BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thu

VĂN XUÔI THẾ LỮ

TRONG TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trần Thị Thu

VĂN XUÔI THẾ LỮ

TRONG TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

Chuyên ngành :

Văn học Việt Nam

Mã số

: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. NGUYỄN THÀNH THI

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này người viết xin tri ân cố nhà thơ, nhà văn Thế Lữ,

người đã tạo ra những đứa con tinh thần đầy tâm huyết gợi cảm hứng cho tôi thực

hiện đề tài.

Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Thành Thi, người thầy

hướng dẫn đã bỏ nhiều tâm sức chỉ bảo tận tình, định hướng và giúp đỡ tôi từ những

bước đi đầu tiên cho đến khi hoàn thiện luận văn.

Xin cảm ơn người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã ủng hộ và luôn ở bên tôi

những lúc khó khăn để tôi có đủ niềm tin và nghị lực vượt qua những gian nan trong

quá trình học tập và nghiên cứu.

Xin cảm ơn tất cả những nhà nghiên cứu đi trước đã khai mở những con

đường, để luận văn có dịp góp thêm chút tiếng nói vào cuộc hành trình của khoa học

nghiên cứu những vấn đề về Văn học Việt Nam.

Xin trân trọng tất cả những tấm lòng đã đến bên tôi!

Trần Thị Thu

3

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................................... 3

MỤC LỤC ............................................................................................................................... 4

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 6

1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................................. 6

2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................................... 7

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 9

4. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................................... 9

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 9

6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................................... 10

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................................. 12

1.1. Về mối quan hệ giữa hoạt động văn học và hoạt động báo chí của từng thành viên

và của toàn nhóm Tự lực văn đoàn ................................................................................. 12

1.1.1. Vài nét về nhóm Tự lực văn đoàn ........................................................................ 12

1.1.2. Mối quan hệ hai chiều giữa hoạt động văn học – báo chí của từng thành viên và

của toàn nhóm Tự lực văn đoàn .................................................................................... 15

1.2. Về hoạt động văn học – báo chí của Tự lực văn đoàn ............................................. 17

1.2.1. Tự lực văn đoàn và các thành viên ...................................................................... 17

1.2.2. Các mặt hoạt động và ảnh hưởng ....................................................................... 20

1.3. Sự nghiệp văn chương của Thế Lữ trong cái nôi Phong Hóa, Ngày Nay .............. 29

1.3.1. Vị trí nhiệm vụ của Thế Lữ trên Phong Hóa, Ngày Nay ..................................... 29

1.3.2. Quá trình hoạt động, trưởng thành của Thế Lữ – một nhà văn, nhà báo chủ chốt

trong Tự lực văn đoàn ................................................................................................... 31

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI THẾ LỮ TRÊN PHONG HÓA, NGÀY NAY –

NHÌN TỪ NỘI DUNG THỂ TÀI VÀ KIỂU VĂN BẢN .................................................. 39

4

2.1. Các nội dung, thể tài chính trong văn chương Tự lực văn đoàn ............................ 39

2.2. Nội dung, thể tài văn xuôi hư cấu của Thế Lữ trên Phong Hóa, Ngày Nay .......... 40

2.2.1. Nhìn chung về nội dung, thể tài văn xuôi hư cấu của Thế Lữ ............................. 40

2.2.2. Truyện trinh thám ................................................................................................ 42

2.2.3. Truyện kinh dị ...................................................................................................... 49

2.2.4. Truyện “đường rừng” ......................................................................................... 56

2.2.5. Truyện về cái thường ngày (đời tư – thế sự) ....................................................... 59

2.3. Nội dung, thể tài văn xuôi phi hư cấu của Thế Lữ trên Phong Hóa, Ngày Nay ......... 63

2.3.1. Nhìn chung về nội dung, thể tài văn xuôi phi hư cấu của Thế Lữ ....................... 63

2.3.2. Bình điểm văn chương ......................................................................................... 64

2.3.3. Bình điểm các vấn đề văn hóa – xã hội ............................................................... 69

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI THẾ LỮ TRÊN PHONG HÓA, NGÀY NAY –

NHÌN TỪ GIỌNG ĐIỆU, KẾT CẤU, NGÔN TỪ ............................................................ 78

3.1. Giọng điệu, kết cấu, ngôn từ trong văn xuôi hư cấu ............................................... 78

3.1.1. Những giọng văn mang bản sắc riêng ................................................................. 78

3.1.2. Kết cấu hiện đại, linh hoạt, sử dụng táo bạo, khéo léo nhiều yếu tố kinh dị, kì ảo

....................................................................................................................................... 83

3.1.3. Ngôn từ đập mạnh vào giác quan, tâm thức của độc giả .................................... 87

3.2. Giọng điệu, kết cấu, ngôn từ trong văn xuôi phi hư cấu ......................................... 93

3.2.1. Giọng phê bình bút chiến, hài hước kết hợp với giọng tâm tình, khích lệ, sẻ chia

....................................................................................................................................... 93

3.2.2. Kết cấu linh hoạt của một lối viết gọn nhẹ, sắc bén ............................................ 98

3.2.3. Ngôn từ sắc sảo, linh hoạt, áp sát đời sống ........................................................ 99

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 103

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 105

5

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Tự lực văn đoàn (TLVĐ) là một tổ chức văn học ra đời và chính thức tồn tại trong

khoảng 10 năm (Từ 1932 – 1942). Đây là khoảng thời gian mà tình hình xã hội Việt Nam có

nhiều biến động, các tầng lớp nhân dân phân hóa, tinh thần nhân dân xáo trộn. Văn học thời

kỳ này thay đổi từ diện mạo tới nội dung với hàng loạt những thể tài, thể loại mới hình

thành và phát triển. Tự lực văn đoàn góp phần lớn vào việc thay đổi đó của văn học. TLVĐ

là một văn đoàn có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoạt động theo tôn chỉ mục đích riêng và chủ

yếu là hoạt động trong lĩnh vực văn học. Mọi thành viên chủ chốt đều có mối quan hệ chặt

chẽ với nhóm. Họ hoạt động văn học và báo chí trong mối quan hệ tương hỗ trên phương

tiện thể hiện là báo Phong Hóa (PH), Ngày Nay (NN). Từ những công trình nghiên cứu về

TLVĐ và các thành viên chủ chốt chúng tôi thấy những điểm đáng lưu ý:

- Tư liệu để nghiên cứu về TLVĐ chủ yếu trên các sách mà họ xuất bản chứ chưa đối

chứng từ văn bản gốc (báo Phong Hóa, Ngày Nay) như vậy tư liệu ấy có thể chưa đầy đủ,

chính xác. Tự lực văn đoàn không chỉ hoạt động trên lĩnh vực văn chương mà còn có báo

chí. Vì vậy bản thân hoạt động báo chí của TLVĐ cũng cần được nghiên cứu đầy đủ hơn

nếu không thì có thể chưa đầy đủ và chính xác. Vấn đề cần đặt ra là cần nhìn lại TLVĐ

trong mối quan hệ với báo chí và văn hóa, văn học.

- Việc nghiên cứu các tác giả cụ thể một cách tách bạch với hoạt động sôi động của

TLVĐ khiến việc hiểu và đánh giá về tác giả có khi không đầy đủ, không thỏa đáng vì vậy

cần phải đặt sáng tác của từng thành viên chủ chốt của TLVĐ trong hoạt động văn học –

báo chí chung của nhóm thì có thể có những thỏa đáng, đầy đủ hơn.

- Với trường hợp sáng tác của Thế Lữ cũng như vậy. Các công trình nghiên cứu chủ yếu

đi vào mảng thơ, văn xuôi hư cấu còn văn phi hư cấu thì mới chỉ ở dạng điểm qua, chưa

được nghiên cứu nhiều và sâu. Vì vậy cần phải có sự bổ sung nghiên cứu về văn xuôi phi hư

cấu. Văn xuôi nghệ thuật của Thế Lữ cũng cần được nghiên cứu tổng thể, đầy đủ hơn vì các

công trình chủ yếu nghiên cứu hai thể loại là truyện kinh dị và truyện trinh thám. Các

nghiên cứu đã tách các tác phẩm của Thế Lữ ra khỏi báo PH, NN, tách khỏi hoạt động của

TLVĐ hoặc nếu có thì chỉ là nhắc tới chứ chưa nghiên cứu sâu và chưa có công trình nào

đặt Thế Lữ trong TLVĐ. Như vậy khó cắt nghĩa thỏa đáng những giá trị thơ văn của Thế

Lữ. Ngoài ra Thế Lữ là tác giả, là một nhà thơ lớn được đưa vào sách giáo khoa và vì thế

6

việc tìm hiểu đầy đủ và đánh giá đúng đắn thơ văn Thế Lữ là một việc rất quan trọng.

Ngoài những công trình trên, người viết đã thấy được “ánh sáng mở đường” để có khả

năng giải quyết các khúc mắc. Năm 1999 Giáo sư Phong Lê trong bài “Thạch Lam trong Tự

lực văn đoàn” đã chỉ rõ “Đời văn Thạch Lam ngắn ngủi nhưng ông được hưởng tất cả ưu

thế và thuận lợi của văn đoàn mình.”[51, 191]. Như vậy muốn hiểu đầy đủ, sâu sắc Thạch

Lam phải gắn Thạch Lam với TLVĐ. Năm 2004, Lê Minh Truyên thực hiện luận án tiến sĩ

Thạch Lam với Tự lực văn đoàn càng là minh chứng cho việc đặt sự nghiệp văn học giai

đoạn này của các thành viên trong mối quan hệ với TLVĐ là đúng đắn và cần thiết. Năm

2012, Bà Phạm Thảo Nguyên, con dâu nhà thơ, nhà văn Thế Lữ, cùng các cộng sự sau thời

gian dài sưu tầm đã chính thức công bố trên một vài trang mạng nhà nước toàn bộ 414 số

báo Phong Hóa, Ngày Nay. Đây là tư liệu quý có độ tin cậy nhất để đánh giá đúng đắn

những đóng góp của văn đoàn và của các thành viên cho tiến trình văn học nước nhà.

Từ việc nhận thấy những vấn đề như trên và cũng có may mắn từ người khai mở vấn đề

là giáo sư Phong Lê, có điều kiện khai thác tác phẩm từ văn bản gốc là báo PH, NN vừa

công bố, chúng tôi chọn “Văn xuôi Thế Lữ trong Tự lực văn đoàn” làm đề tài luận văn

tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử vấn đề

Nghiên cứu về Thế Lữ giai đoạn này có thể quy vào hai mảng chủ yếu là mảng thơ và

văn xuôi.

- Về thơ: Ngay từ khi đang hoạt động ở Phong Hóa, Thế Lữ đã được Nhất Linh,

Nguyễn Tường Bách, Nguyễn Nhược Pháp, Lê Tràng Kiều,… đăng bài cổ vũ ngợi ca trên

báo. Nhà phê bình Hoài Thanh đã tôn vinh Thế Lữ là “đệ nhất thi sĩ” và ngợi ca: “Độ ấy

thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt

Nam… Thế Lữ đã dựng thành nền thơ mới ở xứ này… Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên

bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa đã tan vỡ.”[85,

163] Năm 1942, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan nhận định về thơ Thế Lữ:

“Ông là một thi sĩ có công đầu trong việc xây dựng nền Thơ mới.”[73, 171] Sau đó là hàng

loạt các bài nghiên cứu, các chuyên luận về Thế Lữ của những giáo sư hàng đầu như Dương

Quảng Hàm, Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành Khung, Phan Cự Đệ, …Họ đều nhận định đóng

góp của Thế Lữ vào việc hiện đại hoá thơ ca Việt Nam, người mở đầu của phong trào Thơ

mới. Ngoài ra còn có các luận văn, luận án như: Năm 1999, Trần Thị Hạnh có luận văn

7

“Thế Lữ - nhà thơ tiêu biểu cho thơ mới buổi đầu” (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội).

Năm 2000, Nguyễn Thanh Xuân có luận văn “Những đóng góp của Thế Lữ vào giai đoạn

văn học 1930 – 1945” (Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà

Nội). Năm 2002, Trần Trung có luận văn “Phong cách nghệ thuật thơ Thế Lữ”, (Trường

Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội),…

- Về văn xuôi: Không chỉ là nhà thơ chân tài, đặt nền móng vững vàng cho thơ mới,

Thế Lữ còn là một nhà văn có tài, người mở đầu cho một số thể loại văn xuôi nghệ thuật.

Những trang văn xuôi đặc sắc của Thế Lữ đã thực sự là những đóng góp quý vào văn xuôi

Việt Nam trước cách mạng. Vũ Ngọc Phan có thể được coi là người đầu tiên nghiên cứu văn

xuôi Thế Lữ. Trong cuốn “Nhà văn hiện đại” ông viết “Về tiểu thuyết, tuy loại truyện trinh

thám ông chưa thành công, nhưng về những truyện ghê sợ, ông đã chứng tỏ là một tiểu

thuyết gia có biệt tài.” [72, 403]. Phạm Thế Ngũ trong cuốn “Việt Nam văn học sử giản

ước tân biên” viết “bên cạnh một Thế Lữ mở đường cho thơ mới mà ta sẽ nói về sau, còn

một Thế Lữ tiểu thuyết gia cũng có nhiều đặc sắc”[61, 482]. Trong lời giới thiệu tập sách về

văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, Nguyễn Hoành Khung có viết: “Ngôi sao rực rỡ

nhất của phong trào Thơ mới thời kì đầu, cũng là cây bút văn xuôi đặc sắc, dồi dào, đề tài

và bút pháp khá đa dạng. Ông được biết trước hết là ở loại truyện kinh dị (…) rồi loại

truyện tình lãng mạn đường rừng (...) và nhất là truyện trinh thám, ông là một trong những

người dẫn đầu về thể lọai tiểu thuyết ở nước ta.”[44, 423] Năm 1991, trong cuốn “Thế Lữ,

cuộc đời trong nghệ thuật” tác giả Hoài Việt đã viết“Thế Lữ là một nhà thơ, nhà văn giàu

tưởng tượng, giàu mộng mơ nhưng ông lại rất tỉnh táo trong phương pháp suy luận khoa

học”[99, 52]. Phan Trọng Thưởng trong bài “Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong” nhận

định: "Với loại truyện li kỳ rùng rợn, không biết ông có phải là tác giả đầu tiên hay không?

Nhưng với Vàng và máu (1934), ông có thể được coi là tác giả đạt đến đỉnh cao của loại

truyện này" [89, 54].

Bên cạnh đó, có những bài viết cũng đi vào một vài khía cạnh trong văn xuôi Thế Lữ

như bài “Thế Lữ và năm hình mẫu truyện trinh thám Edgar Poe” của Hoàng Kim Oanh.

Trong bài này người viết có khẳng định “Về truyện, Thế Lữ là một trong số ít những nhà

văn đầu tiên góp phần lớn hiện đại hóa truyện truyền kỳ, mở đầu truyện kinh dị huyễn tưởng

hiện đại và cũng là một trong những người đặt nền móng cho thể loại truyện trinh thám Việt

Nam”[101, 1]

8

Năm 2006, Phạm Đình Ân có luận án tiến sĩ “Vị trí của Thế Lữ trong tiến trình văn

học Việt Nam hiện đại” (Viện Văn học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam). Công trình đã

giúp cho ta thấy được cái nhìn toàn cảnh về văn chương Thế Lữ trong tiến trình văn học

Việt Nam hiện đại, tuy nhiên về mảng văn xuôi, đặc biệt là văn xuôi phi hư cấu, ông cũng

chỉ điểm xuyết để nhận xét chung.

Từ những công trình nghiên cứu trên có thể nhận thấy:

- Nghiên cứu về thơ Thế Lữ thì khá đầy đủ, đã làm nổi bật khá rõ những giá trị nội

dung, nghệ thuật.

- Về văn xuôi, một số tác phẩm, thể tài, một số mảng chưa được nghiên cứu đầy đủ và

sâu như truyện thường nhật, truyện đường rừng, văn xuôi báo chí. Cần phải bổ khuyết để

được đầy đủ hơn.

- Chưa đặt văn xuôi Thế Lữ trong bối cảnh Tự lực văn đoàn, trong Phong Hóa, Ngày

Nay để nghiên cứu sâu.

Từ cách nhìn nhận trên, luận văn sẽ hệ thống hóa những chỗ còn sơ lược, đặt tác phẩm

của Thế Lữ trong mối quan hệ với TLVĐ theo hướng Giáo sư Phong Lê đã làm và do đó

chúng tôi tiếp cận bài nghiên cứu “Văn xuôi Thế Lữ trong Tự lực văn đoàn” (Dựa trên tư

liệu báo PH, NN)

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là toàn bộ sáng tác văn xuôi Thế Lữ bao gồm cả

những sáng tác hư cấu và phi hư cấu được đăng tải trên PH, NN.

- Phạm vi nghiên cứu là những giá trị, đóng góp văn xuôi Thế Lữ trong mối quan hệ

với hoạt động văn chương của TLVĐ.

4. Mục đích nghiên cứu

- Hệ thống hóa về mặt tư liệu văn xuôi Thế Lữ theo thể tài, kiểu văn bản để tìm hiểu

văn xuôi của ông đầy đủ.

- Tìm hiểu những đặc điểm, giá trị văn xuôi Thế Lữ trong mối quan hệ với hoạt động

văn chương – báo chí vủa TLVĐ.

5. Phương pháp nghiên cứu

9

Triển khai đề tài “Văn xuôi Thế Lữ trong Tự lực văn đoàn”, chúng tôi đã vận dụng

những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

Phương pháp hệ thống: Là phương pháp chính, nhằm thống kê, phân loại các tác phẩm

văn xuôi Thế Lữ sau đó rút ra nhận xét.

Phương pháp liên ngành: Phương pháp quan trọng vì tác phẩm văn xuôi của Thế Lữ

giai đoạn này gắn liền với hoạt động báo chí.

Phương pháp loại hình: Dựa vào đặc điểm chung của một loạt những tác phẩm để

khẳng định sự tồn tại và hiệu quả thẩm mĩ của một loại hình nào đó trong văn xuôi Thế Lữ.

Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số thao tác như so sánh, phân tích, tổng

hợp…trong luận văn của mình.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn tập trung chọn lọc, thống kê, phân loại những ấn phẩm văn xuôi Thế Lữ từ

văn bản gốc và đặt chúng trong mối quan hệ với TLVĐ để thấy đầy đủ, trọn vẹn về văn xuôi

Thế Lữ giai đoạn 1932 – 1942. Bên cạnh đó luận văn còn chỉ ra những đặc sắc về nội dung

và nghệ thuật trong các ấn phẩm đó nhằm góp thêm một tiếng nói mới để khẳng định và

công nhận tài năng Thế Lữ một cách đúng đắn, có cơ sở.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tham khảo, phụ lục, nội dung luận văn gồm ba

chương:

Chương 1: Những vấn đề chung

Tìm hiểu mối quan hệ giữa TLVĐ và Thế Lữ cụ thể là: Về mối quan hệ giữa hoạt động

văn học và hoạt động báo chí của từng thành viên và của toàn nhóm Tự lực văn đoàn; Về

hoạt động văn học – báo chí của Tự lực văn đoàn; Sự nghiệp văn chương của Thế Lữ trong

cái nôi Phong Hóa, Ngày Nay

Chương 2: Đặc điểm văn xuôi Thế Lữ trên Phong Hóa – Ngày Nay nhìn từ nội dung

thể tài và kiểu văn bản

Như nhan đề của chương, chương 2 sẽ tìm hiểu nội dung thể tài, kiểu văn bản làm nên đặc

điểm văn xuôi Thế Lữ. Sáng tác của Thế Lữ chủ yếu đăng trên PH, NN, luận văn sẽ tập

trung căn cứ vào những tác phẩm đăng báo để tìm hiểu nội dung.

10

Chương 3: Đặc điểm văn xuôi Thế Lữ trên Phong Hóa – Ngày Nay nhìn từ giọng

điệu, kết cấu, ngôn từ

Làm rõ một số đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu trong văn xuôi Thế Lữ về phương diện giọng

điệu, kết cấu, ngôn từ.

11

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Về mối quan hệ giữa hoạt động văn học và hoạt động báo chí của từng thành

viên và của toàn nhóm Tự lực văn đoàn

1.1.1. Vài nét về nhóm Tự lực văn đoàn

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) kết thúc, Pháp là nước thắng trận nhưng

lại chịu thiệt hại nặng nề về người và của. Vừa có thể củng cố địa vị “mẫu quốc”, vừa có thể

vơ vét về kinh tế, Pháp một mặt cố ý duy trì nền tảng phong kiến thủ cựu ở Việt Nam một

mặt đẩy mạnh việc khai thác thuộc địa, đưa văn hóa Pháp vào nhằm “đồng hóa” nước ta.

Cũng từ đó, văn hóa học thuật phương Tây bắt đầu phổ cập trong nước. Những tư tưởng tự

do dân chủ lan truyền đến các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức của dân tộc, do

sách báo và du học sinh ở Pháp về cùng với những sách dịch của Trung Hoa và Châu Âu.

Bên cạnh đó, sự phát triển của thương mại và kĩ nghệ làm cho giai cấp trung sản đòi hỏi một

sự thay đổi về chính trị. Cùng với tình hình chính trị, trạng thái văn học nước ta cũng có sự

thay đổi. Tiếng quốc ngữ đã được phổ biến rộng rãi thành ngôn ngữ quốc gia. Có nhiều

nguyên nhân nhưng một trong số ấy là do ảnh hưởng rộng lớn của báo chí. Những tờ báo

lớn lần lượt ra đời như Đông Dương tạp chí (1913), Nam Phong tạp chí (1917), Phụ nữ

tân văn (1929), Đông Tây (1930), Gia Định báo…đã thúc đẩy ngôn ngữ quốc gia nói

chung và văn học nói riêng lên một bước mới. Tự lực văn đoàn ra đời trong hoàn cảnh ấy.

TLVĐ là một văn đoàn do Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) khởi xướng và bắt đầu hình

thành vào cuối năm 1932, chính thức tuyên bố thành lập vào ngày thứ Sáu, 2 tháng 3 năm

1934 (tuần báo Phong Hóa số 87). Đây là một tổ chức văn học đầu tiên của Việt Nam mang

đầy đủ tính chất một hội đoàn sáng tác theo nghĩa hiện đại, và là một tổ chức văn học đầu

tiên trong lịch sử văn học của dân tộc Việt do tư nhân chủ xướng, không dính líu đến vua

quan, thân hào như các thi xã kiểu cũ (như Tao đàn Nhị thập bát Tú, Tao đàn Chiêu Anh

Các, Mặc Vân thi xã), và cũng không phát ngôn cho tiếng nói của quyền lực (như các nhóm

Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí,...). Đứng về mặt xã hội, các thành viên trong văn

đoàn ấy đều là dân thường, nhưng họ lại tập hợp nhau lại vì một lý tưởng muốn cống hiến

cho văn học, thông qua văn học mà đóng góp cho xã hội, và cùng chung sức nhau xã hội

hóa hoạt động sáng tác của họ, trong sự vận hành của cơ chế thị trường văn học nghệ thuật

đang dấy lên từ Nam ra Bắc thuở bấy giờ. Trong khoảng 10 năm (1932 – 1942) tồn tại, văn

12

đoàn ấy với những sáng tác văn học, hoạt động báo chí, xuất bản sách, trao giải thưởng,...đã

tạo nhiều ảnh hưởng đến văn học và xã hội Việt Nam ở thời kỳ đó.

Nguyễn Tường Tam, người chủ xướng của văn đoàn, vốn là người có tinh thần cấp tiến

từ lúc còn trẻ, chịu ảnh hưởng của phong trào yêu nước những năm 1925-1926. Sau khi học

ở Pháp về (1930), với bằng cử nhân khoa học, để kiếm được một địa vị trong xã hội đối với

Nguyễn Tường Tam không có gì khó, nhưng ông đã sớm tập hợp anh em đồng chí dấn bước

vào nghề báo đầy chông gai để có dịp thực hiện giấc mộng vẫn ám ảnh mãi trong tâm trí

mình. Sau thời gian đầu xin giấy phép ra báo Tiếng cười nhưng không được thì cơ hội đến.

Phong Hóa là một tuần báo xuất bản tại Hà Nội. Mười ba số đầu do Phạm Hữu Ninh làm

quản lý và Nguyễn Hữu Mai làm Giám đốc chính trị nhưng do “sắp sửa phải đình bản vì

không có gì mới mẻ để bạn đọc chú ý” nên đã nhượng lại cho Nguyễn Tường Tam. Nguyễn

Tường Tam cùng với sáu người anh em bạn hữu đã làm cho Phong Hóa trở thành “một trái

bom nổ” trong làng báo Việt Nam. Lúc đầu, nhóm có sáu thành viên gồm: Nhất Linh

(Nguyễn Tường Tam) là trưởng đoàn cũng là Giám đốc báo Phong Hóa, Khái Hưng (Trần

Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Thạch Lam

(Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu). Sau này kết nạp thêm thành viên thứ bảy là

Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu). Mặc dù sau này, khi vị thế của nhóm bút đã có tầm ảnh hưởng

rộng lớn và có nhiều người cộng tác thường xuyên nhưng họ vẫn không kết nạp thêm. Có

thể họ vì muốn bắt chước phái Pleiade (Thất tinh) của Pháp vào thế kỉ thứ XVI. Bên cạnh

bảy thành viên chủ chốt ấy thì có những cộng sự viên khác là các nhà văn, nhà thơ như Huy

Cận, Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Phạm Cao Củng,

Nguyễn Khắc Hiếu, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Đinh Hùng, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền

Đắc, Nguyễn Tường Bách,... và các họa sĩ như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát

Tường, Lê Minh Đức (tạo ra nhân vật Xã Xệ),.... Hoạt động của TLVĐ chủ yếu là viết báo

và làm văn. Cơ quan ngôn luận của họ là tuần báo Phong Hóa (1932 – 1936) và Ngày Nay

(1935 – 1940). Đó là hai tạp chí văn chương rất có giá trị. Ngoài ra còn có nhà xuất bản Đời

Nay để tự xuất bản sách của mình. Trụ sở chính của văn đoàn đặt ở nhà số 80 phố Quán

Thánh, Hà Nội. Đây là nơi làm việc, cũng là căn nhà chung của anh em trong TLVĐ. Họ

cùng nhau làm việc, cùng nhau đồng cam cộng khổ để theo đuổi mục đích chung.

Ra đời từ cuối năm 1932 nhưng tới ngày 2 Mars 1934 trong trang hai của báo Phong

Hóa, TLVĐ mới chính thức ra tuyên bố thành lập. Nói về việc ra đời nhóm bút, Tú Mỡ kể,

do làm nhiều mà khi tính sổ vẫn không thấy lãi nên “Anh Tam bèn họp bàn với anh em, và

13

đồng ý với nhau rằng: Không thể chơi với nhà tư sản được. Quyết định thành lập “Tự lực

văn đoàn” trên nguyên tắc làm ăn dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà; tổ

chức không quá 10 người nên không phải xin phép Nhà nước; không cần có văn bản điều

lệ: lấy lòng tin nhau làm cốt, chỉ nêu ra trong nội bộ mục đích tôn chỉ, anh em tự giác tuân

theo…” [58, 140].

Cũng trong số này, TLVĐ đã ra tuyên ngôn, tôn chỉ hoạt động của mình. Tuyên ngôn của

TLVĐ là: “Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới; người trong đoàn

đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sức giúp nhau

để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn

chương(...)Sau này nếu có thể được, Văn đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng Tự Lực

văn đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Đoàn.”[PH số 87,2].

Tôn chỉ gồm mười điều:

“1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách

nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích là để làm giàu

thêm văn sản trong nước.

2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho Người và cho Xã-

hội ngày một hay hơn.

3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những sách có tính cách bình dân và cổ động cho

người khác yêu chủ nghĩa bình dân.

4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.

5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.

6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người

khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả qúi phái.

7. Trọng tự do cá nhân.

8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.

9. Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Annam

10. Theo một trong 9 điều này cũng được, miễn là đừng trái ngược với những điều

khác.”[ [PH số 87,2].

Từ tôn chỉ, mục đích cũng như quá trình hoạt động thông qua hai tuần báo PH, NN, ta

14

nhận thấy TLVĐ đã đề ra và thực hiện hai chủ trương lớn là chủ trương văn học và chủ

trương xã hội.

Chủ trương văn học:

Về hình thức: Họ là những người đầu tiên áp dụng cú pháp của Tây phương. Họ tận dụng

mọi khả năng mô tả của tiếng Việt bằng cách tạo ra một lối hành văn hoàn toàn mới, uyển

chuyển, trong sáng, linh động và nhẹ nhàng để diễn tả những khía cạnh khác nhau của tâm

lí, của tư tưởng.

Về nội dung: Sau khi trau dồi văn tự, họ dùng nó làm lợi khi truyền bá tư tưởng mới, mô

tả tình cảm của thời đại, nghiên cứu phong tục, xây dựng luận đề.

Chủ trương xã hội: TLVĐ chủ trương cải tạo xã hội theo tinh thần mới. Một mặt họ vạch

trần, đả phá những cái mà họ cho là lỗi thời như những tập tục cổ hủ, những nguyên tắc luân

lý lỗi thời, những nếp sống tinh thần lạc hậu; một mặt họ kêu gọi dân chúng cởi bỏ những

xiềng xích cũ, mạnh dạn sống đời sống mới, tự do và tự lập. Theo họ, cái thành trì vững chãi

nhất của phong kiến là chế độ đại gia đình với quyền uy tuyệt đối của cha mẹ, sự nô dịch

phái nữ gây nên những hủ tục ép duyên, gả bán, làm lẽ, đa thê,… Rất nhiều những tác phẩm

văn học của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng,… công kích thẳng vào thành trì ấy. Bên

cạnh đó, bằng những bài phóng sự của Trọng Lang, Thế Lữ, những bài thơ trong mục

Giòng nước ngược của Tú Mỡ,… đã công kích vào tận gốc rễ những thói xấu, những mối

nguy hại cho người dân như thói cờ bạc, rượu chè, nạn trộm cướp hoành hành, nạn mê tín dị

đoan, nạn chạy quyền chạy chức mà không có thực lực của các ông nghị viên, nạn bát nháo

trong các dịp hội hè,…

Như vậy, bằng những hoạt động văn học và báo chí của mình, TLVĐ đã trở thành nhóm

quan trọng, nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại.

1.1.2. Mối quan hệ hai chiều giữa hoạt động văn học – báo chí của từng thành viên

và của toàn nhóm Tự lực văn đoàn

Văn học và báo chí từ đầu thế kỷ XX đã có mối quan hệ lịch sử tự nhiên. Địa hạt văn

chương đã cung ứng cho báo chí một nguồn nhân lực dồi dào và chất lượng. Trên thực

tế, đội ngũ nhà báo Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945, hầu như đều là nhà

văn. Báo chí là miền thu hút những người vốn chuyên làm văn chương, những nhà thơ, nhà

văn nổi tiếng vào làng của mình. Sự thật, một nguyên lý bất di bất dịch của một tác phẩm

15

báo chí hay văn chương, người viết đều bắt đầu từ nội dung, đó là các hiện tượng mang tính

sự kiện nghĩa là các hiện tượng có vấn đề. Cả nhà văn lẫn nhà báo đều kiếm tìm điều đó và

giải quyết nó nhằm thúc đẩy cuộc sống phát triển. Rõ ràng sự gặp gỡ của văn chương và báo

chí đã tạo ra một nguồn năng lượng rất lớn để có thể bùng nổ những tài năng nghệ sĩ. Văn

chương đã không chỉ nâng cao bút lực mà còn góp phần quan trọng vào việc tăng cường bút

hồn cho mỗi bài báo.

Là một nhóm bút ra đời từ hoạt động làm báo, TLVĐ cũng như các thành viên đã chứng

minh rõ mối quan hệ gắn bó, khăng khít, hai chiều giữa văn học và báo chí. Bảy thành viên

chủ chốt của báo PH, NN trước hết được mọi người biết tới là những nhà văn, nhà thơ.

Nhưng để duy trì tờ báo, ngoài việc lựa chọn các bài viết của những người cộng tác thì họ

còn phải sáng tác, viết bài báo. Những tác phẩm văn chương đăng trên báo ngoài mang

trách nhiệm của một sản phẩm văn chương nó còn đáp ứng mục tiêu báo chí. Như vậy, họ

vừa hoạt động văn học, vừa hoạt động báo chí. Hai hoạt động này của họ đi song hành, bổ

sung và hỗ trợ nhau. Nguyễn Thành Thi đã nhận định, “Trong hoạt động của TLVĐ, việc

vạch một đường biên giữa hoạt động báo chí và hoạt động văn chương của văn đoàn là

không đơn giản bởi tính chất “hai trong một” của nó. Phong Hóa, Ngày Nay chủ yếu là báo

văn; tác phẩm văn chương đăng trên các báo này, không phải là tác phẩm báo chí, song lại

nhằm thực hiện mục tiêu của báo chí. Tuy vậy, mỗi kì báo cũng chỉ đăng tải một số tiểu

thuyết, truyện ngắn, kịch, thơ văn trào phúng, phóng sự văn học; còn lại là tin, bài, (tin vắn,

phóng sự điều tra, xã luận, phê bình báo chí), tranh ảnh minh họa, tranh châm biếm, đả

kích. Hai mảng tác phẩm (văn học và báo chí) tương hỗ cho nhau, phát huy thế mạnh của

cả sự khác biệt lẫn tương đồng giữa chúng. Nhiều khi, để hướng đến mục tiêu chung, tác

phẩm báo phải văn chương hóa hoặc tác phẩm văn học phải báo chí hóa ở một vài phương

diện nào đó. Ví dụ: các phóng sự báo chí của Phong Hóa, Ngày Nay thường rất đậm chất

văn chương, phần nhiều mang dáng dấp tác phẩm văn học; tiểu thuyết đăng trên các báo

này thành nhiều kì, để tiện cho người đọc theo dõi, tất nhiên cũng phải sử dụng đến kĩ thuật,

tiểu xảo của báo chí, cách tổ chức trần thuật trong tác phẩm cũng phải thích ứng. Vì thế,

nghiên cứu văn xuôi TLVĐ, không thể không chú ý đến đặc điểm này: đó là những sáng tác

mà cái đẹp, giá trị nhận thức -thẩm mĩ của nó được tạo tác trên lằn ranh báo chí và văn

chương, gắn với các bối cảnh chính trị xã hội, văn hóa rất cụ thể.”[96, 33].

Theo Tú Mỡ, mỗi thành viên chủ chốt thay nhau làm chủ bút trong sáu tháng. Họ viết

báo, viết văn, làm thơ…dưới nhiều bút danh khác nhau. Như Nguyễn Tường Tam có các

16

bút danh Nhất Linh, Bảo Sơn, Đông Sơn,…; Trần Khánh Giư có bút danh Khái Hưng;

Nguyễn Tường Long có bút danh Hoàng Đạo, Tứ Ly; Nguyễn Thế Lữ có bút danh Thế Lữ,

Lê Ta; Nguyễn Tường Lân có bút danh Thạch Lam, Việt Sinh,...Hồ Trọng Hiếu có bút

danh Tú Mỡ.

Báo PH, NN được các thành viên làm cho trở thành những tờ báo được mọi tầng lớp

quần chúng thời ấy hoan nghênh nhiệt liệt vì nó đáp ứng nhu cầu của trí thức, của bình dân.

Nó vạch mặt, chế giễu những kẻ tai to mặt lớn, sống trên thì áp bức bóc lột dưới thì luồn cúi

xu nịnh mà người bình dân căm ghét. Nó bàn đến và tìm cách thực hiện một cuộc đời tươi

sáng thay vào cuộc sống tối tăm, bùn lầy nước đọng. Về văn chương, nó phát huy một lối

văn quốc ngữ trong sáng, phê phán, đẩy lùi thứ văn lai căng hoặc thứ văn khuôn sáo trung

đại. Những hoạt động này luôn được thực hiện thường xuyên, lồng ghép vào nhau. Để đạt

những mục tiêu của văn học, của hoạt động báo chí mà nhóm đề ra, các thành viên chủ chốt

của nhóm phải làm việc liên tục tuy nhiên không chồng chéo công việc lên nhau. Nguyễn

Tường Tam là người có tài, có tâm và có tầm nhìn, biết đoàn kết cả nhóm trong một ý

hướng chung, lại biết khơi gợi đúng thiên hướng của từng người để mỗi tác giả trở thành

một cây bút chuyên biệt nổi danh về một thể loại. Như Khái Hưng được ông khuyến khích

chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo Văn học tạp chí, Duy tân (dưới bút danh Bán

Than) sang viết tiểu thuyết; Tú Mỡ được ông gợi ý chuyên làm thơ trào phúng; Trọng Lang

được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự; còn Thế Lữ dưới con mắt Nguyễn Tường Tam phải là

người mở đầu cho "thơ mới". Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu của mình thì các thành

viên nói riêng cũng như toàn nhóm TLVĐ cùng một lúc có thể thực hiện nhiều công việc

của báo chí và văn học khác nhau.

Có thể nói, trong Tự lực văn đoàn các thành viên và toàn nhóm đã luôn thể hiện mối quan

hệ hai chiều giữa văn học và báo chí.

1.2. Về hoạt động văn học – báo chí của Tự lực văn đoàn

1.2.1. Tự lực văn đoàn và các thành viên

Nhóm TLVĐ gồm bảy thành viên chủ chốt. Họ hoạt động văn học và báo chí trong mối

quan hệ tương hỗ.

Về hoạt động văn học: Với mục đích sử dụng phương pháp thái tây, sửa đổi lối viết, xây

17

dựng một nền văn chương tiếng Việt đại chúng, vạch trần tính chất lỗi thời của những tàn

dư Nho giáo đang ngự trị trong xã hội,… có những tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh,

Thạch Lam, Thế Lữ,… Bên cạnh đó là Thơ mới. Với việc cổ súy cho thơ mới, họ cho đăng

những bài như Tình già của Phan Khôi và mấy bài của Lưu Trọng Lư đã khơi dậy nhiều

tiềm năng thơ mới. Thế Lữ nổi bật với những bài Nhớ rừng, Tiếng sáo thiên thai,…được

Nhất Linh viết bài giới thiệu đã đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn cho Thơ mới. Sau đó, Xuân

Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử,… đã làm cho Thơ mới nổi lên như diều gặp gió.

Bảng 1.1. Thống kê thể loại văn học

mà các nhà văn chủ chốt có trên các mục báo

Thể loại Tác giả Tác phẩm tiêu biểu

Tú Mỡ, Thế Lữ, Giòng nước ngược, Thơ

Xuân Diệu Mấy vần thơ, Thơ thơ,…

Đoạn tuyệt, Đời mưa Nhất Linh, Khái Tiểu thuyết, truyện ngắn

gió, Nắng trong vườn, Mai Hưng, Thạch Lam, Thế

Hương và Lê Phong,… Lữ

Thế Lữ, Thạch Lam Dịch thuật

Về hoạt động báo chí: Mỗi thành viên trong nhóm thay nhau làm chủ bút trong sáu tháng.

Những thành viên vẫn đều đặn chịu trách nhiệm trên một số mục nhất định của báo.

18

Bảng 1.2. Thống kê các mục báo mà các thành viên chủ chốt

thường phụ trách trên Phong Hóa và Ngày Nay

Mục báo Công việc chính Người phụ trách chính

Nói về người Tứ Ly (Nguyễn Tường Từ cao đến thấp

Long)

Nói về việc Tứ Ly (Nguyễn Tường Từ nhỏ đến nhớn

Long)

Nói ngược mà hiểu Tứ Ly (Nguyễn Tường Bàn ngang

ra xuôi Long)

Nhị Linh (Trần Khánh Vạch làm trò cười Những hạt đậu dọn

Giư) những câu văn sai, viết

ẩu, ngớ ngẩn nhặt ở các

sách báo

Nhị Linh (Trần Khánh Điểm cười những Cuộc điểm báo

Giư) điều sai trái lố bịch nhặt ở

các báo

Thơ trào phúng Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) Giòng nước ngược

Phê bình thơ trong Lê Ta (Nguyễn Thế Lữ) Tin thơ

nước và nước ngoài

Hoàng Đạo (Nguyễn Đòi chính quyền Bùn lầy nước đọng

Tường Long) thực dân giải quyết như

vấn đề tự do của nghiệp

đoàn, của báo chí, của dân

quê

Bàn về vấn đề công Hoàng Đạo (Nguyễn Trước vành móng

bằng và luật pháp Tường Long) ngựa.

19

Các tin trong nước Nhất Linh (Nguyễn Tin tức

và ngoài nước Tường Tam)

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động có những mục luôn cố định người đảm trách như

Giòng nước ngược (Tú Mỡ), Tin thơ (Thế Lữ),… thì nhiều mục có sự thay đổi, tham gia

của nhiều người khác. Ví dụ như mục Điểm báo có cả Khái Hưng, Nhất Linh, mục Tin tức

có cả Thạch Lam tham gia,….

Các thành viên trong nhóm ai cũng đảm trách cả hai hoạt động văn học và báo chí. Hai

hoạt động này được thực hiện nhiều khi đồng thời trong cá nhân thành viên nói riêng và

trong toàn nhóm nói chung. Vì thế, hoạt động báo chí cũng như hoạt động văn chương của

văn đoàn trở nên đều tay và ổn định. Mọi thành viên đều có mối quan hệ tương hỗ, họ được

phát huy điểm mạnh của cá nhân nhưng đồng thời cũng tạo nên sức mạnh của tập thể trong

công việc chung.

1.2.2. Các mặt hoạt động và ảnh hưởng

1.2.2.1. Các mặt hoạt động của Tự lực văn đoàn

Hoạt động của TLVĐ trên hai tuần báo PH, NN bao gồm nhiều lĩnh vực. Là một tuần

báo nên PH, NN đã đề cập đến nhiều vấn đề về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội

trong nước và ngoài nước, cung cấp tin tức, thỏa mãn nhu cầu thông tin đến người đọc.

Những sự kiện lịch sử trọng đại như việc Nhật vào Đông Dương đến những sự việc nhỏ

mang tính làng xã như trộm cắp ở làng quê đều đươc nhóm khai thác. Bên cạnh đó những

tác phẩm văn học ra đời liên tục với mong muốn vừa đảm bảo cải cách văn chương, vừa

đảm bảo cải cách xã hội. Có thể quy hoạt động của TLVĐ vào ba nhóm lớn: Hoạt động văn

học – báo chí, Hoạt động văn hóa – xã hội và Hoạt động chính trị

Hoạt động văn học – báo chí đồng thời song hành tồn tại từ giai đoạn đầu. Hoạt động văn

hóa - xã hội phát triển mạnh ở giai đoạn giữa. Hoạt động chính trị của nhóm chủ yếu tập

trung vào những người đứng đầu như Nhất Linh, Hoàng Đạo, xuất hiện và chiếm lĩnh văn

đàn ở giai đoạn cuối.

Giai đoạn đầu TLVĐ chủ yếu là những hoạt động văn học – báo chí. Nó mang lại những

thành công lớn cho TLVĐ. Nhận xét về báo, chính TLVĐ có nói “Phong-hóa ra đời, chú

trọng về trào-phúng và văn-chương, được các bạn hoan nghênh và đã xô báo giới đi một

bước tiến khá dài, và đã từng phá tan bớt những hủ kiến làm cho nó mờ mịt khối óc người

20

ta.”[ PH số 132, 6]

Hàng loạt những tác phẩm ra đời trên báo PH, NN như Nửa chừng xuân (Khái Hưng

1933), Đoạn tuyệt (Nhất Linh 1935), Lạnh Lùng (Nhất Linh 1936)… là những tác phẩm có

tính đả phá mạnh mẽ vào cái thành trì phong kiến. Bên cạnh đó, bằng những bài phóng sự

của Trọng Lang, Thế Lữ, những bài thơ trong mục Giòng nước ngược của Tú Mỡ,… đã

công kích vào tận gốc rễ những thói xấu, những mối nguy hại cho người dân như thói cờ

bạc, rượu chè, nạn trộm cướp hoành hành, nạn mê tín dị đoan, nạn chạy quyền chạy chức

mà không có thực lực của các ông nghị viên, nạn bát nháo trong các dịp hội hè,…

Bằng những câu chuyện khôi hài, những câu thơ trào phúng, những bức tranh hí họa,

những vấn đề xã hội hiện ra dưới góc nhìn tiếu lâm, PH, NN đã chinh phục được độc giả.

Tiếng cười ở đây không vụn vặt, nhảm nhí mà được những người có chuyên môn, làm việc

chuyên nghiệp, chuyên cần, nghiêm túc “bóp óc nghĩ cách cù cho người ta cười” [62, 22].

Cái cười của báo đã góp phần giảm bớt cái tiêu cực trong xã hội, đả phá những tục lệ cổ, đả

đảo những nhân vật thời danh. Hàng tuần, những nhân vật này được những nét vẽ hài hước,

biệt hiệu châm biếm đuổi theo, chế giễu làm trò cười cho độc giả. Có những nhân vật sáng

tạo như Xã Sệ, Lý Toét nhưng cũng có rất nhiều nhân vật thật “tai to mặt lớn” bị đưa ra để

giễu. Tiếng cười đồng tình, đắc ý của người đọc thì có nhiều. Có nhiều người bị đem ra chế

giễu không những không giận mà còn coi đó là chuyện bình thường như ông Nguyễn-văn-

Vĩnh, người thường xuyên bị PH giễu cợt, trong số báo An nam Nouveau, có nói “Báo ấy

(P.H) đã tả những tính cách buồn cười, và nhiều khi vẽ phác ra bằng những nét bút rất có ý

nhị. Họ chỉ hơi ác thôi, nhưng không hề gì, mà chính chúng tôi đây cũng vui lòng để họ riễu

cợt, vì khoa hài hước được quyền làm thế, nhất là ở xứ này, một dân tộc thích chế nhạo như

dân tộc ta.”[PH số 152, 2]. Tuy nhiên cũng có những người không được như vậy. Khi bị

báo Phong Hóa đem ra bông lơn, riễu cợt, châm biếm thì họ ấm ức, tức tối nhất là những

người có quyền thế. Và khi đụng tới Hoàng Trọng Phu trong loạt bài hoạt kê Đi xem mũ

cánh chuồn, thì báo nhận thấy sấm sét. Báo bị đóng cửa trong ba tháng sau số 151

(31/05/1935) báo bị dừng hoạt động đến số 152 (06/09/1935) mới có lại. Việc báo bị đóng

cửa, Tứ Ly cũng đoán biết được “Tôi biết là viết mục “cánh chuồn” sẽ có kết quả không

hay mà vẫn phải viết.”[PH số 152, 3]. Báo hoạt động nhưng không được thoải mái tung

hoành như trước và số 190 (5/06/1936) là số cuối cùng của báo Phong Hóa.

Ngay từ khi báo PH còn hoạt động, nhận thấy những khó khăn và nguy cơ có thể bị đóng

cửa, nhóm TLVĐ quyết định ra thêm một tờ báo nữa là Ngày Nay (NN). Tờ NN ra đời

21

“Vẫn chỉ theo đuổi một tôn chỉ là coi đời bằng một con mắt vui vẻ và phấn đấu song theo

một phương pháp khác với phương pháp trào phúng. Chúng tôi sẽ đưa các bạn đi từ rừng

đến bể, từ thành thị đến thôn quê xem các trạng- thái hiện có ở xã hội. Chúng tôi sẽ đi nhận

xét lấy sự thật, nói lại để các bạn hay và sẽ chụp nhiều ảnh in sen vào bài để các bài này

được rõ rệt hơn. Như thế các bạn chỉ đọc qua cũng như đi đến nơi” [NN số 1, 2]. Tờ Ngày

Nay đã loại hẳn mục Trào phúng và chuyên về Phóng sự điều tra với nhiều hình chụp có

tính cách mỹ thuật như những tạp chí ngoại quốc lúc bấy giờ. Đó là điều làm cho những độc

giả Việt Nam rất hoan nghênh vì nó mang lại những điều mới lạ. Tuy nhiên báo chỉ ra được

13 số là phải dừng vì nhiều lí do như in ấn quá tốn kém, nhân lực phải chia ra cho hai tờ báo

nên giảm giá trị của báo.

Đầu năm 1936, PH bị thu giấy phép, phải đóng cửa. Tuần báo NN trước ra kèm với tờ

PH (số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935, nhưng chỉ ra được 13 số thì phải đình bản),

được TLVĐ cho tục bản để tiếp tục công cuộc đang dở dang (số cuối 224 ra ngày 7 tháng 9

năm 1940). NN mới đầu theo dự định chỉ có hai mục Tiểu thuyết và Trông tìm. Nhưng đến

cuối năm 1936, thời cuộc chính trị sôi nổi vì phong trào kiến nghị để chờ đón Ủy ban điều

tra của chính phủ bình dân Pháp phái sang, TLVĐ bèn cho tái sinh lại phần Trào phúng,

nhưng tiếng cười không lộ liễu, mạnh bạo như PH mà kín đáo hơn. Đồng thời với sự đả phá

cái cũ, TLVĐ còn kêu gọi xây dựng một đời sống mới xứng đáng với con người. Tầng lớp

thanh niên, những người chủ tương lai của đất nước, TLVĐ đặt nhiều hi vọng trong mục

“Mười điều tâm niệm”. Vì thanh niên là “Những người lúc nào cũng nghĩ đến tiến, tiến hơn

lên, tiến hơn lên nữa.” Mà cõi đời cũ của phái thủ cựu “đã đi vào nơi tiêu diệt như đêm tối

tan đi trước ánh sáng của vầng thái-dương.” Vì thế, “cần phải có một cuộc đời mới, với

một tinh thần, một linh hồn mới. Đó là cuộc đời của các bạn, của phái trẻ chúng ta.”[NN số

25, 3].

Lần lượt mười điều tâm niệm được đăng trong các số báo để nói lên tính cần thiết của

việc “theo mới”, “tiến”, “tin”, có “lý tưởng”, “cải cách”, “phụ nữ ra ngoài xã hội”, “luyện

lấy bộ óc khoa học”,… Những tư tưởng lồng trong ý kiến đó đều mới, đều mang tính cải

cách và đáng được trân trọng. Trong các tác phẩm văn học họ cũng xác định rõ ngòi bút của

mình. Hạc (Gia đình), Duy (Con đường sáng) từ bỏ con đường quan trường cũ để sống

theo sở thích và giúp đỡ người nghèo; Dũng và Loan (Đoạn tuyệt) đã dứt bỏ hẳn đời sống

phong kiến cổ hủ; Hồng (Thoát ly), Dung (Hai lần chết) đã lìa bỏ cõi đời để chứng tỏ ý

chống lại xã hội cũ ấy. Hoàng Đạo, nhà lý thuyết của văn đoàn đã coi mười điều tâm niệm

22

như phương châm của con người mới và là “kinh nhật tụng” cho tất cả thanh niên nam nữ

đương thời.

Không chỉ làm thay đổi xã hội về tư tưởng, TLVĐ còn cố gắng thay đổi xã hội bằng

những việc làm cụ thể. Từ những mong muốn của nhóm và đặc biệt là người đầu tàu

Nguyễn Tường Tam, nhóm đã đưa ra ý tưởng và thực hiện việc thành lập “Hội bài trừ

những nhà “Hang tối” tạm gọi là “Ánh sáng” với mục đích là “đem đến cho dân nghèo

khắp nơi những căn nhà sáng sủa, sạch sẽ, đẹp đẽ thay vào những nhà hang chuột tối tăm,

bẩn thỉu, không đáng để người ở.” [NN số 38, 3] Khi thấy cảnh sống khổ cực, cái thảm

cảnh về nhà cửa của nhân dân, trước đó, nhiều lần trên đại diện phát ngôn của mình, nhóm

TLVĐ đã bộc lộ quan điểm, tình cảm. “Chúng ta không có cái gan yên lặng mà trông họ

khổ sở - khổ sở đủ điều- lặng yên để xem họ có thể chịu khổ được đến bực nào, như ta thí

nghiệm xem con ngựa kéo nặng được đến bao nhiêu thì kiệt sức” [PH ngày 11/05/1934],

“Nhiều đến nỗi, người ta cho là một cảnh thường không đáng lấy làm lạ. Hình như đã

nghèo thì bao giờ cũng phải chịu một số phận như thế.”[NN ngày 1/03/1935],“Ước gì nước

ta biết trong sự sống của họ như trong việc thờ phụng.”[PH ngày 16/06/1933].

Như vậy, trước khi ra đời hội Ánh sáng thì tư tưởng nhân đạo của hoạt động này đã có

trong các thành viên và khi ra lời kêu gọi về việc thành lập hội thì đã được sự ủng hộ của rất

nhiều người. Theo lời kể của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát trong bài “Nhà văn hóa Nguyễn

Cao Luyện” đăng trên báo Nhân Dân ngày 31/10/1987 thì “phòng kiến trúc Luyện - Tiếp -

Đức đã đưa ra kiểu nhà ánh sáng bền, chắc, rẻ tiền, văn minh, hợp vệ sinh phục vụ nhân

dân lao động nghèo ở bãi Phúc Xá (Hà Nội). Công trình xây dựng thử nghiệm vừa hoàn tất

đã được dư luận đồng tình và báo chí thời đó giới thiệu rộng rãi, gây được tiếng vang lớn

trong nước và ở một số nước châu Phi.” [40, 31].

Hội Ánh sáng đã thu hút khá đông trí thức, viên chức, nghệ sĩ ở Hà Nội và các tỉnh thành

lân cận như Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định,… vào hội. Khi có cuộc họp của hội, công

chúng và những người quan tâm, muốn tham gia vào hội đến dự rất đông. Theo báo chí hồi

đó và kể cả báo NN đăng thì cuộc họp đầu tiên của hội ở Hà Nội có hơn 2000 người tới dự,

2000 người nữa phải ra về vì hết chỗ ngồi. Đoàn ca vũ May-Blossom đã biểu diễn chào

mừng hội trước khi trở về Hồng Kông. Trong cuộc họp, Nhất Linh đã thay mặt hội tuyên bố

tôn chỉ “Hội Ánh sáng chiếu rọi ánh sáng vào tận các làng xa, ngõ hẻm, và cái xã hội thảm

đạm, tối tăm của ta đây, nhờ đó, không bao lâu sẽ biến thành một xã hội đẹp đẽ, tươi vui,

một xã hội ánh sáng.” [NN số 74, 7]. Hội Ánh sáng ngoài việc quyên góp tiền để làm nhà

23

ánh sáng cho người nghèo còn tham gia các hoạt động cứu tế xã hội như tổ chức phát chẩn

cho nông dân vùng bị lụt ở Bắc Ninh.

Tuần báo NN liên tục đăng những tin tức của hội và cổ động tuyên truyền cho hội.

Những thiên phóng sự về cuộc sống ngột ngạt sau lũy tre làng, những bài xã thuyết về cải

cách hương thôn,… đã tạo được sự cảm thông, niềm trắc ẩn trong nhiều người. Tuy nhiên

hành động từ thiện này của họ vẫn chỉ mang tính bề nổi, không thể giải quyết tận gốc nỗi

khốn cùng của nhân dân lúc đó. Nhưng không vì thế mà không công nhận những đóng góp

của họ trong việc thay đổi, làm dịu đi phần nào cuộc sống quá nghẹt thở, thiếu hi vọng của

người nông dân bao đời.

Tờ NN trong những năm 1937, 1938, 1939 nghiêng nhiều hơn về mặt chính trị khi hầu

như tờ báo nào cũng có đăng bài xã luận đanh thép của Hoàng Đạo bàn về những vấn đề

chính trị và xã hội đòi chính quyền thực dân giải quyết, như vấn đề tự do của nghiệp đoàn,

của báo chí, của dân quê trong mục Bùn lầy nước đọng, vấn đề công bằng và luật pháp

trong Trước vành móng ngựa. TLVĐ càng ngày càng lấn sâu hơn vào lĩnh vực chính trị.

Họ đưa ra những quan điểm cá nhân về tình hình chính trị trên thế giới cũng như trong

nước. GS Phạm Thế Ngũ nhận xét: “Đối với nhóm Tự Lực văn đoàn, thì những gì "xinh tươi

ngày trước" đã phai nhiều…”[31, 6]. Khuynh hướng văn học vẫn được văn đoàn duy trì ở

giai đoạn này nhưng tiếng cười hài hước không còn tràn lan như trước và những cây bút đầy

nhiệt tình về văn chương cũng không còn được sung mãn, thuần chất như trước. Một

khuynh hướng mới bắt đầu hé lộ những miền khuất tối, không thể nhận biết của cái “tôi” cá

nhân kể cả trên quá trình phân thân, tự hủy như trong Bướm trắng, 1939; Băn khoăn 1942.

Không chỉ nổi bật ở hai tuần báo PH, NN, TLVĐ còn mang đến sự đổi mới mạnh mẽ khi

có cả một nhà in riêng chuyên in sách báo của họ. Ra báo PH được vài tháng, sau khi nhóm

đã tuyên bố thành lập và đi vào ổn định, Nguyễn Tường Tam nghĩ ngay đến sự cần thiết có

một nhà xuất bản. Vì mặc dù anh em trong nhóm đã thắt lưng buộc bụng để dành tiền cho

báo phát triển nhưng “anh Tam vẫn phải chạy tiền khá chật vật để mỗi tuần kịp trả đủ nhà

in họ mới giao báo cho, lại phải lo tiền mua xỉn giấy của bọn đầu cơ với một giá cắt cổ.”

[58, 139] Mới đầu ông nhờ người ngoài có vốn thành lập hội An Nam xuất bản cục. Mấy

tác phẩm đầu tiên như Vàng và máu, Nửa chừng xuân, đều in ở đó. Sau đó, để bảo toàn tính

cách độc lập và đã có đủ lực về kinh tế, văn đoàn mới dựng ra nhà xuất bản Đời Nay.

Những tiểu thuyết của nhà văn trong văn đoàn viết thường đăng lên báo trước sau đó mới

xuất bản sách. Nếu báo bán rất chạy thì sách của họ in ra cũng không kém “Sau 12 tháng

24

làm việc họ đã cho ra đời 54 ngàn cuốn, tất cả đều là tiểu thuyết, trừ hai tập thơ của Thế Lữ

và Tú Mỡ”[62, 25].

Mới đầu nhà xuất bản Đời Nay chỉ xuất bản sách của nhóm TLVĐ sau đó họ mở rộng ra,

xuất bản cả những sách được giải thưởng Tự lực hoặc sách của những nhà văn khác mà họ

công nhận giá trị và thấy không sai ngược với tôn chỉ của mình như tiểu thuyết của Nguyên

Hồng, Nguyễn Khắc Mẫn; thơ của Anh Thơ, Tế Hanh,… Không những chú trọng vào nội

dung của tác phẩm, Nguyễn Tường Tam còn chú ý trình bày sách cho có mỹ thuật từ ngoài

bìa đến các trang trong. Chính vì thế những sách của Đời Nay xuất bản bán rất chạy, thường

ra cuốn nào bán hết ngay cuốn đó. Tú Mỡ nhớ lại “Sách của Tự Lực văn đoàn ra nghìn nào

hết nghìn ấy, có quyển in lại lần thứ tám.” [58, 142]. Lần đầu tiên nước ta có một nhà xuất

bản theo đuổi một mục đích văn học, làm việc dưới tôn chỉ văn học. Theo Phạm Thế Ngũ

“có thể nói nhà Đời Nay đã mở ra một kỷ nguyên mới cho cuốn sách trong lịch sử văn học

Việt Nam, đồng thời giúp văn đoàn họ truyền bá rộng rãi những tác phẩm cùng tư tưởng

quan niệm văn đoàn.” [62, 25]. Đến năm 1940, tờ báo Ngày Nay đóng cửa nhưng nhà xuất

bản vẫn còn và tiếp tục công việc phổ biến sách.

Không chỉ sáng tác văn học, TLVĐ còn luôn khuyến khích những tài năng về văn học.

Ngay từ khi báo Phong Hóa mới ra đời họ đã có cuộc thi viết truyện ngắn. Cuộc thi để trao

giải cho những truyện ngắn hay, xuất sắc. Sau này, họ đặt ra Giải thưởng Tự lực văn đoàn

để trao giải thưởng cho các nhà văn có truyện ngắn đăng trên báo hoặc gửi về báo để dự thi.

Giải thưởng đã được xét trao tất cả ba lần 1935, 1937, 1939. Đây là một giải thưởng uy tín,

một bảo chứng danh giá cho sự nghiệp văn chương của người đoạt giải. Giải này có tính

phát hiện cao. Khi nhận xét về nhà văn Nguyên Hồng và lối phóng sự tiểu thuyết của ông,

TLVĐ viết “Thể văn đó rất hợp với cách viết văn của ông và chúng tôi có thể đoán biết ông

Nguyên Hồng sau này sẽ nổi tiếng trong thể văn ấy.” “Ông Nguyên Hồng là một cái tài còn

trẻ (không phải vì trẻ tuổi, chúng tôi không biết tuổi ông bao nhiêu) rất nhiều hứa hẹn và hi

vọng.”[NN số 81, 7]. Hầu hết các tác phẩm được giải là tác phẩm đầu tay và nhiều tác phẩm

trong số đó lúc ra mắt qua giải thưởng TLVĐ như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Bức tranh quê

của Anh Thơ,… đã thành “hiện tượng” trong đời sống văn học. Và cũng thật thú vị khi

những nhà văn TLVĐ, vốn được coi thuộc khuynh hướng lãng mạn lại cho biểu dương

những cây bút gần như ngược hẳn với mình, đậm chất hiện thực xã hội, nhiều khi đến gay

gắt. Ví dụ như vở kịch Kim Tiền của Vi Huyền Đắc “cái luận đề mà ông Đắc nghiên cứu là

sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền có thể làm thay đổi được lòng người ta”[NN số 81, 7].

25

Điều đó có tác dụng khơi gợi, quy tụ nhiều tài năng mới và tạo được sự tín nhiệm trong giới

văn học.

Khoảng năm 1937, không khí của chiến tranh thế giới thứ hai tác động mạnh đến đời

sống xã hội Việt Nam. Năm 1940, Nhật vào Đông Dương, Nguyễn Tường Tam và một số

thành viên trong nhóm chuyển sang hoạt động chính trị. Cuối năm 1940, Khái Hưng, Hoàng

Đạo, Nguyễn Gia Trí,… bị thực dân Pháp bắt giam rồi đầy lên Sơn La. Năm 1942, Nguyễn

Tường Tam trốn sang Trung Quốc, Thạch Lam mất vì bị bệnh lao phổi tại Hà Nội. Theo

một số nhà nghiên cứu thì TLVĐ cơ bản đã tan rã từ khi ấy (tự giải tán vì “sẩy đàn tan

nghé” chứ không phải tuyên bố lý do.)

Tuy chỉ thực chất tồn tại trong mười năm nhưng những gì mà TLVĐ đóng góp cho nền

văn học dân tộc quả thực không nhỏ. Mặc dù đến sau này, một số thành viên trong nhóm đã

đi vào con đường chính trị và có phần lệch lạc nhưng cũng không nên khe khắt trong việc

đánh giá về những đóng góp cho nền văn học nước nhà của nhóm bút. Trước đây, khi nói

đến tổ chức văn học này, nhiều người thường dè dặt với những định kiến nặng nề. Bởi, về

chính trị, mấy người chủ chốt của nhóm (Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo) bị coi là cải

lương tư sản và phản động ở giai đoạn cuối. Về văn học, tác phẩm của họ bị cho là phần

lành mạnh thì ít, phần độc hại thì nhiều, không những không được cho in lại mà còn bị cấm.

Những đóng góp của TLVĐ chưa được đánh giá khách quan, công bằng. Bước vào thời kỳ

đổi mới, thái độ ứng xử với TLVĐ đã thay đổi rõ rệt. Nhiều tác phẩm của các nhà văn trong

nhóm được tập hợp, in thành sách. Nhiều công trình nghiên cứu, những luận văn, luận án,…

khảo sát, tìm hiểu, đánh giá một cách công tâm hơn về TLVĐ. Ngoài ra còn có những cuộc

hội thảo như vào tháng 5 năm 1989, khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp phối hợp với

Nhà xuất bản Đại học đã tổ chức Hội thảo về văn chương Tự lực văn đoàn. Ở đó “đã có

nhiều ý kiến đánh giá có lý, có tình, thỏa đáng về hiện tượng văn học phong phú và phức

tạp này” (Báo Giáo viên nhân dân số đặc biệt 27,28,29,30,31 tháng 7.1989). Gần đây nhất,

vào tháng 10 năm 2012, tại trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh, hội thảo “Phong trào

thơ mới và văn xuôi TLVĐ – 80 năm nhìn lại” đã thu hút được sự quan tâm của nhiều

người. Khi nói về “nhìn lại” văn xuôi, PGS.TS Nguyễn Thành Thi trong bài báo cáo tổng

kết có nói “Không thể, không nên chỉ bó hẹp nghiên cứu văn xuôi TLVĐ trong sáng tác tiểu

thuyết của vài ba nhà văn “trụ cột”, mà cần phải nghiên cứu toàn bộ sáng tác văn xuôi của

họ; cần phải đặt mỗi bộ phận, loại hình, thể tài trong mối quan hệ tương tác với các bộ

phận, loại hình, thể tài khác, cũng như trong bối cảnh tạo sinh ra chúng của văn xuôi TLVĐ

26

để xem xét, đánh giá một cách công bằng, thỏa đáng, khoa học hơn.”[95, 3]. Năm 2013, tại

Nam California Hoa Kỳ có hội thảo Phong Hóa – Ngày Nay – Tự lực văn đoàn. Hội thảo có

sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, biên khảo,… đã cho thấy nhiều điều mới về TLVĐ.

Như vậy, TLVĐ ngày càng được giới học giả quan tâm và đánh giá đúng đắn hơn. GS.

Hoàng Xuân Hãn cho rằng “Nhóm Tự Lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất, nhưng là

nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại”[31, 6]. GS.

Dương Quảng Hàm cũng nhận định “Công việc của Tự Lực văn đoàn đã có ảnh hưởng về

đường xã hội và đường văn học. Về đường xã hội, cái biệt tài trào phúng của phái ấy, cả

trong thơ văn và trong các bức hí họa, đã làm rõ cái dở, cái rởm, cái buồn cười, cái giả dối

trong các hủ tục, thiên kiến của ta. Tuy nhiên, phái ấy không khỏi có những điều thiên lệch.

Có những tục không đáng công kích mà cũng công kích... Về đường văn học, phái ấy đã gây

nên cái phong trào “thơ mới” và làm cho thể văn tiểu thuyết được đắc thắng. Phái ấy lại có

công trong việc làm cho văn quốc ngữ trở nên sáng sủa, bình giản, khiến cho nhiều người

thích đọc ...”[31, 6].

Người viết cũng đồng ý với những nhận xét trên và đặc biệt là ý kiến được coi là bản

tổng kết của GS. Nguyễn Huệ Chi về văn học của TLVĐ: “Trong lĩnh vực văn học, đóng

góp của Tự lực văn đoàn có vai trò đáng kể. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam

hiện đại thực sự hình thành và ghi được những thành tựu cơ bản nhất thông qua hoạt động

của văn đoàn này. Phải bắt đầu từ đây, thơ và tiểu thuyết mới đi vào thế giới bên trong

nhân vật, giúp người đọc khám phá trực diện vẻ đẹp của cái “tôi” và tạo ra cách đọc “phản

tỉnh”, tức là nhìn sâu vào cõi lòng mình. Về hình thức, tiểu thuyết của văn đoàn đã vượt ra

khỏi phạm trù văn học “giao thời” (30 năm đầu thế kỷ 20), có cấu trúc mới mẻ, trong đó

quy luật tâm lý thay cho lối trần thuật một giọng của người kể chuyện. Câu văn trong văn

xuôi đã trở nên trong sáng, chuẩn mực, giàu khả năng biểu cảm tuy có lúc còn đơn điệu.

Cùng với việc đào sâu tâm lý nhân vật, thiên nhiên cũng trở thành một đối tượng thẩm

mỹ...”

[14, 1903].

1.2.2.2. Ảnh hưởng của Tự lực văn đoàn

Hai tuần báo PH, NN là cơ quan ngôn luận thực hiện tôn chỉ, mục đích của TLVĐ. Nhìn

chung, tuy thành viên của TLVĐ có phong cách thể hiện khác nhau, song các sáng tác của

họ đều tuân theo tôn chỉ (10 điều) mà TLVĐ đã đề ra, và đúng như lời họ quảng cáo: "Bàn

27

một cách vui về các vấn đề cần thiết: Xã hội, chính trị, kinh tế. Nói rõ về hiện tình trong

nước" [PH số 13].

Đối với các thành viên, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo cộng tác với TLVĐ thì nơi đây

chính là ngôi nhà chung, là nơi bồi dưỡng và phát triển tài năng của nhiều người như Tú

Mỡ, Thế Lữ, Xuân Diệu,… Ở đó họ cùng nhau làm việc, cùng nhau phấn đấu, vượt qua

những khó khăn để hướng đến lý tưởng chung tốt đẹp. Hầu như những người trong số họ

sau này đều trở thành những nhà văn, nhà thơ, nhà hoạt động nghệ thuật nổi danh. Trong nội

dung tác phẩm, các nhà văn biết mô tả những hoài bão, nguyện vọng, những thắc mắc, lo

âu, những nỗi niềm vui sướng hay sầu thảm của cả một thế hệ.

Mười năm ra đời và phát triển TLVĐ cùng với hai đại diện phát ngôn của mình đã để lại

những đóng góp to lớn trong việc hiện đại hóa văn học nước nhà. Là những người đầu tiên

biết sử dụng một lối văn sáng sủa, thích hợp để diễn đạt những tư tưởng và tình cảm của

thời đại, bên cạnh đó, các tác phẩm của TLVĐ cũng thấm đượm về mặt nhân văn, tinh thần

chống lễ giáo phong kiến, chống các hủ tục. Cùng với đó là ý thức đả kích những kẻ xu nịnh

thực dân, châm biếm thói hư tật xấu trong xã hội, là tinh thần cảm thông với những nỗi khổ

cực của những người lao động, là tinh thần đề cao tự do cá nhân, giải phóng phụ nữ, hướng

theo những tư tưởng nhân đạo bình đẳng. Tất cả những chủ chương mà TLVĐ đề ra đã

được các thành viên nòng cốt cũng như các thành viên cộng tác thường xuyên thực hiện một

cách đúng đắn, sáng tạo bằng tài năng và cái tâm của người muốn đưa văn học nghệ thuật

nước nhà lên tầm cao mới.

TLVĐ đã được sự đón tiếp nồng nhiệt của thanh niên nam nữ đương thời. Người ta

truyền tụng, đua nhau mua những tác phẩm của Tự Lực văn đoàn do nhà xuất bản Đời Nay

in. Những cuốn thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu; những tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh,

Thạch Lam, Thế Lữ,… vừa in xong đã nhanh chóng được bán hết. Những tác phẩm của họ,

với cách hành văn trong sáng, bình dị, đanh thép hay bóng bẩy đã đem lại giá trị vào bậc

nhất so với những tác phẩm khác cùng thời. Thanh niên, học sinh, tiểu tư sản, trí thức đã là

những độc giả trung thành của họ. Những tư tưởng mà họ truyền bá đã được sự hoan

nghênh của nhiều tầng lớp bạn đọc. Đó như một làn sóng gây nên nhiều ảnh hưởng. Những

tác phẩm thơ văn ra đời ngày càng nhiều, tuy không phải đồng nghĩa với nó là chất lượng

của những tác phẩm ấy nhưng như vậy cũng cho thấy được ảnh hưởng mà TLVĐ mang lại

cho công chúng yêu văn học và cho nền văn học nước nhà. Thành công của nhóm và hai

tuần báo có được còn do sự yêu mến và cộng tác liên tục của các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ

28

như họa sĩ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí; nhà văn Trần Tiêu, Thanh Tịnh; nhà thơ Vũ Đình

Liên, Đỗ Huy Nhiệm,…Tất cả tạo nên một văn đoàn có tầm ảnh hưởng rộng lớn tới xã hội

và tới tiến trình văn học Việt Nam.

1.3. Sự nghiệp văn chương của Thế Lữ trong cái nôi Phong Hóa, Ngày Nay

1.3.1. Vị trí nhiệm vụ của Thế Lữ trên Phong Hóa, Ngày Nay

1.3.1.1. Vài nét về Thế Lữ

Thế Lữ tên khai sinh là Nguyễn Đình Lễ sinh ngày 06 tháng 07 năm 1907 tại ấp Thái Hà,

Hà Nội. Quê cha ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội),

quê mẹ ở Nam Định. Cái tên Nguyễn Đình Lễ sau đổi thành Nguyễn Thứ Lễ vì ông là con

thứ. Khi viết văn ông nói lái lại là Nguyễn Thế Lữ sau rút gọn thành Thế Lữ. Bút danh Thế

Lữ mang nghĩa “người khách đi qua trần thế”, phù hợp với quan niệm sống của ông khi ấy.

Ông còn có tên khác là Nguyễn Khắc Thảo nhưng ít dùng và sau đó bỏ không dùng vì trùng

tên. Trong thời gian hoạt động trong TLVĐ và viết báo ông còn kí tên với bút danh Lê Ta.

Lê Ta xuất phát từ tên Lễ biến thành “Lê ngã”, “ta” cũng tức là “ngã”. Ngoài ra một số ít bài

viết ông cũng tạo điểm đặc biệt trong việc chơi chữ khi sử dụng bút danh Lê Tây. Thế Lữ là

nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ nổi danh trên văn đàn vào

những năm 1930, với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng, cùng những tác

phẩm văn xuôi, tiêu biểu là tập truyện Vàng và máu. Trở thành thành viên của nhóm TLVĐ

kể từ khi mới thành lập, ông hầu hết hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian là thành

viên của nhóm, đồng thời cũng đảm nhận vai trò một nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên

mẫn cán của các tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay.

Từ năm 1937, hoạt động của Thế Lữ chủ yếu chuyển hướng sang biểu diễn kịch nói,

trở thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, trưởng các ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ,

hoạt động cho đến sau Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm

kịch kháng chiến trong những năm Chiến tranh Đông Dương. Sau Hiệp định Genève, ông

tiếp tục hoạt động sân khấu, trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam

(1957 – 1977). Ông được coi là một người tiên phong, không chỉ trong phong trào Thơ

mới, trong lĩnh vực văn chương truyện trinh thám, kinh dị, đường rừng, mà còn là người có

đóng góp rất lớn trong việc chuyên nghiệp hóa nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở Việt Nam.

Thế Lữ đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1984 và

29

Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II năm 2000. Ông mất ngày 03.06.1989

tại Thành phố Hồ Chí Minh.

1.3.1.2. Thế Lữ trên Phong Hóa, Ngày Nay

Là một trong số các thành viên chủ chốt của TLVĐ cũng như trên PH, NN, Thế Lữ

đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của nhóm cũng như của báo. Ông trở thành chỗ

dựa tin cậy của mọi thành viên, đặc biệt là người đứng đầu. Hầu như trong bất kỳ số báo

nào, Thế Lữ cũng có bài viết của mình dưới nhiều hình thức: truyện, thơ, phóng sự, tin

mục,…

Nhiệm vụ của Thế Lữ có lúc do trưởng đoàn Nguyễn Tường Tam yêu cầu nhưng có

rất nhiều hoạt động là do ông chủ động thực hiện. Theo Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học

(bộ mới), tr. 1900 thì “Thế Lữ dưới con mắt Nguyễn Tường Tam phải là người mở đầu cho

"thơ mới"”. Bằng những bài thơ như Nhớ rừng, Tiếng sáo thiên thai,… ông đã thực hiện tốt

nhiệm vụ ấy. Tuy nhiên, không chỉ là nhà thơ đánh dấu sự thắng thế hoàn toàn cho thơ mới,

ông còn đảm trách là một nhà văn có những tác phẩm đáp ứng tốt điều 9 trong tôn chỉ của

TLVĐ “Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Annam”. Nhiều

truyện trinh thám, truyện có yếu tố kinh dị được ông thể hiện cả về nội dung và cách thức

triển khai đã làm cho “phương pháp khoa học thái tây” được hiểu cụ thể, rõ ràng và tôn chỉ

của Tự Lực văn đoàn điều này chỉ có ông làm tốt nhất.

Hoạt động báo chí của Thế Lữ được ông chủ yếu thể hiện bằng bút danh Lê Ta. Ông đảm

trách nhiều tin mục của báo như Điểm sách, Điểm báo, Lê ta làm báo, Hỏi bệnh,… với

nhiều nhiệm vụ khác nhau như điểm sách rồi bình, nhặt bài trên các báo phê phán những cái

lố lăng của nó, viết tường thuật về những sự việc, sự kiện xảy ra,… Ông đã thực hiện những

nhiệm vụ của mình một cách có trách nhiệm cùng tinh thần làm việc hăng say cao độ, điều

đó đã tạo nên hiệu quả cao trong các bài của ông cũng như trong sự thành công của báo.

Tính từ bài đăng báo đầu tiên (truyện Thây ma xuống thang gác – số 27 báo Phong Hóa),

Thế Lữ có 47 truyện (nằm trong 245 trang báo), 289 bài báo (nằm trong 330 trang báo).

Tổng cộng, Thế Lữ có 336 đơn vị tác phẩm nằm trong 575 trang báo trên tổng 388 số của

PH, NN. Có thể thể thấy, hầu như số báo nào cũng có sự tham gia của Thế Lữ. Chỉ trong

khoảng 8 năm – từ số 27 PH (30/12/1932) tới số 222 NN (10/08/1940) – Thế Lữ đã viết số

lượng bài báo lớn. Từ đó có thể khẳng định sự nghiệp báo chí của Thế Lữ rất đồ sộ, không

kém và còn có khi hơn về dung lượng so với thơ và văn xuôi hư cấu.

30

1.3.2. Quá trình hoạt động, trưởng thành của Thế Lữ – một nhà văn, nhà báo chủ

chốt trong Tự lực văn đoàn

1.3.2.1. Thời gian, quá trình

Trước khi tham gia vào Phong Hóa, Thế Lữ làm người sửa bản in cho báo Volonté

Indochinoise (Ý muốn của Đông Dương), thường đi làm qua Vườn bách thảo Hà Nội, thời

gian này ông đã viết bài thơ nổi tiếng Nhớ rừng. Sau khi trở về Hải Phòng, được mẹ cho

dựng một căn nhà lá cạnh Đồ Sơn để chữa bệnh, Thế Lữ bắt đầu tập trung vào viết văn và

làm thơ. Một trong những bài thơ đầu tiên của ông là Lời than thở của nàng Mỹ thuật và

Lựa tiếng đàn để gửi cho các bạn trường Mỹ thuật ở Hà Nội. Ông còn viết cả truyện lãng

mạn, ví dụ như Suối lệ, đã được đăng trên một vài tờ báo cũng như sách của Tân Dân.

Sau khi tờ PH (bộ mới) ra mắt (tháng 9 năm 1932), Thế Lữ đã chào đón và gửi bài. Bài

thơ đầu tiên của Thế Lữ trên Phong hóa là Con người vơ vẩn đăng vào số Tết năm 1933.

Sau đó, khi đến tòa soạn Phong hóa lần đầu tiên, ông đã đọc những bài thơ mình sáng tác,

và được Khái Hưng ca ngợi là "Lamartine của Việt Nam". Bên cạnh đó, Nguyễn Tường

Tam còn đặc biệt chú ý đến những truyện Một đêm trăng, Vàng và máu, cũng như tác giả

của hai truyện này. Không lâu sau, Thế Lữ được mời vào làm việc tại Phong hóa, và Nhất

Linh sau đó cũng có bài viết trân trọng, đề cao Thế Lữ và thơ văn của ông. Thế Lữ, cùng

với Lưu Trọng Lư, Huy Thông và các nhà thơ, tác giả khác góp công lớn trong việc đem lại

thành công cho phong trào Thơ mới, chống lại thơ cũ, bảo vệ và đề cao thơ mới bằng các

bài báo, đăng các sáng tác trong đó có sáng tác của chính mình. Bài thơ Nhớ rừng gây tác

động mạnh mẽ lên công chúng, cùng các bài thơ nổi tiếng khác sau đó như Cây đàn muôn

điệu, Tiếng sáo thiên thai,... được đăng trên Phong hóa, sau này được tập hợp lại trong tập

thơ đầu tay Mấy vần thơ (1935), đã góp phần đem lại thắng lợi hoàn toàn cho phong trào

Thơ mới, cũng như đưa ông trở thành một nhà thơ tiêu biểu của Thơ mới thuở ban đầu.

Ngoài ra, ông còn có nhiều tác phẩm văn xuôi, ở các thể loại trinh thám, kinh dị và đường

rừng lãng mạn, cũng gây được sự chú ý của công chúng. Thế Lữ là một trong các tác giả Tự

Lực có nhiều tác phẩm nhất được Nhà xuất bản Đời Nay phát hành. Từ 1934 đến 1943, ông

cho ra mắt 12 cuốn sách, trung bình mỗi năm một cuốn, có những năm hai (1937, 1942), ba

cuốn (1941). Đáng chú ý nhất là tập truyện đầu tay Vàng và máu (1934, được Khái Hưng

viết lời giới thiệu), tập thơ thứ nhất Mấy vần thơ (1935), sau được sửa chữa và bổ sung

nhiều bài mới trong Mấy vần thơ, tập mới (1941).

31

Về báo chí, ông tham gia viết báo, biên tập cho tờ Phong Hóa rồi tờ Ngày Nay. Với các

bút danh Thế Lữ, Lê Ta, Lê Tây, ông viết bài cho các chuyên mục "Cuộc điểm báo",

"Cuộc điểm sách", "Lê Ta làm báo"..., (Phong Hóa) rồi "Điểm báo", "Tin thơ", "Tin văn...

vắn",... (Ngày Nay). Ngoài các mục cố định, Thế Lữ còn có nhiều bài bình luận, phân tích

về các vấn đề văn chương, nghệ thuật, các bài phê bình sách. Ông là giám khảo cho tất cả 3

cuộc thi của TLVĐ (1935, 1937, 1939), góp tiếng nói giúp khẳng định những tác phẩm

được trao giải. Mục Tin thơ do ông phụ trách toàn bộ cũng phát hiện và khích lệ một số khả

năng Thơ mới; Kể từ năm 1937, ông dành nhiều thời gian và tâm huyết cho sân khấu kịch

nói, dù vẫn làm việc tại báo Ngày nay cho tới khi tờ này đóng cửa (sau 1940).

Thế Lữ tuy không phải chỉ nổi danh khi là thành viên TLVĐ mà trước đó, với những tác

phẩm đăng báo của mình ông đã được ca tụng, nhưng phải công nhận rằng chính TLVĐ và

ngôi nhà PH, NN đã tạo nên một Thế Lữ dày dạn, chuyên nghiệp và có được tên tuổi nổi

danh mãi cho đến ngày nay. Và chính ông cũng tâm sự “Không có báo Phong Hóa, Ngày

Nay, không có bạn bè Tự lực, không có bạn thơ văn ngày ấy ăn ở với nhau như bát nước

đầy, sẵn lòng yêu tài, mến đức của nhau…thì không có Thế Lữ”[87, 293]. Mặc dù có lúc

ông đã sai khi phủ nhận tất cả những đóng góp của TLVĐ nói chung và của bản thân mình

nói riêng vào nền văn hóa dân tộc (Tạp chí Văn nghệ, số 41 tháng 7.1953) nhưng, nói như

Phạm Đình Ân, đó chỉ là suy nghĩ cực đoan, phiến diện, nhất thời giống như một số nghệ sĩ

khác có sự “sám hối” tương tự trong bối cảnh xã hội – chính trị lúc bấy giờ. Chúng ta cần

hiểu và cảm thông cho Thế Lữ.

Như vậy, có thể nói, hoạt động văn chương, nghệ thuật xuất sắc đến trọn đời của Thế Lữ

đã làm sáng, làm vẻ vang tên tuổi của TLVĐ, nói cách khác Thế Lữ có được tên tuổi như

ngày nay là do một phần quan trọng là ông trưởng thành từ cái nôi TLVĐ.

1.3.2.2. Đóng góp của Thế Lữ trong tư cách nhà văn

Trong tư cách nhà văn, ngoài một số tác phẩm ban đầu thì sự nghiệp của Thế Lữ thực sự

bắt đầu khi ông cộng tác và trở thành một trong những thành viên chủ chốt của báo PH, NN.

Trước đó, Thế Lữ viết truyện Suối lệ, in trong tập Tiếng hú hồn của mụ ké (sau đổi thành

Tiếng hú ban đêm) gồm ba truyện ngắn. Sau năm 1945, Thế Lữ có thêm hai tập: Chuyện

tình anh Mai và Tay đại bợm cùng ít tập truyện mỏng khác. Nhất Linh (Nguyễn Tường

Tam) có ấn tượng thật tốt sau khi đọc một vài truyện mà ông đã đăng ở một số báo khác

trước khi PH ra đời như truyện Một đêm trăng, Vàng và máu. Nhất Linh cho rằng đó là một

32

“cây bút mới mẻ”, “có triển vọng”, “sẽ kết nạp cho được và chắc chắn không khó khăn”.

Thế Lữ đã bước những bước đầu tiên vào Phong Hóa một cách vững chắc.

Khi nhắc đến văn xuôi Thế Lữ thì nhiều nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu

văn xuôi nghệ thuật.

Một số tài liệu như trang Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, cuốn Thế Lữ một khách tình

si của Vu Gia,… trong đó có cả luận án tiến sĩ của Phạm Đình Ân cũng cho rằng bút tích

đầu tiên đánh dấu sự tham gia của Thế Lữ vào báo Phong Hóa là bài thơ Con người vơ vẩn,

đăng vào số Tết năm 1933. Trong quá trình tìm tài liệu chúng tôi đã tìm thấy bài thơ này

trong PH số báo 31 ra ngày 24 Janvier 1933. Nhưng thực ra Thế Lữ đã “chào đón và gửi

bài” sớm hơn tức ở số báo 27 trang 7 ra ngày 23.12.1932 báo Phong Hóa đăng truyện Thây

ma xuống thang gác – truyện Phong-Hóa, do Nguyễn Thế Lữ viết.

Truyện ngắn này đã để lại tiếng vang trong làng văn và độc giả. Nó đã được xếp hạng thứ

15 trong kết quả cuộc thi truyện ngắn do báo Phong Hóa tổ chức. Từ đó, lần lượt, Thế Lữ

cho ra đời trên báo rất nhiều truyện ngắn khác của mình. Theo thống kê của chúng tôi, Thế

Lữ có 47 truyện đăng rải rác trên hai báo PH, NN kí dưới tên Nguyễn Thế Lữ, Thế Lữ hoặc

Lê Ta, trong đó có hai truyện là Cô Thơ và Hoa bên suối kí tên Thế Lữ – Ngọc Điềm. Bên

cạnh đó có những truyện báo PH, NN rao đăng báo nhưng không đăng hoặc rao sẽ in sách

mà không đăng báo như Vàng và máu, Lê Phong giết người; có những truyện in trong các

tuyển tập nhưng không đăng báo như Thoa (một đời người), Trại Bồ Tùng Linh, Chim

đèo; có những truyện ra đời trước khi Thế Lữ vào Phong Hóa như Suối Lệ, Một truyện báo

thù, Tiếng hú hồn của mụ ké, Một đêm trăng cũng được in trong các tuyển tập sau này của

nhà in Đời Nay. Tổng cộng ấn phẩm truyện của Thế Lữ trong thời gian ông là thành viên

TLVĐ có khoảng trên 53 truyện chiếm tới hơn 80% tổng số các tác phẩm của ông. Như vậy

có thể nói, hầu hết những tác phẩm của Thế Lữ đều nằm trong khuôn khổ của TLVĐ, được

TLVĐ giới thiệu đến độc giả. Những truyện ấy được phần nhiều được gom lại trong khoảng

mười cuốn sách do nhà xuất bản Đời Nay công bố khi đã đăng báo hoặc chưa đăng báo. Có

năm cuốn sách là những tác phẩm đơn nhất là Vàng và Máu, Mai Hương và Lê Phong,

Trại Bồ Tùng Linh, Gói thuốc lá, Đòn Hẹn. Truyện của Thế Lữ được không chỉ nhà xuất

bản Đời Nay đăng mà còn có một số nhà xuất bản khác đăng tái bản nhiều lần trong khoảng

những năm 30, 40 của thế kỷ XX. Tuy nhiên có rất nhiều truyện của Thế Lữ đã được đăng

báo nhưng không đưa vào bất cứ tuyển tập nào như truyện Người tài xế điên, Lệ Mai nữ sĩ,

Ép duyên,…Những năm sau, nhiều sách của Thế Lữ được tái bản rất có thể không phải do

33

chính tác giả chủ trương hoặc trực tiếp tham gia nữa. Về truyện tái bản, ngoại trừ những tác

phẩm được tách khỏi khối liên kết trong sách cũ để đưa vào những hợp tuyển khác nhau,

phục vụ những nhu cầu bạn đọc, nghiên cứu khác nhau, thì sách truyện nguyên gốc, ở nhiều

trường hợp không còn giữ được bố cục ban đầu về số lượng cũng như thứ tự các truyện. Ví

dụ như mới đây nhất, nhà xuất bản Thanh Niên có cho xuất bản ba cuốn hợp tuyển Truyện

kinh dị, Truyện trinh thám, Truyện ngắn – Tin văn…vắn – Tiểu luận phê bình của Thế

Lữ nhưng số lượng các tác phẩm không đầy đủ như những gì chúng tôi tìm thấy trong báo

PH, NN.

Tác phẩm văn xuôi của Thế Lữ thường được giới nghiên cứu phân làm ba loại: Truyện

kinh dị; Truyện trinh thám; Truyện đời thường và truyện lãng mạn đường rừng. Tuy nhiên,

Thế Lữ còn một mảng văn cũng cần được nhắc tới là dịch các tác phẩm nước ngoài. Trong

số 15 bài dịch của Thế Lữ thì có tới 14 bài là dịch tác phẩm văn xuôi nghệ thuật nên chúng

tôi cũng đưa mảng dịch thuật này vào loại tác phẩm hư cấu của ông. Nhiều tác phẩm văn

học nước ngoài của những tác giả như Guy de Maupassanrt, Alphonse Paudet, Blaise

Cendrars,… được ông dịch với mong muốn đáp ứng nhu cầu đọc, giải trí, hiểu biết của mọi

tầng lớp xã hội, đồng thời đem văn học ta gần hơn với văn học thế giới.

Bảng 1.3. Thống kê các tác phẩm văn xuôi hư cấu và truyện dịch

của Thế Lữ

Trước PH, NN Trong PH, NN Sau năm 1945

Truyện 5 53 Khoảng 10

Truyện dịch 14

Tổng cộng 5 67 10

Phần trăm 6.1% 81.7% 12.1%

Như vậy, có thể nói văn xuôi hư cấu của Thế Lữ chủ yếu gói gọn trong thời gian ông là

thành viên của TLVĐ và hoạt động trên hai tuần báo PH, NN.

34

Bảng 1.4. So sánh số lượng tác phẩm văn xuôi của Thế Lữ với các nhà văn chủ

chốt của TLVĐ (Trong thời gian hoạt động của TLVĐ)

Tác giả Số lượng tác phẩm

Nhất Linh 7 tiểu thuyết, 4 tập truyện

Khái Hưng 11 tiểu thuyết, 3 tập truyện

Thạch Lam 1 truyện dài, 3 tập truyện

Thế Lữ 9 tập truyện

Như vậy, Thế Lữ có số lượng lớn tác phẩm văn xuôi. So với những nhà văn chủ chốt

khác của TLVĐ, ông cũng có số lượng tác phẩm nhiều không kém.

Về nội dung: các tác phẩm văn xuôi của Thế Lữ không trái với tôn chỉ, mục đích của

TLVĐ mà có khi còn là người đi đầu trong việc thực hiện tôn chỉ. Như trong điều 9 “Đem

phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Annam” ông đã có cách lý giải

khoa học mang tinh thần duy lý trong các truyện trinh thám, truyện có yếu tố kinh dị của

mình. Với tinh thần chống lễ giáo phong kiến, đả phá thành trì phong kiến hủ tục bao đời, ca

ngợi cái đẹp trong cuộc sống bình thường, ông có những tác phẩm đời thường, thế sự phù

hợp.

Về hình thức: ông đã dùng lối viết đơn giản, dễ hiểu, trong sáng để tác phẩm văn học gần

hơn với mọi tầng lớp nhân dân. Ông cũng đưa yếu tố lãng mạn cùng chất thơ vào truyện, có

nhiều trang văn khắc họa tài tình cảnh trí thiên nhiên, đặc biệt có sự phân tích tâm lý nhân

vật một cách tinh tế. Nhiều truyện được ông viết kỹ lưỡng, lối hành văn của ông có nhiều ưu

điểm.

1.3.2.3. Đóng góp của Thế Lữ trong tư cách nhà báo

Về lĩnh vực báo chí của Thế Lữ thì ít được các nhà chuyên môn đề cập đến nhiều và sâu.

Phạm Đình Ân có thể được coi là một trong người mở đầu khi ông đề cập đến hoạt động

báo chí của Thế Lữ. Ông nhận xét Thế Lữ là “một nhà báo sôi nổi trên hai tờ Phong hóa,

Ngày nay” .Trong quá trình làm báo Thế Lữ sử dụng các bút danh như Thế Lữ, Lê Ta, Lê

Tây. Trong một vài thông tin, có ý kiến cho rằng Thế Lữ còn có bút danh nữa là Mười Ba

chàng hay Chàng thứ 13. Nhưng vì chưa xác minh được đầy đủ nên chúng tôi không đưa

35

bút danh này vào phần khảo sát của mình. Ông đảm trách rất nhiều các tin mục, có số lượng

bài viết vào hàng nhiều nhất trong số thành viên của nhóm TLVĐ.

Bảng 1.5. Thống kê tên mục báo và bút danh của Thế Lữ trên hai tuần báo Phong

Hóa và Ngày Nay

Bút danh Thế Lê Lê Viết

Lữ Ta Tây chung Mục báo

Cuộc điểm sách 23

Cuộc điểm báo 12

Bài viết,Bình

luận, Phóng sự, 11 66 13

Phỏng vấn

Lê Ta làm báo 11

Hỏi bệnh 9

Xem văn 2

Ngày Nay điều 1 8 tra

Ngày Nay trào 6 phúng

Tin văn…vắn 75

Người và việc 1 3

Tin thơ 29

Tin câu đối 5

1 Những tin mục 10 2 1

36

khác

Tổng cộng 45 220 2 22

Phần trăm 15.6 76.1 0.7 7.6% % % %

Từ thống kê trên cho thấy bút danh Thế Lữ sử dụng khi viết báo chủ yếu là Lê Ta. Những

bài viết của ông đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống và cả văn chương. Với nghề báo,

ông nói tới những khó khăn của nghề, những đòi hỏi của người làm công tác báo chí. Báo

chí của chúng ta còn non trẻ nhưng nó là một nghề đòi hỏi phải có chuyên môn, phải có

năng lực và đặc biệt phải nghiêm túc. Làm báo không phải là “một kế cùng của bất kỳ thằng

vô nghệ nghiệp nào” [PH số 105,8] làm báo phải là một nghề nghiêm túc, không thể là “lù

đù”, “chậm chạp, bỡ ngỡ như cụ lý ra tỉnh” [PH số 106, 8]. Phải phân biệt người viết bài

báo gửi lên với người làm báo “Nhà làm báo không phải là người ngồi nhà mà gò từng vần,

đếm từng chữ, ghép những câu văn cho réo rắt hay cặm-cụi trong nửa ngày để viết nửa

trang giấy tả tâm sự một người thiếu phụ nhớ chồng. Không, nhà báo phải là người biết

công chúng, có kinh nghiệm, thạo đời, biết quan sát vừa nhanh, vừa kỹ, biết yêu nghề (…)

để làm nghề báo trên hết mọi nghề mới được” [PH số 107, 8]. Với những hiện tượng của

đời sống, ông phê phán cảnh bát nháo của xã hội thực dân qua việc những kẻ có tiền nhưng

ít học chạy đua vào chiếc ghế nghị viện, ông trăn trở trước những vấn đề trộm cắp ở thôn

quê, ông đau đáu trước tình trạng lễ hội truyền thống bị mai một…Trong những bài báo,

Thế Lữ – Lê Ta đã thể hiện cái nhìn, quan điểm và lương tâm của một người làm báo chân

chính.

Đảm trách phê bình về lĩnh vực văn chương, trong các mục Điểm báo, Điểm sách, Xem

văn, Tin thơ Thế Lữ đã tỏ ra là người có tài và có tâm trong việc đưa ra ý kiến đánh giá.

Buổi đầu hoạt động phê bình ở nước ta đã có Thế Lữ tham gia. Một phần phải đáp ứng công

việc làm báo là phải có đủ số bài nhưng một phần vì tình yêu, những trăn trở với các vấn đề

của đời sống, của văn chương nước nhà, ta thấy Thế Lữ đã có số lượng các bài viết về loại

này rất lớn. Từ những trang viết mà ông đã để lại trong các bài báo chứng tỏ sức làm việc

của ông cũng như các thành viên khác trong TLVĐ. Ví dụ ở số 87 báo NN, báo có 24 trang

mà Thế Lữ – Lê Ta đã có tới 6 bài viết nằm trong 9 trang báo. Ngay ở mục Tin thơ trong

37

một lần đăng bài có khi Thế Lữ nói tới 9 tác giả với hơn chừng ấy tập thơ của họ. Như vậy

cũng đủ để thấy sức làm việc cũng như tình yêu đối với văn chương, nghệ thuật nước nhà

của ông.

Trong TLVĐ, Thế Lữ đã đóng góp một phần công sức không nhỏ. Ông là một nghệ sĩ có

tài và đa tài, là một thành viên sáng giá và mẫn cán của TLVĐ. Từ những hoạt động cho

báo của mình, Thế Lữ đã trở thành chỗ dựa nhiều ưu thế của người điều khiển, là nơi gửi

gắm niềm tin của cả nhóm, là niềm mong đợi nồng nhiệt của công chúng độc giả. Độc giả

đón đợi, tham gia gửi bài cho Thế Lữ – Lê Ta trong các chuyên mục. Từ đó, Thế Lữ đã góp

phần lớn gây thanh thế cho TLVĐ ngay từ những tháng ngày đầu ra mắt. Theo Phạm Đình

Ân “Thế Lữ đã góp phần làm cho Tự Lực văn đoàn vững chãi từ những hoạt động cải cách

đầu tiên, tạo nên phong trào Thơ mới và văn xuôi lãng mạn” [6, 30].

Tiểu kết: Có thể nói, TLVĐ là một tổ chức văn học đã góp phần lớn vào tiến trình hiện

đại hóa văn học Việt Nam. Trong sự tồn tại của TLVĐ, hai hoạt động văn học và hoạt động

báo chí luôn song hành, bổ sung và hỗ trợ nhau. Các thành viên chủ chốt của nhóm hầu như

cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ nhà văn – nhà báo. Với cái tài, cái tâm, sự nhiệt huyết

cùng với mục đích cao đẹp là đem lại sự đổi mới cho văn học nước nhà, các thành viên nói

riêng và cả nhóm nói chung đã góp phần thúc đẩy tiến trình văn học nước nhà lên một tầm

cao mới.

Cũng như các thành viên chủ chốt khác, hai hoạt động văn học và báo chí được Thế Lữ

thực hiện song hành trên hai tuần báo PH, NN. Văn xuôi hư cấu ông có số lượng khá lớn.

Ông là nhà văn tiên phong trong loại truyện trinh thám, truyện kinh dị, truyện đường rừng.

Là một nhà báo có tài, có tâm, Thế Lữ đảm trách nhiều tin mục với các bút danh Thế Lữ, Lê

ta, Lê Tây. Sự nghiệp báo chí của Thế Lữ cũng đồ sộ không kém thơ và văn xuôi nghệ

thuật. Thế Lữ giữ vị trí khá quan trọng trong sự tồn tại cũng như sự phát triển của báo. Sự

nghiệp văn chương của Thế lữ giai đoạn này khá phong phú, đa dạng và có thành tựu khá

nổi bật ở những nội dung thể tài, kiểu văn bản sẽ được chúng tôi nói rõ hơn ở chương 2.

38

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI THẾ LỮ TRÊN PHONG HÓA,

NGÀY NAY – NHÌN TỪ NỘI DUNG THỂ TÀI VÀ KIỂU VĂN BẢN

Khái niệm: Thể tài là thuật ngữ chỉ sự quy chiếu giữa thể loại với đề tài được đề cập đến

trong tác phẩm. Kiểu văn bản là văn bản xây dựng trên nhưng kiểu thức, kiểu cách.

2.1. Các nội dung, thể tài chính trong văn chương Tự lực văn đoàn

Ngay từ khi mới tuyên bố thành lập, TLVĐ đã ra tôn chỉ của mình. Trong quá trình sáng

tác, các thành viên đã tuân thủ khá chặt chẽ tôn chỉ cũng từ đó định hình nên những nội

dung, thể tài chính trong văn chương TLVĐ. Có những nội dung, thể tài chính như:

Tinh thần chống lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương, đề cao hạnh phúc cá

nhân. Tiêu biểu cho nội dung này là những tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng

Đạo. Về Tinh thần chống lễ giáo phong kiến, những tác phẩm của họ chĩa mũi nhọn đả kích

lễ giáo Phong kiến và nếp sống đại gia đình Phong kiến: "Nửa chừng xuân", "Ðoạn tuyệt",

"Lạnh lùng", "Ðôi bạn", "Gia đình", "Thoát ly", "Thừa tự",... Họ hô hào giải phóng phụ nữ

khỏi cảnh mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con chồng, cảnh thủ tiết của những người đàn bà trẻ

góa bụa. Họ đòi cho nam nữ có quyền được hưởng hạnh phúc riêng. Về đòi quyền tự do yêu

đương cho thanh niên, các nhà văn đã tự đưa ra một quan niệm mới mẻ về hạnh phúc cá

nhân, về tình yêu, xem đó là lẽ sống duy nhất của con người. Những tác phẩm tiêu biểu như

“Hồn bướm mơ tiên”, “Đoạn tuyệt”, “Gánh hàng hoa”,… Các nhà tiểu thuyết ca ngợi ái tình

trong sạch, chung thủy, của những chàng trai cô gái. Tình yêu của họ phải vượt qua bao

nhiêu những ràng buộc, khắt khe nhưng họ luôn đấu tranh bảo vệ hạnh phúc của mình.Tuy

nhiên đến giai đoạn cuối, tinh thần này không còn được phát huy, từ những nhân vật tích

cực như Mai, Loan, từ những tình cảm tốt đẹp Ngọc, Loan, Liên, tác giả mau chóng chuyển

sang những nhân vật do dự, giỏi chịu đựng hơn là đấu tranh như Hồng, Nhung,... Vấn đề

chống lễ giáo phong kiến chỉ một vài năm sau lùi dần vào dĩ vãng. Và cuộc đấu tranh bằng

văn hóa chống phong kiến chỉ xảy ra trong phạm vi lễ giáo.

Nguyễn Thành Thi trong bài báo cáo hội thảo “Phong trào thơ mới và văn xuôi TLVĐ –

80 năm nhìn lại” có nói“Đã có một thời, quan niệm cho rằng: nói đến văn xuôi lãng mạn

TLVĐ chủ yếu là nói đến tiểu thuyết TLVĐ; nói đến tiểu thuyết TLVĐ, chủ yếu là nói đến

sáng tác của ba cây bút chủ lực TLVĐ: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Và ba nhà văn

trụ cột này đã tạo nên một mô thức phản ánh đời sống riêng, khá độc đáo gọi là “Xu hướng

39

tiểu thuyết Tự lực văn đoàn””. Ông nhận định “Nói như vậy chưa thỏa đáng vì thực tế về

văn xuôi không chỉ là ba ông sáng tác mà còn có những nhà văn khác như Thạch lam, Thế

Lữ,…”[95, 4] Và như vậy, khi tìm hiểu nội dung thể tài chính trong văn chương TLVĐ

không thể chỉ nhắc tới các sáng tác của “ba cây bút chủ lực” như quan niệm trước đây mà

phải nhìn toàn bộ những sáng tác của các nhà văn khác trong nhóm. Do đó, ngoài các nội

dung trên, còn có:

Ý thức duy tân, lúc nào cũng mới, tin ở sự tiến bộ. Tiêu biểu cho thuộc nội dung này là

sáng tác của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thế Lữ,… Tác phẩm tiêu biểu như “Mười điều tâm

niệm”, “Con đường sáng”, “Mai Hương và Lê Phong”,… Các sáng tác thuộc nội dung này

hướng người đọc đến những điều mới mẻ, lí giải đời sống một cách khách quan khoa học

tiến bộ. Bằng việc dấn thân vào những thể loại mới như truyện kinh dị, truyện trinh thám,

Thế Lữ đã đem lại nhiều điểm mới cho TLVĐ.

Xu hướng bình dân. Bên cạnh những hoạt động xã hội như chương trình Ánh sáng,

những mục Bùn lầy nước đọng thì cũng có nhiều tác phẩm nói tới cuộc sống của người bình

dân. Nhiều sáng tác của Thạch Lam, Thế Lữ hướng độc giả đến cuộc sống thôn quê, cuộc

sống núi rừng. Họ khai thác những nét đẹp trong đời sống của thôn quê nhưng cũng cho

thấy cuộc sống còn nhiều vất vả, lam lũ của những người nông dân.

Tinh thần trào phúng. Là một văn đoàn làm việc bằng tuần báo mang tinh thần trào

phúng, nhiều sáng tác của họ thể hiện rõ điểm này. Tiếng cười hài hước không chỉ từ những

nhân vật Xã Xệ, Lý Toét,… mà còn từ những câu chuyện, bài thơ. Trong tác phẩm của

mình, họ dùng tiếng cười chế giễu những con người, hiện tượng xấu trong xã hội. Mục

“Giòng nước ngược” của Tú Mỡ, một số sáng tác của Thế Lữ,… tiêu biểu cho những sáng

tác có tinh thần trào phúng của TLVĐ.

Tóm lại, bằng việc sử dụng thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện kinh dị, truyện trinh

thám,… các nhà văn, nhà thơ TLVĐ đã truyền tải được nhiều nội dung mà họ đặt ra trong

tôn chỉ. Họ đã đóng góp cho văn chương nước nhà không chỉ có những điểm đặc biệt về nội

dung mà còn là phương tiện thể hiện nội dung ấy.

2.2. Nội dung, thể tài văn xuôi hư cấu của Thế Lữ trên Phong Hóa, Ngày Nay

2.2.1. Nhìn chung về nội dung, thể tài văn xuôi hư cấu của Thế Lữ

Những ấn phẩm văn xuôi của Thế Lữ đăng rải rác trên báo PH, NN, chúng tôi chia làm

40

hai loại: Văn xuôi hư cấu và văn xuôi phi hư cấu. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì Văn

xuôi hư cấu là loại văn vận dụng trí tưởng tượng để sáng tạo nên những nhân vật, câu

chuyện, những tác phẩm nghệ thuật nhằm phản ánh cuộc sống và thực hiện những mục đích

nghệ thuật nhất định. Thông qua hoạt động hư cấu, nghệ sĩ nhào nặn, tổ chức chất liệu được

rút ra từ cuộc sống tạo nên những tính cách, những số phận, những hiện tượng mới, những

sinh mệnh mới có ý nghĩa điển hình, vừa biểu hiện tập trung chân lí cuộc sống, vừa biểu

hiện cá tính sáng tạo, phong cách độc đáo và lí tưởng thẩm mỹ của mình. Ở những tác phẩm

cụ thể, những nghệ sĩ, với cá tính sáng tạo riêng, ở những thể loại nghệ thuật và phương

pháp sáng tác khác nhau, quá trình hư cấu đã diễn ra với những cách thức và mức độ khác

nhau. Song hư cấu bao giờ cũng là một hoạt động cơ bản, tất yếu của sáng tạo nghệ thuật.

Phân biệt với văn xuôi hư cấu là văn xuôi phi hư cấu. Giáo sư Huỳnh Như Phương xét văn

xuôi phi hư cấu trên điểm nhìn của người trần thuật “văn bản phi hư cấu ra, độc giả có niềm

tin rằng đây là cuộc đời tự nó lên tiếng và người trần thuật không can thiệp làm méo mó bản

chất của sự kiện.” Ông cho rằng “Những thể loại phi hư cấu được phổ biến rộng rãi trên

báo chí trước khi in thành sách là ký sự, phóng sự, hồi ký, bút ký, nhật ký, tạp bút,…”[75,1]

Từ đó có thể thấy văn xuôi của Thế Lữ thuộc về cả hai loại hư cấu và phi hư cấu.

Nội dung, thể tài trong văn xuôi hư cấu của Thế Lữ cũng vừa mang những nét chung của

TLVĐ, vừa mang những nét độc đáo của bản thân ông. Theo thống kê của chúng tôi, văn

xuôi hư cấu của Thế Lữ đăng trên PH, NN có 47 truyện. Trong đó xét về dung lượng có thể

chia các tác phẩm này thành hai loại: Truyện dài (dung lượng đăng từ 6 số báo trở lên) và

truyện ngắn (bao gồm cả truyện ngắn và truyện ngắn mi ni).

Bảng 2.1. Bảng thống kê số truyện

Truyện dài Truyện ngắn

41 truyện 6 truyện

(Những truyện còn lại) (Bên đường Thiên Lôi, Những nét

chữ, Mai Hương và Lê Phong, Lê

Phong phóng viên trinh thám, Gói

thuốc lá, Đòn hẹn)

Xét về thể loại, tác phẩm của Thế Lữ có mối quan hệ giữa thể loại và nội dung. Trước

41

đây, Vũ Ngọc Phan cho rằng “Thế Lữ chuyên viết có hai loại: rùng rợn, ghê sợ và loại trinh

thám”, Phạm Thế Ngũ tách thành ba loại: trinh thám, kinh dị và lãng mạn đường rừng. Các

nhà nghiên cứu đã nói lên những thể loại trong văn xuôi của Thế Lữ. Tuy nhiên, trong quá

trình tìm hiểu báo PH, NN, từ nội dung của các tác phẩm, chúng tôi thấy những tác phẩm

của Thế Lữ nên chăng quy vào 4 loại: Truyện kinh dị, truyện trinh thám, truyện đường rừng

và truyện về cái thường ngày.

Là thành viên TLVĐ, Thế Lữ đã tuân thủ tôn chỉ một cách phù hợp nhất. Trong các tác

phẩm của ông ta thấy có những nội dung chính:

“đem phương pháp khoa học thái Tây ứng dụng vào văn chương An nam”. Đây chính là

điều 9 trong Tôn chỉ của TLVĐ. Theo Phạm Thế Ngũ “Đem phương pháp khoa học ở đây ý

nói đem đầu óc suy luận theo lẽ phải, đem tinh thần duy lý vào việc nhận xét, trình bày phê

phán người và việc trong các câu chuyện. Tức là chống lại quan niệm thần bí, tính cách bịa

đặt vô lý ở tình tiết những truyện Nôm xưa hoặc những tiểu thuyết kiếm hiệp hoang

đường.”[40, 20]. Còn theo Chương Chính, ý của điều này là “Các nhà văn phương Tây đi

sâu vào nội tâm nhân vật, tả cảnh, tả hình, viết gọn gàng, sáng sủa, dễ hiểu, bỏ cách viết

công thức, cách hành văn luộm thuộm, dây cà ra dây muống, văn chương biền ngẫu thịnh

hành trước năm 1930.”[40, 38]. Hai ý kiến trên đều có phần xác đáng. Một bên nghiêng về

phần nội dung của tác phẩm, còn một bên nghiêng về nghệ thuật thể hiện. Thế Lữ là nhà văn

có những tác phẩm tiêu biểu làm nổi bật tôn chỉ này củaTLVĐ. Trong những tác phẩm của

mình, đặc biệt là ở hai loại truyện kinh dị và truyện trinh thám, “tinh thần duy lý” được thể

hiện rõ.

Hướng về cuộc sống bình dân. Nhiều sáng tác của Thế Lữ đi vào đời sống của người bình

dân, ca ngợi vẻ đẹp núi rừng, phản ánh cuộc sống muôn hình muôn vẻ đời thường. Truyện

đường rừng và truyện về cái thường ngày tiêu biểu cho nội dung này.

2.2.2. Truyện trinh thám

2.2.2.1. Tên gọi Truyện trinh thám xuất hiện từ tiếng Pháp “Littérature policiere” có

nghĩa là văn học cảnh sát. Như vậy, những truyện như Những nét chữ; Mai Hương và Lê

Phong; Lê Phong – Phóng viên trinh thám; Lê Phong làm thơ; Cái chết ghê gớm của Lê

Phong; Gói thuốc lá; Đòn hẹn được tính vào loại truyện này. Tuy nhiên, theo ý kiến của

Phan Cự Đệ và Phạm Đình Ân thì “tiểu thuyết trinh thám chỉ là một bộ phận của tiểu thuyết

phiêu lưu” [5, 111] và “huyễn tưởng và phiêu lưu chỉ có ý nghĩa tương đối, chúng có mối

42

quan hệ gặp gỡ, giao thoa.”[5, 112]. Huyễn tưởng cũng có những yếu tố lãng mạn, mục

đích của chủ thể sáng tạo là chiếm lĩnh hiện thực ở dạng hư ảo, ở khát vọng chuyển dịch,

tìm kiếm tự do, khám phá cái mới như phiêu lưu. Chính vì nó có mối quan hệ gần gũi này

nên ta thấy trong nhiều tác phẩm phiêu lưu có chất hư ảo, và ngược lại, trong nhiều tác

phẩm huyễn tưởng lại có yếu tố phiêu lưu. Với cách nhìn nhận vấn đề như vậy, người viết

sẽ khảo sát truyện trinh thám của Thế Lữ không phải chỉ những tác phẩm thuần có yếu tố

phiêu lưu mà kể cả những tác phẩm đậm yếu tố phiêu lưu, điều tra nhưng không tách hẳn

yếu tố huyễn tưởng như Vàng và máu, Giòng máu đứt quãng và gọi chung thống nhất một

tên gọi Truyện trinh thám.

Hoài Việt trong bài “Thế Lữ như tôi biết” đã có nhận định “Văn tiểu thuyết trinh thám

của Thế Lữ có thể xếp vào loại “văn học trinh thám” (literature policière) như phương Tây

người ta đã làm. Nó gọn ghẽ, sáng sủa, khoa học chứ không ngô nghê như loại 3 xu” [99,

51]. Ý kiến có phần xác đáng. Truyện trinh thám vào nước ta tương đối muộn. Thế Lữ được

coi là lớp nhà văn đầu tiên đưa thể văn này vào nước ta và đã đạt được những thành công

nhất định.

Thể loại này của Thế Lữ được ảnh hưởng của phương Tây, cụ thể là Edgar Poe trong các

sáng tác. Edgar Allan Poe (1809-1849), nhà thơ Mỹ là ông tổ của truyện trinh thám, kinh dị

huyễn tưởng của văn học Mỹ và thế giới, đồng thời cũng là một nhà báo, nhà phê bình văn

học nổi tiếng. Ở Việt Nam, ông là tác giả Mỹ đầu tiên được học trong nhà trường Pháp Việt

từ rất sớm. Thơ, truyện của Edgar Poe đã để lại dấu ấn mới lạ trong lòng thế hệ trí thức Tây

học thời ấy.

Đặc điểm chính của truyện trinh thám là tính chất duy lý của câu chuyện. Tính chất ấy

thể hiện trong cách thức khám phá tội ác được suy đoán theo logic trìu tượng chứ không

phải những chứng cứ hiển nhiên, những lời tố giác vụng về hay lộ liễu quá mức của hung

thủ. Tính chất duy lý trong các tác phẩm trinh thám của Thế Lữ được thể hiện rất rõ. Cũng

như Edgar Poe sáng tạo nhân vật trung tâm là nhà thám tử tài ba Dupin, Thế Lữ xây dựng

chàng phóng viên trinh thám hào hoa của mình là Lê Phong. Trong truyện, Thế Lữ cũng để

cho nhân vật Lê Phong công khai nhắc đến phương pháp điều tra của Edgar Poe (Lê Phong

phóng viên, Những nét chữ). Lê Phong khi khám phá một vụ án hay một bí mật nào cũng

đều dùng khả năng phán đoán, phân tích tư duy. Nhận được bức thư của cô Đào thị Kiều

Anh bày tỏ cảm tình với mình, Lê Phong đã xem xét kĩ và đi đến kết luận: bức thư ấy là của

một người đàn ông “Tôi biết rằng cô Kiều Anh ấy chính là ông, và hơn thế, tôi lại biết rằng,

43

ông viết thư cho tôi bằng thứ bút máy ngòi sấu và cong, cặp bút vào giữa ngón tay đeo nhẫn

và ngón tay út. Ông viết được nửa trang giấy thì hết mực, nên ngừng lại một lúc rồi mới tiếp

theo và lúc gần viết xong thì trời mưa, một cơn gió thổi vào làm tờ giấy chực bay; ông phải

vội lấy tay đè lên-vì ông ngồi viết gần cửa sổ” [“Lê Phong, phóng viên trinh thám”, PH số

157, 4] Và sự thực đều đúng như lời Lê Phong suy đoán. Vừa gặp gặp bác sĩ Trần Thế Đoàn

lần đầu tiên, nhưng Lê Phong đã làm cho bác sĩ khâm phục khi nói rằng bác sĩ vừa viết một

bức thư dài đến nỗi suýt quên việc quan trọng là đến họp. Lý do Lê Phong đưa ra là “Vết

mực ở ngón tay ông: ông viết bức thư dài nên chưa kịp rửa tay, và đến muộn; nhưng không

quan trọng, vì bức thư mới nhận được: ông nhét nó cũng vội vã đến nỗi để tôi trông thấy mé

phong bì nhô lên.” [“Mai Hương và lê Phong”, PH số 167, 11]. Sự xét đoán của Lê Phong

quả thật rất tỉ mỉ và chính xác.

Các bí ẩn mà Thế Lữ đưa vào truyện trinh thám thường diễn ra dưới dạng dòng chữ ký

hiệu kiểu mật mã. Bài thơ dẫn đến cái chết của Tuyết Mai mà ai cũng tưởng là bài thơ tình

ấy lại là một bài thơ giết người, bởi, theo suy luận của cô, nó có những lời de dọa của một

hội kín mà cô là thành viên. Lê Phong đã tìm ra bí mật “trong bài thơ có những tiếng không

cách xa nhau bằng nét chì giọc và những tiếng cách nhau bởi một nét chì giọc” [“Những

nét chữ”, PH số 160, 15] và những tiếng ấy là tảng đá, chép khôn, quyết tâm, ai mảng, vội

tỉnh, rội bên, nản phiếm, tử sinh, chữ tình, loi còn, rừng chân, ngó đến, xa xuôi, dưới lối.

Anh dùng cách đọc tiếng lóng tức là trong một cặp, đem chữ câm ở tiếng dưới thay vào chữ

câm ở tiếng trên và chỉ đọc tiếng trên sau khi đã thay đổi ấy là thành tiếng mình định nói.

Như vậy bài thơ có các chữ bí ẩn có thể làm cho Tuyết Mai tự vẫn là “Đảng khép Tuyết Mai

tội bội phản. Sử tử. Coi chừng đó. Sa lưới”. Bằng trí óc sáng suốt, cách làm việc khoa học,

Lê Phong đã giải mã bức thư cũng như cái chết của Tuyết Mai có cơ sở như thế. Trong Đòn

hẹn, nếu như thanh tra nhà nước và thám tử chuyên nghiệp coi những nét chữ X.A.E.X.I.G

trên tấm danh thiếp nơi Đường và Thạc (giả mạo) chết là một bí mật vô nghĩa, không liên

quan gì đến kẻ gây tội ác thì Lê Phong lại chú ý và tìm ra ý nghĩa của nó. Đây chính là

những “mật mã” mà Đường – trong lúc ngồi tiếc tờ vé số mình mua 015097 chỉ sai một số

so với tờ trúng thưởng độc đắc – đã ghi lại. Chính việc giải ra đáp án dòng chữ bí mật đã

giúp Lê Phong điều tra được hung thủ thực sự của vụ án. Quan châu Nga Lộc trong Vàng và

máu đã tìm ra cách vào hang giấu của khi tìm được ý nghĩa ẩn sau các con chữ trong tờ giấy

mà người Thổ đưa bằng sự suy xét cẩn thận, thông minh. Trong Lê Phong làm thơ, Lê

Phong đã hiểu được việc làm của bọn đại bợm một cách nhanh không ngờ là vì anh thấy

44

“Những ngón tay của họ luôn cử động, cử động một cách “tiết tấu” lắm…đó là những dấu

hiệu riêng. Những dấu hiệu đó, chắp lại, thành chữ…Những chữ ấy thay cho lời nói, tôi

cũng hiểu được cả, vì đó chính là lối đánh điện thoại hàng ngày.”[NN số 25, 21].

Dùng cách giải mã bí mật, Thế Lữ kích thích khả năng phán đoán, phân tích của tư duy

và làm cho nó trở thành một trò chơi trí tuệ.

Yếu tố trinh thám và kinh dị trong sáng tác của Thế Lữ là một sự kết hợp Đông Tây độc

đáo. Cốt truyện trong các truyện rùng rợn vừa mang tính chất kinh dị vừa có việc khám phá

tội ác và kết thúc theo mô típ truyền thống của Việt Nam và Trung Quốc: kẻ xấu, kẻ ác phải

bị đền tội, người tốt, giỏi giang, thông minh thì được hạnh phúc, sung sướng, tin yêu. Đinh

Võ Thạc giết bạn thân, giết em trai, làm nhiều điều ác nên phải tự tìm đến cái chết nhục nhã,

đau đớn “Da mặt Thạc tái mét, miệng mím chặt, hai mắt trừng trừng mở và mất hết tinh

thần. Một dòng nước dãi lẫn máu chảy từ bên khóe mép xuống dưới cằm. Sờ chân tay thì đã

lạnh toát và cứng đờ.” [“Gói thuốc lá”, NN số 134, 22] Lê Phong thì được mọi người kính

phục ngưỡng mộ và có một tình yêu đằm thắm với người con gái tài năng, xinh đẹp – Mai

Hương. Quan châu Nga Lộc thì bận nhiều về của cải, lấy thêm hai vợ nữa, sống cuộc đời

sung túc. Con cháu ông nhiều đời sau vẫn thế.

Do ảnh hưởng tư tưởng phương Đông, phương Tây và cả bản tính lãng mạn, lãng tử, Thế

Lữ đã xây dựng nhân vật thám tử tài ba của mình vừa có cái tỉnh táo, lý trí, kiểu suy luận

phương Tây nhưng vẫn có những nét lãng tử thấp thoáng của các nhà nho tài tử khi xưa hay

phong thái anh hùng mã thượng của người Việt Nam trọng nghĩa, khinh tài. Điều đó làm

cho tác phẩm của ông dễ thu hút độc giả.

Lê Phong được ông xây dựng thành một hình mẫu lý tưởng. Anh mang dáng dấp của

thám tử danh tiếng Sherlock Holmes trong tác phẩm của nhà văn Anh A.C.Doyle. Lê Phong

vừa sắc lạnh, quyết đoán, tỉ mỉ và nhanh nhẹn trong khi điều tra vụ án nhưng cũng rất tinh

tế, mơ mộng, thoáng chút hài hước ý nhị, si tình và đắm đuối trước người đẹp. Đây chính là

cấu trúc song trùng trong chính nhân vật khi xây dựng nhân vật Lê Phong của Thế Lữ.

Lê Phong yêu nghề báo, nghề phóng viên trinh thám và dường như có “duyên” với nghề

này. Anh từng nói với bạn “Anh thì anh chỉ nghe tiếng bàn nhau mới biết được họ bàn

nhau, mà có lóng tai nghe tiếng bàn nhau mới hiểu được họ bàn những gì. Tôi thì không

thế, tôi trông được cả những lời họ bàn nhau”.[“Lê Phong làm thơ”, NN số 25, 21]. Văn

Bình – bạn anh cũng nhận xét “Đối với chàng, đời không án mạng là đời không đáng kể,

45

cũng như Lý-Bạch, đời không có rượu là đời vứt đi” [“Thuốc bả chuột”, NN số 69,16].

Những vụ án theo Lê Phong là ít rắc rối thì “Tôi vẫn thấy đời giản dị quá, và sự bí mật có

một ý nghĩa nghèo nàn đối với tôi trong những lúc bình tĩnh này…Tôi mong cho việc rắc rối

gấp trăm lần, mà việc lại quá rõ ràng, quá đơn sơ để cho tôi không được vất vả.” [Gói

thuốc lá] Trước mỗi án mạng ta đều nhận ra vẻ sốt sắng quen thuộc của Lê Phong và thấy

anh như bắt gặp được điều đắc ý, ta thấy xuất hiện nhiều câu nói của Lê Phong như “Tôi

sướng lắm, vì cái án mạng rắc rối không biết chừng nào mà kể” “một chuyện kỳ thú về

nghệ thuật giết người (…) Bước đầu trong nghề phóng viên thực là có nhiều cái may không

biết ngần nào” [Lê Phong phóng viên] Mai Hương từng nhận xét anh “ông chú trọng đến

báo ông hơn là đến số mệnh một người bị nạn. Một việc ám sát đối với ông, chỉ là một cái

tin hay. Một việc ám sát ly kỳ đối với ông chỉ là một tin hay đặc biệt(…) còn ngoài ra, một

tính mạng nữa có nguy hiểm hay không, ông không cần để ý đến lắm.” [“Mai Hương và Lê

Phong”, PH số 186, 12]. Đó là điểm mạnh và cũng là điểm đáng trách ở anh.

Bên cạnh đó, một Lê Phong hào hoa, phong nhã, chuyên nghiệp vẫn xuất hiện. Những từ

ngữ chỉ thái độ và hành động của Lê Phong thường được Thế Lữ nhắc: Phong vẫn một mực,

Phong không đổi giọng, Phong đưa mắt nhìn khắp phòng và soát lại một lượt nữa, vẻ mặt

rất trang nghiêm trầm mặc,… Trước mối nguy hiểm rình rập khi nghe những lời đe dọa của

bọn Tam Sơn anh vẫn “thổi sáo mấy điệu hát vui, trông bầu không khí nhẹ tươi và bước

trên đường như người có đầy hạnh phúc”[“Đòn hẹn”, NN số 414, 7] nhưng đồng thời với

hành động ấy là “Đôi mắt sáng của anh đem hết tinh lực ra để quan sát và trong lúc vẩn vơ

đi trên đường phố anh không bỏ sót một tiếng nào hay một hình ảnh nào.”[“Đòn hẹn”, NN

số 141, 7] Ta bắt gặp nhiều hình ảnh thế này trong lúc Lê Phong điều tra “Đôi mắt sáng lên

một cách vui vẻ, và miệng nở một nụ cười rất tự nhiên”[“Đòn hẹn”, NN số 142, 14] “Anh

mỉm một nụ cười rất tình tứ, rất có duyên”[“Mai Hương và Lê Phong”, PH số 168, 10];

“Mắt Lê Phong long lanh sáng và lúc đó thoáng một chút sương mơ màng”[“Đòn hẹn”, NN

số 146, 11]; “Trong sự bình tĩnh của tâm trí và của hoàn cảnh, Phong thấy óc mình sáng

suốt và giác quan tinh tường thêm. Bất giác Phong mỉm cười, nụ cười đạo mạo, nghiêm

nghị”[“Gói thuốc lá”, NN số 132, 20]

Với Mai Hương, Lê Phong trở nên lúng túng trước vẻ đẹp của cô “Phong lẳng lặng nhìn

Mai Hương. Lần này không biết là lần thứ bao nhiêu, anh thấy một sự ngạc nhiên êm đềm

và một cảm tưởng lạ lùng khó nói. Đôi mắt ngây thơ của người thiếu nữ, nụ cười chân thực

đằm thắm và cái dáng điệu óng ả kia là những nét quý báu của một trang nhan sắc không

46

thường, kết bằng mộng và thơ. Mai Hương đẹp như một vẻ hoa, như hạt ngọc châu, thanh

cao và tươi sáng.” [“Gói thuốc lá”, NN số 129, 18] “Miệng cười như hoa hồng nhung nở,

mắt hình như ngọc-huyền dưới hồ nước trong. Ăn nói bạo dạn làm sao, ý vị biết chừng

nào!” [“Mai Hương và Lê Phong”, PH số 168, 10], “Lê Phong chú ý nhìn Mai Hương một

hồi lâu, đôi mắt dò xét, cố hiểu lấy một phần trong tâm trạng người thiếu nữ lạ lùng ấy.

Trong vẻ bối rối, lo sợ của cô ta, Phong vẫn thấy sự ngây thơ với cái duyên đậm đà khiến

cho anh nhiều lần khen phục.” [“Mai Hương và Lê Phong”, PH 176, 10] Trong những lúc

gian nguy, Mai Hương đã làm cho Lê Phong cảm thấy nhẹ nhàng, yêu đời hơn “Phong mỉm

cười, đôi mày nâng cao, nhìn một cảnh dịu dàng, một hình ảnh yêu kiều, thấy lòng cảm

động một cách rất êm nhẹ. Một áng hương âu yếm vừa lướt tới như hơi gió ấm. Phong nghĩ

đến Mai.” [“Đòn hẹn”, NN số 146, 11]. Mai Hương chính là một hình tượng trong hệ thống

hình tượng mỹ nữ của Thế Lữ. Cô làm cho truyện trinh thám đầy tính duy lý trở nên mềm

mại, lãng mạn hơn.

Thế Lữ không chỉ cho người đọc thấy việc khám phá bí mật các vụ án một cách nhanh lẹ,

logic, mà còn để cho những nhân vật khác ca ngợi tài năng của Lê Phong, từ đó hình ảnh

anh trở nên hoàn bích. Kỳ Phương, đối thủ cạnh tranh với Lê Phong cũng phải công nhận tài

năng của chàng khi chàng vén màn bí ẩn của vụ án Đinh Võ Thạc “Tôi tưởng lúc này là lúc

đáng ghi nhớ nhất vì là lúc cho tôi biết chân giá trị một người sáng suốt lạ thường. Sự bí

mật đối với ông Lê Phong chỉ là một bài tính rất dễ. Khi người ta đã coi là việc dễ, người ta

lại sẵn một khiếu phán đoán sâu sắc như thế thì người ta không hay mắc những cái lầm như

chúng ta. Tuy vậy, trong vụ này, cách làm việc nhanh chóng của Lê Phong thực quá sức

tưởng tượng. Ông đã cho ta thấy kết quả. Ta nên nhận lấy cái kết quả đó và ngờ vực là

người tỏ ra kém độ lượng, không biết phục thiện và phụ lòng người có tài.” [“Gói thuốc lá”,

NN số 132, 19].

Từ các truyện trinh thám trên có thể thấy Thế Lữ đã tìm hiểu, học hỏi cái hay trong tư

tưởng, trong cấu tứ và kỹ thuật sáng tác của Phương Tây mà trực tiếp là Edgar Poe với

mong muốn đổi mới văn học, thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề của lối văn biền ngẫu, cách

thuật truyện thông thường, thực hiện chủ trương của Tự Lực văn đoàn “Đem phương pháp

thái Tây ứng dụng vào văn chương Annam".

2.2.2.2. Mặc dù tính duy lý được thể hiện rõ trong những truyện trinh thám của Thế Lữ

nhưng theo người viết, Thế Lữ chưa thực sự đạt trình độ cao và thành công ở thể loại này.

Ông luôn cố tình tạo những tình huống gay cấn để ở đó nhân vật, nhà thám tử nghiệp dư bộc

47

lộ tài năng. Ông xây dựng nhân vật này với nhiều trau chuốt, ưu đãi. Vụ án nào, Lê Phong –

nhân vật trung tâm – cũng khám phá ra bí mật trong thời gian nhanh nhất, có nhiều khi là

nhanh không tưởng. Những cách suy luận khoa học, những bước đi tìm kiếm hung thủ,

những cách ứng đối với kẻ thù,… được Lê Phong thực hiện thuần thục, chính xác. Nhưng

người đọc có cảm giác tất cả những cái đó đều do bàn tay sắp đặt của tác giả. Tác giả biết

được tiến trình hoạt động của các nhân vật và lựa các hành động cho Lê Phong. Kết cấu

truyện trinh thám của tác giả cũng chưa thuyết phục được người đọc. Kết cấu truyện tạo tình

huống cho câu chuyện trở nên éo le, phức tạp, cầu kỳ nhưng khi được giải mã thì lại quá

đơn giản và dường như vô nghĩa với những sự cầu kỳ trước đó. Trong Đòn hẹn, người đọc

theo chân Lê Phong qua rất nhiều những suy tính, những hành động, những nguy hiểm của

chàng. Sau những lời đe dọa và trò chuyện với một trong những thủ lĩnh của hội Tam Sơn,

Lê Phong vạch ra kế hoạch tiêu diệt hội. Anh tìm được vào hang ổ của bọn Tam Sơn, gặp

nữ chủ nhân xinh đẹp, thấy sự tài ba nhưng cũng rất lạnh lùng của cô. Anh thấy cảnh giết

người không gớm tay, thấy sự đe dọa và giam cầm mình của cả một “đội quân” kẻ thù.

Cuộc đấu trí, đấu khẩu giữa Lê Phong và bọn người Tam Sơn, giữa chính bản thân anh được

Thế Lữ miêu tả rất cầu kỳ làm độc giả cũng như bị cuốn vào câu chuyện. Lê Phong bị

thuốc mê và dời đến nơi khác, anh không còn đủ sức chống cự,…Chuyện đến hồi gay cấn,

độc giả đợi chờ việc giải mã của câu chuyện. Và kết quả là tất cả những việc làm của Lê

Phong, tất cả cuộc gặp gỡ và đấu trí với bọn người hội Tam Sơn ấy chỉ là giả, nó nằm trong

kế hoạch và hoạt động của Mai Hương – người đồng nghiệp của anh, với lý do Lê Phong

đang gặp nguy hiểm và Mai Hương làm vậy vì “Không lập mưu ép anh ở một nơi thì anh

thà liều tính mệnh để chiến đấu chứ không chịu làm một điều mà lòng tự ái của anh cho là

khuất nhục…” [NN số 169,19] Chỉ lý do đó thôi, Mai Hương đã bày ra cả một “bộ máy

Tam Sơn” để giữ chân Lê Phong? Như vậy có vô lý? Thực ra gần cuối truyện, người đọc đã

cảm thấy sự “đuối ý” của Thế Lữ. Ông đăng tin tìm những cách kết thúc cho truyện Đòn

hẹn gọi là “Cuộc thi kết thúc truyện Đòn hẹn” để có thời gian suy nghĩ và cũng là để tìm

những cách kết thúc hợp lý cho truyện. Tuy vậy kết thúc mà ông đăng lên báo vẫn không

làm hài lòng độc giả vì tính phi lý của nó.

Không chỉ có Đòn hẹn, Gói thuốc lá cũng mang tính chất phi lý nhưng ở khía cạnh khác

hơn. Một người khôn ngoan như Đinh Võ Thạc lại không hiểu những nguy hiểm khi bày ra

hàng loạt những tình huống phức tạp để lừa Lê Phong và những người xung quanh chỉ vì

một tờ vé số. Anh ta – một người có học thức “hoạt bát, thông minh, ăn nói dễ

48

thương”(theo lời nhận xét của Lê Phong) – [NN số 134, 20], quen với những người bạn tốt,

chỉ vì muốn có tờ vé số độc đắc đã chấp nhận giết bạn cùng phòng với mình, giết người em

song sinh của mình với ý định sau đó bỏ đi biệt tích. Như vậy có khiên cưỡng? Mọi hành

động của Thạc làm dường như được tác giả sắp xếp sẵn, không có mảy may sơ hở và hành

động của Lê Phong cũng cầu kỳ không kém. Tuy nhiên không thể có may mắn đến mức

Thạc đứng trên nhà nhìn thấy em mình gọi, liền xuống đuổi theo và giết em rồi sau đó thay

thẻ căn cước,… bao nhiêu hành động, bao nhiêu sự việc như vậy mà cả khu phố vừa mới có

án mạng vẫn không ai hay biết? Thật vô lý. Bác sĩ Đoàn trong truyện Mai Hương và Lê

Phong bị ám sát chết mà không có một cử động dù nhỏ; cô Tuyết Mai trong truyện Những

nét chữ tự tử chỉ vì những nét chữ đe dọa thì không hợp lý; trong truyện Cái chết ghê gớm

của Lê Phong, Lê Phong giả chết để dọa Văn Bình tuy có hồi hộp đôi chút vì cũng rắc rối,

lòng vòng nhưng giải quyết tình huống thì lại nhạt nhẽo, vô vị, có phần vô duyên, không

phù hợp với “công phu” tạo tình huống.

Tóm lại, truyện trinh thám của Thế Lữ đã đánh dấu bước chuyển cho văn học Việt Nam

gần hơn với thế giới. Ông đã vận dụng các hình mẫu truyện trinh thám của nước ngoài trong

xây dựng nhân vật và kết cấu truyện. Đây là một thể loại văn học khó. Nó đòi hỏi người viết

phải dụng công nhiều, có sự quan sát và trí óc sáng suốt, nhạy bén, cách lập luận phải khoa

học, tỉ mỉ. Thế Lữ đã làm được một phần nào đó yêu cầu. Tuy nhiên, một vài truyện trinh

thám của ông không gây được tiếng vang vì nhiều yếu tố “tối tăm và vô lý” (chữ dùng của

Phạm Thế Ngũ) [61, 494] Phải chăng, nói như Phạm Thế Ngũ “Tiểu thuyết của ông cao

quá, lấy làm truyện những điều lạ quá, làm nhân vật những người hiếm quá (…), không

thông thường trong xã hội Annam.” [61, 494].

2.2.3. Truyện kinh dị

2.2.3.1. Xét về tên gọi truyện kinh dị với ý nghĩa là loại truyện kì ảo rùng rợn, kinh dị

người Việt Nam đã đặt tên hoặc chuyển ngữ với nhiều tên gọi như ly kỳ, kỳ ảo, kinh dị,…

Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân đề xuất thuật ngữ “cái huyễn tưởng”, coi đó là một phạm

trù mỹ học và chọn huyễn tưởng để đặt tên chung cho tất cả những truyện có những tên gọi

khác nhau như trên. Theo ông “văn học huyễn tưởng là những truyện hay tiểu thuyết viết về

cái lạ lùng, cái ly kỳ, gây hồi hộp và có sức hấp dẫn cao” [18, 174]“huyễn tưởng là một

hình thái nhận thức thẩm mỹ dùng thủ pháp kết hợp hư thực để thể hiện tư tưởng của nhà

văn(…)có khả năng gây ra những phản ứng tâm lý bổ sung”[18, 180]. Ý kiến đó cũng rất

hợp lý. Tuy nhiên do thuật ngữ Truyện kinh dị đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến những

49

truyện có yếu tố trên của Thế Lữ, nên người viết sẽ sử dụng thuật ngữ này trong bài nghiên

cứu.

Truyện kinh dị của Thế Lữ thuộc vào “dòng truyện kỳ ảo thứ ba” [15, 117] mà Nguyễn

Huệ Chi đã gọi tên. Nó được xem như một phương pháp sáng tạo “thích hợp với các loại

ma hiện hồn, thần và quỷ” [15, 117], không chỉ áp dụng cho những nhân vật xuất hiện từ

thế giới bên kia, từ các lực lượng siêu hình, thần bí, mà còn cho tất cả những gì có ý nghĩa

phản kháng lại kinh nghiệm và lý tính, những gì dẫn đến một trật tự khác thường, một kích

thước khác thường. Cái kỳ ảo ở đây có liên quan mật thiết với nỗi khó khăn của hiện hữu,

sự kinh hoàng, mối lo sợ trước cái gì không thể nhận biết. Đó là những con quỷ bên trong

mà con người còn sợ hơn là những ma quỷ nào khác, vì khi đối diện với nó, con người trở

nên phân thân, mất tự chủ.

Ngoài Vàng và máu, truyện kinh dị của Thế Lữ còn khá nhiều. Ông có khoảng hơn hai

mươi truyện vừa và ngắn, đăng rải rác trên hai tuần báo PH, NN đồng thời sau đó được gom

lại để in trong các cuốn sách: Tiếng hú hồn của mụ ké, (truyện cùng tên và hai truyện khác,

1931), Vàng và máu (truyện cùng tên và một số truyện khác, 1934), Bên đường thiên lôi

(truyện cùng tên và mười một số truyện khác, 1936), Trại Bồ Tùng Linh (một truyện vừa,

1941).

Theo Phạm Đình Ân, truyện huyễn tưởng (tên gọi mà ông dùng để chỉ thể loại này) của

Thế Lữ có thể được chia làm hai tiểu loại hình : kinh dị và kì lạ, kinh dị chiếm 75% và kì lạ

chiếm 25% trong tổng số truyện. Tiểu loại hình truyện kinh dị có yếu tố kinh dị nhiều hơn,

khai thác cảnh rùng rợn đến mức kinh hoàng, khiến người đọc vô cùng sợ hãi, còn truyện có

yếu tố kì lạ thì khai thác cảnh khác thường, có yếu tố hoang đường, gây tò mò, có tạo nên

nỗi sợ hãi nhưng không nặng nề.

Ra đời đầu tiên trong số những tác phẩm của Thế Lữ là những tác phẩm có yếu tố kinh

dị. Tác phẩm văn xuôi đầu tiên đánh dấu sự nhập cuộc của Thế Lữ vào báo Phong Hóa hay

nói khác đi là vào nhóm TLVĐ là truyện Thây ma xuống thang gác. Thực ra với truyện

kinh dị Thế Lữ đã chào làng tác trước đó mấy năm với tác phẩm Tiếng hú hồn của mụ ké

và thực sự được chú ý với Vàng và máu. Vàng và máu là tác phẩm được giới nghiên cứu

tìm hiểu và đi đến khẳng định nó là tiêu biểu cho truyện kinh dị của Thế Lữ. Mở đầu khung

cảnh truyện là một vùng rừng núi hoang vu với cái hang thần thật ghê sợ. Núi tên là Văn

Dú. Tiếng Văn thì bình thường nhưng tiếng Dú sao nghe cảm giác như là tiếng rú, rú lên vì

hoảng sợ, kinh hãi. Ngay cái tên núi đã tạo cho người đọc cái cảm giác rờn rợn, ớn lạnh. Ở

50

cái núi ấy có một cái hang. Sự ghê sợ của núi và hang được miêu tả “Sừng sững giữa trời,

bao quát, đồi cây, gò đất, núi ấy trông đường bệ và hách dịch như đứng là chúa tể cho cả

một vùng phong cảnh hoang vu” “Thần núi Văn Dú linh thiêng lắm; lại rất độc ác và hay

nghi ngờ. Người nào hoặc vô tình, hoặc cả gan đến gần núi là bị thần hang bắt vào giết

đi.”[92, 537]. Một không khí u ám, cô tịch, âm u, ghê sợ bao trùm lấy mọi người dân sống ở

gần núi và với cả người đọc chúng ta. Theo chân hai người Thổ tới hang, cảm giác rợn

người càng tăng. Đường tới Văn Dú thật hoang vu, vắng vẻ, gió bấc thổi vù vù, mưa bụi

bay, thời tiết khá lạnh. Dòng suối chắn ngang đường “Nước suối xanh đặc như rêu thấm,

đang lừ lừ đi vào một hốc tối dưới mấy cụm cây lá xòe ra và phủ xuống như cánh tàn.”[92,

540]. Yếu tố kinh dị của truyện càng lúc càng tăng khi hai người Thổ tới cửa hang và trông

thấy cái xác “Người chết, hình vóc to lớn, đầu có bím vắt ra sau lưng. Chiếc dây chão thõng

xuống thắt nút ở gáy và lẩn vào cổ, làm cho cái mặt phị, xám hơn bộ quần áo chàm ướt, cúi

gằm xuống mà nhìn người ta bằng hai con mắt không có lòng đen. Hai bàn tay buông

thõng, để cho nước mưa ở năm đầu ngón tay nhỏ xuống như giọt gianh. Hai bàn chân đen sì

kiễng ở trên không, như muốn với lấy đám lá sắc, cỏ nhọn mọc ở mặt đất. Các nhánh cây

cao chung quanh thỉnh thoảng lại đưa đẩy. Một đàn quạ đen sợ người không dám xuống,

gọi nhau bằng những tiếng thê thảm lạnh lùng.” [92, 542].

Chỉ bằng một vài nét vẽ mà cảnh vật hiện ra thật rùng rợn, ghê sợ.

Với cách kể truyện lôi cuốn, giàu hình ảnh, tạo sự hấp dẫn nơi người đọc, ngay từ khi

mới ra đời, Vàng và máu đã trở thành một hiện tượng rất lạ. Có rất nhiều nhà nghiên cứu

đánh giá về Vàng và máu. Đầu tiên có thể kể đến Vũ Ngọc Phan với nhận xét “Vàng và

máu của Thế Lữ là một tiểu thuyết mà tác giả tỏ ra là một văn gia có biệt tài. Nghệ thuật

viết truyện của Thế Lữ đã lên tới một trình độ khá cao.” [72, 401]. Lê Huy Oanh cho rằng

“Vàng và máu là một trong những tác phẩm thuộc loại truyện rùng rợn, có giá trị lớn trong

kho tàng tiểu thuyết Việt Nam(…) Vâng, chính nhờ tài kể chuyện của tác giả mà Vàng và

máu đã là một tác phẩm lớn (…)có giá trị văn chương rất cao. (…) Với thi phẩm Mấy vần

thơ, ông là một thi sĩ rất lớn; còn với Vàng và máu, ông đáng được coi là một trong những

tiểu thuyết gia đại tài của xứ sở chúng ta” [103, 426]. Phạm Thế Ngũ cũng có những đánh

giá “Tác giả rất giàu khiếu phân tích đồng thời lại giàu trí tưởng tượng nữa. Trong Vàng và

máu, những đoạn tả cảnh Văn Dú, hang thần, những xác chết, vừa có những nét tinh tế của

một cây bút hiện thực, vừa có những vật cải dạng do con mắt một thi nhân, thành tỉ mỉ mà

không khô khan, rùng rợn mà vẫn có thú vị”[61, 485] Phan Trọng Thưởng nhận định một

51

cách khái quát “Với loại truyện li kì rùng rợn, không biết ông có phải tác giả đầu tiên hay

không. Nhưng với Vàng và máu (1934), ông có thể được coi là tác giả đạt đến đỉnh cao

nghệ thuật của loại truyện này. Cùng với Lan Khai và một số tác giả khác chuyên viết về

các loại truyện đường rừng, bí hiểm, văn xuôi Thế Lữ mở ra một khuynh hướng mới của văn

chương Tự Lực văn đoàn. Điều đáng chú ý là sự thay đổi về thể loại ở Thế Lữ cũng đồng

thời kéo theo cả sự thay đổi về thế giới nghệ thuật trong sáng tác của ông.” [89, 54].

Truyện Thây ma xuống thang gác mở đầu bằng không gian gây cảm giác sợ hãi với

người đọc “một cái nhà gạch hai từng, ở về gần vùng nhà quê, chung quanh toàn ruộng

vườn mênh mông với những ao chuôm đang lấp rở. Nhà ngảnh mặt ra cái đường đá nhỏ,

bên kia đường là một rặng cây dâu cằn cội, sau vườn dâu có một chiếc nhà lá lúp xúp, vắng

vẻ như không bao giờ có người (...). Chỗ nào cũng bỏ hoang.” [PH số 27, 7]. Sau đó là lời

kể của Đính người đang sống trong căn nhà đó với những người bạn tới chơi về nguyên

nhân nhà không có ai thuê. Có tên ăn trộm trong lúc bị truy đuổi quá gấp gáp nên đã treo cổ

tự vẫn. Từ đó hồn ma của tên ăn trộm vẫn thường về trò chuyện với người nào sống trong

căn nhà đó và hiện tại hàng đêm vẫn về trò chuyện với Đính. Trải qua mấy phen hú hồn,

mặt anh nào cũng nhợt nhạt vì thây ma xuống dọa.

Ở truyện Cái đầu lâu, cảm giác ghê sợ khi nghe lời kể của Chung về cái đầu lâu ở nhà

Thao “Nhưng cái mà anh Thao lấy ở nhà thương về lại của một tên tù mới chết, trông còn

mới và trắng hơn cái này nhiều,( …) lúc nào cũng chăm chú nhìn tôi bằng hai con mắt đen

và rỗng, mà hai hàm răng thì nhe ra một cách chế riễu và độc địa.”[PH số 128, 6]. Hằng

đêm, tiếng nghiến răng ken két phát ra từ chiếc đầu lâu làm cho những người trong nhà

Chung cảm thấy vô cùng sợ hãi.

Truyện Cái sác đuổi người lại làm cho những độc giả yếu tim phải một phen kinh khiếp.

Phải canh cái xác của bạn trong đêm khuya tĩnh mịch đã là một việc vô cùng ghê sợ, vậy mà

cảnh tượng nơi đó, qua ngòi bút của Thế Lữ lại càng đáng sợ hơn “Trong nhà mờ tối một

cách huyền ảo. Người bạn ngồi trước mặt tôi chỉ là cái bóng nửa thực, nửa hư. Chốc chốc

lửa thuốc lại làm cho mặt anh ta sáng đỏ lên một lát”[PH số 66, 6].

Bên cạnh truyện đậm yếu tố kinh dị thì truyện của Thế Lữ còn có truyện nghiêng về yếu

tố kì lạ. Truyện Một đêm trăng có thể đánh giá là một truyện hay của Thế Lữ. Nhân vật

xưng tôi trong truyện là một người đàn ông đi rừng với một nhóm bạn. Đêm đó, nhóm bạn

của anh rủ nhau vào bản gần đó chơi thì anh ngủ lại cái lán bên rừng. Trong cơn mơ màng,

52

anh giật mình khi thấy có người con gái Thổ xinh đẹp dịu dàng đến rủ anh đi chơi. Không

cưỡng lại được anh đi theo cô như đi trong mộng mà trong lòng vẫn không hiểu mình đang

làm gì và điều gì sẽ xảy đến. Đang bồng bềnh trong cảm giác như mộng, anh phải quay về

hiện thực khi biết được lí do thực sự mà người con gái quyến rũ kia muốn anh đi theo. Đó là

cô ta nhờ anh kéo giúp xác của một người đàn ông đang bị vướng vào vách núi. Khi thi thể

người đàn ông được kéo lên anh được cô gái cho biết đó là kẻ vừa mới giết chồng sắp cưới

của nàng. Nói xong, cô gái bèn nâng xác kẻ phạm tội lên, cố hết sức quẳng xuống dòng thác

nước đang chảy xiết. Câu chuyện mang hình ảnh cuộc sống đời thường nhưng đã được Thế

Lữ phả vào đó những yếu tố kì lạ. Yếu tố ấy toát lên ở không khí của cốt truyện, ở không

gian núi rừng, ở thời gian ban đêm với ánh trăng mờ ảo,… Câu chuyện về cái xác, sự thù

hằn ghê gớm của cô gái và cái chết của cả ba người trong câu chuyện đã được yếu tố kì lạ,

hoang đường mà Thế Lữ sử dụng làm cho người đọc bâng khuâng hơn là kinh hãi.

Cùng trong không khí bàng bạc, đậm màu sắc hoang đường núi rừng, truyện Trại Bồ

Tùng Linh nổi bật lên. Truyện được viết theo bút pháp Liêu trai chí dị. Câu chuyện kể về

chuyện tình đẹp như mơ của một văn sĩ tên Tuấn và một cô gái tên Hoàng Lan Hương.

Cảnh tượng trại Bồ được Tuấn đặt tên là Trại Bồ Tùng Linh ấy vừa thơ mộng, vừa mờ ảo lại

vừa bí hiểm, ma quái chẳng khác gì cảnh tượng trong Liêu trai chí dị. Cô gái không cho

Tuấn biết về tung tích của mình chỉ nói mình là hồn tinh của hương hoa, cây cỏ. Vẻ đẹp của

mĩ nữ và những cuộc hoan lạc nhục cảm được che phủ bởi hương hoa, ánh đèn đêm mờ ảo

và tâm tưởng chập chờn nửa tỉnh nửa mê của chàng trai si tình Tuấn khiến cho yếu tố kinh

dị giảm đi thay vào đó là những yếu tố kì lạ. Đọc truyện ta cảm thấy nhẹ nhàng dịu êm như

đang đi vào cõi mộng. Phạm Đình Ân có nhận xét “Có thể nói, trong số những truyện huyễn

ảo của Thế Lữ, trại Bồ Tùng Linh có chất lãng mạn và trữ tình đậm đà nhất. Chuyện tình

yêu trai gái trong Trại Bồ Tùng Linh được miêu tả tỉ mỷ, đằm thắm, giàu xúc cảm hơn

truyện Liêu trai chí dị.” [5, 121].

Truyện kinh dị của Thế Lữ có sức hút lớn đối với độc giả. Người đọc bị cuốn vào những

từ ngữ, câu văn đầy bí ẩn, tạo cảm giác tò mò, sợ hãi. Bằng trí tưởng tượng bay bổng, óc

quan sát tinh tế và sắc sảo, cách hành văn được chăm sóc kĩ càng vừa mềm mại, vừa khúc

chiết lại giàu hình ảnh Thế Lữ đã tạo nên cho truyện kinh dị của mình những đặc sắc, những

giá trị không thể phủ nhận trong thể loại văn học này của dân tộc.

2.2.3.2. Với tài năng viết truyện kinh dị độc đáo của mình, Thế Lữ được sự chú ý của mọi

người ngay từ những tác phẩm đầu tiên. Tuy là kinh dị ghê rợn nhưng tác phẩm của Thế Lữ

53

bao giờ cũng được ánh sáng của khoa học mà ông đưa vào để lí giải. Chính vì chủ định này

của ông được thể hiện qua truyện Vàng và máu nên đã làm cho nhóm tiền thân của TLVĐ

để ý. Truyện Một đêm trăng và Vàng và máu đã “làm cho Nguyễn Tường Tam đặc biệt chú

ý đến về ý tưởng và ngòi bút mới mẻ” (Theo Phạm Thế Ngũ). Nguyễn Tường Tam cho rằng

đó là “Một cây bút mới mẻ mà ông thấy có triển vọng, sẽ kết nạp cho được và chắc chắn

không khó khăn”. Trong bài tựa cuốn Vàng và máu năm 1934 Khái Hưng phát biểu: “Tôi

vẫn mong mỏi sẽ có nhà văn dung hợp được văn thái tây với văn Á Đông để gây một lối văn

viết theo óc khoa học vừa vẫn giữ được thi vị của văn Tàu. Nhà văn đó ngày nay đã có.

Chính là Nguyễn Thế Lữ, thi sĩ trong Tự Lực văn đoàn.” [PH số 84, 2] Trong Vàng và máu,

khi nghe những lời anh thanh niên kể về lí do việc anh và ông già đi vào núi, nghe được câu

chuyện về việc giấu của của người Tàu, quan châu Nga Lộc suy nghĩ tìm hiểu và đã khám

phá được sự thật đằng sau mảnh giấy và những lời đồn thổi kia. Mảnh giấy giải thích rằng:

“Hang Văn Dú trông như cái miệng có hai chiếc răng. Ba thước nói là chân, bốn thước nói

là tay. Mày đo từ cửa hang vào trăm chân, rồi mày đo trở lên ba tay, thì sẽ thấy chữ của

mày tên Thạch. Đào chữ Thạch xuống sẽ thấy một cái hang nữa mang những hòn đá hình

nhẵn như trứng. Đá này giữ của đó. Nhưng không được lấy sức mà mang vì tìm thấy vàng

thì mày sẽ chết.”[92, 559]. Quan châu Nga Lộc bèn tổ chức cho một nhóm thuộc hạ gan dạ,

khéo léo, bình tĩnh và trung thành vào hang. Qua nhiều cảnh ghê sợ nhưng bằng óc phán

đoán, suy luận thông minh, khoa học cuối cùng ông đã thu được toàn bộ kho báu. Với cách

tạo câu chuyện hấp dẫn, bọc lớp ngoài tác phẩm là sự kì bí, rùng rợn nhưng thực ra tất cả

đều được bóc trần bởi ánh sáng khoa học, Thế Lữ đã tự mình mang tới và làm cho tiêu chí

của TLVĐ được củng cố và hoàn thiện. Không chỉ có Vàng và máu những tác phẩm khác

như Tiếng hú hồn của mụ ké, Thây ma xuống thang gác, Con châu chấu tre, Giòng máu

đứt quãng, Hai lần chết, Cái sác đuổi người, Bên đường thiên lôi, Lưỡi tầm sét, Cái đầu

lâu,… cũng đều được viết theo “óc khoa học”. Thây ma xuống thang gác giải mã hiện

tượng “con ma tự tử” là… anh Tường, một trong số những người bạn đến chơi nhà Đính và

nguyên nhân là “Ai bảo, anh đòi lên dọa tôi.”. Giòng máu đứt quãng nói việc nghi ngờ

một dấu vết phạm tội hóa ra là vệt máu của một con vật bị thương vô tình nhảy qua thi thể

người chết. Nhân vật cũng giải thích dùm tác giả trong truyện Cái xác đuổi người : “Quyết

không có ma quỷ nào hết (…) Người sống thì tưởng là bị cái xác kia đuổi, nhưng thực ra thì

cái xác bị cái “hấp lực” kia hút theo.(…) Mà cái hấp lực ấy tôi cho là cái sợ hãi quá sức

của người sống vụt chạy ra” [PH số 66, 6], nhân vật nhận định hay chính là suy nghĩ của

54

Thế Lữ “vẫn còn bí- mật như các điều huyền- bí khác mà ánh sáng khoa- học mới lờ- mờ

ngó tới” [PH số 66, 6].

Trong truyện Bên đường thiên lôi nhân vật Giáo sư Trần Lãm luôn luôn ngồi bên một

chồng sách dày, ngủ ngày làm đêm, một nhân vật khó hiểu, kì bí, cô độc đã thốt lên “Có lẽ

nào sự huyền bí bao giờ cũng là sự huyền bí mãi? Ánh sáng khoa học lại không soi vào bí

mật của vũ trụ ấy một vài phần ư?(...) Chân -lý là gì? Có phải chăng chỉ là cái công việc đi

tìm chân lý đó chăng?...Nếu vậy sự nghiệp của loài người toàn là những điều hư ảo cả sao?

Không! Đến nỗi thế ư? Không! Ta phải quyết đi cho tới cùng, ta phải thắng nổi những tà

thuyết của phái ngụy biện mới được!”[PH số 73, 7]. Sống bí ẩn, hành tung khả nghi, lại làm

việc bên chiếc đầu lâu, giáo sư Trần Lãm tạo cho người đọc cảm giác sợ hãi, coi là khác

người. Người làm khoa học đôi khi có những điều khác người, người ta hi sinh mình, bị

người khác coi là khờ dại. Nhưng những khát khao khám phá thế giới, khám phá sự bí ẩn

luôn có trong những người làm khoa học. Giáo sư Trần Lãm hay chính là Thế Lữ thốt lên

“Ôi! Hư vô! Ôi! Cõi thuận lý! Bao giờ ta mới tới được chốn vô cùng vô cực đó? Bao giờ sự

chết kia đối với ta không còn mảy may bí mật gì?”[PH số 73, 6].

Truyện Lưỡi tầm sét là câu chuyện mang yếu tố kinh dị tưởng như không thể nào tin

được. Anh chàng tên Kỳ là người “không ưa đàn bà” “sống một cách thanh đạm, bình tĩnh,

nhưng tự do”[PH số 91, 6] Trong một đêm mưa to, gió giật, có một người con gái chạy vào

nhà anh ta. Cô gái ấy bị sét đánh. Điều vô lí ở chỗ “quần áo bị lột hết, gọt hết tóc với cả

lông mày” thế nhưng lại không bị xây xát gì trên cơ thể và vẫn sống. Người đọc và ngay

chính tác giả cũng băn khoăn về điều đó. Nhưng bằng cảm quan khoa học, Thế Lữ vẫn có

nhận định “Những hiện tượng khó hiểu trong tự nhiên thì nhiều, đôi khi ta không hiểu hết,

ta chưa lí giải được hết nhưng luôn là nguyên lí khoa học.”[PH số 92,6]. “Tôi chỉ biết đó là

sự thực, còn tại sao bị sét đánh mà không chết thì chịu không cắt nghĩa được. Ở một cuốn

khảo cứu về “sấm sét” tôi thấy có chuyện tương tự như thế, mà người bị đánh còn văng ra

đến ba, bốn chục thước nữa kia (Camille Flamarion “Les Caprices de la Foudre”)”

[PH số 92, 6].

Không chỉ những chuyện đậm chất kinh dị được ông giải thích một cách khoa học, những

truyện nhiều yếu tố kì lạ cũng được ông kết thúc một cách sáng tỏ. Truyện Một đêm trăng

yếu tố kì lạ hoang đường được bóc tách dần sau từng hành động, lời nói của cô gái. Truyện

kết thúc được Thế Lữ miêu tả “Nói xong nó đứng dạng hai chân ra… cái mép váy đằng

trước căng thẳng bởi hai ống chân hơi thô và trắng, một tay nó xốc ông Ba một tay nâng ở

55

ngang lưng. Tôi toan dò bước đến gần thì đã thấy người con gái rướn mình văng cái thây

xuống. Rồi không biết vì quá đà hay cố ý, cả người con gái cũng văng theo…Mặt trăng kín

đáo ẩn mình sau đỉnh núi, cả hai cái thân người trên cao rơi xuống, một tiếng gớm ghê

trong những tiếng thác đổ ầm không ngớt.” Sự thật ở đây là tâm hồn người con gái Thổ:

yêu thì thật say đắm nhưng thù thì cũng ghê gớm và phân biệt rạch ròi yêu ghét.

Như vậy, dùng phương pháp khoa học để lý giải những hiện tượng kinh dị, Thế Lữ đã

thực hiện tôn chỉ của Tự lực văn đoàn một cách đúng đắn. Bên cạnh đó, xét về ý nghĩa xã

hội, Thế Lữ đã góp một phần xóa đi màn sương mờ ảo những yếu tố kinh dị gây ngờ vực, sợ

hãi cho người dân bao đời và hướng gợi mọi người nhìn sự vật, sự việc bằng con mắt khoa

học, sáng suốt hơn.

2.2.4. Truyện “đường rừng”

2.2.4.1. Cuộc cách mạng về nghệ thuật giai đoạn 1930 – 1945 đã mở ra nhiều con

đường cho nhà văn đến với những miền đất mới. Một trong những miền đất ấy là cuộc sống

và con người miền núi. Rất nhiều truyện trong giai đoạn này lấy bối cảnh thiên nhiên làm

điểm tựa cho nên tuy truyện kể về con người, một mảnh đời, hoặc một khía cạnh của cuộc

sống nhưng lại được biểu đạt bằng những trạng thái phức điệu của tâm hồn, thấm đẫm hơi

thở của rừng xanh. Các câu chuyện ở đây có kết cấu theo nhiều mô thức về tình yêu, vận

mệnh, hiện thực, phi hiện thực, ảo hoá,… đã tạo được sự khác biệt so với các truyện cổ dân

gian và các tác phẩm thuộc thời kì văn học trung đại. Nói về những tác phẩm loại này chúng

tôi chia làm hai tiểu loại nhỏ: những truyện lãng mạn đường rừng có yếu tố hoang đường kì

ảo và truyện đường rừng mang màu sắc lãng mạn.

Truyện lãng mạn đường rừng có yếu tố hoang đường kì ảo thường được dùng để gọi

truyện kinh dị (hoặc rùng rợn). Truyện lãng mạn đường rừng mang màu sắc lãng mạn là

những tác phẩm cũng lấy bối cảnh rừng núi nhưng viết theo bút pháp lãng mạn là chủ yếu

tuy nhiên nó vẫn giàu tính hiện thực ở miền núi hơn loại trên. Xét về bản chất, “đường

rừng” chỉ là bối cảnh chứ không phải là hiện thực, không phải đối tượng chủ yếu mà nhà

văn hướng đến. Trong các truyện của mình Thế Lữ hướng đến cái kỳ dị, khắc nghiệt và cả

cái lãng mạn, trong trẻo nơi đường rừng ấy nữa. Với những truyện đường rừng đậm màu sắc

kinh dị trong mục này chúng tôi không khai thác thêm vì đã nói ở phần trước. Để làm nổi

bật ý Thế Lữ và việc “soạn những cuốn sách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ

nghĩa bình dân”, người viết chỉ tập trung vào những truyện đường rừng mang màu sắc lãng

56

mạn.

2.2.4.2. Những truyện đường rừng mang màu sắc lãng mạn chủ yếu được ông viết ra

bằng tình yêu nồng thắm trước vẻ đẹp nguyên sơ, trong trẻo của thiên nhiên, vẻ đẹp kín đáo,

bí ẩn mà hồn nhiên của người miền núi. Bối cảnh của truyện là thiên nhiên hoang dã, thơ

mộng. Câu chuyện có nội dung kể về những mối tình đẹp, thường là không trọn vẹn, để lại

nhiều nhớ thương, tiếc nuối giữa chàng trai là người thành thị với cô gái vùng cao đẹp, ngây

thơ, hồn nhiên, chất phác và có phần bí ẩn. Cô Bụt, Hoa bên suối, Gió ngàn, Trăng ngàn là

những truyện đậm màu sắc lãng mạn, thứ ái tình lãng mạn lý tưởng mà lớp văn sĩ tây học

ngày ấy, đặc biệt là lớp văn sĩ của Phong Hóa trong buổi đầu thường nói tới. Cô Bụt là câu

chuyện kể chuyện một họa sĩ cùng nhóm bạn lên thượng du vẽ. Trong lần vẽ mấy cô Bụt

(những cô gái đồng trinh biết đàn hát, biết cầu khấn các thần linh) chàng họa sĩ đặc biệt để ý

đến một cô có nhan sắc mộc mạc mà thanh tú lạ thường. Nhưng họa sĩ không biết tiếng Thổ,

lại nhút nhát nữa nên không sao tỏ được tình yêu chỉ biết đem hết cả tâm hồn nghệ sĩ đa tình

để cố ghi lấy nhan sắc tiên nga kia trên mặt giấy. Hoa bên suối, ái tình trở nên mặn mà hơn,

mà do cô Thổ đi bước trước. Cô Thổ đến như một gái Liêu Trai, đêm khuya đẩy cửa vào,

sáng sớm đã đi mất, để lại cho chàng trai kinh lên làm việc nhà nước ở đó hương vị kì thú

của bông hoa rừng. Gió ngàn là một kỷ niệm đẹp, trong trẻo thời tuổi thơ của cậu thiếu niên

miền xuôi, lúc cậu 12 tuổi, tên là Nọng Mai. Cậu bé Nọng Mai có tình cảm đặc biệt với một

cô gái người Thổ tên Ché Sao, người mà cậu gọi là chị, hơn cậu năm tuổi. Tình cảm chị em

đã phảng phất ái tình khi cậu thiếu niên thương nhớ Ché Sao một cách đặc biệt và giữ chị

cho riêng mình. Tình yêu với Ché Sao không được đáp lại nhưng đã để lại trong lòng chàng

hương vị đặc biệt vì nó như của chính chàng tạo ra từ kỷ niệm, vừa như của người con gái

trao tặng “người sơn nữ thật thà đã yêu mến mình một cách thật thà và vô tình gieo vào

lòng mình những nỗi thổn thức mới mẻ thắm tươi của sự yêu thương lần thứ nhất.”. Trăng

ngàn là câu chuyện có phần đặc sắc hơn, ý nghĩa hơn. Tuấn, thầy ký người Kinh, thạo tiếng

Thổ, hát giỏi nữa, trá làm trai Thổ, đi hát lượn, ghẹo được một bông hoa rừng tuyệt diễm là

cô Thay. Thay đã rung động, say sưa chàng trai văn minh có ngôn ngữ tế nhị, hoa mĩ, nhưng

khi biết chàng trai không phải người Thổ, nàng trở nên lạnh lùng vì nghĩ rằng Tuấn làm như

vậy để ghẹo mình “Em xin anh tha lỗi, duyên ta không hợp…”. “không hợp” ở đây là

không có sự giao cảm về linh hồn “Tuấn biết anh van nài nữa cũng vô ích, sự khác nhau

của hai giống đã quá rõ rệt, chính vì anh đã mặc lấy bề ngoài của người thượng du. Hai

trình độ, hai tính tình, anh với họ chỉ có thể gần gũi nhau trong chốc lát trong những cuộc

57

tình duyên chóng tàn. Có thế thôi. Thề thốt hứa hẹn bằng những lời tha thiết của tâm tình

chỉ gây nên sự thất vọng chua cay, làm tủi lòng người ta.”[NN số 166, 14].

Ở những truyện về loại này, người đọc không chỉ thỏa mãn khi được sống trong bầu

không khí vô cùng thoải mái của núi rừng, thoát khỏi cái ồn ào của thành thị mà còn hiểu

thêm về tâm tình, tính cách của người vùng núi. Cô Thơ là câu chuyện kể về mối tình lãng

mạn giữa Tâm, một người Kinh lên dạy học và Thơ, cô gái xinh đẹp người Thổ. Câu chuyện

là một bài thơ đẹp, nhẹ nhàng. Tuy không đến được với nhau nhưng người đọc thấy được

quan niệm và tâm lý lãng mạn của cô gái Thổ trong quan niệm về tình yêu “Em chỉ muốn hễ

lúc nào em không gần anh thì anh quên em ngay, Chúng ta đừng thề thốt gì với nhau. Thỉnh

thoảng em lại đến với anh để được nghe anh nói những câu em rất thích nghe…Duyên ta

em chỉ muốn có thế thôi. Nhưng anh lại muốn lấy em làm vợ! Anh yêu em quá chỉ làm em

thêm tủi, vì bây giờ…vì đã lâu…(Thơ nghẹn ngào nói càng nhỏ) vì đã lâu em đã …có chồng

rồi” [NN số 37, 20]. Nhân vật Tâm trong câu chuyện và có lẽ cả chúng ta chắc không khỏi

giật mình trước lời lẽ phân trần bất ngờ và đầy nghịch lý ấy nhưng tác giả cũng đã gỡ mối

dùm chúng ta “Bởi vì ở đây, luân lý giản dị của người ta không coi đó là một sự ngang trái.

Yêu nhau thì đến với nhau. Và đó là lẽ tự nhiên” [NN số 37, 20]. Lẽ tự nhiên đó có lí khi

“người con gái Thổ thường khao khát những lời ngọt ngào đẹp đẽ, những cái vuốt ve êm

dịu, những tình tứ yên lặng và những tiếng thở dài thấm thía nồng nàn…Bao nhiêu điều đó

một người con gái Thổ không thấy trong đời sống mộc mạc với chồng mà phải đi tìm trong

những lúc gặp gỡ tình cờ ở các hội hè hoặc ở những cuộc tình duyên thầm kín. Tính hồn

nhiên là bản tính của người đàn bà Thổ khi còn xuân sắc” [NN số 37, 20].

Cũng qua những truyện lãng mạn đường rừng tác giả đã cho ta biết nhiều điều về miền

đất thượng du, mảnh đất Lạng Sơn nơi ông đã sống cả thời thơ ấu và có bao kỷ niệm êm

đềm, những cảnh thiên nhiên đẹp và thi vị bên cạnh đó là những phong tục thổ dân, tục hát

lượn ở các chợ lớn những đêm áp phiên, trò chơi đánh còn, thói quen tắm suối đêm trăng

của các cô gái sơn cước, …

Khi nghiên cứu về văn xuôi Thế Lữ trong mảng văn xuôi nghệ thuật đường rừng chúng

tôi thiết nghĩ nên đặt tác phẩm của Thế Lữ trong mối quan hệ với những nhà văn khác có

chung đề tài. Và tác giả cũng có rất nhiều tác phẩm thuộc đề tài này cùng thời với Thế Lữ,

nổi bật là Lan Khai. Thế Lữ và Lan Khai là hai nhà văn đã có một thời kỳ trong cuộc đời

mình trên những miền rừng núi, đã từng yêu mến vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng và con

người nơi đây. Cả hai đều giàu chất nghệ sĩ, có tâm hồn lãng mạn, ưa phiêu lưu, ưa khám

58

phá. Tuy nhiên nếu như Lan Khai đặt hẳn mình vào vị trí của những người thổ dân để quan

sát kỹ lưỡng đời sống của họ để hiểu họ thì Thế Lữ lại xác định chỗ đứng bên ngoài, tức là

khách quan với chủ ý là phân tích những phản ứng tâm lý phức tạp của người kinh khi tiếp

xúc với những tâm hồn mộc mạc của núi rừng. Thế Lữ chuyên đi tìm cái đẹp thi vị mơ

màng của miền rừng núi mà hai đại diện tiêu biểu của nó là cảnh thiên nhiên trong trẻo, mĩ

lệ và những người con gái xinh đẹp, hiền lành, ngây thơ, thuần phác, trong sáng; còn Lan

Khai thì chú trọng nhiều đến lịch sử, phong tục, tính tình, cách sống của người thượng du.

Màu sắc địa phương chủ yếu là những cảnh đẹp thi vị nên thơ đã được ngòi bút tài hoa của

Thế Lữ vẽ trở lên rõ ràng và phô hết vẻ đẹp của chúng dù có lúc nó làm cho người ta phải

rợn người trước vẻ huyền hoặc, bí hiểm của nó vì thế truyện của Thế Lữ lúc nào cũng có thi

vị lãng mạn mơ màng. Lan Khai lại tô đậm màu sắc địa phương bằng thứ “huyền-hoặc

rùng-rợn đến hãi-hùng, như chứa đựng cả cái linh-hồn sâu-thẳm và huyền-bí của rừng

thiêng”. Đưa tác phẩm của Lan Khai vào để so sánh với tác phẩm của Thế Lữ chúng tôi

không có ý đánh giá ai hơn ai kém mà là cách để nhìn rõ hơn tác phẩm của Thế Lữ. Truyện

đường rừng mà Thế Lữ viết dường như đó chính là “góc tâm hồn đẹp” của người miền núi

hay chính là cảm giác mà ông đã cảm thấy, đã hưởng thụ về vẻ thi vị của núi rừng. Và cảm

xúc ấy ông muốn chuyển tải đến người đọc. Đó là lí do khiến những truyện của ông đẹp như

những bài thơ chăng?

2.2.5. Truyện về cái thường ngày (đời tư – thế sự)

Từ mong muốn khám phá đời sống hiện thực, lấy hiện thực cuộc sống để phục vụ cuộc

sống, Thế Lữ đã sáng tác khá nhiều truyện ngắn viết về cuộc sống đời thường. Dùng lối văn

giản dị, dễ hiểu, khám phá những khía cạnh cuộc sống, những trang văn của Thế Lữ khi thì

hài hước, sắc sảo, khi lại tâm tình, thấu hiểu, sẻ chia. Các truyện Vì tình, Mau trí khôn, Một

chuyện ngoại tình, Người tài xế điên, Lệ Mai nữ sĩ, Đồng tâm là những truyện không đặc

sắc lắm. Vì tình kể về một anh chàng có khuôn mặt và vẻ ngoài xấu xí, thô kệch. Trên một

chuyến tàu, anh ta làm quen được với một cô gái rất xinh đẹp, dễ mến. Anh thấy vui và sung

sướng khi vừa được ngồi bên người đẹp lại vừa được người con gái xinh đẹp ấy đối đãi lịch

thiệp và có vẻ rất quý trọng anh. Đến ga, xuống tàu, cô gái nhờ anh xách dùm chiếc vali của

cô. Cảnh sát bắt anh, khám xét thì thấy trong chiếc vali mà cô gái nhờ anh cầm giúp ấy toàn

là thuốc phiện. Anh bị giam và sau nhiều nỗ lực giải thích, bảo lãnh của bạn bè anh mới

được tha. Thật là nhớ đời. Không giống như những truyện cổ tích có kết thúc hậu đối với

người có vẻ ngoài xấu xí nhưng câu chuyện cũng mang lại giây phút tươi đẹp cho cuộc đời

59

của người đàn ông “thiệt thòi” ấy. Mau trí khôn lại kể việc nhanh trí của anh chàng Tập

trong tình huống giáp mặt với tay người Pháp. Lái xe ô tô không được rành lắm cộng với

chiếc xe cổ lỗ làm cho anh lái xe trên đường như rùa bò. Thế nhưng vẫn muốn thể hiện với

tay người Pháp nên anh đã cố hết sức phóng và va quẹt với hắn. Trong khi đánh nhau, biết

không thể thắng được tay người Pháp với sức vóc to lớn ấy anh đã nhanh trí chuyển sang

hướng khác. Lòng tự tôn dân tộc, lòng kiêu hãnh giúp anh chàng Tập không biết sợ, dám

thách đấu tay đôi với người to lớn hơn mình rất nhiều. Một chuyện ngoại tình cũng là câu

chuyện ít có những tình tiết sâu sắc. Anh chồng trong câu chuyện vì phát hiện ra vợ ngoại

tình nhưng không giết vợ, không bỏ vợ mà vẫn sống cùng cô ta trừng phạt cô ta bằng cách

để cô ta sống trong cảm giác sợ hãi, không được yêu thương.

Những truyện trên tuy có khám phá những khía cạnh của cuộc sống, có giá trị khôi hài

đôi chút nhưng chưa thực sự mang lại những ý nghiã về giá trị thẩm mĩ mà chủ yếu mang

tính chất giải trí chốc lát với người bình dân. Câu chuyện vượt lên một bậc so với những

truyện trên, theo tôi là truyện Câu chuyện trên tàu thủy. Truyện là câu chuyện của nhân vật

“tôi” nghe được từ một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, dáng vẻ như ông ký về hưu cùng

đi trong toa hạng ba chuyến tàu chạy Hòn Gai với mình. Trước đó, “ông ký” đã giới thiệu

Hai Nhiêu là bậc “quân tử trong phường kẻ cắp”[PH số 129, 13], nghĩa là không lấy của

người nghèo và coi việc ăn cắp là một nghệ thuật, nghĩa là càng khó lấy càng thích, càng

được dịp trổ tài. Phần chính của truyện là “câu chuyện trên tàu thủy” như sau: Hai Nhiêu

đang đi kiếm ăn ở Hải Phòng thì được tin vợ ốm phải xuôi Nam về quê thăm. Bước lên tàu,

bác ta quan sát xem có món “sộp” nào không nhưng liếc con mắt nhà nghề nhìn qua, bác ta

thấy thất vọng không kiếm chác được gì. Đang khi đó thì trên tàu xảy ra cảnh lộn xộn: Một

người nhà quê “chỉ có một cái lồng gà rỗng, với trong đó một gói mo chừng đựng cơm nắm,

và hai cái nồi đất mới, miệng bưng bằng giấy nhật trình” [PH số 129, 13] đang bị người

nhà tàu la lối, đòi đuổi xuống vì thiếu một hào tiền vé. Thấy cảnh khốn khổ và trái tai trái

mắt đó, Hai Nhiêu nổi máu anh hùng liền bỏ tiền ra mua vé cho người nhà quê kia. Khi tàu

cập bờ, người nhà quê chèo kéo Hai Nhiêu vào quán, gọi cơm đãi, khiến bậc quân tử kẻ cắp

phải lấy làm nghi hoặc. Nhưng không, bí mật được tiết lộ: Người nhà quê mang theo ngót

năm trăm bạc, giắt theo trong người thì sợ nguy hiểm mất cắp, nên mới bày ra cái kế “cái

lồng gà với mấy cái nồi, mà lại của một ông nhà quê không có lấy một hào để trả tiền tàu...

ông tính, còn kẻ cắp nào để ý đến nữa”[PH số 129, 14]. Hai Nhiêu nghe thấy sự thật đó thì

choáng người đi vì tiếc của.

60

Truyện chỉ ngắn có hai trang báo nhưng nó cho thấy nghệ thuật vượt bậc trong viết

truyện ngắn của Thế Lữ. Đó là truyện trong truyện. Lồng trong câu chuyện chính, là lời kể

chuyện của ông kí kể cho “tôi”. Mà biết đâu ông kí đó lại chính là Hai Nhiêu? Câu chuyện

vượt ra ngoài ý nghĩa là chuyện ăn cắp và kinh nghiệm ăn cắp là ở chỗ đó. Tác giả đã khéo

cho thấy cả tâm lý của hai hạng người: Cái ranh mãnh của người nhà quê và sự cảm động

thức dậy trong người làm một nghề xấu xa. Người nhà quê hồn nhiên không biết trước mặt

mình là một tay bợm già, mà chỉ thấy đó là “một người quý hóa” đã ra tay giúp mình, dù là

trong một màn kịch do mình dựng ra. Hai Nhiêu thì thấy cái việc mình mua vé cho người

nhà quê kia tự dưng khiến cho “trái tim kẻ cắp của bác hơi cảm động”. Vì sao? “Không phải

vì bác đã làm được một điều thiện - thiện với chẳng thiện thì Nhiêu có cần gì? - nhưng vì

thấy cái cảm giác đầu tiên được những người hiền lành kia tin bác một cách chân thực”[PH

số 129, 13]. Câu nói này cũng làm ta thấy được nụ cười giễu nhân vật, giễu người đời của

nhà văn. Phạm Xuân Nguyên khi nhận xét về tác phẩm này đã có những kết luận “Truyện

viết ngắn gọn, giản dị, có cao trào, có sự biến, tôi đọc bao lần rồi vẫn thấy bất ngờ, thích

thú. Khi một câu chuyện mình đã biết hết tình tiết, sự kiện, nhưng mỗi lần đọc vẫn có khoái

cảm thì hẳn là nội dung của truyện đã được thể hiện bằng một nghệ thuật bậc thầy có sức

ám ảnh và ràng buộc.” [64, 2]. Ở truyện ngắn này Thế Lữ đã cho thấy tài năng của mình

trong việc viết truyện ngắn.

Bên cạnh tác phẩm này có một tác phẩm đạt đến tầm cao của nghệ thuật viết truyện ngắn

là Thoa (Một đời người). Câu chuyện dung lượng không dài, chỉ hơn hai mươi trang sách,

không có những xung đột cao trào, không có những đau đớn dằng xé dữ dội thể hiện qua

câu chữ nhưng khi đọc xong tác phẩm người đọc nào cũng cảm thấy chạnh lòng, đau nhói

trong tim, thương cảm về thân phận của một kiếp người lặng lẽ. Thoa, nhân vật chính của

câu chuyện là một cô gái câm. Sự thiệt thòi, buồn tủi, lặng lẽ của cô trải dài suốt đời, từ khi

cô còn trẻ đến khi chết. Cả cuộc đời cô là sự lặng lẽ mòn mỏi chờ đợi một tình yêu nhưng

lại liên tiếp mất hạnh phúc đến được với mình trong chốc lát. Cuối cùng, khi niềm hi vọng

cũng mất thì cô không còn đủ sức sống trên cõi đời nữa. Cô chết, người nhà mới phát hiện

những kỉ vật thời thơ ấu, những kỉ vật của mối tình hụt hẫng còn nguyên vẹn trong đáy tủ.

Bằng nghệ thuật trần thuật tài tình Thế Lữ đã làm cho cuộc đời của Thoa như một cuốn

băng quay chậm trước mắt người đọc.

Nhận xét về tác phẩm này có nhiều ý kiến khen ngợi. Năm 1964, Viện văn học cho rằng

“Đôi khi Thế Lữ mô tả một cách giản dị và sâu sắc cuộc sống âm thầm của những người

61

bình thường, như trong truyện ngắn Thoa (Một đời người), 1943, thì Thế Lữ lại viết được

những trang cảm động, có thể so sánh với những trang hay nhất của Thạch Lam. Tiếc là

ông không chú ý nhiều đến lối viết ấy.” Đến năm 1983, Xuân Diệu nhận xét “Thế Lữ là tác

giả của thiên truyện ngắn Thoa (Một đời người) mà đọc lại, tôi nghĩ ngợi bâng khuâng.

Những truyện ngắn của Thế Lữ thường biết lập ra một lối riêng, sáng tạo trong cái kỳ lạ, bí

ẩn ít ai ngờ đến. Thoa là chuyện một đời người của một cô gái, một phụ nữ trong cuộc đời

này như một cái bóng luôn luôn chịu thiệt, an thường thủ phận đến cái mức là làm cho

người đọc muốn vùng lên, phá cái ngục này của số phận và của xã hội. Một sáng tác rất

quý, đầy chủ nghĩa nhân đạo, một chủ đề ít ai khai thác và khó viết.” Nguyễn Hoành Khung

trong bài tiểu luận nói về văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930-1945 công bố vào năm 1989

cũng viết “…truyện ngắn Thoa có một dư vị xót xa đặc biệt. câu chuyện về số phận buồn

thảm của một cô gái câm nhu mì, trung hậu, rất mực khiêm nhường, an phận mà kỳ thực âm

ỷ một khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, được kể lại bằng một giọng văn chân thực và thấm

thía, đã gieo vào lòng người đọc những ám ảnh không nguôi.”

Ép duyên cũng là một câu chuyện hay. Nằm trong dòng văn học lãng mạn nhưng câu

chuyện tình không ủy mị như một số truyện của TLVĐ mà lãng mạn đầy tính nhân văn,

hiện đại. Tâm do đọc nhiều tiểu thuyết lãng mạn quá, coi mình cũng như những người con

gái khác, có cảm tình với một người nhưng lại bị gia đình bắt lấy một người khác. Cô thú

thật cảm xúc ấy với người chồng mới cưới của mình ngay đêm tân hôn, những tưởng anh ta

sẽ chửi mắng, đánh đập. Nhưng Tiến – người chồng ấy – chẳng những không biểu hiện thái

độ bực tức mà còn rất tôn trọng mối tình của cô và tạo tình huống giúp cô gỡ rối. Thời gian

sống cùng mái nhà, Tâm đã hiểu được tình yêu, tấm chân tình và vẻ đẹp tâm hồn của người

đàn ông mà mình bị ép lấy ấy. Tình yêu đằm thắm đến với hai người như một bài thơ đẹp,

lãng mạn nhưng cũng rất mới, rất hiện đại.

Lương Văn Sáng, nhân vật chính trong truyện Một người hiếm có được Thế Lữ chăm

chút, tạo một hình ảnh hoàn bích. Sáng là một chàng trai thông minh, tài giỏi, sống lãng tử,

thay đổi nghề liên tục hầu như trong suốt cả cuộc đời. Lần nào anh cũng thành công và mãn

nguyện về điều đó. Mọi người rất nể phục anh. Tuy vậy khi đã thành công ở một việc gì đó

rồi, anh không dừng lại mà tiếp tục thay đổi tìm công việc mới hay nói cách khác là tìm cái

đẹp hoàn mỹ hơn. Rất mạnh mẽ, có nghị lực,… nhưng khi không chiếm được trái tim người

đẹp Kiều Trang thì anh vô cùng đau khổ quyết định cắt đứt mọi đau khổ bằng cái chết. Theo

lí lẽ Lương Văn Sáng đưa ra là khi đã yêu cái đẹp bằng một tình yêu mãnh liệt, quyết chí đi

62

tìm và chiếm lĩnh cái đẹp mà không được thì chỉ có một lối thoát duy nhất là tự xóa đi sự

tồn tại của mình trong xã hội, bởi vì nếu không thì sống ở đời chỉ là vô nghĩa. Câu chuyện

diễn biến theo chiều phát triển tâm lí nhân vật không được hợp logic lắm. Kết thúc bằng cái

chết của nhân vật chính có phần khiên cưỡng dường như nó là chủ định của tác giả chứ

không phải là của nhân vật chính nếu căn cứ vào câu chuyện. Phải chăng ông xây dựng

nhân vật Sáng để gửi gắm quan niệm của ông về cái đẹp và người săn đuổi cái đẹp?

Truyện đời thường của Thế Lữ khá nhiều, có khoảng 26 truyện, chiếm hơn 40% tổng số

các truyện đăng trên báo của ông. Thế nhưng hầu hết các tuyển tập đưa vào không đầy đủ

một phần truyện vì của ông cũng khá nhiều, phần khác có nhiều truyện không được xuất sắc

lắm, chủ yếu mang tính giải trí nhất thời. Nhưng chỉ với một vài truyện như Thoa (một đời

người), Câu chuyện trên tàu thủy, Ép duyên cũng đã thấy được đóng góp của ông trong

nghệ thuật viết truyện ngắn nước nhà.

Truyện đời thường và truyện lãng mạn đường rừng chiếm số lượng lớn trong các tác

phẩm của Thế Lữ. Lấy đề tài từ cuộc sống, khai thác những khía cạnh khác nhau của đời

sống hàng ngày, dùng lối văn nhẹ nhàng, giản dị, dễ hiểu, Thế Lữ đã làm cho tác phẩm của

mình gần hơn với người đọc, giúp người đọc thấy, yêu mến và trân trọng hơn những giá trị

bình thường mà nhiều ý nghĩa.

2.3. Nội dung, thể tài văn xuôi phi hư cấu của Thế Lữ trên Phong Hóa, Ngày Nay

2.3.1. Nhìn chung về nội dung, thể tài văn xuôi phi hư cấu của Thế Lữ

Ngoài là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, Thế Lữ còn là một nhà báo mẫn cán, năng nổ và

quan trọng của hai tuần báo Phong Hóa và Ngày Nay. Thế Lữ bước vào nghiệp báo khá

sớm. Ông từng là người sửa bản in cho tờ báo Ý muốn của Đông Dương (Volonté

Indochinoise). Theo lời tâm sự của Thế Lữ mà Xuân Diệu ghi lại “Tôi muốn viết, tôi muốn

viết văn, viết báo để ta cùng “mở mày mở mặt”. Pháp họ có nhà văn thì mình cũng có nhà

văn, họ làm báo, viết văn, thì mình cũng làm được.”[19, 13].

Với tâm nguyện cao đẹp đó, Thế Lữ lại may mắn khi ông khởi nghiệp và trưởng thành từ

hai tuần báo thuộc một tổ chức văn học duy nhất, đầu tiên, có vai trò và đóng góp nhất trong

công cuộc đổi mới văn chương, đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa nền báo chí và nền văn

học nước nhà, đó là Phong Hóa và Ngày Nay. Văn xuôi phi hư cấu của Thế Lữ gồm các nội

dung chủ yếu:

Bình điểm văn chương. Đây là hoạt động khá tiêu biểu của nhà báo Lê ta – Thế Lữ. Ông

63

luôn hướng hoạt động của mình vào văn chương nước nhà. Chặng đường thơ văn những

năm 1930 được phản ánh trong những tin bài bình luận của ông giúp ta thấy được bối cảnh

“ngổn ngang, xô bồ, chưa ổn định” (Chữ dùng của PGS.TS Nguyễn Thành Thi) của các

sáng tạo văn học trong thời điểm đó. Rất nhiều những tác phẩm văn chương được ông điểm

bình, đưa ra ý kiến nhận xét. Có những tác phẩm ông đánh giá tốt đã được minh chứng bằng

sự trường tồn lâu dài như những bài thơ của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư,…

nhưng cũng có những tác phẩm chỉ là “hạt sạn” của văn chương thì ông cũng không ngần

ngại phê phán, chê trách.

Bình điểm các vấn đề văn hóa – xã hội. Trong các bài viết, bài báo, những hiện tượng của

đời sống như nạn chạy đua vào chiếc ghế nghị viện, vấn đề trộm cắp ở thôn quê, tình trạng

lễ hội truyền thống bị mai một…được ông khai thác. Cuộc sống muôn mặt, muôn vẻ được

nhà báo Lê ta khai thác giúp cho cái nhìn về cuộc sống chân thật và nhiều chiều hơn.

2.3.2. Bình điểm văn chương

Về mảng này, Thế Lữ đảm trách các tin mục như: Cuộc điểm sách, Xem văn, Cuộc điểm

sách tốc hành, Tin thơ, Chơi văn, Điểm thơ với các bút danh chủ yếu Lê ta, Thế Lữ.

Bút danh Thế Lữ, ông dùng cho chuyên mục Tin thơ. Số 80 (10/10/1937) báo Ngày Nay

là số mở đầu của chuyên mục này. Là một nhà thơ, một người yêu thơ, biết chuộng tài

thơ…Thế Lữ đã có những bài viết bình về thơ, phát hiện những tài thơ mới. Dù là nhà thơ

nổi tiếng, không còn sáng tác thơ đều đặn nhưng ông vẫn không vì cá nhân mình mà phủ

nhận những tài năng khác mà trái lại, với những nhà thơ có tài, với những vần thơ hay ông

rất trân trọng, ca ngợi trước độc giả để phát huy tài năng của họ. Trong một bài nói về thơ

Xuân Diệu, Thế Lữ, bằng cảm quan đặc biệt, bằng cách phân tích thơ vừa khoa học vừa cảm

tính đã đưa ra những nhận định chính xác, được kiểm chứng là sự thành công của Xuân

Diệu ở thể loại văn học này. Ông viết “Người ta đoán thấy dáng điệu đê mê bát ngát của

người thi sĩ đa tình trong lúc say sưa đau đớn, người ta hưởng những vị chua chát kỳ dị

đằm thắm của nỗi xót thương. Có phải không, ông đã gợi ra được hết những điều mong

manh, u ẩn trong lòng người và cùng với chúng ta cùng chung những lời than thở tuyệt

vọng. Bởi vì nhà thi sĩ biết yêu theo nghĩa rộng rãi nhất của tình yêu. Ông có tấm lòng đắm

đuối nhất của tất cả mọi người; yêu nhan sắc, yêu non sông, yêu thơ ca, yêu cả những nỗi

buồn thương, nhớ tiếc. Mà yêu là yêu chứ không nghĩ đến tại sao yêu.”[NN số 46, 28] Ông

bình thơ rồi thấy tin tưởng “Sự cảm động rồi rào và quý báu của ông còn cho ta thấy nhiều

hứng vị của cái chân tài đặc biệt ấy.”[NN số 46, 28].

64

Lối bình thơ đặc biệt và rất chính xác ấy đã làm cho nhóm Tự Lực văn đoàn giao cho ông

nhiệm vụ đảm trách mục Tin thơ với những tiêu chí như ông tự giới thiệu ở loạt bài đầu tiên

“Tin thơ là chuyên mục hàng tuần về thơ ca (…) Tin thơ sẽ phê bình những thi phẩm trong

nước (hoặc ở nước ngoài) sẽ chú ý đến những thi tài mới, và nhất là trả lời những câu của

các bạn làm thơ đã đem thơ mình hỏi ý kiến chúng tôi.” Những tác phẩm thơ gửi về phần

nhiều chỉ là “chứng cớ của sự nhiệt thành với văn chương mà thôi: thường thường là những

bài lời thơ còn gượng, còn non, nhưng cũng có những điểm hay, đáng khuyến khích “Tin

thơ” sẽ bình phẩm những bài thơ ấy trong mấy lời vắn tắt và thành thực, và nếu có dịp, sẽ

nhân đó nói đến cái nghệ thuật làm thơ.”[NN số 80, 7]. Trong luận án tiến sĩ của Phạm

Đình Ân có nói “Ở mục Tin thơ (chuyên về khen) do ông đảm trách…”[5, 154]. Thực ra

trong quá trình tìm hiểu mục này ở báo Ngày Nay chúng tôi thấy đúng là mục Tin thơ của

Thế Lữ xuất hiện 29 lần đều do ông đảm trách và có rất nhiều tác giả, tác phẩm thơ gửi đến

nhưng phần nhiều là những lời phàn nàn, góp ý của ông. Theo thống kê của chúng tôi, số

lượt tác giả mà Thế Lữ nhắc tới trong tin mục này của mình là 100 lượt trong đó có 78 lượt

là ý kiến chê chiếm 78%, ý kiến khen nhiều hơn chê có 14 lượt chiếm 14%, ý kiến khen có

8 lượt chiếm 8%. Rất nhiều những bài thơ, câu thơ được Thế Lữ đưa ra lời bình phẩm

nhưng chủ yếu là thơ chưa tốt với dụng ý cho tác giả nhận ra và sửa chữa. Ông dùng rất

nhiều từ, cụm từ có thể kể ra như làm thơ nhạt nhẽo, quê mùa mộc mạc quá, không hiểu âm

luật thơ, lời thơ rườm rà, cái vui không quý giá, quá dấn thân vào cảnh trụy lạc, kì dị và

ghê gớm, những tiếng…lập dị để làm cho thơ ra vẻ dị thường, ý tứ rời rạc và những hình

ảnh ngộ nghĩnh, vụng về hồ đồ và rất nhiều khi vô ý, câu đểnh đoảng những ý sẵn trong

những lời sáo, những câu yếu ớt vì không đủ rõ, những sự yêu thương hay nhớ tiếc vẩn vơ

phô diễn trong những lời không có đặc sắc, giọng cổ kính giả vờ, những cốt cách trang

nghiêm đi mượn của người một cách vụng dại,…Thế Lữ đặc biệt phê phán lối làm thơ đễ

dãi, cẩu thả, thiếu cảm xúc. Những “câu thơ bằng phẳng, mộc mạc, không có dấu hiệu của

sự cảm xúc đằm thắm, mạnh mẽ.” “những tiếng sẵn, những lời dễ dãi”[NN số 80, 7] được

Thế Lữ nhận xét khi nói về thơ của ông Trần-tử-Há, Nguyễn-quang-Trứ. Ông nói bài thơ

“Hồ khuya” của Thiếu Hoa “có khiếu về vần điệu, nhưng cũng tỏ ra không có cảm xúc sâu

xa”[NN số 82, 9]. Thơ ông Bảo trúc Sơn thì “Cái khiếu dẫn lời và điệu thơ, ở ông Trúc Sơn

thực rõ ràng và vững chãi. Nhưng người ta muốn ông dục hồn cảm động hơn nữa, tha thiết

hơn nữa, để cho lời thơ rung động thực bởi cảm xúc dồi dào”[NN số 88, 9]. Thơ là sự rung

động của tâm hồn, bình thơ, nhận xét thơ cũng là một điều rất khó. Ngoài những nguyên tắc

65

chung khi phân tích thì người bình thơ phải có một nhãn quan nghệ thuật đặc biệt. Nhà phê

bình phải cảm được trong những giọng điệu thơ đó, đâu là cảm xúc chân thành, xuất phát từ

con tim, đâu chỉ là những lời có cánh, sáo rỗng. Công việc bình thơ khó khăn vì nếu bài hay

mà mình không phát hiện ra thì sẽ đánh mất cơ hội cảm thụ cái đẹp của người đọc, nếu bài

dở mà mình không chê thì người khác không thấy cái dở để tránh. Nhiều khi ranh giới giữa

cái hay thực sự và cái dở chỉ là sự “dung dị và dễ tính trong sự làm thơ” và ông nêu suy

nghĩ “Dung dị là viết thành thơ những ý rất hay, những vẻ đẹp rất hữu duyên bằng những

lời nhẹ nhàng và bay bướm.” “thơ tự nhiên đẹp như miệng cười tự nhiên hé nở, ngây thơ và

dí dỏm vì đơn giản mà đặm đà. Tình cảm của thứ thơ này phơi phới và nhảy nhót như thứ

ánh sáng vui đùa trên hoa lá.”[NN số 93, 9]. Có những bài thơ như của Xuân Diệu, Tản Đà,

Nguyễn Nhược Pháp, Văn Quân, Nguyễn Bính,… được Thế Lữ rất trân trọng. Nhận xét về

thơ xuân của Tản Đà ông nói “Ý thơ mới nhẹ nhàng bay bướm làm sao! Lời thơ cũng vẫn

giữ được vẻ giản dị lẳng lơ mà chúng ta đã từng yêu trong các thi phẩm đầu tiên của nhà

thi sĩ. Tản Đà vẫn còn trẻ mãi, nghĩa là vẫn còn xuân mãi, vẫn phong phú lãng mạn và vẫn

đơn sơ trong tâm tình.” [NN số 97, 11]. Ông khen những bài thơ hay và lợi ích của nó mang

lại “đem cho ta những thú vị, lại nhắc cho ta tin, ta nhớ rằng văn chương của thiên nhiên,

của tâm hồn mỗi ngày có thêm người tài hoa hết lòng ca tụng.” [NN số 80,7]. Nhưng những

bài thơ, nhà thơ được Thế Lữ “khen” thật ít. Nhiều bài thơ gửi tới làm ông buồn nhiều hơn.

Ông phê phán “lời thơ quá đơn sơ, quá mỏng manh” “ý thơ…nghèo nàn”, “không xúc

động mạnh mẽ lắm, không thấm thía lắm” “vẻ đẹp nhẹ nhàng dễ thấy, không hay đều, lời dễ

dãi”, “hững hờ quá, quá mộc mạc” “sống sượng”. Ông nhận thấy “sự cẩu thả của nhà làm

thơ, sự trễ nải của thi sĩ đối với cảm tưởng của lòng mình và làm cho bài thơ, đáng lẽ rất

đẹp thành tối tăm và hỗn độn”[NN số 89, 9]. Sự cẩu thả, trễ nải này do nhiều nguyên nhân

những có một nguyên nhân mà các nhà làm thơ “dễ dãi” quá thường gặp phải là đi lấy ý của

người khác “Thơ có những tiếng nhắc tôi nhớ tới những bài thơ khác, hay nếu không hẳn

lấy ở những thơ khác, nhưng nghe cũng đã quen tai”[NN số 91, 9]. Thơ là tiếng lòng những

không phải là sự tự do tuôn trào cảm xúc vô tổ chức, lộn xộn, một thứ tự nhiên chủ nghĩa

thái quá. Thơ ông Nguyễn Vân được Thế Lữ nhận xét “Cái kho tình cảm của ông có nhiều

của báu, nhưng ông nên sắp đặt cho có mỹ quan hơn. Sự thành thực của ông vẫn phải đúc

lại cho gọn gàng và lúc nào cũng nên giản dị khi phô diễn những hình ảnh phức tạp”. [NN

số 94, 9].

Người làm thơ là người lấy thơ để gửi gắm tâm tình, tình cảm, cảm xúc của cá nhân

66

mình. Do đó họ muốn làm thế nào là tùy họ. Nhưng nếu người làm thơ ấy muốn bộc lộ tình

cảm ấy trước mọi người, tạo sự đồng cảm thì người viết phải cẩn trọng hơn khi dùng ngòi

bút vì phải chú ý, tôn trọng một đối tượng nữa là độc giả. Đứng ở vị trí người đọc thơ, Thế

Lữ nói lên mong muốn của họ để nhắc nhở những thi sĩ “Chúng ta là người đọc thơ, nên

chúng ta có một sự mong muốn ích kỷ đôi chút. Ta muốn thi sĩ đừng quên lãng vội, và cay

đắng nữa, chua sót mãi, để cho những giọt lệ kia đọng thành những hạt ngọc quý nó bắt ta

nâng niu một cách đau đớn- nghĩa là nó khiến ta hài lòng hơn.”[NN số 90, 9].

Trong quá trình tìm hiểu về tin mục này chúng tôi nhận thấy: Thơ, tình yêu đối với thơ

của Thế Lữ vẫn luôn luôn mãnh liệt. Tuy không trực tiếp sáng tác ra những vần thơ tạo ra

làn sóng như thời kỳ đầu nhưng ông đã góp phần không nhỏ tạo cách nhìn đúng đắn về thơ,

tạo cho thơ “thời kỳ hỗn mang” ấy những quy tắc nhất định để nó đi vào ổn định, có thực

chất hơn. Ông luôn cho rằng “một áng thơ hay, là một kết quả của thi tài, nhưng cũng là kết

quả của sự mực thước, sự suy nghĩ, sự thận trọng” “Thơ, cũng như bao tác phẩm nghệ

thuật khác, phải có một kỷ luật; không phải thứ luật lệ hà khắc theo cái quan niệm cổ điển

của văn thơ Tàu, nhưng đó là sự vâng theo nhưng điều kiện thiên nhiên và vĩnh viễn trong

mọi công trình sáng tác” , “những lời thơ, nhịp thơ và những ý tưởng, hình ảnh phải chân

thành, phải có một ý chí, một dấu hiệu riêng” [NN số 112, 11]. Và sau này, dù bao nhiêu

năm trôi qua những quan điểm này về thơ của ông vẫn còn thấy đúng đắn “Hình thức thơ có

đổi, quan niệm về thơ cũng có khác, theo tư tưởng, theo hoàn cảnh, và theo cuộc đời mỗi

ngày một mới lạ thêm. Nhưng Thơ ở đâu và bao giờ cũng vẫn là thứ tiếng của tâm hồn và

chỉ ở trong thơ những tình cảm uẩn khúc, mong manh, tinh vi, kỳ ảo của tâm hồn mới có thể

biểu lộ ra được. Bởi vì những lời thơ reo xuống trong phút anh linh rung động của ta, sẽ âm

thầm vang lên những ý dồi dào và gợi lên những cái “đẹp” thấm thía, đặm đà, Cái đẹp ấy,

sự tinh tế khúc chiết của lối văn thường không thể cho ta thấy được.”[NN số 80, 19].

Vừa phê phán những bài thơ chưa đủ giá trị thẩm mỹ vừa cho cách thức để tạo ra những

sản phẩm văn chương hay hơn, vừa khuyến khích những tài năng thơ, Thế Lữ đã góp phần

tạo ra sự hứng thú làm thơ và góp phần làm cho thơ ca nước ta giai đoạn đó có những bước

tiến nhảy vọt nhất định cả về số lượng và chất lượng. Những bức thư hoan nghênh và số

lượng các tác phẩm thơ gửi về ngày một nhiều, một thêm sốt sắng. Mọi người không dửng

dưng với cuộc đàm đạo trên báo mà còn đến tận tòa soạn chơi và nhận thấy rằng bên cạnh

những chuyện hoa, trăng, sương, nước dìu dặt êm đềm cũng vẫn còn “những hương thơm,

những ánh sáng khác.”. Có nhiều người thư gửi về, trong một bức thư có đoạn “Tôi không

67

biết làm thơ, song những lời phê bình của ông mở cho tôi được thấy một thế giới lạ. Tôi yêu

đọc thơ hơn trước và yêu những tác phẩm của các thi sĩ một cách thông minh hơn.”[NN số

121, 9]. Nhiều tác phẩm gửi về sau tốt hơn tác phẩm trước đã làm cho Thế Lữ thấy phấn

khởi “sự tấn tới trong những tác phẩm của nhiều bạn tôi đã đọc trước kia là những chứng

cớ cho tôi biết rằng tôi đã được như ý nguyện”[NN số 112, 11].

Bằng tài năng và cái tâm trong sáng, từ mục “Tin thơ”, Thế Lữ đã góp tiếng nói của

mình giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tạo vẻ đẹp cho thơ ca.

Bút danh Lê ta, Thế Lữ dùng cho các chuyên mục còn lại. Ngày 30 Mars 1934 Thế Lữ

đảm trách mục Cuộc điểm sách, sau này có lúc có tên Điểm sách, Cuộc điểm sách tốc

hành. Mục này có nhiệm vụ chủ yếu là tìm hiểu, phê bình những cuốn sách có tính cách văn

chương. Qua các bài của mục này, Thế Lữ đã tỏ ra là người có khả năng đọc rất nhiều sách

về văn, thơ và các hoạt động nghệ thuật khác có liên quan, ảnh hưởng tới văn học nghệ

thuật. Thế Lữ phê phán lối viết văn cẩu thả, dùng những từ ngữ cầu kì, sáo rỗng. Ông nhận

xét về cuốn truyện Trên núi voi của Lưu Trọng Lư do Ngân Sơn Tùng Thư xuất bản là một

“cuốn văn vô nghĩa lí”, câu chuyện nhạt nhẽo “đầy những giọng triết lí kiểu cách”. Nhưng

ông cũng thấy hình như đây không phải là cái dở do một lối văn dưới tầm, cẩu thả mà là do

Lưu Trọng Lư muốn viết một cuốn văn khôi hài “Ông Lưu cố ý cho người ta biết đó là thứ

văn ngô nghê mà không bao giờ ông ưa nếu ông làm văn đúng đắn”[PH số 91, 8].

Ông cũng cho thấy cần phải có sự đầu tư, phải giản dị trong cách viết. Luận quốc văn là

cuốn sách do Nguyễn-đức-Bảo, Đoàn Quán và Vũ-Văn-Quán soạn. Sau khi phân tích ông

cho rằng quyển sách mang những “câu sáo, chữ sẵn, đặt theo cú pháp cũ rích, diễn đạt

những lí sự rỗng không”, các ông (Nguyễn-đức-Bảo, Đoàn Quán và Vũ-Văn-Quán) “tả

cảnh bằng văn biền ngẫu, thuật truyện bằng văn biền ngẫu, mà cho chỉ người trong truyện

cãi nhau cũng lại văn biền ngẫu nốt. Biền ngẫu lắm thay!”[PH số 97, 8]. Ông phê phán vở

kịch Gia đình giáo dục của Lê Hoàng Bút là lối viết chuộng chữ tàu, sáo rỗng, lúc nào cũng

“luân lí” máy móc. Ông dẫn lời của nhân vật Ưu-Thời dạy con “Con nên nhớ: Quân tử mưu

đạo, bất mưu lấy thực….Nữ vật tham tài, nam vật hiếu sác…nhưng hãy coi chừng: sắc dị

sát nhân, tài dị sát nhân…nhân vô viễn-bị, tất hữu cận ưu…nghiệt thê bại tự…” Thật là rối

rắm, khó hiểu. Không chỉ phê phán lần một mà sau khi đọc lại, trả lời ông Lê Hoàng Bút ở

số báo PH 118 ông vẫn khẳng định “câu văn thô lỗ, ương gàn với lối viết kịch vụng dại.”

“vở kịch của ông Lê Hoàng Bút là vô giá trị”. Thế Lữ coi văn chương là một hoạt động tinh

thần đặc biệt nên ông phê phán lối viết văn để buôn bán, để đầu cơ. Bằng giọng văn chế

68

giễu, trong PH số 115, ông viết “…Tôi chỉ mừng cho ông (Đoàn-như-Khuê) là đã biết buôn

bán đầu cơ, ông đã mấy lần bán văn ở chốn thị thành, nay lại xuất bản quyển “Luận quốc

văn” này cũng không khác gì như mở hiệu thuốc Hải -Nam đối trướng”

Tuy lấy giọng hài hước, châm biếm để tạo tiếng cười phê phán những tác phẩm chưa tốt

nhưng Thế Lữ cũng rất trân trọng những tác phẩm có giá trị về mặt thẩm mĩ dù đó là của

cùng một tác giả. Bên cạnh điểm chưa được trong hai bài thơ dài của tập thơ Anh và em của

Nguyễn-Lan-Sơn “những câu dễ làm, phần lớn là những chữ sẵn, ý cũ, tả những tính tình

không có, giọng văn sướt mướt mà tầm thường.”[PH số 119, 4] thì ông vẫn ca ngợi Tập thơ

có những bài tốt “điệu thơ buồn rầu, tha thiết, đau thương” “Tác giả ưa lấy hình ảnh, tỉ dụ

để tả nỗi lòng, tả một cách thân mật và kín đáo” Về cuốn 40 bài tập đọc của Nguyễn-đức-

Phong và Tô-hữu-Trác “soạn có phương pháp cẩn thận, khéo đặt những câu hỏi khiến học

sinh biết phân biệt, trong quyển đó, những văn dở với văn hay.”[PH số 115, 11].

Thế Lữ không phải là người cứng nhắc, bảo thủ. Khi những tác giả có những cách viết

không phù hợp ở cuốn này nhưng khi đã có những sản phẩm tốt ông vẫn không ngần ngại

khen ngợi. Sau cuốn Luận quốc văn các ông Nguyễn-đức-Bảo, Đoàn Quán và Vũ-Văn-

Quán lại ra thêm cuốn 82 bài luận quốc văn. Lần này Thế Lữ nhận thấy “giản dị hơn trước

và ngắn gọn, tự nhiên hơn(…) bài nào cũng có lời dặn, dàn bài, rõ ràng, cẩn thận”. Như

vậy sự chuyển biến đem lại yếu tố tích cực cho nền văn học nước nhà phần nào có đóng góp

của những lời nói thật có phần hơi nghiêm khắc của người làm công tác điểm sách.

Chơi văn là chuyên mục Thế Lữ dùng để “kích thích cái tài lém lỉnh và sắc sảo của

nhiều bạn tao đàn” [NN số 159, 19] bằng cách là làm thơ nhại. Tức là lấy một đoạn thơ văn

của những tác phẩm nổi tiếng sau đó vận theo điệu ở đó để bàn luận, tả cảnh, tả tình hoặc để

thuật một câu chuyện ngộ nghĩnh. Từ đó tạo nên các bài mới có giọng vui đùa, mỉa mai

hoặc châm biếm. Chuyên mục vừa đáp ứng tiêu chí của TLVĐ là mang lại tiếng cười hài

hước, châm biếm, vừa tạo nên sự đa dạng trong lối tìm hiểu văn chương. Điểm thơ là

chuyên mục cũng có tính chất tương tự như Tin thơ. Lê ta điểm những bài thơ, phần nhiều

là chưa tốt, để chế giễu lối làm thơ vụng về, dễ dãi,…

2.3.3. Bình điểm các vấn đề văn hóa – xã hội

Gồm có các chuyên mục như Cuộc điểm báo, Lê Ta làm báo, Hỏi bệnh, Ngày Nay điều

tra, Ngày Nay trào phúng, Điểm báo, Tin văn… vắn, Người và việc, Ngày Nay giải trí,

Tin Hải Phòng, Chuyện xa gần, bên cạnh đó là những bài phóng sự, bài bình luận, phỏng

69

vấn, bài viết,… được dùng với bút danh chủ yếu là Lê ta (Lê Ta).

Ngay từ đầu thế kỉ XX hoạt động báo chí ở nước ta đã nở rộ. Bên cạnh những yếu tố tích

cực mà báo chí mang lại cho văn học như mở rộng phạm vi bạn đọc, thúc đẩy số lượng tác

phẩm, khuyến khích được nhiều cây bút có khả năng thì cũng có những “hạt sạn” đó là

người làm báo, cho ra đời những sản phẩm yếu cả về nội dung lẫn hình thức. Chính vì thế

báo Phong Hóa cho ra đời mục Điểm báo hay có tên gọi khác Cuộc điểm báo. Theo Hồi ký

của Tú Mỡ công việc của Cuộc điểm báo là “những điều sai trái, lố bịch nhặt trong các

báo” [58, 135]. Ngay từ số đầu, báo PH số 92 Thế Lữ đã đảm trách bằng bút danh Lê Ta.

Ông phê phán lối viết của ông Thạch Thiện báo Tiếng Dân trong câu chuyện của ông ta Mọi

xin xu. “Mọi” ở đây là người nhà quê. Tên bài là người nhà quê xin xu trong khi đó câu

chuyện lại kể chuyện người nhà quê ăn muối “không ăn nhập gì với câu chuyện”, Lê Ta

cười vào lối sính chữ nho, không giữ tiếng Việt “muối thì cứ nói là muối có hơn không lại

đi bảo là gia-vị” làm người nhà quê không hiểu dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Ở bài khác, ông

quan niệm khi dịch văn bản nước ngoài thì cần chú ý nhiều “người ta có quyền được viết,

được dịch bằng thứ văn rất ngộ nghĩnh, rất tồi. Nhưng viết xong, dịch xong, người ta nên

cất đi một chỗ để đọc một mình, như thế thì vừa được lòng mình lại vừa được lòng người

khác.” [PH số 92, 9]. Ông biết sức mạnh của báo chí có tác động đến người nghe, người

xem về mặt tư tưởng và ngôn từ, ông coi thường lối viết văn “đảo lộn tùng phèo” làm người

đọc không hiểu nghĩa. Ông lấy dẫn chứng trong báo Nhật Tân “chuyên môn của món tạp-pí-

lù” có bài thơ Hoa xuân … tươi tốt của một người giấu tên. Tác giả bài thơ đã viết những

câu thơ khó hiểu như :

“Cũng đà nhiều lúc xui người dạo xem…

Bởi anh hùng còn chưa lắm điều trần sự?”

Thấy chưa đủ rối rắm, “nhà thơ” đó còn chỉnh sửa thành:

“Dạo xem cũng xui người đà nhiều lúc…

Bởi anh hùng còn trần sự lắm điều chưa!”[PH số 93, 8].

Ông đòi hỏi khi viết văn thì “câu văn cần giản dị, tránh vòng vèo, nói lôi thôi” [PH số

94, 8]. Những tư tưởng được thể hiện trên báo cần cụ thể, có căn cứ. Các bài trong tin mục

này tạo cho người đọc thói quen phán đoán, nhận xét khi đọc bất kỳ điều gì, tránh có thái độ

bàng quan trước mọi điều của cuộc sống.

Gắn liền với các hoạt động của TLVĐ và báo PH, NN Lê ta đã trở thành bút danh của

70

nhiều tin mục được chú ý. Hoạt động báo chí của Lê ta có thể được đánh dấu với bài viết

Dưới mắt Lê ta báo PH số 92 (06/04/1934). Đây là bài của người mới tập tẹ vào nghề làm

báo. Ông suy nghĩ làm báo không phải là “tiếng kêu to như những cái thùng rỗng” “những

lối văn sáo với lối tường thuật buồn ngủ” mà phải là những bài “ngộ hơn” đem lại những

“cái hay ho” cho bạn đọc. Trực tiếp hoạt động báo chí có lẽ được tính từ bài Lê ta xuống

Hải Phòng báo PH số 96 (04/05/1934) sau đó là hàng loạt những bài báo khác của ông ra

đều đặn các số báo. Đến số 104 (29/06/1934) thì có ra chính thức một tin mục “Lê Ta làm

báo” kéo dài đến số 113 (31/08/1934). Tuy mục “Lê Ta làm báo” đến số 113 là hết nhưng

hoạt động báo chí mà Thế Lữ trực tiếp đảm nhận còn kéo dài vì thế chúng tôi sẽ gộp tất cả

những bài viết dạng viết báo của Thế Lữ vào mục này để khảo sát.

Những bài báo của Lê Ta khác cách viết tường thuật thông thường. Ông tạo tình huống là

câu chuyện của phóng viên Lê ta với ông chủ bút hoặc với người bạn để cho nhân vật Lê Ta

thực hiện nghiệp báo của mình từ đó tiếng cười phê phán chế giễu cũng như những quan

điểm được bộc lộ. Trong quá trình đi viết về cuộc bầu cử nghị viên ở Hải Phòng, ông đã

thấy những nhà nghị viên tương lai toàn là buôn bán, vận tải, bán sách, bán vải, bán bánh

tây. Họ là “những nhà học thức” đấy. Nghị viên được đem ra so sánh với nghề buôn trâu và

“Đằng nào cũng thế”, “không muốn làm nghị viên vì không chóng giàu bằng lái trâu như

tôi” (lời của người cùng toa tàu xuống Hải Phòng với Lê ta) [PH số 96, 5]. Không chỉ là

những nghị viên tương lai gây nên tiếng cười phê phán mà cái cách bầu cử cũng “có một

không hai” “Rồi cứ năm, ba phút một mới lại có một người bước vào khúm núm như một tội

nhân trước mặt quan tòa. Có ông đứng thập thò ngoài cửa, không biết nên tiến hay nên lui.

Tiến thì có các ông tây ngồi kia, mà lui thì có nhà ứng cử. Sau cùng ông tây phải cất tiếng

bao dung gọi, ông cử tri ta mới dám bạo dạn bước vào, móc túi đến 15 phút để lấy thẻ ra,

bẽn lẽn và lễ phép đưa lá phiếu ra rồi bẽn lẽn lủi. Ra đến ngoài, ông ta nhận tiếng cảm ơn

của người chịu ơn mới hoàn hồn.”[PH số 96, 5] Lại còn “Họ (những nhà nghị viên tương

lai) đứng đón cử tri ở trước của vào rồi họ bắt đưa phiếu bầu ra cho họ xem có thực bầu

cho họ, họ mới cho vào.”[PH số 96, 8].

Cuộc đời làm báo của Lê ta được thuật lại trong “Lê Ta làm báo”. Nghề làm báo của

nước ta xuất hiện muộn hơn và có khi những người làm báo là những người không chuyên

nghiệp, chỉ có một vài bài thơ, tiểu thuyết…được đăng là lập tức được gọi là “anh nhà báo”.

Mượn lời nhân vật Bách Linh – nhà báo tài năng, Lê ta đã đưa ra những suy nghĩ về nghề.

Làm báo không phải là “một kế cùng của bất kỳ thằng vô nghệ nghiệp nào”[PH số 105, 8],

71

làm báo phải là một nghề nghiêm túc, không thể là “lù đù”, “chậm chạp, bỡ ngỡ như cụ lý

ra tỉnh” [PH số 106,8]. Không thể có chuyện làm báo mà hạng văn sĩ non tay “Khóc trăng,

khóc gió, khóc cái hoa héo, rồi khóc con tình nhân không thực hay chỉ là một con lẳng-lơ nó

lừa anh! Thơ đấy, văn đấy! Tôi ghét hạng văn-sĩ này cũng như những hạng ưu thời, mẫn

thế, hơi một tí chế tạo một bài đại luận rồi đem lên nhật trình mà kêu: “than ôi!””[PH số

107,9].

Không chỉ nêu lên quan điểm, những trăn trở, mong muốn trong nghề làm báo để có

những người phóng viên vừa giỏi chuyên môn, vừa năng nổ nhiệt tình đưa ngành báo chí

nước nhà đi vào con đường chuyên nghiệp hóa, Lê ta còn cho thấy những vất vả, khó khăn

của nghề. Muốn vào nghề báo, đòi hỏi phải có năng lực chuyên môn nhưng cũng cần có khả

năng chịu đựng. Chịu đựng trước những khắt khe của công việc, chịu đựng những khó khăn

về vật chất. Không dưới năm lần Lê ta nói đến những khó khăn ấy như lương thấp, cuộc

sống nay đây mai đó, ở thuê, thường xuyên đói ăn, thường xuyên khất tiền nhà, thường

xuyên vay nợ. “Cái nghề của tôi nghèo” Bách Linh đã nói với Lê ta như vậy. Tuy nhiên,

tất cả những điều đó đều hiện ra qua ngòi bút đầy hóm hỉnh, hài hước, trào lộng của Lê ta.

Bên cạnh tiếng cười chế giễu buổi đầu làm báo ấy ta còn thấy được một tình yêu nghề đặc

biệt của ông. Tình yêu giúp ông hăng hái tham gia rất nhiều những tin mục của báo PH, sau

đó là NN, trở thành một thành viên tích cực, mẫn cán, góp phần không nhỏ đem lại thành

công cho hai tuần báo nổi tiếng này.

Với mục đích là tạo nên tiếng cười chế giễu, phê phán những thói hư tật xấu, trong xã

hội, trong văn chương, từ số báo Phong Hóa 111 (17/8/1934) có Mục cười tên là Hỏi bệnh.

Dưới hình thức hỏi – đáp, Lê Ta tự đặt những câu hỏi hoặc lấy những câu hỏi mà bạn đọc

gửi về sau đó trả lời một cách hài hước. Xuất hiện chín lần trong các số báo kéo dài từ số

111 (17/8/1934) đến số 133(18/01/1935) Hỏi bệnh đã thực sự góp cho Phong Hóa một tiếng

cười có ý nghĩa. Nhiều vấn đề – căn bệnh của cá nhân và toàn xã hội được đưa ra trong đó

liên quan đến văn chương cũng chiếm phần không nhỏ. Theo thống kê của chúng tôi thì

trong số 25 vấn đề được hỏi và trả lời thì có tới 11 vấn đề liên quan đến văn chương, chứng

tỏ dù hướng ngòi bút của mình vào bất cứ vấn đề xã hội nào thì Lê ta – Thế Lữ vẫn luôn

“một lòng” với văn chương.

Giọng văn hài hước là điểm nổi bật trong mục này. Câu hỏi ngô nghê, hài hước, câu trả

lời cũng hài hước không kém.Tuy nhiên không phải không có căn cứ thực tế chính xác. Ta

hãy kiểm chứng một vài câu hỏi và câu trả lời. Ông T.B.Lộc Họa-sĩ hỏi “Thưa ông, sau khi

72

tốt nghiệp trường vẽ ra, tôi mắc phải một chứng bệnh lạ là ngứa …viết văn, mà triệu chứng

thứ nhất là hay ngáp dài, ngáp ngắn. Vậy ông có thuốc gì chữa khỏi làm ơn chỉ dùm.” Dr

de Lê ta trả lời “Trước hết ông phải gọi tôi là ngài, vì ít ra, tôi cũng là một quan thầy thuốc.

Còn bệnh của ông thì chỉ có triệu chứng của bệnh ấy là chữa được. Khi ngứa thì ông cứ

gãi, nghĩa là cứ viết đi rồi đọc đi đọc lại văn ông ba trăm hai mươi bốn lần. Trị bằng cách

ấy, bệnh thế nào cũng phải kinh.”[PH số 111, 4]. Với giọng hài hước, Lê ta chữa bệnh cho

ông Ng.tr.Th (người Annam). Ông này hỏi “Trong người tôi ậm-ạch khó chịu lắm, thuốc

tây, thuốc tầu, uống đủ mọi thứ mà vẫn không khỏi. Xin ngài chỉ giúp đó là bệnh gì, và phải

chữa như thế nào?”. Dr de Lê ta trả lời “Ai cũng biết đó là bệnh khó tiêu. Khó tiêu là vì văn

khí của ông không thông. Mà không thông là bởi tích trệ nhiều của độc quá, các bộ phận

tinh thần không hóa kịp. Của độc ấy là triết lý tầu trộn lẫn với triết lý tây và đựng trong một

thân thể annam. Bệnh này không chữa mau thì sẽ thành ra một trong tứ chứng nan y: tức là

bệnh cổ… hủ. Cách chữa: Chiếu văn-minh điện-quang mỗi ngày mươi lượt và trong vòng

10 năm trời. Kiêng các vị độc kể trên kia và các thứ lạnh lẽo như xanh vỏ đỏ lòng chẳng

hạn.” [PH số 111, 9].

Trong Hỏi bệnh, những bệnh về văn chương rất nhiều. Ta dễ dàng bắt gặp các bệnh như

ngứa…viết văn, văn khí không thông, táo về văn, bệnh dịch thuật, bệnh tâm thần về văn,

bệnh ma sầu, tiểu thuyết sầu,… Ông dùng những cách chữa đặc biệt từ tầm vĩ mô đến vi mô

như bỏ thói cổ hủ, hiểu văn hay, tìm cái hay trong văn, “học cho nhiều”, “luyện cho văn trôi

chảy”, “kiêng những món khó tiêu như Văn Học tạp chí, văn Phong già và non,… những

món hổ lốn như tạp-pí-lù và nhất là những món tanh tưởi như Loa”. Để chữa bệnh già về

tâm thần ông bày cách “Ông nên xa khách giai nhân già cả đi. Tiêm những chất có chất

khí-phách, chất chư-tôn vào huyết mạch. Nên ưa hô-hấp những không-khí thoáng đãng,

trong trẻo”[PH số 132, 10] Bệnh dịch thuật được Lê ta đưa ra ý kiến và cách chữa “Bệnh

này do một thứ vi trùng nhỏ, mình dài, cái đầu lắc lư như thằng say rượu, tên là

négligentiumbacilla dịch nôm là cẩu-thả-trùng, dịch nôm tí nữa là trùng…liều lĩnh. Thứ

trùng ấy ở trí não các nhà dịch giả mà phát ra. Vì vậy muốn trừ bệnh này phải chữa tự căn:

cấm các dịch giả không được dịch nữa.” [PH số 133, 11].

Các bệnh khác không phải bệnh văn chương cũng được Lê ta chữa. Những thứ bệnh như

“không chịu được hoàn cảnh và phong trào mới. Ghét hoạt động, ghét cải cách”, thứ bệnh

mà Lê ta tìm ra và đặt tên là Conservatabacilla (gọi nôm là trùng tồn cổ). Thứ trùng “làm tê

liệt bộ tư tưởng, làm người ta không thể hoạt động được, bao giờ cũng muốn ngồi một chỗ.

73

Bộ thần kinh hỏng mà các thị giác quan cũng hư, cho nên trông thấy hay mà cho là giở.”

Được Lê ta cho phương thuốc “ở biệt tịch ra một nơi để tĩnh dưỡng và nhất là để khỏi

truyền bệnh sang người khác, vì bệnh này rất hay lây.” [PH số 133, 11] Ngoài ra còn nhiều

bệnh khác như bệnh thấy nhân gian đều hư ảo cả, bệnh mê ông trăng, bệnh điếc không nghe

tiếng trẻ em đánh trống trung thu, bệnh mê tiền giả…Ở Hỏi bệnh ta thấy nhiều “bệnh” quái

lạ, kỳ khôi và cách chữa bệnh cũng kỳ khôi không kém đã gây hứng thú cho người đọc.

Ra đời từ số báo 27 (27/09/1936), chuyên mục Tin văn …vắn của Ngày Nay do Lê Ta

đảm trách đã tạo được tình cảm lớn của bạn đọc. Mục tin này chủ yếu bình luận, thể hiện

quan điểm của người viết về tin tức được đăng ở các báo khác, tin tức trong nước và ngoài

nước, tin tức văn hóa xã hội và cả văn chương. Từ ngữ mà Lê Ta dùng chủ yếu là hài hước,

châm biếm. Người đọc thấy hiện ra đủ cả những con người, những hiện tượng xấu trong xã

hội, trong văn chương. Để phê phán cách nhìn văn chương không thoáng ông nói “Mặc áo

thầy tu để phê bình văn nghệ, ông (Thái-phỉ) thấy những cái dâm ô của văn chương”[NN số

27, 11]. Hội Khai Trí ra đề là “Phận sự của người Annam trong gia đình, ngoài xã hội

đương thời bây giờ” cho những bạn gái mới ngày nay làm nhưng giám khảo chấm lại là một

nhóm người có tư tưởng thủ cựu “Bằng ấy người tức là bằng ấy tiếng ho lụ khụ, bằng ấy bộ

râu Khổng Mạnh, gấp đôi bằng ấy bàn tay dài móng. Vậy bài thi, muốn được giải nhất, tất

phải là một bà già”[NN số 57, 8]. Ở số 69 trang 9, Lê Ta thấy xã hội đã ngày một “mới”,

phụ nữ được tự do hơn, hiện đại hơn, đi xe đạp là tốt vậy mà cô Lệ Chi “không những

không mừng, Cô ta lại lo nữa” vì “đi xe đạp bạn gái sẽ mất sức khỏe”. Lê Ta phê phán

những đầu óc thủ cựu nhưng ông cũng không chấp nhận những cái thô lỗ, tục tĩu, quá đà dù

là những cái được coi là mới, là mở cửa. Báo Việt Nữ lúc thì “nói thỏ thẻ, nhỏ nhẻ, rủ rỉ

như con gái cấm cung” [NN số 68, 9] lúc lại nói “trắng trợn”, “sống sượng” những cái kín

đáo của phụ nữ. Và đó là “thứ duyên … không sạch sẽ gì!” [NN số 77, 9]. Viết văn thơ là

một công việc cần nhiều sự chú trọng, đầu tư. Viết văn theo lối mới với cảm hứng tự do,

bay bổng, thoát khỏi những khuôn sáo cứng nhắc, cho những cảm xúc cá nhân như vui,

buồn, mừng, giận, … được thoái mái bộc lộ. Trong thơ mới, cái buồn yêu đương lãng mạn

được các nhà thơ mới gửi gắm nhiều. Ông trách lối văn mới lúc nào cũng sầu thảm buồn

nhưng rỗng tuếch . Ông đưa dẫn chứng câu văn thế này “Than ôi, trăm năm thân thể nặng,

ruột con tằm đâu nhả hết đường tơ, mà trời già buộc chết xuân xanh, một khối u hoài em có

thấu”. Ông kết luận “Đó là kiểu mẫu lòng thòng của sợi tơ lòng.”[NN số 70, 9]. Trong Tin

văn …vắn ta bắt gặp một Lê Ta – Thế Lữ yêu sự thành thực, rõ ràng. Về việc ông Phan

74

Trần Chúc từ chối làm đại biểu vào ban dự khuyết hội nghị báo giới vì (theo lời ông Phan

Trần Chúc) “Tự xét mình vô tài lực” “xin nhường chỗ lại cho người khác xứng đáng hơn”.

Có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề đó. Lê Ta chốt “Ông Chúc không tự phụ đâu. Ông Chúc

cũng không nhún mình. Ông Chúc chỉ thành thực”[NN số 75,10]. Về những nhà thơ, nhà

văn nổi tiếng sau khi có một cuốn hoặc vài cuốn “để đời” rồi thì nếu không thể viết được

nữa thì thôi, đừng nên níu kéo độc giả để làm cho người ta nhớ đến văn mình bằng những

tác phẩm kém về nghệ thuật. Như vậy càng thêm dở. Phải chăng đây cũng là chủ định của

Thế Lữ trong đời thơ của mình. Sau khi giành thế thắng về cho phong trào thơ mới, phát

hiện nhiều tài năng nổi bật như Xuân Diệu, Huy Cận,… ông lui về, hướng ngòi bút của

mình vào những địa hạt phù hợp hơn. Ông như người đi đãi hạt: tìm những hạt tốt để gieo

trồng, loại những hạt xấu để khỏi làm hư hại xã hội. Theo ông người cầm bút phải là

“Người đứng đắn, người biết quý ngòi bút, và biết cầm bút cho ngay ngắn, không bao giờ

phải dùng đến những “chiến cụ” những “phương lược” tối tăm”[NN số 72, 9]. Ở Tin

văn…vắn này ông thường phê phán. Mà như vậy lại phật lòng nhiều người. Để trả lời ý của

báo Tiểu thuyết nói Lê Ta dìm những bậc tài hoa của báo ấy, ông viết “Lê ta không dìm

đâu. Mà dìm thế nào được kia chứ? Vì dìm nghĩa là ấn người ta xuống không cho người ta

ngóc đầu lên được. Những bậc tài hoa của “Báo Tiểu thuyết” đã ở tận dưới đất đen rồi, còn

đâu nữa mà dìm?”[NN số 78 ,10]. Thật khó khăn cho Lê Ta khi phải làm công việc “mất

lòng” đó. Nhưng vì “Lê Ta thù những cái dở hơi, cái tầm thường, cái “nhà văn” kém cỏi

trong những kẻ kia (những người bạn văn)” nên “…yêu anh tôi để trong lòng. Việc văn tôi

cứ…phép công tôi bình”. Ông khẳng định “Đó là câu châm ngôn của Lê Ta.” Rạch ròi

trong chuyện tình cảm riêng tư và đúng đắn trong bình văn thơ, Lê Ta đã tạo được sự khâm

phục của bạn bè, sự yêu mến của bạn đọc và góp một phần không nhỏ vào tiến bộ vượt bậc

của nền văn chương nước ta thời kì đó.

Chỉ bảy số từ số 6 (20/03/1935) tới số 12, mục “Ngày Nay điều tra” lúc đầu do Thế Lữ

đảm trách, sau đó có thêm Trọng Lang đã tạo sự quan tâm của dư luận. Không phải vì tính

hấp dẫn, ly kỳ như trong các truyện trinh thám mà nó mang tính thời sự cấp thiết. Nạn trộm

cướp diễn ra liên tục ở các vùng nông thôn làm mất mát tài sản có khi cả tính mạng đã gây

ra tâm lí hoang mang cho dân chúng. Vào tận “hang hùm”, tham gia vào những nhóm cướp

khác nhau, phóng viên điều tra báo Ngày Nay mong muốn cho mọi người thấy được cách

thức tổ chức và cách thức hành động của bọn cướp để có ý phòng ngừa cho chính mình. Từ

đó làm giảm tình trạng này, làm cho đời sống người dân trở nên tốt hơn. Vì “Dân quê luôn

75

sống trong sự sợ hãi: ăn cướp và bao nhiêu thứ sợ khác nữa – Nếu cách xếp đặt việc tuần

phòng trong các làng còn cẩu thả, có sở như hiện nay thì dân quê chưa thể mong sống trong

sự yên tĩnh.”[NN số 6, 2].

Trong các bài báo điều tra của mình các ông cũng rất khéo léo khi chỉ đưa những tên

người không phải đúng như vậy hay những tên làng, xã viết tắt kiểu như ông Lãnh, ông

Trương, tên P, làng T.C, làng C, vùng T.B, chùa C.L,… Tác giả bài viết đã cho thấy tính

chất dã man của những toán cướp, nào là giết dã man kẻ phản nhóm, nào giết chiên (tên

cướp) khi người ấy bị thương và không thể chạy trốn được, vét sạch của cải, kể cả số tiền ít

ỏi của người dân lương thiện, hiếp dâm nhà có người con gái,… Cách thức mà những toán

cướp thực hiện đã được tác giả bài viết miêu tả khá chi tiết từ giai đoạn tìm con mồi tới việc

chuẩn bị các bước thực hiện, cả bước rút lui như thế nào. Quả là những kinh nghiệm quý

báu cho những người dân. Bên cạnh đó, những tên cướp cũng được miêu tả bằng ngòi bút

chân thực, trần trụi, khách quan nhưng cũng có giọng điệu cảm thông vì phần nhiều họ đều

xuất thân từ nông dân. Họ cùng túng quẫn phải đi ăn cướp vì “nếu đi, lại còn hy vọng được

nhiều tiền, được đánh nhau thả cửa, được hống hách, bắt nạt xằng xịt một lúc, Thứ nhất,

được tự xưng là “các quan” với những anh giàu ích kỷ, bủn sỉn, xưa kia nó coi mình không

bằng con chó nhà nó.”[NN số 11, 3]. Xã hội mà những người lương thiện bị đẩy vào con

đường cùng túng, bị ức hiếp, đè nén đến nỗi phải dấn thân vào con đường bất lương mà

người bị hại của họ có khi lại chính là những người dân lương thiện như họ trước đó. Một

xã hội với vòng luẩn quẩn những đau thương, sự sợ hãi đã được nhà báo Thế Lữ khai thác

mang ý nghĩa tố cáo sâu sắc. Mục “Ngày Nay điều tra” tuy không nhiều nhưng cũng góp

một phần tạo nên sự thay đổi trong đời sống người dân.

Bên cạnh các chuyên mục trên, Thế Lữ còn đảm trách các chuyên mục khác và những bài

phỏng vấn, bài viết, phóng sự,… với nội dung chủ yếu đáp ứng yêu cầu của báo trong

những thời điểm nhất định. Dù ở tin mục nào Thế Lữ – Lê ta cũng cho thấy khả năng đa

dạng, niềm say mê văn chương, sức làm việc hăng hái của mình. Vì thế, ông nhanh chóng

và đã trở thành một thành viên trụ cột của báo PH, NN.

Tiểu kết: Bên cạnh nhà thơ Thế Lữ, trong PH, NN ta còn thấy một nhà văn, nhà báo Thế

Lữ – Lê ta.

Trong văn xuôi hư cấu, những thể tài chủ yếu mà Thế Lữ sử dụng vẫn luôn tuân thủ tôn

chỉ của TLVĐ. Trong nhiều tác phẩm ông luôn lấy tinh thần khoa học, áp dụng phương

76

pháp thái Tây để lý giải các hiện tượng đời sống, để giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó ông

cũng hướng ngòi bút vào giới bình dân làm cho văn học trở nên gần hơn với cuộc sống.

Những thể loại trong văn xuôi hư cấu là truyện kinh dị hiện đại, truyện trinh thám, truyện

đường rừng, truyện về cái thường ngày. Trong đó có ông là nhà văn tiên phong trong nhiều

thể loại văn học như truyện kinh dị hiện đại, truyện trinh thám, truyện đường rừng.

Trong hoạt động báo chí, Thế Lữ đã thể hiện là người đa tài, có cái tâm trong sáng, sự

nhiệt tình, hăng hái trong công việc. Thể tài văn xuôi hư cấu Thế Lữ gồm phóng sự, tin tức,

điểm bình,… Ông giữ vị trí chủ chốt của nhiều tin mục trên PH, NN với các tin điểm bình

về văn chương và điểm bình về các hoạt động văn hóa – xã hội. Ở bài nào ta cũng thấy cái

tài, cái tâm trong nhìn nhận vấn đề, sự năng động, xông xáo trong việc khai thác đề tài. Ông

đã trở thành thành viên quan trọng của nhóm, trở thành chỗ dựa tin cậy của văn đoàn, chỗ

dựa tin cậy của báo Phong Hóa, Ngày Nay góp phần lớn tạo uy thế cho Tự lực văn đoàn

Tác phẩm văn học cũng như báo chí của ông vừa mang tính chất thời sự, vừa mang tính

chất văn chương. Vì vậy có thể nói, văn chương của Thế Lữ giai đoạn này luôn có sự giao

hòa giữa văn học và báo chí, giữa cá nhân nhà văn và tập thể –nhóm TLVĐ.

77

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI THẾ LỮ TRÊN PHONG

HÓA, NGÀY NAY – NHÌN TỪ GIỌNG ĐIỆU, KẾT CẤU, NGÔN TỪ

3.1. Giọng điệu, kết cấu, ngôn từ trong văn xuôi hư cấu

3.1.1. Những giọng văn mang bản sắc riêng

Giọng điệu là một phương tiện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của văn học. Đây

là thứ hình thức nghệ thuật mang tính quan niệm, nó là thước đo không thể thiếu để xác

định tài năng và phong cách độc đáo của một nhà văn, nhà thơ. Giọng điệu vừa liên kết các

yếu tố hình thức khác nhau, làm cho chúng cùng mang một âm hưởng nào đó, vừa là chỗ

dựa chính để các yếu tố của tác phẩm quy tụ lại và định hình thống nhất với nhau theo một

kiểu nào đó, trong chỉnh thể giọng ấy mỗi yếu tố hiện ra rõ hơn, đầy đủ hơn, thậm chí mới

mẻ hơn. Trong các tác phẩm nghệ thuật ưu tú, giọng điệu bao giờ cũng mang tính chất

lượng, nó là sản phẩm sáng tạo đích thực của nhà văn. Giọng điệu văn chương là một hiện

tượng nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ. Nhưng thực tế là bên cạnh giọng điệu cá nhân

còn có giọng điệu thời đại. Giọng điệu cá nhân chịu sự quy định, ảnh hưởng của giọng điệu

thời đại mặt khác giọng điệu cá nhân góp phần làm phong phú thậm chí làm thay đổi cấu

trúc giọng điệu thời đại. Giọng điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật. Một

nhà văn tài năng bao giờ cũng phải tạo được một giọng điệu độc đáo. Giọng điệu gắn với

cảm hứng chủ đạo, giọng điệu góp phần tăng giảm hiệu suất cảm xúc của tác phẩm văn

chương.

Giọng điệu không chỉ mang nội dung tình cảm mà còn thể hiện thái độ của tác giả về

đời sống. Giọng điệu văn chương là một nhân tố cốt yếu tạo nên phong cách nghệ thuật, nó

cho phép ta hiểu sâu hơn sự phong phú của chủ thể sáng tạo. Giọng điệu vừa là một hiện

tượng nghệ thuật độc đáo của nhà văn vừa là một hiện tượng ảnh hưởng không nhỏ đến

các thời đại văn học. Tuy vậy nghiên cứu về giọng điệu thì nước ta chưa có những công

trình chuyên sâu. Trong giới nghiên cứu văn học nước ta, Trần Đình Sử là người đầu tiên

phân biệt hiện tượng giọng điệu trong đời sống và giọng điệu trong nghệ thuật, coi giọng

điệu văn chương là một phương diện cấu thành hình thức của văn học. Theo Trần Đình Sử

giọng điệu “là sự biểu thị lập trường tư tưởng, cảm xúc chủ thể, là nguyên tắc lí giải và

78

chiếm lĩnh hiện thực”. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến thì nhận định “cảm hứng nào

giọng điệu ấy, nhưng cũng có thể ngược lại giọng điệu định hướng hình thành cảm hứng”.

Còn theo Nguyễn Đăng Mạnh thì giọng điệu là “một yếu tố quan trọng tạo nên phong cách

nghệ sĩ”. Giọng điệu biểu thị thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thể phát ngôn qua lời văn

nghệ thuật. Không thể có giọng điệu nếu như không có những rung động sâu sắc, những nỗi

đau, những xót xa trước thân phận con người, không chia sẻ với họ niềm vui và tình yêu

trong cuộc sống. Trong nghệ thuật, giọng điệu bao giờ cũng được tổ chức công phu, là kết

quả của một quá trình sáng tạo thực thụ. Giọng điệu trở thành một yếu tố cấu thành, phụ

thuộc vào hệ thống không phải là ngẫu hứng.

Là một nghệ sĩ đa tài, Thế Lữ thể hiện tài năng của mình trong rất nhiều lĩnh vực của

nghệ thuật, và cũng từ đó, người đọc thấy được một lối viết đa giọng điệu của ông. Giọng

điệu ấy phụ thuộc vào thể loại văn học mà ông sử dụng nhưng cũng do trái tim người nghệ

sĩ tạo nên. Và “đa giọng điệu” trong lối viết đã tạo nên một phong cách riêng cho Thế Lữ –

Lê Ta.

Trong văn xuôi hư cấu, đặc biệt ở các truyện kinh dị, trinh thám của mình, để tạo sự hấp

dẫn, lôi cuốn người đọc vào những câu chuyện, Thế Lữ đã sử dụng rất thành công giọng

điệu khơi gợi trí tò mò khám phá của người đọc, người nghe.

Truyện kinh dị của Thế Lữ bao giờ cũng được mở đầu bằng một không gian, thời gian

đậm chất “ma quái”. Những hình ảnh như “một cái nhà gạch hai từng, ở về gần vùng nhà

quê, chung quanh toàn ruộng vườn mênh mông với những ao chuôm đang lấp rở. Nhà

ngảnh mặt ra cái đường đá nhỏ, bên kia đường là một rặng cây dâu cằn cội, sau vườn dâu

có một chiếc nhà lá lúp xúp, vắng vẻ như không bao giờ có người (...) Chỗ nào cũng bỏ

hoang.” [Thây ma xuống thang gác, PH số 27, 7], “Trời đất một thâm dần lại. Hai ngọn

nến cao sáng thêm ra (…) Cái yên lặng dai- dẳng càng khắc càng nặng-nề. Cảnh vật chung

quanh như lộn vào cõi chết” [PH số 66, 6]. “Trăng lên cao càng thêm sáng. Cái tối tăm chỗ

hai người ngồi trong nhà sác thực lạnh-lẽo, âm thầm. Tiếng run-rế rủ-rỉ dưới chân

cỏ…Tiếng gió thổi làm động những tàu chuối…Bỗng chốc một tiếng chim đêm, kêu dài và

thảm…” [Cái sác đuổi người, PH số 66, 6], “Hai bên đường toàn là đồng quạnh, chỉ lác-

đác mấy lóc nhà giạ úp-sụp lên mặt ruộng lúa xanh rờn.” [Bên đường Thiên Lôi, PH số 70,

6] xuất hiện trong nhiều truyện kinh dị của Thế Lữ tạo cảm giác ghê sợ nhưng cũng kích

thích trí tò mò của độc giả. Bước vào câu chuyện, theo lời kể của nhân vật, người đọc như bị

cuốn hút vào những điều bí ẩn. Truyện Thây ma xuống thang gác, theo lời kể của chủ nhà

79

thì con ma thường hiện hình trong nhà là hồn ma của một tên ăn trộm sau khi bị truy đuổi

đến bước đường cùng thì thắt cổ tự tử ở gian buồng trên gác. Hàng đêm, những ai ở đây đều

thấy “một người mặc quần áo nâu, suốt đêm đi đi lại lại trên gác rồi lại đến đứng trên đầu

họ hàng giờ” [PH số 27, 7]. Người kể chuyện cũng khẳng định là tận mắt mình đã trông

thấy con ma ấy vì buổi đầu tiên đến ở trong căn nhà này anh thức đến hơn mười hai giờ

khuya và thấy “Ngoài cửa sổ đưa vào một hơi gió đen tối…trang sách của tôi bay loạt soạt

như một tàu lá, ngọn đèn treo trên đầu giường nhảy bập bồng. Mắt tôi vẫn nhìn những hàng

chữ như in. Nét mặt hết sức giữ vẻ bình tĩnh như không, nhưng trống ngực đập mạnh làm tôi

thấy khó thở” Cái lo sợ trong giọng kể của người kể chuyện đã làm cho những người bạn

của họ “im phăng phắc chờ anh Đình (chủ nhà) nói tiếp, Anh Tú đã kéo chân lên ngồi xếp

vòng trên giường và nắm tay tôi thật chặt. Người nào cũng dần dần co chân và ngồi sát lại

với nhau”. Đêm khuya thanh vắng cùng nơi ở đã xảy ra sự việc kinh hoàng ấy đã làm cho

người trong truyện và cả người đọc cũng thấy run sợ. Trí óc như bị kích thích. Dù là sợ

nhưng vẫn muốn khám phá, tìm hiểu. Câu chuyện được anh Đính tiếp tục kể “Tôi không

đưa mắt như trước, quay hẳn đầu sang phía cửa rồi nhìn hẳn lên cái bàn nhỏ gần đấy: con

ma đang đứng ở đầu giường tôi. Phải. Con ma. Con ma đàn ông hình vóc y như người kẻ

cắp mà họ nói chuyện với tôi bữa trước. Nó đứng yên, chỉ có cái đầu là ngảnh nhìn hai bên,

mà ngảnh nhìn một cách rất chậm chạp. Nó hiện ngay trước lối cửa vào, còn cách đầu tôi

ba, bốn bước. Ngọn đèn chỉ để tôi trông rõ cái mặt trơ trơ của nó với cái áo nâu cộc. Nửa

mình dưới thì dần dần mờ tối, như trong bức ảnh bán thân.” Từng yếu tố kinh dị qua ngôn

ngữ, giọng điệu của người kể truyện trở nên đậm nét, cụ thể hơn. Không chỉ giọng điệu lo

sợ của người chủ nhà mà giọng điệu hốt hoảng của người bạn tới chơi – Hệt càng làm cho

sự sợ hãi của mọi người và tính cuốn hút của câu chuyện tăng lên “Tôi định vào nhà trong,

định gãi chân hay kéo tai Tường…nhưng bỗng trông ra cửa sổ nhà ngoài …thì thấy nó. Nó.

Con ma ấy, nó đi lại gần tôi. Tôi lui, nó tiến. Tôi đứng, nó đứng. Rồi nó cứ lừ lừ như quả

núi áp lại gần tôi. Tôi hoảng lên chạy, thì nó đuổi. Suýt nữa nó vớ được tôi. Tôi liền chạy

xuống, thì nó cũng làm mặt chạy xuống theo.”

Cách dẫn dắt câu chuyện khéo léo, để cho các nhân vật sử dụng những giọng điệu phù

hợp với tình huống truyện kinh dị của Thế Lữ đã tạo nên hiệu quả kích thích trí tò mò của

độc giả.

Trong các truyện trinh thám, Thế Lữ thường dùng những cách dẫn dắt cùng với một

giọng điệu đặc biệt để gợi trí tò mò của người đọc. Những bí mật, những khúc mắc, những

80

bước khám phá bí mật của chàng phóng viên trinh thám luôn được Thế Lữ trau chuốt bằng

những từ ngữ tạo hứng thú cho người đọc. Không một vụ án nào xuất hiện đơn giản, dễ

dàng cho sự khám phá mà thường là cách thức cầu kỳ, phức tạp. Trong Đòn hẹn, một lá thư

bí mật gửi đến nhà Lê Phong vào lúc mười một giờ mười lăm và biết chính xác lúc Lê

Phong cầm lên đọc là khoảng một giờ trưa. Bức thư nói rõ “từ một giờ rưỡi đến một giờ 45

trưa hôm nay, một vụ án mạng sẽ xảy ra ở xế cửa nhà ông, xảy ra trước mắt mọi người”

[NN số 141, 7]. Lê Phong nghi hoặc nhưng “Anh không có thì giờ suy xét lâu, chỉ để cho

linh giác mở rộng ra đón lấy những điều mới lạ. Tinh thần găng ra như sợi tơ căng thẳng.

Thời khắc trôi qua trong sự hồi hộp cực độ. Ba phút. Năm phút…” [NN số 141, 7]. Người

đọc cũng như căng thẳng cùng bước chân và hành động của Lê Phong. Mọi việc có diễn ra

như trong bức thư không hay chỉ là lời nói đe dọa tầm thường? Làm thế nào có kẻ lại có sự

chính xác, tỉ mỉ trong hành động giết người như thế khi mà “Phố Huế, người đi lại tấp nập

như thường. Dưới đường, các xe cộ qua lại bình thản trong nắng tươi và trong bụi mờ.

Toàn những sự quen mắt và quen tai.” Nhưng không, một vụ án mạng thực sự đã xảy ra.

Một người đàn ông “vô tình” bị ngã ngay trước đầu tàu bắt đầu lăn bánh, một án mạng “Ghê

gớm lắm, bí mật hết sức nữa…” với Lê Phong và với cả người đọc. Cuộc gặp gỡ giữa Lê

Phong và một trong những người thủ lĩnh của Tam Sơn tại nhà Lê Phong đã tạo nên sự hấp

dẫn đặc biệt cho câu chuyện. Kẻ tàn ác giết người không gớm tay ấy lại làm cho Lê Phong

ngạc nhiên bởi “Thoạt nhìn người lạ mặt có một vẻ thanh lịch quý phái, một dáng điệu nhã

nhặn của một người đàn ông học thức và phong lưu. Khổ người vừa phải, đều đặn và hơi

cao, ăn mặc theo thời trang một cách ý nhị, Dưới cổ áo sơ mi trắng tinh và cứng, chiếc ca-

vát đắt tiền thắt rất gọn, ăn màu với chiếc khăn nhỏ gài ở trên túi. Từng ấy thứ tỏ ra chủ

của chúng là tay sành sỏi về khoa thẩm mỹ. Đó là người để ý đến phục sức một cách thông

minh, sang trọng một cách rất dễ dàng và trong sự chải chuốt không biểu lộ một ý gì hợm

hĩnh” [NN số 143, 14]. Không chỉ bề ngoài tạo được điểm khác biệt mà cách nói năng với

Lê Phong cũng rất lịch sự, nhã nhặn nhưng cũng rất thâm hiểm làm Lê Phong “thù ghét hơn

lên, nhưng cũng thêm phần thán phục” “anh phải nghĩ đến cách giữ miếng, phải đắn đo từ

lời nói, từng cử chỉ để chiến đấu với một kẻ sát nhân phi thường” [NN số 143, 14]. Từng

nhân vật, sự việc tham gia vào câu chuyện với những bí ẩn kích thích người đọc, cuốn hút

người đọc theo bước chân khám phá của Lê Phong. Thời gian, địa điểm liên tục được nhắc

đến tạo cảm giác gấp gáp, cuốn hút. Hành động, hoạt động của các nhận vật cũng luôn thay

đổi, nhanh lẹ. Những câu dạng như “Tôi vào hàng Bình Minh ăn cơm chiều ngay từ bây giờ

81

và đọc nốt cho anh những đoạn cần phải thêm…Bốn giờ kém mười thì bọn Đan, Lương,

Khải đợi tôi ở sở liêm phóng (…) Mai Hương và Văn Bình đã có lời dặn riêng. Luân, Đức

thì bảo vệ người thiếu phụ cho đến mười giờ đêm. Họ phải luôn ở nhà báo. Viên, Lư, Lịch

theo “vết lông ngỗng”, nghĩa là tìm dấu hiệu của tôi ở dọc đường…Anh Quán sẽ là người

điều khiển lớp cuối cùng trong tấn kịch…” xuất hiện nhiều trong các truyện trinh thám của

Thế Lữ. Những câu văn ngắn, gấp, những hành động mau lẹ nhưng chứa đầy bí ẩn có tác

dụng lớn trong việc khơi gợi kích thích trí tò mò của người đọc.

Khi viết về cái thường ngày, Thế Lữ có những truyện chủ yếu là gây cười, phê phán nhẹ

nhàng mang tính giải trí cao thì giọng điệu chính là hài hước, trào lộng. Có thể nhắc đến

Người tài xế điên, Bản năng người say rượu, Người buôn óc, Cắt tóc, Tôi mù rồi, Mách

thuốc. Cốt truyện của những truyện này đều đơn giản với sự tham gia chỉ là hai hoặc ba

nhân vật nhưng bằng tài năng của mình, Thế Lữ làm cho tiếng cười vẫn được bật lên. Mách

thuốc là câu chuyện kể về sự việc xảy ra trên chuyến xe điện. Có một người thiếu phụ bước

lên xe và tay người ấy bị sưng to trông rất dễ sợ. Những người ngồi trong xe trông thấy thì

bình phẩm và có hai người đàn bà ngồi gần người thiếu phụ đã mách cho chị này phương

thuốc theo họ là hiệu nghiệm. Những lời mách thuốc trở nên căng thẳng khi cả hai bà đều

cho rằng phương thuốc mà họ mách cho người thiếu phụ mới thật là có hiệu quả. Họ cãi

nhau rất lâu, rất kịch kiệt và sắp có cuộc đánh nhau to. Một người gần đó đã chủ động nói

chuyện với hai người đàn bà và khen hai bà có lòng tốt với người thiếu phụ nhưng cũng

thông báo cho hai bà biết rằng “cô đau tay xuống xe đã lâu. Xuống xe dễ đã đến hai mươi

phút.” [NN số 204, 11]. Câu chuyện có dung lượng một trang báo được Lê ta dựng bằng

cuộc đối thoại gần như liên tục giữa hai người đàn bà. Không một câu bình phẩm của tác giả

hay những người khách khác ngồi trên xe, câu chuyện dựng lên như một kịch bản nhưng

chính cách thức đó, thông qua giọng điệu của các nhân vật, người đọc được giải trí bằng

tiếng cười thú vị. Cắt tóc kể về cảm giác lo sợ của nhân vật “tôi” khi vào tiệm cắt tóc của

một người nóng tính mà lại có lúc dở người. Thời gian cắt tóc đúng là khoảng thời gian “cân

não” khi mà người cắt tóc luôn có những hành động, lời nói như sắp sửa hại hành khách

“Người ta nhiều lúc cũng lạ. Có lúc nhìn một vật ra một vật khác, cũng như có những ý

nghĩ khác thường. Lắm lúc con dao cạo ở trong tay như lúc này, mà tâm tính cũng yên lành

như lúc này…thực là bình thường, không có gì…Thế mà, bỗng tự dưng, không hiểu tại sao,

chú ý mãi đến cái chỗ đang cạo. Cứ như có một sức gì đang xui giục ấy…không thể nào nói

rõ được…có một cái gì nó mách bảo: này, thử cắt vào cái tai này, thử rạch một nhát vào cái

82

má này xem…Vô lý lắm phải không thưa ngài…Cũng may mà lúc sắp sửa làm thế để xem

sao thì lại biết ngay là vô lý. Nhưng tức khắc cái ý muốn ấy lại đến, và mình lại thấy nó hay

hay.” [NN số 161, 22]. Cảm giác lo sợ đi liền với tiếng cười khúc khích khi thấy những điều

thú vị là cảm giác ta bắt gặp khi đọc nhiều truyện loại này của Thế Lữ.

3.1.2. Kết cấu hiện đại, linh hoạt, sử dụng táo bạo, khéo léo nhiều yếu tố kinh dị, kì

ảo

Nếu như kết cấu cốt truyện trong truyện trung đại thường đầy đủ các thành phần (trình

bày, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm, mở nút) dù là một hay nhiều sự kiện thì sự kiện ở đây

vẫn chỉ được xâu chuỗi theo thời gian, không gian được mô tả trong quan hệ mở rộng không

gian thì cốt truyện trong truyện hiện đại mỗi sự kiện tham gia vào cốt truyện thường được

mô tả, phân tích, lí giải một cách cặn kẽ từ đâu mà có, liên quan đến diễn biến vận động của

sự kiện trung tâm như thế nào? Thế nhưng “Tố tâm” và “Nho Phong” mới chỉ là những dấu

nối, bước chuyển từ thi pháp tiểu thuyết cổ trung đại sang thi pháp truyện hiện đại. Một sự

cách tân triệt để trong tiểu thuyết chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết của thập kỷ 40 mà đại diện

tiêu biểu là những tiểu thuyết của TLVĐ. Kết cấu của tiểu thuyết hiện đại đòi hỏi nhà văn

phải xử lý mối quan hệ giữa tuyến sự kiện và tuyến nhân vật, phải tổ chức các yếu tố tự sự

xen lẫn với miêu tả sinh động, với những đối thoại, độc thoại nội tâm, những lời bình luận

trữ tình phụ đề, phải tổ chức các hình thức bề ngoài tác phẩm (tức bố cục) hợp lý, làm sao

cho công trình nghệ thuật đảm bảo sự thống nhất chặt chẽ trong một chỉnh thể nghệ thuật.

Yêu cầu của kết cấu một cuốn tiểu thuyết phải chặt chẽ, không có yếu tố thừa hoặc thiếu và

nhà văn phải sắp xếp, bố trí chi tiết đúng chỗ thích hợp, mở rộng hay thu hẹp bộ phận nào là

tùy thuộc vào yêu cầu của nội dung. Tác giả phải nắm vững quy luật đối xứng và cân bằng

giữa các bộ phận trong quá trình kết cấu. Tất cả những công việc đó phải được tiến hành

thật khéo léo để người đọc cảm thấy sự việc diễn ra một cách tự nhiên không có bàn tay

chỉnh nắn của tác giả. Nguyên tắc chung của nghệ thuật kết cấu là phải làm sao cho tư tưởng

chủ đề thấm sâu đến từng chi tiết, từng bộ phận của tác phẩm và phải góp phần có hiệu quả

nhất vào việc tạo dựng tính cách nhân vật. Thế Lữ là nhà văn của TLVĐ, tác phẩm của ông

cũng như các nhà văn khác của nhóm không đi theo lối truyền thống mà luôn linh hoạt, luôn

luôn đổi thay.

Trong truyện trinh thám, Thế Lữ thường sử dụng cách tạo gút tỉ mỉ và mở nút bất ngờ

trong tổ chức kết cấu truyện.Với Thế Lữ, kết cấu tác phẩm của ông không chỉ là liên kết các

hiện tượng, con người mà lớn hơn là ông sắp xếp các sự việc để cho cái chính yếu được nổi

83

bật lên, cái quan trọng gây được ấn tượng mạnh mẽ. Ở tác phẩm nào, ông cũng chăm chút

“tạo gút”. Ông thường tạo ra một không gian rộng, thoải mái, để các nhân vật thể hiện sự

việc một cách hết sức tự nhiên, tưởng là bình thường nhưng lại chứa đựng nhiều tình tiết bất

ngờ. Gói thuốc lá dẫn người đọc vào câu chuyện bằng cái chết rất nhiều bí ẩn của nhân vật

Đường. Đường chết trong căn phòng đóng chặt, những người sống cùng Đường có khả năng

gây án mạng đều bị loại: ông cụ chủ nhà thì không thể giết vì quá già, Huy, Thạc, Bình, Lê

Phong không thể vì thời gian Đường chết họ đi xem xi-nê cùng nhau. Chỉ còn khả năng là

Đường chết bởi tên người thổ Nông An Tăng vì giữa hai người có mối hiềm khích lớn, và

trước khi Đường bị giết thì cũng có nhiều lí do đáng tin cậy để khẳng định Nông An Tăng là

hung thủ. Kết cấu truyện diễn ra theo chiều hướng đó. Thế Lữ sắp xếp các cuộc nói chuyện,

truy tìm hung thủ, giáp mặt hung thủ của Lê Phong, của thanh tra nhà nước một cách khéo

léo làm người đọc cũng tưởng Nông An Tăng là hung thủ của vụ án. Nhưng chỉ bằng vài chi

tiết tưởng như không quan trọng đan cài trong tình tiết truyện như việc Lê Phong xem xét

các chữ cái mà Đường viết trước khi chết, hỏi vài câu hỏi theo lệ nhà nghề, thế mà tình tiết

có tác dụng “mở nút” lại vô cùng bất ngờ. Thạc chính là hung thủ. Yếu tố “mở nút” của tác

phẩm xuất hiện khi việc “tạo gút” của Thế Lữ đã được đẩy lên đến đỉnh điểm. Mọi suy đoán

Nông An Tăng là hung thủ đang dần chắc chắn nhưng cũng đang dần lộ ra những vô lý.

Cách “mở nút” của tác giả bằng yếu tố bất ngờ nhưng có lý đã tạo nên sự hấp dẫn cho

truyện trinh thám Gói thuốc lá của ông.

Không chỉ trong Gói thuốc lá, hầu như trong các truyện trinh thám khác, Thế Lữ đều sử

dụng dạng kết cấu này. Chính kết cấu hiện đại này có tác dụng lớn tạo sự hấp dẫn cho

truyện trinh thám của ông.

Trong truyện đường rừng, truyện thường ngày kết cấu truyện được Thế Lữ sử dụng

một cách linh hoạt. Nếu mục đích chính là tả cảnh, tả tình thì cốt truyện được ông xây dựng

thật giản đơn chứa ít biến cố để tạo cảm giác nhẹ nhàng với người đọc. Chức năng của cốt

truyện loại này là giúp bộc lộ trạng thái tâm tưởng nhân vật. Cô Bụt, Hoa bên suối, Cô

Thơ, Trăng ngàn là những truyện được sắp xếp như một bài thơ trữ tình đằm thắm. Câu

chuyện chỉ diễn ra với một ít sự kiện. Chàng trai người kinh gặp gỡ cô gái người Thổ trong

không gian rộng lớn, đẹp, lãng mạn của núi rừng. Chuyện tình cảm của họ diễn ra một cách

tự nhiên. Cuối cùng họ không đến được với nhau, họ chia tay nhau. Nhưng tất cả những sự

kiện ấy đều diễn ra nhẹ nhàng, không có những xung đột cao trào cũng không có cách giải

quyết đột biến. Hoa bên suối là câu chuyện tình cảm lãng mạn giữa Bảo, anh chàng dạy học

84

người miền xuôi, với cô người thổ tên Tươi. Bảo gặp Tươi trong một dịp tình cờ. Bảo quý

mến ngay người con gái Thổ ấy. Nhưng mỗi khi gặp lại thì Tươi lại có thái độ khác lạ làm

Bảo không hiểu vì sao. Tươi của buổi gặp này thì vui vẻ, dễ thương, Tươi của buổi gặp khác

lại cau có, khó chịu, không cho nói chuyện. Sau này Bảo mới biết ra Tươi tên thật là Thay,

và hai thái độ khác nhau của Thay ấy là do Thay có một người chị em sinh đôi giống nhau

như đúc. Thay đi lấy chồng để lại trong lòng Bảo nỗi buồn thoáng qua, nhẹ nhàng. Không

có những cao trào, dằng xé, đau đớn, câu chuyện đường rừng loại này mang lại cảm giác

nhẹ nhàng với người đọc.

Ngoài kết cấu trên, nhiều truyện của Thế Lữ có kết cấu tâm lí. Nó phá vỡ hình thức kết

cấu trong truyện trung đại. Câu chuyện không cần phải kết thúc có hậu. Thoa (một đời

người) kết thúc bằng cái chết của Thoa, cái kết thúc của cả một đời âm thầm lặng lẽ, buồn

tủi, thiệt thòi. Cô gái người Thổ ôm xác của kẻ thù nhảy xuống vực sâu ở kết thúc truyện

Đêm trăng làm người đọc nhói lòng về sự thảm thương trong tình duyên của cô gái. Truyện

của Thế Lữ cũng như truyện của nhiều nhà văn trong TLVĐ là có kết cấu mở. Kết thúc

truyện nhưng nó không phải là kết thúc cuối cùng một hành động, một sự việc mà nó gợi ra

những sự việc và hành động tiếp theo. Tác giả dường như muốn người đọc cùng tham gia

vào việc giải quyết mâu thuẫn và số phận nhân vật chứ không phải dửng dưng đứng ngoài

quan sát nhân vật hành động. Truyện Bóng mây buồn khép lại bằng suy nghĩ của Tường sau

khi đã khuyên Lan – người thầm thương chàng – về sống vui vẻ với chồng thì chàng “Hình

ảnh của Lan lúc đó rõ rệt in trong tâm tưởng chàng, chàng lại thoáng có hi vọng rằng Lan

vẫn còn yêu chàng, không cho lời khuyên của chàng là phải…”. Người đọc lại có thể dùng

trí tưởng tượng của mình để đoán định nhiều tình huống có thể sẽ xảy ra với bộ ba Sinh –

Lan – Tường. Bên cạnh đó có những tác phẩm Thế Lữ đã sử dụng lối kể chuyện lồng trong

truyện. Ở đó tác giả cho người đọc tiếp nhận với nhân vật thứ ba, nhân vật dẫn dắt câu

chuyện tạo tính khách quan. Trong Câu chuyện trên tàu thủy người đọc biết được câu

chuyện nhờ nhân vật “tôi” nghe được câu chuyện do một ông ký về hưu kể lại. Trong Gió

ngàn, Đêm trăng và một số truyện khác, Thế Lữ để nhân vật tôi tự làm nên cốt truyện hoặc

nhớ lại sự việc, tâm trạng để dựng nên cốt truyện, hoặc thuật lại câu chuyện của nhân vật

khác cũng xưng tôi.

Trong các truyện giàu sắc thái kinh dị, mục đích chính không đơn thuần nhằm kể việc

mà cố tình tạo ra cái lõi ngạc nhiên, nỗi sợ hãi hoặc niềm mong mỏi bí mật được khám phá

được ông khéo léo sử dụng nhiều yếu tố kinh dị kỳ ảo trong kết cấu truyện.Truyện Vàng và

85

máu mở ra là một không gian miền núi hoang sơ từ bao đời. Sự hấp dẫn của câu chuyện do

cách Thế Lữ phủ lên câu chuyện tấm màn mờ ảo những tin đồn về sự linh thiêng của núi và

hang Văn Dú. “Thần núi Văn Dú linh thiêng lắm, lại rất độc ác và hay nghi ngờ. Người nào

hoặc vô tình, hoặc cả gan đến gần thần núi là bị thần hang bắt vào giết đi. Cho nên từ Văn

Dú trở ra chừng hai ba dặm chỉ toàn thấy rừng xác, đất hoang; người Thổ không dám đến

khai phá để cày cấy. Trong một năm có nhiều khi trời đất đang yên bỗng đùng đùng một

cơn sấm sét. Trên không gió vù, chớp loáng như gươm thiêng vung tít; cây cối vật vã tan

nát, người vật lo sợ mất hồn. Khắp mọi nhà đều khua gõ inh ỏi cùng với các bà then thầy

pháp kêu khấn cho đến khi nguôi cơn. Nhưng thế mới đỡ tai hoạ.” Người Thổ già cả gan

vào hang để tìm của báu đã phải chịu hậu quả “Ngực ông ưỡn lên, hơi thở càng ngắn càng

tức tối. Hai mắt ông trợn ngược nhìn về phía cửa hang là phía ông quay đầu vào. Mồm thì

há cứng đờ, thỉnh thoảng như muốn hớp lại. Một dòng máu từ mũi chảy ra, đen và loãng,

lẫn vào bọt dãi ở hai bên mép, rồi cùng chảy xuống cái cổ xanh xám, đầu ngoặt ra đằng

sau”. Những người vào hang tìm của cải trước đó cũng bị chết một cách thảm hại “Đám

người chết co quắp nằm nghẹo đầu giơ chân ở chỗ ánh sáng ban ngày soi xuống, cùng với

những hòn đá cuội chất đống, màu đất ẩm khác với màu xanh xám của vách hang.” Trong

hang còn những hình ảnh ghê rợn “Cái đầu lâu, hai mắt rỗng đen thao láo, ngả về phía trán

ở giữa hai cánh tay giao nhau. Hai tay này để trên một cái cột, cao lên tới ngực. Hai ống

cẳng đã rời, dựa vào cái bệ như hai thanh củi: phía trên bàn chân có những xích sắt con

han gỉ, chằng buộc hai ba vòng. Màu xương thì xanh đen, mốc rêu, cũng như màu cái cột

đá. Hàng xương sống vẫn thấy liền khớp, vẫn thấy chống giữ bộ xương ngực. Trên bả vai,

lúc soi đuốc lại gần, thấy một thứ mùn nát thành bụi lẫn lộn với một vòng tóc xam xám và

dài.” Từng yếu tố kinh dị, kì ảo được Thế Lữ sắp xếp làm nổi bật dụng ý. Âm thanh trong

những truyện kinh dị của Thế Lữ cũng tạo nên tính kinh dị, kỳ ảo vì nó luôn gợi cảm giác sợ

hãi, rợn người. Khi là tiếng nghiến răng ken két trong cái đầu lâu (Cái đầu lâu), khi lại là

âm thanh giống như đá đổ ở lưng chừng núi một lượt (Thây ma xuống thang gác), khi lại là

“tiếng run-rế rủ-rỉ dưới chân cỏ, tiếng gió thổi làm động những tàu chuối bên nhà xác”

(Cái sác đuổi người), có khi là những âm thanh kinh khủng của trời đất làm con người

hoảng sợ “luồng chớp sáng lạ lùng loáng lên, rồi liền đó một tràng sét lăn bên tai chúng tôi

cùng một tiếng nổ ghê gớm. Cả chiếc nhà rùng mình lên một lượt” (Lưỡi tầm sét). Như vậy,

việc Thế Lữ sử dụng táo bạo, sắp xếp khéo léo nhiều yếu tố kinh dị, kỳ ảo đã tạo hiệu ứng

khoái cảm cho các truyện giàu sắc thái kinh dị của ông. Đúng như Phạm Đình Ân nhận

86

xét“Truyện huyễn tưởng của Thế Lữ có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với người đọc. Thế Lữ

tạo được cốt truyện hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, ông lại có trí tưởng tượng bay bổng, óc quan

sát tinh tế, sắc sảo và cách hành văn vừa mềm mại vừa khúc chiết, giàu hình ảnh.” [5, 38].

3.1.3. Ngôn từ đập mạnh vào giác quan, tâm thức của độc giả

Thế Lữ là nhà văn có nhiều sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ. Trong văn xuôi nghệ

thuật, ông thường dùng lối viết thanh thoát, linh hoạt, mang tinh thần thời đại. Là một nhà

thơ lãng mạn, tâm hồn mở rộng trước thiên nhiên nên trong văn xuôi, đặc biệt là các truyện

lãng mạn núi rừng, cảnh núi rừng thơ mộng, đẹp như tranh hiện ra qua ngòi bút của Thế Lữ

đã hút hồn người đọc. Dưới lăng kính của những chàng trai thành thị cảnh thiên nhiên trở

nên tuyệt đẹp “Gần thung lũng rồi. Hai bên là những cánh đồng ngô chạy xa tắp. Đồi đất

trùng điệp và phẳng nhẵn ở phía trước, màu xanh dịu hay vàng non, nổi trên chân trời hồng

biếc” [“Chim đèo”, 54, 120] hay “Những tấm thảm vàng non êm mắt kia là những ruộng

mạ, cái nguồn bạc lượn tới từ phía dòng thấp kia là dòng suối, và dải lụa hồng thắm vắt ở

chân đồi trước mặt là con đường đất đi Bản Linh” [“Chim đèo" 54, 121]. Cảnh trong truyện

Bình La thôn “Con sông nhỏ thảnh thơi lượn giữa màu phì nhiêu của một cảnh trí mới lạ

và bình yên. Hai bên bờ cao, chạy dài những ruộng dâu xanh rờn, những ruộng lúa chín

tươi và những vườn đào, vườn chanh, vườn cam chi chít quả.”[NN số 72,1 3]. Vẻ đẹp lãng

mạn tạo ra một không gian vừa huyền bí, vừa thơ mộng của núi rừng “Mặt trăng vừa lọt ra

ngoài một khối mây đặc. Ánh sáng bừng lên soi tận xuống đáy suối trong. Nước đổ mau ở

phía trên và giải thành một làn khoan thai”[“Trăng ngàn”, NN số 162, 9] .

Nếu như văn thơ trung đại khi miêu tả người thường mang tính ước lệ thì thơ văn hiện

đại miêu tả cụ thể, không chung chung. Nhân vật của Thế Lữ được miêu tả một cách linh

hoạt, không theo một khuôn mẫu cũng không lặp lại và thường thì rất chi tiết. Khi giới thiệu

Lê Phong, ông dành cho những tình cảm đặc biệt “Người tầm thước, mặc thường nhưng

gọn ghẽ (…). Nét mặt đều, tự nhiên, thường tươi. Trán cao, tóc để dài đằng sau, đôi mắt to,

sáng, linh động (…) đôi mắt sắc sảo như hai luồng quang tuyến soi vào tận trong tâm trí

người ta. Khi anh mỉm cười, đôi mắt dịu dàng, thì anh có một vẻ nhã thiệp, đáng mến, khiến

cho những người lãnh đạm nhất cũng có cảm tình với anh.” [“Lê Phong phóng viên”, NN

số 6, 10]. Nhân vật phản diện là kẻ đối đầu, ngang tài ngang sức với Lê Phong, bên cạnh

những nét mặt ngoài của hiện tượng nhằm đảm bảo tính khách quan như “Mặt xương

87

xương, nước da đỏ từng chỗ. Hai mắt nhỏ, sâu và đen láy dưới vành mũ dạ mềm. Cái miệng

rộng, môi mỏng tanh mím lại và thỉnh thoảng mấp máy như nói lẩm bẩm những tiếng bực

tức” thì vẫn được Thế Lữ dành những từ ngữ cẩn trọng “Đó là một người đàn ông trạc ba

mươi tuổi trở lại, mặc âu phục tím sẫm hạng sang, cắt rất khéo, đầu mượt bóng, mặt trắng

trẻo đều đặn, miệng mím một nụ cười mỏng ngạo nghễ hơn là nhã nhặn; mắt nhỏ Dưới đôi

mày thưa và mảnh, theo ở đuôi mắt phái trái, một vết sẹo nằm ngang. Thoạt nhìn người lạ

có một vẻ thanh lịch quý phái, một dáng điệu nhã nhặn của hạng đàn ông học thức và

phong lưu. Khổ người vừa vặn, đều đặn mà hơi cao, ăn mặc theo thời trang một cách ý nhị.

Dưới cổ áo trắng tinh và là cứng, chiếc ca-vát đắt tiền thắt rất gọn, ăn màu với chiếc khăn

nhỏ gài ở trên túi. Từng ấy thứ tỏ ra chủ của chúng là tay sành sỏi về khoa thẩm mỹ. Đó là

người để ý đến phục sức một cách sang trọng dễ dàng và trong sự chải chuốt không biểu lộ

một ý gì hợm hĩnh.” [“Đòn hẹn”, NN số 142, 15]. Ngôn từ của Thế Lữ có sự cẩn trọng khi

miêu tả đôi mắt nhân vật. Đôi mắt trong văn Thế Lữ là biểu hiện tâm hồn, tính cách và cũng

thể hiện trạng thái tâm lý, tâm trạng của nhân vật trong những hoàn cảnh cụ thể. Đôi mắt

của ông chủ kỳ dị trong Bên đườngThiên Lôi đã làm cho người giúp việc Sắc sự khó hiểu

và thậm chí cả nỗi kinh hãi “Người kia nhìn hắn bằng đôi mắt ám khói” “Hắn toan gọi chủ

nhà một lần nữa rõ hơn thì cái đầu kia bỗng ngẩng bật ngay lên, hai mắt xuyên vào mắt hắn

một cách dị thường.” “mắt ông ta nhìn thẳng về phía hắn, mà nhìn như đắm vào cõi hư vô

nào”[PH số 73, 7]. Rõ ràng đôi mắt của Giáo sư Trần Lãm đang trong lúc chìm đắm trong

luồng tư tưởng của mình được miêu tả phù hợp với công việc và cũng phù hợp để tạo nên

không khí truyện kinh dị của Bên đường Thiên Lôi. Lê Phong được Thế Lữ miêu tả đôi mắt

rất nhiều vẻ mặt bỗng sáng lên, đôi mắt long lanh, đôi mắt có những tia sáng bất thường,

đôi mắt sáng quắc, đôi mắt sáng lên một cách phi thường, đôi mắt đen láy có vẻ sắc sảo lạ

thường, trong mắt có những tia sáng rất vui vẻ dịu dàng, mắt vẫn giữ vẻ yên tĩnh, sự phẫn

nộ dồn lên mắt,…

Bên cạnh nhận vật nam chính diện, ngòi bút miêu tả của Thế Lữ đặc biệt được nâng niu

khi ông miêu tả người phụ nữ. Người phụ nữ trong văn xuôi của ông dù là ở những truyện

lãng mạn hay truyện kinh dị, trinh thám thì vẫn mang vẻ đẹp hút hồn. Để miêu tả cái đẹp

ông ít dùng những từ ngữ giống nhau mà bao giờ cũng cố gắng tạo ra nhiều từ ngữ mới như

nhan sắc tuyệt mỹ, nhan sắc tiên nga, nhan sắc đằm thắm, trang giai nhân tuyệt sắc, nhan

sắc ghê rợn đắm đuối, nhan sắc kiều mỵ, nhan sắc rất ý nhị, nhan sắc kỳ ảo, nhan sắc diễm

lệ hiếm có,…hoặc những cách nói thể hiện cái đẹp: người thiếu phụ đẹp một cách dị thường,

88

đẹp một vẻ thần tiên, vẻ đẹp vừa sắc sảo, vừa dịu dàng, nàng tiên trong động, đẹp như một

vẻ hoa, như hạt ngọc châu, bóng dáng kiều lệ, bóng tiên nga, cái duyên đậm đà, tươi trẻ,

tuyệt mỹ, cao quý, ngọc ngà, thanh cao và tươi sáng. Họ có những khuôn mặt đầy đặn,

khuôn mặt tuyệt mỹ, khuôn mặt cực kì thanh tú, vẻ mặt cao quý khác thường, khuôn mặt nét

thanh và dịu, khuôn mặt hồng tươi, nét mặt yêu kiều.

Trong Trại Bồ Tùng Linh, người thiếu nữ được văn sĩ Tuấn mê đắm, Hoàng Lan Hương,

có sự hấp dẫn mê đắm từ da thịt “Thân hình nàng dưới màn áo dịu mỏng lồ lộ nét châu báu

của tòa nữ sắc vô song. Cái lầu ngọc ngà đẹp thêm một vẻ thần tiên trong màn sương chập

chờn”. Nhưng Mai Hương trong Mai Hương và Lê Phong thì lại được Thế Lữ trau chuốt

miêu tả cách khác. Để làm nổi bật “mỹ nhân” vừa tài vừa sắc bên người “anh hùng” Lê

Phong, Thế Lữ đã cho vẻ đẹp của Mai Hương hiện ra thông qua con mắt của một người nổi

tiếng là “lãnh đạm” “Lê Phong nhìn người thiếu nữ từ đầu đến chân, dáng người thanh

thanh, nhưng không kém phần rắn rỏi, cô mặc một cái áo màu hồng phớt kiểu mới, giản dị

nhưng trang nhã, cô đeo một cái vòng vàng có đính mấy điểm ngọc xanh. Hai bàn tay trắng

và mềm, ngón nhỏ muốt nhè nhẹ đặt lên mép bàn và hơi run lên vì cảm động quá. Khuôn

mặt thì cực kỳ thanh tú, tươi tắn, trẻ trung, và có một vẻ mặt cao quý khác thường. Nước da

nhỏ đánh phấn khéo đến nỗi màu đào trên hai gò má, Lê Phong không biết là màu của phấn

hay chính là màu của da.” [“Mai Hương và Lê Phong” PH số 175, 12]. Cô gái đóng giả

người chỉ huy đảng Tam Sơn để cứu Lê Phong cũng có vẻ đẹp mê hồn khiến Lê Phong ngạc

nhiên “Hôm đó cô ta mặc chiếc áo sa tanh đen, hạng mềm như dính theo các đường cong

thon thon của thân hình đều đặn, đôi dép nhung đồng màu vừa vặn khít lấy cái bàn chân

trắng nhỏ. Hai ống quần lụa trắng bong phủ gần kín đôi gót hồng hồng bé tí xíu (…) Cô ta

ưỡn ngực soi vào gương, đeo chuỗi hạt vào cổ, và mơn sửa lại mái tóc ở sau gáy. Phong

nghĩ ngay đến những giai nhân bí mật trong truyện cổ, những thứ nhan sắc ghê rợn đắm

đuối, lả lướt trong bóng âm của cung điện và mùi thơm biếc của sạ hương. Anh lại nghĩ đến

một truyện truyền thuyết Tàu, một truyện huyền ảo và nên thơ anh đã đọc lâu năm và nay

vẫn giữ nguyên hình ảnh kiều mị lẳng lơ trong phần mộng thơ của tâm tưởng.” [NN số 151,

19]. Lan trong Bóng mây qua là một người phụ nữ đẹp nhưng đa sầu, đa cảm. Có chồng

nhưng nàng lại có cảm tình với bạn của chồng là Tường. Thế Lữ thật tinh tế khi miêu tả

hình dáng, hành động nói lên tâm trạng nàng “Lan ngồi một mình trong phòng khách nhìn

ra ngoài cửa sổ, tay dịu dàng nâng má, thân mềm-mại dựa lưng ghế bành chân bắt chéo thờ

ơ nhận lê đôi giày mang-cá ẩn một nửa dưới nếp quần cẩm nhung dài. Nàng có một vẻ

89

trang điểm rất có ý vị. Hai má đào mơn mởn mà sự cảm động lúc thấy Tường càng làm

hồng thêm lên.”[PH số 87, 6]. Người phụ nữ, vợ của Lường Duỳn có vẻ đẹp làm người khác

phải say mê “Vợ Lường Duỳn có vẻ đẹp vừa sắc sảo, vừa dịu dàng, đôi mắt sáng ra vẻ rất

thông minh, trông lúc nào cũng như ẩn không biết bao nhiêu nỗi buồn sâu xa mà cái tâm

trạng đêm hôm đó đã làm tăng lên gấp bội. Giọng nói nhỏ nhẹ, trong trẻo, khi nói, hai bên

má phấn hây hây đỏ tuy cái sắc lo sợ đau đớn vẫn chưa phai, cặp môi đỏ thắm, nét môi

thanh tú, màu son tươi hơn long lanh dưới ánh đèn.” [“Lê Phong phóng viên”, NN số 10,

11]. Cũng giống như các nhân vật nam, ông dành sự chú ý đặc biệt cho những nhân vật nữ

của mình từ đôi mắt. Những đôi mắt thơ ngây, đôi mắt rất tinh anh, đôi mắt rất trong đen

và sắc sảo, đôi mắt lóng lánh, mắt hình như ngọc thuyền dưới hồ nước trong, đôi mắt đen

lay láy và sáng, hai mắt biếc, hai mắt trách móc, đôi mắt lắng chìm một màu tình tứ kín đáo

dưới hàng mi cong và dài, đôi mắt là đôi ngọc đen lung linh,… xuất hiện trong truyện của

Thế Lữ rất nhiều. Thông qua đôi mắt, Thế Lữ giúp người đọc hiểu về nhân vật đó. Lan, vợ

của Sinh, cảm mến với Tường, là bạn của chồng mình. Khi Tường đến nhà chơi, không có

chồng ở nhà Lan đã “mỉm cười một cách rất tình tứ, đôi mắt đắm đuối nhìn chàng như nhìn

người thương” [“Bóng mây qua”, PH số 87, 6]. Mai Hương là người phụ nữ đẹp, thông

minh, sắc sảo được miêu tả qua đôi mắt đen và sáng; hai con mắt sắc, đen lánh, sâu xa;

giương mắt nhìn một cách vừa tinh nghịch, hóm hỉnh, vừa ngây thơ; đôi mắt trong đen và

sắc sảo;…

Không chỉ miêu tả ngoại cảnh, ngoại hình, Thế Lữ còn miêu tả thế giới nội tâm của nhân

vật với nhiều chiều. Thế giới nội tâm là một trong những phần đặc trưng nhất của việc xây

dựng hình tượng văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Trong Tự lực văn đoàn, thế

giới nội tâm được chú trong miêu tả nhiều hơn so với văn học giai đoạn trước đó. Tuy

không phải hoàn toàn giống như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo nhưng Thế Lữ cũng là

một trong số những nhà văn phát hiện và khai thác thế giới nội tâm của nhân vật. Thế giới

nội tâm ấy có khi được bộc lộ rõ qua lời nhân vật tự bộc lộ, có khi là do nhà văn chuyển tải

bằng nhãn quan hiểu thấu của mình. Thế giới nội tâm của con người trong xã hội hiện đại

không một chiều mà đa chiều. Có khi nó là cuộc đấu tranh giữa tình cảm, cảm xúc và lý trí.

Trong Bóng mây qua, trước vẻ đẹp quyến rũ mời gọi và tình yêu mà Lan dành cho, Tường

đã dứt khoát “Chị với tôi, ta biết được lòng nhau…tôi có thể nói, ta sinh ra để hiểu được

lòng nhau…nhưng ta không thể yêu nhau ngoài nghĩa bạn bè được. Chúng ta cũng phải

nghĩ đến bổn phận. Chị đối với chồng, tôi đối với bạn” [PH số 87, 7]. Tuy nhiên, khi thấy

90

Lan vui vẻ, hạnh phúc lại với chồng (Sinh) thì Tường lại có tâm trạng “Hình ảnh của Lan

lúc đó rõ rệt in trong tâm tưởng chàng, chàng lại thoáng có tia hi vọng rằng Lan vẫn còn

yêu chàng, không cho lời khuyên của chàng là phải.” [PH số 87, 7]. Mâu thuẫn trong tâm

trạng của Tường có thể bị phê phán là không nhất quán nếu đứng về lý trí nhưng nó cũng là

lẽ thường khi nói đến tình cảm của con người. Tình cảm có lí lẽ riêng của nó. Thế Lữ đã

thấu hiểu, cảm thông và miêu tả chiều sâu tâm lý khá hay. Truyện Thoa (Một đời người) có

thể được coi là một truyện thành công khi miêu tả tâm trạng. Là một cô gái câm, mọi diễn

biến tâm trạng của Thoa đều được biểu hiện qua những cách khác nhau ngoài việc sử dụng

lời nói. Đây là điều khó khăn vì không phải ai cũng dễ dàng hiểu được điều cô muốn vì thế

những diễn biến tâm trạng trong lòng cô cũng phải được thể hiện theo một cách đặc biệt.

Ngay từ khi còn nhỏ, Thoa đã có tâm trạng tủi hổ khi không giống như những anh chị trong

nhà “Thoa đến một góc hiên, xép hàng (đồ chơi)cả ra trước mặt, cầm từng cái mà xem,

miệng mím, mắt đen láy vui thích rồi vội vàng thu cả lại, lảng đi chỗ khác khi có bóng

người” [54, 151], “Thoa giữ địa vị con cái trong nhà một cách kín đáo, một cách rụt rè,

không biết đòi hỏi đã đành, nhưng cũng không tỏ ra chiều mong ước” [54, 152] Đau đớn

khi người mẹ thân yêu, người duy nhất dành tình yêu thương cho Thoa mất đi, cô đau đớn

“Thoa khóc nghẹn đến ngất đi, tỉnh dậy rú lên những tiếng đứt ruột(…), người ta phải ghì

tay mà xốc nách một người con gái rũ rượi, hai mắt điên cuồng” [54, 155]. Thoa không thể

dùng lời để thốt lên nỗi đau tận cùng trong lòng của mình. Thế Lữ đã dùng những cách khác

để diễn tả nỗi đau của Thoa. Cái bóng âm thầm nhưng vẫn chứa đầy nhựa sống của Thoa

được Thế Lữ khắc họa “người thiếu nữ cặm cụi vẫn ngồi mãi một nơi âm u và điểm vào

những ngày lặng lờ của nàng một đôi tiếng thở dài rất nhẹ.” Khi có được chút niềm vui từ

tình yêu mà mọi người giới thiệu, tâm trạng nàng trở nên thay đổi “Nàng cười bằng cả đôi

mắt rất linh động của nàng, miệng hé ra một chút chờ đợi rồi lại ngậm lại. rồi nàng đưa

mắt ý nhị nhìn cái chỗ lúc người đàn ông đã ngồi” [54, 164]. Thế nhưng, bao nhung nhớ,

chờ đợi, hi vọng, thất vọng đã trở thành tuyệt vọng giết chết Thoa bằng cái tin người đàn

ông mà cô chờ đợi hàng giờ ấy đã đi lấy người khác. Thế Lữ đã miêu tả tâm trạng Thoa lúc

đó “Trong tấm áo bông đen dài, Thoa co ro và ngơ ngác, không thiết gì đến công việc, hàng

giờ ngồi nhìn sững khoảng không.”[54, 170]. Phải có một sự đau đớn, sụp đổ ghê gớm

trong tâm trạng con người mà không thể nói được mới có dáng vẻ như thế. Thế Lữ là một

họa sĩ, một nhà văn phân tích tâm lí khéo nên ông đã đưa yếu tố hội họa vào để khắc họa,

miêu tả tâm trạng Thoa hay đến vậy. Hoài Anh có nhận xét Thế Lữ “Là một sinh viên học

91

trường Mỹ thuật đi làm văn, ông là một họa sĩ trong văn xuôi, một nhạc sĩ trong thơ…” [1,

281]. Thoa (một đời người), với nghệ thuật miêu tả tâm trạng tuyệt vời đã đem đến thành

công trong nghệ thuật kể truyện của Thế Lữ.

Ngoài lối viết thanh thoát, linh hoạt, mang tinh thần thời đại Thế Lữ còn có ưu điểm

trong sử dụng ngôn từ là xen phối hài hòa các lớp diễn ngôn tự sự (diễn ngôn người kể

chuyện: kể, tả, bình luận; diễn ngôn nhân vật: đối thoại, độc thoại). Trong một tác phẩm, có

khi Thế Lữ sử dụng cả hai loại diễn ngôn này. Vàng và máu mở đầu bằng diễn ngôn của

người kể chuyện, “Đối với ngọn núi lớn, người Thổ không chỉ có tấm lòng kính cẩn phảng

phất đối với mọi cảnh bát ngát cao cả, họ còn sợ hãi Văn Dú như một vật có tri giác, có

quyền phép làm hại người. Ở những miền quanh đó và trong thời bấy giờ, ai nói tới Văn Dú

là một sự gở lạ. Họ chỉ gọi đến tên quả núi trong những khi tức giận nhau mà chửi rủa hay

những khi thề bồi. Một người say rượu lớn tiếng xúc phạm đến Văn Dú cũng đủ làm cho

khắp cả một châu biết đến tên mình; họ thuật lại những lời nói và cử chỉ của anh ta một

cách e dè, nhưng đó là thứ chuyện họ ưa nghe ưa kể nhất.” Nhiều khi yếu tố miêu tả và kể

chuyện không tách bạch hẳn trong tác phẩm tạo sự hấp dẫn cho truyện “Trong một năm có

nhiều khi trời đất đang yên bỗng đùng đùng một cơn sấm sét. Trên không gió vù, chớp

loáng như gươm thiêng vung tít; cây cối vật vã tan nát, người vật lo sợ mất hồn. Khắp mọi

nhà đều khua gõ inh ỏi cùng với các bà then thầy pháp kêu khấn cho đến khi nguôi cơn.

Nhưng thế mới đỡ tai hoạ.

Lại nhiều khi, sau một hồi giông tố dữ dội, mây đen biến hết, ánh nắng lại soi xuống;

bấy giờ trên đỉnh núi chập chờn một tầng khói phủ dần dần bay đi. Trong đám hơi trắng mà

người ta bảo là nộ khí của thần hang, có người nói rằng thường trông thấy những hình

bóng kỳ dị”. Thỉnh thoảng, có những câu bình luận thể hiện suy nghĩ, cách đánh giá của

người kể chuyện “Người Thổ già đứng lại, ngẫm nghĩ một lát, rồi lẩm bẩm mấy tiếng, trong

lúc ấy người con trai một tay nắm chặt lấy lao chống xuống đất, còn một tay nhất định

không chịu buông ông già. Yên lặng hồi lâu. Trời đất hình như chỉ riêng u ám ở chỗ hoang

dại ấy.” Độc thoại nội tâm của nhân vật được Thế Lữ đặc biệt chú ý trong các tình huống

nhân vật suy nghĩ, tính toán. Hãy nghe những lời độc thoại của quan Châu Kao Lâm "Hừ!

(ông lẩm bẩm nói để tiếp theo những ý tưởng vừa rồi). Bọn quan Tầu họ quỷ quyệt lắm!

Cũng là một thứ lời di lại, mà một đằng thì là những câu dặn dò để tìm ra của, còn một

đằng thì lừa cho người ta mắc phải những cái nạn gớm ghê... Nhưng ta, ta không mắc lừa

đâu. Ta không nông nổi, u mê như bọn con cháu nhà họ Hoàng, tưởng đây chỉ là những câu

92

có quyền phép mầu nhiệm. Không. Ta biết. Rồi ta sẽ tìm cho ra nghĩa kín, ta sẽ khám phá

cho kỳ được". Dạng độc thoại này có nhiều trong các truyện trinh thám cụ thể là ở nhân vật

thám tử Lê Phong “Một bài thơ…một bài thơ lục bát…thế mà Tuyết Mai kinh sợ, rồi đến tự

tử được…Tự tử…Hừ!...” [Những nét chữ], “Phong nghĩ thầm: Sào huyệt của chúng đây

rồi! Hừ mình không ngờ câu chuyện lại giản dị như thế. Cả một đảng tổ chức chu đáo, xuất

quỷ nhập thần thế mà rút cục lại để cho lê Phong lừa được(…) Ở đời cần nghĩ nhanh một

chút…nghĩ nhanh và làm nhanh” [Đòn hẹn].

Nhưng có lẽ thành công cao của lồng ghép các diễn ngôn của người kể chuyện và nhân

vật phải kể đến truyện Thoa (Một đời người). Tác phẩm có thể được coi là một thành công

khi miêu tả tâm trạng nhân vật của Thế Lữ. Kể chuyện để làm nổi bật tâm lý, tâm trạng của

cô gái câm đã khó nhưng hòa nhập giọng điệu trần thuật của mình và giọng điệu thể hiện

tâm trạng của nhân vật lại càng khó hơn. Vậy mà Thế Lữ đã làm được. Đọc đoạn văn sau ta

khó có thể khẳng định được đây chỉ có giọng điệu của Thoa hay còn có thêm giọng điệu của

Thế Lữ “Thoa cho rằng ông ta là người tử tế- nhưng cái đó có quan hệ gì đến mình? Ông ta

nhìn về phía Thoa, Thoa không cảm động đâu. Thoa thấy chính ông ta như ngượng ngập thì

có. Vả lại người ta đến đây cũng như bao nhiêu khách khứa vẫn đến…” [Thoa]. Phải thật

thấu hiểu cảm giác vui mừng nhưng còn e lệ của người con gái câm lần đầu được một người

đàn ông để ý, phải thật tài hoa và khéo léo trong việc sử dụng từ ngữ, Thế Lữ mới có thể

viết lên được những trang văn truyền cảm xúc đến người đọc như thế.

Tóm lại: Giọng điệu trong các tác phẩm của Thế Lữ có những bản sắc rất riêng, và giọng

điệu chủ yếu là khơi gợi trí tò mò khám phá, giúp người đọc hứng thú khi đọc tác phẩm của

ông. Kết cấu truyện của Thế Lữ rất hiện đại, linh hoạt. Ông sử dụng táo bạo nhiều yếu yếu

tố kinh dị, kì ảo trong các truyện giàu sắc thái kinh dị đã làm cho những tác phẩm này trở

nên hấp dẫn với bạn đọc. Điều này cũng đánh dấu sự thành công và khẳng định vị thế của

người đi đầu của Thế Lữ trong thể loại truyện huyễn tưởng hiện đại nước ta. Ông chọn lối

viết thanh thoát, linh hoạt, mang tinh thần thời đại, xen phối hài hòa các lớp diễn ngôn tự sự

làm cho ngôn ngữ trở nên giản dị, dễ hiểu, gần gũi với độc giả nhưng cũng không kém phần

sâu sắc. Tất cả những đặc điểm nổi bật ấy đã đóng góp vào việc hiện đại hóa văn xuôi nghệ

thuật nước nhà giai đoạn 1932 – 1945.

3.2. Giọng điệu, kết cấu, ngôn từ trong văn xuôi phi hư cấu

3.2.1. Giọng phê bình bút chiến, hài hước kết hợp với giọng tâm tình, khích lệ, sẻ

93

chia

Tiếng cười trong các tác phẩm từ xưa đã được nhiều người chú ý. Kundera quan niệm:

“Tiểu thuyết sinh ra không phải từ tinh thần lí thuyết mà từ tinh thần hài hước”. Một trong

những nhà lí luận sớm quan tâm đến tiếng cười trong tiểu thuyết là Bakhtin. So sánh tiểu

thuyết với sử thi, Bakhtin nhấn mạnh tinh thần của tiểu thuyết là yếu tố trào tiếu: “Chính

tiếng cười đã xóa bỏ khoảng cách sử thi và nói chung mọi khoảng cách ngôi thứ giá trị

ngăn chia”. Khảo sát tiểu thuyết như một thể loại văn học, Bakhtin đã nêu lên mối quan hệ

giữa tiếng cười và tiểu thuyết, mà theo cách nói của dịch giả Phạm Vĩnh Cư: “Tiếng cười

đúng là môi sinh của tiểu thuyết: ở nền văn học nào vắng tiếng cười thì ở đó tiểu thuyết

hoặc không thể trưởng thành, hoặc thui chột”. Chủ trương của TLVĐ là dùng cái cười để

góp phần xóa bỏ cái cũ, cái trì trệ và tạo cái mới. Bên cạnh một Tú Mỡ với những bài thơ

trào phúng hài hước, hóm hỉnh là một Lê Ta – Thế Lữ với những lời văn cũng hóm hỉnh, hài

hước không kém. Hai ông đã trở thành một đôi ăn ý trong những pha gây cười. Trong các

tác phẩm văn thơ và đặc biệt là trong các bài báo, Thế Lữ mang tiếng cười để tạo niềm vui,

thoải mái nhưng cũng để phê phán những cái xấu, những cái còn tồn tại.

Để phê phán gu thẩm mỹ của người Việt mình trong việc đi xem kịch ông viết: “Người

mình chuộng mĩ thuật lắm- Họ cần phải cho những cô, cậu lên bốn, lên năm trở xuống kia

được thưởng thức một vở kịch hay”[PH số 110, 5]. Đi xem kịch mà người ta cho toàn con

nít bốn năm tuổi đi coi, chúng quậy phá và vì thế dù vở kịch có kịch bản hay, diễn viên tốt

thì cũng không thể đạt được giá trị thực sự của vở kịch đó. Phê phán cách bài trí trên sân

khấu kịch không phù hợp, ông dùng cách này để người đọc dễ tưởng tượng“Cái tường

khoét cửa tròn kia là theo lối tàu, bức tường mầu tím nhạt phía trong kể cũng tầu, thế mà

những cái bộ “sa lông” kia lại tây đặc: nghĩa là dán anh Quan Công bên ảnh Lã Bố, ảnh

Lã-Bố bên ảnh Tào Tháo, và ngay bên ảnh đó, một bức chụp nhỏ của người đầm Music-

Hall” [PH số 110, 5]. Những hiện tượng xấu trong đời sống cũng được Thế Lữ phơi bày

bằng giọng hài hước giễu nhại. Trong bài diễn thuyết của mình, ông Nguyễn Hiếu nói, ở

nước Thổ Nhĩ Kỳ hạnh phúc vì có một anh hùng cứu quốc là Mustapha, nước ta không có

một anh hùng cứu quốc như Mustapha nhưng có hạnh phúc được một người giỏi hơn thế đó

là ông thầy – nhà nước bảo hộ và “Công chúng vỗ tay rất dữ để tỏ cho ông biết là ông vừa

kết luận một câu “chí lý” vô cùng.” [PH 115, 8]. Nhà nước bảo hộ Pháp là một ông thầy và

công chúng vỗ tay rất dữ vừa có thể hiểu là dân chúng ta nhận thức còn kém vì không nhận

ra kẻ thù, vừa có thể hiểu là dân chúng đang chửi vào mặt Nguyễn Hiếu vì hắn là kẻ mạt

94

hạng, xu nịnh, phản nước, hại dân. Dù hiểu cách nào thì giọng giễu nhại mà Thế Lữ dùng

cũng thực sự mang lại hiệu quả tạo tiếng cười và hàm ý phê phán. Thế Lữ nhận định ông Vũ

Đình Long, chủ nhà in Tân Dân và chủ những tiểu thuyết ra ngày thứ bảy đã trở thành

“người buôn óc”. Có biệt hiệu đó vì ông ta mua lại những cuốn tiểu thuyết của những người

sáng tạo ra chúng với giá rất rẻ. Và như vậy, ông được lời to. Những nhà văn, nhà thơ không

thể chịu nổi sự bất công ấy mới “đình công” không chịu viết nữa, buộc ông Long phải tăng

tiền nhuận bút. Ông Long cố sức dùng những lời lẽ ngon ngọt nhưng không làm cho những

văn sĩ như Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân,…hài lòng. Họ không chịu thỏa hiệp với

ông Long và đợi vì “đợi cho cán cân không chênh lệch quá. Nghĩa là đợi cho, tuy béo tốt,

nhưng một cái thân thể của ông Vũ không nặng hơn ngót hai chục thân thể con nhà

văn.”[NN số 159, 20]. Trong khi bàn về vấn đề văn chương, giọng điệu hài hước xuất hiện

dày đặc. Phê bình cuốn thơ “Mộng hoa và hùng tráng” của ông Viên-Han, Thế Lữ viết

“Ông sụt sịt khóc ướt cả 22 trang giấy, khóc bằng những lời bi ai, thê thảm và lải nhải dài

dòng. Nín đi cho người ta còn ngủ, thi-sĩ ơi!” [NN số 36, 11]. Tập thơ “Dưới trăng” của

Thao-Thao được Thế Lữ viết “Thao-thao thì phải bất tuyệt chứ. Nhưng không. Đây chỉ

thao-thao được có mười sáu trang giấy nhỏ thôi” [PH số 136, 9]. Thơ của ông Thái-lăng

“kỳ dị và ghê gớm…nhưng không làm ai ghê sợ. Vì đó chỉ là những tiếng …lập dị để làm

cho thơ ra vẻ khác thường” [PH số 119, 8], “Tập thơ đầu” của Nguyên Vỹ thì “Thơ chữ

Pháp thì tôi thấy Nàng thơ của ông là một chị chàng sướt mướt, ẻo lả, khóc lóc, mếu máo,

như con mẹ điên, mà lại nói ngọng nữa. Bởi thế, khi nàng ấy ca, người Nam không ai chịu

được, còn người Tây thì…tôi khuyên cả nàng lẫn ông đừng có cho họ nghe. Đến phần thơ

ta, nàng thơ ông Vỹ khi nói tiếng ta thì ngô nghê, ngớ-ngẩn mà lải-nhải nhiều lời…chẳng

khác gì một cô đầm lắp bắp nói tiếng dân bản xứ.” [PH số 127, 9]. Nàng thơ mà các thi sĩ

nói tới đủ kiểu đủ dạng. Có người thì Nàng thơ được tạo ra từ trái tim rung động thật sự của

người nghệ sĩ nhưng cũng có rất nhiều Nàng thơ chẳng qua do các thi sĩ “mượn một người

đàn bà làm biểu hiện cho cái nàng thơ của mình”[PH số 132, 10]. Thế nên mới nảy ra

những nàng thơ vô vùng hài hước kiểu như nàng thơ của ông Nhuệ Thủy “Ông Nhuệ Thủy

thì kết duyên với một chị có họ gần với nàng Đông-Thi. Nghĩa là một người xấu và hay bắt

chước vẻ đẹp của Tây Thi. Thấy Tây Thi nhăn thì nàng cũng nhăn. Nhưng Tây Thi nhăn thì

thêm duyên mà nàng nhăn thì người ta chết khiếp” hay nàng thơ của ông Lan Sơn “là một

người hay vòi. Tôi thấy lúc nào nàng ta cũng lải nhải theo thi-sĩ, tay cầm cái mùi xoa ướt

đẫm, mặt thì mếu xếch mếu xác” [PH số 132, 10]. Nàng thơ là cách nói hình ảnh diễn tả

95

nhân vật trữ tình trong bài thơ, thế nhưng qua cách viết của Thế Lữ Nàng thơ trở nên cụ thể,

lộ rõ những nhược điểm của nó và tác động mạnh đến người đọc.

Trong các cuộc bút chiến giữa các báo, Thế Lữ – Lê ta đăc biệt thành công với lối viết

hài hước sắc sảo. Ông phê phán vở kịch Gia đình giáo dục của Lê Hoàng Bút là lối viết

chuộng chữ tàu, sáo rỗng, lúc nào cũng “luân lí” máy móc. Ông dẫn lời của nhân vật Ưu-

Thời dạy con “Con nên nhớ: Quân tử mưu đạo, bất mưu lấy thực….Nữ vật tham tài, nam

vật hiếu sác…nhưng hãy coi chừng: sắc dị sát nhân, tài dị sát nhân…nhân vô viễn-bị, tất

hữu cận ưu…nghiệt thê bại tự…”[PH số 113, 9]. Thật là rối rắm, khó hiểu. Khi bị Lê ta phê

phán, ông Lê Hoàng Bút không đồng ý và nói rằng tác phẩm của ông hay, ông có tài. Lê ta

trả lời ông Lê Hoàng Bút rằng sau khi đọc lại Lê ta vẫn khẳng định “câu văn thô lỗ, ương

gàn với lối viết kịch vụng dại.” “vở kịch của ông Lê Hoàng Bút là vô giá trị” [PH số 118,

11]. Để trả lời ý của báo Tiểu thuyết nói Lê Ta dìm những bậc tài hoa của báo ấy, ông viết

“Lê ta không dìm đâu. Mà dìm thế nào được kia chứ? Vì dìm nghĩa là ấn người ta xuống

không cho người ta ngóc đầu lên được. Những bậc tài hoa của “Báo Tiểu thuyết” đã ở tận

dưới đất đen rồi, còn đâu nữa mà dìm?”[NN số 78, 10]. Báo Tân thiếu niên đăng bài của

ông Lê Diễm là người chỉ mới có một hai bài báo mà lên giọng dạy các nhà báo rồi lúng

túng trong ý nghĩ có bằng cấp và không có bằng cấp “những người có bằng cấp chưa vị tất

viết báo được nhưng chịu khó viết thì viết được, mà vị tất cũng viết được, nhưng có lẽ viết

được, vì họ chịu khó viết, và nhiều khi chịu khó viết mà vẫn không viết được.” Thế Lữ nói

rằng đây là kiểu viết văn “ếch vào xiếc” vì ếch vào xiếc cũng lúng túng như vậy. Báo Nhật

tân thì Thế Lữ đặt tên là chuyên tạp-pí-lù vì báo này chuyên viết lung tung, đủ mọi kiểu hổ

lốn, lấy ý của nhiều báo khác để chế ra bài coi như của báo mình. Sau đó những bài quá tệ

lại ghi tác giả là thành viên của báo khác với mục đích là bôi nhọ báo ấy. Thế Lữ lật tẩy cái

mưu ấy của Nhật tân và khẳng định “thần mưu của Nhật tân không ai mắc hết vì ai lại

không phân biệt tạp-pí-lù với văn chương.”[PH số 112, 8]. Khi được hỏi cách trị bệnh

“muốn viết tiểu thuyết mà nghĩ không ra” ông cho phương thuốc “kiêng những món khó

tiêu như Văn Học tạp chí, văn Phong già và non,… những món hổ lốn như tạp-pí-lù và nhất

là những món tanh tưởi như Loa” Những báo thời kỳ đó, theo quan điểm của ông là chưa

tốt thì trong các bài bút chiến với các báo ấy ông đều lấy giọng hài hước, giễu nhại nhưng

không kém phần sắc sảo.

Thường dùng những từ ngữ hàm ẩn, lối so sánh, ẩn dụ, phóng đại, giọng văn giễu nhại

của Thế Lữ đã tạo được hiệu quả.

96

Không chỉ là người chuyên dùng những lời nói thẳng nói thật khi nhận xét, Thế Lữ còn là

người đặc biệt tình cảm. Nguyên Hồng trong bài “Nhà thơ ở Ngõ Nghè” đã kể về lần gặp gỡ

với Thế Lữ. Mặc dù Nguyên Hồng lúc đó chưa có tên tuổi trên văn đàn, chỉ là một người

yêu chuộng thơ văn, nhưng Thế Lữ đã rất trân trọng, khuyến khích tài năng. Thế Lữ trong

cuộc đời thực, trong quan hệ bạn bè rất thẳng thắn, chân thật. Ông phân biệt rõ mối quan hệ

giữa bạn trong cuộc sống và “bạn văn chương”. Trong khi bình thơ văn, không phải người

bạn nào thân thì ông cho bài văn, thơ ấy là hay mà “Lê ta sung sướng bắt tay cái người vừa

là bạn thân vừa là văn nhân có giá trị kia- nếu bài văn ấy có giá trị. Nhưng nếu bài văn ấy

chỉ đáng là một mớ giấy tội nghiệp bị những chữ viết bôi bẩn lên thì Lêta vẫn yêu người bạn

như thường nhưng sẽ thù người văn sĩ kém cỏi trong người bạn ấy. Và nếu người bạn không

nghe Lêta cất kỹ mớ văn trong một xó, lại đem in lên báo thì…yêu anh tôi để trong lòng.

Việc công tôi cứ phép công tôi bình…”[Tin văn…vắn NN số 79, 10]. Không chỉ trong khi

bình thơ văn mà sau này, trong hoạt động sân khấu, diễn viên của ông trong đó có cả một số

người bạn thân như Tú Mỡ, Nguyễn Tuân,… khi diễn sai, diễn nhạt nhẽo, không thể hiện

được tinh thần của vở kịch, coi diễn kịch không phải là một công việc nghiêm túc, ông vẫn

nói thẳng, nói thật và nhiều khi cảm xúc dâng cao đến độ ông run lên, tay nắm chặt.

Là một người yêu thơ, trăn trở với những vần thơ còn khiếm khuyết, ông thường giãi bày

những tâm sự, những mong mỏi có được những vần thơ chất lượng hơn. Với những bài thơ

“không hay nhưng cũng không dở lắm” ta bắt gặp một Lê ta “thản nhiên” mà thấy đau lòng

“thản nhiên giở sách ra, thản nhiên đọc, thản nhiên gấp sách gạt sang một bên, không động

lòng nhưng không tức giận.” [“Cuộc điểm sách”, PH số 137, 7]. Với những tác giả có “tài

xào nấu lại những món ăn cũ” “lấy văn, ý tưởng, tình cảm của người khác làm của mình”

thì ông thật thẳng nói ra những suy nghĩ của mình mà biết rằng những lời thật lòng ấy chắc

sẽ làm họ không vừa lòng “Các ông không phải là người biết tìm cái đẹp mới mẻ, biết tả

đúng tâm sự mình trước cảnh vật; cái cảm hứng của các ông không thể ra ngoài khuôn sáo,

chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã mấy nghìn lần người ta nhắc đến, nghe quen tai

quá, chẳng khác gì những lời chúc tụng của bọn người hát “súc sắc súc sẻ” đầu năm”

[“Cuộc điểm sách” PH số 148, 4]. Tuy có phần hơi gay gắt nhưng ta vẫn thấy trong đó

giọng nói chân thành của một người luôn coi giá trị văn chương nghệ thuật là trên hết.

Không chỉ bộc lộ nỗi lòng, không hài lòng trước những tác giả có văn phẩm chưa tốt, ta còn

bắt gặp một Thế Lữ – Lê ta có sự bao dung, cảm thông và khuyến khích tài năng “Những

lời tôi trách cô Diệu-Thường hình như nghiêm nghị quá. Đó là vì tôi muốn cho người làm

97

thơ này hờn dỗi với tính…dễ dãi của mình. Cô có cái tài nghệ như tôi thấy trong âm điệu

của cô, sao cô không cho người ta nghe những khúc thấm thía hơn, những tiếng khêu gợi từ

trong tâm hồn sâu kín?”[“Tin thơ”, NN số 91, 9]. Để khuyến khích những người làm thơ,

ông viết “Bạn có những tiếng díu dắt của nỗi lòng, bạn trông thấy trong cảnh thiên nhiên

có nhiều hình sắc lạ, cảnh thương xót của người cùng cực, bạn muốn cho động tới lòng

người lơ đãng, hay khúc đàn vang dạo bạn muốn nhắc lại cùng với hương gió thoảng buồn:

bạn dùng thơ văn để ngỏ nỗi lòng tả cảnh bi thương hay ca lại khúc đàn réo rắt. Nhưng bạn

còn thấy lời thơ nông nổi, còn mộc mạc và bình dị quá, chưa đủ thấm thía những uẩn khúc

của tâm hồn, chưa đủ dịp dàng bằng hình sắc thiên nhiên, chưa đủ chan chứa như lòng

thương và não nùng như khúc âm nhạc. Bạn chưa nên thất vọng. Bạn nên tin rằng nếu hình

sắc và thanh âm của thơ mình chưa “đẹp” bằng cái bài thơ mà mình trông thấy, nghe thấy

trong tâm tưởng là vì mình chưa dụng công. Ta cố tìm đi, so sánh, cân nhắc, gọt rũa, nặn

nọt, bao giờ ta cũng thấy được một màu đúng, một nét đúng để “diễn đạt” thi tứ, để vẽ cho

hồn thơ thành hình.”[“Tin thơ” NN số 92, 9]. Bằng trái tim chân thành, Thế Lữ đã tạo được

tình cảm, sự yêu mến nơi người đọc, đặc biệt là những người quan tâm đến thơ ca. Giọng

điệu tâm tình là một phần không nhỏ tạo nên phong cách riêng của Thế Lữ trong bình thơ

văn.

Với khả năng dùng lối viết đa giọng điệu, Thế Lữ đã khai thác được tối đa khả năng

chuyển tải những thông điệp của người mong muốn nền văn học nước nhà phát triển.

3.2.2. Kết cấu linh hoạt của một lối viết gọn nhẹ, sắc bén

Các bài viết thuộc loại văn xuôi phi hư cấu của Thế Lữ có kết cấu linh hoạt, gọn nhẹ

nhưng sắc bén. Rất ít khi Thế Lữ dùng cách viết dài. Có chăng nó là những lời tâm sự,

những lời ca ngợi để cho người nghe hiểu sâu, thấm kỹ. Nói về cái hay của thơ Xuân Diệu,

Thế Lữ ca ngợi “Đó là một tâm sự nồng nàn mà kín đáo, một linh hồn rạng rỡ và say mê,

đằm thắm hiện ở trong những điệu thơ êm dịu và ái ân, thiết tha và bồng bột. Cảnh sắc của

sự vật, nỗi âm thầm của tình ái, dáng tươi cười của mùa xuân, nỗi tiếc thương lạnh lẽo của

mùa thu, lời van lơn, khuyên nhủ của tấm lòng yêu thấm thía nhưng rụt rè; tất cả những tình

cảm ấy đều tả trong thơ của Xuân Diệu một cách mới lạ, ý nhị, vừa đơn giản, vừa đầy đủ;

gợi cho ta thấy những hình ảnh, nhưng tư tưởng bát ngát và tươi đẹp không ngờ. Thơ của

“ông” không phải là “văn chương” nữa; đó là lời nói, là tiếng reo vui hay tiếng năn nỉ, là

sự chân thành cảm xúc hoặc những rạo rực bên trong những thanh âm.” “Sự yêu đương

trong lòng người nghệ sĩ này cũng kín đáo chân thực như nghệ thuật của ông. Ông yên lặng

98

để cho lòng yêu yên lặng hòa với cảnh vật, nhưng trong sự im lặng ấy, ta thấy cảnh vật

chung quanh ông có biết bao vẻ tình tứ và bao điều ái ân”[NN số 46, 28]. Khi nói đến bài

thơ Xuân mới của ông Huyền Kiêu “Chim, hoa, ong, bướm với những màu lam, hồng, vàng,

đỏ trong ngày xuân của ông xếp đặt cũng khéo nhưng chỉ khéo có thế thôi. Tất cả cái hay

chỉ “nở bật lên” ở hai câu đầu đoạn thứ nhì, đột ngột và chững chạc. Chững chạc vì khéo

diễn đạt, khéo xếp đặt các ý tưởng và nhất là vì có ý chí, có sự rung động của hồn thơ.

Trong rất nhiều thơ mà các bạn gửi đến, tôi thường tìm mà không thấy cái ý chí đó” Chỉ

bằng mấy câu ngắn gọn nhưng đã chuyển tải được dụng ý của Thế Lữ: vừa nhận xét thơ của

ông Huyền Kiêu nhưng cũng hướng các bạn làm thơ vào “quỹ đạo thơ”.

Phần lớn các bài viết của Thế Lữ đều ngắn gọn, được tinh giản đến mức tối đa, tránh dài

dòng nhưng không vì thế mà không thể hiện hết ý tưởng của tác giả. Trong mỗi số báo, mục

Tin thơ hầu như chỉ có dung lượng một trang nhưng có khi xuất hiện 9 tác giả với hơn

chừng ấy tập thơ của họ. Vậy phải làm thế nào chuyển tải hết những điểm cơ bản – cái hay

cái dở – của tập thơ ấy? Thế Lữ đã rất xuất sắc trong việc này. Ví dụ như PH số 112, ông

bình điểm rất nhiều tác giả mới và cũ. Với những tác giả đã gửi bài, Thế Lữ nhận xét rất cụ

thể, như tác giả Hồng Anh “bài Nàng thơ sửa lại, đã thấy có nhiều ý vị.”, ông Mạnh Quang

“còn giữ lối phô diễn hỗn độn hồ đồ, nhưng trong sự ngượng ngập của ông đã thấy ý cố

gắng: giản dị và chân thực hơn chút nữa ông sẽ khiến ta cảm động vì nhiều vẻ đẹp trong

điệu thơ mềm mại của ông.”, ông Phùng Háng “đã có ngọn bút đúng mực khiến tôi vui lòng

và nhất là đã tước bỏ được nhiều tiếng rườm thấy trong nhiều bài gửi ngày trước.” Có

nhiều tác giả mới gửi thơ lên nhưng “ý tưởng thông thường ở một hồn thơ đơn bạc, viết ra

những tình, những cảnh không có chút ý vị nào” và còn “không hiểu luật thơ” như ông

Nghiêm Lăng, ông Đức Thắng, ông Quân Thiên, cô Lan Hương, cô Bích Xuân. Với họ ông

khuyên trước hết là “nên tìm những điều cần yếu nhất và dễ dàng nhất là những âm luật về

các thể thơ” Ông Sương Chiều (Huế) gửi tới Thế Lữ năm tập thơ và Thế Lữ thấy “kinh

ngạc vì sự dồi dào của ông (nói theo nghĩa đen”) nhưng điểm được của tập thơ chỉ có vậy,

còn lại là “một sự phóng túng ngông cuồng và sự vụng về quá đáng. Gần hết tập thơ là

những bài sáu chữ, điệu ngượng và dị kỳ, lời cũng không có mấy khi xuôi, lời thơ nếu không

lạc thì gò gẫm”. Như vậy, mỗi tác giả Thế Lữ chỉ dùng mấy câu nhưng cũng thể hiện đầy

đủ những điểm đáng lưu ý nhất trong thơ của họ một cách xác đáng, sâu sắc.

3.2.3. Ngôn từ sắc sảo, linh hoạt, áp sát đời sống

Thế Lữ là nhà thơ, nhà văn có cách dùng từ rất cẩn trọng. Ngôn từ mà ông dùng bao giờ

99

cũng được lựa chọn làm sao cho rõ ràng, sáng ý và quan trọng hơn là giúp mọi người dễ

hiểu. Ông thường phê phán những lối viết, cách dùng từ quá nặng điển tích, điển cố, lúc nào

cũng “luân lí” máy móc. Ông dẫn lời của nhân vật Ưu-Thời dạy con trong vở kịch Gia đình

giáo dục của Lê Hoàng Bút “Con nên nhớ: Quân tử mưu đạo, bất mưu lấy thực….Nữ vật

tham tài, nam vật hiếu sác…nhưng hãy coi chừng: sắc dị sát nhân, tài dị sát nhân…nhân vô

viễn-bị, tất hữu cận ưu…nghiệt thê bại tự…”[PH số 113, 9]. Những giọng triết lí kiểu cách,

câu sáo, chữ sẵn, đặt theo cú pháp cũ rích, diễn đạt những lí sự rỗng không tả cảnh bằng

văn biền ngẫu, thuật truyện bằng văn biền ngẫu, mà cho chỉ người trong truyện cãi nhau

cũng lại văn biền ngẫu nốt… được Thế Lữ phê phán khá gay gắt. Ông biết sức mạnh của

báo chí có tác động đến người nghe, người xem về mặt tư tưởng và ngôn từ, ông coi thường

lối viết văn “đảo lộn tùng phèo” làm người đọc không hiểu nghĩa. Ông lấy dẫn chứng trong

báo Nhật Tân “chuyên môn của món tạp-pí-lù” có bài thơ Hoa xuân …tươi tốt của một

người giấu tên. Tác giả bài thơ đã viết những câu thơ khó hiểu như :

“Cũng đà nhiều lúc xui người dạo xem…

Bởi anh hùng còn chưa lắm điều trần sự?”

Thấy chưa đủ rối rắm, “nhà thơ” đó còn chỉnh sửa thành:

“Dạo xem cũng xui người đà nhiều lúc…

Bởi anh hùng còn trần sự lắm điều chưa!”[PH số 93,8].

Đến đây thì người đọc chẳng hiểu tác giả muốn viết gì. Mà biết đâu chính tác giả cũng

chẳng hiểu mình đang viết cái gì.

Ông đòi hỏi khi viết văn thì “câu văn cần giản dị, tránh vòng vèo, nói lôi thôi” [PH số

94, 8] Ông dẫn chứng câu“Than ôi, trăm năm thân thể nặng, ruột con tằm đâu nhả hết

đường tơ, mà trời già buộc chết xuân xanh, một khối u hoài em có thấu”. Ông kết luận “Đó

là kiểu mẫu lòng thòng của sợi tơ lòng.” Bên cạnh đó những câu văn sáo như “Nghe tiếng

đàn du dương thánh thót, Vân cảm thấy một sự buồn đến mơn trớn cõi lòng. Chàng nghĩ

đến cái nhan sắc mê hồn của Lan. Và chàng thấy hình ảnh Lan hiện lên một nụ cười say

đắm. Rồi sự liên tưởng khiến chàng nghĩ tới khóm hoa lan phất phơ trước gió bên thềm

nhà.” Thế Lữ bình “Tha hồ cho văn sĩ nói là tiếng đàn thánh thót, tiếng đàn du dương, rằng

cái buồn mơn trớn cõi lòng, rằng nhan sắc Lan mê hồn. Nhưng không ai tin vì những chữ ấy

chỉ là những tiếng không có hồn đặt bên những tiếng vô hồn khác.”[NN số 70, 9]. Thơ của

ông Thái-lăng thì“kỳ dị và ghê gớm…nhưng không làm ai ghê sợ. Vì đó chỉ là những tiếng

100

…lập dị để làm cho thơ ra vẻ khác thường” [PH số 119, 8]. Lê Ta cười vào lối sính chữ

nho, không giữ tiếng Việt “muối thì cứ nói là muối có hơn không lại đi bảo là gia-vị” làm

người nhà quê không hiểu dẫn đến hậu quả đáng tiếc [“Cuộc điểm báo”, PH số 92, 9]. Từ

ngữ mà Thế Lữ dùng luôn mới. Ông bình nhiều, viết nhiều, đề cập tới nhiều vấn đề của văn

chương và cuộc sống hàng ngày. Ca ngợi tính cách khôi hài của Nguyễn Nhược Pháp trong

tập “Ngày xưa”, Thế Lữ viết “Cái tính cách khôi hài đó ta thấy ngay từ đầu sách, thấy ở

bức tranh sơ sài, nguệch ngoạc, chẳng kiêng nể gì sự thực, nhưng có một vẻ ngớ ngẩn thần

tình.” [Điểm sách, PH số 163, 8]. Trong văn thơ trước có lẽ cụm từ ngớ ngẩn thần tình ấy

chẳng ai dùng. Nó vừa nói lên thơ Nguyễn Nhược Pháp rất đặc biệt trong việc đưa ra cảnh

một ông sơn thần có độc một mắt ở trán, đầu đội mũ, chân đi hia và …trần truồng nhưng

cũng thấy cái tài lạ lùng của người đùa nghịch với từng câu, từng chữ, vì chính cách viết của

Nguyễn Nhược Pháp là bạo dạn vô cùng, táo tợn vô cùng, đột ngột vô cùng, lại hóm hỉnh,

lại tinh ranh và lý thú nữa. Cái ngớ ngẩn và cái thần tình trong thơ Nguyễn Nhược Pháp đã

được Thế Lữ tổng kết bằng cụm từ vừa hiện đại vừa sâu sắc như thế. Ngoài ra ta còn bắt gặp

nhiều cụm từ kiểu như sống sượng tự nhiên và mộc mạc ranh mãnh, giọng bông lơn chững

chạc, những nét khảm mềm mại mà rực rỡ…. Xuân Diệu sau này nổi tiếng với những câu

thơ mang tinh thần hiện đại bởi cách kết hợp các từ ngữ rất mới “Hơn một loài hoa đã rụng

cành/ Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh/ Những luồng run rẩy rung rinh lá/ Đôi nhánh khô

gầy sương mỏng manh”. Có thể nói, Thế Lữ không chỉ là nhà thơ mới mà ông còn là “nhà

văn mới” trong việc sử dụng từ ngữ rất mới, rất hiện đại.

Là một nhà báo, phản ánh các hiện tượng cuộc sống, làm cho văn chương, báo chí gần

hơn với cuộc sống của nhân dân, Thế Lữ – Lê ta thường sử dụng hệ thống từ ngữ giản dị, dễ

hiểu, áp sát đời sống. Đọc các bài viết của ông, người đọc dễ dàng hiểu được dù người đó là

người bình dân ít học hay những trí thức. Đó chính là thành công của Thế Lữ trong việc sử

dụng ngôn từ.

Không chỉ tự mình rèn rũa từ ngữ và chỉnh sửa từ ngữ của người khác, để tạo sự trong

sáng cho tiếng Việt mà ông còn chủ chương khuyến khích ý thức xây dựng từ ngữ, tìm tòi

những từ ngữ phù hợp cho ý tưởng của mình. Đảm trách mục Câu đối, Lê ta kích thích khả

năng vận dụng từ ngữ của mọi người. Ông ra vế đối “Tết tiếc túng tiền tiêu, toan tìm tay tử

tế”. Thế là rất nhiều người tham gia với những ý tưởng đa dạng “Mới me mừng mợ mạnh,

mĩ miều mà mở mặt môn mị”…Tuy không hay lắm nhưng câu đối cũng tạo được niềm hưng

phấn của mọi người. Ông lại ra vế đối “Tết năm mèo, ông lão dê, mua hoa mõm chó gói

101

giấy mỡ gà, đem tặng cho mèo mà không biết hổ” Trong câu đối có tên các con vật và

chúng đều mang nghĩa hàm ẩn. Quả là câu đối hóc búa. Có người đã đối lại “Xuân giờ tốn,

bác nhiêu cấn đi tới phương đoài, xoay vài khay khảm, để cầm tiêu tốn, vẫn tưởng rằng

khôn” hay có người còn lấy mẩu tên của nhân viên Ngày Nay, Thạch Lam, Thế Lữ, Xuân

Diệu, Khái Hưng, Hoàng Đạo để tạo thành vế đối “Lòng cẩm thạch, thấy trần thế rộn rã vì

xuân, cũng thành cảm khái, cảnh đời ngọc thạch, rực rỡ huy hoàng.” [NN, Số 149, 15].

Phê phán lối dùng từ sáo rỗng, sính chữ nho; lựa chọn những từ ngữ giản dị, dễ hiểu, áp

sát đời sống nhưng cũng rất mới, rất hiện đại; khơi dậy, kích thích tiềm năng ngôn ngữ của

người đọc là những đóng góp không nhỏ của Thế Lữ – Lê ta trong việc hiện đại hóa ngôn

ngữ nước nhà giai đoạn này.

Tiểu kết: Trong văn xuôi hư cấu, giọng điệu nổi bật mà Thế Lữ sử dụng là khơi gợi trí tò

mò khám phá trong các truyện trinh thám, các truyện đậm yếu tố kinh dị. Điều đó đã kích

thích trí tò mò khám phá của người đọc. Bên cạnh đó giọng điệu hài hước, tâm tình cũng

mang lại hiệu quả nhất định. Kết cấu các truyện của Thế Lữ hiện đại, linh hoạt, sử dụng táo

bạo, khéo léo nhiều yếu tố kinh dị, kì ảo, ông thường sử dụng cách tạo gút tỉ mỉ và mở nút

bất ngờ trong tổ chức kết cấu truyện. Bên cạnh đó thì có những cách kết cấu khác như kết

cấu mở, kết cấu tâm lý đã cho thấy sự đa dạng trong kết cấu của ông. Ngôn từ của Thế Lữ

đập mạnh vào giác quan, tâm thức với lối viết thanh thoát, linh hoạt, mang tinh thần thời đại

và có sự xen phối hài hòa các lớp diễn ngôn tự sự tạo nên nét riêng biệt trong tác phẩm của

ông.

Trong văn xuôi phi hư cấu, giọng điệu chủ yếu là phê bình bút chiến, hài hước kết hợp

với giọng tâm tình, khích lệ, sẻ chia. Điều đó đã tạo nên hiệu ứng tốt trong việc giúp nâng

tầm văn chương và phê bình văn chương của nước ta. Kết cấu linh hoạt của một lối viết gọn

nhẹ, sắc bén. Ông viết bao giờ cũng ngắn gọn nhưng hàm súc. Ngôn từ ông dùng rất sắc

sảo, linh hoạt, áp sát đời sống. Ngoài những ưu điểm trên, đôi khi ngòi bút Thế Lữ –Lê ta

hơi gay gắt, cực đoan, dựa trên lợi ích của báo mình mà phê phán báo khác.

102

KẾT LUẬN

Từ những kết quả nghiên cứu đã trình bày ở trên, người viết rút ra những kết luận sau:

1. Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn học đã góp phần hiện đại hóa nền văn học Việt

Nam nói chung và văn xuôi nói riêng. Chỉ trong khoảng mười năm tồn tại của mình, Tự lực

văn đoàn đã “tỏa sáng như một hiện tượng lạ, đạt đến độ hoàn toàn hiện đại”[ 81, 1] Hoạt

động văn chương và làm báo của tổ chức này không tách rời nhau mà thể hiện hài hòa trên

phương tiện là báo Phong Hóa, Ngày Nay. Chính vì vậy, các thành viên chủ chốt cũng

không tách rời hai hoạt động văn học và báo chí trong công việc của mình. Các thành viên

có sự phân công công việc riêng nhưng luôn giúp đỡ, hỗ trợ nhau và thực hiện tôn chỉ của

TLVĐ ở những nét chung nhất. Chính vì thế, khi tìm hiểu bất kỳ nhà văn, nhà thơ nào trong

nhóm TLVĐ, không thể tách họ khỏi tôn chỉ, mục đích của TLVĐ, tách họ khỏi mối quan

hệ giữa các thành viên khác và đặc biệt là tách họ khỏi Phong Hóa, Ngày Nay. Nghiên cứu

văn chương Thế Lữ giai đoạn này cũng thế.

Là một thành viên quan trọng của Tự lực văn đoàn, Thế Lữ đã gắn bó chặt chẽ, tuân thủ

nghiêm chỉnh những tôn chỉ, mục đích của Tự lực văn đoàn. Ông cùng với các thành viên

khác chủ động trong việc điều khiển tờ báo. Ông thường xuyên viết bài, có sự giúp đỡ, học

hỏi ở các thành viên khác những điều tích cực để hoàn thiện mình. Tuân thủ những tôn chỉ,

mục đích của Tự lực văn đoàn nhưng bằng khát khao tìm kiếm cái mới cùng với bản lĩnh

nghệ thuật vững vàng, Thế Lữ đã tự làm sáng tên mình bằng phong cách nghệ thuật riêng.

Ông là thành viên đầu tiên và cũng thành công nhất trong việc khai phá nhiều thể loại văn

học mới như truyện trinh thám, truyện kinh dị, truyện đường rừng. Về lĩnh vực báo chí, Thế

Lữ là một trong các thành viên có số lượng bài báo vào loại nhiều nhất. Ông tham gia và giữ

vị trí chủ chốt của nhiều tin mục. Tài năng văn chương của Thế Lữ được thể hiện rõ trên

Phong Hóa, Ngày Nay. Hoạt động văn học và báo chí của Thế Lữ tồn tại song hành và đạt

nhiều thành tựu.

2. Nhìn từ nội dung thể tài và kiểu văn bản, văn xuôi Thế Lữ trên Phong Hóa, Ngày Nay

có những đặc điểm riêng. Thể tài trong văn xuôi hư cấu của Thế Lữ vừa mang những nét

chung của TLVĐ, vừa mang những nét độc đáo của bản thân ông. Tác phẩm của Thế Lữ

cũng có một số nói đến vấn đề chống lễ giáo phong kiến, một vài tác phẩm cũng đề cập đến

tình yêu, tự do trong hôn nhân nhưng chủ yếu tác phẩm của ông hướng đến hai nội dung

103

lớn. Thứ nhất là hướng người đọc đến những điều mới mẻ, lí giải đời sống một cách khách

quan khoa học tiến bộ với việc dấn thân vào những thể loại mới như truyện kinh dị, truyện

trinh thám. Thứ hai là hướng độc giả đến cuộc sống thôn quê, cuộc sống núi rừng với những

truyện thường nhật, truyện đường rừng.

Về văn xuôi phi hư cấu có hai nội dung thể tài cũng là hai kiểu văn bản chính. Một là

Bình điểm văn chương. Đây là hoạt động khá tiêu biểu của nhà báo Lê ta – Thế Lữ. Ông trở

thành người “đãi hạt sạn” góp tiếng nói của mình giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tạo

vẻ đẹp cho thơ ca. Hai là Bình điểm các vấn đề văn hóa – xã hội. Cuộc sống muôn mặt,

muôn vẻ được nhà báo Lê ta khai thác giúp cho cái nhìn về cuộc sống chân thật và nhiều

chiều hơn.

3. Nhìn từ giọng điệu, kết cấu, ngôn từ, văn xuôi của Thế Lữ cũng có những đóng góp

riêng. Ông sử dụng nhiều loại giọng điệu. Trong trần thuật Thế Lữ đã sử dụng rất thành

công giọng điệu khơi gợi trí tò mò khám phá. Các truyện trinh thám, truyện đậm màu sắc

kinh dị, kỳ ảo nhờ có giọng điệu này mà đạt hiệu ứng khoái cảm với người đọc. Bên cạnh

đó giọng chế giễu trào lộng, giọng bút chiến sắc sảo đã tạo nên tiếng cười vui vẻ, mang ý

nghĩa phê phán khá sâu sắc. Kết cấu trong các tác phẩm luôn linh hoạt, mang tinh thần thời

đại. Nó không chỉ mang kết cấu trần thuật thông thường mà còn có những kết cấu tâm lý,

kết cấu mở…Trong các bài báo, Thế Lữ sử dụng kết cấu linh hoạt của một lối viết gọn nhẹ,

sắc bén. Ngôn từ Thế Lữ dùng luôn linh hoạt, hiện đại, gần gũi với cuộc sống.

4. Hoạt động văn chương, báo chí xuất sắc đến trọn đời của Thế Lữ đã làm vẻ vang thêm

thương hiệu của Phong Hóa, Ngày Nay, của Tự lực văn đoàn. Mặt khác Thế Lữ có được tên

tuổi như ngày nay là do một phần quan trọng là ông được nuôi dưỡng, tiếp sức từ Phong

Hóa, Ngày Nay, Tự lực văn đoàn. Bằng các sáng tác đặc sắc, phong phú, văn xuôi Thế Lữ

đã thu được nhiều thành tựu to lớn cả về nội dung và nghệ thuật. Sáng tác của ông cùng với

sáng tác của các thành viên khác trong Tự lực văn đoàn góp phần hiện đại hóa cho nền văn

xuôi nước nhà.

5. Từ kết quả nghiên cứu văn xuôi Thế Lữ cho thấy việc đặt sáng tác văn học của các

thành viên trong bối cảnh hoạt động văn học – báo chí của Tự lực văn đoàn là một hướng

nghiên cứu hữu ích, khả thi và có triển vọng.

104

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoài Anh (2001), “Thế Lữ, từ máu đúc nên vàng”, sách Chân dung văn học (cùng tác

giả), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

2. Trần Hoài Anh (2013) “Tự lực văn đoàn trong cái nhìn của lý luận – phê bình văn học

ở đô thị miền Nam 1954 – 1975” sách Nhìn lại thơ mới và văn xuôi Tự lực văn

đoàn (nhiều tác giả), Nxb Thanh Niên.

3. Vũ Tuấn Anh (2001) Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

4. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2001) Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam (Từ cuối thế kỷ

XIX đến năm 1945), Nxb Văn học, Hà Nội.

Phạm Đình Ân (2006), Vị trí của Thế Lữ trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, 5.

Luận án tiến sĩ.

Phạm Đình Ân (2006), Thế Lữ - về tác gia và tác phẩm, (nhiều tác giả) Nxb Giáo dục, 6.

Đà Nẵng.

Phạm Đình Ân, (2008) “Thế Lữ và những hoạt động báo chí sôi nổi”, nguồn 7.

http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=3290#ixzz2DqOTBTX5

Phạm Đình Ân, (2009) “Thế Lữ, nhà phê bình văn học” nguồn 8.

tapchisonghuong.com.vn/tap-chi

9. Lê Bảo (1997), Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông: Thế Lữ, Hàn Mặc Tử,

Tế Hanh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Huy Cận (1989) “Thế Lữ, một người mở đường về thơ ca và nghệ thuật sân khấu”,

sách Thế Lữ - về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

11. Hoài Chân (1997), “Một ngôi sao sáng của phong trào Thơ mới”, Thế Lữ - về tác gia

và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

12. Hoàng Minh Châu (1993) “Truyện trinh thám của một nhà thơ” sách Thế Lữ - về tác

gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

13. Nam Chi (1989) Những đóng góp của Thế Lữ vào phong trào thơ mới, sách Thế Lữ -

cuộc đời trong nghệ thuật, (nhiều tác giả) Nxb Hội nhà văn.

105

14. Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu Tá, Đỗ Đức Hiểu, Phùng Văn Tửu (chủ biên) (2005), Từ

điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới.

Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1991), Truyện truyền kỳ Việt Nam, quyển ba (tập V, tập 15.

VI), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Nguyễn Huệ Chi (2001), “Tìm hiểu các dạng truyện kỳ ảo trong văn học cổ trung đại 16.

và cận đại đông tây”, sách Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, (nhiều tác

giả), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học, lý luận và ứng dụng, văn học Việt 17.

Nam thế kỷ XX.

Nguyễn Văn Dân (2002) “Về loại hình văn xuôi huyễn tưởng”, Tạp chí văn nghệ 18.

quân đội, số 4.

19. Xuân Diệu (1991) “Hồi ký tự thuật của Thế Lữ” Xuân Diệu ghi, sách Thế Lữ – cuộc

đời trong nghệ thuật, Nxb Hội nhà văn.

Nguyễn Dữ (Thế kỷ XVI), Truyền kỳ mạn lục (Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch), Nxb 20.

Văn học, Hà Nội.

Hàm Đan (2009), “Thế Lữ - nhà tiên phong”, Báo Người đô thị, số 54. 21.

Đặng Anh Đào (1994), “Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học Việt Nam 1930- 22.

1945”, Tạp chí Văn học, số 7.

Hà Minh Đức (1997), Khảo luận văn chương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 23.

Hà Minh Đức (2001), Văn chương, tài năng và phong cách, Nxb Khoa học xã hội, Hà 24.

Nội.

Hà Minh Đức (2002), Một thời đại trong thi ca, Nxb Đại học Quốc gia, 25.

Hà Nội.

Đinh Văn Đức và bốn tác gia khác (2004), “Sự biến đổi và phát triển của ngôn ngữ 26.

văn học Việt Nam thế kỷ XX”, sách Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Phan Cự Đệ chủ

biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

27. Phan Cự Đệ (2000), Văn học lãng mạn Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

106

28. Phan Cự Đệ (2000), “Cơ sở tư tưởng và phương pháp luận để đánh giá phong trào thơ

mới và văn học lãng mạn 1932-1945”, sách Tuyển tập Phan Cự Đệ, Nxb Văn học,

Hà Nội.

29. Phan Cự Đệ (2003), “Tiểu thuyết phiêu lưu và tiểu thuyết tâm lý” Tạp chí nhà văn, số

7.

30. Phạm Văn Đôn (1989) “Thế Lữ và ban kịch Thế Lữ”, sách Thế Lữ - về tác gia và tác

phẩm, (nhiều tác giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

31. Tự lực văn đoàn (2013) Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.

32. Vu Gia (2009) Thế Lữ - một khách tình si, Nxb Thanh niên.

33. Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu (1972),

Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, tập 2.

34. Tế Hanh (1983) “Tiếc thương nhà thơ Thế Lữ”, sách Thế Lữ - về tác gia và tác phẩm,

(nhiều tác giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

35. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu xuất bản

(bản in lần thứ 10), Sài Gòn.

36. Hoàng Xuân Hãn (1989) Theo bài viết “Chuyện trò với Hoàng Xuân Hãn”, Tạp chí

Sông Hương số 37.

Lê Thị Đức Hạnh (1999), “Về văn học 1932-1945, những cách nhìn gần đây”, sách 37.

Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học (nhiều tác giả), Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội, 2001.

Lê Thị Đức Hạnh (2001), “Báo chí với văn học giai đoạn 1992-1945”, Tạp chí văn 38.

học số 6.

39. Nguyên Hồng (1970), “Nhà thơ ở Ngõ Nghè”, sách Bước đường viết văn, (cùng tác

giả), Nxb Văn học, Hà Nội.

Mai Hương (2000) (tuyển chọn và biên soạn), Tự lực văn đoàn tiến trình văn học dân 40.

tộc, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

Khái Hưng (1934), “Vàng và máu của Thế Lữ”, Lời giới thiệu cuốn Vàng và máu, báo 41.

Phong Hóa số 84.

107

Nguyễn Hòa (2002), “Phải chăng tới Truyền kì mạn lục, truyện ngắn Việt Nam mới 42.

được khẳng định như một thể loại độc lập trong văn xuôi nghệ thuật”, Tạp chí văn

nghệ quân đội, số 560.

Trịnh Hồ Khoa (1996), Những đóng góp của Tự Lực văn đoàn cho việc xây dựng một 43.

nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Luận án tiến sĩ,Trường ĐH KHXH và Nhân văn.

Nguyễn Hoành Khung (1989) “Lời giới thiệu” sách Văn xuôi lãng mạn Việt nam 44.

1930-1945, tập 1 Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.

45. Lê Đình Kỵ (1983) Lời giới thiệu sách Tuyển tập Thế Lữ, sách Thế Lữ - về tác gia và

tác phẩm, (nhiều tác giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

46. Nguyễn Lai (1996), Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn học, Nxb Khoa học và xã

hội, Hà Nội.

Thanh Lãng (1995) “13 năm tranh luận văn học (1932-1945)” 3 tập, tập 1 và 3, Nxb 47.

Văn học, Tp.HCM.

48. Vũ Lăng (1990), “Nhớ anh Thế Lữ”, sách Thế Lữ - về tác gia và tác phẩm, (nhiều tác

giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

Bồ Tùng Linh (Thế kỷ XVII), Liêu trai chí dị, Nxb Văn học, Hà Nội, 1999 49.

50. Phong Lê (1988) “Văn học trên hành trình thế kỷ XX”, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

Phong Lê (2002) “Trên quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 51.

XX” sách Nhìn lại Văn học Việt Nam thế kỷ XX (nhiều tác giả), Nxb chính trị quốc

gia, Hà Nội.

52. Thế Lữ (2006) Tuyển tập truyện trinh thám Thế Lữ, Nxb Thanh Niên

53. Thế Lữ (2006) Tuyển tập truyện kinh dị Thế Lữ, Nxb Thanh Niên

54. Thế Lữ (2006) Tuyển Tập Thế Lữ – Truyện Ngắn, Tiểu Luận, Phê Bình, Tin Thơ, Tin

Văn...Vắn. Nxb Thanh Niên

55. Lê Nguyên Long (2009) “Motip cái song trùng trong truyện ngắn E.A.Poe”,

khoavanhoc.edu.vn/index.php?option=com_content

Tào Mạt (1991), “Thày Thế Lữ với tôi”, sách Thế Lữ, cuộc đời trong nghệ thuật, 56.

(nhiều tác giả), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

108

Nguyễn Đăng Mạnh (1997), “Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế 57.

kỷ XX” Tạp chí Văn học, số 5.

58. Tú Mỡ (1988), “Trong bếp núc Tự lực văn đoàn”, sách Tự lực văn đoàn tiến trình văn

học dân tộc, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

59. Nguyễn Đình Nghi (1999), “Ông bố tôi”, sách Thế Lữ, cuộc đời trong nghệ thuật,

(nhiều tác giả), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

Phan Ngọc (1993), “Ảnh hưởng văn học Pháp tới văn học Việt Nam trong giai đoạn 60.

1932-1940”, Tạp chí Văn học, số 4.

Phạm Thế Ngũ (1965), “Thế Lữ”, sách Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, ba tập, 61.

tập 3, thiên thứ ba, chương II và chương IV, Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn.

62. Phạm Thế Ngũ (2000), “Tự lực văn đoàn”, sách Tự lực văn đoàn tiến trình văn học

dân tộc, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

63. Thế Ngữ (1989), “Thế Lữ: gương mặt lớn của nền văn học nghệ thuật Việt Nam”, Báo

Phụ Nữ thành phố (Hồ Chí Minh), số 22.

Phạm Xuân Nguyên (2009) “Thế Lữ với văn học hiện đại: Bước chân vào, xong việc 64.

rồi đi”, Kiến thức.net.vn

65. Phạm Xuân Nguyên (2009) “Người đời, ai hiểu cho Thế Lữ?” Kiến thức.net.vn

66. Phạm Thảo Nguyên (2013), “Bài viết nói về Thế Lữ,” Hội thảo - Nam California -

Việt Nam Library Networks.

67. Hoàng Nhân (1998), Phác thảo quan hệ văn học Pháp với văn học Việt Nam hiện đại,

Nxb Mũi Cà Mau.

Vương Trí Nhàn (2001), “Tìm nghĩa khái niệm hiện đại trong văn học sử Việt Nam, 68.

Tạp chí Văn học, số 1.

Trần Thị Mai Nhi (1996), Văn học hiện đại, văn học Việt Nam giao lưu gặp gỡ, Tạp 69.

chí văn học số 1.

70. Cao Nhị (1971), “Gặp Thế Lữ”, sách Thế Lữ – về tác gia và tác phẩm, (nhiều tác giả)

Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

71. Poe.E.A (Thế kỷ XIX), Truyện kinh dị, Nxb Lao động, 1989.

109

72. Vũ Ngọc Phan (1942), “Một tiểu thuyết gia có biệt tài” sách Thế Lữ – về tác gia và tác

phẩm, (nhiều tác giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

73. Vũ Ngọc Phan (1942) “Người gây niềm tin cậy ở tương lai thơ mới”, sách Thế Lữ - về

tác gia và tác phẩm, (nhiều tác giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

74. Vũ Đức Phúc (1981) “Truyện trinh thám”, Tạp chí Văn học, số 6 – 1981.

75. Huỳnh Như Phương (2013), “Sự hấp dẫn của văn xuôi phi hư cấu”, Google

Trần Hữu Tá (1984) “Thế Lữ”, sách Từ điển văn học (nhiều tác giả), 2 tập, tập 2, Nxb 76.

Khoa học xã hội, Hà Nội. In lại trong Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, Hà

Nội, 2004.

77. Trần Hữu Tá (1997) “Nhớ Thế Lữ”, sách Thế Lữ – về tác gia và tác phẩm, (nhiều tác

giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

78. Trần Hữu Tá, Nguyễn Thành Thi, Đoàn Lê Giang (2013) “Nhìn lại thơ mới và văn

xuôi Tự lực văn đoàn”, (nhiều tác giả) Nxb Thanh Niên.

79. Văn Tâm (1997), Giảng văn văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Nguyễn Trác, Đái Xuân Ninh (1989) Về Tự Lực văn đoàn, Nxb Thành Phố HCM. 80.

81. Lê Minh Truyên (2004), Thạch Lam với Tự lực văn đoàn, Luận án tiến sĩ.

Lê Dục Tú (1994) “Quan niệm con người cá nhân trong tiểu thuyết Tự Lực văn 82.

đoàn”, Tạp chí văn học số 4.

Lê Thị Dục Tú (2003) Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn , 83.

Nxb Thanh niên, Hà Nội.

Bùi Đức Tịnh (1992), Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới 1865 – 84.

1932, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

85. Hoài Thanh (1941) “Độ ấy, Thế Lữ như một vầng sao đột ngột xuất hiện”, sách Thế

Lữ - về tác gia và tác phẩm, (nhiều tác giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

Vũ Thanh (2001), “Dư ba của truyện truyền kỳ, chí dị trong văn học Việt nam hiện 86.

đại”, sách Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học (Hà Minh Đức chủ biên), Nxb

Khoa học xã hội.

Nguyễn Thị Minh Thái (1999), Đối thoại với văn chương, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 87.

110

Bùi Việt Thắng (2004), “Truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX”, sách Văn học Việt Nam 88.

thế kỷ XX (Phan Cự Đệ chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

89. Phan Trọng Thưởng (1997), “Thế Lữ – nghệ sĩ hai lần tiên phong” Thế Lữ – về tác gia

và tác phẩm, (nhiều tác giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

90. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương tiến trình tác giả – tác phẩm, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

Phan Trọng Thưởng (2004), “Sự hình thành thể kịch Việt Nam thế kỷ XX” sách Văn 91.

chương tiến trình tác giả – tác phẩm (cùng tác giả), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (1998) Văn chương Tự Lực văn đoàn Nxb Giáo dục, 92.

tập 1, 3.

Nguyễn Đình Thi (1997), “Mừng anh Thế Lữ 80 tuổi”, báo Văn nghệ, số gộp 24,25, 93.

ngày 19 tháng 6.

Nguyễn Đình Thi (1997), “Nhớ anh Thế Lữ”, báo Quân đội Nhân dân, ngày 14 tháng 94.

6.

95. Nguyễn Thành Thi (2012), Bài Báo cáo tổng kết, Hội thảo Phong trào thơ mới và văn

xuôi TLVD-80 năm nhìn lại, Trường ĐHSP Tp.HCM.

Nguyễn Thành Thi (2013), “Văn xuôi Tự lực văn đoàn 80 năm “nhìn lại”” sách Nhìn 96.

lại thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn (nhiều tác giả), Nxb Thanh Niên.

Đỗ Lai Thúy (1992), “Thế Lữ, người bộ hành phiêu lãng”, sách Thế Lữ – về tác gia và 97.

tác phẩm, (nhiều tác giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

98. Nguyễn Thanh Trường (2006), “Một vài đặc điểm của truyện viết về miền núi giai

đoạn 1930 – 1945”, Tạp chí khoa học trường ĐHSP Hà Nội, số 5.

Hoài Việt (1991), Thế Lữ – cuộc đời trong nghệ thuật, (nhiều tác giả) Nxb Hội nhà 99.

văn.

100. Trần Vượng (1962), “Một giờ với Thế Lữ”, báo Văn học, số 191, ngày 23 tháng 3.

101. Hoàng Kim Oanh (2009) “Thế Lữ và năm hình mẫu truyện trinh thám Edgar Poe”,

Tạp chí Khoa học xã hội, số 9.

102. Hoàng Kim Oanh (2009),Quá trình tiếp nhận EDGAR ALLAN POE – Nhìn từ bức

tranh dịch thuật, phebinhvanhoc.com.vn

111

103. Lê Huy Oanh (1974), “Nghệ thuật kể chuyện của Thế Lữ trong Vàng và máu”, sách

Thế Lữ - về tác gia và tác phẩm, (nhiều tác giả) Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.

112

PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC TÁC PHẨM VĂN XUÔI VÀ BÀI VIẾT

CỦA THẾ LỮ TRÊN PHONG HÓA, NGÀY NAY (Từ số đầu đến số cuối)

1. Báo Phong Hóa

Số Số báo Nội dung Bút G

TT danh hi chú

Truyện Thây ma xuống thang Nguyễn 1 Số 27

gác/7 Thế Lữ (23/12/

1932)

Truyện Con châu chấu ma/14 Nguyễn 2 Số 30

Thế Lữ (13/01/

1933)

Truyện Cây nứa (Một truyện Thế Lữ Số 34 3

ngắn để rùng mình)/11 (17/02/

1933)

Truyện ngắn Cô bụt/6 Thế Lữ 4 Số 44

(28/04/

1933)

Truyện Giòng máu đứt quãng/6 Thế Lữ 5 Số 53

(30/06/

1933)

Truyện vui Vì tình/7 Thế Lữ 6 Số 54

(07/07/

1933)

Truyện Cái ví da đen/7 Thế Lữ 7 Số 60

(18/08/

114

1933)

Truyện Hai lần chết/6 Thế Lữ 8 Số 63

(08/09/

1933)

Truyện ngắn Cái sác đuổi Thế Lữ 9 Số 66

người/6 (29/09/

1933)

Truyện Bên đường Thiên Thế Lữ 10 Số 70

Lôi/6,7 (27/10/

1933)

Truyện Bên đường Thiên Lôi Thế Lữ 11 Số 71

/6,7 (03/11/

1933)

Truyện Bên đường Thiên Lôi Thế Lữ 12 Số 72

/6,7 (10/11/

1933)

Truyện Bên đường Thiên Lôi Thế Lữ 13 Số 73

/6,7 (17/11/

1933)

Truyện Bên đường Thiên Lôi Thế Lữ 14 Số 74

/6,7 (24/11/

1933)

Truyện Bên đường Thiên Lôi Thế Lữ 15 Số 75

/6,7 (01/12/

1933)

115

Truyện ngắn Ông phán Thế Lữ 16 Số 82

nghiện/8 (19/01/

1934)

Truyện ngắn Bóng mây qua/6 Thế Lữ 17 Số 87

(02/03/

1934)

Thế Lữ - Truyện Lưỡi tầm sét/6,7 18 Số 91

Lê Ta - Cuộc điểm sách. Tác phẩm (30/03/

Trên núi voi của Lưu Trọng Lư/8 1934)

Thế Lữ -Truyện Lưỡi tầm sét/6,7 19 Số 92

Lê Ta - Cuộc điểm báo: “Lũ mọi nhà (06/04/

quê ăn muối và ông Trạch Thiện ở 1934)

báo Tiếng Dân.”

-Truyện Một người lạ/6,7 Thế Lữ 20 Số 93

-Điểm báo Lộn văn tùng phèo/8 Lê Ta (13/04/

1934)

Cuộc điểm báo: Câu văn “hú Lê Ta 21 Số 94

tim òa”/8 (20/04/

1934)

-Bài viết của Tân Văn về truyện 22 Số 95

Vàng và máu của Thế Lữ (27/04/

-Cuộc điểm báo: Quy khứ lai 1934) Lê Ta

từ/8,9

-Bài viết: “Lê Ta xuống Hải Lê Ta 23 Số 96

Phòng” (04/05/

116

1934)

-Cuộc điểm sách: Luận quốc Lê Ta 24 Số 97

văn/8 (11/05/

1934)

Lê Ta -Bài viết : “Lê Ta đi xem chiếu 25 Số 98

bóng”/4 (18/05/

-Bình luận về bài dịch thuật Lục 1934) Lê Ta

giã tiên tung của ông Nguyễn-khắc-

Hanh/11

-Bài viết “Xem hội Gióng”/2 Lê Ta 26 Số99

(25/05/

1934)

-Bài viết “Hội Tri-trí Nam-Dinh Lê Ta 27 Số 100

(01/06/1934) Hai tiểu thuyết gia và bức hoành”/8

-Bài viết “Những chuyện thóc Lê Ta 28 Số 102

(15/06/1934) mách về thi cử” /3

-Truyện ngắn Ngây thơ/6 Thế Lữ 29 Số 103

(22/06/1934)

Lê-ta -Bài viết “Hit-le tướng công và 30 Số 104

(15/06/1934) I-ta-li phó hội”/4,5

- Truyện ngắn Ngây thơ/6,7 Thế Lữ

-Lê Ta làm báo/8,9 Lê Ta

Lê ta -Mục Từ cao đến thấp, người 31 Số 105

(06/07/1934) và việc/5 Lê ta

-Lê Ta làm báo/8,9

117

-Lê Ta làm báo/8,9 Lê ta 32 Số 106

(13/07/1934)

-Lê Ta làm báo/8,9 Lê ta 33 Số 107

(20/07/1934)

-Lê Ta làm báo/8,9 Lê ta 34 Số 108

(27/07/1934)

-Lê ta ra Đồ Sơn/3 Lê ta 35 Số 109

(03/08/1934) -Lê Ta làm báo/10 Lê ta

Lê-Ta -Bài phê bình buổi diễn kịch tài 36 Số 110

(10/08/1934) tử/5 Lê-Ta

-Lê Ta làm báo/8,9

-Mục cười “Hỏi bệnh”/4 Lê ta 37 Số 111

(17/08/1934) -Lê Ta làm báo/16 Lê ta

Lê ta -Lê Ta làm báo/7,8 38 Số 112

(24/08/1934) Lê-Ta -Cuộc điểm báo “Ếch vào

xiếc”/8 Lê-Ta

-Mục cười “Hỏi bệnh”/9

Lê ta -Lê Ta làm báo/8,9 39 Số 113

(31/08/1934) Lê-Ta -Cuộc điểm sách “Gia đình

giáo dục”/9

- Lê ta phóng sự. Kịch đùa do Khái

Khái Hưng dàn dựng thành kịch Hưng

bản/11

-Cuộc điểm sách “Gia đình Lê-Ta 40 Số 114

118

(07/09/1934) giáo dục”/9

Lê-Ta -Bài viết “Ba người nói rằng” 42 Số 115

(14/09/1934) /8 Lê-Ta

-Hỏi bệnh/4 Lê-Ta

-Cuộc điểm sách /11

-Mục cười “Hỏi bệnh”/14 Lê-Ta 43 Số 116

(21/09/1934)

-Mục cười “Hỏi bệnh”/9 Lê-Ta 44 Số 117

(28/09/1934)

Lê-Ta -Cuộc điểm sách Trả lời ông 45 Số 118

(05/10/1934) Lê-hoàng-Bút tác giả sách “Gia đình

giáo dục”/11

Lê-Ta -Cuộc điểm sách “Anh với 46 Số 119

(12/10/1934) em”/9

Cuộc điểm báo /9 Lê Ta 47 Số 122

(02/11/1934)

-Cuộc điểm sách “Tập thơ Lê Ta 48 Số 127

(07/12/1934) đầu”/9

Lê-Ta -Cuộc điểm sách “Mơ màng” 49 Số 128

(14/12/1934) và “Tình em”/4

-Truyện ngắn Cái đầu Thế Lữ

lâu/6,7,13

Lê Ta -“Hỏi bệnh”/8 50 Số 129

(21/12/1934) - Truyện Câu chuyện trên tàu Lê Ta

119

thủy/ 13, 14

-“Hỏi bệnh”/11 Lê Ta 51 Số 130

(28/12/1934)

Tin thể thao/13 Lê Ta 52 Số 131

(04/01/1935)

Lê Ta -“Hỏi bệnh”/10 53 Số 132

(11/01/1935) Lê Ta - Cuộc điểm…mấy Nàng thơ/

13,15

-“Hỏi bệnh”/11 Lê Ta 54 Số 133

(18/01/1935)

-Cảm đề truyện “Đoạn tuyệt”/7 Thế Lữ 55 Số 134

(30/01/1935)

-Cuộc điểm sách “Dưới Lê Ta 56 Số 136

(15/02/1935) trăng”/9

Lê Ta -Cuộc điểm sách “Tiếng thông 57 Số 137

reo của …B.Blan”/7 (22/02/1935)

-Bài viết: Đi xem kịch “Vợ hay Lê Ta

em”/9

-Bài viết “Thú văn thơ”/9 Lê Ta 58 Số 139

(08/03/1935)

Truyện ngắn “Một người hiếm Thế Lữ 59 Số 140

(15/03/1935) có”/13,14

Truyện ngắn “Một người hiếm Thế Lữ 60 Số 141

(22/03/1935) có”/13,14

120

-Bài viết “Đi xem hát”/8 Lê Ta 61 Số 146

(26/04/1935)

-Cuộc điểm sách “Những bông Lê Ta 62 Số 148

(10/05/1935) hoa trái mùa”/4

Lê Ta -Bài viết “Ông Marquet diễn 63 Số 150

(24/05/1935) thuyết”/4 Lê Ta

-Bài viết “Huy Thông, cô Tần

Ngọc và suối trò”/5 Thế Lữ

-Lời giới thiệu ý tưởng “Những và Tú Mỡ

bài hát cho trẻ con”/9

-Bài viết “Những mẩu tư-tưởng Lê-Ta Số 152

(31/05/1935) về xe hơi trên đường sắt”/11 64

-Bài viết “Phang Gine Sao hay Lê-Ta Số 153 65

(06/09/1935) Yang pe Tchou”/7

Bài “Phóng bút của Lê Lê-Ta 66 Số 154

(20/09/1935) ta”/9,14,15,16

Truyện trinh thám “Những nét Thế Lữ 67 Số 157

(11/10/1935) chữ”/4

Truyện trinh thám “Những nét Thế Lữ 68 Số 158

(18/10/1935) chữ”/10,11

Truyện trinh thám “Những nét Thế Lữ 69 Số 159

(25/10/1935) chữ”/10,11

Lê Ta -Bài viết “Cái giây thừng”/8 70 Số 160

(01/11/1935) -Truyện trinh thám “Những nét

chữ”/14,15,16 Thế Lữ

121

Lê Ta -Bài viết “Ông V.Đ.Liên diễn 71 Số 161

(26/04/1935) thuyết về thơ mới”/4

-Truyện trinh thám “Những nét Thế Lữ

chữ”/10,11,14

-Truyện trinh thám “Những nét Thế Lữ 72 Số 162

(15/11/1935) chữ”/10,11,14,15

Lê Ta -Bài viết “Hội chợ Nam Định 73 Số 163

(22/11/1935) dưới mắt Lê Ta”/5

-Điểm sách “Ngày xưa”/7 Lê Ta

-Điểm sách “Ngày xưa”/7 Lê Ta 74 Số 164

(29/11/1935)

Phụ trương Phong Hóa, truyện Thế Lữ 75 Số 165

(06/12/1935) “Bóng ma trong gương”/9,10,11

-Truyện “Mau trí khôn”/11 Lê Ta 76 Số 166

(13/12/1935)

Lê Ta -Bài viết Cảm nghĩ về cuốn 77 Số 167

(20/12/1935) “Nửa chừng xuân”/3

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ

Phong”/11

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 78 Số 168

(27/12/1935) Phong”/10,11,15

Lê Ta - Có bài viết báo của Lê Ta/3 T 79 Số 169

(03/01/1936) rang 3 Thế Lữ -Truyện “Mai Hương và Lê

hình Phong”/10,11,14

như

không

122

phải

của số

báo

này

Lê Ta -Bài viết “Họa sĩ làm văn”/8 80 Số 170

Thế Lữ (10/01/1936) -Truyện “Mai Hương và Lê

Phong”/11,12

Thế Lữ -Truyện “Mai Hương và Lê 81 Số 171

(21/01/1936) Phong”/2

-Bài viết “Xông mộ các Lê Ta

báo”/23,24

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 82 Số 172

(31/01/1936) Phong”/15,18

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 83 Số 174

(14/02/1936) Phong”/10,12,14

Lê Ta Bài viết “Ông Túy và “các báo 84 Số 175

(21/02/1936) giới””/8

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ

Phong”/10,11,15

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 85 Số 176

(28/02/1936) Phong”/10,12

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 86 Số 177

(06/03/1936) Phong”/10,12

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 87 Số 178

(13/03/1936) Phong”/10,12,14

-Bài viết “Đi vô Huế”/2,5,9 Lê Ta 88 Số 179

123

(10/01/1936) -Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ

Phong”/10

Lê Ta -Bài viết “Tuổi trẻ mua vui”/5 89 Số 180

(27/03/1936) Thế Lữ -Truyện “Mai Hương và Lê

Phong”/13,14

Lê Ta -Bài viết “Tuần lễ từ thiện”/8 90 Số 181

(03/04/1936) Thế Lữ -Truyện “Mai Hương và Lê

Phong”/10,13,14

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 91 Số 182

(10/04/1936) Phong”/10,12

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 92 Số 183

(17/04/1936) Phong”/10,13,14

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 93 Số 184

(24/04/1936) Phong”/12

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 94 Số 185

(01/05/1936) Phong”/11,12

-Truyện “Mai Hương và Lê Thế Lữ 95 Số 186

(08/05/1936) Phong”/11,12,13,14

-Bài viết “Tuần lễ tử tế”/2 Lê Ta 96 Số 187

(15/05/1936) - Bài viết “Ở hội Trí Tri”/8 Lê Ta

-Cuộc điểm sách “Thuyền mơ- Lê Ta 97 Số 188

(22/05/1936) Thơ tám chữ”/7

-Văn vui của Lê Ta “Những Lê Ta 98 Số 189

(29/05/1936) tiếng ái ân”/4

-Cuộc điểm sách “Khói lam Lê Ta 99 Số 190

124

(05/06/1936) chiều”/7

2. Báo Ngày Nay

Số báo Nội dung Bút G S

ố TT danh hi chú

Mục Xem văn “Một vở kịch, Thế Lữ 1 Số 2

(10/02/1935) một chú ý”/8

Mục Xem văn “Một đêm trước” Thế Lữ 2 Số 4

(01/03/1935) /7,9

Phóng sự “Ngày hội” Tường 3 Số 5

(10/03/1935) Bách và Thế

Lữ

Mục Ngày Nay điều tra “Ăn Thế Lữ 4 Số 6

(20/03/1935) cướp”/2,3

Phóng -Mục Ngày Nay điều tra “Ăn 5 Số 7

viên Ngày (30/03/1935) cướp”/2,3

Nay

Thế Lữ -Truyện “Lê Phong phóng viên

trinh thám”/9,10

-Mục Ngày Nay điều tra “Ăn Phóng 6 Số 8

cướp”/7,13 viên Ngày

Nay -Truyện “Lê Phong phóng viên

trinh thám”/11,12 Thế Lữ

Tuần báo ra ngày thứ ba. Từ

số 8 đến số 15 không ghi ngày tháng

ra báo, tìm trên mặt báo cũng không

thấy.

125

-Mục Ngày Nay điều tra “Ăn Phóng 7 Số 9

cướp”/7,13 viên Ngày

Nay -Truyện “Lê Phong phóng viên

trinh thám”/11,12 Thế Lữ

-Mục Ngày Nay điều tra “Ăn Phóng 8 Số 10

cướp”/7,13 viên Ngày

Nay -Truyện “Lê Phong phóng viên

trinh thám”/11,12 Thế Lữ

Trọng -Mục Ngày Nay điều tra “Ăn 9 Số 11

Lang và Thế cướp”/3,14

Lữ

Thế Lữ -Truyện “Lê Phong phóng viên

trinh thám”/12

Trọng -Mục Ngày Nay điều tra “Ăn 10 Số 12

Lang và Thế cướp”/3,14

Lữ

Thế Lữ -Truyện “Hoa bên suối”/4

và Ngọc

Điềm

Thế Lữ

-Truyện “Lê Phong phóng viên

trinh thám”/12,13

Thế Lữ -Truyện “Hoa bên suối”/4,5,10 11 Số 13

và Ngọc

Điềm

Trọng -Mục Ngày Nay điều tra “Ăn Lang và Thế cướp”/7,8 (Hết) Lữ

126

Thế Lữ

-Truyện “Lê Phong phóng viên

trinh thám”/12,13(Hết)

Truyện Một người kỳ nữ/8,9 Thế Lữ 12 Số 19

(02/08/1936) Tuần báo ra ngày chủ nhật

Truyện Một người kỳ nữ/9,11 Thế Lữ 13 Số 20

(09/08/1936)

Truyện Lê Phong làm thơ/7,8 Thế Lữ 14 Số 23

(30/08/1936)

Truyện Lê Phong làm thơ/11,12 Thế Lữ 15 Số 24

(06/09/1936)

Truyện Lê Phong làm Thế Lữ 16 Số 25

thơ/17,18,21 (13/09/1936)

Truyện Tôi mù rồi/19 Thế Lữ 17 Số 27

(27/09/1936)

Bài viết Một ý kiến (Về việc Lê Ta 18 Số 29

(11/10/1936) Nam Bắc một nhà)/6

Mục Cười nửa miệng “Xin lỗi Lê Ta 19 Số 30

(18/10/1936) ông”/11

Lê Ta -Mục Cười nửa miệng 20 Số 32

(01/11/1936) “Tem”/10 Lê Ta

-Bài viết “Lại hại cái tiếng

Tây”/11

Truyện Bản năng người say Thế Lữ 21 Số 33

(08/11/1936) rượu/20,21

127

Bài viết “Một buổi diễn kịch” Lê Ta 22 Số 34

(15/11/1936) (vở Đường đời ở nhà hát Tây)/12

-Cuộc điểm sách tốc hành/11 Lê Ta 23 Số 36

(29/11/1936) Thế Lữ -Truyện Cô Thơ/15,16

và Ngọc

Điềm

-Cuộc điểm sách tốc hành/6 Lê Ta 24 Số 37

(06/12/1936) Thế Lữ -Truyện Cô Thơ/19,20

và Ngọc

Điềm

Bài viết Bình phẩm mỹ thuật và Lê Ta 25 Số 38

(13/12/1936) Trong phòng triển lãm/8

Bài viết “Sách ước”/8 Lê Ta 26 Số 39

(20/12/1936)

Bài viết “Tạo thơ lối mới”/7 Lê Ta 27 Số 40

(27/12/1936)

Mục Điểm báo/5 Lê Ta 28 Số 41

(03/01/1937)

Mục Ngày Nay trào phúng Lê Ta 29 Số 43

(17/01/1937) “Cao Đài”/5

Mục Điểm báo/6 Lê Ta 30 Số 44

(24/01/1937)

-Mục Ngày Nay trào phúng /5,6 Lê Ta 31 Số 45

(31/01/1937) -Bài viết “Ái tình mạ vàng”/6,7 Lê Ta

-Câu đối Lê Ta/9 Lê Ta 32 Số 46

128

(14/02/1937) -Lời giới thiệu của Thế Lữ về Thế Lữ

Xuân Diệu/28

Bài “Đối đáp giữa Huy Thông Lê Ta 33 Số 47

(21/02/1937) và Lê Ta”/7

Bài Tuồng cải lương/6 Lê Ta 34 Số 48

(28/02/1937)

Mục Điểm báo “Đĩa mứt Lê Ta 35 Số 49

(07/03/1937) gừng”/6

Lê Ta -Mục Điểm sách/6 36 Số 53

(04/04/1937) Thế Lữ - Dịch “Một buổi đọc văn” của

Alphonse Daudet/19

Lê Ta -Bài “Ngày hội sinh viên”/6,7 37 Số 54

(04/04/1937) Thế Lữ -Dịch “Mụ chữa ghế”của

Guyde Maupassant/18,19

Lê Ta -Mục Điểm báo “Hay chữ”/7 38 Số 55

(18/04/1937) Lê Ta -Truyện ngắn “Ép duyên”

/14,15,18,19

Lê Ta -Cuộc điểm sách “Tiếng gió 39 Số 56

(25/04/1937) đưa”/8 Thế Lữ

-Truyện ngắn “Cái chết ghê

gớm của Lê Phong”/20

Lê Ta Tin văn..vắn/8 40 Số 57

(02/05/1937) Sau này từ số 61 đến số 66 có

mục Điểm báo nhưng ký là T.L.

Người viết không rõ là Thạch Lam,

Thế Lữ hay ai khác nên không đưa

129

vào khảo sát.

-Truyện ngắn “Người tài xế Thế Lữ 41 Số 66

(04/07/1937) điên”/18

Lê Ta -Bài viết “Dạ hội bên hồ Trúc 42 Số 67

(11/07/1937) Bạch”/7

-Tin văn…vắn Lê Ta

-Truyện ngắn “Lệ Mai nữ Thế Lữ

sĩ”/18

-Truyện “Đồng tâm”/7 Lê Ta 43 Số 68

(18/07/1937) -Tin văn…vắn/9 Lê Ta

Lê Ta -Tin văn…vắn/9 44 Số 69

(18/07/1937) Thế Lữ -Dịch Bài học dành cho những

người muốn theo nghiệp thơ văn/10

-Truyện vui “Thuốc bả Lê Ta

chuột”/16

-Mục Điểm báo /7 Lê Ta 45 Số 70

(01/08/1937) -Tin văn…vắn/9 Lê Ta

Lê Ta -Bình thơ “Họa thơ Tchya”/6 46 Số 71

(08/08/1937) Lê Ta -Tin vặt vãnh/6

Lê Ta -Tin văn…vắn/9

Lê Ta -Mục Điểm báo /7 47 Số 72

(15/08/1937) Lê Ta -Tin văn…vắn/9

Thế Lữ -Truyện ngắn “Bình La thôn”

/13,14,17

-Tin văn…vắn/9 Lê Ta 48 Số 73

130

(22/08/1937) -Truyện ngắn “Bình La thôn”/16 Thế Lữ

-Tin văn…vắn/10 Lê Ta 49 Số 75

(05/09/1937)

-Tin văn…vắn/10 Lê Ta 50 Số 76

(12/09/1937)

-Tin văn…vắn/9 Lê Ta 52 Số 77

(19/09/1937)

-Tin văn…vắn/10 Lê Ta 53 Số 78

(26/09/1937)

-Tin văn…vắn/10 Lê Ta 54 Số 79

(03/10/1937)

Lê Ta -Mục Người và việc/5 55 Số 80

(10/10/1937) Thế Lữ -Tin thơ/7,19

Lê Ta -Tin văn…vắn/10

-Tin thơ/6 Thế Lữ 56 Số 81

(17/10/1937) -Tin văn…vắn/10 Lê Ta

-Tin thơ/8 Thế Lữ 57 Số 82

(17/10/1937) -Tin văn…vắn/9 Lê Ta

Lê Ta -Mục Vui cười/8 58 Số 83

(31/10/1937) Thế Lữ -Tin thơ/9

Lê Ta -Tin văn…vắn/10

-Bài viết “Nhân dân đại biểu Lê Ta 59 Số 84

131

Thế Lữ (07/11/1937) viện”/6

Lê Ta -Tin thơ/9

Thế Lữ -Tin văn…vắn/11

-Truyện “Từ cõi âm”/14,15,22

Lê Ta -Bài viết “Điểm các ông 60 Số 85

(14/11/1937) nghị”/4 Tú Mỡ

,Lê Ta -Hí kịch “Tuồng cải lương nghị

viên” /10,11,21 Lê Ta

-Bài viết “Ông nghị đi chợ Lê Ta

phiên” /14

-Tin vặt vãnh/19

Thế Lữ -Tin thơ/7 61 Số 86

(21/11/1937) Lê Ta -Mục Ô chữ/10

và Nhị Linh

Lê Ta -Tin văn…vắn/11

Thế Lữ -Truyện “Từ cõi âm”/16,22

Lê Ta -Mục Người và việc/5,6 62 Số 87

(28/11/1937) Lê Ta -Bài viết “Mấy hạng hùng

hồn”/8 Thế Lữ

-Tin thơ/9 Lê Ta

-Tin văn…vắn/11 Thế Lữ

-Truyện “Từ cõi âm”/14,15 Khái

Hưng,Thế -Bài viết “Truyện bốn

132

người”/16,17 Lữ,Hoàng

Đạo,Thạch

Lam.

Lê Ta -Mục Người và việc/5, 63 Số 88

(05/12/1937) Lê Ta -Tin văn…vắn/6

Thế Lữ -Tin thơ/9

Khái -Bài viết “Truyện bốn người”

Hưng,Thế /14,15,22

Lữ,Hoàng

Đạo,Thạch

Lam.

Thế Lữ -Tin thơ/8 64 Số 89

(12/12/1937) Lê Ta -Tin văn…vắn/11

Khái -Bài viết “Truyện bốn

Hưng,Thế người”/16

Lữ,Hoàng

Đạo,Thạch

Lam.

Lê Ta -Bài viết “Diễn thuyết”/8 65 Số 90

(12/12/1937) Thế Lữ -Tin thơ/9

Lê Ta -Điểm báo/10

Lê Ta -Tin văn…vắn/11

Khái -Bài viết “Truyện bốn người”

Hưng,Thế /16,17,21

Lữ,Hoàng

Đạo,Thạch

Lam.

133

-Tin thơ/9 Thế Lữ 66 Số 91

(26/12/1937)

-Tin thơ/9 Thế Lữ 67 Số 92

(02/01/1938) -Tin văn…vắn/10 Lê Ta

Lê Ta -Bài viết “Ông Nguyễn Lân, 68 Số 93

(09/01/1938) Từ-Ngọc” /7

-Tin thơ/9 Thế Lữ

-Tin văn…vắn/10,11 Lê Ta

-Tin thơ/9 Thế Lữ 69 Số 94

(16/01/1938) -Tin văn…vắn/10 Lê Ta

Lê Ta -Ô chữ/18 70 Số 96

(31/01/1938) Thế Lữ -Truyện ngắn “Giấc mơ”/30

-Bài viết “Chung quanh nồi Nhất

bánh chưng”/31,32 Linh, Hoàng

Đạo, Thế Lữ

Thế Lữ -Tin thơ/11 71 Số 97

(13/02/1938) Lê Ta -Bài viết “Câu chuyện đầu

Ngô mình Sở”/17

Thế Lữ -Tin thơ/11 72 Số 98

(20/02/1938) Lê Ta -Tin văn…vắn/14

Thế Lữ -Tin thơ/9 73 Số 99

(27/02/1938)

134

-Bài viết “Câu chuyện để tặng Lê Ta 74 Số 100

(06/03/1938) hai nhà văn”/6

-Tin thơ/9 Thế Lữ 75 Số 101

(13/03/1938) -Tin văn…vắn/19 Lê Ta

-Tin thơ/9 Thế Lữ 76 Số 103

(27/03/1938)

-Tin thơ/11,14 Thế Lữ 71 Số 112

(29/05/1938)

-Tin thơ/9,14 Thế Lữ 78 Số 113

(05/06/1938)

-Tin thơ/9,20 Thế Lữ 79 Số 114

(12/06/1938) -Tin văn…vắn/6,21 Lê Ta

Thế Lữ -Phỏng vấn ông Nguyễn Văn 80 Số 115

(19/06/1938) Huyên/6

-Bài phỏng vấn “Thanh niên Thế Lữ,

trong con mắt các nhà lão Xuân Diệu,

thành”/8,10 Trọng Lang,

Khái Hưng

Thế Lữ,

Xuân Diệu,

-Phỏng vấn ông Ber

Trand/11,28

Lê Ta -Tin văn…vắn/6 81 Số 116

(26/06/1938) Thế Lữ -Bài viết “Một hi vọng trong

làng âm nhạc”/8

135

-Tin thơ/9 Thế Lữ

-Bài viết “Sân khấu văn Thế Lữ

chương”/11

-Tin văn…vắn/11 Lê Ta 82 Số 118

(10/07/1938)

Thế Lữ -Tin thơ/8,21 84 Số 119

(17/07/1938) Thế Lữ -Viết tựa cho tập Thơ thơ của

Xuân Diệu/11

-Tin văn…vắn/6 Lê Ta 85 Số 120

(24/07/1938) -Tin thơ/9,21 Thế Lữ

-Tin thơ/9,22 Thế Lữ 86 Số 121

(31/07/1938)

-Tin văn…vắn/6 Lê Ta 87 Số 122

(07/08/1938) -Tin thơ/17,21 Thế Lữ

-Truyện Gói thuốc lá/7,8,21 Thế Lữ 88 Số 123

(14/08/1938) -Tin thơ/9 Thế Lữ

Lê Ta -Chuyện phiếm/6 89 Số 124

(21/08/1938) Lê Ta -Tin văn…vắn/9

Thế Lữ -Truyện Gói thuốc lá/7,8,21

-Tin thơ/11 Thế Lữ 90 Số 125

(28/08/1938) -Truyện Gói thuốc lá/17,18,19 Thế Lữ

Lê Ta -Tin văn…vắn/6 91 Số 126

(04/09/1938) Thế Lữ -Tin thơ/9

Thế Lữ -Truyện Gói thuốc lá/18,19,20

136

Lê Ta -Chuyện tình cờ/10 92 Số 127

(11/09/1938) Thế Lữ -Bài viết “Chúng tôi đi phỏng

và Trọng Lang vấn”/15,18

Thế Lữ

-Truyện Gói thuốc lá/19,20,21

Thế Lữ -Bài viết “Dân biểu Bắc kỳ bầu 93 Số 128

(18/09/1938) viện trưởng”/5,20

-Phỏng vấn các ông nghị “Các Thạch

ông nghị nói gì?”/8,9,16 Lam và Thế

Lữ

-Truyện Gói thuốc lá/18,19 Thế Lữ 94 Số 129

(24/09/1938)

-Truyện Gói thuốc Thế Lữ 95 Số 130

(01/10/1938) lá/18,19,20

-Truyện Gói thuốc lá/18 Thế Lữ 96 Số 131

(08/10/1938)

-Truyện Gói thuốc Thế Lữ 97 Số 132

(15/10/1938) lá/18,19,20

-Truyện Gói thuốc lá/18 Thế Lữ 98 Số 133

(22/10/1938)

-Truyện Gói thuốc Thế Lữ 99 Số 134

(29/10/1938) lá/19,20,22

-Bài viết “Buổi diễn kịch Lê Ta 100 Số 135

(05/11/1938) của bắc kỳ kịch đoàn”/17

137

Thế Lữ -Bài viết “Vài kỷ niệm 101 Số 138

(26/11/1938) riêng về Nguyễn Nhược

Pháp”/11

-Bài viết “Một tối cười”/6 Lê Ta 102 Số 141

(17/12/1938) -Truyện Đòn hẹn/7,8 Thế Lữ

Lê Ta -Bài viết “Hội đồng thành 103 Số 142

(24/12/1938) phố Hà Nội”/6

-Truyện Đòn hẹn/14,15 Thế Lữ

-Phóng sự thể thao “Bốc Lê Ta và

Ăng lê”/18,21 Đại Thanh

Lê Ta -Bài viết “Tinh thần nghệ 104 Số 143

(31/12/1938) sĩ” Thế Lữ

-Truyện Đòn hẹn/14,15

-Tin văn…vắn/10 Lê Ta 105 Số 144

(07/01/1939) -Truyện Đòn hẹn/10,11 Thế Lữ

Lê Ta -Tin… câu đối/17 106 Số 145

(14/01/1939) Lê Ta và -Bài viết “Chợ phiên Kiên

An”/18 Lê Tây

Thế Lữ

-Truyện Đòn hẹn/19,20

-Truyện Đòn hẹn/10,11 Thế Lữ 107 Số 146

(21/01/1939) -Tin văn…vắn/18 Lê Ta

-Truyện Đòn hẹn/19,20 Thế Lữ 108 Số 147

(28/01/1939)

138

-Truyện Đòn hẹn/19,20 Thế Lữ 109 Số 148

(04/02/1939)

Lê Ta -Tin câu đối/15,16 110 Số 149

(15/02/1939) Thế Lữ -Truyện “Con rắn

lười”/32,33,39

-Truyện Đòn hẹn/19,20 Thế Lữ 111 Số 150

(25/02/1939)

-Truyện Đòn hẹn/19,20 Thế Lữ 112 Số 151

(04/03/1939)

-Tin… câu đối/17 Lê Ta 113 Số 152

(11/03/1939) -Truyện Đòn hẹn/19,20 Thế Lữ

Lê Ta -Phóng sự tốc hành “Hội 114 Số 153

(18/03/1939) chợ Hà Đông”/11,16

-Tin… câu đối/17 Lê Ta

-Truyện Đòn hẹn/19,20 Thế Lữ

Lê Ta -Tin văn …vắn/17,21 115 Số 154

(25/03/1939) Lê Ta -Phóng sự đối thoại “Nữ

công Nam định”/17

-Truyện Đòn hẹn/19 Thế Lữ

-Chơi văn/18 Lê Ta 116 Số 155

139

(01/04/1939)

-Chơi văn/18 Lê Ta 117 Số 156

(08/04/1939)

Thế Lữ -Truyện “Một truyện quái 118 Số 157

(15/04/1939) hoặc”/6 Lê Ta

-Bài viết “Hội mọc”/14,18 Lê Ta

-Tường thuật “Lễ phát bằng

tri huyện”/21

Lê Ta -Tin văn …vắn/7 119 Số 158

(22/04/1939) Lê Ta -Bài viết “Mấy câu chuyện

nhỏ-Tinh thần trào phúng dưới

chính thể độc tài”/10,11

Thế Lữ -Truyện Đòn hẹn/6,19,22 120 Số 159

(29/04/1939) Lê Ta -Điểm báo/7

Lê Ta -Tin văn …vắn/7,18

Lê Ta -Chơi văn/19

Lê Ta -Truyện “Người buôn óc”/20

Ngày -Kết quả cuộc thi Đòn hẹn/22

Nay

Thạch -Dịch “Cái chết của thằng bé 121 Số 160

Lam và Thế (06/05/1939) chăn chiên”/6,19

Lữ

Lê Ta -Tin văn …vắn/7,18

Thế Lữ -Văn chương/10

Lê Ta -Ngày Nay giải trí/19

140

-Bài viết “Diễn kịch ở Hải Lê Ta

Phòng”/21

Thế Lữ -Truyện “Cắt tóc”/6,22 122 Số 161

(13/05/1939) Lê Ta -Tin văn …vắn/7

Thạch -Dịch “Cái chết của thằng bé

Lam và Thế chăn chiên”/8,9

Lữ

Lê Ta -Tin văn …vắn/7 123 Số 162

(20/05/1939) Thế Lữ -Truyện “Trăng ngàn”/9

Lê Ta -Ngày Nay giải trí/19,20

Lê Ta -Tin văn …vắn/7 124 Số 163

(06/05/1939) Thế Lữ -Truyện “Trăng ngàn”/9

Thế Lữ -Bài viết đáp lại ý kiến của

người đọc/19,20

Thế Lữ -Mục Người và việc/5 125 Số 164

(03/06/1939) Lê Ta -Tin văn …vắn/7

Thế Lữ -Truyện “Trăng ngàn”/8,9

Thế Lữ -Dịch “Cô gái giang hồ xóm 126 Số 165

(10/06/1939) Montmartre”/6,19

-Tin văn …vắn/7,18 Lê Ta

-Truyện “Trăng ngàn”/8,9 Thế Lữ

Lê Ta -Tin văn …vắn/7 127 Số 166

(17/06/1939) Thế Lữ -Truyện “Trăng

ngàn”/8,9,14

141

-Tin văn …vắn/7 Lê Ta 128 Số 168

(01/07/1939)

Thế Lữ - Truyện “Một truyện ngoại 129 Số 169

(10/07/1939) tình”/6,19

-Tin văn …vắn/7 Lê Ta

-Tin Hải Phòng “Bức thư tốc Lê Ta

hành Lê-Tây gửi cho Lê-Ta”/15

-Tin văn …vắn/7 Lê Ta 130 Số 170

(15/07/1939)

Lê Ta -Tin văn …vắn/7 131 Số 171

(22/07/1939) Thế Lữ -Dịch “Giận nhau” của

A.J.Cronnin /16,17

Lê Ta -Tin văn …vắn/7 132 Số 172

(29/07/1939) Thế Lữ -Dịch “Giận nhau” của

A.J.Cronnin /16,17,22

-Tin Hải Phòng/19 Lê Tây

Lê Ta -Tin văn …vắn/7 133 Số 173

(05/08/1939) Thế Lữ -Dịch “Người vượt ngục”

của Richard/6,21,22

Lê Ta -Tin văn …vắn/7 134 Số 174

(12/08/1939) Thế Lữ -Dịch “Người vượt ngục”

của Richard/19,21

142

-Tin văn …vắn/7 Lê Ta 135 Số 175

(19/08/1939)

-Tin văn …vắn/7 Lê Ta 136 Số 176

(26/08/1939)

-Tin văn …vắn/7 Lê Ta 137 Số 177

(02/09/1939) -Tin Hải Phòng/21 Lê Tây

Lê Ta -Tin văn …vắn/7 138 Số 178

(09/09/1939) Thế Lữ -Dịch “Người ấy hãy còn

biết cười” của Claude

Hougton”/8,9

Thế Lữ -Dịch “Người ấy hãy còn 139 Số 179

(16/09/1939) biết cười” của Claude

Hougton/8,9,17

Thế Lữ -Dịch “Tôi dạy dỗ thằng bé 140 Số 183

(14/10/1939) nhà tôi như thế nào”- truyện vui

Ý-Đại-Lợi 7,18/

-Tin văn …vắn/16 Lê Ta

-Tin văn …vắn/16 Lê Ta 141 Số 184

(21/10/1939)

Lê Ta -Bài viết phê bình “Tân nữ 142 Số 185

(28/10/1939) huấn ca”/6 Thế Lữ

-Dịch “Cái hồn trinh

bạch”/7 Lê Ta

-Tin văn …vắn/16

-Tin văn …vắn/16 Lê Ta 143 Số 186

143

(04/11/1939)

-Tin văn …vắn/16 Lê Ta 144 Số 187

(11/11/1939)

-Điểm sách “Khi chiếc yếm Lê Ta 145 Số 188

(18/11/1939) rơi xuống”/16,18

Lê Ta -Bài viết “Chợ phiên thanh 146 Số 189

(25/11/1939) niên”/6 Lê Ta

-Tin văn …vắn/16

-Tin văn …vắn/16 Lê Ta 147 Số 190

(02/12/1939)

-Điểm thơ /6 Lê Ta 148 Số 191

(09/12/1939) -Tin văn …vắn/16 Lê Ta

-Điểm thơ /6 Lê Ta 149 Số 192

(16/12/1939) -Tin văn …vắn/16 Lê Ta

-Tin văn …vắn/16 Lê Ta 150 Số 193

(23/12/1939)

-Tin văn …vắn/17 Lê Ta 151 Số 194

(30/12/1939)

-Điểm sách “Sóng thơ”/6 Lê Ta 152 Số 195

(06/01/1940) -Tin văn …vắn/17 Lê Ta

-Tin văn …vắn/17 Lê Ta 153 Số 196

(13/01/1940)

-Dịch “Một đêm ghê rợn” Thế Lữ 154 Số 197

(20/01/1940) của Conan Doyle/12,13,18

144

-Tin văn …vắn/16 Lê Ta

Thế Lữ -Bài viết“Một nghệ thuật 155 Số 198

(05/02/1940) riêng”/13 Lê Ta

- Chuyện con rồng (Khảo

cứu của Lê Ta)/21 Lê Ta

-Bài “Phút nguy biến”/28 Lê Ta

-Cuộc thi tin thơ đoán nhân và Tú Mỡ

vật/32

Thế Lữ -Dịch “Một đêm ghê rợn” 156 Số 199

(12/02/1940) của Conan Doyle/12,13,18

-Tin văn …vắn/15 Lê Ta

-Tin xuân/17 Thế Lữ

Lê Ta -Bài viết “Mưu mẹo đàn 157 Số 200

(24/02/1940) bà”/14 Lê Ta

-Tin văn …vắn/17

-Điểm sách/17 Lê Ta 158 Số 201

(02/03/1940) -Tin văn …vắn/14 Lê Ta

-Truyện Hai mẻ sợ/8,9 Thế Lữ 159 Số 202

(09/03/1940) -Tin văn …vắn/14 Lê Ta

-Chuyện xa gần/4,5 Lê Ta 160 Số 203

(16/03/1940) -Tin văn …vắn/14 Lê Ta

-Truyện Mách thuốc/11 Lê Ta 161 Số 204

(23/03/1940)

-Tin văn …vắn/14 Lê Ta 162 Số 205

(30/03/1940)

145

Lê Ta -Phóng sự “Đi thăm đời xưa 163 Số 206

và Thanh (06/04/1940) bằng xe đạp”/15

Lang

Lê Ta -Tin văn …vắn/16

Thế Lữ -Dịch “Con khỉ độc” của 164 Số 208

(18/05/1940) Rudyard Kipling/8,9,28

-Truyện “Tê-lê-phôn”/11 Lê Ta

-Tin văn …vắn/14 Lê Ta

Lê Ta -Tin văn …vắn/6,18 165 Số 209

(25/05/1940)

Lê Ta -Tin văn …vắn/6,16 166 Số 211

(08/06/1940) -Giới thiệu sắp đăng “Lê

Phong giết người” của Thế Lữ/14

-Tin văn …vắn/6 Lê Ta 167 Số 212

(15/06/1940)

Lê Ta -Mục Ngày Nay giải trí 168 Số 213

(22/06/1940) “Câu đối Ngày Nay”/6

-Dịch “Con quái vật” của Thế Lữ

Luciene Escobé/8,9,18

-“Tin câu đối” Lê Ta 169 Số 214

(29/06/1940)

Lê Ta -Mục Ngày Nay giải trí 170 Số 215

(06/07/1940) “Câu đối Ngày Nay”/16

-“Tin câu đối”/16 Lê Ta 171 Số 218

146

(27/07/1940)

Thế Lữ -Dịch kịch vui Hoa Kỳ 172 Số 220

(10/08/1940) “Câu người nghĩa

hiệp”/8,9,17,18

Thế Lữ -Dịch “Một con chim sẻ” 173 Số 222

(10/08/1940) của nhà văn Mỹ Ennest

Thompson Seton/6,16,17

147