bản tin

NHỮNG LƯU Ý KHI CHO CÁ-TÔM ĂN

Trong nuôi trồng thủy sản, thức ăn là nguồn cung cấp chất

đạm, chất mỡ, chất khoáng, năng lượng…Khi cá, tôm hấp

thu thức ăn vào trong cơ thể, sẽ được chuyển hóa thành vật

chất cần thiết, giúp duy trì sự sống, tăng trưởng, sinh sản,

đủ sức đề kháng với nhiều bệnh tật, rút ngắn thời gian nuôi,

tăng tính an toàn, bền vững, sớm đạt kích thước thương

phẩm, tăng hiệu quả kinh tế. Vai trò của thức ăn hết sức

quan trọng, nếu không đảm bảo cung cấp đủ lượng, chất,

thành phần thông qua việc cho ăn, cá, tôm nuôi sẽ gầy yếu,

còi cọc, chậm lớn, phân đàn, giảm tỉ lệ sống. Mặt khác, cho

cá, tôm ăn quá dư thừa, sẽ làm môi trường nuôi mau ô

nhiễm, tăng hệ số sử dụng thức ăn, kéo dài thời gian, tăng

chi phí và gía thành sản xuất. Như vậy, cho cá, tôm ăn như

thế nào hợp lý ? Thông thường khi cho ăn, người nuôi

dường nuôi ít quan tâm đến các yếu tố hiện hữu khác, tác

động trực tiếp đến cường độ sử dụng thức ăn của cá, tôm.

Người nuôi thường máy móc, quán tính khi rải thức ăn,

hoặc lấy thức ăn ngày hôm trước làm mốc cho ngày hôm

sau. Tuy nhiên, sai lầm ở chỗ người nuôi không nắm được

diễn biến môi trường sẽ dần xấu đi sau mỗi ngày nuôi, mỗi

tuần nuôi.

Tuổi cá khác nhau, tác động đến mức độ sử dụng thức ăn

cũng khác nhau, sức khỏe khác nhau mức độ sử dụng thức

ăn cũng khác. Khi thời tiết thay đổi, trong đó các thông số

như nhiệt độ, độ phèn, và hàm lượng các chất độc hại sẽ

biến thiên gia tăng hoặc giảm mạnh theo chiều bất lợi, đặc

biệt là khi ao nuôi có hiện tượng ô nhiễm. Trong điều kiện

bất lợi về môi trường, trạng thái sức khỏe cá suy giảm, thời

tiết xấu…nếu vẫn giữ nguyên lượng ăn như những ngày

bình thường hoặc nhiều hơn bình thường là điều hết sức sai

lầm và nguy hiểm. Lượng thức ăn đó không được cá nuôi

sử dụng hoặc sử dụng không triệt để, không những lãng phí

thức ăn, mà vô hình dung còn làm môi trường càng trở nên

ô nhiễm trầm trọng. Như vậy khi cho cá tôm ăn, cần dựa

vào tuổi cá, chất lượng thức ăn, chất lượng môi trường,

diễn biến thời tiết, tình trạng sức khỏe, giai đoạn nuôi, để

phân bổ thức ăn cho hợp lý. Thông thường, cá còn nhỏ,

cường độ và nhu cầu sử dụng thức ăn cao hơn cá truởng

thành. Cá nhỏ cần nhiều thức ăn, hấp thu thức ăn tích cực

hơn, lượng ăn tương đối ( % trọng lượng cơ thể) cá nhỏ cao

hơn cá lớn. Cường độ sử dụng và hấp thụ thức ăn tăng dần,

để nhanh chóng hình thành hoàn chỉnh, định hình các cơ

quan, đạt kích thước thương phẩm trong thời gian ngắn

nhất. Đối với cá trưởng thành, dù ăn nhiều thức ăn hơn cá

nhỏ, nhưng thức ăn chỉ có ý nghĩa chính là duy trì sự sống,

mức độ tăng trưởng lúc này rất chậm, do vậy thức ăn không

đón vai trò quan trọng, nhu cầu thức ăn lúc này không cao.

Sự hợp đàn với số lượng lớn có thể dẫn đến sự thiếu hụt

cục bộ thức ăn trong vùng, vị vậy lượng ăn của từng cá thể

thường giảm. Cá sống trong vùng có dòng chảy mạnh, nhu

cầu oxy cao hơn cá sống trong vùng nước tĩnh, bơi lội

nhiều, nên cần nhiều năng lượng, do vậy lượng thức ăn

tăng dần.

Nhu cầu sử dụng thức ăn của cá, tôm thay đổi theo ngày

đêm. Vào ban ngày, quá trình quang hợp hoạt động, làm ao

nuôi giàu oxy, đây là thời điểm cá, tôm sử dụng mồi cao.

Vào ban đêm, do quá trình hô hấp hoạt động, ao thiếu oxy,

cá, tôm thường bị ngộp, thiếu oxy, nên nhu cầu sử dụng

mồi thấp dần. Trong những tháng nuôi đầu tiên (2-3 tháng

đầu), cần cố gắng duy trì đầy đủ lượng ăn hàng ngày, đặc

biệt lưu ý đến lượng, chất, thành phần. Ngoài đạm, mỡ,

chất giàu năng lượng, nên bổ xung trong thành phần thức

ăn các loại Vitamine, premix, khoáng các loại. Có thể

những tháng nuôi đầu, chủ động dùng thức ăn công nghiệp

dạng viên là chính, nữa thời gian nuôi còn lại nên chuyển

sang thức ăn chế biến, nhằm giảm giá thành sản xuất. Khi

thời tiết, môi trường xấu, cần hạn chế sử dụng thức ăn tự

chế biến, chỉ nên sử dụng thức ăn công nghiệp, nên giảm

lượng ăn hàng ngày xuống ½ , hoặc ngưng cho cá, tôm ăn

trong thời gian này. Thông thường khi môi trường, thời tiết

xấu đi, quá trình trao đổi chất giảm dần, nhu cầu sử dụng

thức ăn cũng giảm theo. Cá, tôm chỉ tập trung điều chỉnh

các hoạt động cơ thể, dần thích nghi với điều kiện thay đổi

đột ngột của môi trường. Trong giai đoạn nuôi vỗ cá, tôm

hậu bị thành cá, tôm bố mẹ, chỉ cần duy trì lượng ăn hàng

ngày ở mức 2-3% so với trọng lượng thân. Không cho ăn

quá nhiều, dễ mập, rất khó khăn trong quá trình sinh sản,

tuy nhiên cần đảm bảo chất và thành phần, để việc tích lũy

sản phẩm sinh sản được tốt hơn. Trong giai đoạn sinh sản,

cá, tôm hầu như không ăn, do vậy cần hạn chế việc cho ăn

trong giai đaọn này. Khi cho cá, tôm ăn, nên tuân thủ theo

chế độ định thời, định vị, định lượng, định chất và thành

phần, định lần. Trong đó, thời gian cho ăn nên cố định, và

tùy theo đặc tính sinh học của từng loài thủy sản mà chọn

buổi sáng hoặc chiều làm buổi chính. Hạn chế

cho cá, tôm ăn vào buổi tối đến sáng hôm sau, vì ao thời

điểm này oxy rất thấp, cá- tôm thường bị sốc nên ít sử dụng

thức ăn. Vị trí cho ăn nên chọn những nơi sạch sẽ, nơi có

nền đáy ít hoặc không ô nhiễm, xa nguồn cống cấp và thoát

nước. Đảm bảo thức ăn đủ chất, lượng, thành phần. Trong

đó, cần đảm bảo chất lượng thức ăn, tránh cho tôm cá ăn

thức ăn ôi thiu, quá hạn, thức ăn tươi sống chưa qua nấu,

thức ăn chưa rõ nguồn gốc. Lượng ăn hàng ngày cần duy trì

ít nhất ở mức 5-7% so với trọng lượng thân cá, tôm trong

điều kiện môi trường, thời tiết bình thường, thể trạng vật

nuôi thủy sản tốt. Số lần cho cá tôm, nuôi ăn tùy thuộc vào

giai đoạn phát triển, tuổi, mục đích nuôi…Khi cho cá, tôm

ăn nên dùng máng, vó, sàng ăn cho thức ăn vào đó để dễ

dàng kiễm tra, điều chỉnh theo nhu cầu sử dụng hàng ngày,

chủ động loại bỏ thức ăn dư thừa sau mỗi cuối ngày, hạn

chế ô nhiễm môi trường. Thông qua sàng ăn, cũng dễ dàng

đánh giá tăng trưởng, tình trạng sức khỏe, độ đồng đều,

ngoại hình…từ đó có những điều chỉnh kịp thời trong khẩu

phần ăn hàng ngày.

Lý Vĩnh Phước