
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KẾT HỢP GIỮA GIA TĂNG DÂN SỐ, PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TS. Phạm Văn Nhật
Học viện Tài chính
Mối quan hệ giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế với bảo vệ môi
trường
Tác phẩm “Những hiểu biết về quy luật dân số và tác động của nó đến
nâng cao đời sống xã hội” của Thomas Malthus (1766 – 1834), đã dựa trên
những nghiên cứu về tốc độ gia tăng tự nhiên của dân số và sự phát triển của
sản xuất để đưa ra kết luận với nội dung chủ yếu là: dân số thế giới tăng theo
cấp số nhân, trong khi đó, độ màu mỡ của đất đai giảm dần, của cải vật chất
chỉ tăng theo cấp số cộng. Do vậy, bình quân đầu người về lương thực, thực
phẩm và của cải của xã hội ngày càng giảm xuống; từ đó dẫn đến không thể
tránh khỏi đói nghèo, chiến tranh, dịch bệnh, sự cạn kiệt nguồn tài nguyên
thiên nhiên và sự xuống cấp của môi trường.
Sự hạn chế trong việc lý giải nguyên nhân và hậu quả của sự gia tăng
dân số của học thuyết Malthus, do ông chưa thấy được khả năng to lớn về trí
tuệ của con người, vai trò của xã hội trong việc tác động đến gia tăng dân số
và tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sống. Tới nay, khoa học đã
khẳng định gia tăng tự nhiên dân số và tăng trưởng kinh tế là do yếu tố xã hội
chi phối, chứ không phải là quy luật tự nhiên vĩnh viễn.
Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với mức gia tăng dân số đã
được đề cập khá sâu trong lý thuyết về quá độ dân số. Lý thuyết này cho
rằng, trong quá trình phát triển ở các nước công nghiệp đã trải qua ba giai
đoạn:
Giai doạn 1: Thời kỳ trước cách mạng công nghiệp. Trong thời kỳ này tỷ
suất sinh và tỷ suất chết của dân số đều khá cao, với mức sinh cao hơn chút
ít so với mức chết ; vì vậy, gia tăng tự nhiên dân số chậm, tương đối ổn định.
Đây cũng là đặc điểm chung của dân số thế giới trước cách mạng công
nghiệp: Từ năm đầu công nguyên dân số thế giới khoảng 200 triệu người,
nhưng đến 840 năm sau mới đặt 1 tỷ người (gấp 5 lần).
Giai đoạn 2 Thời kỳ cách mạng công nghiệp. Cùng với những tiến bộ
trong sản xuất công nghiệp, đời sông vật chất, tinh thần, chăm sóc sức khoẻ
ban đầu và phát triển y tế cộng đồng đã được nâng cao. ở các nước này có
tỷ lệ chết giảm rõ rệt, tuổi thọ trung bình tăng nhanh; trong khi đó tỷ lệ sinh lại

không được giảm tương ứng. Kết quả là dân số tăng nhanh một cách nhanh
chóng, có nhiều trường hợp giai đoạn này gọi là giai đoạn “bùng nổ dân số”.
Giai đoạn 3: Sự phát triển sâu sắc về kinh tế – xã hội đã dẫn đến làm
thay đổi các chính sách nhà nước và nhận thức xã hội về dân số và gia đình
là như chuyển từ nhu cầu về số lượng sang chất lượng. Cùng với tuổi thọ
trung bình ngày càng tăng lên thì tỷ lệ sinh cũng đòng thời giảm dần. Đến
cuối giai đoạn này, tỷ lệ chết đều thấp và cân bằng mức gia tăng tự nhiên dân
số khoảng 1%, dân số ổn định Như vậy, dân số các nước phát triển đã đi từ
trạng thái cân bằng lẵng phí (sinh nhiều, chết nhiều) sang trạng thái cân bằng
tiết kiệm (sinh ít, chết ít). Giữa hai trạng thái này ở Châu Âu là một thời kỳ kéo
dài khoảng 150 năm.
Lý thuyết về quá độ dân số ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu đối với
các nước đang phát triển, mặc dù trên thực tế vẫn có những khác biệt là biến
đổi tỷ lệ sinhvà tỷ lệ chết ở các nước nghèo diễn ra nhanh hơn quá độ dân số
được rút ngắn lại. Vấn đề đặt ra là các nước nghèo trên thế giới hiện nay phải
thực sự quyết tâm chuyển đổi sang giai đoạn 3 khi phải đồng thời giải quyêt
vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều đó có ý nghĩa là, trong khi kinh tế
xã hôi vẫn chưa phát triển ở trình độ cao thì vẫn cần phải giảm tỷ lệ sinh,
đồng thời phải giảm tỷ lệ chết ở mức độ cho phép. Có như vậy mới không tạo
áp lực đối với kinh tế, tài nguyên và môi trường chung của đất nước và thế
giới.
Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển, con người phải không ngừng
đẩy mạnh các hoạt động sản xuất ra của cải vật chất để đáp ứng cho các nhu
cầu của xã hội; do vậy, dù vô tình ha cố ý co người đã không ngừng tác động
đến môi trường thông qua quá trình khai thác và sử dụng các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế và thải loại các chất thải vào môi
trường. Sự tác động của dân cư đến môi trường dã được Paul Ehrlich và
Jộhnidren đưa ra năm 1971 dưới dạng biểu thức sau:
I =P.A.T
I: Tác động môi trường của các yếu tố liên quan đến dân số.
P: Quy mô dân số
A: Mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên bình quân đầu người
T: Tác động môi trường của việc sử dụng công nghệ
Qua biểu thức trên, sự tác động của dân số đến môi trường phụ thuộc
vào tổng số dân, mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên bình quân đầu
người và trình độ công nghệ ảnh hưởng đối với môi trường , nghĩa là công
nghệ càng tiên tiến thì ảnh hưởng đến môi trường càng ít hay càng nhỏ.

Như vậy, Các tác động tiêu cực của sự gia tăng tự nhiên của dân số
được thể hiện chủ yếu qua quá trình khai thác quá mức các nguồn tài nguyên
thiên nhiên làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, sự thải loại ngày càng lớn các
loại chất thải vào môi trường, làm cho môi trường sống bị xuống cấp nhanh
chóng. Tình trạng và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã và đang diễn ra đe
doạ sự sống của dân cư và các hệ sinh thái ở nhiều nơi trên trái đất.
Chính sự chênh lệch ngày càng lớn mức sống giữa các nước công
nghiệp phát triển với các nước đang phát triển giữa đô thị và nông thôn trong
từng quốc gia đã dẫn đến tình trang di dân phổ biến sảy ra dưới nhiều hình
thức. Nguồn cung cấp nước sạch, nhà ở, cây xanh… không đáp ứng kịp thời
cho sự gia tăng dân số đô thị từ đó ngày càng làm trầm trọng hơn sự ô nhiễm
môi trường ở các thành phố lớn đặc biệt là các thành phố lớn ở các nước
đang phát triển.
Từ giữa thế kỷ XX đến nay, dân số thế giới tăng nhanh đặc biệt ở các
nước đang phát triển. Từ khoảng 2 tỷ người năm 1920 đến nay năm 2006
dân số thế giới đã lên tới 6.6 tỷ người. Do vậy để duy trì và phát triển cuộc
sống con người đã khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, làm tàn
phá và gây ô nhiễm môi trường phá vỡ cân bằng sinh thái đe doạ trực tiếp
đến chính sự sống còn của con người.
Nghèo đói trước hết được thể hiện ở sự thiếu các nhu cầu cơ bản của
con người như: ăn ở, mặc, học hành. Hay nói cách khác nghèo đói gắn liền
với mức sống thấp kém về cả vật chất lẫn tinh thần. Hiện nay, trên thế giới
vẫn còn hàng tỷ người sống trong cảnh nghèo đói, đặc biệt là tình trạng
nghèo đói diễn ra khá phổ biến ở các nước đang phát triển. Có rất nhiều
nguyên nhân khác nhau dẫn tới sự nghèo đói: chiến tranh, dịch bệnh, phân
phối thiếu công bằng… song nguyên nhân chính là do sự kém phát triển kinh
tế.
Phải đối mặt với việc đảm bảo sự sinh tồn, những người nghèo vừa là
nguyên nhân gây ra các vấn đề tài nguyên môi trường, vừa là nạn nhân của
chính sự tàn phá môi trường sống. Nghèo đói không chỉ làm hạn chế sự phát
triển thể lực, trí lực của con người; hạn chế tính sáng tạo trong hoạt động của
con người mà còn là một trong các nguyên nhân dẫn tới sự tàn phá môi
trường một cách thiếu ý thức (khai thác tài nguyên khoáng sản, rừng bừa bãi,
đốt phá rừng làm nương rãy….)
Do trình độ dân trí thấp, thiếu vốn và phương tiện sản xuất người nghèo
đã và đang khai thác bừa bãi, lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây
ra sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, từ
đó làm suy yếu khả năng nuôi duỡng của các hệ sinh thái tự nhiên, kéo

theaiswj suy giảm về nhiều mặt: năng suất, sản lượng sản xuất kinh doanh,
chất lượng môi trường.
Dân số, môi trường và phát triển ngày càng được nhìn nhận như một hệ
thống quan hệ hữu cơ chiến lược của các quốc gia cũng như toàn cầu. Mục
tiêu có được một cuộc sống tốt hơn, với mức sống trình độ dân trí cao, điều
kiện chăm sóc sức khoẻ và cơ hội được phát triển không chỉ đặt ra cho thế
hệ hiện tại mà cho các thế hệ mai sau. Mục tiêu cần thực hiện là thông qua
sự kết hợp các chính sách do nhà nước đề ra.
Hiện nay, trên thế giới đang có tình trạng gia tăng dân số theo hai xu
hướng trái ngược nhau: Dân số tăng nhanh ở các nước đang phát triển, bên
cạnh đó dân số lại tăng rất chậm, ở các nước phát triển. Trong những thập kỷ
cuối của thế kỷ XX, trong khi tỷ lệ gia tăng dân số ở các nước Châu Âu chỉ
đạt trung bình 0 - 0.2%, Bắc Mỹ 0,2 - 0.5%; ngược lại, tỷ lệ gia tăng dân số
trung bình ở các nước châu phi là 2.4%, Trung Mỹ 2.4%, Nam Mỹ 1.5%, và
phần lớn các nước Châu á đạt trên 1,8%.
Tại các nước có tỷ lệ gia tăng tự nhiên dân số cao ở Châu Phi, Châu Mỹ
La tinh và Châu á có các điều kiện sống và phát triển kinh tế xã hội ở trình độ
thấp kém về mọi mặt, nguy cơ tàn phá tài nguyên môi trường và tài nguyên
thiên nhiên rất cao; còn tại các nước dân số tăng tỷ lệ thấp ở Châu Âu, Bắc
Mỹ lại đang gặp phải đối mặt với tình trạng thiếu lao động ngày càng trầm
trọng.
Cho tới nay nhiều nước trên thế giới đã không ngừng diễn ra quá trình
dịch chuyển kinh tế, phát triển mạnh mẽ ở các khu công nghiệp, các vùng
kinh tế mới để khai thác các nguồn lợi tự nhiên. Từ đó đã kéo quá trình di dân
dưới nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống
cho người dân. Đồng thời góp phần vào công cuộc phát triển chung của đất
nước.
Vấn đề tài nguyên, dân số, kinh tế và môi trường; xét cho cùng chính là
vấn đề lợi ích lâu dài của con người; nếu tách riêng từng lĩnh vực để giải
quyết thì thường không mang lại kết quả như mong muốn bởi chúng có mối
quan hệ gắn bó mật thiết và tác động tương hỗ lẫn nhau.
Một số giải pháp kết hợp giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế và
bảo vệ môi trường.
Việt Nam là một trong các nước đang phát triển, trong những năm thực
hiện công cuộc đổi mới, tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế đã và đang đạt mức
khá cao, song tốc độ gia tăng tự nhiên của dân số vẫn còn cao, chất lượng
môi trường sống vẫn đang ngày càng bị suy giảm. Để giải quyết tốt mối quan
hệ giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, đòi hỏi

chúng ta phải sử dụng kết hợp đồng thời nhiều giải pháp khác nhau: Giáo
dục, pháp luật, hành chính, kinh tế….Vấn đề đựơc đặt ra là phải lựa chọn giải
pháp ưu tiên nào. Thực tế cho thấy, giải pháp hữu hiệu cần phải được ưu
tiên lự chọn để giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa gia tăng dân số, phát
triển kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiạn nay, là các giải pháp tài
chính; bởi vì, sử dụng các giải pháp tài chính cho phép chúng ta có thể giải
quyết đực tận gốc mối quan hệ giữa gia tăng dân số, phát triển kinh tế với
bảo vệ môi trường.
* Thuế ô nhiễm môi trường
Đây là một trong các khoản thu rất quan trọng của ngân sách nhà
nước nhằm vào các hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan tới lĩnh vực
bảo vệ môi trường; đặc biệt là nhằm điều tiết một phần thu nhập cảu các
doanh nghiệp, bù đắp cho những chi phí do xã hội phải bỏ ra để thực hhiện
các biện pháp khác phục các hậu quả do ô nhiễm môi trường gây ra. Thuế
môi trường dựa trên việc tính toán mức ô nhiễm do hoạt động sản xuất kinh
doanh gây ra.
Việc sử dụng thuế ô nhiễm môi trường môi trường không chỉ hạn chế
được tối đa những tác động tiêu cực gây hại tới môi trường trong hoạt động
sản xuất kinh doanh mà còn khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới
công nghệ, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và từng bước nâng cao hiệu
quả sản xuất. Đây là giải pháp tích cực nhằm điều hoà trực tiếp các quan hệ
lợi ích giữa xã hội và doanh nghiệp, từ đó làm lành mạnh các quan hệ xã hội,
khuyến khích ý thức tiết kiệm, giảm bớt sự lãng phí trong quá trình khai thác,
sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tăng cường các biện pháp bảo
vệ môi trường.
Trong thực tế có rất nhiều loại thuế liên quan đến môi trường, và có
thể phân thành một số loại chủ yếu như: Thuế gián tiếp nhằm vào môi
trường, là loại thuế có thể giải quyết hoặc cải thiện các vấn đề môi trường
thông qua thay đổi giá cả tương đối của các hoạt động từ đó hạn chế các
hoạt động tạo ra sự xâm hại môi trường; thuế không có mục tiêu môi trường
nhưng trong thực tế lại có tác động đến môi trường; thuế ô nhiễm môi trường
với ý nghĩa toàn bộ nguồn thu thừ sắc thuế này được dành riêng để chi tiêu
cho các hoạt động môi trường.
Do những khó khăn trong việc áp dụng thuế ô nhiễm môi trường môi
trường trực tiếp trong thực tiễn, có một số loại thuế khác có khả năng áp
dụng đạt được mục tiêu môi trường đã được đề xuất áp dụng. Các loại thuế
này được gọi là thuế ô nhiễm môi trường gián tiếp vì chúng được thu vào việc
sử dụng các sản phẩm đầu vào hoặc tiêu thụ các hàng hoá đầu ra với lý do
việc sử dụng các loại sản phẩm, hàng hoá này liên quan tới việc gây ô nhiễm