LUẬN VĂN:
VẤN ĐỀ NHÀ Ở ĐỐI VỚI NGƯỜI
LAO ĐỘNG
Phần I: Lời mđầu
Nhà một nhu cầu bức thiết của số đông dân cư, đặc biệt người lao động.
Không an thì khó lạc nghiệp. túc trong nhà chuột, trong các căn hộ chia vài mét
vuông cho đầu người, sống trên kênh rạch ô nhiễm, các con hẻm lầy lội, thậm chí không
cả những cái vừa kể lay lắt ngày đêm trên lđường , băng ghế công viên , hàng
hiên , dạ cầu với số phận hẩm hiu của người nghèo – và rộng hơn –của nước nghèo .
Thật dễ hiểu khi tình hình từng gia đình khấm kn một chút , chỗ ở – tức nhà
được ưu tiên cải thiện . Nhà ở chính là tiêu chuẩn dễ đo đạc nhất của tình trạng quốc gia ,
phồn vinh hay suy sụp , đang tăng trưởng hay tụt dốc . Hơn nữa , nhà ở còn ghi nhận tình
hình hội rất trung thực : đời sống được cải thiện cho đông đảo hay cho riêng một s
người . Nội thủ đô của nước ta với dân số xấp xỉ 2,5 triệu người, riêng 7 quận nội
thành đã chiếm 52,67% dân s. Mật độ dân số nội thành cao với 15381 người/km2 .
Đặc biệt khu phố cổ mật độ lên tới 70000 –80000 người/km2 . Còn khu vực ngoại thành
mật độ khoảng 1386người/km2 .
Nội quĩ nhà 5,6 triệu m2 , bình quân 4,9 m2 /người . Nhiều nơi trong
thành phố , người nghèo còn chưa nhà hoặc diện tích còn quá thấp (<3m2/người) .
Nhiều nhà ổ chuột , tạm bợ , môi trưòng sống không đảm bảo , nhiều nhà ở thiếu khu ph
, thiếu ánh sáng , dột nát .v..v.. Chính vậy nhà đã tr thành mối quan tâm hàng đầu
của các cấp chính quyền , các ngành , các tổ chức xã hội và đông đảo dân cư .
Phần II – Nội dung:
I. Tổng quan về nhà ở đô thị:
1. Khái niệm và đặc điểm của nhà ở:
Trải qua một thời dài của thời nguyên thuỷ , con người sống chủ yếu dựa vào
các hang động thiên nhiên . Trong thời kì đồ đá mới , sự sống đã bắt đầu có tổ chức và có
sự liên kết . Từ khi bắt đầu nền văn minh lúa nước , để tiện cho việc sinh sống , tổ
tiên chúng ta đã tiến ra trú các vùng đất rộng lớn , từ trung du cho đến đồng bằng .
Nhà ở đã bắt đầu được xây dựng.
Mới đầu , nhà ở là hang động , tức là nơi che được mưa , nắng , gió , bão ... , là nơi
trú ẩn để tránh được srình rập của thú dữ v..v. . Tiếp đó dùng liếp che chắn thô ,
rồi đến nhà mặt bằng hình tròn hoặc xếp đá hoặc kết bằng cành cây . Khi cuộc sống
du canh du cư chuyển sang định canh định cư ,con người đã biết lấy gỗ dựng nhà , dần
dần vật liệu để dựng lên một khối không gian sống đã thay đổi , từ đất sét đã chuyển sang
gạch nung v.v.
Qua quá trình phát triển không ngừng của các hình thái kinh tế hội , con
người đã biết ý thức và hiểu được tầm quan trng của nhà ở. Lúc này , nhà ở được hiểu
một sản phẩm hàng hoá đặc biệt , một loại hàng tiêu dùng sinh hoạt bản nhưng
những đặc điểm khác với những loại hàng hoá tiêu dùng khác ở chỗ :
- ng đầu tư một lần tương đối lớn do giá thành nguyên vật liệu cao , chi phí
xây dựng tốn kém .
- Là bất động sản nên không thể di động đưa đến bán khắp mọi i . Đồng
thời được sử dụng trong một thời gian tương đối dài , do đó cũng không thể tuỳ tiện
thay cũ đổi mới .
- Nhà một khối không gian được đặt trên đất , tính chất cố định về
hình dáng , kiến trúc , quĩ đất và điều kiện địa . Vừa là tài sản của sở hữu cá nhân , vừa
là một hộ trong khu nhà ở đô thị nên có tính xã hội tương đối lớn .
- Khi được pháp luật thừa nhận thì mới thể mua bán công khai . Trước đây ,
nhà chỉ đơn giản môi trường sống , chỉ để “ở” theo nghĩa một động từ rất đơn
thuần . Nhưng ngày nay , nhà còn bao gồm cả môi trường trú . “ở” không phải chỉ
để che được mưa nắng đủ còn đóng góp tích cực vào cuộc sống , tạo cho con
người điều kiện lao động , sản xuất , nghỉ ngơi , học hành phát triển về tất cả mọi mặt
.
Môi trường sống những nơi trong tự nhiên con người m thấy những điều
kiện để tồn tại được . Còn môi trường trú một cấu tổ chức của môi trường
sống . Đô thị và làng mạc là hai môi trường cư trú lớn mà con người sống tập trung và
tổ chức . Điển hình sự hình thành các đơnvị gia đình . Gia đình một tổ chức tập hợp
các thành viên quan hhuyết thống cùng sinh sống m việc , gắn vi nhau .
Mỗi một gia đình một tế bào của hội . Sự độc lập của gia đình thể hiện i họ
sống . Thông thường , mỗi gia đình đều có nhà riêng . Tại đó thường xuyên diễn ra các
hoạt động như ăn , , mặc , đi lại , học hành , giải trí ... của các thành viên . Như vậy ,
nhà ở là một nhu cầu cơ bản , không thể thiếu được của con người.
2. Tiêu chuẩn nhà ở:
Mỗi một ngôi nhà cần đáp ứng được tương đối đầy đủ các tiêu chuẩn về lượng, về
chất , về thiết kế xây dựng . Cụ thể như sau :
- Về lượng , không gian bên trong căn hộ được thể hiện bằng diện tích sàn số
buồng . Những yếu tố này phải thích hợp vi qui mô nhân khẩu của mỗi gia đình .
- Về chất , mỗi căn hộ phải đảm bảo mức tiện nghi của chỗ ở về hướng buồng
, thời gian được chiếu sáng , khả năng chống nhiệt , cách âm , chống ồn trang bị vệ
sinh . Trang bị vệ sinh thuộc về chất lượng cơ bản của chỗ ở, thể hiện các phòng
nước , phòng tắm ,... những thiết bị không thể thiếu nhằm đảm bảo vsinh và sự sạch
sẽ của con người.
Chất lượng căn hộ còn thể hiện ở chất lượng xây dựng , cơ cấu kiến trúc , dụng
cụ bếp nước , độ bền vững của ngôi nhà ( niên hạn sử dụng ) và mức độ chịu lửa v..v .
Về mặt thiết kế kiến trúc phải bảo đảm được :
- Diện tích và khối tích các phòng bên trong căn hộ .
- Sinh hoạt độc lập cho mỗi thành viên gia đình .
- Sinh hoạt thuận tiện đối với các hoạt động kinh tế hội chẳng hạn như
gia đình được gần một trung tâm thương nghiệp , trường học , trạm đỗ xe công cộng )
... hoặc nhu cầu sinh vệ sinh như đầy đủ ánh sáng mặt trời , đủ nước sạch
thoát nước bẩn rác rưởi nhanh chóng , có các diện tích phụ và sự yên tĩnh v.v..
- Khả năng mở rộng căn hộ do không gian thường là không thay đổi trong khi
gia đình luôn thay đổi ( chẳng hạn đẻ thêm , thành viên mỗi ngày một già yếu vv.. ) . Mặt
khác , không gian sống cho một gia đình ng không thể không thích hợp với sự biến
động của các thành viên như stăng lên vtuổi thọ , tăng thêm về trẻ em , chăm c
người ốm , sự thay đổi trong quan hệ xã hội của chủ gia đình . Không gian bên trong căn
hộ còn phải gắn với không gian bên ngoài căn hộ nhằm giải quyết các nhu cầu nchỗ
để xe , đồ vặt vãnh , chỗ chơi cho trẻ em , chỗ nghỉ cho người già , nơi sinh hoạt văn hoá
tinh thần cùng những công trình dịch vụ khác . Đánh g một khu nhà , một tnhà
, không phải chỉ về số lượng căn hộ chyếu về khả năng đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt cho một chủ hộ và gia đình họ .
Nếu nhà không thoả mãn được các tiêu chuẩn bản trên thì sẽ gây nhiều khó
khăn , căng thẳng cho các gia đình , chẳng hạn sự chật hẹp và ăn ở chung chạ có tác động
mạnh đến làm việc , nghỉ ngơi , đến những vấn đề tâm sinh lí , sức khoẻ của mỗi ngườ i .
3.Phân loại nhà ở:
Việc đánh giá , phân loại nhà phải dựa vào các tiêu chuẩn thuật liên quan đến
vật liệu sử dụng đxây dựng nhà ở. Thông thường người ta phân biệt nhà theo vật liệu
bền như đá , bê tông, gỗ tốt và vật liệu ít bền như tranh , tre , nứa, lá...
Nhà ở còn được phân loại như nhà kiên cố , bán kiên cố , hoặc nhà tạm theo vật liệu
xây và thời gian sử dụng nhà ở.
Theo qui định của Bộ Xây Dựng, tiêu chuẩn phân cấp nhà ở như sau:
- Nhà nhiều căn hộ, nhà riêng biệt thấp tầng hay cao tầng. Đối vi loại
nhà ở này được phân theo 4 cấp . Cấp I là cấp cao nhất, cấp IV là cấp thấp nhất.