ chờ phải máu
Mẹ ta ốm húp bát canh rau dệu”
(Đêm chuẩn bị)
Chính tình cảm thiết tha, sâu nặng dành cho mẹ đã để lại trong thơ Hữu Thỉnh
những dòng thơ chân thực và cảm động về hình tượng này. Đây cũng là một trong những
thành công rõ nét về hình tượng thơ giai đoạn sáng tác trong chiến tranh của tác giả.
Chịu chi phối bởi cảm hứng lãng mạn cách mạng, cảm hững trữ tình về quê hương,
đất nước trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sáng tác trong chiến tranh chủ yếu xoáy vào cái
kì vĩ, lớn lao, sức mạnh và sức sống bền bỉ, kiên gan của quê hương, đất nước trong cuộc
chiến hào hùng với kẻ thù. Hình tượng quê hương, đất nước trong thơ Hữu Thỉnh được
khúc xạ chủ yếu qua hình tượng người mẹ. Trong những năm đau thương của chiến
tranh, hình tượng quê hương hiện lên với tất cả nỗi nhục nhằn, đau thương nhưng cũng
rất anh hùng:
“Nghìn tấn bom một ngày
Không chừa đâu vườn mẹ
Tọa độ chín ô kẻ
Vườn ổi lọt vào trong”
(Hương vườn).
Quê hương, Tổ quốc là những gì lớn lao, thiêng liêng, kì vĩ, nhưng cũng thật gần
gũi với con người. Tổ quốc có thể là lịch sử hào hùng của gần bốn nghìn năm dựng nước
và giữ nước nhưng cũng có thể vô cùng giản dị như hình ảnh của khu vườn của mẹ
(Hương vườn) hay chỉ là một gốc sim cằn: “Trời ơi, nếu kẻ thù chiếm được/ Chỉ một gốc
sim thôi dù chỉ gốc sim cằn/ Tổ quốc sẽ ra sao?/ Tổ quốc” (Đường tới thành phố) .
Cảm hứng trữ tình giúp Hữu Thỉnh len lõi vào những mạch tế vi của tình yêu lứa
đôi trong thời điểm chiến tranh để vẽ lại biểu đồ biến thiên và các đường tiệm cận chân
thực của nó. Thực ra, thơ tình trong giai đoạn sáng tác trong chiến tranh của nhà thơ chưa
bao giờ khiến chúng ta phải thực lòng chú ý đến số lượng của nó. Tính chất này luôn kết
thúc trong sự khiêm nhường một cách giản dị của kĩ thuật đong đếm. Nhưng có lẽ, điều
đủ sức lay chuyển chúng ta đến với sự bận tâm nằm ở nội hàm, tức là chiều sâu của cái
giếng thơi tâm hồn ấy. Ở đây, trong rất nhiều bài tình ca mùa li loạn của mình, Hữu
Thỉnh đã phần nào tái hiện được những bước sóng tin cậy của tâm hồn người trong cuộc
bằng phẩm tính nhạy cảm tuyệt vời của chiếc ra – đa thường trực trong lòng ngực và lí
trí.
Chúng tôi cảm thấy sự cần thiết chia sẻ ở đây nhận xét của Lưu Khánh Thơ: thơ
tình Hữu Thỉnh trong giai đoạn chiến tranh chỉ là những phác thảo sơ bộ ban đầu của ông
về đề tài này. Thế nên, trong một chừng mực nào đó, nhà thơ chưa tạo dựng được trong
tầm đón đợi của mọi người, một phong cách thơ tình mang hình hài khu biệt rõ nét.
Trên những vùng chiến thuật ưa thích của đời sống tình cảm này, thơ Hữu Thỉnh
thường xuyên đặt nhân vật trữ tình vào tư thế bày tỏ, bộc bạch cảm xúc, tâm tư của người
lính chiến. Và trong sự liên lạc giữa lí tưởng lớn lao và tình cảm cá nhân bé nhỏ, những
gì thuộc về lợi ích của cộng đồng luôn giữ vai trò thống ngự. Người lính không hề có chủ
đích nói nhiều về nỗi nhớ, hay bình luận một cách thiết tha, sôi nổi về độ nông sâu, đậm
nhạt của tình cảm. Sở thích của họ nằm ngay trên từng mảnh đất chiến trường mà tuổi đời
đi qua, nương náu ngay trong những khó khăn vất vả tất yếu của hoàn cảnh. Mũi tên của
họ, ngay từ giây phút được đặt lên dây cung của tâm hồn đã manh nha đường bay của
mình về phía người yêu, như một đối tượng lí tưởng để bày tỏ, tâm tình: “Đi trong mây
anh thấy ấm em à/ Hồn hậu quá như bàn tay em ấy” (Đi trong mây); “Em thấy không ?/
Trước em anh vụng về/ Giờ thành ra khôn khéo” (Ý nghĩ không vần),…
Có thể nói, cảm hứng trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh trong giai đoạn sáng tác trong
chiến tranh là cảm hứng mang sự giới hạn của về nội dung của giai đoạn văn học này.
Điều này xuất phát từ nguyên nhân lịch sử của nó. Cảm hứng này không mang nhiều dấu
ấn cá nhân đặc biệt. Tức là, những vần thơ ấy của Hữu Thỉnh nằm trong khuôn khổ
những chuẩn mực cần và bắt buộc phải được đáp ứng. Những vấn đề có liên quan mật
thiết đến cộng đồng, tập thể, với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chiếm một tỉ lệ áp
đảo so với phần còn lại. Những vấn đề chung mang tính chất phổ biến và bao trùm của
giai đoạn văn học này được Hữu Thỉnh chú ý và ban cho nó quyền lực chế ngự cảm quan
sáng tác. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta cố tình quên lãng hay lãng quên một
cách chính đáng những bài thơ tình mang màu sắc cá nhân của ông. Hữu Thỉnh, trong
giai đoạn này, có một ít những bài thơ tình, như một số nhà thơ khác cùng thế hệ hay
trước đó. Điều này không cần nghi ngờ gì thêm. Nhưng chúng tôi cho rằng, những bài
thơ tình này, nói một cách chính xác về tác dụng và nội dung chủ đạo vẫn không nằm
lệch đi so với tiêu chí sáng tác mà chúng ta vừa có dịp trình bày ở trên. Sứ mệnh của nó
không gì khác hơn đào sâu thêm vào khía cạnh tâm tư của người lính, mà mục tiêu khắc
khoải nó cần đáp ứng là biến những nỗi niềm riêng tư ấy thành sức mạnh chiến đấu. Do
đó, như Lưu Khánh Thơ từng khẳng định, những bài thơ tình này, xét về chất, cơ bản chỉ
là những rung động sơ khai của cảm hứng trữ tình về đề tài tình yêu một cách đích thực
và trọn vẹn.
Tóm lại, cảm hứng trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sáng tác trong chiến
tranh là cảm hứng trữ tình phục vụ cho những đề tài quen thuộc của thơ ca giai đoạn này
nói riêng và văn học giai đoạn này nói chung. Trong những biểu hiện cụ thể của nó, cảm
hứng này nhiều lúc có sự giao thoa với cảm hứng lãng mạn cách mạng. Với sự trợ thủ
đắc lực của cảm hứng này, Hữu Thỉnh đã viết nên những dòng thơ có giá trị cho giai
đoạn văn học chống Mỹ, và qua đó, hòa vào bản đồng ca chung của thời đại.
Trong giai đoạn sáng tác sau chiến tranh, cảm hứng trữ tình tồn tại song song với
cảm hứng thế sự. Và nếu cảm hứng thế sự là sự chuyển tông tất yếu của giai đoạn văn
học sau chiến tranh, với tư cách vị khách mới của thời đại; thì cảm hứng trữ tình trong
thơ Hữu Thỉnh cũng chuyển mạch một cách rõ nét. Ông vẫn viết về những người lính,
người mẹ, về quê hương… nhưng nội hàm của nó đã thoát ra ngoài sự truy cản có hiệu
lực của thời cuộc. Nói cách khác, như bao nhà thơ khác cùng thời, Hữu Thỉnh đã tự đổi
mới lấy chính mình, mà công việc đầu tiên không thể không tiến hành là đổi mới lấy tư
duy và cách nhìn nhận những đề tài quen thuộc. Cái nhìn được nâng đỡ dài hạn bằng cảm
hứng lãng mạn cách mạng mà đích đến không thể khác hơn là ngợi ca, lí tưởng hóa, tôn
vinh…đã được thay thế bằng cái nhìn hiện thực gắn với con người đời thường với biết
bao khó khăn vất vả của cuộc sống.
Nhận xét về thơ trữ tình sau những năm 1980, Vũ Tuấn Anh cho rằng:
“Thơ trữ tình, đặc biệt từ những năm tám mươi là sự bừng tỉnh cái tôi
cá nhân. Con người cá nhân như một phạm trù xã hội và văn hóa hình
thành và rõ nét dần cùng với điều kiện kinh tế xã hội mới, trong đó có
con người cá nhân với những nhu cầu vật chất và tinh thần chính
đáng của nó được tính đến như một trong những mục tiêu phát triển
xã hội. Ý thức xã hội về cá nhân được thể hiện trong cái tôi nghệ
thuật, trở thành một dạng thức chủ thể trữ tình” [2, 132].
Và trong những biểu hiện cụ thể của cái tôi cá nhân này, chúng ta thấy rằng ý thức
đi tìm bản thân và khẳng định bản thân trở thành “một khát vọng âm thầm nhưng mãnh
liệt” [2, 132]. Trong đó, hành trình trở về trở thành mô – típ có sức ám ảnh không nhỏ
trong thơ. “Xu hướng chung của thơ là bộc bạch, giãi bày, hướng nội. Mỗi nhà thơ đều
tìm cách vẽ và tạc chân dung đích thực của mình, cũng có nghĩa là tự thể hiện mình” [2,
133]. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này qua thơ của không ít tác giả đương
thời. Chẳng hạn: Vẽ tôi một nét môi cười/ Một dòng nước mắt một đời phù du” (Hoàng
Phủ Ngọc Tường); Tôi vẽ mặt tôi/ Bằng chất liệu bụi bặm, khói xe và son phấn” (Lê
Minh Quốc)…
Hữu Thỉnh không mang trong mình tư thế của “người đi tìm mặt” mà chỉ tự họa
lại chân dung của mình một cách giản dị: “Tôi vẫn thường hay lẫn với mồ hôi…Tôi
thường bị đám gai của hoa hồng xua đuổi…Tôi ấy mà những chiếc cốc vô danh” (Lời
thưa).
Và rõ ràng, sự hiện hữu của khía cạnh này trong thơ Hữu Thỉnh không sở hữu
năng khiếu cho phép tiến gần hơn đến một lời khẳng định mang tính chất thừa nhận nó
như là một dấu ấn lớn trong thơ ông. Đây chỉ có thể là một ga nhỏ mà chuyến tàu định
mệnh của nhà thơ dừng lại trong hành trình của cái tôi trữ tình cá nhân của mình. Mối
quan tâm vời vợi của ông nằm ở những cửa sau của tâm hồn. Đó là những con người mà
sự xuất hiện đã đến cùng với những ấn tượng khó phai mờ.
Trước hết là hình tượng người lính.
Người lính không còn giữ địa vị của người luôn được ngợi ca hay được nhìn ngắm
qua lăng kính lãng mạn hóa, anh hùng hóa, sử thi hóa như trước. Họ trở về với cuộc sống
đời thường của mình với bao bộn bề của thực tại. Các bài: Phút giải lao của đồng chí gỡ
mìn, Thợ lặn cầu Thăng Long, Gửi bạn triền sông nằm trong mạch chảy này:
“Bạn đi về khuya sớm lo toan
………………………………
Bạn đã tập nghiêm, bạn đã tập đi đều và tập hát
Và bây giờ thong thả giục trâu đi”
(Gửi bạn triền sông)
Người mẹ được chú ý ở những phương diện khác. Trong chiến tranh, người mẹ
tiêu biểu, điển hình cho những giá trị mang tính lớn lao, vĩ đại; có những đóng góp thiết
thực cho công cuộc chiến đấu của dân tộc. Sau chiến tranh, họ quay về với vai trò người
mẹ bình thường trong phạm vi gia đình, được khúc xạ qua tấm lòng của những đứa con
ruột thịt của mình. Họ không còn là tượng đài kỉ niệm của những sự lớn lao và có xu
hướng được đời thường hóa, tình thân hóa.
“Mẹ vẫn nhắc đến em
Ngày thăm quê vất vả”
(Tháng giêng)
Hay:
“Mẹ ơi mây héo con xin mẹ
Cho con lên an ủi mặt trăng buồn”
(Đất ngày thường)
Tình yêu không được chú ý nhiều lắm trong thơ Hữu Thỉnh trong giai đoạn sáng
tác trong chiến tranh. Ở giai đoạn sau chiến tranh, Hữu Thỉnh có điều kiện đi sâu vào
những ngõ ngách cụ thể của nó. Thơ tình của ông vì thế mà cụ thể hơn, đa dạng hơn,
nhiều màu sắc hơn so với giai đoạn trước. Nếu trong chiến tranh, tình yêu gắn liền với
nghĩa vụ và trách nhiệm của những công dân đối với đất nước, luôn đứng sau nghĩa vụ;
thì trong giai đoạn này, nó được trở về với mảnh đất quen thuộc của mình. Tức là, nó
được khai phá ở góc độ cá thể, cá nhân với những biểu hiện cụ thể và sinh động.
Về thơ tình sau chiến tranh, Vũ Tuấn Anh nhận xét:
“Tình yêu trở lại thành một chủ đề lớn trong thơ ca như sự thể hiện
tập trung nhất cái riêng tư của con người cá nhân. Tình yêu trong thơ
có nhiều cung bậc, sắc thái có êm ái, thơ mộng nhưng nhiều hơn là
những éo le, nghịch lí cùng những đam mê, cuồng nhiệt. Cái tôi tình
yêu bộc lộ khá đầy đủ chân dung tâm hồn con người thời đại: đắm say
mà tỉnh táo, đau đớn mà không bi lụy, tin cậy mà cũng đầy hoài nghi,
sự trong sáng tinh thần đi kèm với các khía cạnh thân xác…” [2,
136].
Phạm Quốc Ca cũng có những lưu ý:
“Tự do quan hệ nam nữ và lối sống hiện đại hôm nay đã làm cho tình
yêu được giải phóng khỏi những ràng buộc. Đồng thời nó cũng bị giải
thiêng, bị tần tục hóa, bớt phần mơ mộng . Con người hiện đại vẫn
say mê tình yêu như mọi thời nhưng tình yêu với tư cách là một đề tài
văn học đã không còn mới mẻ và có sức hấp dẫn tinh khôi của “cái
buổi ban đầu lưu luyến ấy”. Sau sự nở rộ của giai đoạn đổi mới theo
qui luật bù trừ khoảng trống , khoảng thiếu, thơ tình yêu đã dần dần
trở nên lạm phát (…). Tâm hồn con người hôm nay nhiều ưu tư, khắc
khoải , không dễ nhập cảm với những bài thơ tình yêu như trước. Con
người không chỉ là thực thể tinh thần mà còn là một thân xác…Thơ
tình hôm nay vì vậy mà tỉnh táo, duy lí hơn” [15, 82 – 83].
Lê Lưu Oanh cũng đưa ra cách nhìn nhận tương tự:
“Tình yêu hiện nay là một cõi miền rất riêng tư với các dạng vẻ vĩnh
cửu của nó…Nó phức tạp hơn và trần tục hơn. Tình yêu bao giờ cũng
có hai cung bậc: tinh thần và vật chất. Thơ tình trước đây chú ý khía
cạnh lí tưởng hóa và mỹ hóa tình yêu. Tình yêu thơ ca thời lãng mạn
1930 – 1945 chủ yếu vẫn là loại tình yêu sương khói, mờ nhạt và vô
định như trong một giấc mơ…Thơ tình hiện nay tô đậm nét cảm nhận
về tình yêu trần thế…Cái được khẳng định của thơ tình hiện nay là ở
chỗ con người – cá nhân – tình yêu rất cứng cõi và mạnh mẽ, đam mê
và không bi lụy…Họ dám chịu trách nhiệm, công khai thừa nhận
những lỡ lầm, mất mát, đau khổ, kể cả những điều trước đây kiêng kỵ
không dám nói” [108, 84 – 85].
Như vậy, một cách khái quát nhất, chúng ta thấy rằng thơ tình từ 1975 đến nay chủ
yếu phản ánh hai khía cạnh: tinh thần và thể xác của con người. Trong đó, yếu tố thứ hai
trong những khoảng thời gian nhất định, đã nổi lên như những lời thách thức thực sự đối
với truyền thống. Tuy nhiên, trong thơ Hữu Thỉnh, khía cạnh này hoàn toàn nằm trong
tính trạng lặn dễ chịu của nó. Mối quan tâm duy nhất và đủ sức làm khổ nhà thơ nhất là
những mối ưu tư về mặt tinh thần của con người trong tình yêu.
Ở đây chúng ta sẽ đề cập đến những biểu hiện cụ thể của những cung bậc chủ đạo
nhất trong thơ tình Hữu Thỉnh.
Trước hết là cảm giác cô đơn trong tình yêu. Nhận xét về thơ tình Hữu Thỉnh, Lí
Hoài Thu đã có ý kiến rất đáng lưu tâm: “Thơ tình của Hữu Thỉnh đã cảm hóa được lòng
người bởi dư vị cay đắng, xót xa. Anh đặc biệt nhạy cảm trước sự đơn lẻ của cá thể tình
yêu”[160]. Trần Mạnh Hảo cũng cho rằng: “Ngay cả trong tình yêu, khi viết về nỗi đau,
nỗi mất, ông mới có được thơ” [52].
Hữu Thỉnh không chỉ cô đơn trong cuộc sống đời thường với bao bộn bề và thói
thường của nó, mà còn cô đơn trong cả tình yêu. Cô đơn trong tình yêu, đề tài này không
mới, nếu không muốn nói là đã quá cũ so với những gì mà người ta đã viết về nó. Xuân
Diệu, ông hoàng thơ tình Việt Nam đã từng thú nhận:
“Trăng sáng trăng xa trăng rộng quá
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ”
Thư mùa đông có 10 bài thơ tình và như trên chúng tôi đã có lần đề cập:“hầu hết
các bài thơ tình của Hữu Thỉnh thời kì này mang sắc thái tình cảm đau đớn, mất mát,
chông chênh, nhớ thương, li biệt, ít thấy sắc thái hòa hợp, đồng cảm, mặn nồng. Âm
hưởng chung là buồn lặng. Sự xa cách là mô – típ phổ biến (hầu như bài nào cũng diễn
đạt tình yêu trong xa cách), nhân vật trữ tình thường ở trạng thái cô đơn” [130, 58].
Đọc thơ tình Hữu Thỉnh, cảm giác đầu tiên ập vào chúng ta là nỗi cô đơn vô bờ. Cô
đơn ngay cả lúc yêu và được yêu, cô đơn trong xa cách, trong dang dở, ly tan…Tất cả
những tua bin ấy xoay vần trong một guồng máy tâm tư khắc khoải khôn cùng. Chúng ta
thường xuyên được tiếp đón nồng hậu bởi nỗi niềm này. Nó dai dẳng và âm thầm nhưng
âm thầm một cách mãnh liệt. Con người đón xuân với những bồi hồi, nhân vật trữ tình
trong thơ tình Hữu Thỉnh đón tết với nỗi cô đơn của đời mình: “Biết sắm tết gì đây/ Cho
người đang xa cách/ Một trời hoa mở khép/ Hoa nào cho đôi ta/ Mua gì cho đỡ rét/ Bán
gì vơi cô đơn?” (Sắm tết)
Nhân vật trữ tình thú nhận sự lớn lao của người yêu đối với đời mình và đặc cách
cho niềm cô đơn lên tiếng khi xa vắng người yêu: “Anh xa em/ Trăng cũng lẻ/ Mặt trời
cũng lẻ/ Biển vẫn cậy mình dài rộng thế/ Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn” (Thơ viết
ở biển); “Chỉ còn một mình anh/ Với chiều qua cửa sổ” (Ước).
Nhân vật trữ tình cũng không ngại bày tỏ nỗi khổ trong tình yêu. Hệ quả ngoài
mong đợi ấy thường nô dịch và biến con người thành nhân chứng vĩnh viễn cho sự lớn
lao và sức mạnh của nó. Nhân vật trữ tình thơ Hữu Thỉnh săm soi lấy từng mãnh vỡ của
tâm hồn và cất lên lời trần tình đầy xúc động:
“Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu
Cây đổ về nơi không có vết rìu
Ôi! Hoa tặng chiều nay ai dẫm nát
Mưa dập vỡ trên đường em trở gót”
(Tự thú).
Nhân vật trữ tình không tiếc trở ngại đi tìm yêu, nhưng tất cả những nổ lực ấy cũng
không đem lại kết quả nào, nói đúng hơn là không có kết quả: “…Anh đi tìm/ Em khuất
tóc sau mây/ Anh đi tìm một ngày cau ấp bẹ/ Hoa ngủ mê trong lá mơ hồ/ Anh đi mòn mà
mảnh chai vẫn sắc” (Im lặng).
Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta không thừa nhận cung bậc hạnh phúc
trong thơ tình Hữu Thỉnh. Nhưng có lẽ cái hạnh phúc ấy cũng không trọn vẹn lắm. Nó
dường như bị “nhiễu”, bị thôn tính trong những mối lo ngại chính đáng, những dự cảm
không mấy lạc quan về tương lai. Nói như Trần Mạnh Hảo: “cái vui của Hữu Thỉnh cũng
là cái vui hụt, âm bản của nỗi buồn” [52]: “Bao năm không thấy màu con gái/ Vó ngựa
nghe nhầm tiếng guốc em” (Thư mùa đông). Nói khác đi, nhân vật trữ tình đã thường trú
trong nỗi khổ cá nhân của mình nhưng cũng không có nhiều hi vọng về hạnh phúc ở ngày
mai. Sự liên hệ ấy, trong nhiều trường hợp chỉ mang ý nghĩa kỉ niệm hơn là đem lại một
quyền năng sáng sủa mà người ta có thể ban phát một cách phóng khoáng cho niềm hi
vọng:
“Cũng có thể Sầm Sơn còn trở lại
Nhưng mây kia đã cổ tích xa vời
Cũng có thể biển này còn trở lại
Em đã thành muối xót ở trong tôi”
(Tạm biệt Sầm Sơn)
Hay ngay cả khi bên cạnh người yêu, nhân vật trữ tình không phải góp thêm được
một lần hạnh phúc mà là nỗi vu vơ nào đó rất khó giãi bày:
“Em vừa góp gió ngoài sân
Anh vừa góp được một lần vu vơ”
(Vu vơ)
Hơn nửa thế kỉ trước Xuân Diệu từng khái quát lên nguyên nhân của nỗi khổ trong
tình yêu:
“Người ta khổ vì yêu không phải cách
Trao sai duyên và mến chẳng lầm người”
Nhân vật trữ tình thơ Hữu Thỉnh cũng tự nhận thức lấy tình yêu của mình, đảm
trách vai trò của nhà phẫu thuật để phanh phui từng vết thương lòng:
“Người yêu thơ chết vì những đòn văn
Người yêu biển bị dập vùi trong sóng
Người khao khát ngã vì roi mơ mộng
Ta yêu mình tan nát bởi mình ơi”
(Tự thú)
Tưởng chừng như đến đây chúng ta sẽ có được câu trả lời cho câu hỏi lớn ấy.
Nhưng sự mong mỏi ấy đã bị hẫng ngay vào giây phút đáng được kì vọng nhất. Người
trong cuộc không phàn nàn gì thêm vì nguyên nhân nỗi khổ, không chỉ cho chúng ta
đường bay của cánh chim và quỹ đạo của nỗi buồn, mà chỉ nói một điều hết sức giản dị
rằng: “bởi mình ơi”. Lí trí của con người đã khựng lại ở đây, hay đó cũng là bờ vực khó
lòng vượt qua một cách dễ dàng.
Trong thơ tình Hữu Thỉnh, nỗi nhớ cũng có chỗ đứng nhất định. Nó như những
đường viền bí mật, nơi ta có thể nhìn thấy từng cái vỗ cánh nhẹ nhất của chủ thể tâm hồn
đang không ngớt hướng về người yêu trong những huống cảnh cụ thể. Nỗi nhớ ấy có khi
dạt dào hòa vào sóng biển, có khi mênh mông như thảo nguyên, “thất tình loang bóng
cỏ”/ “Không giữ nổi một mình/ Nhớ em, chia cho sóng/ Nhấp phải chút tương tư/ Thế là
chiều biển động (Tám câu); “Em đi chiều bỏ không/ Thất tình loang bóng cỏ/ Gọi em tàn
cơn mưa/ Trút đầy lên nỗi nhớ” (Thảo nguyên).
Tình yêu trong xa cách dễ thường thai nghén nên nỗi nhớ. Đó là định đề ít khi cần
chứng minh một cách công phu đến nỗi chúng ta vẫn thường đồng ý với nhau rằng đấy là
một lẽ thường thân thuộc. Nhưng có lẽ nỗi nhớ ấy thường lớn lao hơn những gì mà con
người có thể trù tính với tư cách những người trong cuộc. Nhớ nhung với tình yêu đang
nở rộ, đang gắn bó hay trong hoàn cảnh xa cách là những lẽ thường quen thuộc. Nhân vật
trữ tình thơ tình Hữu Thỉnh còn mang nặng cả gánh hành trang buồn cưu mang vào nỗi
nhớ như những kỉ vật thiêng thiêng sót lại của tình yêu đã vỡ tan: “…Còn lại mình anh/
Gom từng mảnh vỡ/ Tháo cả mái trời/ Không che đủ ấm/ Đội nghìn cơn mưa/ Không
nhòe kỉ niệm (Em còn nhớ chăng)
Không ít lần nhân vật trữ tình tự chất vấn lấy mình: “Cũng tại tôi đa tình/ Nên bây
giờ phải khổ/ Đã biết em cách trở/ Cớ gì còn đa mang?” (Chăn – Đa em ơi)
Thơ tình Hữu Thỉnh bên cạnh những đặc điểm trên, còn sở hữu cả sự mãnh liệt của
nó. Đó có thể là khát vọng được bày tỏ tình yêu của mình, khát vọng được đáp lại tình
yêu. Ông luôn có kiểu bày tỏ tình cảm rất thành thực. “Nếp cảm, nếp nghĩ của anh cũng
gần gũi với diễn biến tình cảm, sức chịu đựng và cách ứng xử của con người Việt Nam”
[160]: “Anh phải nói vòng vo anh yêu biển/ Anh yêu trời để thú nhận yêu em/ Anh cứ
khen người tốt đôi tốt lứa/ Để giấu đi bao nỗi xót xa thầm” (Tạm biệt Sầm Sơn).
Trong thơ ca, không ít nhà thơ đã dùng hình tượng biển làm môi giới tin cậy để
bày tỏ tình cảm:
“Anh không xứng là biển xanh
Nhưng xin được làm bờ cát trắng
(Biển, Xuân Diệu)
Xuân Quỳnh cũng không ít lần dùng ảnh tượng biển:
“Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu nỗi nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạng vỡ”
(Thuyền và biển)
Hữu Thỉnh cũng trông cậy vào sức mạnh ấy của hình tượng biển, nhưng rõ ràng,
hình tượng này trong thơ Hữu Thỉnh đã có sự khác biệt rõ rệt so với các nhà thơ khác:
“Lấy sự mênh mông của biển cả với mây, sóng, gió, trăng để biến thành môi trường suy
tư và khát vọng tình yêu không còn gì xa lạ trong thơ, nhưng đọc Hữu Thỉnh ta vẫn khám
phá được những luồng rung động mới mẻ. Không trẻ trung, sôi nổi, không nương nhờ
vào nhịp ào ạt của sóng, trước biển anh nhận ra nỗi chông chênh, trống vắng của con
người và triết lí tình yêu của mình” [160].
“Sóng chẳng đến đâu nếu không đưa em đến
Dù sóng đã làm anh
Nghiêng ngã
Vì em”
(Thơ viết ở biển).
Như vậy, “những con sóng yêu thương của anh dù rát bỏng thì vẫn là những con
sóng mau màu nội tâm, lăn vào bên trong kết thành nỗi thổn thức, chứ không tung phá
theo kiểu: đến tan cả đất trời – Anh mới thôi dào dạt như Xuân Diệu thuở nào” [30].
Trong cảnh cô đơn, nhân vật trữ tình hằng mong mỏi được bên cạnh người yêu:
“Ước có em ngoan mềm
Chợt đến cùng ngọn gió
Tóc em hay mây thở
Bàng hoàng trên vai anh”
(Ước).
Hữu Thỉnh không nói nhiều về hạnh phúc của tình yêu, càng không đặt nhiều kì
vọng vào việc làm sáng tỏ điều này bằng sức mạnh của thơ ca. Hạnh phúc trong tình yêu
của ông nhiều lúc tương đồng với sự đấu tranh với cuộc đời, tin tưởng nhau để giữ lấy
tình yêu:
“Thế mà họ khuyên em
Đừng yêu anh bất hạnh
Em bướng bỉnh như trời
Nối sào không chịu thấp
Anh lầm lì như đất
Ai nói gì cứ nâu”
(Hạnh phúc).
Đã đi qua nhiều nỗi buồn, đau khổ trong tình yêu, nhân vật trữ tình càng thêm trân
trọng những gì đang có. Những lời tâm sự ấy thật xúc động: Bông hoa này tới em/ Sau
bao người mặc cả/ Con đường này tới em/ Sau bao nhiêu lầm lỡ (Hoa tặng).
Trên đây là những biểu hiện cơ bản nhất của cảm hứng trữ tình trong thơ tình Hữu
Thỉnh. Thơ tình Hữu Thỉnh không nghiêng về cung bậc ồn ào mà thiên về những dòng
suy tưởng trầm lắng. Mạch suy tưởng ấy có thể là tâm trạng đau khổ, cô đơn, nỗi nhớ
nhung, hay khát khao được sống trọn vẹn cho tình yêu. Trong đó, theo chúng tôi, cảm
xúc nổi bật nhất trong thơ tình Hữu Thỉnh là nỗi cô đơn, những lỡ làng, tan vỡ. Đó cũng
là điều mà nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đã nhìn nhận: “Thơ tình của Hữu Thỉnh đã
cảm hóa được lòng người bởi dư vị cay đắng, xót xa. Anh đặc biệt nhạy cảm trước sự
đơn lẻ của cá thể tình yêu” [160].
So với thơ tình của những nhà thơ cùng thời, thơ tình Hữu Thỉnh cũng có sự khác
biệt rõ nét. Chẳng hạn, với thơ tình của Xuân Quỳnh. Nếu thơ tình Hữu Thỉnh nghiêng về
phía âm bản, tức là xoáy sâu vào những hố thẳm của nỗi cô đơn, xót xa và sự đơn lẻ của
cá thể trong tình yêu, thì thơ tình Xuân Quỳnh lại có hướng quan tâm khác.
“Ở Xuân Quỳnh, tình yêu không bao giờ đơn thuần là tình yêu, nó còn
tượng trưng cho cái đẹp, cái tốt, cái cao quý của con người, tượng
trưng niềm khao khát được hoàn thiện bản thân mình (…).Thơ Xuân
Quỳnh có nhiều cung bậc tình cảm khác nhau, khi đắm say hạnh
phúc, lúc day dứt suy tư (…). Người phụ nữ trong thơ chị rất trân
trọng và khao khát tình yêu. Cũng chính vì lẽ đó mà thơ chị đầy chị
đầy ắp những lo âu, e ngại (…). Nhưng xuyên suốt các tập thơ của chị
là một tình yêu sâu nặng không nhạt phai. Trong cái hữu hạn ngắn
ngủi của cuộc đời, tình yêu trở thành vĩnh cửu” [47, 13].
Lê Thị Ngọc Quỳnh trong bài viết Thế giới thiên nhiên trong thơ Xuân Quỳnh,
cũng đã đưa ra một nét đặc trưng khác về mặt nội dung của thơ tình Xuân Quỳnh: “Trong
thơ chị “ý thức về thời gian” luôn song hành cùng “cảm giác về hạnh phúc”. Chị dùng
thời gian để đo lường tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc. Bởi vậy, trong thơ tình Xuân Quỳnh
người ta bắt gặp nỗi ám ảnh thường trực về sự trôi chảy của thời gian”. [47, 23 – 24].
Thơ tình Xuân Quỳnh cũng mang đặc điểm nữ tính rõ nét: “thơ tình của chị bao dung và
chở che, mãnh liệt và nhân hậu, đó là một giọng điệu riêng độc đáo, đằm thắm và táo
bạo” [47, 73]. Như thơ tình của bao nhà thơ khác, thơ tình Xuân Quỳnh cũng luôn có xu
hướng đề cập và đi sâu vào các “cặp phạm trù đối lập, của mọi sắc màu và giai điệu của
tình yêu: niềm hạnh phúc tuyệt vời và tan vỡ đau khổ, niềm hi vọng bên cạnh sự mất mát
và cả sự tuyệt vọng nữa, nhưng cuối cùng vẫn là niềm tin yêu vào cái tốt đẹp, sự cao
thượng và cái đẹp của tình yêu chân chính” [47, 73]. Trong khi đó, niềm tin tuyệt đối bất
diệt vào “cái tốt đẹp, sự cao thượng” và trường tồn của tình yêu dường như vắng bóng
hẳn vào cảm giác cô đơn và xót xa, cay đắng trong cảm quan thơ tình Hữu Thỉnh. Xuân
Quỳnh nhìn nhận tình yêu với tất cả những cung bậc cụ thể của nó (hạnh phúc và đau
khổ) để khẳng định niềm tin yêu không ngớt vào tình yêu. Đó là một quá trình được bắt
đầu bằng cái âm u của một hoàng hôn thầm kín chứa đầy những tia chớp của bi kịch và
tìm thấy sự kết thúc của mình trong sự an tâm vào vẻ đẹp vĩnh cửu của ái tình (dù rằng nó
chỉ được đảm bảo một cách không tuyệt đối). Trong khi những nốt chủ âm của thơ tình
Hữu Thỉnh đa phần là những bài ca thất vọng, những “niềm vui hụt”, những tan vỡ, lỡ
làng. Hữu Thỉnh không rong chơi cuối trời quên lãng để tìm một đóa hoa vô thường nằm
bên ngoài sự hoài nhớ về những chứng tích ảm đạm, mà luôn đối diện với chính những
cảm giác đó. Đó là những giọt nắng thủy tinh thắp bên đời hiu quạnh của hồn người, là
những hạt cát bụi đầu tiên và vĩnh cửu tạo nên một hình hài duy nhất của tình yêu: hình
hài của nỗi cô đơn, xót xa và cay đắng.
Nhìn chung, một cách tổng thể, “cảm hứng chủ đạo ở mảng thơ viết về chiến tranh
là cảm hứng sử thi, cảm hứng trước cái cao cả, trong niềm say mê khẳng định tình yêu
lớn, lẽ sống lớn . Cảm hứng chủ đạo trong thơ viết về cuộc sống thời bình là cảm hứng
đời tư – thế sự, mang theo nỗi đắng cay của thế sự, niềm bâng khuâng trước sự đổi thay,
nỗi cô đơn trước số phận con người mà chưa tìm thấy tri âm, tri kỉ” [130, 13].
Cảm hứng trữ tình trong sự kết hợp và nâng đỡ từ phía cảm hứng lãng mạn cách
mạng đã đem lại cho Hữu Thỉnh những dòng thơ có giá trị trong việc khắc họa hình
tượng, người lính, người mẹ, quê hương – đất nước và tình yêu trong chiến tranh. Ở
mảng thơ viết về chiến tranh, Hữu Thỉnh được biết đến với tư cách nhà thơ trữ tình công
dân. Nhà thơ đã đứng trên lập trường dân tộc để phát ngôn cho cảm hứng anh hùng ca với
các mô – típ: ngợi ca, lẽ sống, cái chết, sự cao cả…Điều này tìm thấy sự viên mãn trong
cách thể hiện của thể loại trường ca. Ở thể loại thơ trữ tình ngắn, những khía cạnh trên
không hẳn tồn tại trong sự vắng bóng. Tuy nhiên, nó được đảm bảo bằng một giọng điệu
có phần trầm lắng hơn, suy tư hơn so với thể loại trường ca – môi trường diễn xướng
tuyệt diệu cho những tình cảm lớn.
Giai đoạn sáng tác thời bình đã hình thành nên trong hồn thơ Hữu Thỉnh một kiểu
nhà thơ mới: nhà thơ trữ tình đời tư – thế sự. Trong xu hướng thể hiện của mình, Hữu
Thỉnh có mối quan tâm thường trực đến các vấn đề triết lý đạo đức, nhân sinh, nổi bật
nhất là những suy tư về thân phận con người. Các khía cạnh được khai thác nhiều nhất là
cảm thức về sự cô đơn (Thư mùa đông) và cảm thức về thời gian (Thương lượng với thời
gian) bên cạnh sự nhận thức về nghịch cảnh, sự xuống cấp thay đổi của các giá trị tinh
thần…với âm chủ là xót xa, đau đớn, trăn trở, khát vọng,…
Tuy nhiên sự phân định ranh giới giữa hai dạnh cảm hứng trên trong thơ Hữu
Thỉnh chỉ là sự tiến hành mang tính chất tương đối. Hai dạng cảm hứng cơ bản đó thoát
thai từ hai kiểu cái tôi trữ tình, thực ra không phải luôn tách bạch nhau một cách hoàn
toàn mà đôi khi trong những trường hợp nhất định, chúng vẫn có thể xuyên thấm vào
nhau. Trong cảm hứng trữ tình, thỉnh thoảng nấc lên lời trình bày thế sự và ngược lại.
Trong những trường ca, những chi tiết liên quan đến yếu tố thế sự - đời tư vẫn có dịp len
lõi, và ngay trong những suy tư về nhân thế, ta vẫn thấy thấp thoáng bóng dáng của cái
tôi trữ tình công dân. Điều này không những cho thấy sự đa dạng trong cách thể hiện mà
còn, một cách rõ ràng, vạch ra sự liên đới mang tính chất hiển nhiên trong cảm quan nghệ
thuật của tác giả.
CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC VÀ HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI TRONG THƠ HỮU THỈNH.
2.1. Hình tượng quê hương, đất nước trong thơ Hữu Thỉnh:
Mối quan hệ giữa văn chương và cuộc sống từ lâu đã được chú ý. “Văn chương là
cái hiện trạng của một thời đã làm nên nó” [37, 133]. Mác – xim Gorki cũng nhấn mạnh:
“Khi còn có nhà nước giai cấp thì nhà văn – con người của môi trường và thời đại nhất
định – dù muốn dù không cũng phải phục vụ và quả nhiên đang phục vụ có điều kiện hay
vô điều kiện cho những quyền lợi của thời đại mình, của môi trường mình” [37, 134 ].
Khác với văn xuôi, thơ phần lớn thuộc thể loại trữ tình, trong đó thế giới nội tâm
con người với sự đa dạng, phong phú của những sắc thái tình cảm được bộc lộ trực tiếp
và trở thành nội dung chủ yếu của thơ. Tuy nhiên, theo cách thức riêng của mình, thơ
phản ánh hiện thực đời sống thông qua những biến cố, sự kiện và nhân vật trữ tình chứa
đựng những tính chất tiêu biểu, khái quát trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Điều này
là nguồn cội âm thầm của tính xã hội và giá trị chân thực của thơ.
Bielinxki cũng cho rằng: “Bất cứ thi sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại nếu chỉ
do ở mình, và chỉ miêu tả mình – dù là miêu tả những nỗi khổ đau của mình hay những
hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ và
hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội; bởi vì họ là khí quan
và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại” [114, 361].
Hữu Thỉnh cũng như bao nhà văn, nhà thơ chiến sĩ khác, sinh trưởng trong hoàn
cảnh đất nước có chiến tranh. Nhà thơ đã dấn thân vào cuộc chiến chung của dân tộc với
tư cách một người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu. Thực tế sinh động nơi chiến trường
cùng với cảm quan nghệ thuật của mình, Hữu Thỉnh đã để lại những dòng thơ về quê
hương đất nước khá thành công.
2.1.1 Hình tượng quê hương, đất nước trong chiến tranh.
Trong thơ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hình ảnh quê hương, đất nước
được phản ánh trong hầu hết những sáng tác của các tác giả thơ đương thời. Mỗi thi sĩ lựa
chọn cho mình những cách thức thể hiện riêng, qua đó, thể hiện cách nhìn nhận, chiêm
nghiệm của mình về quê hương, đất nước. Ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, đất nước
dường như trở thành một đề tài lớn trong thơ ca nói riêng và văn học nói chung.
Nhận xét về hình tượng Tổ quốc trong thơ chống Pháp và chống Mỹ, Nguyễn Bá
Thành cho rằng: “Thời kháng chiến chống Pháp, Tổ quốc đồng nghĩa với chính quyền
cách mạng, là nền dân chủ cộng hòa, là nhà nước công nông trẻ tuổi, là sự nghiệp kháng
chiến chống Pháp. Hình ảnh Tổ quốc trong thơ thời kì đầu kháng chiến vẫn còn chung
chung, chưa thật rực rỡ, sáng chói như thời chống Mỹ. Hòa bình lập lại, miền Bắc bước
vào giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội…hình ảnh Tổ quốc
trong giai đoạn này được khai thác chủ yếu ở phương diện giàu đẹp” [139, 140].
Ở một chỗ khác, tác giả cũng nhận xét:
“Hình ảnh “đất nước sang trang”, “lịch sử sang trang”, “cuộc đời
sang trang” được nhắc lại nhiều lần trong thơ. Tổ quốc được các nhà
thơ hình tượng hóa như một con tàu vừa nhổ neo, cưỡi sóng ra khơi,
đi đến những bến bờ hạnh phúc: “Ôi tương lai như hải cảng lắm tàu”
(Chế Lan Viên), “Tổ quốc tôi như một con tàu” (Xuân Diệu), “Hết
đêm rồi đời lật giở sang trang” (Chế Lan Viên), “Xưa là rừng núi là
đêm / Giờ thêm sông biển, lại thêm ban ngày” (Tố Hữu). Hiện thực
cuộc sống mới tràn vào thơ với một không khí tươi vui, sắc màu
rạng rỡ (…). Tư duy thơ thường liên hệ với “quá khứ buồn thương”
để nêu bật những hình ảnh của “hiện tại huy hoàng” và “tương lai
tươi sáng”. Tình yêu Tổ quốc là thứ tình cảm thiêng liêng được các
nhà thơ tập trung ca ngợi, thể hiện. Tổ quốc được ví với tình cảm vợ
chồng, mẹ cha. Tổ quốc gắn liền với trách nhiệm chiến đấu và hi sinh
tính mạng, đó là đỉnh cao nhất của tình yêu”. [139, 146].
Nhìn lại thơ ca chống Mỹ, ta thấy điều này đã trở thành một hiện tượng mang tính
phổ biến. Mỗi nhà thơ có cách nhận thức riêng cho mình về Tổ quốc:
“Từ mảnh đất hiện tại, Chế Lan Viên nhìn về nguồn lịch sử và hỏi
“Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Rồi ông tự trả lời: “Những
ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả”. Huy Cận nghĩ về
lịch sử ngàn năm của dân tộc qua dáng ông cha còn đọng lại trên
“Những pho tượng chùa Tây Phương” và tự hào “ngày nay xã hội đã
lên đường”. Giữa những ngày tổng tiến công và nổi dậy của quân và
dân miền Nam tết Mậu Thân (1968), Lê Anh Xuân đã nhìn thấy một
“Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Nguyễn Khoa Điềm trong bài
thơ “Đất nước” đã làm sống lại những biểu tượng về Đất nước, nhân
dân có trong văn hóa truyền thống” [139, 147].
Trong thơ và trường ca, Hữu Thỉnh cũng có cách biểu hiện riêng về quê hương đất
nước: “Bao trùm lên toàn bộ sáng tác của Hữu Thỉnh là cảm hứng về đất nước, nhân
dân. Đất nước của anh là một Việt Nam kiên cường, bất khuất đã khẳng định và hoàn
thiện tư cách dân tộc của mình. Nhân dân của anh là những số phận thầm lặng, những
con người biết chịu đựng và biết hi sinh” [160, 51].
Đó là nhận định mang tính khái quát nhất về hình tượng quê hương, đất nước trong
thơ Hữu Thỉnh. Chúng ta có thể bắt gặp sự hiện diện một cách thường xuyên của hình
tượng đất nước, quê hương trong trường ca của tác giả.
Trong “Sức bền của đất”, tác giả đã nhìn nhận được sức mạnh của dân tộc trong
sự gắn bó keo sơn giữa tuyền tuyến và hậu phương: “Chiến dịch mở ra khi thời vụ bắt
đầu/ Mang cái rét giêng hai đi đánh giặc/ Mang chất thép định hình trên bàn cát/ Qua
những cánh đồng đang sủi lăm phù sa/ Ta chao chân trên những mảnh bờ/ Lặng lẽ nhận
ra sức bền của đất/ Đạp cứ điểm lần theo từng dấu dép/ Ta nhận ra màu bùn của những
cánh đồng chiêm” (Sức bền của đất).
Hình tượng Tổ quốc – đất nước trong trường ca Hữu Thỉnh được khắc họa qua
hình ảnh ẩn dụ “gốc sim cằn”: “Trời ơi, nếu kẻ thù chiếm được/ Chỉ một gốc sim thôi dù
chỉ gốc sim cằn/ Tổ quốc sẽ ra sao Tổ quốc/ Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim” (Đường tới
thành phố)
Trong trường ca Biển, hình tượng Tổ quốc được hình thành từ những hạt cát của
biển khơi: “Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình/ Đảo có lính cát non thành Tổ quốc”
(Chương 2: Cát, Trường ca Biển)
Hình tượng Tổ quốc trở thành nghĩa vụ thiêng liêng mà mỗi người hướng đến như
cái đích đến cuối cùng trong cuộc kháng chiến gian khổ và hào hùng: “Còn ao ước nào
hơn/ Tự do và đoàn tụ/ Vào rừng lấy mật và đẳng gỗ/ Thương mẹ và yêu em/ Còn hạnh
phúc nào hơn/ Tổ quốc” (Đường tới thành phố)
Từ cảm hứng sử thi trong cái nhìn về Tổ quốc, Hữu Thỉnh đã nghĩ về hình tượng
nhân dân, dân tộc với sức mạnh và truyền thống đấu tranh vẻ vang:
“Nhân dân
Vẫn nguyên vẹn nhân dân
Răng hạt lựu vẫn không cam đồng hóa”
(Đường tới thành phố)
Hình tượng quê hương thời chiến tranh trong thơ Hữu Thỉnh nói chung (bao gồm
cả thơ và trường ca) mang một đặc điểm nổi bật có thể khu biệt một cách đáng tin cậy về
chất so với thơ của các tác giả đương thời: nó luôn luôn và bao giờ cũng gắn liền với hình
tượng người mẹ. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này qua Đường tới thành phố và
Sức bền của đất.
Trong thơ Hữu Thỉnh, hình tượng Tổ quốc – đất nước xuất hiện không nhiều. Hình
tượng này đã hóa thân vào hình tượng có cấp độ nhỏ hơn về lượng: hình tượng quê
hương. Và nếu hình tượng Tổ quốc – đất nước trong trường ca mang tính khái quát cao
độ để đảm bảo một cách có hiệu quả cảm thức sử thi của thể loại; thì trong thơ, hình
tượng này đã hòa vào hình tượng quê hương qua cách nhìn nhận mang tính chủ quan của
nhân vật trữ tình.
Thơ Hữu Thỉnh đã đem lại một cách thể hiện mới khá đặc sắc về hình tượng quê
hương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Vẫn trên cái nền chung của thơ ca đương thời,
tác giả đã biết lựa chọn cho mình cách thức biểu đạt riêng mà qua đó, dần hình thành nên
phong cách thơ.
Hình tượng quê hương – đất nước trong thơ Hữu Thỉnh có xu hướng được thể hiện
trên những phạm vi nhỏ hẹp. Chúng ta hoàn toàn cảm nhận được sự vắng bóng của lớp
nghĩa biểu trưng, khái quát, mang tính lớn lao, vĩ mô về hình tượng này. Đây cũng là nét
khác biệt cơ bản của hình tượng Tổ quốc, quê hương trong trường ca và trong thơ Hữu
Thỉnh.
Hình tượng Tổ quốc dường như không được đề cập đến một cách trực tiếp trong
thơ ông. Hữu Thỉnh nói nhiều về quê hương, về những nơi người lính đi qua hơn là đúc
kết hay phản ánh hình tượng Tổ quốc hào hùng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Ở đây, hình tượng quê hương đất nước luôn gắn liền với cảm thức về người mẹ ở
hậu phương. Đó có thể là hình tượng quê hương nghèo bị tàn phá trong chiến tranh gắn
liền với người mẹ vất vả, tảo tần: “Mưa bay, mưa bay trong mùa gieo hạt/ Mười mấy
năm tôi đi đánh giặc/ Không năm nào không nhớ đất đai/ Tôi nhớ đất đai của tôi/ Nhớ
sao da diết/ Mẹ tôi đã già/ Em tôi giặc giết/ Tôi lớn lên không một đỡ đần” (Nỗi nhớ đất
đai). Cũng có thể là quê hương gắn với không gian “vườn” thuộc quyền quản lí của
người mẹ: khu vườn (ổi, đào, mận, mơ,…) (Hương cốm). Hoặc cũng có khi, hình tượng
quê hương được khúc xạ qua nỗi lo đau đáu của người chiến sĩ về sự an nguy của mảnh
đất quê hương, mà ở đấy, bà mẹ già đang sống từng ngày dưới bom đạn kẻ thù (Hương
vườn). Những biểu hiện cụ thể của yếu tố này chúng tôi sẽ đề cập ở mục hình tượng
người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh ở phần sau.
Ngoài đặc điểm nổi bật trên, hình tượng quê hương, đất nước còn thể hiện ở một
số chi tiết khác. Hình tượng này có thể được biểu trưng qua môi giới diễn đạt của hình
ảnh đất: “Tôi vốc nắm đất lên/ Bắt gặp mùi tro bếp/ Đất gần như màu thép/ Cũng gần
như bánh gai” (Đất); “Mười mấy năm tôi đi đánh giặc/ Không năm nào không nhớ đất
đai” (Nỗi nhớ đất đai),…
Đất nơi chiến trường ác liệt cũng có những nét gần gũi nhắc nhớ về mùi vị, hình
ảnh của quê hương. Nhân vật trữ tình “bắt gặp mùi tro bếp”, và màu “bánh gai”, hai
hình ảnh gắn liền với làng quê nghèo ở chốn hậu phương, với tuổi thơ.
Thực ra, trong trường ca Hữu Thỉnh, đất cũng là hình ảnh mang tính biểu tượng
cho quê hương đất nước một cách rõ nét. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này qua
hai trường ca của ông: “Biểu tượng đất nổi bật trong thơ Hữu Thỉnh, trở thành chủ đề
của trường ca Sức bền của đất, của chương 4 “Đất này” (Trường ca Biển), của ba khúc
“Đất ru” trong trường ca Đường tới thành phố. Hình tượng đất thể hiện khá toàn diện,
đầy đủ quan niệm của nhà thơ về đất đai. Đất đai là môi trường sinh tụ của giống nòi
“không có đất không thể nào sống được”, “cần có đất để làm nên quê hương”, “đất
dựng nên làng”, sự sống muôn màu muôn vẻ đều bắt đầu từ đất” [130, 92]: “Luống hành
hoa đội rạ đứng lay phay/ Người tứ phương tụ hội về đây/ Cắm cọc treo nồi/ Đóng đinh
móc rế/ Trồng mùa thu bằng cây thị/ Trồng mùa hè bằng ngó sen/ Cây lan có tên cho cô
Lan có tên/ Cây trúc có tên cho côc Cúc có tên…” (Trường ca Biển)
Hình ảnh quê hương còn được khai phá ở nét quyến rũ tự nhiên của nó. Trong bài
Mùa xuân đi đón, tác giả đã cung cấp thêm cho chúng ta khía cạnh tươi sáng, lộng lẫy
của quê hương trong khung cảnh mùa xuân bên cạnh hiện thực điêu tàn trên gương mặt
quê hương trong những ngày lửa khói: “Mùa xuân hẳn bắt đầu/ Trên quê mình mưa rắc/
Ruộng lúa dựng chiêm lên/ Cỏ đội bờ thả sức…Ở đây nghe rõ nhất/ Bao lời quê nhắn
nhe” (Mùa xuân đi đón).
So với các thơ ca đương thời, hình tượng Tổ quốc – quê hương trong thơ Hữu
Thỉnh có những nét khác biệt rõ nét.
Hình tượng Tổ quốc trong thơ ca chống Mỹ nói chung thể hiện chủ yếu ở các
phương diện: truyền thống văn hóa, truyền thống lịch sử, đặc điểm địa lí,…
Chế Lan Viên cảm nhận sức mạnh Tổ quốc – đất nước từ truyền thống đánh giặc
và làm thơ:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)
Lâm Thị Mỹ Dạ đã có cách hình dung đáng nhớ về hình tượng Tổ quốc qua chi tiết
mang đậm nét văn hóa truyền thống: tiếng đàn bầu.
“Tiếng đàn da diết xót xa
nguồn cội
Tiếng đàn là Tổ quốc trong tôi”
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
Tuy cùng viết về hình ảnh của một vùng quê hương thân thuộc, nhưng trong nhận
thức thẩm mỹ của các nhà thơ đều có những địa chỉ chuyển tải tâm tình rất riêng cho
mình. Quê hương trong thơ Hữu Thỉnh là làng quê nông nghiệp Bắc Bộ với những biểu
hiện cụ thể của ruộng đồng, mà gắn chặt với nó là sự nâng đỡ nhiệm mầu của người mẹ.
Hình tượng quê hương trong thơ Tế Hanh gắn liền với sông nước quê hương ông như
một dấu hiệu nhận biết đặc trưng nghiêm túc: “Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến/
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển/ Vẫn trở về lưu luyến bên sông” (Nhớ con sông
quê hương); “Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ/ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm
trôi/ Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi” (Quê hương).
Hình tượng Tổ quốc – quê hương trong thơ Hữu Thỉnh trong sự đối chiếu với các
nhà thơ nữ đương thời, cũng có những điểm khu biệt đáng lưu ý:
“Nếu ở Xuân Quỳnh, Việt Anh, Tổ quốc là người mẹ lớn gồng gánh
đau thương mất mát qua chiến tranh và sẵn sàng chiến đấu, dồn căm
thù lên đầu súng thì ở Lê Thị Mây, Tổ quốc được nhìn từ phương diện
địa lý, văn hóa và những trang sử hào hùng từng ghi danh các anh
hùng dân tộc. Ở Ý Nhi, Hoàng Thị Minh Khanh, Tổ quốc được hiện
hình dọc qua những miền quê từ Bắc chí Nam (Hải Phòng, Hà Nội,
Hà Tĩnh, Quảng Bình, Đông Hà, Huế, Quảng Nam, Nha Trang, Nam
Bộ, Sài Gòn...). Còn ở Trần Thị Mỹ Hạnh, Tổ quốc in đậm với vùng
mỏ miền trung du” [102].
Tóm lại, hình tượng quê hương trong chiến tranh trong thơ Hữu Thỉnh chủ yếu
được khắc họa qua cách nghĩ của người lính về người mẹ. Hình tượng quê hương gắn
liền với cuộc sống của bà mẹ ở hậu phương. Đó là quê hương của của “ruộng vườn”, của
làng quê nông nghiệp. Nó hiện lên với tất cả những vất vả, nhọc nhằn nhưng cũng vô
cùng thiêng liêng, đẹp đẽ trong kí ức của người đi xa.
2.2.2 Hình tượng quê hương, đất nước trong thời bình.
Nhận xét về chất “văn hóa nhà quê” trong thơ Hữu Thỉnh, Nguyễn Nguyên Tản
cho rằng: “Ở anh không thấy chút gì là kiêu kỳ mà chỉ thấy sự hồn hậu, chân chất xởi
lởi…Chất hồn quê ấy đã làm nên đặc điểm của một hồn thơ, in dấu đậm nét trong thơ
anh. Những ai từng đọc thơ anh đều thống nhất ở cảm nhận ấy. Nguyễn Trọng Tạo gọi
đó là thứ văn hóa nhà quê thật đẹp, Lý Hoài Thu cho rằng thơ Hữu Thỉnh thấm đẫm sắc
màu văn hóa dân gian” [130, 84].
Hình ảnh quê hương đất nước sau chiến tranh trong thơ Hữu Thỉnh mang đậm màu
sắc của đồng quê Việt Nam, nói một cách chính xác và rõ ràng hơn là làng quê đồng bằng
Bắc Bộ. Có thể dẫn ra ngay sau đây những những khung cảnh thiên nhiên gắn liền với đồ
vật, cảnh vật, cây cối của đồng bằng Bắc Bộ: hoa gạo bến sông, nước ngấn lưng đê,
đường cỏ may, cánh đồng sủi tăm phù sa, da nâu và mía mật, gốc cau vại nước, thơm nín
hương cau, bời bời hoa bưởi, cau ấp bẹ, ngọn cỏ, cánh chuồn, cánh diều để chỏm, cây
rơm gầy, bầu trời trên giàn mướp, rơm rạ nằm mơ ngủ, cuốc kêu ngoài bến xa, cặp thừng
treo gác bếp, cái cối cái chày, ban mai thổi lửa,…
Trong trường ca Hữu Thỉnh, quê hương có thói quen đi liền với thời gian mùa vụ.
Mùa xuân: “Giêng hai về/ Năm lại mới khi qua tháng chạp…Có một màu giấy điệp/ Bay
tưng bừng làm ấm cả cây nêu”. Mùa hạ: “Đom đóm ơi đom đóm đi đâu/ Đêm là tàu lá
sen che nửa phần trái đất/ Ấy là lúc những vì sao xa lắc/ Nối với tôi qua một sợi dây
diều”. Mùa thu: “Trứng ốc nhồi nở trắng dọc bờ ao/ Con ếch sọc dưa đi tìm tức tưởi/
Trời sùi sụt những cơn mưa tháng bảy/ Tôi ngấm đầy nước mắt những ngày ngâu”. Mùa
đông: “Một chút lửa hoa dong diềng cuối dậu/ Sợ một ngày sương muối đến đem đi” (
Trường ca Biển).
Sẽ không có gì quá ngạc nhiên khi chúng ta bắt gặp một số lượng lớn những hình
ảnh rất đổi quen thuộc, có giá trị đại diện tin cậy cho một vùng quê nào đó: “Vạc mảnh
bờ con cua mất quê/ Rau đay làm lẽ buổi tôi về/ Ổi đào lên tỉnh xem son phấn/ Mạ vẫn
chờ em dóc mía de/ Gió nảy đàn tre cung tháng chạp/ Trăm câu không đỡ nổi câu mình/
Em mang thiên lí về thưa mẹ/ Sông vẫn ba đào trúc vẫn xinh” (Cung tháng Chạp).
Những triền sông, ô mạ trũng, đìa, trâu, quả duối, ánh đèn dầu…đi vào thơ Hữu
Thỉnh một cách hết sức tự nhiên và đôn hậu như chính hình ảnh chân quê, mộc mạc của
quê hương: “Bạn trở về làm lụng dọc triền sông/ Nước mấp mé, mây vần ô mạ
trũng…Những quả duối chín mòng trẻ lại ríu chân lên…Ếch mong mưa kêu váng ở sau
đìa…” (Gửi bạn triền sông).
Những cánh đồng ngập nước vào mùa mưa cũng được gợi tả hết sức tự nhiên và
nên thơ:
“Hạt lép vồng lên trương với gió
Đồng như canh bạc nước như mê”
(Mưa đá)
Những mái lá, bóng dừa, cánh bèo, bụi chà là, bông so đũa, giàn mướp…cũng là
những hình ảnh rất quen thuộc trong thơ Hữu Thỉnh. Chúng như những gì mà quê hương
đã cắm vào hồn ông, những kỉ niệm đẹp trong vườn tiềm thức:
“Thân dừa găm vết đạn”
“Mái lá tường cũng lá”
“Bông so đũa buông đầy”
(Bóng dừa).
Sự cảm nhận tinh tế đã đem lại cho Hữu Thỉnh những giây phút chụp lại được cái
thần tình của thiên nhiên – vẻ đẹp của sự giao mùa. “Hứa hẹn bao nhiêu bầu trời trên
giàn mướp/ Lúc hoa vàng thu mới chập chờn thu” (Bầu trời trên giàn mướp); “Có đám
mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu” (Sang thu).
Hữu Thỉnh, như nhận xét của Thanh Thảo, là một người luôn nặng tình với quê
hương. Ông luôn hướng về gốc rễ đã sinh ra mình dù sống xa quê: “Tôi bước vào thành
phố/ Với nguyên mùi rơm tươi” (Tôi bước vào thành phố). Trần Mạnh Hảo khi nhận xét
về điểm mạnh của thơ Hữu Thỉnh cũng cho rằng: sở trường thơ Hữu Thỉnh là những vần
thơ về quê hương.
“Đi suốt nụ cười, phía sau tay bắt
Vẫn lan man cùng ngọn khói quê nghèo”
(Ngọn khói)
Nghĩ về quê hương, Hữu Thỉnh không quên hình bóng bà mẹ già và có thể khẳng
định một điều rằng hình ảnh quê hương trong thơ luôn gắn liền với hình ảnh của người
mẹ. Đó là đặc điểm đáng lưu ý nhất về khía cạnh này mà chúng ta có thể dễ dàng nhận
diện: “Mẹ tôi nón lá bước lên/ Mạ non đầu hạ trăng liềm cuối thu/ Quanh năm vẫn một
mảnh bờ/ Bấy nhiêu toan tính đến giờ chưa yên/ Mẹ tôi gạt cỏ bước lên/ Cỏ dày cây lúa
phải chen nhọc nhằn” (Trông ra bờ ruộng).
Khi nghĩ về ngọn khói quê nghèo, hình ảnh người mẹ lại sực hiện về trong thơ ông
như một điệp khúc:
“Sao tôi cứ lan man cùng khói ấy
Mẹ nhóm lên nghi ngút mé đồi
(…)
Ngọn khói xưa giờ ở nơi đâu
Có nhớ mẹ tôi mé đồi cỏ cháy”
(Ngọn khói)
Hình ảnh người mẹ luôn thao thức trong tình quê của Hữu Thỉnh. Những gì giản
dị, mộc mạc, chân quê của quê hương trong thơ ông đều được đảm bảo sự chăm sóc đặc
biệt của người mẹ:
“Mẹ già khom bóng dưới cau
Ngõ thu nắng dãi ngày mau sập chiều
Có gì trời đất mang theo
Thế gian muôn nỗi cánh diều mong manh
Có gì xoáy vực chông chênh
Gió neo tay mẹ bỗng thành thiên thu”
(Ngõ thu)
Như vậy, hình ảnh quê hương đất nước sau chiến tranh trong thơ Hữu Thỉnh là
hình ảnh của làng quê nông thôn với những gì thuộc về đặc trưng, máu thịt của nó.
“Hữu Thỉnh cảm và nói về nói bằng thứ văn hóa nhà quê thật đẹp và
thật ngộ. Đó là “cỏ hội hè”, “cau ấp bẹ”, là “cánh diều để chỏm”, là
“càu càu cánh sen”, là “sinh nhật của cánh chuồn”…Văn hóa nhà
quê của Hữu Thỉnh khác với Nguyễn Bính mà gần với Hoàng Cầm
trong về Kinh Bắc. Đọc họ ta được đắp bồi phù sa văn hóa những
vùng quê và ngược lại, có khi phải am hiểu văn hóa vùng quê ấy,
chúng ta mới bắt được cái hay, cái thú vị ẩn chứa trong tác phẩm của
họ. Thơ cổ điển sống lâu, một phần là nhờ cái bề dày của điển tích –
sợi dây văn hóa đảm bảo cho cánh diều thơ ca chao liệng trên cao
rộng hồn người. Cái sợi dây văn hóa nhà quê phải chăng đã phần nào
níu giữ Hữu Thỉnh đứng được trong nền thơ ca hiện đại bộn bề, xáo
trộn ngày nay” [131].
Viết về làng quê Bắc bộ nói riêng hay bất kì một làng quê nào đó nói chung, không
phải là câu chuyện mới trong thi ca. Sức mạnh thuyết phục lòng người tùy thuộc vào độ
tinh tế trong cách thể hiện của mỗi nhà thơ. Làng quê trong thơ Hữu Thỉnh “vẫn là một
không gian quen thuộc với những ai đã sinh trưởng ở nông thôn Bắc Bộ, nhưng bao giờ
Hữu Thỉnh cũng làm ta thích thú, ngỡ ngàng bởi anh đã “gọi” được những sự vật quen
thuộc vào thơ – những sự vật thường ngày nhưng ta không để ý, nhưng lại gợi lên hồn
quê, tình quê thấm đượm. Điều quan trọng hơn là anh đã thể hiện chúng với một ánh
nhìn, góc nhìn mới lạ làm sáng lên những sự vật tưởng như tầm thường” [130, 85].
Sự “mới lạ làm sáng lên những vật tầm thường” này là cách diễn đạt một cách
bình dị những sự vật của quê hương bằng chính ngôn ngữ của quê hương: “Vẫn chiếc cối
xay cười ra hạt trắng tinh/ Vẫn cây chuối cuối vườn hay ngẫm nghĩ/ Con dao băm bèo,
cái sa cuốn chỉ/ Phấp phới buồm nâu chiều mỏng tang (Sức bền của đất); Hoa sim tím,
quả sim cũng tím/ Đồi treo đầy những túi mật trung du; Tôi sinh ra quả trám đã bùi/ Rễ
si buông cước lá sòi rưng rưng (Trường ca Biển).
Nguyễn Trọng Tạo đã tỏ ra tinh vi một cách khôn ngoan khi ông nhận ra cái hồn
của những chi tiết “nhà quê” trong thơ Hữu Thỉnh, đưa ra sự so sánh khá rõ nét với
Nguyễn Bính, Hoàng Cầm và cố tình giấu đi phần được chờ đợi nhất – chứng minh cụ
thể những biểu hiện ấy. Sự dở dang này đã khiến chúng ta trân trọng hơn giá trị của
những luận chứng trong cuộc hành trình kiến giải mà ngay từ lúc đầu, ta hoàn toàn có thể
ước định được rằng đó không thể là một công việc dễ dàng.
Hình ảnh quê hương trong thơ Hữu Thỉnh và Nguyễn Bính gần nhau ở chỗ thơ hai
ông đều đề cập đến những hình ảnh thân quen, rất đặc trưng cho vùng quê Bắc Bộ.
Nhưng cùng một hồi ức về hương ấy, trong mỗi sở trường thể hiện của mỗi nhà thơ cũng
tồn tại không ít những điểm khác biệt đáng lưu ý.
Làng quê trong thơ Hữu Thỉnh thường được khắc họa qua các hình ảnh: cỏ, cau, lá
sen, bờ ruộng, cánh chuồn, cánh diều, ngọn khói…hay loài rau đay, con cua, cây lúa, ô
mạ trũng…Tất cả những hình ảnh này là bằng chứng của mối liên lạc thường xuyên của
Hữu Thỉnh với gốc gác nhà quê của mình. Đa phần là những hình ảnh xuất phát từ những
hồi ức về những kỉ niệm tuổi thơ hay là những hình ảnh thân thuộc nhất của đời sống
nông nghiệp nơi làng quê. Tức là, nói theo Nguyễn Trọng Tạo, đấy là sự tự ý thức về
nguồn gốc nông dân của Hữu Thỉnh, sự trung thành của Hữu Thỉnh với chính hoàn cảnh
xuất thân của mình. Và một đặc điểm nữa, vô cùng quan trọng, những hình ảnh này đa
phần đi liền với tình cảm của Hữu Thỉnh dành cho người mẹ nơi chốn quê nghèo. Nghĩ
về mẹ, nhớ thương mẹ, Hữu Thỉnh không quên những gì thân thuộc nơi làng quê mà mẹ
hằng ngày làm lụng, gắn bó. Đó là đặc trưng riêng về mặt nội dung về hình ảnh làng quê
trong thơ Hữu Thỉnh.
Thơ Nguyễn Bính cũng không thiếu những hình ảnh quen thuộc nơi làng quê: trầu,
cau, giậu mùng tơi, lũy tre làng, sen, cổng làng, khung cửi, dâu, tằm, ao bèo, giếng, lợn,
trúc, tơ liễu, đỗ ván, rau cần, tầm xuân, cải…Những hình ảnh này, xét về mặt hình thức
rõ ràng đa dạng hơn so với thơ Hữu Thỉnh. Tuy nhiên, đó chỉ là điều đầu tiên mà sự quan
tâm của chúng ta cập bến. Về phương diện nội dung, những hình ảnh ấy cũng có sự vênh
đi rất dễ thấy so với thơ Hữu Thỉnh. Tất cả những hình ảnh: trầu, cau, giậu mùng tơi,
dâu, tằm, trúc, tơ liễu, tầm xuân, cải…trong thơ Nguyễn Bính đều gắn liền với tình yêu
nam nữ nơi làng quê: “Giá đừng có giậu mùng tơi/ Thế nào tôi cũng sang chơi thăm
nàng” (Người hàng xóm); “Lá sen vương vấn, hương sen ngát/ Ấp ủ hai ta chút nhụy
hờ” (Trường huyện); “Nhà em có một giàn giầu/ Nhà anh có một hàng cau liên phòng”
(Tương tư); “Anh và em sẽ sống/ Trong một mái nhà tranh/ Lấy trúc thưa làm cổng/ Lấy
tơ liễu làm mành” (Hôn nhau lần cuối)
Nói một cách rõ ràng hơn, những biểu hiện của làng quê trong thơ Nguyễn Bính
gắn liền với những sắc thái của tình yêu trai gái. Có khi đó là hoài niệm về tình yêu cũ
(Trường huyện), là ước mộng không thành (Hôn nhau lần cuối), là biểu trưng của sự
ngăn cách (Cô hàng xóm)… Và nếu siêng năng hơn, chúng ta hoàn toàn có thể kéo dài
thêm bảng danh sách này đến lúc cạn kiệt những dẫn chứng. Nhưng đó không phải là sự
theo đuổi của chúng tôi lúc này.
Điểm khác biệt thứ hai về hình ảnh làng quê trong thơ hai tác giả này là: thơ
Nguyễn Bính có sự hiện diện khá đông đảo những hình ảnh có mối liên lạc mật thiết với
truyền thống văn hóa làng xã Việt Nam: từ những trang phục đến những lễ hội dân gian
mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống (thắt lưng xanh, khăn mỏ quạ, áo tứ thân, quần
nái, hội kì yên, hội chèo, uống rượu đề thơ, trẩy hội chùa ngày xuân,…): “Trên đường
cát mịn một đôi cô/ Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa” (Xuân về); “Hội chèo làng Đặng
đi qua ngõ/ Mẹ bảo thôn Đoài hát tối nay” (Mưa xuân); “Có những ông già tóc bạc phơ/
Rượu đào đôi chén bút đề thơ” (Thơ xuân)
Như vậy, “không gian văn hóa trong thơ xuân Nguyễn Bính trước hết là không
gian của cuộc sống làng quê với những phong tục, tập quán, những sinh hoạt văn hóa
gắn bó thiêng liêng với đời sống tâm linh của người Việt” [1]. Chẳng hạn như: “Mọi làng
đều đặt mã kì yên/ Mũ với hình nhân, ngựa với thuyền” (Cuối tháng ba). Trong khi đó,
chúng ta phải chứng kiến sự vắng bóng trong phần còn lại của đối tượng so sánh.
Tóm lại, “Nguyễn Bính chủ yếu viết về tình quê, ông ít khi miêu tả cảnh quê. Cảnh
sắc trong thơ thường được nhìn từ khung trời hoài niệm, vì thế cứ bàng bạc một màu sắc
cổ tích, cứ lãng đãng một khung mơ về một thời xưa sót lại trong lòng người trót gian díu
kinh thành” [29, 215].
So với Hoàng Cầm trong “Vọng về vùng quê Kinh Bắc”, Hữu Thỉnh gần gũi hơn,
như nhận xét của Nguyễn Trọng Tạo. Cả Hữu Thỉnh và Hoàng Cầm đều nặng lòng với
nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đều dành một góc trời thơ ca riêng để nhớ về từng “góc
sân và khoảng trời” của mảnh đất quê hương. Trong đó, chất dân dã, bình dị của các hình
ảnh viết về quê hương là điểm gặp gỡ dễ nhận thấy. Cả hai nhà thơ đều xây dựng hình
ảnh làng quê bằng những nguồn mạch văn hóa dân gian. Với Hoàng Cầm, đó không chỉ
là văn hóa trên bình diện hình thức, tức là tiếp thu có hệ thống văn học dân gian, cách nói
dân gian (chủ yếu là chất giọng quan họ của vùng Kinh Bắc) mà còn cả về mặt nội dung.
Hữu Thỉnh dường như chỉ tiếp thu văn học dân gian như là một cách thức hổ trợ tích cực
trong việc tổ chức những vần thơ nói về quê hương của mình.
Trong thơ Hoàng Cầm, nỗi niềm với quê hương là cái tình của kẻ xa quê dành cho
quê hương, chứ không pha lẫn vào đấy tình yêu cá trai gái như Nguyễn Bính. Đọc “Vọng
về vùng quê Kinh Bắc”, chúng ta không thể không chú ý đến những hình ảnh gắn liền với
cuộc sống ở làng quê: ngõ làng xưa, con rô, nghé, hạt nhãn, cây ổi, cây rơm, sen, hoa
gạo, cây cau,…
“Sao không thể khép cửa buồn thương nhớ
Còn phong phanh manh áo dắt về những ngõ làng xưa
Sao không quên chiều đổ mưa
Con rô rạch ngược”
(Ngõ)
“Về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm
Cây ổi giơ xương chống đỡ mùa đông sập về đánh úp”
(Về với ta)
Tuy nhiên, hình ảnh làng quê trong thơ Hoàng Cầm có đặc điểm mà qua đó, gần
như vắng bóng trong thơ Hữu Thỉnh. Đó là gương mặt đời sống tinh thần của quê hương.
Về điểm này, Hoàng Cầm tiến ngày càng sát hơn đến dung môi tương đồng với Nguyễn
Bính. Nhưng nếu Nguyễn Bính khai thác các yếu tố văn hóa làng quê như là “những
phong tục, tập quán, những sinh hoạt văn hóa gắn bó thiêng liêng với đời sống tâm linh
của người Việt” , thì Hoàng Cầm chủ yếu chìm đắm một cách say sưa vào những sinh
hoạt văn hóa mang tính truyền thống của quê hương Kinh Bắc. Trong đó, hình thức hát
Quan họ đặc biệt nổi bật với tư cách một đặc trưng văn hóa nhận diện khó lòng lẫn khuất
vào bất kì một vùng quê nào khác. Viết về quan họ, Hoàng Cầm thường không có ý thức
xa rời Hội Lim, một đặc trưng sinh hoạt văn hóa của vùng. Điều này mang tính cách
tương đương với một lời giải thích vì sao trong thơ Hoàng Cầm có sự hiện diện thường
xuyên của những tên phường gắn liền với lễ hội này: “Phường Tam Sơn, phường Núi
Dạm, núi Chè/ Thách với phường Bò Sơn, phường Nội Duệ/ Đã từng đi đông đoài bốn
bể/ Tìm câu, tìm điệu, tìm giọng, tìm người/ Đã trèo lên trái núi Thiên Thai/ Đã thấy đôi
con chim Loan Phượng ăn ngoài bể Đông” (Quan họ lại bắt đầu).
Và một điều xứng đáng đi cùng với sự lưu ý, không gian văn hóa trong thơ Hoàng
Cầm còn gắn liền với những lễ hội gắn liền với phong tục tập quán hay là những làng
nghề truyền thống của quê hương: hội vật, hội chen Hằng Nga, tranh Đông Hồ: “Loa
càng dóng dả/ Võ nghệ mười phương hồi hộp bắc đồng cân” (Hội vật); “Chen Nga
Hoàng vào ngày nguyệt tận/ Đúng nửa đêm đèn tắt trong ba hồi trống dầm dề” (Hội
chen Nga Hoàng); “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên
giấy điệp” (Bên kia sông Đuống).
Xét về mặt cấu trúc, không gian làng quê trong thơ Hoàng Cầm đa phần gắn liền
với mưa hay những chiều nắng nhạt “để tạo nên men đá vàng trong thơ và trở thành gam
màu chủ đạo trong một thế giới đẫm màu tượng trưng” [29, 197 – 198]. Mặt khác, không
gian văn hóa trong thơ Hoàng Cầm cũng mang đậm tính chất “cổ kính pha màu huyền
thoại (cỏ bồng thi, chùa Phật tích, mưa Ỷ Lan, bến Luy Lâu, tượng Quan Âm, núi Thiên
Thai, đầu ngọn sông Thương, lá diêu bông,…với một không gian – thời gian không xác
định, mờ ảo, xa vời, tít tắp, đan cài giữa mộng và thực, trở về quá khứ” [29, 193 – 194].
Trong thơ Hữu Thỉnh, đó là làng quê gắn liền với hình ảnh của người mẹ trong tính hiện
thực khôn xiết của niềm hoài cảm.
Xét về phương diện giọng điệu, cả hai tác giả này cũng có những điểm giống và
khác nhau cơ bản. Hai nhà thơ đều nghiêng về gam trầm lắng, dịu dàng. Nhưng cái trầm
lắng trong thơ Hoàng Cầm là bạn đường của những hình ảnh thực và ảo. Chúng là kết
quả của sự làm việc có hiệu quả của những giấc mơ và thực tại. Chẳng hạn:
“Từ buổi đó em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút thổi
Diêu bông hời!...ới diêu bông”
(Lá diêu bông)
Trong khi đó, ở phía bên kia, hình ảnh làng quê trong thơ Hữu Thỉnh thường gắn
với thực tại nhiều hơn, nó không ưa thích sự ảo hóa các cung bậc cảm xúc.
So với các nhà thơ cùng thời, hình ảnh quê hương trong thơ Hữu Thỉnh cũng có sự
khác biệt rõ nét với họ. Nguyễn Quang Thiều nhớ đến làng quê chủ yếu qua hình ảnh
dòng sông và cánh đồng. Nhưng có một điều dễ nhận thấy, những hình ảnh này không
mang những sự kí thác của những thông điệp văn hóa mà trong nhiều trường hợp, chúng
mang màu sắc của lễ nghi: “Đến với cánh đồng, dòng sông, mây trời cây cỏ tư thế nhà
thơ là tư thế mang đầy tính lễ nghi. Tư thế trữ tình này được nhắc lại nhiều lần: tôi khóc,
tôi trở lại, ta chạy đến phía hai bờ, quỳ xuống trước sông, Sao ta quỳ xuống hai bờ, xin
lỗi những vầng mây” [29, 261].
Chẳng hạn:
“Tôi bay qua những cánh đồng mùa xuân còn ái ngại
Qua những ngôi sao đã mở mắt nhưng lưỡi thì chưa mọc
Tôi gặp dơi của bình minh, sơn ca của bóng tối
Những ngôi mộ tổ tiên hắt sáng gọi tôi về”
(Bài hát).
Và một đặc điểm khác về nội dung, “trong thơ Nguyễn Quang Thiều, đất đai,
sông nước không chỉ là nơi cư ngụ, không chỉ là nơi thanh lọc tâm hồn sau những giông
bão của đời sống mà quan trọng hơn đó là nơi có khả năng tái sinh những vẻ đẹp kì diệu
nhất, nơi chiến thắng những cằn cỗi trong đời sống tinh thần”. [29, 262].
Phạm Quốc Ca cũng cho rằng: “Làng quê đóng vai trò miền thiêng trong thơ
Nguyễn Quang Thiều. Đó là nơi có khả năng tái sinh đời sống tinh thần của con người.
Chính vì vậy, làng quê được nhìn qua cảm thức tôn giáo hóa. Đồng thời làng quê cũng còn là nơi mà con người phải sống trong đói nghèo, lạc hậu, vất vả, khổ đau”. [15, 114]
2.2 Hình tượng con người trong thơ Hữu Thỉnh:
2.2.1 Hình tượng người lính:
2.2.1.1. Hình tượng người lính trong chiến tranh:
Văn học giai đoạn 1945 – 1975 có mối quan tâm đặc biệt đến hình tượng người
chiến sĩ cách mạng. Những chuyển biến mang tầm vĩ mô của lịch sử dân tộc đã thổi vào
nền văn học luồng sinh khí tràn đầy của cảm hứng sử thi cùng cảm hứng lãng mạn cách
mạng. Trong bối cảnh đó, hình tượng người lính trở thành một trong những hình tượng
trung tâm của thời đại.
Văn học nói chung và thơ ca giai đoạn 1945 – 1975 nói riêng chủ yếu khám phá
hình tượng người lính từ phương diện xã hội, từ trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc,
dân tộc trong hoàn cảnh chiến tranh. Họ trở thành những cá tính thoát khỏi sự ưu ái của
gia đình, làng xóm mang tính chất nhỏ hẹp để hòa vào không khí chung của thời đại.
Nguyễn Bá Thành trong công trình Tìm hiểu một số đặc điểm của tư duy thơ cách
mạng Việt Nam (1945 – 1975) cho rằng: “Đặc điểm nổi bật trong tâm trạng người chiến
sĩ quân đội mà thơ ca thể hiện là tinh thần lạc quan yêu đời, tin tưởng vào thắng lợi cuối
cùng của cuộc chiến đấu, là tinh thần chịu đựng gian khổ, hi sinh và quyết tâm đánh giặc
đến cùng” [138, 73]. Ở một chỗ khác nhà nghiên cứu nhận xét:
“Hình ảnh anh bộ đội là hình ảnh đặc trưng nhất của con người Việt
Nam trong chiến đấu. Trong cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ đó,
người Việt Nam đa chịu đựng biết bao hi sinh, tổn thất. Thơ hiện đại
1945 – 1975 không nói nhiều về nỗi đau thương của con người trong
chiến tranh. Ngay cả nỗi buồn, nỗi nhớ cũng được “cân lượng” để
không làm cho thơ yếu mềm, thiếu tính chiến đấu…Tư duy thơ chú ý
nhiều đến niềm vui hơn nỗi buồn, sự sống nhiều hơn cái chết, chiến
thắng nhiều hơn chiến bại, lạc quan nhiều hơn bi quan” [138, 73 –
74].
Hình tượng người lính trong thơ Hữu Thỉnh hiện lên với những vẻ đẹp quen thuộc
trong thơ ca chống Mỹ. Nhưng điều đáng lưu ý là Hữu Thỉnh đã nói lên được những gì là
đặc trưng nhất nơi họ, những gì ông tâm đắc nhất. Do đó, người lính trong thơ ông vừa
mang những nét chung tiêu biểu của thơ ca chống Mỹ, vừa có những nét đặc trưng riêng
biệt.
Thứ nhất: người lính trong thơ Hữu Thỉnh, như hình ảnh người lính trong thơ của
bao tác giả khác giai đoạn này, hiện lên với tất cả sự hồn nhiên, trẻ trung.
Thứ hai: Người lính trong thơ Hữu Thỉnh được khắc họa như những người có vẻ
đẹp cao cả của ý chí, niềm tin sắt đá vào chiến thắng.
Nhìn một cách tổng thể, chúng ta hoàn toàn có thể xuất bản trong óc mình cách
giải quyết vấn đề theo những con đường tách bạch nhau trong một lớp sương mù ảm đạm
ngăn cách một cách có hiệu lực những mối liên hệ sơ đẳng của chúng. Tuy nhiên, chúng
tôi nhận thấy rằng, tất cả những khía cạnh tính cách này của người lính trong thơ Hữu
Thỉnh đều được chăn dắt và băng qua sự kiểm duyệt của yếu tố trung gian mà qua đó, tất
cả hay rất nhiều những dấu tin cậy đã hiện lên. Đó là sự khắc nghiệt, ác liệt của hoàn
cảnh chiến trường. Hoàn cảnh chiến trường như một chiếc nôi, một bến cảng định mệnh
mà mọi cái vỗ cánh nhẹ nhất của đường viền cảm xúc của người lính đều ít nhiều sướt
qua mặt của nó.
Nhắc đến sự hồn nhiên yêu đời của người lính, những người yêu thơ không thể
không nhớ đến Phạm Tiến Duật cùng với những câu thơ đầy vẻ hồn nhiên, giàu chất lính:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Không cần rửa, phì phào châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lắm, cười ha ha”
(Tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật).
Nói cách khác, người lính trong thơ Phạm Tiến Duật mang vẻ yêu đời một cách
tinh nghịch và pha chút dáng dấp ngang tàng một cách đáng yêu. Đây là một điều rất dễ
nhận thấy.
Thơ Hữu Thỉnh cũng khắc họa những nét tính cách ấy với những biểu hiện cụ thể
của nó. Sự hồn nhiên, trẻ trung ấy đi vào những trang thơ của ông như một điều ghi nhận
đầy tính hiện thực pha lẫn chút lãng mạn, dí dỏm.
Khắc họa khía cạnh tính cách này của người lính, Hữu Thỉnh, như bao nhà thơ
chống Mỹ khác, có xu hướng tổ chức bài thơ của mình thành hai khối rõ rệt: khắc họa
hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến trường và qua đó, thực hiện nhiệm vụ then chốt, phản
ánh nét đẹp tinh thần của họ. Hai yếu tố này gần như đi đôi với nhau như những cặp ăn ý
mang tính cách định mệnh. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là hai yếu tố ấy giữ
vai trò ngang nhau trong việc thể hiện chủ đề then chốt. Bởi lẽ, thực tế tồn tại những dấu
chỉ rõ rệt rằng, yếu tố thứ nhất chỉ đơn thuần giữ vai trò phụ họa, vai trò của những cái
nền để làm nổi bật cho bằng được những thứ bay cao trên những nền mống ấy.
Đọc thơ Hữu Thỉnh, chúng tôi nhận thấy tính cách ấy của người lính đa phần được
khắc họa qua sự sinh hoạt, tức là hoàn cảnh sống của người lính nơi chiến trường. Đó có
thể là cảnh ăn cơm đứng (Kỷ niệm về bữa ăn cơm đứng), những đêm ngủ không chăn
(Đêm không chăn), hay những cảnh tắm mưa (Tắm mưa trên cao điểm, Tắm mưa), những
Giấc ngủ trên đường ra trận…Tựu trung lại, một cách khái quát nhất, đó là những khó
khăn, thiếu thốn về vật chất mà một cách khó lòng cưỡng lại, chúng đã đi qua đời lính
như những vị khách quen hay những bạn đường tri kỉ nhất.
Đây là cảnh tắm mưa: “Kì lưng nhau ríu rít đùa vui/ Chẳng ai biết đã qua trăm
trận đánh/ Chỉ thấy như úp cá ở đâu về” (Tắm mưa); hay một bữa cơm “ăn đứng” của
người chiến sĩ: Không còn chỗ nào khô mấy đứa đành ăn đứng/ Trở đũa một đầu, mưa
lạnh mất đầu kia” (Kỷ niệm về bữa cơm ăn đứng).
Qua những khắc nghiệt, khó khăn của hoàn cảnh, Hữu Thỉnh ghi lại tính cách hồn
nhiên của người chiến sĩ. Hồn nhiên ở đây không phải là sự khinh thường hoàn cảnh đến
mức phủ định sự tồn tại của nó hay đối thoại với nó bằng cách nói đại ngôn; mà là sự
thản nhiên nhìn nhận và chấp nhận “sống chung” với hoàn cảnh, thỏa hiệp với chúng
bằng những khế ước nhỏ mà trong đó, người lính dường như giữ vai trò chủ động đối,
vượt lên trên hoàn cảnh để chiến đấu và chiến thắng.
Bài “Giấc ngủ trên đường ra trận” thể hiện rất rõ điều này: “Đèo nặng thế mà khi
vào giấc ngủ/ Cứ hồn nhiên như sau buổi chăn trâu/ Võng ta nằm thao thức bên nhau/
Giấc ngủ sâu, tắm đoạn đường nóng bỏng/ Mặc bom Mỹ cắn vào đêm mơ mộng/ Con
suối dài cứ hát để đi xa…” (Giấc ngủ trên đường ra trận).
Tính cách hồn nhiên trẻ trung của người lính là điều kiện thiết yếu làm nảy sinh ra
một giềng mối láng giềng thân thuộc. Đó là phẩm chất nghệ sĩ của người chiến sĩ. Sống
và chiến đấu trong một môi trường mà cái chết và sự sống luôn có xu hướng chìa môi
nhau trong một chiếc hôn cháy bỏng, người lính vẫn giữ được chất nghệ sĩ của mình.
Thực tế khốc liệt của cuộc chiến tranh lúc bấy giờ khiến người ta không thể không thừa
nhận rằng vẻ đẹp của thiên nhiên đã bị xâm phạm và đe dọa hơn bao giờ hết. Tuy nhiên,
bên cạnh sự chết chóc, hoang sơ và điêu tàn dễ thấy ấy, người chiến sĩ trong thơ Hữu
Thỉnh vẫn nghe thấy được sự hiện diện của cái đẹp, của sự sống đang tồn tại và trưởng
thành.
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến trường, những nhu cầu tinh thần của con
người, mà cụ thể nhất là nhu cầu văn nghệ, trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, nó
được “diễn xướng” trong một môi trường vô cùng đặc biệt: hoàn cảnh chiến tranh. Thơ
Hữu Thỉnh không dựng lại nhiều những huống cảnh này. Tuy nhiên, sự xuất hiện một
cách khiêm tốn của nó trong thơ ông không hề mang nét nghĩa điểm danh hay khái quát
một cách hời hợt, mà rõ ràng, qua những hiện tượng mang tính hiếm hoi này, nhà thơ đã
dựng lại một cách khá thành công phẩm chất nghệ sĩ trong tâm hồn người lính. Không
cần đến sự có mặt của những diễn viên chuyên nghiệp, người chiến sĩ đảm nhận cả vai
trò trình diễn ấy ngay trên sân khấu của đời mình. Những màn văn nghệ được trình diễn
bởi những cô “y tá”, những cô “chính trị viên”, những “anh nuôi”, “đại đội trưởng”,
“bếp trưởng”… tưởng chừng dễ dàng dẫn người xem đến cảm giác chứng kiến sự chờ
đợi bị hẫng. Tuy nhiên, vượt lên hoàn cảnh thiếu thốn mọi bề ấy, họ đã chứng minh một
điều giản dị rằng: nghệ thuật vẫn có thể trường tồn ngay trong những hoàn cảnh khắc
nghiệt nhất, khi người ta gặp nhau ở sự đồng điệu và một trái tim nhạy cảm tuyệt vời:
“Chao ôi, tiếng hát rung rừng chuyển
Đại đội ta tất cả má hồng
(…)
Sớm mai xuất kích tăng gầm xích
Tiếng hồ, tiếng nhị cũng theo đi”
(Đêm liên hoan).
Tâm hồn nghệ sĩ của người chiến sĩ không chỉ thể hiện trong cái khung thưởng
thức nghệ thuật giản dị ấy, mà còn chan hòa với cả hoàn cảnh chiến đấu lúc bấy giờ. Tâm
hồn nghệ sĩ đã thai nghén và làm sủi bọt lên không ngừng những đôi cánh lãng mạn, mà
qua đó, bóng đen của hoàn cảnh đã thu hẹp lại quyền lực thao túng của mình. Những lúc
ấy, người lính chỉ nhìn thấy tất cả vẻ hoang vu, điêu tàn, của cuộc sống như một khách
thể nằm ngoài “tầm đón đợi”. Họ chỉ thấy, trên thực tế ảm đạm ấy những nét đẹp thuần
khiết và vô cùng giá trị. Rõ ràng, những cảm xúc này không thể không “thường trú”
trong từ trường lãng mạn cách mạng. Nó hoàn toàn không làm tổn hại đến cục diện chung
mà chỉ góp phần giúp tình hình trở nên thêm lành mạnh.
Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp biểu hiện này trong rất nhiều bài thơ viết về
người lính của Hữu Thỉnh. Chẳng hạn: Giấc ngủ trên đường ra trận, Chuyến đò đêm giáp
ranh, Đêm không chăn, Ý nghĩ không vần, Tiếng hát trong rừng,…
“Trên cao điểm mùa xuân” với thực tế “hai tay đều rộp bỏng”, hai vai “đỏ bầm
máu đọng”, người lính không quên sự hiện hữu của “khóm hoa mười giờ nhận từ một
cung đường khu Bốn”. Khóm hoa “nở hồn nhiên nở tràn ấm cả sân rồi, Ôi màu đỏ hoa
mười giờ thích quá” (Trên cao điểm mùa xuân). Ở đây, nỗi đau về thể chất dường như
không sở hữu một vai trò quan trọng nào trong mối quan tâm của nhân vật trữ tình. Nó có
phần vơi đi, lắng xuống để nhường chỗ cho sự ngoi lên của tiếng nói tâm hồn. Và đấy là
thời điểm thích hợp mà qua sự môi giới duy nhất của trái tim, người chiến sĩ cảm thấy
niềm hi vọng của mình được thỏa mãn.
Hay trong Chuyến đò đêm giáp ranh:
“Bìm bịp chùm đôi kêu dính vào nhau
Tiếng nước vỗ tan ra rồi chập lại
Đêm chỉ thực bằng âm thanh ngần ấy
Tất cả là ru tất cả là mơ
(…)
Chúng tôi đi với một niềm tin
Vầng trăng ấy chở chúng tôi cập bến”
(Chuyến đò đêm giáp ranh).
Tất cả không gian và thời gian của chuyến đò “đặc biệt” này được tắm gội trong
bầu không khí huyền ảo. Và đó là điều kiện lí tưởng để trường tưởng tượng của người
lính có dịp bay cao với những tọa độ sướt qua mặt của niềm đam mê cháy bỏng. “Bến đò
chìm trong đêm mênh mông”, trong “Tiếng bìm bịp bập bềnh trong đêm nước lên”, trong
tiếng “cứa” vào đêm “ram ráp” của “cỏ lác, cỏ lăn”. Tất cả những hình dung của người
lính về người đưa đò cũng không giống nhau. Đó là những phán đoán trái ngược nhau
một cách sơ đẳng đến dễ hiểu. Với họ, tất cả những gì hiện ra trước mắt hoàn toàn chan
hòa vào bến bờ mơ mộng, huyền ảo: “Tất cả là ru tất cả là mơ”. Hình ảnh “Vầng trăng
ấy chở chúng tôi cập bến” là minh chứng xác đáng nhất cho phẩm chất nghệ sĩ, dáng dấp
lãng mạn của người chiến sĩ cách mạng.
Người lính trong thơ Hữu Thỉnh có xu hướng ồn ào, nhất là bình phẩm về những
chiến công của mình:
“Các anh không nói nhiều về chiến thắng những ngày qua
Chỉ mong mưa cho đồng bào gieo lúa”
(Sau trận đánh).
Có một thực tế dễ nhận thấy, mặc dù cùng phản ánh một đối tượng là người lính,
nhưng cách thể hiện hình tượng của mỗi nhà thơ lại rất khác nhau. Cách thể hiện hoàn
cảnh chiến trường trong thơ của Phạm Tiến Duật và Hữu Thỉnh cũng có những nét khu
biệt nhất định: “Thơ Phạm Tiến Duật (Thơ một chặng đường) lấy chiến trường làm đối
tượng cảm xúc, chủ yếu thể hiện những con người ở mặt trận (anh bộ đội, đồng chí coi
kho, cô thanh niên xung phong). Thơ Hữu Thỉnh cũng viết về chiến tranh, về trận đánh
nhưng luôn có sự gắn kết giữa tiền tuyến và hậu phương, cuộc chiến đấu ngoài mặt trận
với trận tuyến chống kẻ thù trong lòng địch” [130, 41]. Mặt khác, dù cùng thể hiện mối
quan tâm về việc phản ánh chân dung người lính trận, nhưng “thơ Phạm Tiến Duật bộc
trực sôi nổi, thơ Hữu Thỉnh sâu lắng và day dứt” [130, 41]. Đó là những nét khác biệt cơ
bản nhất trong cách thể hiện hình tượng người lính trong sáng tác của hai nhà thơ.
Một khía cạnh đáng lưu ý khác của hình tượng người lính trong thơ Hữu Thỉnh là
những suy nghĩ của họ về tình yêu trong thời chiến. Người lính bên cạnh trách nhiệm
chiến đấu cho sự nghiệp chung của dân tộc, vẫn đeo mang trong tâm tưởng biết bao cung
bậc sâu lắng về tình cảm lứa đôi. Và điều này, tự bản thân nó đã không quá xa lạ với tất
cả chúng ta trong tất cả những biểu hiện sinh động của thơ ca chống Mỹ. Nó tồn tại một
cách hiển nhiên như những chân lí không thể khác đi. Do đó, viết về khía cạnh này, Hữu
Thỉnh không có xu hướng đi chệch với kim chỉ nam đã được dựng sẵn, mà hoàn toàn,
một cách chắc chắn, hòa vào nhịp đập chung của thơ ca đương thời để đem đến cho
chúng ta cái nhìn toàn diện vào bao quát hơn về hình ảnh của người chiến sĩ.
Chiến tranh là một hoàn cảnh mà ở đó, nếu muốn chiến thắng, con người phải gạt
bỏ đi tất cả những gì thuộc về riêng tư để toàn tâm, toàn ý phục vụ cho lí tưởng. Đó là
yếu tố trọng yếu dẫn đến chiến thắng. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là những người
lính của chúng ta mang một trái tim sắt đá hay vô cảm một cách có chủ định. Sâu thẳm
trong tâm hồn họ, hình ảnh của người yêu, người mẹ, người chị vẫn thấp thoáng và lắm
khi bật thành niềm thương cảm mênh mông. Họ vẫn luôn hiện hữu trong từng phút giây
mà những người ở tiền tuyến trải qua. Và một điều khá rõ ràng, những nhân vật này
không hề là chủ nhân của những cảm giác bi lụy trong người lính, mà là niềm động viên,
thôi thúc lớn lao. Với người lính, họ như tất cả hậu phương mà mình đã đặt hết niềm tin
và hi vọng.
Nhìn chung, thơ tình giai đoạn này cũng là một kiểu nhận thức về hiện thực, về
cuộc sống, về lý tưởng cách mạng. Do đó, không có gì quá đổi ngạc nhiên khi các thi sĩ
thường ít chú ý đến việc miêu tả những sắc thái và diễn biến tâm trạng trong tình yêu
càng không chú tâm nhiều đến việc đưa ra ánh sáng những bản chất đích thực của ái tình
như ở giai đoạn 1930-1945. Đây là thời kì mà cái tôi cá nhân đã hòa vào dòng chảy của
cái ta cộng đồng hay nói rõ ràng và chính xác hơn là sự phụng sự một cách nhiệt thành
của cái tôi trữ tình cá nhân đối với cái tôi trữ tình công dân. Tất cả những biểu hiện riêng
tư đã xếp lại cùng với đôi cánh của nó. Do vậy, tình yêu trong thơ ca giai đoạn 1945 –
1975 cũng không thể đi xa hơn khu qui hoạch mà thời đại đã dành sẵn cho nó: tình yêu và
nghĩa vụ đối với đất nước, dân tộc.
Nhận xét về những nét đặc trưng cơ bản của thơ tình giai đoạn 1945 – 1975, Bùi
Công Hùng cho rằng: “Thơ tình yêu mà thanh niên bây giờ yêu thích không chỉ đơn
thuần là nói riêng về tình yêu, về xa cách, nhớ nhung. Thơ thờ phụng, thơ ca ngợi, thơ
buồn giận không đủ nữa…Mà tình yêu chen lẫn trong công việc, trong chiến đấu, chen
lẫn trong giữa sống và chết, chen lẫn giữa bát cơm manh áo, nói đến trận chiến rồi liên
tưởng đến người yêu, lại quay sang nói về mẹ, lại nghĩ về cuộc chiến đấu, nghĩ về quân
thù rồi lại trở về tình yêu, nói sang cái chết, bụi cỏ lại trở lại tình yêu Tổ quốc, tình yêu
trai gái” [61].
Có một điều đáng lưu ý, số lượng các bài thơ tình của Hữu Thỉnh trong mảng thơ
viết về chiến tranh rất ít ỏi. Sự có mặt thưa thớt của nó trong hai tập thơ trữ tình ngắn
(Âm vang chiến hào và Tiếng hát trong rừng) và cả trường ca Đường tới thành phố đã
chứng minh phần nào vai trò kép nhì của nó trên sân khấu chung của thơ Hữu Thỉnh. Tuy
nhiên, thực tế đó không ngăn cản được tính chất nghiêm túc của các đặc điểm nêu trên
trong thơ tình Hữu Thỉnh giai đoạn trong chiến tranh: “Đọc thơ Phạm Tiến Duật, Dương
Hương Ly, Hữu Thỉnh, Trần Mạnh Hảo ta sẽ thấy rõ điều này” [61]. Tiếng hát trong
rừng sở hữu hai bài (Đi trong mây và Ý nghĩ không vần) trong khi trường ca Đường tới
thành phố chỉ có một đoạn đảm trách nhiệm vụ này như là những lời tự tình với người
yêu trên con đường dẫn ra mặt trận. “Tình yêu thời chiến mang nét đặc thù là nơi yên
tĩnh, là phút lặng của cuộc chiến. Người yêu là nơi người chiến sĩ gửi gắm hi vọng, chia
sẻ vui buồn trong chiến tranh, thông qua tình yêu mà bộc lộ tình cảm với Tổ quốc, quê
hương. Đó là tình yêu mang lí tưởng xã hội cao cả, mang nét chung của một thế hệ, một
giai đoạn lịch sử” [130, 58].
Thơ tình thời chiến của Hữu Thỉnh mang đầy đủ những đặc điểm mà Bùi Công
Hùng đã khẳng định ở trên. Từ chiến trường nhớ về người yêu ở hậu phương, hồi tưởng
về những kỉ niệm lứa đôi, rồi lại nghĩ về cuộc chiến hiện tại, trách nhiệm với quê hương,
đất nước. Bài Ý nghĩ không vần là một minh chứng cụ thể cho điều này: “Anh viết cho em
những ý nghĩ không vần/ Đường Trường Sơn khúc khuỷu/ Xích xe tăng quay không êm ả
tí nào…Nhà máy của em hương chè thơm chát cả miền đồi/ Em với bạn bè vào ca tíu
tít…Trăng buổi đầu ngượng ngập mênh mông/ Những câu nói tha hồ bóng gió/ Mỗi đứa
hiểu một đầu mà vẫn gặp nhau…Chỉ biết bây giờ trước ánh sáng lân tinh của bảng đồng
hồ/ Và con đường trước mặt anh phải vượt qua…Trong cuộc chiến tranh này/ Đừng để
ngượng với nhau khi gặp mặt/ Lại một trận bom tụt sau tháp pháo của anh rồi” (Ý nghĩ
không vần)
Hình ảnh người yêu luôn là đối tượng tâm tình không thể thiếu trong thơ tình Hữu
Thỉnh giai đoạn chiến tranh. Hầu hết những bài thơ tình của ông giai đoạn này đều in
đậm dấu vết đó: “Hai vết xích hằn lên/ Đó là điều hệ trọng nhất lúc này/ Nếu chỉ là em
thôi thì không phải/ Chính em đang cùng anh cầm lái/ Và chiếc xe tăng cứ phóng qua
những hố bom tức tối/ Vượt qua trọng điểm này để tới chỗ xung phong” (Ý nghĩ không
vần); “Đi trong mây anh thấy ấm em à/ Tiếng suối giục nghe khi mờ khi tỏ (…) Đi trong
mây anh nghe tiếng chim/ Hồn hậu quá như bàn tay em ấy” (Đi trong mây).
Chất giọng tâm tình sâu lắng ấy còn thể hiện ở không ít những bài thơ khác. Và
trong những trường hợp này, đối tượng để bộc bạch ấy, dường như ẩn hẳn để nhường chỗ
cho tất cả những suy nghĩ của chủ thể trữ tình. Trong bài “Thư mùa đông”, nhân vật trữ
tình đã tự sự tất cả hoàn cảnh mà mình đang nếm trải với người yêu: “Thư viết cho em
nhòe nét mực” trong huống cảnh khắc nghiệt của thời tiết và thực tại:
- “Phên thưa sương muối cứ bay vào”,
- “Ở đây tuyết trắng trên chăn mỏng”
- “Hạt ngô gieo xuống cũng co mầm”
- “Anh bòn không kiếm đủ rau ăn”
Trong hoàn cảnh ấy, chất lãng mạn của người lính lại nẩy lên như một phản ứng
định mệnh. Sự khắc khe một cách hào nhoáng đó của thiên nhiên, thực tại không làm vơi
đi nỗi nhớ về người yêu trong lòng người chiến sĩ. Nó thao thức, thường trực trong lòng
nhân vật trữ tình để có thể sẵn sàng bật dậy thành những ý nghĩ hết sức nên thơ:
“Tin quê bén với đào lưng dốc
Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em”
Hay:
“Ước gì có chút hương bồ kết
Cho núi mềm đi đá ấm lên”.
Vẫn là những nếp nghĩ mang màu sắc lãng mạn, “Gửi từ đảo nhỏ” đã phần nào
cung cấp thêm cho chúng ta nhiều tư liệu quý giá hơn về biểu hiện của khía cạnh này:
- “Biển xanh quá ước gì anh nói được
Nhờ con tàu bè bạn đến tay em”
- Ước gì gửi sóng cho em được
Nghe cá ngoài khơi vọng dưới thuyền”
- “Em có thấy đảo gần hơn một chút
Ở nơi này, anh vừa thả trăng lên”.
Cũng viết về tình yêu của người lính nhưng Phạm Tiến Duật không quan tâm
nhiều đến nỗi nhớ của người chiến sĩ dành cho người yêu ở chốn hậu phương. Tình yêu
trong thời chiến của ông khai sinh ngay trên mảnh đất chiến trường ác liệt. Đó là những
cung bậc cảm xúc của người lính khi tiếp xúc, gặp gỡ với những cô gái thanh niên xung
phong.
Phạm Tiến Duật đã đọc đúng nhịp đập trái tim người lính trong cảm giác đang yêu.
Những cảm giác bí mật ấy đã kết thúc để trở thành những tin tức công khai:
“Cái cậu trẻ măng cất lên tiếng hát
Khi biết trong hầm có cô bé đang nghe”
(Vầng trăng và quầng lửa)
Ông còn đóng cả vai trò của một nhà thám hiểm tâm lí, thâm nhập từng gốc rễ sâu
kín để tìm ra những mối liên thầm kín tạo nên sự “rạo rực” khôn nguôi của người lính
trước vẻ đẹp của người con gái: “Sự có mặt đã là câu hỏi lớn/ Hoa như em làm rạo rực
bao người” (Những bông hoa không hỏi). Đôi khi vẻ đẹp ấy có sức mạnh không kém gì
những quả bom đã làm nhòe đi tất cả: “Có lẽ vì khuôn mặt em xinh/ Nên tiếng hát nhòe đi
không nhớ nữa/ Giữa một vùng đất bụi khô rang/ Em bỗng đến như dòng sông đầy nước”
(Nghe em hát trong rừng).
Viết về tình yêu của người lính trong hoàn cảnh chiến tranh, Phạm Tiến Duật có
thói quen yêu thích việc miêu tả vẻ đẹp của người con gái chiến trường. Với ông, đó là
tấm gương duy nhất phản ánh một cách trung thực hình ảnh của nỗi đam mê thưởng thức
cái đẹp. Đó là vẻ đẹp mang phẩm chất của đời sống chiến trường, không cần đến sự trang
trí, đối xứng. Nó không cầu viện đến sự sắp xếp tỉ mỉ, và thường tạo ra hiệu quả bất ngờ
nhờ sự đa dạng không giới hạn:
“Giữa đường gặp một cô gái
Tôi nghĩ cô này xinh đây
Đồng chí lái phụ hớn hở
Đồng chí lái chính cau mày”
(Đồng chí lái chính, lái phụ và tôi).
Nhưng vẻ đẹp ấy cũng có thể là kết quả của cái nhìn lãng mạn: “Hồng hồng gương
mặt xinh quen/ Nón bài thơ, cái chao đèn của anh” (Cái chao đèn).
Như vậy, tình yêu của người lính (trong hoàn cảnh chiến tranh) trong thơ Phạm
Tiến Duật chủ yếu ghi lại những cung bậc cảm xúc của người lính khi đứng những rung
động nguyên sơ của “cái thuở ban đầu lưu luyến” hơn là trình bày một cách có chủ đích
về nỗi nhớ hay xem người yêu như một đối tượng để bộc bạch, tâm tình như trong thơ
Hữu Thỉnh. Ở Hữu Thỉnh, tình yêu này đã bắt đầu và đang chịu thử thách khắc khiệt
trong vùng xa cách. Tình yêu của người lính trong thơ Phạm Tiến Duật phần lớn chỉ là
những mầm mống, những dấu hiệu cho thấy chồi non của sự khởi đầu. Tình yêu này phần
nhiều mang màu sắc tự bạch, pha chút vui tươi, hóm hỉnh của người lính. Và từ trong một
chừng mực nhất định nào đó, nó mang cả cái hồn, nét tính cách của người lính. Nó gợi
nhớ đến những bài tình ca về sự chớm nở của tình yêu nhiều hơn là những bản nhạc tình
chân chính theo đúng nghĩa. Hữu Thỉnh viết về tình yêu của người lính bằng cung bậc
tâm tình mang màu sắc trầm lắng, nghiêng về phía rợp mát; trong khi Phạm Tiến Duật
2.2.1.2. Hình tượng người lính sau chiến tranh:
thích ngả mình về hướng ồn ào, sôi nổi, vui tươi.
Nhận xét về những điểm khác biệt cơ bản của hình tượng thơ trước và sau 1975,
Vũ Tuấn Anh cho rằng:
“Hình tượng thơ trong cách nhìn sử thi thường là những hình tượng
lớn, có tầm vĩ mô và tính chất khái quát cao…được khắc họa bằng
những nét tạo hình kì vĩ (…). Thơ sau 1975 thể hiện cái nhìn của con
người bình thường, con người cá nhân. Cái tôi trữ tình không đứng ở
vị trí cao để hướng cái nhìn nghệ thuật vào hiện tượng lớn, không
gian, thời gian vĩ mô mà đứng cạnh, đứng ngang tầm với đối tượng
miêu tả (…). Tương ứng với điểm nhìn nghệ thuật thường là thấp, gần
gũi. Các hình tượng thơ thường giàu chất cụ thể, cảm tính, các ví von
ẩn dụ được đặt trong mối tương quan so sánh gần gũi. Thơ có xu
hướng hạ thấp, thu nhỏ tầm vóc đối tượng miêu tả hơn là ca ngợi và
mỹ lệ hóa.” [2, 152].
Hình tượng con người nói chung và hình tượng người lính nói riêng trong thơ Hữu
Thỉnh giai đoạn sau 1975 vẫn nằm gọn trong sự dịch chuyển chung của thời đại.
Nếu trong giai đoạn chiến tranh người lính chủ yếu được nhìn nhận và phản ánh
qua cái nhìn sử thi mà ở đó sự nhất quán về những phương diện thể hiện của hình tượng
này gần như trở thành một hằng số bất biến mà người ta có thể tạo ra bằng tất cả lòng
nhiệt thành sáng tạo; thì thơ sau 1975 đã trao cho hình tượng này đặc quyền khoáng đạt
và đa dạng với những bề sâu trầm tích được đưa lên khỏi mặt đất. Những vấn đề tưởng
chừng như nằm im trên giường chiếu của sự quên lãng đã bật dậy cùng những tiếng nói
đầu tiên. Với một thuận lợi nhỏ là vốn liếng của một độ lùi nhất định về mặt thời gian,
các tác giả đã có thể trang bị cho mình một cái nhìn tỉnh táo, đầy đặn, cụ thể về những
miền tối ảm đạm, những góc khuất âm u trong tâm hồn của người lính.
Được sự giúp đỡ đầy hiệu quả của cái nhìn mang dáng dấp đổi mới đó, các nhà thơ
soi chiếu hiện thực về cuộc chiến tranh và người lính như một hành động len lõi vào vô
vàn những chiếc đảo nhỏ của đời sống đong đầy phức tạp của tinh thần. Mối ưu tư được
vun trồng từ nỗi đau thế hệ đó được phanh phui một cách cẩn thận và tỉnh táo đến mức
khiến ta không thể không có cảm giác rằng họ - các thi sĩ đang điều khiển thế giới đó với
biết bao tinh tế, linh hoạt như thể họ đang lướt trên những hố sâu tuyệt vọng.
Cái nhìn về chiến tranh và người lính chuyển từ tọa độ cao xuống thấp; từ vận
mệnh chung của đất nước, dân tộc đến số phận riêng của từng người. Chất giọng sử thi
cũng gần như đã tìm thấy sự kết thúc viên mãn của mình trong giai đoạn này (trừ một số
trường ca mang âm hưởng tiếp nối giai đoạn văn học trước trong sự cố gắng mang lại
một cái nhìn suy ngẫm, chiêm nghiệm về thắng lợi của cuộc chiến chống Mỹ đầy gian
khổ của dân tộc). Tâm thế chung của những vần thơ viết về người lính giai đoạn sau
1975 là tâm thế đối thoại nằm trong chuỗi sát hạch những quan niệm, giá trị, tiêu chuẩn
khác với cách nhìn nhận trước đó.
Đây cũng là điều mà nhiều nhà nghiên cứu đã nhìn nhận: “Cảm hứng trữ tình
chuyển từ tự hào, ca ngợi, chiêm ngưỡng xuống lắng đọng, suy tư. Không gian chuyển từ
rộng sang hẹp, từ không gian lịch sử sang không gian đời tư. Những vấn đề sử thi chuyển
dần sang màu sắc thế sự” [108, 94]. Rõ ràng, đây là yếu tố vô cùng quan trọng rèn đúc
nên tinh thần dân chủ cho thơ ca giai đoạn này. Nhà thơ đã được giải phóng ra khỏi
những khuôn khổ tư tưởng được định sẵn và qua đó thể hiện sâu và sắc tính đa chiều của
hiện thực. Sự kì vọng ở đây không nằm ngoài niềm mong mỏi khôn xiết về màu sắc suy
tư của hiện thực, nếu không muốn nói là một hiện thực mang tính suy tư.
Tư thế người lính không còn ở thế cao vời vợi để được chiêm ngưỡng và ngợi ca
bằng những mỹ từ đẹp nhất. Chính bản thân họ đang ý thức về phần thực nhất của đời
mình. Họ rũ bỏ lớp hào quang sáng chói: “Ta là đất đai thôi/ Xin đừng nặn ta thành
những tượng thần/ Xin đừng nặn ta thành những núi cao” (Thu Bồn). Hiện thực chiến
tranh cũng không còn hiện lên với bề ngoài của nghệ thuật hội họa mà là tính hiện thực
nghiêm túc của nó: “Con trai vừa lớn lên, chưa biết yêu đã biết cầm súng đứng vào đội
ngũ…/ Đường đến Tổ quốc là đường đi qua cái chết” (Lê Lâm). Con người nhìn nhận
thực tế hơn sự nghèo khó và bất hạnh, thậm chí bi kịch của biết bao thân phận trở về sau
chiến tranh: “Mười mấy năm trận mạc/ Anh lính trở về làng/ Mẹ già thì mới mất/ Nhà
cửa thì tang hoang” (Khúc bi ca, Văn Lê).
Nhận xét thơ viết về người lính sau 1975, Nguyễn Hữu Quý đã nhận diện ra phần
đặc trưng nhất của một số cây bút:
“Một Nguyễn Đức Mậu nồng hậu, nhiều giãi bày trăn trở, một Anh
Ngọc buồn lặng đa sầu, một Vương Trọng thông minh thế sự, một
Nguyễn Hồng Hà nhiều tưởng nhớ, day dứt, một Lê Thành Nghị biết
kiệm lời và triết luận, một Đỗ Trung Lai phảng phất Đường thi, một
Trần Đăng Khoa hóm hỉnh, một Trần Anh Thái đau đáu, sâu sắc, một
Nguyễn Bình Phương lung linh nhiều chấm lạ, một Nguyễn Văn Hiếu
hoài niệm, một Hồng Thanh Quang nhiệt tình, một Lê Văn Vọng mộc
mạc, bình dị…” [113].
Như vậy, nhìn chung sau 1975, đề tài chiến tranh và người lính chủ yếu được khai
thác ở nhiều góc độ, bình diện khác nhau trong tính đa chiều đa diện của nó: quá khứ,
hiện tại, tương lai, chiến trường, hậu phương, vinh quang, tổn thất…Mà đặc điểm nổi bật
nhất là khơi sâu cái giếng thơi tinh thần mang nặng mùi suy tư về những nỗi đau, bi kịch
tinh thần của con người sau cuộc chiến.
Phản ánh chân dung của người lính sau chiến tranh, Hữu Thỉnh không có chủ đích
vẽ nên những bi kịch tinh thần của người lính trước những thay đổi lớn lao khó lòng thực
hiện cuộc lẫn tránh trước thực tại. Ông không nằm trong tập hợp với số đông các nhà thơ
nhiệt tình đó. Điều duy nhất ông quan tâm là cố gắng ghi lại những ấn tượng rõ rệt nhất
mà qua đó, có thể xuất bản trong chúng ta niềm cảm thông đối với những vẻ đẹp tinh
thần của người chiến sĩ. Và những bài thơ làm nhân chứng cho điều này cũng không
nhiều trong suốt sự nghiệp sáng tác của tác giả (tính đến thời điểm này). Đó là những
biểu hiện cụ thể của thể loại thơ trữ tình ngắn của tác giả.
Nhưng nếu xét ở thể loại trường ca, bản chất vấn đề đã trở nên thay đổi. Biển là
trường ca duy nhất viết về hình tượng người lính sau chiến tranh ở thể loại này của Hữu
Thỉnh. Nguyễn Nguyên Tản đã có nhận xét rất bổ ích:
“…Điểm khác nhau quan trọng trong nội dung phản ánh của Trường
ca Biển là số phận cá nhân của người lính Cách mạng, về căn bản đã
có ý nghĩa độc lập, nói như nhà thơ: Họ bơi trên số phận của riêng
mình. Họ chịu đựng hi sinh trong cảm giác thiệt thòi như “những
dòng sông hóa thạch” dưới đáy biển khơi. Khác với thời chống Mỹ,
giờ đây, họ sống cùng gian lao, lòng không thanh thản. Họ phải gồng
mình lên để cố lấp đi cái khoảng trống trong tâm hồn, nỗi đắn đo giữa
được – mất, cống hiến và hưởng thụ, giữa hi sinh và cái giá phải trả
cho sự hi sinh: Đời bao nhiêu trớ trêu mà đêm còn quá nặng/ Đêm
như là vắt kiệt các vì sao/ Chúng tôi là lính đảo thời bình/ Phải gồng
mình cả khi yên tĩnh nhất/ Để chống lại cái khoảng trống kia/ Cái
khoảng trống chực len vào đồng đội/ Chực len vào giữa bạn và tôi/
Cái khoảng trống lạnh tanh vô nghĩa/ Cái ngay trong chính bản thân
mình” (Trường ca Biển)” [130, 12].
Khác với biểu hiện cụ thể trong trường ca Biển, người lính sau chiến tranh trong
thơ trữ tình ngắn của Hữu Thỉnh vẫn giữ được vẻ đẹp của lí tưởng cống hiến, hi sinh vì lí
tưởng, vì quyền lợi của Tổ quốc quê hương. Họ sẵn sàng dấn thân vào mối nguy hiểm
mới để góp một phần công sức vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Một lần nữa trong đời họ
phải hi sinh hạnh phúc cá nhân, gia đình:
“Nhưng với một người lính như con
Muốn gặp mẹ phải vươn lên phía trước
(…)
Bước chân con chưa kín mảnh sân nhà
Phía biên giới lại những ngày nổ súng
Ngôi nhà của mẹ là chiếc ga bé nhỏ
Chúng con đến và đi trong suốt cuộc đời mình”
(Ngôi nhà của mẹ).
Hữu Thỉnh không đi vào sự hụt hẫng, bi kịch tinh thần và thể xác của người lính
với những vết thương sau chiến tranh của bản thân và gia đình; không viết về tâm thế
mặc cảm và bế tắc của họ trước những đổi thay vô vàn của các giá trị tinh thần trong một
thời đại khác hẳn:“Lính già thắng trận về nhà/ Bao nhiêu tội vạ tà tà chia nhau/ Thằng
còn mảnh đạn trong đầu/ Bỗng dưng quẳng áo đi đâu khỏi làng” (Nguyễn Hồng Hà);
“Thời tem phiếu thời phân quần áo lót/ Còn nhân phẩm thì tự tìm, thứ ấy chẳng ai cho/
Đất nước bấm ngón chân rịn mồ hôi hột/ Trên bãi lầy nắng cháy vào gan ruột/ Cây lúa
tong teo thức ngủ cùng người/ Lời nói thật nằm im trong miệng” (Gọi nhau qua vách
núi, Thi Hoàng)
Tác giả chủ yếu vẫn ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người lính, vẫn theo dõi và ghi
lại những đóng góp thầm lặng của họ. Họ vĩ đại một cách hoành tráng trong chiến tranh,
và trong cuộc sống đời thường họ vẫn vĩ đại một cách thầm lặng. Họ là những anh hùng
vô danh. Đó là hình ảnh người lính gỡ mìn (Phút giải lao của đồng chí gỡ mìn) và người
lính thợ lặn (Thợ lặn cầu Thăng Long). Ở đây, nói theo Hoàng Ngọc Hiến, mỗi người
“hoành tráng” theo một cách thức khác nhau: “Cái biên giới nhỏ nhoi và khắc nghiệt/
Nằm dưới đầu kim hỏa mỏng như hơi/ Anh đã thắng từng nấc ren phấp phỏng/ Trong
chiến trường chật chộiĐấu tay đôi” (Phút giải lao của đồng chí gỡ mìn); “Bộ đồ lặn tám
mươi cân/ Chiếc bình hơi/ Và xoáy lũ sông Hồng/ Đám bùn nhão dưới năm mươi thước
nước/ Cả dòng sông đè lên trái tim anh…Sóng nặng trĩu thét gào lên mạch máu” (Thợ
lặn cầu Thăng Long).
“Hình ảnh của họ hoành tráng, con người của họ lớn, họ giống nhau
ở một điểm: niềm vui của họ vô cùng giản dị, người lính gỡ mìn trong
mấy phút nghỉ ngắn ngủi ngước mắt nhìn “mây tê tê, một dải vắt
ngang trời” và “ngón tay lấm nghỉ ngơi trên điếu thuốc”, còn người
thợ lặn “giật mình sửng sốt, khi lên bờ bắt gặp lá tre non”. Họ chỉ là
những người lao động bình thường, những con người “vô danh”…
Với chân dung người lính gỡ mìn và người thợ lặn cầu Thăng long,
Hữu Thỉnh đã đóng góp cho thơ ca hình ảnh trác việt những anh hùng
vô danh thời bình”. [54].
Những lo toan đầy chật vật về đời sống vật chất là một khía cạnh khá nổi bật trong
những vần thơ viết về người lính sau chiến tranh. Chẳng hạn: “Người lính trở về vô
danh/ Sống hào hùng suốt một đời đánh giặc/ Giờ đối mặt với cuộc đời thường nhật/ Lí
tưởng thì xa cơm áo thì gần (Lê Quang Trang); “Chúng tôi đánh giặc mấy mươi năm,
giữ từng tấc đất, từng cây lúa/ Máu thấm những dòng sông, thửa ruộng, con đường/ Máu
trào qua hạt gạo sao vẫn đói?” (Trần Sơn Nam).
Thơ Hữu Thỉnh không tạc lại những mối ưu tư đó. Ông nhìn nhận khía cạnh lạc
quan của sự hòa nhập của người lính với cuộc sống. Họ có thể “kiếm sống” với nghề thợ
lặn đầy bất trắc, nghề gỡ mìn lắm hiểm nguy, thậm chí trở thành những anh nông dân tay
lấm chân bùn. Nhưng nét chung của họ là vẫn giữ được niềm tin yêu với cuộc sống. Họ
không có thói quen than vãn, mà gần như hài lòng với hạnh phúc đơn sơ mà cuộc sống đã
ban tặng: “Bạn trở về làm lụng dọc triền sông/ Nước mấp mé mây vần ô mã trũng…/ Bạn
trở về lấy vợ sinh con…/ Đồng sau vụ đường cày thứ nhất/ Bạn đã tập đi nghiêm, bạn đã
tập đi đều và tập hát/ Và bây giờ âu yếm giục trâu đi” (Gửi bạn triền sông).
Viết về sự hi sinh của người lính là một trong những cách thức hữu hiệu để ca ngợi
vẻ đẹp tinh thần rạng ngời của họ. Và như thủ pháp phối hợp những gam màu sáng tối
trong lĩnh vực hội họa, vấn đề này đã đáp ứng những mong mỏi thiết thực nhất về nhu
cầu chứng kiến tính nhân văn, nhân bản của hình tượng người lính trong thơ ca. Thơ giai
đoạn trước 1975 nói đến cái chết của người lính như một sự hi sinh mang tầm vóc thiêng
liêng của lí tưởng, vì thế mà nó thường xuyên được chăm sóc trong một môi trường lãng
mạn hóa, lí tưởng hóa, thậm chí ngấp nghé sang bến bờ huyền thoại: “Anh đi bộ đội sao
trên mũ/ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường/ Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi
cánh hoa thơm” (Núi đôi, Vũ Cao).
“Cái chết được biểu hiện trong thơ 1945 – 1975 là cái chết lạc quan, cái chết gieo
mầm cho sự sống, cái chết mở ra cho người đọc niềm hy vọng về thắng lợi (…). Nghĩa là
không đối lập sự sống và cái chết mà chú ý đến sự kế thừa, nối tiếp có tính liên tục giữa
các thế hệ, giữa những người đang sống với những người đã khuất”. [139, 164]. Nói
khác đi, đó là “những cái chết đẹp”, “những cái chết lạc quan”. Sự vắng bóng của
người lính trên cõi trần không phải là một câu chuyện tuyệt vọng mà là sự thăng hoa, hồi
sinh và phục sinh ngay trong lòng đất mẹ. Cái chết, một hiện tượng mang tính chất tức
thời được đặt vào sự vĩnh cửu của không gian và thời gian, của Tổ quốc: “Tên anh đã
thành tên đất nước/ Ôi anh giải phóng quân/ Từ đứng đứng của anh trên đường băng
Tân Sơn Nhất/ Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” ( Dáng đứng Việt Nam, Lê Anh
Xuân).
Thơ sau 1975 nhìn nhận cái chết của người lính không chú ý nhiều vào sự hồi sinh,
thăng hoa theo cách hướng dẫn của cái nhìn lãng mạn hóa mà còn trang bị thêm sức nặng
của cảm giác mất mát, đau thương, một “nỗi buồn chiến tranh” không dễ nguôi ngoai:
“Chết không tuổi đã đành/ Cái tên mẹ cũng đặt thành khói mây/ Biết hồn xanh cỏ xanh
cây/ “Vô danh” vẫn cứ đắng cay lòng mình” (Ghi ở cõi Trường Sơn, Nguyễn Hữu Quý).
Rõ ràng, đến thời điểm này, cái chết của người lính đã được nhận diện một cách hoàn
toàn trong tầm nhìn của qui luật sinh tử, của mối quan hệ trần thế của con người chứ
không phải là những bản sao đáng kính của hình ảnh các anh hùng sử thi. Hình ảnh cái
chết, ám ảnh về sự tiêu tan lấn dần sang ranh giới của những mối ưu tư đầy tuyệt vọng
của con người. Tập thơ Một chấm xanh của Phùng Khắc Bắc là minh chứng sinh động
nhất cho điều này: “Hôm nay đúng là tuổi, là ngày ta đi về với tiên tổ”; “Chết là hết/
Mọi cái là không/ Vì ta không chết trên trận địa/ Vì vết thương này không chứng minh ta
là liệt sĩ” (Ta chết đây). Phùng Khắc Bắc còn trông thấy cả hơi thở như những sợi tơ vò
nẩy ra từ những mớ nghịch lí sơ đẳng giữa sống và chết, thiên đường và địa ngục, cõi âm
và cõi dương: “Sống và chết có gì khác mấy đâu/ Mấy người chết hóa linh thiêng, người
sống phải sở cầu…Ta đi giữa công bằng tầng dưới, và sự bất công bằng ở tầng trên”.
Và có một điều khá đặc biệt là thơ giai đoạn này, khi phản ánh cái chết của người
lính thường được hun đúc từ những ánh lửa siêng năng của đời sống tâm linh.
Đây cũng là điều mà Lưu Khánh Thơ nhìn thấy: “Trong chiều hướng phát triển
của thơ trong những năm qua, có một vấn đề nổi lên tương đối rất rõ cần phải nói đến.
Đó là vấn đề thế giới tâm linh được coi như một thực thẩm mỹ và đối tượng phản ánh
của thơ trữ tình” [157].
Đây không phải là cách thức thử nghiệm của những cây bút yêu thích sự mạo hiểm
bằng những bài thơ mang tính chất tập sự, mà là một hướng đi mới mà sự nồng nhiệt
hưởng ứng đã được sánh ngang với những hồi quang của vô tận. Một chấm xanh của
Phùng Khắc Bắc là một trong những tập thơ tiêu biểu cho xu hướng này. Nhờ “đi sâu
vào thế giới tâm linh, các nhà thơ dường như có điều kiện để nói hết, nói đúng mình hơn.
Nó mở ra một khoảng không gian rộng lớn cho những ý tưởng thâm trầm, sâu sắc, giàu
chất trí tuệ. Nó đánh thức phần cảm nhận sâu sắc của mỗi con người về cái hữu hạn và
cái vô hạn, về cái thường nhật và cõi vĩnh hằng của cuộc đời” [157].
Nằm trong xu hướng phản ánh chung đó, thơ Hữu Thỉnh vừa có những điểm tương
đồng vừa mang những nét khác biệt cơ bản so với các nhà thơ đương thời. Ông không
viết nhiều về sự hi sinh của người lính. Và rõ ràng điều này không phải là nội dung chủ
yếu trong sở thích phản ánh của nhà thơ.
Trong thể loại trường ca, cái chết, sự hi sinh của người lính cũng được khắc họa,
nhưng đó rõ ràng không là điểm tập kết của tư tưởng chủ đề. Hữu Thỉnh dành cả chương
ba của Đường tới thành phố, “Điệp khúc những cây cầu” để diễn tả sự hi sinh của người
chiến sĩ cách mạng trong sự hi sinh chung của cả dân tộc. Đó là sự hi sinh của người lính
nằm vùng trong sự tranh chấp quyết liệt với quân thù, của các anh bộc phá viên, của các
lính xe tăng nơi cửa ngỏ Sài Gòn,… Cái chết của người lính được chiêm nghiệm ở một
độ sâu hơn trong trường ca Biển. Bởi lẽ, đến thời điểm này, vốn liếng và quyền hạn của
tiếng nói thời đại đã được khẳng định. Ánh hào quang của hình tượng người lính cũng
mờ dần. Thay vào đó là sự đau xót cho thân phận với những thiệt thòi, mất mát về vật
chất và tinh thần sau chiến tranh: “Chưa kịp đặt ba lô/ Chúng tôi cùng nhau bới cát/ Dọn
một chỗ nằm cho đồng chí hi sinh…Chúng tôi bỏ thư ôm nhau khóc/ Gạo chiều nay
thành cơm cúng đưa tang/ Thư chiều nay viết thêm vào lời điếu”, hay: “Lúa chín bao
năm ngả vào tay người vợ/ Đồng tiền lẻ nhảy cò qua đốt mía/ Những đứa con khôn dại
phía sau mình/ Anh nhớ con anh phất một lá diều/ Ba tầng sáu chắc đất liền nghe thấy/
Những ô cửa xin đừng khép vội/ Đảo nói gì tha thiết giữa không trung” (Trường ca
Biển).
Trong tất cả những bài thơ của tác giả, chúng ta chỉ có thể tìm được sự hiện diện
của một bài thơ duy nhất viết về khía cạnh này: Phan Thiết có anh tôi. Trong thi phẩm
này, cái chết của nhân vật người anh hoàn toàn không tiêu biểu cho xu hướng kì vĩ và lí
tưởng hóa của thơ ca cách mạng, mà chủ yếu xoáy sâu vào khía cạnh bi kịch của nhân
vật trữ tình (“em”) trước cái chết đó. Chất liệu nền của nó là sự kết hợp hiệu quả của một
thứ vôi vữa duy nhất: yếu tố tâm linh (“Anh không ngủ, người đi câu không ngủ/ Biển
đêm đêm trò chuyện với hai người” ), và tâm trạng hiện thực (“Em một mình đứng khóc
ở sau xe”). Như vậy, phương diện tâm linh trong cái chết của người lính trong thơ Hữu
Thỉnh chủ yếu giữ vai trò nâng đỡ cho sự biểu lộ tình cảm của con người. Và thực tế,
những đòi hỏi của tình cảm này đã được đáp ứng bằng niềm tin vĩnh cửu về sự tồn tại của
linh hồn người đã khuất.
Một chấm xanh của Phùng Khắc Bắc là tập thơ giàu có ánh sáng tâm linh. Nhưng
gắn liền với nó là cơ chế làm việc đầy nhiệt thành của lí trí để sản sinh ra cái bóng triết lí,
suy tư không ngớt về sự sống và cái chết, thiên đường và địa ngục…Trong khi đó, Phan
Thiết có anh tôi của Hữu Thỉnh chỉ có thể vang vọng nên những âm thanh từ lồng ngực
của một trái tim. Đó là những nét khu biệt lớn nhất mà chúng tôi cảm thấy được ở hai tác
giả này.
2. 2. 2 Hình tượng người mẹ:
Có thể nói, “một trong những nhân vật trữ tình tượng trưng đầy đủ nhất cho tâm
hồn Việt Nam trong thơ 1945 – 1975 là người phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất,
trung hậu, đảm đang” [139, 150]. Điều đó có nghĩa là gần như những phẩm chất tốt đẹp
nhất của người phụ nữ Việt Nam đã được phản ánh vào thơ ca một cách trung thực và
sinh động trong những huống cảnh khác nhau, để từ đó khai sinh trong tâm tưởng chúng
ta một bức tranh toàn vẹn và đầy ấn tượng về họ.
Người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh, cũng như bao người mẹ Việt Nam khác, mang tất
cả những phẩm chất tốt đẹp ngàn đời của người mẹ Việt Nam trong những năm tháng
chiến tranh cũng như thời bình: thủy chung, son sắt, cần cù, yêu nước, thương chồng
con…Đó là mẫu số chung mà có lẽ người ta không cần chứng minh một cách công phu
nào có hiệu lực.
“Đối với nhiều nhà thơ, hình ảnh người mẹ đã được ca ngợi bằng những lời thơ
cao cả và xúc động nhất. Cũng viết về bà mẹ, lại viết nhiều lần, mỗi lần Hữu Thỉnh đều
tìm được cách nói riêng, mà lần nào cũng rung động người đọc sâu xa, trước hết bởi cảm
xúc mạnh mẽ của trái tim người viết, sau nữa bởi sự giản dị và gần gũi được thể hiện
trong từng chi tiết nhỏ” [ ,154].
Nếu căn cứ vào thời gian sáng tác, ta có thể chia hình tượng người mẹ trong thơ
2.2.2.1. Hình tượng người mẹ trong chiến tranh.
Hữu Thỉnh thành hai giai đoạn nhỏ: trong và sau chiến tranh.
Để có cái nhìn bao quát hơn về hình tượng người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh, chúng
tôi tiến hành khảo sát hình tượng này trong cả hai thể loại trường ca và thơ trữ tình ngắn.
Hi vọng công việc này sẽ đem lại cho chúng ta những hiệu ứng tích cực trong việc xác
lập những đặc trưng nổi bật nhất của hình tượng.
Trước hết là hình tượng người mẹ trong trường ca.
Trong trường ca Hữu Thỉnh, hình tượng người mẹ xuất hiện rất nhiều lần. Điều
này cũng nằm trong sự lưu ý của Nguyễn Nguyên Tản:
“Trường ca Sức bền của đất khởi đầu từ hình ảnh mẹ trong buổi tiễn
đưa con ra trận và toàn bộ trường ca này hầu như đâu đâu ta cũng
gặp người con ở chiến hào đang nhớ mẹ. Trong trường ca Đường tới
thành phố có hàng chục lần nhà thơ nhà thơ nhắc đến mẹ cùng bao kỉ
niệm và niềm cảm thông với mẹ, có nhiều đoạn thơ dài thể hiện tình
con yêu thương mẹ…Trong trường ca Biển lời mẹ dặn láy đi láy lại
như một điệp khúc” [130, 31].
Trong chiến tranh, hình tượng người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh xuất hiện như một
niềm an ủi, động viên lớn lao từ hậu phương. Người mẹ là hiện thân của quê hương vất
vả, nhục nhằn ở phía sau. Mẹ cũng là niềm tin, niềm khích lệ to lớn trên từng bước đường
chiến đấu gian khổ mà người lính trải qua.
Có thể nói bất cứ lúc nào, hình ảnh người mẹ cũng hiện hữu trong lòng những đứa
con đang tranh đấu ngoài chiến trường.
Mẹ là hình tượng gắn liền với quê hương vất vả nhục nhằn phía sau lưng: “Chong
chóng quay đón mẹ dưới chân đồi/ Tay mẹ héo ruộng bậc thang cấy rẽ/ Tôi đỡ lây chiếc
áo tơi của mẹ/ Mụn cua càng bò trên mảnh sân con; “Ai ơi khêu lửa làm chi/ Mẹ đang
chạy bữa/ Làm sao lấy lại thời son trẻ/ Thời son trẻ hoa xoan/ Nằm trong mồ hôi những
quả khô gió lắc (Trường ca Biển).
Hình ảnh người mẹ cũng là sự biểu trưng cho niềm tin tưởng bất diệt:
“Mẹ là người chúng con thương nhớ nhất
Đất nước ngày có giặc
Mẹ vẫn đỏ miếng trầu
Ấm một vùng tin cậy phía sau”
(Sức bền của đất)
Với Hữu Thỉnh, hình ảnh người mẹ còn là tấm gương soi lấy quê hương, là cửa
biển của tâm hồn. Mẹ và quê hương dường như đã hòa vào nhau trong một mối nồng
nhiệt thâm sâu vời vợi:
“Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ
Mẹ ở nhà đã cất áo bông
Mẹ có ra bờ sông
Qua bến đò tiễn con dạo trước
Đường xuống bến có mười sáu bậc
Mẹ nhớ thương con đã bạc mái đầu”
(Sức bền của đất)
Ở đây, hình tượng quê hương và mẹ đã xuyên thấm vào nhau trong một liên kết rất
khó tách rời. Bình đoạn thơ này, Đào Thái Tôn đã có suy nghĩ rất đáng ghi nhận:
“Có biết bao hàm nghĩa ở chi tiết “Đường xuống bến có mười sáu
bậc” trong đoạn thơ này? Nói là nhớ mẹ, cũng phải, nhưng cũng là
nhớ quê. Quê hương và mẹ ở đây hòa quyện trong một chi tiết. Yêu
quê đến mức nhớ từng bậc ở bến sông. Nhưng với số bậc cao như thế,
bến sông sâu như thế, tuổi già như chuối chín cây, liệu mẹ còn được
bao lần lên xuống lam làm khi đã da mồi tóc bạc? Cả đoạn thơ không
có một chữ nào viết rõ là nhớ mẹ. (…). Đom đóm bay ra nghĩa là mùa
hè tới rồi, hoa gạo đỏ cùng nghĩa là hè đến rồi. Nhớ mẹ quá. Cho nên
câu thứ hai không viết chữ mùa hè nào mà rõ là cảnh mùa hè. Vì là
mùa hè nên nghĩ tới chuyện phơi khăn, phơi áo (…). Mà ngay cả câu
thơ viết đến chữ cất áo bông, cũng đâu viết về cái áo. Nhớ mẹ mà nhớ
đến áo đấy thôi” [135].
Viết về người mẹ, Hữu Thỉnh không có ý định tạo nên những vần thơ bất hủ bằng
cách nói “lạ hóa”, hùng hồn để tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của họ. Ông chỉ gần như,
đóng vai trò một người kể lại những hình ảnh, những sự việc hết sức bình thường nhưng
cũng chính vì thế mà vô cùng gần gũi với chúng ta:
“Mẹ đang xếp cho anh bộn bề giá sách
Nhưng nhớ thương thì biết xếp vào đâu?
Những điểm chín điểm mười không còn an ủi mẹ”.
Trong những phút giây giáp mặt với kẻ thù, với tâm thế sẵn sàng chiến đấu và
chấp nhận cái chết, người chiến sĩ không hề quan tâm đến điều gì khác ngoài người mẹ
già: “Anh có thể chẳng bao giờ còn đánh được gốc tre/ Phơi nỏ sẵn sàng sưởi đêm cho
mẹ/ Sông ơi sông nếu ta phải ra đi/ Bậc xuống thấp cho em ra gánh nước/ Xin bát canh
đến tay mẹ lúc còn nóng/ Xin mùa đông đừng dài/ Và cột nhà hãy đỡ mẹ thật êm”
(Đường tới thành phố)
Trong tấm lòng người chiến sĩ, luôn có một khoảng sâu thẳm, đằm thắm dành cho
quê hương, hậu phương. Hậu phương và chiến trường có mối liên kết máu thịt với nhau.
Hậu phương là nguồn cội của sức mạnh chiến thắng. Trong đó, hình tượng người mẹ luôn
nằm trong mối suy tư thường trực của các nhà thơ.
Trong trường ca “Những người đi tới biển”, Thanh Thảo cũng không ít lần nhắc
đến hình tượng người mẹ.
“Đối với Thanh Thảo, mẹ là ngọn nguồn của tất cả, là sung sướng tột
cùng, là tự hào cao độ, là thương nhớ không nguôi, là tình yêu vô
biên, là ánh sáng dõi theo suốt cuộc đời anh lính trẻ. Trong cuộc hành
quân dài, anh luôn nghĩ đến buổi chia tay giữa hai mẹ con mà nỗi bịn
rịn tỏa lan cả bờ tre, mái rạ: Khi con thưa với mẹ/ Mưa bay mờ đồng
ta/ Ngày mai con đi/ Khói bếp mẹ con mình chợt ngừng trên mái rạ.
Trải qua bao năm tháng chiến đấu, giờ đây, trong ngày chiến thắng
nhìn lại, anh lại muốn bắt đầu từ mẹ như trở về với ngọn nguồn của
tương lai và hạnh phúc, của thắng lợi và vinh quang. Thấu hiểu được
bao nhiêu nỗi cay đắng, vất vả trong cuộc đời người mẹ, trân trọng
biết ơn bao nhiêu sức chịu đựng, sự hi sinh đằng đẳng và lớn lao của
người mẹ, mới viết được những câu thơ có tính chân lý như thế này:
“Phải thương lắm mới đi làm cách mạng/ Phải thương nhiều hơn mới
giữ nổi lòng tin/ Nhưng phải thương đến tận cùng mới đau mới làm
người Mẹ…Chính mẹ đẻ anh hùng và truyền thuyết/ Từ túp lều lợp
mái lá, lợp tranh/ Cắt cuống nhau bằng lưỡi liềm/ Bàn chân thô
quanh năm bùn lắm/ Chưa một lần ướm qua sử sách/ Tập con bước
vịn vào ca dao tục ngữ/ Dù uống nước đâu lòng vẫn nhớ nguồn”
Người mẹ riêng của từng chiến sĩ, của chính tác giả qua những dòng
thơ trên đã nhập hòa làm một, đã trở thành người mẹ chung với với
sức mạnh và sức sáng tạo vô tận. Đó là người mẹ nhân dân, người mẹ
đất nước” [97] .
Người mẹ trong trường ca Hữu Thỉnh cũng tương tự như thế. “Trong thơ Hữu
Thỉnh, bà mẹ vừa là bà mẹ của riêng mỗi người, mẹ của từng chiến sĩ, gắn với những kỉ
niệm rất riêng, đồng thời bà mẹ cũng tượng trưng cho hậu phương rộng lớn và vững
chắc” [130,155].
“Trận đánh bắt đầu từ phía sau cánh cửa
Có dấu vôi mẹ quệt lúc ăn trầu”
(Đường tới thành phố)
Trong trường ca Thu Bồn, hình tượng người mẹ cũng hiện lên với những nét nghĩa
biểu trưng quen thuộc trên. “Có thể nói, người phụ nữ được khắc họa đậm nét trong thơ
Thu Bồn, trong đó, hình tượng người mẹ là đường dây tình cảm xuyên suốt. Tiếng mẹ trở
đi trở lại nhiều lần trong thơ ông, vang lên tha thiết, vừa gẫn gũi, cụ thể gắn với tuổi thơ,
với quê hương, vừa mang ý nghĩa khái quát như biểu tượng về Tổ quốc…” [114, 65].
Cả ba nhà thơ này đều chú ý khai thác vẻ đẹp của đức hi sinh của người mẹ. Nó
được đặt trong dung môi chiến tranh nên những kết tủa được sủi lên đã ngưng tự thành
những hạt ngọc sáng ngời trong tâm hồn con người.
Ở Hữu Thỉnh, đó là hình tượng người mẹ “thấp thỏm” ngóng tin chiến thắng của
con đang trong trận đánh cuối cùng, mặc dù, trong hành trạng của đời mình đây không
phải là cánh chim đầu tiên bay qua đời mẹ. “Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một
lúc” là bằng chứng sáng rõ nhất về biểu hiện của đức hi sinh vô cùng cao cả, thiêng liêng
của người mẹ: “Chiến dịch này ăn cơm không phải độn/ Mừng thì mừng mà thương mẹ
bao nhiêu…Ngày mai chúng mình tiến vào thành phố/ Đêm nay mẹ lại nhắc chúng mình
đây…Chẳng có cách chi báo tin cho mẹ/ Mẹ đỡ lo, đỡ thấp thỏm đôi bề/ Ba đứa con có
mặt trong này/ Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc/ Mẹ ít ngủ, mẹ thường thức
khuya/ Đêm nào cũng dài” (Đường tới thành phố).
Trong trường ca “Quê hương mặt trời vàng”, Thu Bồn cũng xót xa, suy tư về quê
hương, về người mẹ. “Người mẹ nghèo, chồng chất đau khổ của nhà thơ, đã suốt đời ấp
ủ, che chở, dành cho con trọn tấm lòng bao la như bể rộng” [114, 67]: Mẹ thả neo vào
hồn con bằng chiếc vú/ Mà sóng đau thương cuộc đời/ Không đánh bật được mẹ ra
(…)Mẹ quạt con bằng gió nồm lòng mẹ / Mẹ ấp con bằng lòng ngực không còn mùa
đông/ Mẹ xoa đầu con/ Bằng bàn tay xoa dịu cánh đồng”
Cũng ngần ấy cảm xúc, Thanh Thảo đã khái quát lên đức hi sinh của người mẹ
Việt Nam: “Trong gió bấc mắt mẹ nhìn đăm đắm/ Miếng trầu cay bền bỉ suốt mùa đông/
Con sẽ về chạy rát bỏng bàn chân/ Vầng trán mẹ giờ này lặng sóng/ Sau mưa bão mía
ngọt dần lên ngọn/ Vẫn chỗ ướt mẹ nằm đất nước mình ơi”.
Như vậy, hình tượng người mẹ trong trường ca của ba nhà thơ này đều tồn tại
những điểm giống và khác nhau rõ rệt. Cả ba nhà thơ đều quan tâm nhiều đến đức hi sinh
của người mẹ, nâng hình tượng mẹ lên ngang tầm với đất nước quê hương. Hình tượng
mẹ trở thành tấm chăn chung bao phủ “giấc mộng đêm hè” của tất cả những người chiến
sĩ, vừa mang những nét hoàn toàn có thể thuộc về quyền sở hữu cá nhân của mỗi con
người.
Tuy nhiên, bên cạnh cái nền chung ấy, ta vẫn bắt gặp được những nét riêng trong
cách thể hiện của từng nhà thơ. Nếu đức hi sinh của người mẹ trong trường ca Hữu Thỉnh
được đặt trong hoàn cảnh chiến tranh, cụ thể hơn là được soi sáng qua cảm thức của
người lính về chiến tranh – trong đó, bật nổi lên hình tượng người mẹ với tất cả đức tính
cao quý của mình; thì đức hi sinh của người mẹ trong trường ca Thu Bồn và Thanh Thảo
chủ yếu được khắc họa qua tâm thức tuổi thơ nhìn về người mẹ. Hữu Thỉnh chọn cho
mình điểm tựa từ hiện tại qua cái nhìn của người lính, hai nhà thơ còn lại nhìn vấn về
bằng kí ức tuổi thơ.
Và một điều đáng lưu tâm nữa, hình tượng người mẹ trong trường ca Hữu Thỉnh
ngoài đặc điểm mang tính biểu trưng cho tất cả những bà mẹ khác, tức là trở thành biểu
tượng cho bà mẹ nhân dân, còn chất chứa một cách thầm kín những nét khu biệt, những
nét đặc trưng riêng mà qua đó, chúng ta có thể nhận thấy một cách khá rõ rệt bà mẹ đó là
tấm gương phản chiếu trung thực của quê hương nào, vùng đất nào. Trường ca “Sức bền
của đất” có lẽ sẽ giúp đỡ chúng ta rất nhiều điều trong việc lí giải này. Trong trường ca
này, người mẹ hiện lên như một nhân chứng vô cùng quan trọng trong việc làm toát lên
nét đặc trưng của quê hương của mình. Ta thấy người mẹ trong “Sức bền của đất” mang
rõ sắc thái địa phương Bắc Bộ, khó lòng lẫn vào bất cứ người mẹ miền Trung hay miền
Nam. Và đây hoàn toàn là một điều đáng lưu tâm.
Sẽ là một niềm nuối tiếc khôn nguôi nếu chúng ta khước từ việc xác định ở đây
một đặc trưng vô cùng quan trọng khác về hình tượng người mẹ trong trường ca Hữu
Thỉnh. Khi viết về tình cảm riêng tư (với nhân vật em hay người mẹ, tất nhiên tình cảm
này đang đặt trong mối quan hệ với cái chung, cái cộng đồng), Hữu Thỉnh có xu hướng
đặt cái riêng tư lên trên. Đó cũng là điều khác biệt cơ bản nếu chúng ta xác lập một sự so
sánh nhỏ gọn giữa tác giả với những nhà thơ cùng thời: “Thường thì các nhà thơ cùng
thế hệ vẫn đặt tình cảm riêng tư xuống dưới tình cảm lớn, kiểu như: “Em ơi em! Đất
nước là xương máu của mình. Phải biết gắn bó và san sẻ” (Đất nước, Nguyễn Khoa
Điềm). Hữu Thỉnh đặt một mệnh đề đảo rất táo bạo so với thời bấy giờ: Ba đứa con có
mặt trong này / Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc / Chiến tranh bao giờ chấm
dứt / Nếu đứa con của mẹ không về (Đường tới thành phố)” [130, 32].
Sự khác biệt này có thể tìm thấy sự giải thích từ quan niệm nghệ thuật về con
người của Hữu Thỉnh: “Theo quan niệm của anh, cá nhân là chủ thể, đất nước nương
theo; sự tồn vong của đất nước được quyết định bởi từng cá nhân; từng cá nhân hợp
thành dân tộc, đất nước; hạnh phúc của dân tộc không thể nào là trọn vẹn, nếu một cá
nhân còn đau khổ,bất hạnh” [130, 32].
Như vậy, hình tượng người mẹ trong trường ca Hữu Thỉnh mang dáng dấp và tầm
vóc lớn lao của người mẹ nhân dân, người mẹ của cộng đồng nhiều hơn ý nghĩa ở giác độ
cá nhân, gia đình. Điều này có thể lí giải bằng đặc điểm của thể loại trường ca. Trường ca
mang nặng tính sử thi, nghiêng về những vấn đề có tầm vóc lớn lao, liên quan mật thiết
đến vận mệnh của cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Thế nên, những vấn đề được nêu ra và
tìm lời giải thích nhất thiết phải đảm bảo tính chung, tính cộng đồng đó. Đây là một quy
định mang tính tất yếu.
Ở trên, chúng ta đã tìm hiểu hình tượng người mẹ trong trường ca Hữu Thỉnh. Đến
đây, chúng ta sẽ tiến hành khảo sát phần còn lại của vấn đề: đặc điểm của hình tượng này
trong thơ trữ tình ngắn của Hữu Thỉnh.
Phạm vi khảo sát của chúng tôi trong phần nhỏ này là toàn bộ những bài thơ của
Hữu Thỉnh viết về người mẹ trước chiến tranh, gồm những bài thơ trong tập “Âm vang
chiến hào” và “Tiếng hát trong rừng”. Với một phạm vi hẹp như vậy, rõ ràng việc cố
gắng nêu ra đặc trưng của đối tượng là một trở ngại mang tính thách thức thực sự. Và với
tất cả những gì có thể có vào lúc này, chúng tôi chỉ, một cách giản dị, dừng lại ở những
điểm mà sự vọng lại từ phía văn bản tương đương với những lời phản hồi có giá trị.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng: trong tất cả 68 bài thơ trong hai tập thơ
trên, hình tượng người mẹ chỉ xuất hiện trong năm bài thơ: Đêm chuẩn bị, Ngôi nhà của
mẹ (Tiếng hát trong rừng); Luống rau truy kích, Hương cốm, Hương vườn (Âm vang
chiến hào).
Một cách chung nhất, chúng tôi nhận thấy hình tượng người mẹ (trong thời kì
chiến tranh) trong thơ Hữu Thỉnh mang những đặc điểm không khác xa lắm những đặc
điểm của hình tượng này trong trường ca của tác giả.
Đó vẫn là hình tượng của một người mẹ chung nhất, khái quát nhất, mang tính biểu
trưng cho quê hương, cho hậu phương với tất cả những gian lao, vất vả của mình. Người
mẹ vẫn hiện lên với tấm lòng thương yêu, chung thủy, sắt son ngàn đời của người phụ nữ
Việt Nam. Ở khía cạnh thứ hai, người mẹ được khai thác trong mối quan hệ gia đình với
nhân vật trữ tình được chú ý nhiều hơn, đậm nét hơn so với trường ca. Mặc dù, trên thực
tế, hình tượng người mẹ trong thơ tác giả vẫn giữ vai trò quán xuyến hai nét nghĩa này.
Và chúng tôi xem điều này gần như đặc điểm quan trọng nhất, đáng chú ý nhất mà ta có
thể tin tưởng để xác lập một vách khu biệt mang tính đương đối về hình tượng người mẹ
trong hai thể loại sáng tác của Hữu Thỉnh.
Rõ ràng, hình tượng người mẹ đến đây đã được rót thêm những chiếc ly khao khát
mới, mà qua đó, chúng ta có thể nhận diện rõ hơn khuôn mặt của mối quan hệ cá nhân,
quan hệ gia đình giữa nhân vật trữ tình – người lính và người mẹ. Sợi dây liên kết giữa họ
không gì khác hơn tình mẫu tử thiêng liêng, mặc dù tình cảm này đang chịu thử thách tột
độ trong hoàn cảnh chiến tranh. Tình cảm riêng tư này không nằm ngoài xu thế chung
của thơ ca giai đoạn đương thời: “Lúc đầu là những cảm hứng được khơi gợi từ những
nỗi nhớ, những quan hệ thân thiết, máu mủ ruột rà có sức lay động sâu xa trong lòng
người đọc. Tiếp đó các nhà thơ thường hướng vào việc khai thác những kỉ niệm, đời sống
riêng tư của cá nhân” [173].
Một cách cụ thể, chúng tôi nhận thấy bộ phận thơ Hữu Thỉnh toát lên hình tượng
người mẹ với những đặc điểm cụ thể như sau: Hình tượng người mẹ gắn liền với những
chi tiết vô cùng bình dị, đời thường trong mối quan hệ với nhân vật trữ tình. Đó là người
mẹ trong sự chờ đợi “nhận mặt đứa con dâu” hay người mẹ của những “bát canh rau
dệu”, của “hương cốm”, “vườn ổi”, “bắp ngô”, “cam quýt”, “mơ mận”…
- “Mẹ ta ốm húp bát canh rau dệu
(Đêm chuẩn bị).
- “Ngày mai chúng ta về
Chúng ta về
(…)
Cho chị lấy chồng xa về giỗ tết
Cho mẹ già nhận mặt đứa con dâu…”
(Đêm chuẩn bị)
Người mẹ nghèo “húp bát canh rau dệu” của Hữu Thỉnh có nét chung với những
người mẹ nghèo khác ở chốn hậu phương trong thơ Thu Bồn: “Con đi khắp nẻo đường
đất nước/ Cũng gặp bao bà mẹ khổ nghèo/ Cũng rào vi cực gieo neo/ Cũng phên che gió
hắt hiu lạnh lùng” (Mẹ)
Trong những tháng ngày hành quân, thường trực đối diện với hiểm nguy; người
lính vẫn dành cho người mẹ những cảm tình đặc biệt. Đó có thể là mối lo chính đáng cho
khu vườn của mẹ dưới sự đe dọa không ngớt của bom đạn quân thù (Hương vườn), cũng
có thể là những hồi ức xa xăm mà vô cùng thiêng liêng cao quý về những món quà mà
mẹ đã tặng trước khi lên đường (Hương cốm, Luống rau truy kích,…). Đặc biệt, những
món quà ra trận của mẹ luôn để lại những kỉ niệm đẹp, những dấu ấn không thể phai mờ
trong tâm thức của người chiến sĩ: “Hạt cốm xanh mặc áo lá sen xanh/ Mẹ dành cho con
làm quà ra trận/ Cam quýt vào đông; chớm hè: mơ mận/ Tháng ba về hồi hộp bắp ngô
non” (Hương cốm).
Món quà của mẹ trở nên thiêng liêng quý giá biết bao. Đó là hiện thân của tình
thân, của sự sống, của hi vọng. Người chiến sĩ trong “Luống rau truy kích” đã gìn giữ rất
cẩn thận món quà ấy cả trong lúc đối mặt với quân thù: “Bạn tôi ghé qua nhà/ Mẹ cho hạt
rau giền mang theo làm giống/ Anh gói vào bao đạnVội đi” (Luống rau truy kích).
Tình cảm của người mẹ dành cho những đứa con được Hữu Thỉnh chú ý khai thác
ở khía cạnh vật chất cụ thể. Nhà thơ không nói nhiều về nỗi nhớ của mẹ dành cho con,
không tính tháng tính ngày như một số nhà thơ khác cùng thời. Tấm lòng thương con của
bà mẹ được quan tâm ở khía cạnh thù hình vật chất. Tức là dạng thức tồn tại của tình cảm
đó. Ở thơ Hữu Thỉnh, tình cảm này nằm gọn trong những món quà của mẹ.
Trong thơ Xuân Quỳnh, tình cảm của người mẹ dành cho con được chú ý chủ yếu
ở dạng tinh thần. Lời ru của mẹ trong thơ Xuân Quỳnh luôn có sức gợi và sức vọng mạnh
mẽ từ vùng kí ức tuổi thơ: “Dẫu con đi đến suốt đời/ Vẫn không đi hết những lời mẹ ru”
(Lời ru); “Ngủ nào ngủ ngoan/ Mí yêu của mẹ” (Ngủ nào, ngủ ngoan).
Tấm lòng của người mẹ cũng được nhìn nhận từ một giác độ khác đi rất nhiều so
với thơ Hữu Thỉnh. Nếu hình tượng người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh toát lên từ trong trí
óc của người lính – nhân vật trữ tình (con đối với mẹ), thì trong thơ Xuân Quỳnh là hiện
thân của bản thân tác giả viết về tình mẫu tử của mình đối với con: “Con rãnh rộng bàn
chân con thì bé/ Trăm nhớ thương, mẹ gửi nơi này” (Con đi sơ tán); “Ba tháng lẫy, bảy
tháng ngồi/ Con chơi với đất, con chơi với hầm” (Tuổi thơ của con).
Thiên tính nữ đã cho phép Xuân Quỳnh có thể đi sâu vào thế giới tâm lí trẻ thơ,
nhìn mọi vật bằng con mắt trẻ thơ. Những suy nghĩ của trẻ nhỏ không thể là một điều
ngoài tầm với của tác giả. Do đó, một cách dễ hiểu, người mẹ trong thơ Xuân Quỳnh
luôn được khoác lên những suy nghĩ mang đậm vẻ hồn nhiên, trong trắng của trẻ nhỏ. Đó
cũng là lời giải thích hợp lí cho tính chất êm dịu, ngọt ngào của những dòng thơ viết về
người mẹ của tác giả: “Con yêu mẹ bằng ông trời/ Rộng lắm không bao giờ hết …À mẹ
ơi có con dế/ Trong bao diêm con đây/ Mở ra là con thấy ngay/ Con yêu mẹ bằng con
dế” (Con yêu mẹ bằng con dế).
Viết về người mẹ trong hoàn cảnh chiến tranh, các nhà thơ thường chọn cho mình
sự ngợi ca về phẩm chất của người mẹ: đức hi sinh, tấm lòng yêu nước, thương chồng
con, thủy chung son sắt …hay nâng tầm người mẹ lên với ý nghĩa biểu trưng cho Tổ quốc
– quê hương. Điều đó, có nghĩa là, hình tượng người mẹ đã trở thành một biểu tượng
mang tính sử thi của thời đại bởi tầm vóc và những đóng góp lớn lao của họ đối với cộng
đồng.
Người mẹ Nam Hoành trong thơ Phạm Tiến Duật giàu đức hi sinh vô cùng cao cả:
“Ngọn đèn dầu chỉ sáng lom đom/ Soi một dáng lưng còng vất vả/ Cha con bị bom đêm
đánh cá/ Em gái con mẹ cho nó tòng quân” (Nhớ bà mẹ ở Nam Hoành)
Hoàn cảnh của mẹ thật khó khăn: chồng chết bom, con gái đi tòng quân, sớm hôm
mẹ thui thủi một thân già. Nhưng không vì thế mà trong tâm hồn mẹ thiếu đi một niềm
tin sắt đá, một chân lí giản dị mà cao khiết vô ngần: “Nhớ câu nói của mẹ/ Câu nói như
chắt từ nước mắt/ Thà ăn muối suốt đời/ Còn hơn là có giặc” (Nhớ người mẹ Nam
Hoành)
Người mẹ miền Nam thấm nhuần lí tưởng cách mạng để lại những rung động mãnh
liệt trong thơ. Đó là hình ảnh hiên ngang cứng cõi của mẹ trong tâm thức của người chiến
sĩ: “Mẹ đứng đó đêm nay khác hẳn/ Trao cho con tấm áo bát cơm” (Mẹ miền Nam,
Thanh Hải)
“Bà má trên sông Hàm Luông trong Bông trang đỏ của Lê Anh Xuân
đã cống hiến cả cuộc đời mình cho cách mạng. Trên bàn thờ, mẹ cắm
bông trang đỏ để tưởng nhớ bóng cờ và cũng để nhớ các con đi tập
kết. Dưới bàn thờ, “mẹ nuôi cán bộ”, mẹ nuôi hy vọng ở ngày quê
hương bừng sáng, các con mẹ sẽ trở về. Trong những năm đen tối
nhất của cách mạng, lòng mẹ là “nơi cán bộ đi về sớm hôm”. Mặc dù
chồng và con trai đã hi sinh, mẹ không quỵ xuống vì thương đau, mất
mát. Khi lọt vào tay giặc, mẹ bị chúng tra tấn đến mù lòa. Dù thương
tật như thế nhưng đêm đồng khởi lòng già mừng quá, “đánh mõ tre
đánh cả vào tay… Sau đồng khởi, mẹ đã hi sinh thân mình để cứu cán
bộ” [159].
“Dừa Bến Tre bốn mùa xanh ngắt
Sông Hàm Luông ca hát sớm chiều
Hát rằng hỡi mẹ kính yêu
Cuộc đời mẹ đẹp như màu bông trang”
(Bông trang đỏ).
Tố Hữu cũng có không ít những bài thơ ca ngợi phẩm chất anh hùng, bất khuất của
hình tượng người mẹ. Người mẹ trong thơ Tố Hữu mang sức mạnh vững chắc và tấm
lòng hi sinh bao la của bao bà mẹ chốn hậu phương. Tác giả thường chọn lựa cho mình
những hình ảnh từ thực tế của cuộc chiến đấu gian khổ của nhân dân và nâng lên tầm
khái quát, điển hình. Nhắc đến người mẹ trong thơ Tố Hữu, người ta không sao không
nghĩ đến những cái tên cụ thể của những bà mẹ: mẹ Suốt, bà má Hậu Giang, bà Bầm, bà
Bủ, bà mẹ Việt Bắc,…cùng với những chiến công một cách thầm lặng hay là tấm lòng
dạt dào yêu thương của mẹ dành cho những đứa con. Bà má Hậu Giang nuôi giữ cán bộ
không màn đến mọi hiểm nguy: “Má già trong túp lều tranh/ Ngồi trong bếp lửa đun
cành củi khô/ Một mình má, một nồi to/ Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười…” (Bà má
Hậu Giang).
Nhân vật bà Bầm trong “Bầm ơi” gợi nhớ ta đến hình ảnh những bà mẹ chốn hậu
phương, hết lòng thương yêu chiến sĩ, cùng đức tính cần cù chịu thương, chịu khó: “Bầm
ra ruộng cấy bầm run/ Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non/ Mạ non bầm cấy mấy đon/
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần” (Bầm ơi)
Mẹ Suốt đảm nhận nhiệm vụ đưa bộ đội sang sông. Người lái đò kiên cường và
hiên ngang ấy được Tố Hữu mô tả một cách sống động: “Một tay, một chiếc đò ngang/
Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày/ Sợ chi sóng cả tàu bay/ Tây kia mình thắng, Mỹ
này ta chẳng thua/ Kể chi tuổi tác già nua/ Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng” (Mẹ
Suốt)
Sự hi sinh của những người mẹ trong thơ Tố Hữu không mang nhiều tính chất bi
tráng. Nó dường như họ được bảo quản một cách thận trọng trong cái nhìn lạc quan cách
mạng, hay nói rõ hơn, là đã khúc xạ qua ánh chớp cói chang của ấn tượng cao cả, thiêng
liêng. Do đó, từ những trường hợp cá thể, họ đã hóa thành những hình tượng điển hình
chính đáng cho hàng loạt những huống cảnh tương tự: “Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt
rồi/ Một dòng máu đỏ lên trời/ Má ơi con đã nghe lời má kêu!” (Bà má Hậu Giang).
Đáng khâm phục biết bao hình tượng những bà mẹ đào hầm bí mật. Trong thơ Thu
Bồn và Dương Hương Ly, họ đã trở thành những hình tượng sáng ngời về lòng yêu nước:
“Đào hầm mẹ đã hi sinh
Từng tia máu nhuộm bình minh chân trời”
(Chiếc hầm bí mật của tôi)
Người mẹ Cửa Việt trong thơ Thanh Hải sẵn sàng xông pha chiến đấu với kẻ thù
để giữ đất quê hương:
“Cần giữ đất mẹ hóa thành khẩu súng
Xe địch vào, tay trắng cũng xông pha”
(Khúc ca Cửa Việt).
Trong hoàn cảnh chiến tranh, người mẹ trong thơ Thu Bồn mang sức mạnh chiến
đấu của hậu phương, là tấm gương trung liệt, là điển hình của lòng yêu nước, căm thù
giặc, và được nâng lên thành biểu tượng về Tổ quốc: “Nhà mẹ chẳng dột đâu/ Những cơn
mưa không thủng được yêu thương trên mái rạ nghìn đời/ Viên đạn không bắn thủng
được pho sử dày bốn nghìn năm dựng nước/ Ôi lá chắn diệu kì/ Lòng mẹ Việt Nam” (Quê
hương mẹ).
Như vậy, các nhà thơ dù miêu tả những người mẹ khác nhau, vẫn gặp nhau trong
một điểm nhìn duy nhất: phản ánh hình tượng người mẹ qua phương diện tấm lòng (lòng
mẹ) và tấm lòng này mang giá trị biểu trưng cho lòng dân. Đây cũng là điều nằm trong
suy nghĩ của Nguyễn Bá Thành: “Có thể nói, chủ đề lòng dân là chủ đề tiêu biểu nhất
trong mọi bài thơ” [139, 150]. Và khi đặc tả những biểu hiện cụ thể của nét đẹp tinh thần
rạng ngời ấy, các tác giả chủ yếu xây dựng “hình ảnh bà mẹ gắn liền với những cái cao
cả, thiêng liêng không chỉ thể hiện trong khả năng chở che, bảo vệ cách mạng, trong sức
chịu đựng bền bỉ những khó khăn gian khổ tột cùng, mà còn thể hiện ở tinh thần quật
khởi, dũng cảm của những người mẹ cầm súng. Bà mẹ tượng trưng cho khả năng đánh
giặc đến cùng, cho tinh thần quyết chiến, quyết thắng và sức mạnh của chiến tranh nhân
dân vĩ đại” [139, 151].
Trong khi đó, người mẹ trong thơ trữ tình ngắn của Hữu Thỉnh có xu hướng không
đại diện cho những hình ảnh mà qua đó, người ta có thể tạo dựng mối liên lạc thường
xuyên với những liên tưởng hay ít nhất bắt mình sực nhớ đến những phẩm chất vĩ đại
mang hơi hướng thời đại, có giá trị vĩnh cửu bởi những đóng góp lớn lao của họ cho công
cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Ông không có ý định cung cấp cho chúng ta sự vĩ đại
về phẩm chất tâm hồn ấy, mà gần như, nếu có thể khẳng định như thế rằng, nhà thơ chỉ
gói gém tình cảm của mình vào sự giản dị, chân chất, mộc mạc của người mẹ. Nói cách
khác, hình ảnh người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh gần như không mang sự tiêu biểu nào cho
dáng dấp cộng đồng, sức mạnh tập thể hay được nâng lên ngang tầm với hình tượng Tổ
quốc, mà tiêu biểu hơn cho tấm lòng của người mẹ bình thường, người mẹ của gia đình
và của mối quan hệ cá nhân, gia đình.
Đọc thơ trữ tình ngắn của Hữu Thỉnh, chúng ta phải thường xuyên chứng kiến
cảnh vắng bóng của những biểu hiện lớn lao, vĩ đại trong tính cách, tâm hồn của người
mẹ. Kết quả không thể nào vượt hơn sự thất vọng cho nổ lực tìm kiếm trong thơ ông
những chiến công hay sự hy sinh thầm lặng của hình tượng ấy. Người mẹ trong thơ trữ
tình ngắn của Hữu Thỉnh không nhắc nhớ chúng ta nghĩ về những bà mẹ đào hầm nuôi
giấu cán bộ, những bà mẹ đưa đò, những “bà má Hậu Giang”, những mẹ Tơm, mẹ
Suốt…trong một trường liên tưởng gần gũi. Hình tượng này, từ trong sâu thẳm, không
phải là đối tượng của sự ca ngợi hay nêu gương một cách có chủ đích, mà là bạn đường
của những nỗi niềm tâm sự, là đối tượng để tâm tình, giãi bày những suy tư của nhân vật
trữ tình. Trong hoàn cảnh thời chiến, người mẹ là chỗ dựa tinh thần vững chắc tiếp thêm
sức mạnh chiến đấu cho người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh hòa bình, họ là những bến cảng
an toàn cho những chuyến cập bến của nhân vật trữ tình, là người để giãi bày, chia sẻ
những tâm tư tình cảm, mà đa phần đó là những thất bại, những vấp ngã của nhân vật trữ
tình trên đường đời.
2.2.2.2. Hình tượng người mẹ sau chiến tranh.
Sau chiến tranh, được trở về với mẹ, có thể nói là niềm hạnh phúc lớn lao nhất mà
mỗi cá nhân người lính hằng mong mỏi. Về với mẹ là về với những kỉ niệm ấu thơ, về
với cội nguồn thương yêu, che chở. Hữu Thỉnh đã ghi lại phút giây thiêng liêng này bằng
những dòng thơ đầy cảm xúc:
+ “Con lại ngồi vào chiếc chõng tre xưa”
+ “Xin mẹ lại cho con bắt đầu đi gánh nước”
+ “Xin mẹ lại cho con nấu bữa cơm mà không cần giấu khói”
+ “Vẫn chiếc dây phơi buộc ở đuôi kèo
Vẫn ở đó giờ cao hơn với mẹ”
+ “Hôm nay con trở về nhà
Chiếc vó nhện cũ trên tường cũng vô cùng thân thuộc”
(Ngôi nhà của mẹ).
Hẳn không ai không mong mỏi rằng những ngày tháng êm đềm ấy sẽ trụ lại lâu
trong đời mình. Nhưng nếu số phận một lần nữa thôn tính những người trai anh hùng này
trong một nhiệm vụ thiêng liêng khác, thì thêm một lần, bến cảng ấy, lại phải chứng kiến
thêm một cuộc tiễn đưa. Lúc này, hình ảnh người mẹ lại trở nên gần gũi và thân thiết hơn
bao giờ hết với người lính. Họ tự ví mình như những con tàu, với những chuyến đi định
mệnh và người mẹ như những sân ga đưa lối cuộc hành trình:
“Ngôi nhà mẹ là chiếc ga bé nhỏ
Chúng con đến và đi trong suốt cuộc đời mình”.
(Ngôi nhà của mẹ)
Người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh còn là biểu tượng của sự minh triết, nói đúng hơn
là kho tri thức vô giá của cuộc đời.
Trước đó, trong trường ca Biển, người mẹ cũng không ít lần xuất hiện trong vai trò
người chỉ dẫn nhân vật trữ tình trên đường đời: “Mẹ đã nuôi con lớn/ Đã dạy con khôn/
Sống sướng vui và đau khổ với con người/ Sống dễ dàng và khó khăn với con người/
Sống cởi mở và phòng xa với con người/ Biết đem cho mà làm cho người được cho không
cảm thấy mắc nợ/ Biết nhận mà không sợ bị coi là tham lam/ Và khó nhất là biết từ chối”
(Trường ca Biển)
Nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình ngắn Hữu Thỉnh thường xuyên có sự liên lạc
khắng khít với người mẹ của mình. Họ lao thân vào đời, gặp những trở ngại hay những
điều nằm ngoài sự ước đoán, quay về hỏi mẹ với nỗi thắc mắc không dễ trả lời: “Hãy yêu
lấy con người/ Dù trăm cay nghìn đắng/ Đến với ai gặp nạn/ Xong rồi chơi với cây!”
(Lời mẹ).
Có khi trong cùng cực của nỗi cô đơn, nhân vật trữ tình lại tìm đến mẹ như một
niềm an ủi lớn lao để tâm sự, giãi bày: “Mẹ ơi mây héo con xin mẹ/ Cho con lên an ủi
mặt trăng buồn/ Chợ tan trường cũng tan như chợ/ Bán được buồn hay mua được buồn
hơn” (Đất ngày thường).
Có thể lí giải sự khác biệt về hình tượng người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh trong hai
giai đoạn sáng tác của ông bằng những điểm tựa cơ bản của thời đại. Chúng ta biết rằng,
từ những năm tám mươi của thế kỉ trước, cảm hứng thế sự đã thực sự thức tỉnh trở lại
trong nền văn học. Giai đoạn sáng tác trong chiến tranh, thậm chí những năm sau chiến
tranh, văn nghệ sĩ nói chung chịu sự chi phối của cảm hứng sử thi và cái nhìn lãng mạn
cách mạng. Ở đấy cái riêng tư đã hòa vào cái chung để đảm bảo sự thống nhất cần thiết
trong tư tưởng. Đến thời điểm này, những vấn đề riêng tư, cá nhân ấy đã có những điều
kiện thuận lợi để có thể đưa lên bàn mổ riêng cho mình. Hay nói khác đi, đó là sự chuyển
đổi mang tính lịch sử của cái tôi trữ tình công dân sang cái tôi trữ tình cá nhân, nơi các
nghệ sĩ có quyền bộc bạch những tình cảm riêng tư. Ở một phương diện khác, cái tôi tữ
tình cá nhân này được xúc tiến một cách có hiệu quả từ góc nhìn thế sự và đời tư. Những
vấn đề được nêu ra không còn là sản phẩm của cảm quan lãng mạn. Nó được trả về với
chính bản chất của nó: trần tục hơn, thực tế hơn, dẫu là ngậm ngùi và cay đắng hơn. Và
trong những góc nhìn mang tính chất đời tư, cá nhân này có sự chiêm nghiệm, nhìn nhận
lại hình tượng người mẹ. Rõ ràng, đây không phải là ê – kíp của một sự khám nghiệm lại,
mà là một hành trình được đánh dấu bằng tất cả những dấu hiệu rõ ràng nhất của tâm
thức chung thời đại. Chúng ta cần một sự soi sáng những ngõ ngách chưa từng được khai
quật trong giai đoạn văn học trước đó để đảm bảo sự cân bằng và đem lại sự giải tỏa bước
đầu cho những uất ức tâm lí của đám đông. Đó là tiếng nói và nhu cầu vô cùng chính
đáng về mặt khách quan cũng như chủ quan của thời đại.
Với sự mạnh dạn đáng biểu dương đó, sự nhìn nhận về những vấn đề có mối giao
tế thường trực với ý thức cá nhân đã được mổ xẻ và khám phá một cách nghiêm túc. Đây
cũng là điều được khẳng định trong không ít những công trình nghiên cứu, những ý kiến
đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Trong không khí khoáng đạt đó, sự thay đổi trong cách nhìn nhận và thể hiện tư
tưởng chủ đề, hệ thống hình tượng là một điều dễ hiểu. Và lẽ tất yếu, Hữu Thỉnh cũng
không thể vô can trong vai trò của một người đứng ngoài cuộc. Hai trường ca Đường tới
thành phố và Biển được viết sau chiến tranh để suy nghiệm lại những vấn đề có ý nghĩa
lớn lao và thiêng liêng đến vận mệnh và lịch sử dân tộc. Và nhìn chung, hai trường ca
này, về mặt cảm hứng vẫn chưa thoát khỏi sự qui định mang tính phổ biến của hứng sáng
tác của giai đoạn chiến tranh. Góc nhìn sử thi hóa, lãng mạn hóa vẫn chiếm thế ưu thắng,
mặc dù, như một nhà nghiên cứu đã khẳng định, sự có mặt âm thầm của cảm hứng thế sự
trong hai tác phẩm trên. Do đó, hình tượng người mẹ cũng không thể mang lại những
thay đổi đáng kể nào về chất so với các trường ca cùng thời hay trước đó. Đây là kết quả
của sự qui định mang tính chất thời đại. Vấn đề về sự qui định của thể loại cũng phần nào
góp mặt, và điều này chúng tôi đã có dịp trình bày ở trên.
Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian nằm trong thời điểm cảm hứng thế
sự đã thực sự trở thành cảm hứng nổi bật của nền văn học. Do đó, cái nhìn cá nhân về
hình tượng người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh không có gì khó hiểu và xa lạ đối chúng ta.
Tất cả những khác biệt cơ bản đó, suy cho cùng, nếu có thể gói gọn trong một vế
ngắn gọn duy nhất, là phần lợi tức thu được trong sự chi phối của thời đại, hay nói chính
xác hơn là mặt lịch sử.
Trên đây, chúng tôi vừa trình bày những đặc điểm cơ bản nhất về hình tượng người
lính và người mẹ trong thơ Hữu Thỉnh với tất cả những biểu hiện cụ thể của nó. Tuy
nhiên, hai hình tượng nhân vật này không tồn tại độc lập với nhau như những tinh cầu xa
lạ, mà giữa chúng luôn có mối quan hệ ở mức thường xuyên đến nỗi có thể dễ dàng chiết
xuất đặc điểm chung. Đây cũng là một trong những nét đặc trưng cơ bản mà khi xây
dựng những hình tượng này, Hữu Thỉnh đã cố gắng để lại trong thơ mình những lằn ranh
khu biệt đáng nhớ. Rõ ràng, khi nêu lên luận điểm này, chúng tôi chắc chắn rằng sự mới
mẻ đã không đến cùng với lượng thông tin được chờ đợi bởi lẻ sự sáng sủa vấn đề đã
được hoàn tất trong một công trình khác.
Có thể nói, dấu ấn lớn nhất về chất của hai hình tượng này trong thơ Hữu Thỉnh
(bao gồm thơ trữ tình và trường ca) là sự cố gắng hay nói cách khác, luôn tận tụy thể hiện
những nếp gấp tâm lí của họ: “Đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của Hữu Thỉnh là khi thể
hiện các nhân vật tham gia vào sự kiện, bao giờ anh cũng có ý thức khám phá chiều sâu
tâm lí, tình cảm” [130, 34]. Chẳng hạn, khi miêu tả người lính trong trường ca Đường
tới thành phố, nhà thơ luôn chú ý khai thác những biểu hiện tâm lí của họ: “Tôi biết/ Vải
đang đóng cùi để kịp dày vào hạ/ Tu hú kêu sốt ruột bờ đê/ Anh vẫn thích ra cất tôm
ngoài bãi/ Trưa đem cơm sâm sẫm cưỡi trâu về” (Đường tới thành phố).
Bên cạnh đặc điểm trên, khi viết về thân phận con người nói chung, hay người
lính, người mẹ, người chị nói riêng, nhà thơ thường “đồng cảm da diết đến cháy lòng với
con người ở mọi chiều cảm xúc, nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau, nhẫn nại, hy sinh mà
chứa chan hy vọng, nhưng chủ yếu là sự đồng cảm với những nỗi đau thương, bất hạnh,
thiệt thòi, hy sinh” [130, 34]. Hình ảnh người chị xóm vườn trầu trong trường ca Đường
tới thành phố hiện lên với tất cả sự nghiệt ngã, hẩm hiu của thân phận: “Chị đợi chờ quay
mặt vào đêm / Hai mươi năm mong trời chóng tối / Hai mươi năm cơm phần để
nguội…Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy / Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc…Chị chôn tuổi
xuân trong má lúm đồng tiền” (Đường tới thành phố). Người mẹ, người chị nơi hậu
phương luôn là biểu tượng của sự hi sinh và tình thương cao cả: “Đất bận quanh năm
điệp khúc mùa màng/ Chị búi tóc cao hơn chịu thương chịu khó/ Mẹ vẫn đong bữa ăn
bằng chiếc lon nho nhỏ/ Quá nửa cánh đồng giành cho đứa con xa” (Sức bền của đất).
Ở phần trên, chúng ta vừa trình bày về những đặc điểm cơ bản của hình tượng
người lính và người mẹ trong và sau chiến tranh. Một cách cơ bản nhất, những điểm
tương đồng và dị biệt của hai hình tượng này trong hai giai đoạn sáng tác của Hữu Thỉnh
là sản phẩm tất yếu của sự thay đổi về quan niệm nghệ thuật về con người của nhà thơ.
Nguyễn Nguyên Tản đã phần nào tìm được sự giải quyết tối ưu cho vấn đề này và qua đó
giúp cho tình hình trở nên thêm lành mạnh. Cơ sở phân chia con người trong thơ Hữu
Thỉnh thành ba dạng cơ bản (con người đồng cảm, con người tình nghĩa, con người cô
đơn) đã tỏ ra khá tinh tế trong việc giải thích những nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về
chất của hai giai đoạn sáng tác thơ Hữu Thỉnh.
“Quan niệm con người đồng cảm, con người tình nghĩa là con đẻ của
điều kiện xã hội lịch sử và văn hóa tư tưởng. Trong chiến tranh, độc
lập tự do cho Tổ quốc là mục tiêu trên hết, duy nhất của toàn xã hội
và từng con người (…). Quan niệm trên còn là sản phẩm của trái tim,
tấm lòng nhà thơ – chiến sĩ gắn bó sâu sắc với cuộc chiến đấu, với
nhân dân, đất nước và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Cũng như
nhiều nhà thơ chống Mỹ khác, Hữu Thỉnh là người lính làm thơ, trước
khi là nhà thơ đã là người chiến sĩ. Mà sự lựa chọn duy nhất của
người chiến sĩ “cùng xương thịt với nhân dân” chung chiến hào với
đồng đội, gắn kết với đồng đội bằng nghĩa nhân xương máu, đã như
một lẽ sống còn. Vả chăng, đồng cảm và tình nghĩa là dòng chảy tình
cảm trong thơ ca dân gian, thơ ca yêu nước như một truyền thống tốt
đẹp mà bất kì nhà thơ nào cũng đều phải tìm về nguồn cội” [130, 62].
Trên cơ sở đó, Nguyễn Nguyên Tản đã nêu ra sự khu biệt cơ bản về hình tượng
con người nói chung trong thơ Hữu Thỉnh ở hai giai đoạn sáng tác:
“Quan niệm về con người trong thơ về chiến tranh của Hữu Thỉnh
hướng mạnh về mặt đồng cảm – tình nghĩa. Điều đó đem lại sự hấp
dẫn chủ yếu ở phương diện nội dung của thơ anh: lôi cuốn, thuyết
phục người đọc bởi sự đồng cảm và tình nghĩa. Cũng từ đó dẫn đến
kiểu tư duy nghệ thuật: khám phá và biểu hiện con người tập trung
vào phương diện tình cảm – tình nghĩa (tất nhiên cũng có chú ý đến
các phương diện khác như phẩm chất anh hùng, quả cảm,..). Thơ về
con người trong chiến tranh không nói đến phẩm chất anh hùng
nhưng là anh hùng với khả năng chịu đựng đau thương, trong cuộc
vật lộn, giằng xé nội tâm dưới tác động của hoàn cảnh khắc nghiệt”
[130, 62].
Thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sau chiến tranh nhìn nhận con người với tư cách một con
người bình thường chiêm nghiệm về thân phận, nhân tình, thế thái. Nó đã bức ra khỏi sự
kiềm tỏa của lập trường người lính trong cách nhìn nhận thực tại. Nếu giai đoạn trước,
nhà thơ “nhân danh người lính để nói về tình cảm với nhân dân, Tổ quốc, cuộc chiến
đấu” [130, 63], thì đến giai đoạn sau, với sự bùng nổ của ý thức cá nhân, cá tính, của tinh
thần dân chủ và nhân bản, Hữu Thỉnh “quan tâm đến những số phận con người, khát
vọng về một xã hội tốt đẹp, nhân dân có hạnh phúc” [130, 62].
Như vậy, “về xu hướng phản ánh, khả năng phản ánh: thơ Hữu Thỉnh giai đoạn
trước thiên về phản ánh con người và đời sống ở sự đơn nhất, trong hệ quy chiếu của lí
tưởng độc lập tự do, xoay quanh mô – tuýp: chịu đựng, hi sinh – chiến thắng, có thiên
hướng tổng kết chiến tranh. Thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sau thể hiện con người và cuộc
sống đa dạng, muôn mặt, con người day dứt và trăn trở trước cuộc đời” [130, 64]. Đấy
cũng là những khác biệt lớn nhất về xu hướng phản ánh hình tượng con người trong thơ
Hữu Thỉnh trong hai giai đoạn sáng tác.
Quê hương – đất nước là một hình tượng lớn trong thơ ca chống Mỹ. Các hình
tượng này trong thơ Hữu Thỉnh được khám phá ở nhiều cung bậc khác nhau. Và nhìn
chung trong mỗi thể loại riêng biệt, sự thành công trong cách thể hiện đã đến với ông
trong mối nhiệt thành sáng tạo đó.
Trong thể loại trường ca, hình tượng quê hương – đất nước được soi rọi và phản
ánh chủ yếu ở tầm vóc vĩ mô mang tính sử thi cao độ. Đó là sự gắn bó máu thịt giữa
tuyền tuyến và hậu phương, là sức mạnh của truyền thống văn hóa được lưu giữ qua
nhiều thế hệ (trường ca Biển và Sức bền của đất),… “Đất nước của anh là một Việt Nam
kiên cường, bất khuất đã khẳng định và hoàn thiện tư cách dân tộc của mình” [160].
Trong thơ trữ tình ngắn, ở giai đoạn sáng tác trong chiến tranh, hình tượng đất
nước (Tổ quốc) không để lại nhiều dấu ấn với tần số xuất hiện khá khiêm tốn. Nó thường
xuyên lệ thuộc vào hình tượng có cấp độ nhỏ hơn về lượng: hình tượng quê hương. Ở
đây, nét nghĩa biểu trưng, khái quát mang tầm vóc lớn lao gần như bị khước từ. Và có
một điều đáng lưu ý, khi xây dựng hình tượng quê hương – đất nước, Hữu Thỉnh thường
đặt nó vào mối cảm thức về người mẹ ở hậu phương. Có thể xem đây là một đặc trưng
quan trọng trong cách thể hiện của tác giả.
Thơ trữ tình ngắn Hữu Thỉnh giai đoạn sáng tác trong thời bình cũng để lại những
tín hiệu khả quan về đặc trưng trong cách thể hiện hình tượng trên. Một cách cụ thể, hình
tượng này gần như là một thư viện nhỏ của tâm hồn, nơi dung chứa cẩn thận những đặc
trưng của quê hương. Đó là vùng quê đồng bằng Bắc Bộ với những yếu tố gắn liền với
mạch đập của hồn quê.
Bên cạnh hình tượng quê hương – đất nước, con người cũng là một hình tượng nổi
bật trong thơ Hữu Thỉnh. Hình tượng người lính trong chiến tranh được thể hiện chủ yếu
ở hai khía cạnh: sự hồn nhiên, trẻ trung và vẻ đẹp của ý chí, niềm tin sắt đá vào chiến
thắng cuối cùng của cuộc kháng chiến. Các tính cách trên được chăm sóc trong một khoa
điều dưỡng chủ yếu: hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến trường.
Hình tượng người mẹ trong cuộc chiến tranh (trong thơ trữ tình ngắn) của Hữu
Thỉnh cũng để lại những ấn tượng riêng khá rõ nét. Đó là người mẹ tảo tần, vất vả ở chốn
hậu phương, hiện lên với những biểu hiện ở sự hi sinh, chịu thương, chịu khó một cách
âm thầm. Góc độ quan hệ cá nhân – đời tư, máu mủ ruột rà được chú ý hơn cả. Nói khác
đi, nó được xây dựng trên điểm tựa quan hệ gia đình trong sự kết nối với cái chung, cái
cộng đồng. Trong nhiều trường hợp, cái cá nhân, riêng tư này nổi lên như những minh
chứng ưu tú trong cách thể hiện của tác giả.
Nói như Nguyễn Nguyên Tản, “Thơ về con người trong chiến tranh không nói đến
phẩm chất anh hùng nhưng là anh hùng với khả năng chịu đựng đau thương, trong cuộc
vật lộn, giằng xé nội tâm dưới tác động của hoàn cảnh khắc nghiệt” [130, 62].
Sự lưu tâm hình tượng con người trong thời bình (người lính và người mẹ) trong
thơ trữ tình ngắn Hữu Thỉnh tập hợp ở tính chất và môi trường phản ánh của nó. Đó là
những con người được nhìn nhận một cách hoàn toàn bởi cái tôi trữ tình cá nhân, mà
những hoa tiêu tin cậy không gì khác hơn là cuộc sống thường nhật với bao lo toan, vất
vả. Người lính hòa vào cuộc sống bằng cách thức sống chung với những mối hiểm nguy
mới để có thể đổi lại sự tồn tại cho bản thân và gia đình. Ở đây, khía cạnh bi kịch tinh
thần của họ không được quan tâm nhiều. Người mẹ vẫn là hiện thân của quê hương
nhưng sự vất vả, cực nhục, lẻ loi của mẹ được trình bày một cách sâu sắc đậm nét hơn
trong giai đoạn sáng tác trước. Hình tượng này, đến đây, đã trở thành đối tác quan trọng
của nhân vật trữ tình trong những mối tâm sự về tình đời, về những hụt hẫng trên đường
đời.
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THƠ HỮU THỈNH
3.1. Ngôn ngữ:
3.1.1. Tiếp thu văn học, văn hóa dân gian:
Quan hệ ảnh hưởng giữa văn hóa, văn học dân gian đối với lịch sử phát triển của
các nền văn học dân tộc từ lâu đã được chú ý.“Trong Mỹ học, khi bàn về thơ trữ tình, Hê
– ghen đã nhận xét rằng các đặc điểm dân tộc cũng như thế giới tâm hồn của các dân tộc
được biểu hiện nhiều nhất và rõ nhất qua thơ ca dân gian. Cũng qua đó, Hê – ghen nhận
thấy việc tiếp thu thơ ca dân gian là một trong những đặc điểm quan trọng trong sự
nghiệp sáng tác của các nghệ sĩ lớn: “Héc – đe đã làm nhiều trên con đường này, và Gơ
– tơ đã tiếp thu được cái tinh thần làm cho thơ này sinh động đến nỗi có thể sáng tạo
được những tác phẩm làm cho chúng ta ngạc nhiên với với vẻ bên ngoài mộc mạc của
nó” [49, 11].
Trong phần lí giải những biểu hiện cụ thể về sự chuyển hóa của một số phương
thức thể hiện dân gian trong thơ ca cách mạng Việt Nam (công trình Ảnh hưởng của thơ
ca dân gian trong thơ ca Việt Nam hiện đại (1945 - 1975) [49]), Nguyễn Đức Hạnh đã
đưa ra ba dạng thức chuyển hóa chủ yếu của thơ ca dân gian vào văn học viết giai đoạn
này. Cụ thể, đó là: ngôn ngữ, thể thơ, và mô – típ trữ tình dân gian. Trong đó, đáng chú ý
nhất là phần trình bày về những chuyển hóa của mô – típ trữ tình dân gian vào thơ ca.
Tác giả cho rằng: “Mô – típ trữ tình dân gian được hiểu như là hình thức diễn đạt
trữ tình mang đặc trưng dân gian bằng hình ảnh, biểu tượng, cảm quan. Như vậy, mô –
típ trữ tình luôn luôn gắn với biểu tượng có bao hàm các nét nghĩa biểu trưng hóa và có
liên quan đến những mỹ cảm truyền thống của cộng đồng” [49, 175]. Ở những điểm
khác, người viết cũng dừng lại ở sự lưu ý: “Hầu hết những mô – típ trữ tình dân gian
mang đậm tâm lí tình cảm của những con người lao động. Các biểu tượng của nó được
xây dựng trên cơ sở nguồn thi liệu của môi trường thôn quê”. Và trong sự tiếp thu những
mô – típ trữ tình dân gian của thơ ca giai đoạn 1945 – 1975, Nguyễn Đức Hạnh đã dẫn
dắt chúng ta đi đến sự khẳng định: “phần lớn các mô – típ trữ tình dân gian được sử
dụng trong thơ ca hiện đại là những mô – típ có liên quan đến việc biểu đạt nội dung tình
yêu. Điều này cũng dễ hiểu vì trong kho tàng thơ ca dân gian, nội dung đề tài tình yêu
được biểu hiện phong phú hơn cả và số lượng và đạt được trình độ nghệ thuật cao cũng
tập trung ở đây nhiều hơn. Thực tế này phản ánh xu hướng trữ tình truyền thống của
người Việt và đã tác động đến tư duy nghệ thuật của các nhà thơ hiện đại. Khi họ diễn
đạt những cảm xúc trữ tình sâu lắng thiết tha, nhất là khi diễn đạt nội dung trữ tình yêu
thì thơ ca dân gian trở thành những mẫu mực” [49, 183].
Nhưng rõ ràng việc vận dụng những mô – típ trữ tình trong văn học dân gian
không đồng nghĩa với việc sao chép, mô phỏng một cách thụ động hay làm sống lại
những nét nghĩa mang tính truyền thống của nó mà là “phát huy một cách tuyệt đích
phẩm chất thẩm mỹ của nó trong một tình huống trữ tình mới”. Không thể ngẫu nhiên
khi Nguyễn Văn Dân cho rằng: “Chúng ta không thể nói rằng một đề tài hay một hình
thức truyền thống được kế tục bởi lẽ nó tồn tại qua nhiều thập kỉ, mà chỉ là vì nó phát huy
một ý nghĩa thẩm mỹ mới” .
Đó là những tiền đề quan trọng, có ý nghĩa thiết thực để chúng ta có thể tiến hành
những bước đi đầu tiên trong hành trình tìm hiểu những biểu hiện của văn hóa, văn học
truyền thống trong thơ Hữu Thỉnh. Và để giải tỏa sức nặng của vấn đề, cũng như đảm bảo
một cách thuần túy khả năng tập trung của phần này, chúng tôi chỉ cho phép sự chú ý của
mình dừng lại ở phạm vi tiếp thu mô – típ trữ tình.
Nhận xét về thơ Hữu Thỉnh, Lí Hoài Thu từng đưa ra ý kiến: “Dù viết về chiến
tranh hay tình yêu, tâm trạng con người hay non sông mây gió, thơ Hữu Thỉnh thấm đậm
chất dân gian. Điều đó thể hiện cả trong cảm xúc, suy nghĩ lẫn chất liệu sáng tạo” [160,
52].
Từ những năm tám mươi, Lưu Khánh Thơ đã bắt mạch được những nhịp đập đều
đặn đáng tin cậy của khả năng vận dụng văn hóa, văn học dân gian của Hữu Thỉnh: “Nét
đặc trưng này cũng là một điểm mạnh và là yếu tố cơ bản tạo hình thành cá tính thơ Hữu
Thỉnh, làm nên nét đặc sắc trong thơ anh…Vốn kiến thức phong phú này đã làm thơ Hữu
Thỉnh thêm giàu có, tạo thuận lợi cho những tìm tòi sáng tạo của thơ anh. Hữu Thỉnh tiếp
thu truyền thống dân tộc không chỉ là ở cách nói, cách ví von, so sánh, mà còn ở tư duy,
cách liên tưởng độc đáo, ở một âm hương xa xôi khó nhận biết. Phải chăng sự ảnh hưởng
đó là nguyên nhân khiến cho Hữu Thỉnh có được những câu thơ đa nghĩa, có tính ẩn dụ
cao, mới lạ trong cách diễn đạt, bất ngờ trong cảm xúc” [156].
Nguyễn Nguyên Tản cũng nhận thấy điều này khi nghiên cứu thơ Hữu Thỉnh:
“Thơ Hữu Thỉnh chứa khá nhiều điển cố. Điều đặc biệt là “điển cố” mà nhà thơ gợi ra
không hề có tính bác học mà đậm chất dân dã, lấy từ ca dao, tục ngữ, cổ tích của dân
tộc. Trừ một số trường hợp nhà thơ dùng nguyên một câu ca dao, châm ngôn, một câu
thơ cổ còn phần lớn trường hợp là gợi nhắc đến những “điển cố” thông qua những hình
ảnh sáng tạo mới. Dùng điển cố là giữ lấy cái hồn của nó để cho hình ảnh mới được đẩy
lên một tầng nghĩa nữa do liên tưởng đến hình tượng” [ , 158]. Ở một chỗ khác, tác giả
cũng không che giấu cảm quan xem đây là một trong những nét đặc sắc về nghệ thuật thơ
Hữu Thỉnh: “Lấy điển cố từ kho tàng văn học bình dân để tạo dựng nên hình ảnh, diễn
đạt ý là một nét đặc sắc của Hữu Thỉnh” [130, 159].
Thật vậy, đọc thơ Hữu Thỉnh chúng ta không thể nào chạy trốn cảm giác bị bủa
vây bởi những ý, những lời nhà thơ chắc lọc từ nền văn học dân gian hay nói một cách
khoáng đạt và chính xác hơn là văn hóa dân gian. Chúng ta không ít lần liên tưởng đến
những lời dân ca khi đọc những dòng thơ của Hữu Thỉnh.
Trước hết là sự tiếp thu tục ngữ của Hữu Thỉnh.
Trong sự vận dụng tục ngữ vào thơ ca, Hữu Thỉnh chủ yếu không sử dụng lại hình
thức nguyên thủy của lời tục ngữ, mà phần lớn chỉ dùng lại cái khung của nó. Tức là ông
chỉ giữ lại những gì tinh túy, cái hồn của câu tục ngữ đó. Bài “Trên một chiếc xe tăng” là
một minh chứng không mấy bất ngờ, chứng tỏ đầy đủ tính chất nghiêm túc của vấn đề:
“Vào lính xe tăng anh trước anh sau/ Nết ăn ở người thì lạnh nóng/ Khi đã hát hòa cùng
một giọng/ Một người đau tất cả quên ăn” (Trên một chiếc xe tăng).
Trong bài “Nghe tiếng cuốc kêu”: “Em tránh mặt những người con trai đẹp/ Đợi
anh/ Chỉ mong anh về/ Áo rách cũng thơm”
Hay thành ngữ: “Thôi thì quầy rộng quán dài/ Mua mai bán rủi phát tài cậy
duyên” (Đi chợ Vĩnh Yên).
Bên cạnh đó là cách tiếp thu từ văn hóa dân gian. Bài Lời thưa đầu tập Thư mùa
đông cũng là một cách thức xưng danh của sân khấu chèo: “Tôi vẫn thường hay lẫn với
mồ hôi/ Xin bạn cứ hình dung một mảnh đời lấm láp/ Những gì hay bỏ quên, những gì
hay bỏ sót/ Tôi ấy mà xin bạn cứ hình dung” (Lời thưa)
Nhân vật tôi trong bài thơ trên đã tiến hành điều đó bằng sự giúp đỡ của các điệp
khúc:“Tôi ấy mà những chiếc cốc vô danh” – “Tôi ấy mà cánh diều nhỏ cô đơn”– “Tôi
ấy mà, một cuống rạ bơ vơ”. Điệp khúc này trở đi trở lại nhiều lần đã thể hiện vai trò hữu
ích trong việc khắc họa chân dung nhân vật trữ tình.
Trong trường ca Hữu Thỉnh, những câu thơ mang âm hưởng ca dao xuất hiện khá
nhiều lần: “Bởi nơi ta về có mười tám thôn vườn trầu/ Mỗi vườn trầu có bao nhiêu mùa
hạ” (Đường tới thành phố)
Trường ca Biển được mở đầu bằng câu ca dao: “Ra sông lấy sống mà yêu/ Đường
xa gặp núi lấy đèo mà tin”. Hai câu thơ mang đậm tính ca dao này “được coi như khúc
dạo đầu và lời kết của bản trường ca đã làm sâu lắng thêm mạch trữ tình của tác phẩm,
thấm thía hơn phép đối nhân xử thế, triết lí nhân sinh của người Việt Nam” [160].
Rõ ràng đấy không phải là tất cả những minh chứng mà chúng ta có thể kể ra nơi
đây. Con số này có thể tăng thêm nhiều lần nếu sự cho phép mỉm cười với văn bản: “Cái
túi tám gang ngăn đứa lọc lừa/ Quệt chìa vôi vạch ngang lời điêu hót/ Mũi tên đồng thay
lời di chúc/ Ba ông đầu rau dạy thế đứng chân” (Sức bền của đất); “Ông bà đi xa ruộng
nương để lại/ Làm sẵn ca dao dạy cách ở ăn/ Nhà có anh có em/ Ruộng có sào có thước/
Lấy ngày giỗ cha làm ngày sum họp/ Nước lã hương trầm thanh bạch bảo ban nhau”
(Sức bền của đất); “Tiếng mẹ ru ta cuối bãi đầu ghềnh/ Mẹ đi đốt than mẹ thường gánh
vã”; “Cho em ngập ngừng buông dây xuống giếng/ Sợi dây chùng do dự trước trăng in”;
“Châu chấu cào cào xanh tím rủ tôi đi/ Những đồi cỏ may những đồi trống ếch/ Cây
bưởi ca dao cây cao cổ tích/ Tôi âm thầm nuôi bống bống trong chai”; “Đất chẳng bao
giờ héo/ Trời thăm thẳm không mòn/ Khi vui chán ván khi buồn mặc ta”; “Tóc em dài
gội lá đài bi/ Cuộc tình ngắn bỏ buồn cho bến vắng”, “Ngã ba ngã bảy về đâu/ Cái
ngáng làm cớ cho nhau chuyện trò/ Ngọn đèn bọc trong ống bơ/ Cho em mờ tỏ đến giờ
trong tôi” (Đường tới thành phố), “Bao giờ lúa trổ đòng đòng/ Lúa đang trổ anh đang về
đấy chị” (Đường tới thành phố), Chị tôi đi thửa hương vòng/ Ngậm ngùi trên mộ cũ/
Cháu ở cùng bà bồng bống bang bang (Trường ca Biển); “À ơi tình cũ nghẹn lời/ Tham
vàng bỏ ngãi kiếp người mong manh” (Trường ca Biển);
Sự lưu ý trên hoàn toàn chưa nằm trong mối kiểm duyệt về những đoạn thơ mà
hình tượng của nó đã có mối liên hệ một cách bền vững với điển cố. Chẳng hạn như: Ta
bới sóng đi tìm các dòng sông/ Gặp nàng Tiên Dung đội cát/ Cát bàng hoàng/ Thế gian
mờ mịt/ Vì nàng Tiên Dung đem hết vầng trăng/ Thần tình ái bậc nhất/ Khiến nàng Kiều
xăm xăm nhường bước/ Hồ Xuân Hương mời trầu (Trường ca Biển).
Trong thơ Hữu Thỉnh, những câu thơ chịu ảnh hưởng từ ca dao, hay văn hóa dân
gian cũng xuất hiện khá nhiều lần.
Qua khảo sát thơ Hữu Thỉnh, chúng tôi nhận thấy thơ và trường ca ông chịu ảnh
hưởng rất rõ nét từ những mô – típ trữ tình trong ca dao. Những câu thơ này, có thể sử
dụng những hình ảnh hay là lẩy ý từ những lời ca dao truyền thống, cũng có thể là sự xuất
hiện cả dòng đầu của lời ca dao để tạo nên đòn bẩy hữu hiệu trong việc thể hiện tình ý
của câu thơ, bài thơ.
Ở dạng thứ nhất, chúng tôi thấy xuất hiện ở các trường hợp.
+ “Trông ra bờ ruộng năm nào
Mưa bay trắng cỏ cào cào lá sen
(Trông ra bờ ruộng)
+ “Cuốc kêu từ ngày cây tre chưa đủ lá đan sàng”
(Nghe tiếng cuốc kêu)
Ở các dòng thơ này, Hữu Thỉnh mượn ý từ một dòng của một lời ca dao. Tác dụng
của nó không phải là đưa đẩy ý thơ đến với bến bờ ý nhị, tình tứ, mà là góp phần cụ thể
vào việc thể hiện nội dung, chủ đề của bài thơ. Ý của lời ca dao có vai trò rõ rệt.
Chúng tôi nhận thấy cách vận dụng này là một yếu tố chủ đạo trong sự tiếp thu
những tinh hoa văn học dân gian của Hữu Thỉnh. Trong không ít trường hợp chúng như
những trợ thủ đầy nhiệt tình trong việc tạo nên những nét nghĩa biểu đạt đầy sáng tạo như
là những bông hoa của nỗi đam mê sáng tạo bất tận. Không ít những câu thơ của ông có
sức mạnh nhiều hơn số lượng âm tiết trụ lại trên hình hài thuần túy của nó, mà ngay từ
giây phút đầu giáp mặt với chuỗi âm thanh, chúng ta đã có nhiều hơn cảm giác được đối
thoại cùng những mạch nguồn thầm kín xa xôi của những lời ca dao đầy tinh tế:
- “Anh đi tìm một ngày cau ấp bẹ
Hoa ngủ mê trong lá mơ hồ”
(Im lặng)
- “…Ngọn sào tre ngấp nghé trái bòng non
Cá chẳng hơi đâu đớp bóng cầu”
(Đất ngày thường)
Trong những bài thơ ngũ ngôn, những lời ca dao phần nhiều được tác giả mượn
hình ảnh, từ ngữ. Tất nhiên, những từ ngữ, hình ảnh này không thể đóng vai trò như
những người khách lạ mặt, viếng thăm chúng ta bằng những đợt xuất kích đến văn bản từ
một phòng trọ nào đó trong đầu óc nhà thơ; mà là những hình ảnh mang tính chất phổ
biến đối với số đông những ai yêu thích có vốn am hiểu nhất định văn học dân gian: “Ai
mải đuôi cá cờ/ Bỏ quên cờ dải quạt/ Ai chơi ăn quan/ Giờ cười rung tóc bạc/ Ra giêng
ai lấy chồng/ Làm ngẩn ngơ tre trúc/ Đình xưa mơ bóng hạc/ Sóng còn lưu luyến sông”
(Mượn mùa thu một buổi). Hay: “Ai đưa đò tình/ Dạt vào bến lỡ” (Em còn nhớ chăng).
Cách vận dụng mô – típ trữ tình dân gian vào thơ không xa lạ gì đối với thơ ca
đương thời và trước đó. Chẳng hạn trong thơ Xuân Quỳnh: “Mẹ lại hát ru con bài ca đất
nước/ Vợ cấy chồng cày, đồng cạn đồng sâu/ Và yêu nhau cởi áo cho nhau”; “Cô gái
lấy chồng dù không cách sông/ Quê mẹ nhìn về mênh mang nước trắng/ Bao xa cách như
một hòn đảo vắng/ Biết gửi ai cho mẹ bát canh cần” (Bài hát đập đường). Đặc biệt là
những câu thơ có sức thôi miên kì lạ từ lời ru: “À ơi…cái ngủ đang về cùng con”; “À
ơi…ngọn lửa ngày xưa”…
Đọc những câu thơ trên của Xuân Quỳnh, “ta như nhớ lại âm điệu của các câu hát
quan họ, của những sắc màu sặc sỡ của hội chèo làng quê Việt Nam. Nhiều bài thơ của
Xuân Quỳnh có những nét như bâng quơ, như vô lí, như thừa thãi…nhưng đó chính là cái
hồn nhiên, nhiều bản năng của nghệ thuật hát ru dân tộc. Một loạt bài như: Khi con ra
đời, Lời ru, Tuổi thơ của con, Lời ru trên mặt đất…thể hiện rõ đặc sắc của thơ Xuân
Quỳnh” [47, 159 - 160]. Trong bài viết Cảm nhận về thơ Xuân Quỳnh, Lưu Khánh Thơ
cũng chỉ ra nét đặc trưng trong việc vận dụng vốn văn hóa dân gian của nữ thi sĩ: “Chị
thường hay chọn lời ru hoặc lấy cảm hứng từ lời ru làm giọng điệu cho bài thơ mình (Ru.
Lời ru, Hát ru, Lời ru trên mặt đất, Lời ru của mẹ, Hát ru chồng những đêm khó ngủ…)
(…). Những điều chị muốn nói với cuộc đời, những suy nghĩ về con người, về đất nước,
về hạnh phúc, về tình yêu và nhiều quan niệm nhân thế đã được Xuân Quỳnh diễn tả
nhuần nhị bằng những lời ru bình dị ấy (…). Tiếng ru là một hình thức và phương tiện
thơ ca thích hợp để biểu hiện phần sâu lắng và đằm thắm của hồn thơ Xuân Quỳnh.” [47,
15 – 16].
Như vậy đặc trưng trong cách vận dụng văn hóa, văn học dân gian ở Xuân Quỳnh
nằm ở khía cạnh lời ru. Và nếu có thể diễn đạt cụ thể hơn, chúng ta hoàn toàn không có
nhiều lí do để chối từ cách hiểu của Nguyễn Xuân Nam: đó là những lời ru mang đậm
“âm điệu của câu hát quan họ” và “sắc màu sặc sỡ của hội chèo làng quê Việt Nam”.
Tố Hữu cũng đã vận dụng rất thành công văn học dân gian Việt Nam. Tác giả
không chỉ sử dụng một cách nhuần nhuẫn thể thơ lục bát truyền thống mà còn vận dụng
một cách thành thục vốn thành ngữ, tục ngữ: “Dù ai nói ngả, nói nghiêng/ Lòng ta vẫn
vững như kiềng ba chân/ Dù ai rào giậu ngăn sân/ Lòng ta vẫn vững là dân Cụ Hồ”.
Nhưng đó không phải là kết quả đáng mong đợi với tư cách là nét đặc trưng nhất của sự
tiếp thu văn học, văn hóa dân gian của thơ Tố Hữu. Có thể nói, như không ít nhà nghiên
cứu đã nhìn nhận, nhạc điệu của nhiều bài thơ Tố Hữu là nhịp điệu của những điệu hò xứ
Huế, của những câu hát đối đáp giao duyên truyền thống. Đặc điểm này không đi qua thơ
ông như một hiện tượng lẻ loi mang tính chất của chứng đậu mùa, mà xuyên thấm và để
lại những chứng tích minh bạch và cụ thể đến mức hoàn toàn có thể vật chất hóa chúng
thành những bài viết đầy trách nhiệm và nghiêm túc.
Trong cách tiếp thu văn hóa văn học dân gian, thơ Hữu Thỉnh không trông cậy
nhiều vào lực hấp dẫn tinh diệu của thể thơ lục bát, cũng không “bắc cầu dải yếm” của
niềm đam mê sang những âm giai của loại hình hát hát ru hay hò xứ Huế. Ông tận tụy
nhìn ngắm sự say mê của mình trong hầu hết những thể loại thơ. Và bằng những chiếc
kính hội tụ nhỏ gọn ấy, ông đã cho phép những thành ngữ, tục ngữ, những mô – típ trữ
tình trong ca dao, dân ca ùa vào thơ mình như những vị khách đáng kính. Ở đây, chúng
tôi không có mối liện hệ đáng kể nào với ý định trình bày một cách cụ thể hay gần như
thế về những đặc trưng chi tiết trong cách vận dụng văn hóa, văn học dân gian của Hữu
Thỉnh, mà chỉ dừng lại ở vai trò của chúng đối trong nhiệm vụ thể hiện nội dung, tư
tưởng của đoạn thơ, bài thơ.
Trên bình diện chung nhất, những câu thơ lấy ý từ cao dao này trong thơ và trường
ca Hữu Thỉnh chủ yếu tồn tại và đảm nhận trò cụ thể. Lí Hoài Thu đã đưa nhận xét rất
đáng chú ý bởi giá trị gợi mở của nó: “Nhiều câu ca dao được Hữu Thỉnh lấy nguyên bản
để tạo nên cung bậc cảm xúc. Có thể là sự tương đồng tương tác: “Cúc mọc bờ ao kêu
bằng thủy cúc/ Cúc sẽ sớm về, xóm mũi sẽ về ta”; “Bao giờ lúa trổ đồng đồng/ Lúa
đang trổ - Anh đang về lấy chị”. Cũng có thể là sự tương phản: “Gió đâu gió mát sau
lưng/ Em không phải sau lưng/ Em dang ngồi trước mặt” (Đường tới thành phố)/ “Con
chim xanh mê trái lựu trước vườn/ Mùa hạ trôi qua từ ngày chim trốn tiếng” (Trở lại
mùa xuân)
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở cách khiến người khác nghĩ đến mình như một nhà thơ
biết cách tiếp thu những tinh hoa của văn học dân gian một cách bình thường, thì có lẽ
Hữu Thỉnh khó lòng có thể vươn đến thành công trong việc xác lập phong cách thơ cho
mình. Bên cạnh việc tiếp thu ấy, Hữu Thỉnh biết đưa vào thơ mình tính chất sáng tạo cá
nhân riêng biệt của mình để qua đó, có thể khu biệt về phong cách so với các nhà thơ
cùng “trường lớp” và cùng uống chung suối nguồn phong phú ấy.
Đây cũng là điều hết sức tinh vi, mà bằng năng lực phát hiện bản chất kì diệu,
Hoàng Ngọc Hiến đã cung cấp cho chúng ta một cách tiếp cận yếu tố ca dao trong thơ
Hữu Thỉnh một cách chính xác và hệ thống hơn: cách tiếp thu thể hứng của Hữu Thỉnh từ
Kinh thi và những cải biên chính yếu của ông trong cách vận dụng của mình.
“Khổ thơ thể hứng cổ điển được kết cấu bởi tương quan giữa mô-típ
thiên nhiên và mô típ nhân văn, mô – típ thiên nhiên được trình bày
trong những câu đầu, tiếp theo là những câu mô – típ nhân văn.
Chẳng hạn, trong chương I bài Ẩn kỳ lôi (Tiếng sấm ầm ầm), bài thứ
19 trong Kinh Thi, thì 2 câu đầu (Tiếng sấm ầm ầm/ Ở phía nam núi
nam) là mô – típ thiên nhiên, những câu còn lại là mô – típ nhân văn:
tâm trạng chinh phụ cô quạnh, mong nhớ chồng trở về (Sao chàng
một mình rời khỏi chốn này/ Mà không dám được tí gì rảnh rang...)”
[54].
Trong thơ Hữu Thỉnh có những đoạn (hoặc khổ) thơ được kết cấu theo thể hứng
cổ điển. Một hay nhiều câu đầu của bài thơ là mô – típ thiên nhiên, tiếp theo sau là mô –
típ nhân văn. Chúng liên kết với nhau bằng những đường viền hết sức mơ hồ, và đó cũng
chính là bà mẹ đỡ mát tay cho sức hút của câu thơ, ý thơ: “Chim tha phương đậu xuống
bụi chà là/ Câu vọng cổ theo người đi mở đất” (Người đi mở đất); “Mưa thanh xuân
mưa trước cửa thiền/ Sông chảy chậm đợi chiều đang bị ướt/ Ta khoác chiều mưa/ Buồn
chẳng vơi thêm/ Vui chẳng ngập” (Mưa thanh xuân)
Nhưng cũng theo Hoàng Ngọc Hiến, sự áp dụng đúng theo khuôn mẫu đó không
phải là nét đặc trưng của thi pháp thơ Hữu Thỉnh ở khía cạnh tiếp thu ảnh hưởng từ thể
hứng của Kinh thi. Hoàng Ngọc Hiến cho rằng: “…tiêu biểu cho thi pháp Hữu Thỉnh là
cách kết cấu ngược lại với thể hứng cổ điển: mô – típ nhân văn đi trước, tiếp theo là mô
– típ thiên nhiên” [54].
Có thể dẫn ngay sau đây một vài bài thơ tiêu biểu của Hữu Thỉnh để làm minh
chứng: “Có gì mới?Ngày đi hay cát đến?/ Có gì vui? Gió thổi lấy lòng cây/ Có gì bền?
Nhân nghĩa có còn đây?/ Ta im lặng vì quá nhiều mây trắng”
Ở đây, yếu tố nhân văn đươc đảo lên trên yếu tố thiên nhiên. Đó là cách tiến hành
ngược lại so với cách tổ chức của thể hứng. Ba câu hỏi mang màu sắc nhân văn đặt liên
tiếp nhau (ba câu đầu), giữ vai trò làm nổi bật tâm thế của nhân vật trữ tình (“im lặng”).
Và tâm thế này gắn chặt với yếu tố thiên nhiên ở ngay phía sau (“quá nhiều mây trắng”).
Trong bài Thấy, sau những biểu hiện cụ thể của thế thái nhân tình (“Đụng một kẻ
ngấm đủ mặt cái ác/ Sống một ngày lội qua cả kiếp người…Đố kị gian manh thấp khớp
tháo dạ”), tác giả chốt lại khổ thơ bằng hình tượng thiên nhiên: “Tháng ba đầu cành hoa
bưởi còn kia”.
Mô – típ thiên nhiên trong thơ Hữu Thỉnh rất khác mô – típ thiên nhiên trong
những bài hứng cổ điển của Kinh Thi. Mô – típ thiên nhiên trong Kinh thi chủ yếu là yếu
tố đưa đẩy, đóng vai trò như một môi giới hữu hiệu để nhân vật trữ tình bộc lộ tâm trạng,
và tâm trạng này phần lớn không ăn nhập gì sự có mặt của hình ảnh thiên nhiên. Trong
những bài thơ vận dụng cách tổ chức này, yếu tố thiên nhiên trong thơ Hữu Thỉnh có vai
trò rõ rệt trong phần thể hiện tư tưởng chủ đề của bài thơ. Trước những tình thế ảm đạm
của đời sống thực tại, của tình người và tình đời, Hữu Thỉnh vịn vào thiên nhiên, xem
thiên nhiên như một người bạn đáng tin cậy. Đó là ốc đảo duy nhất, nhà thơ cảm thấy
cơn khát của mình có tiềm năng được giải tỏa. Nói như Hoàng Ngọc Hiến: “Anh níu lấy
thiên nhiên, tựa vào thiên nhiên để lấy lại sự bình tâm, sự an nhiên, sự thanh thản” [54].
Đấy là điểm khác biệt nhất mà chúng tôi nhận thấy được trong cách tiếp thu và
vận dụng thể hứng của Kinh thi trong thơ Hữu Thỉnh.
Tựu trung lại, về cách tiếp thu văn hóa, văn học dân gian, Lí Hoài Thu đã đưa ra
những nhận xét rất đáng trân trọng: “Song với sự nhạy cảm của một ngòi bút có kinh
nghiệm, Hữu Thỉnh vừa có ý thức trong việc đi sâu khai thác cái hay cái đẹp của dân
gian, của dân tộc, vừa biết dồn tâm lực, tài năng cho việc tìm kiếm sáng tạo cái mới. Đó
là con đường riêng mà Hữu Thỉnh đã đi qua, đồng thời là đại lộ nghệ thuật cho những ai
muốn khẳng định bản lĩnh, phong cách và tiếng nói nghệ thuật của chính mình” [160].
Như vậy, “với thơ ca dân gian, Hữu Thỉnh tiếp nhận tư tưởng nhân văn, niềm cảm
thông với từng số phận con người, nhưng anh biết gạt bớt đi phần kể lể, thở than và thay
vào đấy sự đong đầy của tâm trạng. Từ điểm nhìn hiện tại, một lần nữa hồn điệu dân
gian được biến tấu và chuyển hóa thành những giai điệu mới mẻ trong thơ anh. Nó mang
theo hơi thở của con người trong thời đại ngày nay” [160, 53].
3.1.2. Ngôn ngữ đời thường.
Bên cạnh việc tiếp thu những tinh túy của văn học, văn hóa dân gian; ngôn ngữ
trong thơ Hữu Thỉnh cũng mang đậm tính chất đời thường. Đây cũng là đặc điểm cơ bản
của ngôn ngữ thơ hiện đại. Trần Đình Sử cũng đã từng khẳng định: thơ trung đại là thơ
trữ tình điệu ngâm, thơ hiện đại là thơ trữ tình điệu nói. Chính đặc trưng điệu nói này đã
cho phép thơ có khả năng dung nạp những khía cạnh ngôn ngữ sinh động và phong phú
của đời sống vào sự thể hiện nghệ thuật của mình. Đây là sự chuyển khoản mang tính
chất âm thầm nhưng đáp ứng được những đòi hỏi chính đáng từ yêu cầu của thời đại..
Thực ra, không phải đợi đến giai đoạn sau 1975 chúng ta mới có nền thơ được xây dựng
trên những yếu tố cơ bản của ngôn ngữ mang tính chất đời thường. Thơ lãng mạn 1930 –
1945, và thơ ca cách mạng 1945 – 1975 cũng đã thể hiện một cách khá trọn vẹn đặc điểm
này.
Nhận xét về sự khác biệt giữa ngôn ngữ thơ giai đoạn 1945 – 1975 và thơ sau
1975, Vũ Tuấn Anh đã đưa ra những suy nghĩ mang tính gợi mở và định hướng vô cùng
hữu ích. Sự lựa chọn ngôn ngữ thơ giai đoạn 1945 – 1975 nhằm để thể hiện và đáp ứng
theo yêu cầu “cảm quan sử thi: hệ thống từ ngữ sáng rõ về nghĩa, thiên về những từ ngữ
có sắc thái mạnh, màu sắc chói gắt, diễn đạt cảm xúc cao trào” [2,151]. Trong khi đó,
ngôn ngữ thơ sau 1975 “dung nạp mọi loại ngôn ngữ, chấp nhận mọi đối cực: các từ tôn
giáo, từ triết học, chính trị đến các từ ngữ thông tục, thậm chí thô tục. Nhằm thể hiện thế
giới nội tâm phức tạp, những cảnh huống éo le, thơ gia tăng các từ có phạm trù rộng
hoặc mơ hồ về nghĩa – những từ ngữ hiếm gặp trong các khúc hát sử thi. Bên cạnh ngôn
ngữ mô tả, diễn đạt, thơ tăng cường ngôn ngữ biểu đạt, ám thị, tượng trưng.” [2, 152].
Trong nhiều sáng tác của các thi sĩ sau 1975, chúng ta bắt gặp màu sắc thô ráp, hay
suồng sã một cách có chủ đích. “Trường từ ngữ của Nguyễn Quang Thiều thô ráp hơn,
gần gũi với cuộc đời đau khổ, phàm tục hơn với tiếng chó sủa, chân gián, đàn kiến, rắn
độ, mùi cá khô, chuồng gà, gái buôn chuyến, xe hàng, đánh giậm, vẩy cá.” [108, 136].
Tập thơ Bụi của Nguyễn Duy là sự chắt lọc một cách khá ấn tượng loại ngôn ngữ
đời thường: “Giọt rơi hơi bị trong veo/ Mắt đi hơi bị vòng vèo thôi lôi/ Chân mây hơi bị
cuối trời/ Em hơi bị đẹp, anh hơi bị nhàu” (Chạnh lòng 1); “Phàm trần bớt chút lung
linh/ Các em bớt xỉnh xình xinh mấy phần” (Kiêng).
Đôi khi các thi sĩ đã can đảm vượt lên trên tất cả những giới hạn. Đối với họ, đây
là những phương trình êm dịu mà tập hợp nghiệm khắc khoải của tâm hồn tìm thấy sự
thỏa mãn trong vùng xác định của yếu tố dung tục, thậm chí tự nhiên chủ nghĩa: “Tôi tự
khoanh vùng mình/ Như con chó đánh dấu lãnh địa bằng nước đái (Khúc chậm, Thanh
Thảo); “Nhớ điên cuồng mùi anh như con bò cái nhớ mùi phân rác” (Hoàng Hưng).
Thơ Bùi Chí Vinh cho chúng ta cảm giác được làm quen với loại ngôn ngữ vỉa hè,
đường phố, hay thậm chí ngôn ngữ mang tính chất bụi bặm, giang hồ: thất tiết, khó chơi,
cao bồi, thất tình, cởi quần, cắn, lồi…Trong thơ tình, Bùi Chí Vinh gọi người yêu, nhân
vật em là: điếu thuốc lá, những chiếc ghế, miếng cá kho, cao su, dây thung, cái ly, cọng
hành, kẹo ngọt, cà rem, dế… “Đôi khi, từ ngữ bị đẩy đến mức thô tục, gây cảm giác
không đẹp: bấu, cắn kiệt, háp háp, oằn oài, trắng bệch (Hoàng Hưng)” [108, 137]. “Các
nhà thơ không e ngại trong việc dùng từ, miễn là gây được ấn tượng và miêu tả được cảm
giác của mình. Do đó các chi tiết của đời sống hằng ngày với các chuyện li hôn, đánh vợ,
tỏ tình kiểu chợ búa được đưa vào thơ một cách xô bồ, ồ ạt đến quá tải. Đến nỗi có nhà
phê bình phải kêu lên: Người ta đưa cả giẻ rách và chổi cùn vào thơ” [108, 137]. Đó là
chưa kể đến sự góp mặt của ngôn ngữ thân thể.
Bên cạnh việc sử dụng loại ngôn ngữ đời sống thường nhật, thơ ca giai đoạn sau
1975 cũng ưa chuộng loại ngôn ngữ mang tính tượng trưng, biểu đạt, ám thị.
“Đây là loại ngôn ngữ thường gặp trong những nhà thơ có xu hướng
cách tân, hiện đại mà tiêu biểu là các cây bút như Lê Đạt, Nguyễn
Quang Thiều…Ngôn ngữ tượng trưng khiến cho nghĩa thơ trở nên
nhòe đi, độ mở của hình tượng thơ được nhân lên. Màu sắc lạ hóa
trong ngôn ngữ thơ trở nên nổi bật (…). Tất nhiên, không phải đến
thơ ca sau 1975, thì ngôn ngữ giàu chất tượng trưng mới xuất hiện.
Ngay từ thơ mới loại ngôn ngữ này đã xuất hiện trong thơ của nhiều
người như Nguyệt cầm của Xuân Diệu, Nhạc của Bích Khê, Màu thời
gian của Đoàn Phú Tứ…Vấn đề nằm ở chỗ, ngôn ngữ giàu chất tượng
trưng sau 1975 mang tâm thế của một hành trình văn hóa khác: văn
hóa công nghiệp và hậu công nghiệp.” [31].
Chẳng hạn, thơ của Nguyễn Quang Thiều: “Trên cánh đồng mênh mông, cỏ không
đặt ra nghi lễ bốn mùa/ Tôi trở về tìm nơi không có tiếng cười, không có bóng cây/ Bền
bỉ hơn sự lặng im, lưỡi cày từ tháng giêng thuở trước/ Dựng lên những luống đất của cơn
mơ, người lạ đến gieo trồng” (Độc thoại).
Đặc biệt, một số nhà thơ còn đưa vào thơ ca loại ngôn ngữ tính dục, mà trong một
chừng mực nào đó, rất dễ khơi dậy cảm giác kinh hãi hay phản cảm: “Ai đi sương, tóc
dạ, lông chim/ Những tiếng dài rộng, gió và cây, nhà, khối/ Tượng, đá hoa, sương/
Tường vắng, khe, lông…” (Hoàng Hưng). Một số tác giả lại ưa thích cách vận dụng triệt
để yếu tố ngữ âm để tạo nên những vùng mờ tối của ngữ nghĩa. Chúng ta thường bắt gặp
sự lạ hóa ngôn ngữ này trong thơ của Lê Đạt và Dương Tường. Chẳng hạn: “Em về phố
lặng/ lòng đổ chuông/ llềnh llềnh nước/ llinh/ lloang/ lloang llưng/ lliêng llinh lluông
lluông buông boong/ ad llibition” (Noel 1, Dương Tường)
Ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh không chạy theo mốt hình thức bề ngoài theo kiểu ngữ
âm xa lạ và có phần đánh đố này, cũng không chấp nhận dung nạp loại ngôn ngữ thân thể
trong những bài thơ tình, càng không yêu thích loại ngôn ngữ ám thị, tượng trưng. Hữu
Thỉnh vẫn dùng thứ ngôn ngữ của đời sống hằng ngày những không để nó rơi tự do vào
đại dương của sự suồng sã hay thô tục một cách không che đậy. Ở đây, những từ ngữ này
hầu hết mang tính nết trong sáng được thoát thai trực tiếp từ đời sống thường nhật của
chúng ta, không chỉ ở dạng thức từ vựng mà còn ở cả cách diễn đạt. Và một điều dễ nhận
thấy, những từ ngữ mang tính cách khẩu ngữ thường xuyên được đặt vào đơn vị câu
mang đậm phong cách ngôn ngữ sinh hoạt: “Mẹ tôi đã già rồi/ Đời không ai biết cả”
(Tôi bước vào thành phố); “Chiếc vó bè đã đặt xuống rồi” (Chiếc vó bè); “Ta đâu có đề
phòng từ phía những người yêu” (Tự thú); “Em chưa đứng chợ đen/ Kiếm ăn bằng lừa
đảo”… “Bạn cũ đến chơi nhà/ Chưa theo kiểu hợp đồng hai chiều”… “Uống nước còn
biết tự xấu hổ/ Chưa hất cặn sang mặt người khác” (Một ngày); “Làm sao được rượu
hoa thường ít/ So với chia ly gian dối, dập vùi” (Chạm cốc với Xa – In).
Nhận xét về hành trạng của ngôn ngữ đời thường trong thơ Hữu Thỉnh, Nguyễn
Nguyên Tản cho rằng: “Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ rất giỏi đưa ngôn ngữ
đời thường vào trong thơ. Nhưng cần phải nói cho cụ thể hơn, những từ ngữ dân dã vốn
giàu hình ảnh và gợi cảm được tác giả sử dụng một cách thành thục” [130, 141].
Trong trường ca Hữu Thỉnh, hiện tượng này để lại dấu ấn vô cùng rõ nét. Một tần
số cực lớn những dòng thơ có chứa những từ ngữ dân dã xuất hiện: Trận đấu mở đầu
bằng bóc vỏ, vách đá hoa canh cửa xòe nan quạt, Kim nhể gai kim càng phải nhọn, Gió
cát lùa ngang trắng áo quần, Con đò vớt lên phù sa đong một nửa, Quả buông nhủng
nhẳng xuống bờ ao, anh vì thế mà yêu thêm ngọn cỏ, Mọc bơ thờ bên chốt giáp ranh, Họ
tên anh cả ngày tháng năm sinh, Giặc đánh cắp để loan tin báo tử, Chúng ép anh từ hai
phía chiến trường, Quần áo tướp ra, Cứ sấn lại; Ta sẽ loay hoay thổi nấu giữa trời,
tiếng thạch thùng tiểu đội bấm chân nhau. Trận đấu bắt đầu từ phía sau cánh cửa. Có
dấu vôi mẹ quệt lúc ăn trầu; Hạt thóc nhằn ấm cả đêm suông, Lá thư chữ đứng chữ
ngồi, Đá bay ném cắc trên cành / Đèn câm ngọn bấc thành hầm mông lung ; Chúng nó
cần nơi ăn nhậu lai rai, Chị cố làm ra vẻ lẳng lơ / Thắt vạt áo trước bao lời dị nghị
(Đường tới thành phố); Sương tan sơm sớm nắng trời rộ mau; Căn hầm đất sụt sùi dây
cháy chậm; Trưa đem cơm sâm sẫm cưỡi trâu về; Lặng lẽ đặc công vào lót ổ, Lao vỗ
mặt kẻ thù; Trâu đàn lại gánh tua rua đi cày; Lúa đồng mình mỏi mắt vẫn chưa hoe; Sắn
độ này lên giá quẫy tòng teo (); Mẹ đỡ lo thấp thỏm đôi bề; Sáng úp mặt ngoài đồng/
Chiều còng lưng cuốc đất; Lũ chuột đồng chép miệng trong hang, Chiếc nón mê tha
thủi giữa đồng,…
Chúng ta hoàn toàn không ngạc nhiên trước một thực tế rằng: ngôn ngữ thơ hiện
đại phát triển theo hướng mở rộng sự dung chứa những từ ngữ xuất thân từ đời thường,
mang dáng dấp khẩu ngữ như là một sự làm giàu cần thiết trong các phản ứng nhiệt hạch.
Nhiều nhà nghiên cứu thơ Hữu Thỉnh đã không ít lần gặp nhau trong một nhận xét duy
nhất mang tính tổng kết về đặc điểm ngôn ngữ thơ của tác giả: tính dân tộc và tính hiện
đại kết hợp một cách nhuần nhị. Sự kết hợp này là phần thu được dưới hiệu quả bất ngờ
đến từ cú pháp và cảm xúc thể hiện. Và trong những con đường mang đậm dấu ấn cá
nhân ấy, sự giản dị, mộc mạc của ngôn ngữ đời thường trở thành một trong những cách
thức tinh tế để có thể tạo dựng nên nơi độc giả cảm giác hài lòng khi tiếp xúc với lớp vỏ
ngôn ngữ mang đậm tính tạo hình và gợi cảm ấy. Đấy cũng là môi trường áp suất thuận
lợi cho sự ngưng tụ của các câu thơ mang những đặc tính thu hút có chất lượng bằng
cách lột xác của các từ ngừ thuộc đẳng cấp bình dân. Chẳng hạn như: Chớp nhì nhằng lô
– cốt méo bên sông (Chuyến đò đêm giáp ranh), Ve vẫn kêu úp mặt vào cây/ Không
sương sớm để cho lòng lẫng bẫng, Máu anh bỏng xuống núi ngàn/ Đời anh treo một
dấu than giữa trời, Câu kinh rơi giữa hai hàng dân vệ, Con gà trống cù kì bân vại
nước,…
Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong không ít trường hợp, do quá say mê chạy theo nội
dung biểu đạt, Hữu Thỉnh đã có phần không lưu tâm nhiều đến sự có mặt trên mức độ
cho phép của ngôn ngữ hay cách nói bình dân. Hệ quả chính thức của điều này là những
câu thơ không khác xa mấy những lời “trần tình”, lời kể, lời thuật lại một cách hết sức
chân phương đến nỗi không thể không khiến người ta có cảm giác đứng trước những lời
nói bình thường hơn là những câu thơ thật sự: “Tôi đã ở sáu năm/ Trên triền đồi Gia
Cẩm/ Nhà tập thể nửa gian/ Chưa bận con, ở tạm” (Thành phố bạn bè).
Việc sử dụng một cách dày đặc và thường xuyên loại ngôn ngữ này đã làm phát
sinh một hệ quả dễ hiểu: rút ngắn ranh giới đáng kể ranh giới giữa ngôn ngữ nói và ngôn
ngữ thơ ca, nếu không muốn nói, trong nhiều trường hợp lằn ranh này đã không tồn tại
nữa. Chẳng hạn như: “Nửa gian rồi một gian/ Dây phơi ngày mỗi chật/ Nội, ngoại đều ở
xa/ Bạn bè thương Thỉnh vất” (Thành phố bạn bè); “Nguyễn Du viết Kiều hơn hai trăm
năm (…) Lép Tôn – tôi viết chiến tranh và hòa bình/ Với hi vọng đó là cuộc chiến tranh
cuối cùng trên trái đất” (Mười hai câu).
Nhiều bài thơ nơi mà ngôn ngữ nói có dịp bành trướng một cách vô độ vai trò thủ
lĩnh của mình trong việc biểu đạt nội dung tư tưởng, đã làm thơ Hữu Thỉnh yếu đi chất
thơ rất nhiều, làm lũng đoạn và nhiễu đi khá nhiều giá trị nghệ thuật chung cuộc mà
người ta có thể chờ đợi ở một nhà thơ. Chẳng hạn như: “Xe máy rú rồ dại/ Chậu kiểng
biến thành vật lót tay/ Hè phố bị hắt nước loang lỗ/ Càng cố chứng minh là kẻ vô can/
Càng thấy mình là nạn nhân kế tiếp” (Bất hạnh); “Đáng tiếc họ phải nộp thuế thu nhập
cao/ Dù hoa sữa lúc đầu không muốn thế” (Giải thích).
3.2. Giọng điệu:
Trong mỹ học phương Đông, khái niệm giọng điệu đã được chú ý từ rất lâu. Cố
nhiên, vào thời điểm đó, khái niệm này chưa xuất hiện với tư cách một tên gọi hoàn chỉnh
và ổn định. Nó tồn tại trong những dạng thù hình mang màu sắc đồng đẳng như: văn khí,
điệu văn, hơi văn,…Như vậy, như nhiều nhà nghiên cứu đã từng khẳng định: khí, tình,
điệu là hạt nhân cơ bản, cốt lõi làm nên giọng điệu. Ngược lại, giọng điệu cũng đóng vai
trò của một nhân chứng nghịch dị trong việc chứng minh bằng phản chứng để sát hạch
dung mạo, tính cách người cầm bút. Luận về văn chương, Nguyễn Đức Đạt từng viết:
“Văn thâm hậu thì con người của nó trầm mà tĩnh, văn ôn nhu thì con người của nó ôn
mà hòa; văn cao khiết thì con người của nó đạm mà giản; văn hùng hồn thì con người
của nó cương mà nhanh; văn uyên sâu thì con người của nó thuần túy mà đúng đắn” [39,
189].
Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long cũng nhấn mạnh phong thái, cốt cách và thần
khí của người sáng tác: “Văn cần có cốt cách cũng như thân thể người ta có bộ xương.
Tình cảm của ta chứa đựng sẵn cái phong cũng như hình hài ta chứa đựng cái khí chất
vậy” [55, 197].
Giọng điệu cá nhân của mỗi tác giả và giọng điệu chung của thời đại luôn tìm thấy
nhau trong mối liên lạc hữu cơ. Trong đó, giọng điệu cá nhân luôn có thói quen để lại
những bằng chứng về sự ảnh hưởng của giọng điệu thời đại và về phần mình, giọng điệu
thời đại trở nên giàu có và phong phú hơn nhờ sự đóng góp âm thầm đó. Nếu trong một
tác phẩm văn học, nhịp điệu là ông chủ chỉ huy guồng máy vận hành của giọng điệu qua
đó thể hiện một cách trung thực lập trường, thái độ, tình cảm của nhà thơ, thì giọng điệu
chính là trái tim, là linh hồn và thần khí của tứ thơ đã được thăng hoa qua lăng kính chủ
quan của người nghệ sĩ. Được phôi thai từ những ADN nền tảng là cá tính sáng tạo của
tác giả, được choàng lên vai chiếc áo khoác mang tính chủ quan và thường trùng khít,
tương hợp với ý đồ sáng tác; giọng điệu thơ trữ tình có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến các
yếu tố hình thức qua các phương tiện: sự lựa chọn thể loại, xây dựng nhịp tác phẩm, khả
năng điều tiết các thủ pháp nghệ thuật (sử dụng hình ảnh, gieo vần, dùng từ,…).
Đây cũng là điều nằm trong sự lưu ý của Khrapchenko đối với chúng ta: “Đề tài,
tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng điệu nhất định, trong
phạm vi của một thái độ xúc cảm nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt
khác nhau của nó” [77, 167].
Theo dõi những cử động của giọng điệu, Khrapchenko cũng lưu ý rằng bên cạnh
giọng điệu chủ yếu là các sắc điệu khác bao quanh nó với tư cách “bè”, “đệm”, nhằm tạo
ra sự phong phú của tác phẩm. Trong công trình kinh điển khảo sát về thi pháp tiểu
thuyết phức điệu của Dostojevski, M. Bakhtin, bên cạnh việc đem lại những tri thức bổ
ích chưa từng thấy trong lĩnh vực phân tích tiểu thuyết, còn nới rộng tầm ảnh hưởng sâu
rộng của mình sang cả việc lí giải giọng điệu thơ trữ tình.
Ngày nay, lí luận văn học nói chung xem giọng điệu như là lập trường, thái độ,
tình cảm, đạo đức của nhà văn đối với các hiện tượng được mô tả trong lời văn và khả
năng huy động các biện pháp nghệ thuật làm nổi bật giọng điệu cũng như góp công
không nhỏ trong việc gầy dựng nên phong cách cho nhà văn: “Giọng điệu phản ánh lập
trường xã hội, thái độ, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn trong
việc tạo nên phong cách cho nhà văn và có tác dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu
một giọng điệu nhất định nhà văn chưa thể viết ra một tác phẩm mặc dù đã có đủ tài liệu
và sắp xếp xong hệ thống nhân vật” [46, 134].
Nhận định về sự khu biệt trong khía cạnh giọng điệu giữa hai giai đoạn thơ ca: thơ
cách mạng 1945 – 1975 và thơ sau 1975, Vũ Tuấn Anh cho rằng:
“Tư thế trữ tình, cảm hứng chủ đạo, góc độ giao tiếp qui định giọng
điệu thơ. Tư thế đứng cao, cảm hứng anh hùng tạo giọng điệu hào
sảng của thơ giai đoạn chống Mỹ. Tư thế cái tôi trữ tình của thơ sau
1975 là một tư thế cá nhân giữa mọi người, chia sẻ tâm tình về những
vấn đề nhân sinh, thế sự riêng tư. Giọng thơ nhỏ nhẹ trầm lắng, tạo sự
lan truyền nội tâm. Thơ đa dạng về giọng điệu, tùy thuộc vào góc nhìn
và các cung bậc tình cảm của cái tôi chủ thể. Có giọng tự sự khách
quan, giọng băn khoăn – triết lí, giọng kể việc lạnh lùng mà chất chứa
nỗi đau nội tâm, giọng phẫn nộ, giọng trầm tư, giọng giễu cợt hài
hước…Nhìn chung thơ chuyển từ giọng hát sang giọng nói bình
thường.” [2, 150].
Hữu Thỉnh là một trong không ít nhà thơ trải qua cả hai giai đoạn thơ ca này. Điều
đó, giải thích lí do của sự hiện diện hiển nhiên của những dấu chỉ đặc trưng của thời đại
trong thơ tác giả này như là một sự tập kết tất yếu.
Trong giai đoạn sáng tác trước 1975, giọng thơ Hữu Thỉnh không nghiêng về phía
cung bậc chính luận hay hào sảng một cách nồng nhiệt. Ông được biết đến như một chất
giọng nghiêng về phía trữ tình một cách đằm thắm. Bóng mát này không vụt tắt ở giai
đoạn sau của sự nghiệp thơ ông. Hơi thở của nó vẫn được duy trì dù trong một biên giới
tuy chật chội hơn. Nếu trước 1975, đó là giọng điệu trữ tình của cái tôi trữ tình công dân
gắn liền với những tâm trạng của cộng đồng, đất nước; thì giai đoạn sau 1975 là giọng
điệu trữ tình của cái tôi trữ tình cá nhân mà bạn đường của nó không gì khác hơn những
tài sản trên giác độ riêng tư của con người.
Đây cũng là điều mà Nguyễn Nguyên Tản đã khẳng định trong chuyên luận của
ông: “Thơ Hữu Thỉnh trước đây mạnh về tình nghĩa, thuyết phục mạnh mẽ bằng sự đồng
cảm thì nay mạnh về sức khám phá tư tưởng, đề xuất những tiêu chí mới cho cuộc sống.
Trước đây mạnh về tình thì nay mạnh về triết lí” [130, 63]. Ở một chỗ khác, ông cũng
cho rằng: “Thơ Hữu Thỉnh giai đoạn trước có thiên hướng tạo hình, yếu tố tự sự kết hợp
chặt chẽ với yếu tố trữ tình (…).Thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sau nặng về biểu hiện, yếu tố
tự sự bị trữ tình lấn át (…). Thơ giai đoạn trước nặng về mô tả trần thuật; giai đoạn sau
có thiên hướng triết lí, suy tư”. [130, 65].
3.2.1. Giọng điệu tâm tình:
Nhận xét về giọng điệu của Hữu Thỉnh trong trường ca Đường tới thành phố, Đào
Thái Tôn cho rằng:
“Nếu Thanh Thảo trong trường ca của mình cho bạn đọc một cách
nói mới, thậm chí táo bạo trong thơ so với trước đó – một cách nói
thông minh táo bạo làm người đọc có cảm giác rằng khi anh viết, anh
nghĩ rồi mới cảm thì Hữu Thỉnh dân dã, đằm thắm, mượt mà và thủ
thỉ như quê mùa làm cho người đọc cảm nhận ít khi qua khâu nghĩ
ngợi. Nếu Thanh Thảo hát bè cao thì Hữu Thỉnh hát bè trầm” [135].
Nguyễn Trọng Tạo cũng có nhận xét tương tự về giọng điệu thơ Hữu Thỉnh:
“Nếu như hồn thơ Thanh Thảo là những tia chớp từ trên trời xuống thì hồn thơ Hữu
Thỉnh là sự xum xuê của cây cối từ dưới đất lên” [131]. Và ông cũng cho rằng: “Chính
cái giọng nhà quê ấy đã tạo nên thần sắc cho thơ Hữu Thỉnh” [131].
Trong phần trình bày về con người đồng cảm trong thơ Hữu Thỉnh (nằm trong
công trình Thi pháp thơ Hữu Thỉnh [130]), Nguyễn Nguyên Tản đã kết luận: “Hành
trình thơ Hữu Thỉnh là hành trình đi tìm mẫu số chung của sự đồng cảm, là hành trình đi
tìm tri âm, tri kỉ, nhưng rõ ràng nhất ở mảng thơ viết về chiến tranh” [130, 19]. Đây
cũng là điều mà chính Hữu Thỉnh đã có lần tâm sự:
“Tôi và bạn bè trong lớp các nhà thơ chống Mỹ chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ những nhà thơ cách mạng lớp đầu và các nhà thơ kháng chiến
chống Pháp. Như là sự sắp đặt lịch sử về sau này, hành trình thơ của
chúng tôi cũng giống các anh. Bối cảnh thì khác, qui mô và tính chất
ác liệt cũng khác, nhưng tinh thần dấn thân và nhập cuộc vẫn là một.
Một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa chủ thể sáng
tạo và khách thể thẩm mỹ. Nói gọn, trong một anh bộ đội có một thi
nhân…Nhập cuộc và hành động có đòi hỏi phải hi sinh gì không? Đó
là vụn vặt, quẩn quanh, lạc điệu và nguy cơ cạn kiệt tâm hồn (…)
Nhập cuộc và hành động được gì? Rất nhiều: Cả một đời thơ. Cuộc
sống cho anh bao nhiêu thứ, kể cả sự đào luyện nghiêm khắc để anh
có thể trở thành “con của vạn nhà” đã là cái được lớn, chiến lược
cho cả đời thơ”[150].
Quan niệm trên của Hữu Thỉnh phần nào trùng khít với câu nói nổi tiếng của Paul
Eluard: “Thơ làm cho con người đi từ chân trời của một người đến chân trời của nhiều
người” hay gợi nhớ một cách trực tiếp đến luận điểm của E. V. Ku – rốp trong quyển
Dẫn luận nghiên cứu văn học:
“Nhà thơ trữ tình là sự thống nhất trong hai con người. Thứ nhất: là
một người có số phận nhất định, kinh nghiệm sống nhất định, những
tâm trạng và quan điểm nhất định. Thứ hai là nhân vật của chính
những bài thơ của mình. Việc biến những nét nhân cách của nhà thơ
thành hình tượng nhân vật trữ tình là thuộc tính quan trọng nhất của
trữ tình” [110, 330].
Dựa vào những tiền đề lí luận và thực tiễn trên, Nguyễn Nguyên Tản tìm thấy lối
đi khác khi ông dựa hẳn vào quan niệm nghệ thuật về con người của Hữu Thỉnh, cụ thể
hơn, con người tâm sự để giải thích nguồn gốc cũng như biểu hiện của giọng điệu tâm
tình trong thơ Hữu Thỉnh. Cách tiến hành của Nguyễn Nguyễn Tản được đảm bảo qua hai
khía cạnh: con người tâm sự với tư cách là hình ảnh của chính tác giả - nhân vật trữ tình
tự thuật tâm trạng của chính mình và con người tâm sự trong vai trò nhân vật trữ tình
nhập vai.
Như vậy, các ý kiến trên dù khác nhau về thời điểm và ngôn ngữ diễn đạt, song
cũng tồn tại một điểm chung dễ nhận thấy: đều khẳng định giọng điệu của Hữu Thỉnh
nghiêng về phía tâm tình, giãi bày, hay nói một cách chính xác và đầy đủ hơn, tâm tình
một cách ngọt ngào, trầm lắng.
Chất giọng này giữ vai trò chủ đạo trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sáng tác trong
chiến tranh (Âm vang chiến hào và Tiếng hát trong rừng) và xuất hiện song song với
giọng suy tư, triết lí trong hai tập Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian.
Trong Âm vang chiến hào và Tiếng hát trong rừng, chất giọng tâm tình giữ vai trò
chủ đạo và gần như thống ngự về mặt giọng điệu thơ của Hữu Thỉnh. Những dòng thơ
hay nhất và xúc động nhất tác giả viết về người lính, về người mẹ, về cuộc chiến tranh,…
là những dòng thơ được nâng đỡ hết sức tận tụy của chất giọng tâm tình. Chúng ta hoàn
toàn có đầy đủ lí do để cam đoan rằng sự nhìn nhận trên không hề đi chệch hướng với
những điều chúng ta hằng khắc khoải đi đến sự khẳng định.
Trước hết, chúng ta thấy rằng nhân vật trữ tình trong trường hợp này thường đại
diện cho tập thể những người chiến sĩ trực tiếp bày tỏ, trần tình về hoàn cảnh của mình
trên những gian lao mà họ đã từng đi qua trong đời lính của mình, hay giãi bày những
tâm tư, tình cảm. Nhân vật trữ tình xưng “tôi”, “con”, “anh”, bộc bạch về bản thân,
ngẫm nghĩ về tình yêu trong thời chiến, tình cảm với mẹ, với quê hương: “Anh viết cho
em những ý nghĩ không vần/ Đường trường sơn khúc khuỷu” (Ý nghĩ không vần); “Con
lại ngồi vào chiếc chõng tre xưa/ Nơi mẹ vẫn ngồi khâu, cha thường chẻ lạt” (Ngôi nhà
của mẹ).
Dưới sự chăn dắt của giọng điệu này, Hữu Thỉnh đã viết nên những vần thơ đầy
chân thực và cảm động. Chẳng hạn, các bài: Ngã ba chân vạc, Trên cao điểm mùa xuân,
Kỷ niệm về bữa cơm ăn đứng, Người làm đường, Đêm chuẩn bị, Giấc ngủ trên đường ra
trận… (“Khi khẩu pháo đã đứng trong công sự/ Cành ngụy trang mang bóng mát lên
cao/ Chúng tôi nhìn tay nhau: hai tay đều rợp bỏng/ Chúng tôi nhìn vai nhau: đỏ bầm
máu đọng” (Trên cao điểm mùa xuân), “Ta nhìn lên trời, trời dậy khát khao/ Ta đi trong
rừng, rừng nuôi ta dài rộng/ Mẹ dõi theo ta thức khuya dậy sớm/ Nắm cơm chiến hào xúc
động quá, sao mai!” (Đêm chuẩn bị)).
Chất giọng tâm tình ngọt ngào được bổ trợ, đảm bảo một cách chắc chắn bằng sự
góp mặt của yếu tố kể lể, tự tình mang đậm tính liệt kê, phân trần. Khi nói về một vấn đề
nào đó, nhân vật trữ tình thơ Hữu Thỉnh đều ưa thích cụ thể hóa những tính chất, đặc
điểm thật sinh động và chân thực của đối tượng. Chính điều này đã kiến tạo nên cái được
gọi là “đằm thắm, mượt mà và thủ thỉ” (theo cách nói của Đào Thái Tôn).
Nguyễn Nguyên Tản cho rằng chất giọng tâm tình này là kết quả của quan niệm
nghệ thuật về con người, cụ thể là dạng thức con người – tâm sự trong thơ Hữu Thỉnh:
“Thường xuyên và liên tục hướng đến mọi người, mọi vật để bày tỏ, bộc lộ tâm tư là một
đặc điểm nổi bật trong tư duy thơ Hữu Thỉnh” [130, 28]. Và“con người – tâm sự thường
tìm cách biểu đạt lòng mình qua rất nhiều câu hỏi, câu cảm. Những mến yêu, trăn trở
của lòng anh theo đó được bộc lộ một cách rõ ràng, dứt khoát thể hiện thái độ tin yêu
thiết tha cuộc đời và con người của người chiến sĩ cầm súng” [130, 33]. Do đó, hệ lụy dễ
hiểu của biểu hiện này là sự góp mặt của hàng loạt các cụm từ cảm thán: trong trẻo quá,
hồn hậu quá, xúc động quá, chiến tranh nhiều quá…(Những năm tháng Trường Sơn bạn
bè trong trẻo quá, Sao ta nhớ những ai đang ở đâu! (Tiếng hát trong rừng), Ta yêu mình
tan nát bởi mình ơi! (Tự thú), Một đời người mà chiến tranh nhiều quá!...Nhưng không
phải em ơi, cuốc kêu không phải thế! (Nghe tiếng cuốc kêu),…
Vì thiết tha tâm tình nên trong thơ và trường ca Hữu Thỉnh không thể vắng bóng
nhân vật đối thoại. Nhân vật này khá đa dạng qua rất nhiều hô ngữ: “Em ơi em, Em thấy
không?, Em có nghe thấy không?, Em ở đâu?, Em à, Em ấy, Em có thấy, Em nhỉ, Thưa
mẹ, Mẹ có ra bờ sông?, Bạn ơi, Hoàng ơi!, Vũ ơi!, Vân ơi! Thu ơi thu, Mùa ơi!...Song Tử
đâu?, Nam Yết đâu?, Sinh Tồn đâu?, Đồng bằng!, Tổ quốc!, Đất ơi! Sao mai!…Những
lời hô gọi đó thật là nhiều vẻ, không chỉ có tác dụng xác định rõ chủ thể trữ tình đang
tâm sự với ai, với cái gì mà còn có tác dụng xóa bỏ khoảng cách không gian và thời gian
làm cho mọi người, mọi vật càng trở nên thân thương, gần gũi”. [130, 22].
Chẳng hạn trong trường ca Hữu Thỉnh: Em ơi em, em là biển đời anh (Đường tới
thành phố), Ta chưa một lần thư thả đất ơi! (Sức bến của đất), Rong rêu nhiều mà mất
bạn/ Bạn ơi! (Trường ca Biển)…Trong thơ trữ tình ngắn: Đi trong mây anh thấy ấm em à
(Đi trong mây), Trời thu xanh và giàn mướp hoa vàng/ Thưa mẹ/ Những năm bom rơi
con không thể có” (Bầu trời trên giàn mướp),..
Chất giọng tâm tình đã chi phối một cách mạnh mẽ đến kết cấu và mạch đập trữ
tình trong thơ và trường ca của tác giả. Chẳng hạn, tất cả chương II của trường ca Biển
(Tự thuật của người lính) là cuộc độc thoại về chính cuộc đời của tác giả. Trong thơ trữ
tình ngắn, “nhiều bài thơ trong Tiếng hát trong rừng ghi lại tâm tình của nhà thơ với một
người: Với em (Đi trong mây), Ý nghĩ không vần, Gửi từ đảo nhỏ, Trở lại mùa xuân; với
mẹ (Ngôi nhà của mẹ, Bầu trời trên giàn mướp). Nhiều bài trong Thư mùa đông có dấu
hiệu của lời bộc bạch, tâm sự ngay từ tên gọi (Lời thưa, Tự thú, Hỏi, Em còn nhớ chăng,
Thư mùa đông, Chăn – đa em ơi!, Tôi bước vào thành phố…” [130, 25].
Không chỉ tìm đến con người để chia sẻ tâm tư, nhân vật trữ tình còn tìm đến với
cả thiên nhiên. Đây là “tư tưởng đồng hóa thế giới” theo cách nói của Nguyễn Nguyên
Tản: “Con người tâm sự thường đồng nhất suy tư của mình với những vui buồn, ấm lạnh
của sự vật xung quanh, và nhiều khi nó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ tâm tình” [130, 26].
Đặc điểm này thể hiện vô cùng đậm nét trong trường ca, chẳng hạn: Lửa vun cao vách
đất nóng người/ Đang ấm lại bao nỗi niềm để ngỏ/ Tiếng suối đổ hãy nghe suối đổ/ Chảy
cồn cào ngang dọc mỗi tâm tư” (Đường tới thành phố).
Đề tài chủ yếu của chất giọng tâm tình trong sáng tác trong chiến tranh của Hữu
Thỉnh là: người lính, người mẹ, quê hương, đất nước và tình yêu. Trong đó, sự dàn trải là
điều dễ nhận thấy. Tất cả những đối tượng miêu tả này đều được ưu ái và đặt cách trong
những ân huệ đặc biệt mà qua đó những tình cảm chân thực và xúc động được khai sinh
và nhận diện. Và một đặc điểm khá quan trọng khác, về mặt cảm xúc, chất giọng tâm tình
được hun đúc và đảm bảo tuyệt vời bằng sức mạnh của yếu tố lãng mạn, nói chính xác
hơn là cái nhìn lãng mạn, cảm hứng lãng mạn cách mạng. Chẳng hạn về đề tài người
lính, Hữu Thỉnh nói nhiều về hoàn cảnh chiến trường, về những khó khăn, thiếu thốn
nhất định về vật chất và mức độ khắc nghiệt của chiến trường… Nhưng những yếu tố ấy
được soi rọi và nâng đỡ bằng cái nhìn lãng mạn, lạc quan đối với hiện thực. Họ không hề
nản lòng trước thực tại, không chùn bước trước điều đó. Ở đây, tính chất lạc quan cách
mạng đã giúp họ vượt lên trên những giới hạn hoàn cảnh:
“Mặc bom Mỹ cắn vào đêm mơ mơ mộng
Con suối dài cứ hát để đi xa”
(Giấc ngủ trên đường ra trận).
Trong hai tập thơ sáng tác ở giai đoạn sau, như đã trình bày ở trên, chất giọng tâm
tình này tồn tại song song với giọng suy tư, triết lí. Đó là hệ quả dễ hiểu. Bởi hai chất
giọng ấy tiêu biểu và là những đại diện ưu tú cho hai dạng cảm hứng: thế sự và trữ tình.
Trong đó, mỗi loại với vai trò cụ thể, phụng sự một cách trung thành cho ông chủ của nó.
Về mặt khách quan, giọng điệu tâm tình trong giai đoạn sáng tác sau chiến tranh
của Hữu Thỉnh không giữ vai trò chủ đạo trong thơ ông như phần lịch sử mà nó đã tạo
dựng được trong thời gian trước đó. Nói khác đi, cảm hứng trữ tình đã phần nào lui dần
vào thế yếu. Điều này không xảy đến như là một sự ngẫu nhiên êm dịu, mà hoàn toàn bị
chi phối bởi sự thay đổi sâu sắc về quan niệm nghệ thuật của thời đại.
Giọng điệu tâm tình trong sự đối sánh với chất giọng suy tư, triết lí đã phải thay
đổi rất nhiều phạm vi ảnh hưởng của mình trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sau. Và ngay
trong bản thân giọng điệu này cũng có những sự thu mình một cách thầm lặng của các đề
tài. Vẫn là những đề tài quen thuộc ấy, nhưng sức nặng và biên độ quyền lực của chúng
đã có sự cải tổ nhỏ. Ta nhận thấy rằng, đề tài tình yêu được Hữu Thỉnh quan tâm hơn cả
so với phần còn lại của sự đối chiếu.
Nhìn một cách tổng thể, giọng điệu trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sáng
tác sau chiến tranh chịu ảnh hưởng của cái nhìn hiện thực nhiều hơn cái nhìn lãng mạn.
Theo chúng tôi, điều này bắt nguồn từ cách nhìn nhận hiện thực chung của thơ ca sau
thời kì đổi mới. Với nền văn học nói chung và thơ ca nói riêng, hiện thực không còn
mang màu sắc lấp lánh một cách dễ dãi như ở giai đoạn trước, mà trở nên thực hơn, chân
xác hơn như chính những gì thuộc về bản chất cố hữu của nó. Tất cả những gì chúng ta
chờ đợi và hết mực tin tưởng vào sự thực thi là hiện thực sinh động và chân thực của
cuộc sống và tâm hồn con người, mà trước đó, trong lịch sử văn học của một giai đoạn
khá dài, chúng vắng bóng một cách tất yếu theo quy định dễ hiểu của lịch sử và thời đại.
Có thể nói, cảm hứng sử thi và lãng mạn cách mạng là hai dạng cảm hứng lớn nhất, tiêu
biểu nhất, bao trùm nền văn học chống Mỹ (1954 – 1975), và thậm chí rơi rớt lại ở những
năm trước đổi mới.
Và đây cũng là điểm khác biệt cơ bản nhất của chất giọng trữ tình trong thơ Hữu
Thỉnh ở hai giai đoạn sáng tác. Chính sự khác biệt về mặt cảm hứng đã thai nghén nên
những khác biệt cơ bản về chất khác của phạm vi đề tài được nói đến.
Người lính trong cuộc chiến tranh, được nhìn nhận chủ yếu qua cảm hứng lãng
mạn cách mạng. Đến đây, cái nhìn này đã chuyển sang hiện thực một cách rõ nét. Họ
không còn được nhìn nhận như những người anh hùng hiên ngang của thời đại nữa, mà
được đặt trong mối quan hệ xã hội của một con người xã hội bình thường. Họ cũng có
bao nhiêu vấn đề lo toan bao nhiêu khó khăn, vất vả cần được giải quyết của cuộc sống
thường nhật. Đây là điểm gặp gỡ dễ thấy của những dòng thơ viết về người lính của Hữu
Thỉnh trong giai đoạn này với các tác giả khác.
Người lính sau chiến tranh trong thơ Hữu Thỉnh gặp nhau ở một điểm: họ đều là
những con người lao động bình thường, thậm chí vô danh trong cuộc sống đời thường.
Niềm vui của họ vô cùng giản dị. Người lính gỡ mìn trong mấy phút nghỉ ngăn ngủi
ngước mắt nhìn: “mây tê tê, một dải vắt ngang trời”/ “ngón tay lấm nghỉ ngơi trên điếu
thuốc”, còn người thợ lặn “giật mình sửng sốt, khi lên bờ bắt gặp lá tre non”.
Chất giọng tâm tình này cũng đem lại những khác biệt rõ nét trong đề tài thơ tình
yêu đôi lứa. Trong chiến tranh, cái tôi yêu của thơ tình của Hữu Thỉnh chủ yếu được đặt
trong mối quan hệ với cái ta, với cái chung của cộng đồng, dân tộc, đất nước, và ít nhiều
bị chi phối bởi quyền lợi lớn lao của dân tộc. Như những sáng tác cùng thời khác, tình
yêu cá nhân này luôn được kìm nén lại để phục vụ một cách có hiệu quả cho lí tưởng lớn
lao của thời đại. Và nhìn chung, giọng điệu tâm tình về đề tài này vẫn chịu sự ảnh hưởng
và chi phối nồng nhiệt của cảm hứng lãng mạn cách mạng.
Thơ tình giai đoạn sáng tác sau chiến tranh của Hữu Thỉnh chủ yếu xoáy sâu vào
cái tôi cá thể của nhân vật trữ tình. Nói một cách cụ thể, đó là quan hệ tôi – em. Tuy
nhiên, điều quan tâm nhất của Hữu Thỉnh không phải là trình bày một cách chân thực và
sinh động những cung bậc, biểu hiện thật cụ thể tình yêu. Điều trở thành nỗi ám ảnh lớn
lao và xuyên suốt trong thơ tình Hữu Thỉnh giai đoạn này là ám ảnh vỡ mộng của những
giấc mộng đêm hè, là nỗi đau của những chàng Véc – tơ. “Cái vui của Hữu Thỉnh cũng
là cái vui hụt, âm bản của nỗi buồn” [52]. Trong thơ tình, bên cạnh cảm giác cô đơn tràn
ngập, ta còn bắt gặp sự lặp đi lặp lại của yếu tố tan vỡ, lỡ làng, cách trở… mà con người
phải gánh lấy như một phần của giá trị thặng dư trong đời sống tình cảm. Có thể kể ra
đây hàng loạt những bài thơ mang âm hưởng này như: Ước, Hoa tặng, Sắm tết, Đất ngày
thường (Thương lượng với thời gian); Tám câu, Thảo nguyên, Ấm lạnh, Em còn nhớ
chăng, Vu vơ,…(Thư mùa đông).
Về mặt kết cấu, giọng điệu tâm tình trong thơ Hữu Thỉnh trong thời kì chiến tranh
mang đậm tính đối thoại. Để đảm bảo sự hiệu quả và tạo nên dáng dấp sống động của
giọng điệu tâm tình, tác giả thường phó thác niềm hi vọng của mình vào tính đối thoại
của ngôn ngữ. Cảm thán và câu hỏi là hai hình thức danh dự tỏ ra thích hợp để thắt chặt
thêm điều đó.
- “Đi trong mây anh thấy ấm em à”
(Đi trong mây)
- “Và từ chính đất mình em nhỉ?
(Ý nghĩ không vần)
Hai hình thức này gần như rất ít gặp trong giọng điệu thơ Hữu Thỉnh giai đoạn
sáng tác sau. Hay nói một cách cụ thể hơn, ở giai đoạn sau, tính độc thoại để lại dấu ấn
mạnh mẽ hơn, rõ rệt hơn so với giọng đối thoại như là hình thức đặc trưng của giai đoạn
trước. Điều này có thể lí giải từ nhiều nguyên nhân nội tại của vấn đề. Trước chiến tranh,
với sự hỗ trợ của cảm hứng lãng mạn cách mạng, thơ Hữu Thỉnh mang tính chất lạc quan
rõ nét. Những con người, sự việc được đề cập đến trong thơ ông luôn tìm thấy điểm tựa
để vượt qua những khó khăn nhất định. Niềm tin luôn sống trong họ như những nguồn
sức mạnh lớn lao và vĩnh cửu. Điều này đã trở nên hoàn toàn khác đi trong thơ ông giai
đoạn sau. Như chúng ta đã từng khẳng định ở trên, những vấn đề Hữu Thỉnh đi sâu khai
thác trong hai tập thơ sau là những hố sâu chưa từng được khai thác một cách đầy đủ và
trọn vẹn của hiện thực cuộc sống và hiện thực con người trong giai đoạn trước. Trong đó,
nổi bật hẳn lên là phần âm tính, nỗi buồn, nỗi cô đơn và những khía cạnh màu xám của
hiện thực.
Những câu hỏi được đặt ra, ngay từ giây phút đầu tiên, đã không mang nhiều dấu
hiệu lạc quan của lời phản hồi vô tận. Ở đây con người chủ yếu không gặp nhau trong sự
đối thoại, mà chủ yếu độc thoại với chính mình. Do đó, tính đối thoại đã được thay thế
bằng sự độc thoại và, yếu tố tự sự, kể lể cũng vơi đi để được thay thế bằng chất triết lí.
Yếu tố triết lí gắn với trữ tình thay vì tự sự, theo chúng tôi đó là điểm khác biệt lớn nhất,
quan trọng nhất về sự khu biệt giữa chất giọng tâm tình trong hai giai đoạn sáng tác của
Hữu Thỉnh.
Chẳng hạn, về đề tài tình yêu. Nhân vật trữ tình có xu hướng thích đúc kết hơn là
kể lể, bộc bạch: “Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu/ Cây đổ về nơi không có
vết rìu” (Tự thú); “Cũng có thể biển này còn gặp lại/ Em đã thành muối xót ở trong tôi
(Tạm biệt Sầm Sơn),… Mặc dù, ở đâu đó, tính tự sự vẫn còn tồn tại, nhưng điều này
không còn thật nổi bật như giai đoạn trước: “Anh phải nói vòng vo anh yêu biển/ Anh yêu
trời để thú nhận yêu em/ Anh cứ khen người tốt đôi tốt lứa/ Để giấu đi bao nỗi xót xa
thầm” (Tạm biệt Sầm Sơn). Trong rất nhiều trường hợp, những bài thơ giai đoạn sau của
Hữu Thỉnh thường mở đầu bằng chất giọng tâm tình mang tính tự sự, bộc bạch để rồi
khái quát lên thành một triết lí nào đó, có tác dụng tập hợp toàn bộ ý tứ của bài thơ vào
đấy. Đây là hình thức tồn tại rất hiếm thấy trong chất giọng tâm tình của thơ Hữu Thỉnh
trong giai đoạn chiến tranh.
3.2.2. Giọng điệu suy tư, triết lí:
Có một thực tế giản dị dễ thấy: suy tư, triết lí là giọng điệu nổi bật nhất trong thơ
Hữu Thỉnh giai đoạn sau 1975. Điều này có thể tự tìm thấy lời tự biện hộ cho bản thân nó
trong hệ thống giọng điệu chung của thời đại. Và ngay trong những biểu hiện sống động
của tính tập thể đó, như cách nhìn nhận của Vũ Tuấn Anh, sự phân chia giọng điệu sau
1975 cũng không phải là điều không thể tiến hành. Và theo suy nghĩ của chúng tôi, giọng
thơ Hữu Thỉnh bên cạnh nét tâm tình một cách ngọt ngào và trầm lắng , vẫn tồn tại một
nét son khác: chất giọng “băn khoăn, triết lí”.
Cùng suy nghĩ, nhìn nhận, đánh giá về vấn đề thế sự, nhưng trong cách thể hiện
của mình, các nhà thơ thường không chọn những giải pháp giống nhau. Đó là một thuận
lợi nhỏ để chúng ta, bằng những cố gắng nhất định, có thể đưa ra những phán đoán mang
tính sơ bộ ban đầu.
Cách thức tiến hành của Chế Lan Viên là qui tắc lộn trái chiếc bít – tất để từ đó
chiêm nghiệm về bản chất của vấn đề trong những chuỗi phản ứng nhiệt thành mà ông đã
tạo ra. Trong mớ thặng dư tác giả thu được, những hạt kết tủa chìm dưới bề sâu hay
những hạt đã bốc hơi đều ít nhiều ánh lên giọt lệ mủi lòng. Do đó, trong những trường
hợp phải đưa ra một lời khẳng định quyết đoán về giọng điệu của nhà thơ này ở giai đoạn
sáng tác sau 1975, đặc biệt là những bài thơ làm nên tập Di cảo thơ, người ta khó lòng có
thể chối từ cách nhìn nhận gần như được thống nhất: “giọng kể việc lạnh lùng mà chất
chứa nỗi đau nội tâm”.
Trong khi đó, cũng viết về những trăn trở thế sự nhưng mặt trội trong giọng điệu
thơ Nguyễn Duy từ sau 1975 là “trào lộng trước cuộc đời, trước đất trời theo kiểu giọng
vai hề áo ngắn và Xẩm ngọng” [29, 139].
Đọc thơ Hữu Thỉnh, từ những bài thơ ngắn trong “Tiếng hát trong rừng” cho đến
“Thư mùa đông” hay “Thương lượng với thời gian”, giọng điệu suy tư, triết lí bao giờ
cũng để lại những dấu chỉ nhất định. Và một điều khá rõ nét, từ tập Thư mùa đông trở đi,
chất giọng này mới thật sự chiếm địa vị rõ rệt, có vị thế không nhỏ trong việc góp phần
tạo nên phong cách thơ Hữu Thỉnh.
Tuy nhiên, xét về bản chất, ngay trong bản thân giọng điệu trầm lắng ấy cũng đã có
sự thay đổi rõ rệt. Nguyễn Đăng Điệp đã cung cấp cho chúng ta một nhận xét hết sức bổ
ích: “Cái chất ru vỗ ngọt ngào mang tính sử thi trong Đường tới thành phố và các giai
đoạn trước đó đã nhường chỗ cho chất giọng ưu tư, chua chát, đau đời” [30]. Và theo
tác giả, sự chuyển biến này có thể nhìn nhận một cách rõ ràng qua các phương diện: tư
duy thơ và cấu trúc hình tượng của cái tôi trữ tình.
Thứ nhất: sự thay đổi về tư duy thơ:
“Nếu trước đây, điều quan tâm lớn nhất với Hữu Thỉnh nói riêng và
các thi sĩ chống Mỹ nói chung là lời tâm niệm “chúng tôi làm thơ ghi
lấy cuộc đời mình”; thì ở chặng sau, cái nhìn của nhà thơ mang tính
hướng nội rất sâu. Những mảnh vỡ tâm trạng, những lo âu khắc
khoải, những bể dâu cuộc đời được nói đến một cách riết róng qua
cái nhìn đời tư. Không còn ở đây cái nhìn của chúng tôi, mà là cái
nhìn của chính tôi” [30].
Thứ hai: về sự thay đổi của cấu trúc hình tượng cái tôi trữ tình, Nguyễn Đăng Điệp
cho rằng: “Đó là cái tôi đa diện mà mặt trội của nó là những suy tư về cõi người. Đó
không phải là cái tôi hiện lên trong quầng sáng sử thi mà là hiện lên trong chính cuộc
sống thô ráp thường ngày” [30].
Nếu cần xác định cho bằng được cái mốc cố hữu của sự thay đổi về giọng điệu thơ
Hữu Thỉnh, tức là từ đấy, có thể nhận diện một cách khá rõ nét những nét khác biệt cơ
bản về giọng điệu của hai giai đoạn sáng tác, chúng tôi xin chọn bài “Lời thưa”, bài mở
đầu tập Thư mùa đông làm minh chứng.
Mở đầu bài thơ, Hữu Thỉnh viết:
“Tôi vẫn thường hay lẫn với mồ hôi
Xin bạn cứ hình dung một mảnh đời lấm láp”.
Nếu đặt những dòng thơ này bên cạnh những bài thơ trong Âm vang chiến hào,
Tiếng hát trong rừng, hay các trường ca Đường tới thành phố, Biển, chúng ta sẽ thấy tất
cả những điểm khác biệt rất rõ rệt giữa giọng thơ hai giai đoạn sáng tác của Hữu Thỉnh.
Và như nhận xét của Nguyễn Đăng Điệp, đến Lời thưa, “cái chất giọng ru vỗ ngọt ngào
mang tính sử thi trong Đường tới thành phố và các giai đoạn trước đó đã nhường chỗ
cho chất giọng ưu tư, chua chát đau đời” và “đã biết bức khỏi âm hưởng tráng ca trong
thơ một thời” [30]. Mặc dù, xét trên bình diện tổng thể, bài thơ này vẫn mang màu sắc bị
ám ảnh bởi chất giọng êm dịu, ngọt ngào thường thấy trong thơ ca chống Mỹ, nhưng xét
về mặt nội dung, nó đã cơ bản hé mở những tâm trạng đau buồn, những u ẩn, trăn trở về
thân phận.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là vấn đề suy tư, trăn trở về thân phận nằm
trong tình trạng hoàn toàn vắng bóng trong giai đoạn sáng tác trước đó (Trường ca
Đường tới thành phố, Trường ca Biển và Tiếng hát trong rừng, Âm vang chiến hào).
Thực ra không phải đợi đến Thư mùa đông hay Thương lượng với thời gian, giọng điệu
này mới có đủ sức mạnh bật dậy thành một âm chủ đáng lưu ý. Bởi ngay trong cách thể
hiện của mình, hai trường ca trên đã chứa đựng những dấu hiệu thầm kín nhưng đầy đủ
về phương diện giọng điệu, mà trong chừng mực nào đó, có thể làm lật nhào những kết
luận vội vã mang tính võ đoán.
“Ngay cả trong những trường ca Đường tới thành phố hay Biển, khi
mà cái âm hưởng hùng ca chiếm vai trò chủ đạo, Hữu Thỉnh vẫn biết
nghiêng xuống các bi kịch bằng cái nhìn cảm thông thực sự. Bởi thế
khi chạm vào vấn đề thân phận, thơ anh hay đến độ xuất thần. Trong
dòng suy cảm này, thơ Hữu Thỉnh đặc biệt xuất sắc khi nói về hai
hình ảnh: người mẹ và người chị…Khuôn mặt người phụ nữ là khuôn
mặt thật nhất, đầy đủ nhất khi nói đến phận người. Bão dông không
ngớt đổ lên đầu họ, cơ cực, khổ đau kéo suốt cuộc đời họ.” [30].
“Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”
(Đường tới thành phố)
Như vậy, nhìn một cách tổng thể “quan tâm đến thân phận, không ngừng suy tư
về nhân thế là là cái sợi dây nhất quán chảy suốt đường thơ Hữu Thỉnh. Chỉ có điều
trong những năm chống Mỹ, dòng cảm xúc ấy lùi lại, nhường chỗ cho cảm hứng sử thi thì
ở giai đoạn sau, nó trở thành nét nổi trội, trở thành chủ lưu qua đôi mắt của một người
làm thơ lấy sự trải nghiệm của mình làm điểm tựa cảm xúc” [30].
Cuộc sống thô ráp này là tất cả những gì mà con người đang phải trải qua với tư
cách một tính cách cụ thể trong xã hội cụ thể. Lẽ tất nhiên, Hữu Thỉnh không phải là nhà
thơ duy nhất trở về với chính bản thân mình, với chính nhiệm vụ không thể lẫn tránh của
thơ ca giai đoạn sau chiến tranh, càng không phải là người đầu tiên đề ra nhiệm vụ ấy.
Ông hòa cùng với thời đại mình đang sống, khắc khoải tìm ra lời giải đáp cho thời đại,
miệt mài khám phá những hố sâu ngăn cách trong tâm hồn con người. Nhưng nếu chỉ
dừng lại ở đấy, chúng ta khó lòng phân biệt Hữu Thỉnh với những nhà thơ khác. Bởi lẽ
rất khó lòng tách bạch, hay tiến hành phân chất những điểm chung cố hữu ấy.
Cái giọng “ưu tư, chua chát, đau đời” ấy thường xuyên xoáy sâu vào những vấn
đề thuộc về thân phận của con người. “Hữu Thỉnh đặc biệt nhạy cảm với vấn đề thân
phận (…). Mỗi khi chạm vào thân phận, thơ anh hay đến độ xuất thần” [30]. Thơ ông,
như chúng ta đã có lần đề cập ở các phần trên, hay nói nhiều về sự cô đơn, sự xuống cấp
của đạo đức xã hội, sự nhạt nhẽo của tình đời, của lòng người…Những chiều kích này,
suy cho cùng là kết quả của sự giằng co giữa bản thể trữ tình với các khách thể khác. Đó
có thể là ngay chính bản thân anh ta hay trong những giềng mối sơ đẳng khác mà những
sự liên lạc thường xuyên đã bị truất phế ra khỏi vương quốc chuẩn mực của nó. “Âm chủ
trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn này (tức từ Thư mùa đông trở về sau) là nỗi xót buồn dai
dẳng” [30]. Và “cảm xúc đau đớn, xót xa ấy thường trực trong hồn thơ Hữu Thỉnh, hiện
ra như một ám ảnh, trở thành nhịp mạnh trong cấu trúc giọng điệu thơ anh. Tuy nhiên,
tôi nghĩ, chiều sâu và nét riêng trong cái nhìn nghệ thuật của Hữu Thỉnh chính là những
suy tư không ngừng về nhân thế bằng chất giọng trầm lắng” [30].
Đặc điểm này cũng là điều Nguyễn Nguyên Tản nhìn nhận: “Cảm hứng đời tư– thế
sự trong mảng thơ viết về cuộc sống thời bình của Hữu Thỉnh dẫn tới xu hướng bao trùm
là tự bày tỏ những trăn trở về thân phận người lính, về nhân dân sau chiến tranh, về
hạnh phúc, khổ đau, thế thái nhân tình” [130, 45].
Có thể nói thân phận con người giữ vai trò đối tượng suy tư trong suốt quá trình
thơ của Hữu Thỉnh là hình tượng người mẹ. Trong hai trường ca của ông, sự chiêm
nghiệm về người mẹ xuất hiện rất nhiều lần. Trong Thư mùa đông và Thương lượng với
thời gian, hình tượng người mẹ cũng không nằm ngoài sự trăn trở của thi sĩ. Đó là sự
tương đồng dễ nhận thấy về mặt hình thức. Tuy nhiên, chúng ta cần xác tín những dấu
hiệu có tính chất khu biệt chúng với nhau. Điều này vô cùng cần thiết.
Người mẹ trong trường ca ông chủ yếu được nhìn nhận qua phương diện đức hi
sinh, chịu đựng một cách thầm lặng trong cuộc chiến tranh. Và qua đó, nhà thơ viết nên
những dòng thơ giàu tình cảm để khẳng định, ca ngợi đức hi sinh, tấm lòng cao cả bao la
của mẹ. Nói khác đi, sự chiêm nghiệm này đặt trong mối quan hệ giữa cái chung (cuộc
chiến tranh) và cái riêng (tình cảm gia đình). Trong đó, cái chung, cái cộng đồng giữ vai
trò thống ngự rõ nét. Người mẹ trong trường ca Hữu Thỉnh gắn liền với những suy tư
mang tầm vóc lớn lao hơn. Chẳng hạn, suy nghĩ, đúc kết nguyên nhân thắng lợi của cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc, suy tư về sức mạnh của truyền thống đấu tranh của
dân tộc,…
Ở giai đoạn sau (tức hai tập Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian), hình
tượng người mẹ vẫn thao thức trong chuỗi suy nghiệm của tác giả. Đến đây, người mẹ
không được soi sáng trong niềm xúc động triền miên từ những năm tháng chiến tranh, mà
trở về với đúng vai trò của một người mẹ bình thường của cuộc sống thường nhật. Nhà
thơ bên cạnh việc cảm nhận tình cảm của người mẹ trong mối quan hệ với quê hương, đã
dành hẳn cho mẹ một vị trí đáng kính trong những suy tư về lẽ đời, tình đời. Đến đây,
hình tượng người mẹ trở thành đối tượng tin cậy để nhân vật trữ tình tâm tư, bộc bạch
những nỗi niềm màu xám của mình (Đất ngày thường), hay trở thành một sự minh triết
trong việc mách bảo bản chất của lòng người (Lời mẹ); thậm chí, trở thành nỗi “ám ảnh”
chân chính theo suốt quãng đường đời của nhân vật trữ tình:
“Anh hiểu vì sao tôi hay nhắc mẹ tôi
Nỗi ám ảnh suốt đời day dứt”
(Chạm cốc với Xa – in).
Sự xuống cấp của những chuẩn mực giá trị tốt đẹp đã kéo người mẹ vào những
cuộc phiêu lưu ảm đạm của tình đời:
“Miếng cơm manh áo che khuất mẹ tôi
Sự vô tình che khuất mẹ”
(Chạm cốc với Xa – in).
Tuy nhiên, nét nổi bật nhất, đáng lưu tâm nhất là tình cảm của nhân vật trữ tình
dành cho người mẹ. Đây có thể là điều chúng ta chưa từng nghe thấy ở các nhà thơ khác:
“Thơ mỗi ngày người càng ít đọc hơn
Nhưng con chọn vũ khí này bênh vực mẹ”
(Chạm cốc với Xa – in).
Trong khía cạnh suy tư về thân phận, bên cạnh hình tượng người mẹ, Hữu Thỉnh
còn dành mối quan tâm đặc biệt đến những vấn đề thuộc về mang tính chất vĩnh cửu của
con người: nỗi cô đơn, sự xuống cấp của các giá trị tinh thần, đạo đức xã hội. Đây là hai
yếu tố vô cùng nổi bật trong Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian.
Ở các phần trên, ta đã đề cập khá nhiều đến vấn đề nỗi cô đơn trong thơ Hữu
Thỉnh. Do đó, ở đây, để tránh tình trạng lặp lại một cách tẻ nhạt, chúng tôi không đề cập
lại. Chúng tôi chỉ đi sâu vào khía cạnh những trăn trở về sự xuống cấp của đạo đức và các
tinh thần của con người.
Trong Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian, khía cạnh này trở đi trở lại
như những điệp khúc đau thương mang màu sắc âm tính của tâm hồn. Các bài thơ tiêu
biểu có thể kể ra như: Tạp cảm, Chạm cốc với Xa – in, Tôi bước vào thành phố, Những
kẻ chặt cây, Hỏi, Đi dưới cây,…Trong đó, mùa nhân nghĩa, luật nhân quả được tác giả
lưu ý đáng kể (Chạm cốc với Xa – in, Tạp cảm, Bất hạnh,…). Sự tráo trở, vô cảm của
lòng người, của tình đời cũng được khơi dậy ở các bài: Tôi bước vào thành phố, Những
kẻ chặt cây, Hỏi, Đi dưới cây,.. Như vậy, xét về chất, Hữu Thỉnh có xu hướng quan tâm
nhiều đến những vấn đề của đạo đức con người.
Giọng điệu suy tư bằng cung bậc trầm lắng đã làm nảy sinh một hệ lụy tất yếu:
tính triết lí. Thực chất, ranh giới của hai yếu tố này cũng không thật rạch ròi. Trong rất
nhiều trường hợp chúng đi đôi với nhau, thậm chí hòa quyện, xuyên thấm vào nhau để
hình thành nên một chất giọng duy nhất: suy tư, triết lí. Bởi lẽ, có một điều dễ hiểu,
người ta khó lòng tránh mặt những tẻ nhạt thuần túy khi phải kể lể dài dòng mà không
thể khái quát hay đúc kết nó lại. Đó là một cách tiến hành dễ hiểu.
Nhận xét về tính triết lí trong thơ Hữu Thỉnh, Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Triết
lí trong thơ Hữu Thỉnh nhiều khi xuất phát từ những chi tiết nhỏ nhoi, bình dị. Từ những
chi tiết ấy, Hữu Thỉnh xác lập tính tương quan. Theo Hê – ghen, chi tiết nghệ thuật là
những ô cửa để nhìn vào thế giới. Những chi tiết trong thơ Hữu Thỉnh găm được vào
lòng người đọc bởi bởi nó bắt đầu từ những ngẫm ngợi sâu sắc của nhà thơ. Đó cũng là
ô cửa hé lộ chiều sâu một bản thể trữ tình” [30].
Đọc thơ Hữu Thỉnh, chúng ta bắt gặp rất nhiều trường hợp, tính triết lí hòa vào
chất giọng suy tư. Đối tượng để chiêm nghiệm ở đây, như Nguyễn Đăng Điệp đã nói, là
những “chi tiết nhỏ nhoi, bình dị” của cuộc sống. Đó có thể là những cảm nhận, đúc kết
về tình yêu, về lẽ đời, về thân phận con người,…
- “Cũng có thể biển này còn gặp lại
Em đã thành muối xót ở trong tôi”
(Tạm biệt Sầm Sơn)
- “Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu
Cây đổ về nơi không có vết rìu”
(Tự thú)
- “Mẹ ơi mây héo con xin mẹ
Cho con lên an ủi mặt trăng buồn
Chợ tan trường cũng tan như chợ
Bán được buồn hay mua được buồn hơn”
(Đất ngày thường) .
Nhưng có lẽ điều đáng lưu tâm nhất ở đây là chúng ta phải tìm ra được bản chất
của sự triết lí ấy. Tức là Hữu Thỉnh triết lí bằng cách thức nào?
Trước hết, theo chúng tôi, đó là cách thức Hữu Thỉnh ưa thích dùng những hình
tượng hai mặt để diễn đạt nội dung. Nói khác đi, là cách sử dụng phương thức ẩn dụ. Tập
Thư mùa đông là minh chứng vô cùng sáng sủa cho điều này:
“Tập thơ Thư mùa đông có 36 bài thì có đến 9 bài mà hình tượng
toàn bài mang tính ẩn dụ. Mưa đá: sự thất vọng của nhà thơ trước
những giá trị của đời sống bị đảo lộn; Tạp cảm: sự mong manh bất
lực của văn chương trước những đổi thay của thế thái nhân tình;
Trước tượng Bay – on: tài tình không cứu nổi thế gian; Mười hai
câu: sự bất lực của văn nghệ sĩ trước cuộc đời; Những kẻ chặt cây:
niềm lo âu khi các giá trị bị hủy hoại; Tìm người: nhà thơ bất lực
trước nỗi đau của đồng loại; Nghe tiếng cuốc kêu: thực tại trái với
ước mơ; Hạnh phúc: hạnh phúc còn ở phía trước; Chiếc vó bè: niềm
hi vọng không tắt của con người. Trong nhiều bài thơ khác những
hình ảnh ẩn dụ xuất hiện dày đặc khiến ta có cảm giác cả tập thơ này
là một ẩn dụ lớn bao trùm” [130, 157].
Ngoài việc sử dụng ẩn dụ như là phương thức triết lí tinh vi mang tính chất hai
mặt, Hữu Thỉnh còn trang bị cho mình một hướng đi khác. Đến đây, chúng tôi nhận thấy
tất cả những ý nghĩa vô cùng thiết thực bài viết Đường đời đường thơ Hữu Thỉnh của tác
giả Anh Chi [18]. Theo Anh Chi, tính triết lí (hay là sự nhận thức bản chất của sự vật hiện
tượng) trong thơ Hữu Thỉnh được nâng đỡ và đảm bảo một cách rất hiệu quả từ thuộc
tính hay mộng mơ của nhà thơ. Tất nhiên, sự mơ mộng ở đây không đóng vai trò của một
nhân vật lẻ loi, mà trái lại, nó luôn gắn liền, đồng hành, và trở thành môi giới tin cậy cho
sự nhận thức của tác giả. Đặc điểm này là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt hành trình thơ của
Hữu Thỉnh:
“Chúng tôi thấy, trong những năm tám mươi, chín mươi của thế kỷ
XX, tâm hồn con người, mộng ước tươi tốt về hạnh phúc con người đã
vập vào nhiều trở lực thật lớn. Mỗi nghệ sĩ lớn, mỗi nhà khoa học đều
thấy kiếm sống là việc rất khó, và giữ được phẩm hạnh còn khó hơn.
Vậy mà, Hữu Thỉnh vẫn là một thi sĩ thật giàu mơ mộng, cũng như
thời anh ở chiến trường bom đạn bời bời vẫn cứ mơ mộng” [18].
Chúng ta có thể kể ra một số trường hợp tiêu biểu của các câu thơ mang thời chiến
mang phẩm chất này như: “Năm anh em trong chiếc xe tăng/ Như năm bông hoa nở cùng
một cội” (Năm anh em trên một chiếc xe tăng); “Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được/ Chỉ một
gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn/ Tổ quốc sẽ ra sao, Tổ quốc?/ Thơ ơi hãy ghì lấy gốc
sim” (Trường ca Đường tới thành phố); “Tôi thức dậy với giấc mơ đầy cát/ Cát đầy dấu
chân chim/ Chim đầy mùi trời/ Trời đầy mùi thiên hạ” (Trường ca biển).
Trong thơ trữ tình ngắn sau 1975, Hữu Thỉnh cũng có không ít những câu thơ mang
dáng dấp nhận thức nhận thức như thế: Ta đâu đề phòng ở phía người yêu/ Cây đổ về nơi
không có vết rìu (Tự thú); Ra sông vớt đám củi rều/ Cha tôi mang về những khúc ca trôi
nổi/ Cây khế có thêm vị buồn…Mẹ tôi hát nghìn câu có một câu chưa hát.../ Cây rơm vẫn
mơ thành đám mây vàng (Hạnh phúc). Anh Chi cũng có lời đánh giá rất xác đáng về đặc
điểm nhận thức bằng mơ mộng qua bài Nghe tiếng cuốc kêu trong tập Thư mùa đông:
“Xúc cảm thì nhiều khắc khoải, ngôn ngữ thì cố đưa cái tôi trữ tình vươn lên, víu vào cái
đẹp như mơ mộng của chính nhà thơ. Và cuối cùng, chúng tôi càng thấy Valéry thật sâu
sắc: Mơ mộng là nhận thức! Quả vậy, sau tất cả mộng mơ, nhà thơ nhận biết một bài
học cuộc sống: “Chúng ta bị cái chết gạt về một phía/ Bị hư danh gạt về một phía/ Phải
vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười” [18]. Và trong tập Thương lượng với thời
gian, “Hữu Thỉnh càng tỏ rõ cái cá tính nhận thức bằng mơ mộng với tầm khái quát hiện
đại” [18]. Nhận thức về đạo lý, nhân tình thế thái vẫn bằng sự hổ trợ đắc lực của cá tính
mộng mơ: Một lời như thể lưỡi cưa/ Khi nghĩ lại bao thân cây đã đổ (Một lời);Vừa trong
mơ cùng tôi/ Cây ra đường đã bụi/ Vừa dào dạt cùng tôi/ Biển đã thành sương khói…
Như vậy, xét về mặt hình thức, đặc tính nhận thức bằng mộng mơ trong thơ Hữu
Thỉnh ở hai giai đoạn sáng tác không có nhiều điểm khác biệt. Vẫn là cách tìm ra bản
chất của sự vật hiện tượng bằng cách đưa chúng vào khuôn khổ lớn của nhà nghỉ mang
tính chất bay bổng. Sự khu biệt duy nhất nằm ở nội hàm vấn đề được nói đến. Giai đoạn
sáng tác trong chiến tranh, cách mộng mơ này dùng để nhận thức những vấn đề mang
tính chất và tầm vóc lớn lao, gắn liền với những điều hệ trọng của cộng đồng, quốc gia,
dân tộc. Nói cách khác, nó là phương tiện tối ưu để chuyển tải những tình cảm mang
màu sắc lạc quan, tin tưởng, cống hiến. Ở giai đoạn sau, đặc điểm này là công cụ tinh tế
để tác giả triết lí về tình đời; lẽ đời; nhân tình, thế thái…mà đa phần chúng cho ta làm
quen với cảm giác đau đớn, âm bản.
Nhưng bên cạnh đó, việc ưa đưa ra cách đúc kết vấn đề đôi khi đã gây ra những
hiệu ứng nằm ngoài mong đợi. Thanh Thảo cũng đưa ra nhận định mà chúng ta không
thể thêm thắt gì thêm: “Trong tập thơ này (tức tập “Thư mùa đông”) có nhiều bài hay
nhưng lại bị “mấy lời kết cố ý” như thế. Thơ “nói hết ý” khi nó chưa nói hết. Thơ không
đánh “quả tù mù” nhưng nó biết đối tượng mà nó hướng đến, mà nó thăm dò.” [140].
Nghĩa là, theo Thanh Thảo, thói quen hay rút ra kết luận, thói quen ưa triết lí hóa vấn đề
của Hữu Thỉnh đã ít nhiều gây khó dễ cho khâu tiếp nhận của người đọc. Bởi lẽ, chúng
không có ý nghĩa gì nhiều ngoài việc giăng bẫy trí hiểu thay vì tạo ra một môi trường
thuận lợi để đi đến việc tiếp nhận một cách an toàn và chính xác.
Chúng ta có thể dẫn ra một số trường hợp như thế: “Đố kị gian nan thấp khớp tháo
dạ/ Tháng ba đầu cành hoa bưởi còn kia/ Va quyệt và xây xát/ Nhân tình lầm lũi đi”
(Thấy); “Bất chợt được sưởi ấm/ Từ những ai không quen biết trên đường…Bất chợt
những cánh chim vụt hiện/ Vẽ đường bay vô định của con người” (Bất chợt).
Đó cũng là những điểm mạnh và yếu dễ nhận thấy về cách tổ chức và xây dựng
chất giọng suy tư, triết lí trong thơ Hữu Thỉnh.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đấy, chúng ta chưa thể nói được gì ngoài việc cung
cấp một thông tin mà ngay từ giây phút đầu tiên, nó đã có tất cả những dấu hiệu gợi ý
chúng ta nhớ đến những minh chứng mang dáng dấp hết sức chung chung. Bởi lẽ, chúng
ta chưa chỉ ra được những nét khu biệt về giọng điệu giữa Hữu Thỉnh và cá nhà thơ khác.
Nguyễn Đăng Điệp đã phần nào chỉ ra được điều này: “Chất tài hoa gắn với suy tư. Đây
là điểm khác biệt giữa Hữu Thỉnh và Phạm Tiến Duật, một cây bút hàng đầu của thơ ca
của thời chống Mỹ. Phạm Tiến Duật bắc thơ mình vào hai đầu cảm xúc: một bên là sự
tinh nghịch, trẻ trung ngang tàng đầy chất lính tráng giữa rốn lửa Trường Sơn, một bên
là cảm hứng lãng mạn tràn đầy” [29, 240].
Ở khía cạnh suy tư, triết lí của giọng điệu, giữa hai nhà thơ này cũng tồn tại những
nét khu biệt rõ nét. Trong tầm nhìn của mình, Hữu Thỉnh hay nói về thân phận, về sự
xuống cấp của những giá trị tinh thần, đạo đức của con người. Trong khi đó, cũng suy tư
về cuộc sống, nhưng Phạm Tiến Duật chú ý nhiều hơn về lẽ đời, về những đổi thay của
những giá trị: “Việc mới thì luật mới/ Cớ gì cờ tướng cờ vua” (Luật chơi); “Hình như
trên cõi đời này/ Kiếp người với kiếp mây khác vời/ Mây không vụ lợi như người/ Mây
bay chỉ để ngang trời mây bay” (Tiếng bom và tiếng chuông chùa).
Giọng điệu thơ Hữu Thỉnh cũng có nét khác biệt rõ nét với giọng thơ Nguyễn Duy:
“Trong thơ Nguyễn Duy về sau, chất giọng ghẹo đùa “nghêu ngao hát giọng nghẹo
chơi” trở nên nổi bật trong khi đó Hữu Thỉnh vẫn nuôi cảm xúc da diết trong cái âm chủ
trầm lắng suy tư. Thơ Nguyễn Duy sau cười thấy đắng. Thơ Hữu Thỉnh đắng ngay khi
chạm vào thân phận con người” [29, 240].
Giai đoạn sáng tác trong chiến tranh, Hữu Thỉnh thường suy tư về dân tộc, về
những lẽ sống lớn. Ở giai đoạn sau, Hữu Thỉnh suy tư về sự tồn tại của các số phận cá
nhân, về sự suy thoái của các giá trị nhân sinh. Rõ ràng, đó không phải là những suy tư
trừu tượng mang dáng dấp của một nếp nghĩ mơ hồ đóng băng trong huyệt hô hào, lên
giọng răn đời; mà là những trăn trở thường trú trong một trái tim đa cảm và gắn bó vô
cùng mật thiết với cuộc đời này.
3.3. Nghệ thuật cấu tứ trong thơ Hữu Thỉnh:
3.3.1. Khái niệm cấu tứ trong thơ trữ tình:
Tứ thơ là một khái niệm khá quen thuộc trong hệ thống nghệ thuật của một tác
phẩm thơ ca. Tuy nhiên, không phải lúc nào và bao giờ người ta cũng trông thấy sự hài
lòng của mình trong cách hiểu của người khác. Thế nên, trong không ít trường hợp, người
ta chỉ có thể trách cứ nhau thiếu sáng suốt trong chu vi lối nghĩ của mình, chứ không thể,
một cách hoàn chỉnh và nghiêm túc, đề ra một công thức mang tính ổn định và chân xác
nhất.
Trên tạp chí Văn học số ra ngày 17/11/1961, Chàng Văn quy định tứ thơ như sau:
“Gọi nó là tứ để phân biệt với ý. Chữ tứ chẳng qua là ý lớn của toàn bài vậy. Gọi nó theo
chữ thời đại thì nó cũng như “cái đề tài cộng với chủ đề tư tưởng” của toàn bài. Cái tứ
bao trùm cả bài thơ ấy lại phải diễn ra bằng nhiều ý (nhiều suy nghĩ, tư tưởng) trong
từng đoạn, từng chữ, từng câu”.
Trong khi đó, Xuân Diệu lại có cách hiểu khác: “Bởi vì ý chưa phải là sự sống. Từ
cuộc sống mà toát ra ý, ý ấy muốn trở về tác động vào cuộc sống, mà tác động bằng
phương thức thơ thì ý ấy phải “đầu thai” thành xúc cảm, tình cảm, ý ấy trở thành tứ, đó
là tứ thơ. Ý thơ chưa phải là sự sống, nhưng tứ thơ thì đã là sự sống rồi, ý là của chung
của mọi người, tứ mới là của mỗi riêng thi sĩ” [19].
Hà Minh Đức trong Thơ và mấy vấn đề thơ Việt Nam hiện đại cho rằng: “Tứ thơ là
ý tưởng của bài thơ trong dáng vóc cụ thể của nó” [35, 165].
Trong bài viết “Suy nghĩ về tứ thơ” [100], Nguyễn Xuân Nam cung cấp cho chúng
ta những quan điểm rất đáng chú ý về tứ thơ.
Về khái niệm tứ thơ, Nguyễn Xuân Nam lại cho rằng: “Tứ trong toàn bài là hình
tượng xuyên suốt cả bài thơ, thể hiện tư tưởng nghệ thuật (và cũng là tư tưởng chính trị)
của bài thơ” [100]. Ở một chỗ khác, Nguyễn Xuân Nam nói rõ thêm những yêu cầu thiết
yếu của một tứ thơ: “Một tứ thơ phải là hình tượng có tìm tòi sáng tạo, thể hiện ý trọn
vẹn, gợi lên những điều tốt đẹp, xúc động lòng người, tạo nên những mối liên tưởng rộng
rãi, nghĩa là có giá trị thẩm mỹ cao” [100].
Tác giả cũng hết sức lưu tâm việc phân biệt giữa ý thơ và tứ thơ:
“Nói đến ý ta nghĩ đến những điều trong óc khi suy nghĩ. Còn tứ phải
là những ý không ở dạng quan niệm nữa, đã thể hiện trong hình
tượng. Có tứ tất có ý, còn có ý chưa hẳn có tứ. Nói tứ thơ – là hình
tượng thơ là đúng nhưng chưa rõ. Một hình tượng thơ là sự thể hiện
các hiện tượng, tình cảnh, chi tiết cuộc sống…sao cho người đọc có
thể hình dung ra hình thể, dáng dấp, âm thanh của nó…biến nó có
thành những điều có thể nhận biết được qua cảm quan...” [100].
Về cách phân loại tứ thơ, tác giả của bài viết này chia tứ thơ thành hai loại cơ bản:
tứ thơ thiên về tạo hình và tứ thơ thiên về dòng suy nghĩ liên tưởng. Bên cạnh đó,
Nguyễn Xuân Nam cũng phân biệt tứ thơ thành các loại: tứ lớn (tứ toàn bài) và tứ nhỏ (tứ
bộ phận). Trong những bài thơ dạng này, tứ thơ lớn thường được triển khai qua các tứ
nhỏ. Người viết còn lưu ý sự tồn tại của một dạng tứ khác: dạng “tứ trong toàn bài nảy
sinh từ một ấn tượng chung chung, một cảm xúc chung, rồi nảy nở ra, dẫn dắt ra mãi
những dòng suy nghĩ, liên tưởng, tưởng tượng”.
Bùi Công Hùng cũng có suy nghĩ riêng của mình:
“Tứ thơ ta nói là giới hạn trong phạm vi một bài thơ nhỏ, các bài thơ
trữ tình. Còn nếu lựa chọn thể truyện thơ, kịch thơ thì với dung lượng
và tính chất khác, cách chọn tứ thơ sẽ có nét khác, nó sẽ triển khai
trước khi hình thành cốt truyện hay sau khi đã hình thành cốt truyện,
điều ấy thuộc phạm vi khác. Bàn trong phạm vi có giới hạn, trước một
sự kiện, cảnh vật, một tình tiết, nhà thơ lựa chọn tìm tứ thơ. Khi có tứ
thơ dĩ nhiên sẽ lựa chọn chi tiết, kết cấu thích hợp với tứ thơ, sẽ huy
động từ ngữ, vần, sự kiện, con người làm nền tảng để xuất hiện tứ thơ
sẽ rộng hơn, đa dạng hơn là sự kiện con người sẽ được đưa vào từng
bài thơ cụ thể để làm nổi bật tứ thơ. Cái trước là đối tượng của thơ
ca, còn cái sau là nguyên liệu của thơ ca”.[62, 71].
Trên cơ sở lập luận đó, Bùi Công Hùng đã đi đến cách hiểu tứ thơ của mình: “Vậy
tứ thơ là kết quả của quá trình đi vào thực tiễn xã hội, nghiên cứu đường lối chính trị của
Đảng, bồi dưỡng vốn văn hóa, khoa học kĩ thuật, hồi tưởng, khái quát, cảm xúc và suy tư
lựa chọn đề tài chủ đề. Từ đấy sẽ xuất hiện tứ thơ” [62, 71 – 72].
Trên tạp chí văn học số 6, năm 1983, Mã Giang Lân cũng góp thêm cách nghĩ về
tứ thơ của mình: “Tứ thơ là hình dạng của ý thơ. Tứ thơ không phải là hình tượng thơ,
nhưng tứ thơ chỉ đạo trực tiếp và tạo nên sự vận động của hình tượng thơ. Tứ thơ chi
phối cả bài. Nó định hình cho bài thơ” [81].
Trong bài viết “Một chặng đường thơ Phạm Tiến Duật” [80s], khi bàn về tứ thơ
trong thơ của Phạm Tiến Duật, Đỗ Trung Lai đã đưa ra cách lí giải khá thú vị về khái
niệm này:
“Nói ý là chung của mọi người, tứ là riêng của nhà thơ, chưa phải là
định nghĩa. Hình như các nhà thơ lớn xưa nay chưa bao giờ tuồn tuột
nói cái ý của mình ra, mà bao giờ cũng phải dựng tứ (những bài thơ
không có tứ xin chưa bàn ở đây). Tầm vóc bài thơ trước hết là ở ý. Ý
hay ý tưởng có lớn, thì bài thơ mới có thể lớn. Nhưng bài thơ đứng
được là nhờ ở tứ. Tứ không cân xứng với ý thì bài thơ cũng đổ. Tứ
hình như phụ thuộc vào kĩ thuật hơn là ý. Người ta diễn đạt ý bằng
ngôn ngữ nhưng phải thông qua tứ. Tứ là cái hình chiếu ma quái của
ý trên hệ quy chiếu riêng của mỗi nhà thơ” [80].
Vũ Tuấn Anh cũng đưa ra cách hình dung của mình về nguồn gốc hình thành tứ
thơ trong thơ trữ tình:
“Quá trình đi đến sáng tạo một tác phẩm trước hết là quá trình sống,
trải nghiệm của nhà thơ trước cuộc đời. Đó cũng là quá trình quan
sát, tích lũy, nhập tâm đời sống” như cách nói của Tố Hữu. Khi nhà
thơ cảm xúc và suy nghĩ như một cá nhân, thì toàn bộ chất liệu tư
tưởng và cảm xúc ấy vẫn ở dạng nguyên liệu ở dạng thế năng của
hoạt động. Hành động sáng tạo chỉ thực sự bắt đầu khi nhà thơ vượt
khỏi phạm vi cá nhân, đóng vai trò sáng tạo. Qua các thao tác tư duy,
từ cảm giác đến tri giác, biểu tượng cộng với trí tưởng tượng mạnh
mẽ vốn là một trong những phẩm chất thi sĩ và những suy tưởng triết
lí, tứ thơ được hình thành. Tứ thơ là cái lõi tư tưởng, là sự kết tinh
cảm xúc – suy tư của chủ thể trữ tình” [2, 33].
Như vậy, nhìn chung các tác giả trên mặc dù, trong quan niệm còn có những điểm
chưa thật thống nhất với nhau, nhưng giữa họ vẫn tồn tại một vùng giao thoa đáng tin
cậy. Chung quy lại, ta có thể nhìn ra cái đích mà điểm nhìn của họ hướng đến: ý thơ là
suy nghĩ, là tình cảm, nội dung bao quát trong suốt một bài thơ; tứ thơ là cách thể hiện, là
hình thức vật chất mang phẩm chất sáng tạo mới mẻ và độc đáo của những ý tưởng ấy.
3.3.2. Cấu tứ trong thơ Hữu Thỉnh:
Có thể nói, Hữu Thỉnh là một trong rất nhiều nhà thơ có cách tổ chức tứ thơ độc
đáo mang nét phong cách riêng. Nhận xét về phong cách thơ Hữu Thỉnh, Nguyễn Đăng
Điệp cho rằng: “Hữu Thỉnh vẫn là nhà thơ mạnh về tứ. Không chỉ nhuần nhuyễn trong
cách lập tứ cho chỉnh thể toàn bài, mà nhiều khi, trong thơ Hữu Thỉnh tứ nằm ngay trong
phạm vi câu” [30].
Trong các bài viết của mình, các tác giả, nếu có đề cập đến nghệ thuật thơ Hữu
Thỉnh, thường gặp nhau ở chỗ dừng lại ở việc nhận diện một điều tối giản dị: khẳng định
Hữu Thỉnh là nhà thơ mạnh về tứ và phó thác niềm mong mỏi chứng minh cụ thể biểu
hiện đó vào lớp sương mù ảm đạm của sự vô tình hay hữu ý một cách khoa học. Ở đây,
chúng tôi không có tham vọng trình bày tất cả hay gần như thế, về tứ thơ trong thơ Hữu
Thỉnh, mà chỉ dừng lại ở công việc mà theo chúng tôi, vô cùng cần thiết trong việc tiếp
cận tứ thơ trong thơ Hữu Thỉnh: cách tổ chức tứ thơ.
Qua khảo sát thơ Hữu Thỉnh, chúng tôi nhận thấy tứ thơ trong thơ ông phần lớn
được tổ chức theo hai dạng: đặt sự vật, hiện tượng vào trong những liên tưởng so sánh và
đặc biệt, một điều vô cùng nổi bật, tác giả rất ưa thích việc vận dụng và kết hợp yếu tố
thực và ảo để xây dựng nên tứ thơ. Và đây là cách tổ chức tứ thơ đáng chú ý nhất của
ông.
Sự kết hợp giữa thực và ảo trong thơ là một điều đã cũ trong kí ức chúng ta. Công
việc này phổ biến đến mức trở thành một thủ pháp nghệ thuật chung của không ít những
nhà thơ trước đó, trong nền văn học dân tộc cũng như văn học thế giới.
Lí thuyết về thi pháp thể loại đã chỉ cho chúng ta vai trò quan trọng như thế nào
của cảm giác trong sáng tác thơ. Thậm chí trong nhiều trường hợp khả quan nhất, người
ta phải từ bỏ thói quen coi thường nó nếu muốn viết được những câu thơ để đời. Đây rõ
ràng là một ngón nghệ tinh vi của không ít những nhà thơ nổi tiếng Việt Nam cũng như
thơ ca thế giới. Bởi lẽ, thông qua cảm giác, nhà thơ có thể cụ thể hóa một cách tài tình
những sắc thái mơ hồ thành những dấu chỉ cụ thể của nhận thức. Trong thơ hiện đại, với
những gì chúng ta có đến lúc này, có thể đồng ý với nhau rằng sự kết hợp giữa cái vô
hình và cái hữu hình, cái cụ thể và cái trừu tượng đã trở thành một hiện tượng rất đổi
quen thuộc. Nhưng cái mốt thi ca ấy là một cạm bẫy xa hoa sẵn sàng làm thăng hoa tên
tuổi một nhà thơ nào đó lên đỉnh cao sáng tạo, cũng như luôn phóng khoáng trong việc
đào thải những tài năng bình thường hay dưới mức bình thường. Nghĩa là, một điều hết
sức quan trọng, nhà thơ phải tạo được cái riêng, phong cách của mình trên cái cái nền của
thiên hạ.
Trong hệ thống trường ca sau 1975, theo thống kê của Lê Lưu Oanh những câu thơ
được viết theo dạng thức này chiếm một tỉ lệ không nhỏ: “Những người đi tới biển
(Thanh Thảo) có 86/1257 câu, Những ngọn sóng mặt trời (Thanh Thảo) có 120/2577 câu,
Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh) có 124/1590 câu, Mặt trời trong lòng đất (Trần Mạnh
Hảo) có 110/2074 câu”. [108, 152].
Đọc thơ Hữu Thỉnh, chúng ta chạm mặt một cách thường xuyên với những hình
ảnh này: “Tiếng bìm bịp bập bềnh trong đêm nước lên”/ “Chúng tôi bơi trong thương
nhớ của riêng mình” (Chuyến đò đêm giáp ranh); “Đất nước theo em ra ngõ một mình /
Cau vườn rụng một tàu đã cũ” (); “Cô đơn đầy đường không ai thèm nhặt” (); “Ra sông
vớt đám củi rều / Cha tôi mang về những khúc ca trôi nổi” (), “Em vừa gỡ gió ngoài sân
/ Anh vừa góp được một lần vu vơ” (Vu vơ); “Sóng miên man hao hụt cả hoàng hôn”
(Chiếc vó bè),…
Thơ Hữu Thỉnh có một tần số cực lớn những câu thơ có sự kết hợp của cái hữu
hình và vô hình: “vịn vào tiếng hát”, “ý nghĩ hằn lên”, “cười rung bè rau muống”,
“chiều thu sang sông”, “đêm căng như tờ giấy”, “bập bùng thương nhớ”, “nhem nhuốc
cả ngày xanh”, “xiêu quẹo đỡ một hoàng hôn rách rưới”, “Nụ cười ẩn giữa binh đao”,
“tình thương đi đưa đám hận thù”, “nhấp phải chút tương tư”, “mưa ẩm cả hồn anh”,
“thất tình loang bóng cỏ”, “buồn như lá sen rách”, “Chim đầy mùi trời – trời đầy mùi
thiên hạ”, “Mây đem một mảnh nhỡ nhàng về quê”, “cầm thời gian lên soi”, “Vớt tiếng
sáo diều đắm đuối”, “trong gió bão chúng tôi đo Tổ quốc – bằng đôi tay vượt biển lính
xa nhà”…đã chứng minh đây là một trong những đặc điểm thi pháp nổi bật của thơ Hữu
Thỉnh.
Theo Lí Hoài Thu: “thông qua cảm giác, nhờ cảm giác, nhà thơ có thể cụ thể hóa
một cách tài tình những sắc thái xúc cảm mơ hồ thành những hình ảnh cụ thể” [160]. Và
đó cũng là nguồn cội của sự kết hợp một cách khá thành công và đa dạng của cái hữu
hình và vô hình trong thơ Hữu Thỉnh.
Sau cảm giác, ảo giác cũng là phương diện rất đáng chú ý trong thơ Hữu Thỉnh nói
chung. Trong trường ca, Hữu Thỉnh đã khá thành công khi ghi lại, chụp lại được những
khoảnh khắc bất thường, kì lạ nhưng cũng rất thơ và đầy sáng tạo: “Mẹ đang đi gánh rạ
ngoài đồng/ Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió” (Đường tới thành phố); “Đảo nhỏ
quá nói một câu là hết/ Có gì đâu chỉ cát với chim thôi” (Trường ca Biển); Ta bới sóng
tìm các dòng sông/ Gặp cái chao chân khi em mười tám tuổi/ Ta đi vớt tiếng sáo diều
đắm đuối/ Thúc ba hồi trống quân/ Thúc trống quân cho cá hóa rồng…Vầng trăng quệt
vào anh/ Tương tư từ dạo ấy” (Trường ca Biển).
Nhưng ảo giác cũng không phải là thông điệp của sự ngẫu nhiên. Nó cũng có hành
trạng và xuất thân của mình. Thông thường người ta đồng ý với nhau rằng, tiền thân của
nó là tiềm thức, là những giấc mơ và cũng có thể là vô thức. Trong những cuộc phẩu
thuật quá trình sáng tạo thi ca, những nhà mổ xẻ tận tụy đã đi đến kết luận: ảo giác đến
với các nhà thơ như những phương thuốc nhiệm mầu, không dễ nắm bắt. Điều tối trọng là
các thi sĩ trong những tình huống “ngàn vàng”, phải huy động tất cả trí tuệ trong những
giờ phút làm việc căng thẳng và hào hứng, dựng lại thế giới bằng những hình ảnh không
phải là khách quen, những hình ảnh đã trở nên mòn cũ của thế giới hiện thực. Tức là các
thi sĩ phải sáng tạo ra thứ ngôn ngữ và hình ảnh mang dáng dấp và màu sắc xa lạ của một
thế giới đầy huyền bí, những hình ảnh mang tính cách ngỗ nghịch tồn tại trong hình thức
ít nhiều “quái đản” và kì dị của sự phi lí. Nhưng suy cho cùng, chính sự phi lí và sống
sượng một cách không chịu nổi đó, lại là những nơi người ta nhận diện được gương mặt
đích thực của thi ca.
Các tác giả tận tụy tôn thờ cách viết này thường không cho phép hình ảnh thơ của
mình ung dung dạo trên những con đường đất nện. Họ sở hữu một ước muốn bình dị và
duy nhất: bắt các hình ảnh ấy vượt những cánh rừng xa lạ để đến với cùng mục đích mà
thay vì sẽ rất an toàn nếu toàn bộ kế hoạch diễn ra dưới sự chỉ đạo của thói quen thông lệ.
Song trong thơ Hữu Thỉnh nói chung, ảo giác “là sự thể hiện tư chất lành mạnh,
trong sáng của tâm hồn người lính, đồng thời cũng là cách thức mở rộng không gian hiện
thực của thơ. Theo dòng tâm trạng, qua ảo giác, anh đã tạo ra nhiều đường nét, hình
khối không gian thật đẹp, nên thơ và khoáng đạt” [160].
Trong trường ca Hữu Thỉnh:
“Chiến sĩ vừa đi vừa hát
Cành ngụy trang qua gió thổi ba miền”
(Đường tới thành phố)
Cũng bằng cách thức ấy, Hữu Thỉnh đã mở rộng tối đa biên độ của không gian và
thời gian thông qua sức mạnh chuyển tải và sự hoàng nhoáng của tâm hồn:
“Con đường qua tháng qua năm
Núi đau vỡ đá, rừng bầm tận cây
Vai gùi bước xốp trong mây
Ta đi làm những mặt trời của nhau”
(Đường tới thành phố)
Có những mảng không gian mà trong đó, yếu tố thực và ảo đã đan quyện vào nhau
bền chặt một cách rất hữu cơ, khắng khít:
“Bốn phương với bốn mặt cười
Gần xa mờ tỏ sự dời Bay – on”
(Trước tượng Bay – on)
Nhưng phần cân xứng hài hòa của không gian cũng có thể biến dạng đi để thay vào
đó sự xô lệch, mất cân đối, chông chênh:
- “Chớp nhì nhằng lô – cốt méo bên sông”
(Chuyến đò đêm giáp ranh)
- “Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch”
(Đường tới thành phố)
Nét thi pháp này trong thơ Hữu Thỉnh, ngay từ những cái nhìn đầu tiên đã không bị
tước đi vẻ hứng thú cố hữu, những hiệu ứng mĩ mãn về mặt nhận thức, thẩm mỹ mà
chúng giữ vai trò tác giả. Vấn đề về mức độ im lặng hay cởi mở của cấu trúc những hình
ảnh này không nằm trong mối quan tâm giản dị của chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy thật
cần thiết việc chia sẻ nhận định của Nguyễn Đăng Điệp:
“Đưa thơ về phía ảo, hình tượng thơ sẽ lấp lánh vẻ đẹp của những
giấc mơ. Đó là một thủ pháp mà Hữu Thỉnh thường xuyên sử dụng”;
“và khi đưa thơ về phía ảo, những khi chạm tới chiều sâu và bản chất
của đời sống, Hữu Thỉnh có những câu thơ như nảy sinh từ cõi sâu vô
thức, tiềm thức. Đấy là giây phút kinh nghiệm sống đã thăng hoa
thành tình điệu và cảm hứng nghệ thuật hiện qua những sóng chữ có
sức lan tỏa lâu bền” [30]
Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều lần trong thơ Hữu Thỉnh những dấu chỉ đáng tin
cậy ấy – một nét duyên ngầm tạo nên “chất xa lạ mê li” (Nguyễn Trọng Tạo), một thứ
bùa mê đầy quyến rũ: “Tóc bay trắng trong buổi chiều gió bạc” (Chạm cốc với Xa – in);
“Em đi chiều bỏ không/ Thất tình loang bóng cỏ” (Thảo nguyên); Trời đang chớp gió
trên đầu/ Nụ cười ẩn giữa binh đao nói gì” (Trước tượng Bay – on); “Bóc hạt sen bùi
gặp một tâm sen/ Tâm sen đắng mình ơi ta vẫn đợi/ Nếu em về đường sông gió sẽ thôi
than thở bến đò/ Nếu em về đường mây con chim sẽ cùng anh trở lại” (Nghe tiếng chim
xuân),…
Tuy nhiên, sẽ là một điều châm biếm kì quái nếu chúng ta bằng lòng với nhau rằng
tất cả những hình ảnh thực ảo ấy lúc nào cũng đảm bảo sự phẩm chất ưu việt của nó.
Trong trường hợp này, chúng ta không thể từ chối cách nhìn nó như những tàn tích sống
động của những câu thơ cần phải gia công nghệ thuật nhiều hơn nữa. Điều này hiển nhiên
đến mức làm nản lòng những lời phủ định không mệt mỏi. Bên cạnh đó, ta thấy rằng
“phần lớn những câu thơ của anh đều chứa một sức cảm, một sức nghĩ đáng chú ý.
Trong khi các cây bút thành danh thời chống Mỹ có xu hướng chững lại thì Hữu Thỉnh
vẫn tạo được những câu thơ tài hoa và không kém phần hiện đại” [30].
Trên đây, chúng ta vừa khảo sát một số phương diện nghệ thuật trong thơ trữ tình
ngắn của Hữu Thỉnh.
Ở phương diện ngôn ngữ, Hữu Thỉnh đã có sự tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa
của văn học, văn hóa dân gian và ngôn ngữ đời thường. Trong sự tiếp thu văn học, văn
hóa dân gian; bên cạnh việc sử dụng những mô – típ quen thuộc của thể loại ca dao, hay
tái hiện một phần (hoặc toàn bộ) những câu tục ngữ, thành ngữ; ta thấy nổi lên một đặc
điểm vô cùng quan trọng: sự tiếp thu và cách tân thể loại Kinh thi. Và theo chúng tôi, đây
là đặc trưng quan trọng nhất trong việc kế thừa và sáng tạo những thành quả của nền văn
học dân gian. Ngôn ngữ đời thường trong thơ Hữu Thỉnh không chỉ thu hẹp ở phạm vi từ
ngữ mà còn ở cách nói, cách diễn đạt. Điều đáng lưu ý không nằm ở tần số cao hay thấp
của việc Hữu Thỉnh đưa ngôn ngữ sinh hoạt vào thơ, mà là tính thành thục và không để
chúng rơi vào khuôn sáo hay lạm phát đến mức suồng sã.
Ở phương diện giọng điệu, tương ứng với hai giai đoạn sáng tác, là hai loại giọng
điệu: giọng điệu trữ tình và giọng điệu suy tư – triết lí.
Giọng điệu trữ tình là chất giọng giữ vai trò chủ đạo trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn
sáng tác trong chiến tranh (Âm vang chiến hào và Tiếng hát trong rừng) và tồn tại song
song với giọng suy tư, triết lí trong thơ giai đoạn sau. Nó là kết quả tất yếu của dạng thức
con người đồng cảm. Xét về chất, trong cách tổ chức của giọng điệu trữ tình, yếu tố trữ
tình kết hợp một cách chặt chẽ với yếu tố tự sự, thậm chí trong các trường ca của Hữu
Thỉnh, yếu tố tự sự gần như giữ vai trò chủ đạo.
Suy tư – triết lí là giọng điệu nổi bật trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn sáng tác sau
chiến tranh (Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian). Đây là nghiệm của dạng
thức con người cô đơn. Đến đây, yếu tố tự sự đã dần đi vào thế yếu. Bởi lẽ, con người
đồng cảm, tâm sự đã hoàn toàn thất vọng trong việc kiếm tìm tri âm, tri kỉ. Yếu tố đối
thoại không còn đóng vai trò giữ nhịp. Thay vào đó là tính độc thoại. Và trong những suy
tư về nhân thế, thân phận con người trở thành một khía cạnh nổi bật, là sợi dây nhất quán
xuyên suốt đường thơ Hữu Thỉnh.
Trong nghệ thuật cấu tứ thơ Hữu Thỉnh, cách tổ chức tứ thơ là một khía cạnh đáng
lưu ý. Tứ thơ trong thơ ông phần lớn được tổ chức theo hai dạng: đặt sự vật, hiện tượng
vào trong những liên tưởng so sánh và kết hợp yếu tố thực và ảo. Trong đó, cách tiến
hành thứ hai đóng vai trò đặc trưng và trở thành một điểm mạnh trong nghệ thuật cấu tứ
của Hữu Thỉnh.
KẾT LUẬN
Hữu Thỉnh là một trong những cây bút tiêu biểu của trong thế hệ những nhà thơ
trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ở giai đoạn cuối. Mặc dù xuất hiện hơi
muộn màng, khi nền thơ ca đương thời đã nổ rộ những tài năng và tên tuổi lớn, nhưng
Hữu Thỉnh vẫn từng bước khẳng định được vị trí của mình. Tất nhiên điều đó, không
đồng nghĩa với sự nhắc nhớ đến ông như một cái tên, mà bằng những tìm tòi, khám phá
không ngừng về nội dung và hình thức biểu hiện. Sự liền mạch trong suốt quá trình sáng
tác là điều dễ nhận thấy ở ông. Tín hiệu đó không chỉ là đặc điểm của hành trình sáng tạo
mà còn tiêu biểu cho quá trình vận động và phát triển của thơ ca Cách mạng Việt Nam
trong hơn hai mươi năm cuối thế kỉ trước.
Bên cạnh những đặc điểm chung, thơ trữ tình ngắn Hữu Thỉnh có những nét riêng
về nội dung và hình thức. Với những hiểu biết nhất định, chúng tôi đã đi vào thế giới
nghệ thuật thơ trữ tình ngắn của Hữu Thỉnh ở một số khía cạnh cụ thể của nó.
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của một nhà thơ là việc làm không mới trong điều
kiện hiện nay. Và với những gì có thể, chúng tôi đã cố gắng đi vào một số phương diện:
cảm hứng nghệ thuật, hình tượng và con người, và một số khía cạnh nghệ thuật (ngôn
ngữ, giọng điệu, cấu tứ).
Cảm hứng chủ đạo thơ viết về chiến tranh (Âm vang chiến hào, Tiếng hát trong
rừng, và các trường ca Sức bền của đất, Đường tới thành phố) là cảm hứng sử thi, thể
hiện cách nhìn nhận trước cái cao cả với sự khẳng định một cách say mê tình yêu lớn, lẽ
sống lớn. Trong đó, đối với thể loại thơ trữ tình ngắn là cảm hững trữ tình với sự kết hợp
chặt chẽ với cảm hứng lãng mạn cách mạng.
Cảm hứng thế sự là nét son nổi bật trong giai đoạn sáng tác sau chiến tranh (Thư
mùa đông và Thương lượng với thời gian). Những vấn đề liên quan mật thiết đến thân
phận con người, các giá trị đời sống tinh thần,…được quan tâm đặc biệt trong chiều sâu
chiêm nghiệm nghiêm túc. Cảm thức về thời gian và nỗi cô đơn trở thành nhịp mạnh
trong chuỗi suy tư đó. Quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn đã chi phối một cách
mạnh mẽ đến cách thể hiện những khía cạnh cơ bản của giai đoạn sáng tác này.
Hình tượng người lính và hình tượng người mẹ là những hình tượng bao trùm
trong sáng tác trong giai đoạn chiến tranh. Nhìn chung, hai hình tượng này được khai
thác chủ yếu ở khía cạnh lạc quan cách mạng trong mối quan hệ với cái chung cái cộng
đồng, mà nổi bật nhất là những hi sinh và những đóng góp thầm lặng cho cuộc cách
mạng. Ở hình tượng người mẹ (và người chị) Hữu Thỉnh thường chú ý ở phương diện
“đau thương, bất hạnh, những thiệt thời hi sinh, nhẫn nại” [130, 40]. Xu hướng phản ánh
phổ quát về cuộc sống và con người ở giai đoạn này nằm trong sự đơn nhất, đặt trong trục
tọa độ của lí tưởng độc lập tự do, xoay quanh các mô – típ chịu đựng, hi sinh – chiến
thắng, thiên về xu hướng tổng kết chiến tranh ( rõ nhất là ở thể loại trường ca). Ở giai
đoạn sáng tác sau, trong thơ trữ tình ngắn, hai hình tượng này gắn liền với cảm hứng thế
sự - đời tư. Con người được khám phá chủ yếu ở sự đa dạng của cuộc sống, và thường
hay trăn trở, suy tư trước cuộc đời. Hình ảnh của họ hiện lên một cách chân thực trong
mối quan hệ với cuộc sống đời thường, mà nét chính yếu nhất không gì khác hơn là
những lo toan, vất vả, nhục nhằn trong cuộc sống. Người mẹ đến đây trở thành đối tượng
hoàn toàn cho những tâm tư về nhân tình, thế thái của nhân vật trữ tình, và được soi sáng
một cách liên tục bằng cái nhìn của cái tôi trữ tình cá nhân.
Trong cách tiếp thu những tinh hoa của nền văn học văn học, văn hóa dân gian,
dấu ấn lớn nhất mà người đọc nhận thấy ở Hữu Thỉnh là cách đưa vào thơ lời ăn tiếng nói
của nhân dân lao động, những mô – típ trữ tình của ca dao truyền thống, cách vận dụng
thành ngữ và tục ngữ một cách sáng tạo. Tuy nhiên, điều đáng lưu tâm không nằm hình
hài cái khung tiếp nhận đó. Trong cách tiến hành của mình, Hữu Thỉnh luôn biết cách
làm tươi nguyên liệu cũ. Chẳng hạn, ở thể loại ca dao, nhà thơ đã gạt bớt đi phần kể lể và
thổi vào đó sự đong đầy của tâm trạng và tâm lí của con người hiện đại. Tất cả điều trên
mang lại cho thơ Hữu Thỉnh một nét riêng về mặt ngôn ngữ: giản dị, chân thật, bình dị,
mộc mạc mà không kém phần tinh tế, bay bổng, sắc sảo. Điều này có tác dụng rất lớn
trong việc hình thành ở ông một phong cách thơ mà không ít nhà phê bình, nghiên cứu
văn học đã bằng lòng với nhau trong một nhận xét mang tính tổng kết: phong cách dân
tộc – hiện đại.
Tương ứng với hai giai đoạn sáng tác là hai giọng điệu nổi bật. Giọng điệu tâm tình
là chất giọng rõ rệt nhất trong thơ trữ tình ngắn Hữu Thỉnh giai đoạn sáng tác trong chiến
tranh. Đây là hình ảnh chân thực của dạng thức con người tâm sự và đối thoại. Trong đó,
giãi bày, chia sẻ trở thành khát vọng xuyên suốt. Thiên nhiên và con người là những đối
tượng thân thiết cho sự trình bày những ngõ ngách tâm tư của nhân vật trữ tình. Và như
một hệ quả tất yếu, trong thơ Hữu Thỉnh giai đoạn này, yếu tố tự sự gắn chặt với trữ tình
để tạo nên sự lắng đọng và thiết tha, ngọt ngào cho giọng điệu. Hình ảnh thơ do đó cũng
trở nên cụ thể, mang đậm tính đối thoại và dấu ấn mô tả, trần thuật.
Ở giai đoạn sau, giọng điệu Hữu Thỉnh có phần nghiêng về phía suy tư triết lí. Yếu
tố tự sự giảm đi, thay vào đó là sự thống ngự của yếu tố trữ tình. Trong tất cả chiều
hướng của các nỗi niềm thế sự, Hữu Thỉnh có mối quan tâm đặc biệt đến thân phận con
người mà nhịp mạnh của nó có phần thiên về khái quát, nâng vấn đề lên tầm triết lí. Con
người tâm sự, đối thoại đã gần như tuyệt vọng trong việc kiếm tìm tri âm tri, tri kỉ và dần
chuyển sang dạng thức con người cô đơn. Tính đối thoại từ đó cũng giảm sút để được
thay thế bằng sự độc thoại.
Nhìn chung dù viết về chiến tranh hay cuộc sống đời thường, Hữu Thỉnh vẫn trung
thành với gam giọng riêng của mình. Đó là chất giọng nghiêng về phía trầm lắng, rợp
mát. Cái bè trầm ấy cùng với sự tinh tế, nhạy cảm trong cách khám phá và thể hiện
(chẳng hạn như triết lí bằng cách mơ mộng) là môi giới quan trọng để nhiều nhà nghiên
cứu khẳng định tính chất nữ tính của giọng điệu thơ Hữu Thỉnh.
Hữu Thỉnh cũng là một trong những nhà thơ thành công trong cách tổ chức tứ thơ.
Trần Đình Sử cho rằng: “Hữu Thỉnh thuộc vào số nhà thơ có nhiều câu thơ hay, tứ thơ
mới lạ, xuất thần của thơ Việt Nam hiện đại” [130, 177]. Ông yêu thích việc đưa thơ về
phía ảo bằng cách đặt trong niềm say mê sáng tạo của mình một tập hợp không nhỏ
những hình ảnh thực và ảo.
Qua khảo sát thơ trữ tình ngắn nói riêng và trường ca Hữu Thỉnh nói chung, ta thấy
rằng, Hữu Thỉnh “thực sự là một tài năng văn học. Tài năng này vừa có tính “tiên
thiên”, vừa là kết quả của một quá trình “nhập cuộc và dấn thân” sâu sắc vào đời sống,
không ngừng mài dũa tài năng và lao động sáng tạo” [130, 8].
Với tất cả vốn liếng mà trí hiểu cho phép, tôi đã cố gắng tìm hiểu vấn đề “Thế giới
nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh” ở một số khía cạnh cụ thể. Nhưng rõ ràng, trong tất cả chiều
kích song hành với sự quan tâm, chắc rằng những thiếu sót trong cách nhìn nhận, đánh
giá hay khái quát bản chất vấn đề là điều không thể tránh khỏi. Đó là những khiếm
khuyết sơ đẳng mà tôi chân thành nhận được sự nhiệt thành góp ý của quý thầy cô để
luận văn được hoàn chỉnh hơn. Tôi thành thật biết ơn cùng với lòng tri ân sâu sắc nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
_____________________
Trần Hoài Anh (2010), Không gian văn hóa trong thơ Nguyễn Bính, trang viet- 1.
studies ngày 04/02/ 2010
Vũ Tuấn Anh (1995), Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1945 2.
đến nay, luận án Phó tiến sĩ KH Ngữ văn, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia, Viện văn học.
Arixtote (1964), Nghệ thuật thơ ca, NXB Văn hóa nghệ thuật. 3.
Lại Nguyên Ân (1986), Văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám – một nền 4.
sử thi hiện đại, Tạp chí văn học số 5.
Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 5.
Bakhtin M. M (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch, 6.
Trường Viết văn Nguyễn Du.
Bakhtin M. M (1992), Những vấn đề thi pháp Dostojevski, Trần Đình Sử dịch, 7.
Nxb Giáo dục.
Nguyễn Duy Bắc (1994), Cội nguồn truyền thống văn hóa dân tộc trong hình 8.
tượng anh hùng của thơ ca Việt Nam (1945 – 1975), Tạp chí Văn học số 7.
Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ Việt Nam hiện đại (1945 – 9.
1975), Nxb Văn hóa dân tộc.
Phùng Khắc Bắc (1991), Một chấm xanh, Nxb Quân đội nhân dân. 10.
11. Thu Bồn (1986), Người vắt sữa bầu trời, Nxb Trẻ Tp Hồ Chí Minh.
Phạm Quốc Ca (2002), Ý thức cá nhân trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1975, Tạp 12.
chí văn học số 12.
Phạm Quốc Ca (2003), Những đặc điểm của thơ Việt Nam sau 1975, luận án tiến 13.
sĩ Ngữ văn, trường ĐH KHXH và NV TP. HCM.
Phạm Quốc Ca (2003), Mấy suy nghĩ về hiện đại hóa thơ, Tạp chí văn nghệ số 17, 14.
18.
15. Nguyễn Phan Cảnh (2000), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
16. Anh Chi, Đường đời – đường thơ Hữu Thỉnh, Tạp chí Hồn Việt ngày 21/07/2010.
17. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, Nxb Văn học.
Phạm Tiến Duật (1983), Vầng trăng và vầng lửa, Nxb Văn học. 18.
19. Lê Thị Thanh Đạm (2009), Đặc điểm thẩm mỹ thơ Nguyễn Duy, Nxb Văn học.
20. Trần Quang Đạo (2004), Cái “tôi” mang tính tự sự - một đặc điểm của thơ trẻ sau
1975, Tạp chí nghiên cứu văn học số 5.
21. Trần Đăng (2006), Nghe Hữu Thỉnh thương lượng với thơ, Tạp chí Văn hóa nghệ
thuật số ra ngày 24/ 04/ 2006.
22. Hoàng Điệp (2008), Hữu Thỉnh với thể loại trường ca, Tạp chí văn học số 3.
23. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học.
24. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học.
25. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ, Tạp chí
nghiên cứu văn học, số 9.
26. Nguyễn Đăng Điệp (2006), Thơ Việt Nam sau 1975 – từ cái nhìn toàn cảnh, Tạp
chí nghiên cứu văn học số 11.
27. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên (1968), Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại,
NXB Văn học, Hà Nội.
28. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thơ ca, Nxb Văn học.
29. Hà Minh Đức (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo dục.
30. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo
dục.
31. Hà Minh Đức, Đoàn Đức Phương (2001), Nguyễn Bính về tác gia và tác phẩm,
Nxb Giáo dục.
32. Gorki (1970), Bàn về văn học (tập 1), NXB Văn học.
33. Nhiều tác giả (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học xã
hội.
34. Nhiều tác giả (1981), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới.
35. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.
36. Nhiều tác giả (1985), Thơ Việt Nam 1945 – 1985, Nxb Giáo dục.
37. Nhiều tác giả (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
38. Nhiều tác giả (1998), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
39. Nhiều tác giả (1999), 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
40. Nhiều tác giả (2002), Thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Lao động.
41. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới.
42. Ngân Hà (2006), Thơ Xuân Quỳnh – Những lời bình, Nxb Văn hóa thông tin.
43. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn học.
44. Nguyễn Đức Hạnh (2002), Ảnh hưởng của thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam
hiện đại (Thơ cách mạng và kháng chiến 1945 – 1975), Luận án tiến sĩ, Trường
Đại học
45. Nguyễn Văn Hạnh (1998), Suy nghĩ về thơ Việt Nam sau 1975, Tạp chí văn học số
9.
46. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1999), Lí luận văn học- vấn đề và suy
nghĩ, NXB Giáo dục.
47. Trần Mạnh Hảo (1996), Thư mùa đông của Hữu Thỉnh, Tạp chí văn nghệ quân đội
số 4.
48. Hê – ghen G. F (1973), Mỹ học, Nhữ Thành dịch, Viện văn học.
49. Hoàng Ngọc Hiến (2010), Hữu Thỉnh và thương lượng với thời gian, Tuần Việt
Nam (TuanVietNam.net), ngày 5T06/05/2010.
50. Lưu Hiệp (1999), Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch, NXB Văn học.
51. Nguyễn Thị Hoa (2009), Phép lặp từ vựng và lặp ngữ pháp trong thơ Hữu Thỉnh,
Luận văn Thạc sĩ ngôn ngữ học, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
52. Nguyễn Vũ Phượng Hoàng, Gặp gỡ nhà thơ trong thương lượng với thời gian,
Văn nghệ ngày 24/04/2007.
53. Đặng Vũ Hoàng (2009), Về biểu tượng lửa trong thơ Nguyễn Quang Thiều, Văn
nghệ Công an, số ra ngày 05 /10/ 2009.
54. Lê Thị Bích Hồng, Những kỉ niệm với nhà thơ chống Mỹ Phạm Tiến Duật, Văn
hóa văn nghệ ngày 21/4/2010.
55. Bùi Công Hùng (1980), Vài nét về ngôn ngữ thơ, Tạp chí văn học số 2.
56. Bùi Công Hùng (1980), Mấy quan sát về thơ Việt Nam hiện đại, Tạp chí Văn học
số 5.
57. Bùi Công Hùng (1982), Góp phần tìm hiểu câu thơ, Luận án Phó tiến sĩ khoa học,
Viện Văn học.
58. Bùi Công Hùng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, NXB KHXH.
59. Bùi Công Hùng (1985), Những đặc trưng cơ bản của thơ Việt Nam hiện đại 1945
– 1975, Tạp chí văn học số 1.
60. Bùi Công Hùng (1986), Hình tượng thơ, Tạp chí văn học số 4.
61. Bùi Công Hùng (1988), Biểu tượng thơ ca, Tạp chí văn học số 1.
62. Đoàn Trọng Huy (1993), Khuynh hướng vận động thơ Chế Lan Viên sau 1975,
Tạp chí văn học số 6.
63. Mai Hương (1978), Thơ và sự phản ánh người phụ nữ mới Việt Nam trong kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Tạp chí văn học số 1.
Jung C. G (1995), Quan hệ giữa tâm lí học phân tích và sáng tạo nghệ thuật thơ 64.
ca, Tạp chí văn học số 2.
65. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Nguyễn Quốc Khánh (1999), Thi pháp thơ Chế Lan Viên, Luận án Tiến sĩ Văn
học, Trường Đại học KHXH và NV Tp Hồ Chí Minh.
67. Khrapchenko M. B (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người (Tập 2),
Nguyễn Hải Hà, Lại Nguyên Ân, Duy Lập dịch, Nxb Khoa học xã hội.
68. Khrapchenko M. B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn
học, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch, Nxb Tác phẩm mới.
69. Khrapchenko M. B (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận nghiên cứu
văn học, Trần Đình Sử dịch, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
70. Nguyễn Xuân Lạc (2004), Hoàng Cầm và giai điệu thơ Kinh Bắc, Nxb Trẻ.
71. Đỗ Trung Lai (1986), Một chặng đường thơ Phạm Tiến Duật, Tạp chí văn học số
4.
72. Mã Giang Lân (1983), Suy nghĩ thêm về tứ thơ, Tạp chí văn học số 6.
73. Mã Giang Lân (1984), Thơ Tế Hanh, Tạp chí văn học số 4.
74. Mã Giang Lân (1989), Thơ hôm nay, Tạp chí văn học số 1.
75. Mã Giang Lân (1992), Nhìn lại thơ 30 năm chiến tranh, Tạp chí văn học số 2.
76. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.
77. Mã Giang Lân (2007), Nhịp điệu thơ hôm nay, Tạp chí nghiên cứu văn học số 3.
Phong Lê (1991), Nhận diện văn học Việt Nam sau 1975, Tạp chí văn học số 5. 78.
79. Mai Quốc Liên (2010), Thơ Hữu Thỉnh, Tạp chí Hồn Việt Số 34.
80. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục.
81. Likhachev (1980), Về đặc trưng của từ ngữ nghệ thuật, Tạp chí Văn học số 6.
82. Lixevich I. X (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Trần Đình Sử dịch, Nxb
Giáo dục.
83. Trường Lưu (2001), Mấy ghi nhận thơ người lính của Hữu Thỉnh, Diễn dàn Văn
nghệ Việt Nam, số 6 – 2001.
Phương Lựu (2005), Lí luận văn học cổ điển phương Đông, Tuyển tập 1, Nxb 84.
Giáo dục.
85. C. Mac, Ăng-ghen, V. Lê- nin (1977), Về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự thật.
86. Thiếu Mai (1995), Thanh Thảo, thơ và trường ca, Tạp chí văn học số 9.
87. Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân (1987), Một thời đại mới
trong thi ca, Nxb Văn học.
88. Nguyễn Xuân Nam (1981), Suy nghĩ về tứ thơ, Tạp chí Văn học số 2.
89. Nguyễn Thị Nga (), Tổ quốc trong thơ thời chống Mỹ, Tạp chí Văn nghệ quân đội.
90. Vương Trí Nhàn (1994), Về những tìm tòi hình thức thơ trong những năm gần
đây, Tạp chí Văn nghệ số 32.
Phùng Quý Nhâm (1991), Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh. 91.
Phùng Quý Nhâm, Lê Ngọc Trà (1991), Lí luận văn học, tài liệu của Trường Đại 92.
học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh.
93. Vũ Nho (2006), Vài cảm nhận về tập thơ Thương lượng với thời gian của Hữu
Thỉnh, Báo Đại đoàn kết số ra ngày 26/08/2006.
94. Lê Lưu Oanh (1991), Sự thức tỉnh những nhu cầu xã hội và cá nhân của cái tôi
trữ tình trong thơ hiện nay, Tạp chí văn học số 4.
95. Lê Lưu Oanh (1995), Cái tôi trữ tình trong thơ (qua một số hiện tượng thơ trữ
tình Việt Nam 1975- 1990), luận án phó tiến sĩ KH Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm
Hà Nội 1.
Pospelov (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 96.
97. Đoàn Đức Phương (2006), Nguyễn Bính hành trình sáng tạo thi ca, Nxb Giáo dục.
98. Huỳnh Như Phương (1993), Văn học hôm nay đang nhìn lại chính mình, Tạp chí
văn học số 1.
99. Nguyễn Hữu Quý (2004), Một phác thảo về thơ bộ đội sau 1975, Tạp chí Văn
nghệ quân đội số 611.
100. Nguyễn Thị Quý (2006), Thế giới nghệ thuật thơ Thu Bồn, luận văn thạc sĩ KH
Ngữ văn, Trường ĐH KHXH và NV TP. HCM.
101. Nguyễn Hoàng Sơn (2006), Hữu Thỉnh và chút thảng thốt trước thời gian, báo
Tiền phong số ra ngày 11/ 02/ 2006.
102. Trịnh Thanh Sơn (2002), Đi dọc cánh đồng thơ, NXB Hội nhà văn.
103. Trần Đình Sử (1983), Phẩm chất cái tôi trữ tình, Tạp chí văn học số 1.
104. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới.
105. Trần Đình Sử (1993), Thơ và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình Việt, Tạp chí văn
học số 6.
106. Trần Đình Sử (1994), Hành trình thơ Việt Nam hiện đại, Tạp chí văn nghệ số 41.
107. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
108. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
109. Trần Đình Sử (1999), Ngôn ngữ với việc lĩnh hội tác phẩm thơ, Tạp chí văn học
số 10.
110. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
111. Vũ Văn Sỹ (1996), Yếu tố tự sự trong thơ trữ tình Việt Nam từ sau 1945, luận án
Phó tiến sĩ KH Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.
112. Vũ Văn Sỹ (1993), Sự thụ cảm trí tuệ về số phận (Đọc thơ Phùng Khắc Bắc), Tạp
chí văn học số 3.
113. Vũ Văn Sỹ (1995), Thơ 1945 – 1975, sự biến đổi của thể loại, Tạp chí văn học số
4.
114. Vũ Văn Sỹ (2004), Thơ Chính Hữu – cá tính sáng tạo, Tạp chí Nghiên cứu văn
học số 6.
115. Nguyễn Nguyên Tản (2005), Thi pháp thơ Hữu Thỉnh, Nxb Hội nhà văn.
116. Nguyễn Trọng Tạo (1995), Hữu Thỉnh, thành phố hồn quê, Tạp chí Tác phẩm mới
số 10.
117. Quách Thị Thanh Tâm (2005), Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Đình Thi, luận văn
Thạc sĩ trường ĐH KHXH và NV TP. HCM.
118. Đào Thái Tôn (1986), Nhân đọc Từ chiến hào tới thành phố, Tạp chí văn học số 6.
119. Lê Dục Tú (1992), Về một số đặc điểm thơ hiện nay, Tạp chí văn học số 3.
120. Nguyễn Văn Tùng (2010), Phong cách của nhà văn là gì, Tạp chí Văn học và tuổi
trẻ số tháng 2 (205) 2010.
121. Nguyễn Bá Thành (1990), Tìm hiểu một số đặc điểm của tư duy thơ cách mạng
Việt Nam (1945- 1975), Luận án Phó tiến sĩ KH Ngữ văn, Trường Đại học tổng
hợp Hà Nội.
122. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
học.
123. Thanh Thảo (1999), Hữu Thỉnh gửi Thư mùa đông tới mùa…, Báo Sài Gòn giải
phóng số ra ngày 28/11/1999.
124. Hữu Thỉnh (1976), Âm vang chiến hào, NXB
125. Hữu Thỉnh (1977), Sức bền của đất, NXB tác phẩm mới.
126. Hữu Thỉnh (1979), Đường tới thành phố, NXB Quân đội nhân dân.
127. Hữu Thỉnh (1985), Thêm những đóng góp mới vào thơ bộ đội, Văn nghệ Quân đội
số 1.
128. Hữu Thỉnh (1985), Từ chiến hào tới thành phố, NXB Văn học.
129. Hữu Thỉnh (1985), Thêm những đóng góp mới vào thơ bộ đội, Văn nghệ quân đội
số 1.
130. Hữu Thỉnh (1994), Thư mùa đông, NXB Hội nhà văn.
131. Hữu Thỉnh (1996), Trường ca biển, NXB Quân đội nhân dân.
132. Hữu Thỉnh (2000), Nhập cuộc và hành động, vẻ đẹp của thơ ca kháng chiến, Tạp
chí Văn học số 2.
133. Hữu Thỉnh (2005), Thương lượng với thời gian, NXB Hội nhà văn.
134. Nguyễn Ngọc Thiện (1974), Về chỗ mạnh và chỗ yếu trong thơ Phạm Tiến Duật,
Tạp chí Văn học số 4.
135. Nguyễn Quang Thiều (1992), Sự mất ngủ của lửa, Nxb Lao động.
136. Trúc Thông (2010), Cảm xúc về mẹ trong thi sĩ áo lính, Báo Bắc Giang số ra ngày
22/ 04/ 2010.
137. Lưu Khánh Thơ (1988), Hữu Thỉnh, một phong cách thơ sáng tạo, Tạp chí văn
học số 2.
138. Lưu Khánh Thơ (1992), Thơ năm 1992, Tạp chí văn học số 2,
139. Lưu Khánh Thơ (1999), Diện mạo thơ 1998, Tạp chí văn học số 1.
140. Bích Thu (1978), Vẻ đẹp người phụ nữ trong thơ cách mạng miền Nam, Tạp chí
văn học số 1.
141. Lí Hoài Thu (1999), Hữu Thỉnh – Một hướng đi tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc đến
hiện đại, Tạp chí văn học số 12.
142. Lí Hoài Thu (2000), Thực và ảo trong thơ Hữu Thỉnh, Văn hóa văn nghệ công an
số 7.
143. Nguyễn Thị Thung (2008), Phong cách thơ Phạm Tiến Duật, Luận văn Thạc sĩ
văn học, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
144. Đặng Thu Thủy (2008), Sự vận động của quan niệm thơ và nhà thơ thời kì đổi
mới, Tạp chí văn học số 7.
145. Phan Trọng Thưởng (1991), Đặc điểm cơ bản của sự phát triển của văn học trong
điều kiện chiến tranh 1945 - 1975, Tạp chí văn học số 1.
146. Phan Trọng Thưởng (2005),Văn học Việt Nam, 60 năm nhìn lại (1945- 2005), Tạp
chí nghiên cứu văn học số 9.
147. Hoàng Trinh (1983), Thơ và hình thức thơ, Tạp chí văn học số1.
148. Nguyễn Nghĩa Trọng (1980), Tìm hiểu ngôn ngữ thơ, Tạp chí văn học số 6.
149. Đỗ Quang Vinh, Đọc tập thơ: “Thương lượng với thời gian” của nhà thơ Hữu
Thỉnh, Báo Bình Thuận số ra ngày 23/03/2007.
150. Trần Đăng Xuyền (1995), Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 – 1975, Tạp
chí Văn học số 9.
151. Trần Đăng Xuyền (2002), Phong cách thơ Phạm Tiến Duật, Tạp chí Văn học số 3.