Header Page 1 of 112.
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
x
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THUỲ LINH
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG
TIỂU THUYẾT NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ CỦA NGUYỄN KHOA CHIÊM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn1
Header Page 2 of 112.
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THUỲ LINH
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG
TIỂU THUYẾT NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ CỦA NGUYỄN KHOA CHIÊM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS Ngô Gia Võ
THÁI NGUYÊN - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn2
Header Page 3 of 112.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các
nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố
trong bất cứ một công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả luận văn
Xác nhận của người hướng dẫn khoa học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn3
TS. Ngô Gia Võ Nguyễn Thuỳ Linh
Header Page 4 of 112.
LỜI CẢM ƠN
Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
TS. Ngô Gia Võ, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học,
cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên
đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại
trường.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới bạn bè cùng gia đình
và những người thân yêu đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện
giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này.
Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn4
Nguyễn Thuỳ Linh
Header Page 5 of 112.
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục ........................................................................................................... i
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................... 8
Chương 1 GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM NAM TRIỀU CÔNG
NGHIỆP DIỄN CHÍ VÀ KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ LÍ THUYẾT
TỰ SỰ HỌC ................................................................................................. 8
1.1. Khái lược về tác giả, tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí .......... 8
1.1.1. Về tác giả Nguyễn Khoa Chiêm .................................................... 8
1.1.2. Về tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí ...............................11
1.2. Lý thuyết chung về tự sự học và việc vận dụng lý thuyết tự sự học
vào nghiên cứu tác phẩm...........................................................................27
1.2.1. Lý thuyết chung về tự sự học .......................................................27
1.2.2. Việc vận dụng lí thuyết tự sự vào nghiên cứu tác phẩm Nam
triều công nghiệp diễn chí ......................................................................32
Chương 2 CẤU TRÚC TỰ SỰ CỦA NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP
DIỄN CHÍ....................................................................................................35
2.1. Cách xây dựng truyện.........................................................................35
2.1.1. Dung lượng truyện dài.................................................................35
2.1.2. Cốt truyện phức tạp ......................................................................37
2.2. Tự sự về thế giới nhân vật ..................................................................51
2.2.1. Thế giới nhân vật .........................................................................51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn5
2.2.2. Sự kiện chân thực........................................................................63
Header Page 6 of 112.
ii
2.3. Tự sự về những truyện kì ảo..............................................................71
2.3.1. Nhân vật và hoàn cảnh .................................................................71
2.3.2. Chiều sâu tâm linh và đạo lý ........................................................75
2.4. Tự sự bằng thơ ...................................................................................77
2.4.1. Truyện giới thiệu về thơ ...............................................................77
2.4.2. Lời bình bằng thơ trong truyện.....................................................82
Chương 3 HÌNH THỨC TỰ SỰ CỦA NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP
DIỄN CHÍ....................................................................................................87
3.1. Vai trò của người kể chuyện trong Nam triều công nghiệp diễn chí ...87
3.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba khách quan.....................................87
3.1.2. Điểm nhìn nghệ thuật từ bên ngoài...............................................90
3.2. Nghệ thuật kể chuyện trong Nam triều công nghiệp diễn chí..............92
3.2.1. Cách mở đầu trực tiếp ..................................................................92
3.2.2. Cách dẫn dắt chuyện lôgic............................................................94
3.2.3. Kết thúc chuyện khép kín .............................................................96
PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................98
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn6
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................101
Header Page 7 of 112.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam có lịch sử gần một ngàn năm. Có thể nói,
thành tựu của văn học viết Việt Nam dường như được tập trung nhiều nhất
vào văn học trung đại. Trong mười mấy thế kỷ ấy, văn học thế kỷ XVIII đã có
bước phát triển vượt bậc đạt được những thành tựu rực rỡ. Cùng với các thể
loại văn học khác, văn xuôi tự sự trong đó có tự sự lịch sử phát triển khá
mạnh mà tiêu biểu có tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn
Khoa Chiêm, tác phẩm mở đầu cho sự ra đời của một thể loại mới – tiểu
thuyết lịch sử chương hồi Việt Nam. Tác phẩm này còn có các tên gọi khác
như: Trịnh – Nguyễn diễn chí; Mộng bá vương; Việt Nam khai quốc chí
truyện; Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp diễn chí; Nam Việt
chí; Công nghiệp diễn chí.
1.1. Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là một tác
phẩm văn xuôi chữ Hán thành công ở cả hai phương diện: Nội dung và nghệ
thuật và được đánh giá là tác phẩm có ý nghĩa khai sinh ra nền tiểu thuyết lịch
sử chương hồi của Việt Nam. PGS.TS Nguyễn Đăng Na đã khẳng định: “Mặc
dù đương thời chưa ra đời thể loại truyện ngắn lịch sử, nhưng với Nam triều
công nghiệp diễn chí thì tiểu thuyết lịch sử Việt Nam viết theo lối chương hồi
đã xuất hiện”[35,23]. Từ đây văn xuôi tự sự trưởng thành, đủ sức phản ánh
những vấn đề lịch sử rộng lớn với tầm khái quát hóa cuộc sống trên qui mô
toàn dân tộc.
Tuy có ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng dường như tác phẩm Nam
triều công nghiệp diễn chí vẫn chưa được nghiên cứu toàn diện và sâu sắc.
Hầu như khi nhắc đến tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thì người ta chỉ nhắc
nhiều đến Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, một đỉnh cao của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn7
thể loại này. Điều đó chưa thật công bằng với Nam triều công nghiệp diễn chí.
Header Page 8 of 112.
2
Vì vậy, việc tìm hiểu nghiên cứu tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí
một cách khoa học sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc đánh giá đúng mức giá trị
của tác phẩm và góp phần đem đến cho bạn đọc các thế hệ sự hiểu biết đầy đủ
hơn nữa về một tác phẩm văn xuôi tự sự chữ Hán đặc sắc trong nền văn học
Việt Nam.
1.2. Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, ta không chỉ thấy ấn tượng ở
chỗ tác giả đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật mà còn tài hoa
trong cách kể chuyện. Việc các nhân vật lịch sử được đưa vào tác phẩm và trở
thành những hình tượng nghệ thuật độc đáo đã khẳng định tài năng sáng tạo
của tác giả. Các nhân vật trong tác phẩm vừa được bảo lưu những đặc điểm
vốn có thật trong lịch sử vừa được hư cấu, sáng tạo thành những nhân vật văn
học thực sự. Cách dẫn chuyện, kể chuyện thật tự nhiên và linh hoạt khiến cho
tác phẩm thu hút được sự theo dõi chú ý của bạn đọc chứ không khô khan
cứng nhắc như những truyện kể lịch sử thong thường. Do đó, việc tìm hiểu
nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí sẽ giúp ta đi
sâu vào một phương diện quan trọng trong giá trị nghệ thuật của tác phẩm,
góp phần lý giải được câu hỏi vì sao đó lại là tác phẩm được đánh giá là có ý
nghĩa khai sinh ra nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi của Việt Nam.
Mặt khác, hiện nay trong chương trình ngữ văn nhà trường từ bậc trung
học đến đại học đều không được tiếp cận tác phẩm Nam triều công nghiệp
diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm một cách trọn vẹn và sâu sắc. Nhận thức
được tầm quan trọng của tác phẩm nên người viết đã quyết định dành thời
gian nghiên cứu Nam triều công nghiệp diễn chí, tập trung đi sâu vào vấn đề
“Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của
Nguyễn Khoa Chiêm”. Luận văn được hoàn thành sẽ góp phần soi sáng giá trị
đặc sắc của một tác phẩm văn xuôi tự sự thời trung đại,khẳng định rõ hơn vị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn8
trí của Nguyễn Khoa Chiêm trong tiến trình văn học viết Việt Nam.
Header Page 9 of 112.
3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mặc dù Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm được
đánh giá là tác phẩm có ý nghĩa mở đầu cho nền tiểu thuyết chương hồi Việt
Nam nhưng những tài liệu nghiên cứu và những bài viết về tác phẩm còn
chưa nhiều, đặc biệt là những công trình nghiên cứu lớn còn rất ít. Mặt khác,
nghiên cứu văn học theo hướng tự sự học cũng là một hướng nghiên cứu còn
mới nên những bài viết, cũng còn thưa vắng.
Bản thân tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí hay còn gọi là Việt
Nam khai quốc chí truyện là tác phẩm có số phận đầy trắc trở, phức tạp. Từ
quá trình hoàn chỉnh tác phẩm, tên gọi, tác giả đến những ý nghĩa nội dung và
nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này có nhiều kiến giải, đánh giá khác nhau.
Điểm qua ý kiến của các nhà nghiên cứu từ khi tác phẩm ra đời đến nay, ta sẽ
nhận thức rõ hơn điều đó.
Theo cuốn Việt Nam khai quốc chí truyện, tác giả Ngô Đức Thọ đã giới
thiệu rằng: Người đầu tiên nói đến tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí
của Nguyễn Khoa Chiêm là danh sĩ triều Nguyễn, Trịnh Hoài Đức (1765 –
1825) Phó Tổng đài Sứ quán triều Minh Mệnh, tiếp đó là một học giả người
Pháp tên là L. Cadière.
Năm 1969, sử gia Phan Khoang khi nghiên cứu lịch sử xứ Đàng Trong
đã được tham khảo một truyền bản của Nam triều công nghiệp diễn chí có
tên sách là Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp diễn chí. Ông xác
nhận “Tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm có giá trị tư liệu lịch sử quí giá, nhưng
cũng tinh tế để khỏi sa vào những tình tiết ít nhiều đã bị tiểu thuyết hóa”.[8,9]
Năm 1974, Tập san Sử Địa đã đăng bài khảo cứu công phu Đúng ba
trăm năm trước của tác giả Hoàng Xuân Hãn. Nhân kỷ niệm ba trăm năm
ngưng chiến Nam – Bắc phân tranh thời Trịnh – Nguyễn, Hoàng Xuân Hãn đã
căn cứ vào tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm để trình bày một cách tóm tắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn9
những sự kiện chính của thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ông viết: “…đối
Header Page 10 of 112.
4
với những triều chúa Nguyễn, sách này có giá trị tương đương với sách
Hoàng Lê nhất thống chí đối với các triều cuối Trịnh và đầu Tây Sơn…Tôi
nghĩ rằng về đại cương cũng như về chi tiết sách này khá đáng tin cậy, nhất
là về khoảng từ Chúa Sãi về sau”. [8,10]
Hai nhà sử học là Hoàng Xuân Hãn và Phan Khoang đều khẳng định
giá trị chân chính của tác phẩm, dẫu rằng mỗi người nhấn mạnh về một
phương diện văn hoặc sử. Điều thú vị là dù thiên về văn hay sử thì cả hai nhà
nghiên cứu trên đều khẳng định giá trị đặc biệt của tác phẩm này.
Trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại - Tập 3, Nguyễn
Đăng Na giới thiệu và tuyển soạn, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000, ở phần giới
thiệu chung: Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại – quá trình hình
thành, phát triển và đặc trưng nghệ thuật, Nguyễn Đăng Na đã nói đến “cách
giới thiệu nhân vật” hay “lối tả người, giới thiệu nhân vật”[35,30-33] của
Nam triều công nghiệp diễn chí trong sự đối sánh với Tam quốc diễn nghĩa
của La Quán Trung để thấy được những nét tương đồng và nhất là những nét
khác biệt và độc đáo của Nguyễn Khoa Chiêm so với La Quán Trung. Tất cả
nhằm khẳng định Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm
không phải là sự mô phỏng của Tam quốc diễn nghĩa.
Trong cuốn Nam triều công nghiệp diễn chí, Ngô Đức Thọ - Nguyễn
Thúy Nga giới thiệu, dịch và chú thích, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2003, ở lời
giới thiệu: Nam triều công nghiệp diễn chí - tác giả - văn bản - tác phẩm, tác
giả Ngô Đức Thọ cũng cho rằng: “Trên bình diện những sự kiện lịch sử từ
nửa cuối thế kỷ XVI đến gần hết thế kỷ XVII, tác phẩm đã tái hiện nhiều nhân
vật văn võ ở cả hai miền”[8,17]
Điểm lại lịch sử nghiên cứu Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn
Khoa Chiêm, chúng tôi nhận thấy các tác giả mới chỉ dừng lại ở chỗ giới
thiệu, nêu vấn đề đối chiếu, so sánh, hoặc đánh giá khái quát giá trị tác phẩm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn10
nhưng số lượng bài viết chưa nhiều. Đó cũng là những gợi ý và điều kiện để
Header Page 11 of 112.
5
người viết thực hiện đề tài này. Mong rằng với nỗ lực hết mình, chúng tôi sẽ
có những đóng góp riêng trong việc khám phá giá trị và vẻ đẹp của tác phẩm
Nam triều công nghiệp diễn chí.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi vào khám phá giá trị nghệ thuật của tác phẩm Nam triều
công nghiệp diễn chí. Đối tượng nghiên cứu tập trung vào “Nghệ thuật tự sự”
– một biện pháp nghệ thuật quan trọng, góp phần chủ yếu vào thành công của
tác phẩm.
3.2 Phạm vi đề tài
Văn bản nghiên cứu là tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của
Nguyễn Khoa Chiêm, do các tác giả Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga giới
thiệu, dịch và chú thích, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2003. Ngoài ra, trong quá
trình thực hiện, người viết có thể sử dụng một số cuốn tiểu thuyết chương hồi
tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam như Hoàng Lê nhất thống chí, Việt
Lam tiểu sử… để so sánh nhằm đánh giá đúng đắn hơn giá trị của Nam triều
công nghiệp diễn chí. Bên cạnh đó, người viết còn tham khảo thêm tiểu thuyết
chương hồi Trung Quốc là Tam quốc diễn nghĩa của tác giả La Quán Trung
để đặt tác phẩm vào thế đối sánh từ đó nhận thức sâu sắc hơn giá trị đích thực
của tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Làm nổi bật tài năng, lối kể chuyện độc đáo của Nguyễn Khoa Chiêm
qua những nét đặc sắc về phương diện nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Nam
triều công nghiệp diễn chí.
Góp phần khẳng định vị trí mở đầu xứng đáng của tiểu thuyết Nam triều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn11
công nghiệp diễn chí đối với nền tiểu thuyết chương hồi Việt Nam.
Header Page 12 of 112.
6
Có thêm những tri thức cần thiết để vận dụng vào việc học tập, nghiên
cứu các tác phẩm cùng thể loại cũng như việc giảng dạy tác phẩm văn học ở
trường phổ thông.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ giá trị tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn
chí của Nguyễn Khoa Chiêm về phương diện nghệ thuật tự sự.
Đặt tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí trong sự đối sánh với các
tiểu thuyết chương hồi của nền văn học Việt Nam về phương diện nghệ thuật
tự sự, làm rõ những đóng góp của Nguyễn Khoa Chiêm trong nền tiểu thuyết
lịch sử chương hồi Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, người viết sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
5.1. Phương pháp thống kê
Trên cơ sở khảo sát tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí, người
viết tiến hành thống kê và phân loại các cứ liệu. Đó là cơ sở khoa học chứng
minh cho những luận điểm sẽ trình bày trong luận văn.
5.2. Phương pháp phân tích
Đây là phương pháp được dùng để phân tích và miêu tả cụ thể các dữ
liệu đã thống kê, từ đó đưa ra nhận xét cho các đặc điểm đã nêu. Kết quả thu
được từ sự phân tích, miêu tả này sẽ là những luận cứ khảo chứng cho các
luận điểm mà người viết đề xuất trong đề tài.
5.3. Phương pháp so sánh, tổng hợp và hệ thống
Bên cạnh việc thống kê, phân loại, phân tích, chúng tôi sẽ tiến hành so
sánh, đối chiếu giữa Nam triều công nghiệp diễn chí với một số tác phẩm văn
học chữ Hán khác. Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ tổng hợp, xem xét tác phẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn12
trong hệ thống văn xuôi trung đại nói riêng và văn học trung đại nói chung.
Header Page 13 of 112.
7
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được triển khai thành ba chương sau đây:
Chương I: Giới thiệu tác giả, tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí
và khái lược chung về lí thuyết tự sự học
Chương II: Cấu trúc tự sự của Nam triều công nghiệp diễn chí
Chương III: Hình thức tự sự của Nam triều công nghiệp diễn chí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn13
Header Page 14 of 112.
8
NỘI DUNG
Chương 1
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM
NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ VÀ KHÁI LƯỢC CHUNG
VỀ LÍ THUYẾT TỰ SỰ HỌC
1.1. Khái lược về tác giả, tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí
1.1.1. Về tác giả Nguyễn Khoa Chiêm
Tác giả Nguyễn Khoa Chiêm sinh năm Kỷ Hợi 1659, mất năm Bính Thìn
1736, người huyện Hương Trà, nay là Thừa Thiên Huế. Từng làm quan to cho
triều Nguyễn và được phong tước Bảng Trung hầu, tự Bảng Trung.
Ông vốn gốc người Hải Dương, cụ nội Nguyễn Đình Thân là thuộc hạ
của Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng, theo Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận
Hóa từ năm 1558, rồi nhập tịch ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, và
trở thành khởi tổ của một dòng vọng tộc ở cố đô Huế.
Nguyễn Đình Thân sinh ra Nguyễn Đình Khôi (1594 – 1678), tước
Thuần Mỹ Nam. Đến năm 1638, Nguyễn Đình Khôi theo chúa Nguyễn Phúc
Lan rời phủ chúa về vùng Hương Trà, Thừa Thiên Huế và ở luôn đấy rồi đổi
họ thành Nguyễn Khoa.
Nguyễn Khoa Danh (1632 – 1697) là con của Nguyễn Đình Khôi, tước là
Cảnh Lộc bá. Ông kết hôn với bà Lê Thị Am và sinh được người con trai duy
nhất là Nguyễn Khoa Chiêm. Sau này, Nguyễn Khoa Chiêm lấy bà Trần Thị
Mận, con gái của cai bạ Trần Đình Ân và sinh được mười hai người con.
Trong số tám người con trai ấy thì có Nguyễn Khoa Đăng, người con thứ ba
là một viên quan giỏi, có tài xử kiện, được người cùng thời mệnh danh là
“Bao Công”. Ông có công lớn trong việc diệt bọn cướp hung bạo thời nhà Hồ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn14
và trừ được sóng dữ ở phá Tam Giang.
Header Page 15 of 112.
9
Tuổi trẻ, Nguyễn Khoa Chiêm là người học rộng tài cao, am hiểu nhiều
lĩnh vực, từng được bổ chức Thủy hạp. Đến năm 1701 là năm thứ mười đời
chúa Nguyễn Phúc Chu, ông được giao việc đi Quảng Bình để đốc thúc việc
đắp Chính Lũy, đi cùng đoàn còn có Văn chức Trần Đình Khánh, Cai cơ
Ngoại tả Tôn Thất Diệu và Nội hữu Tống Thúc Tài.
Đến năm 1710, ông được thăng chức Cai hạp ở Chính Danh, kiêm chức
Tri bạ, do tài giỏi nên được Trần Đình Ân yêu mến và tiến cử với Chúa
Nguyễn, từ đó ông được Minh Vương yêu mến và tin dùng.
Vào năm 1718, Nguyễn Khoa Chiêm được thăng chức Cai bạ Phó đoán
sự. Đến năm 1724, lại được thăng chức Tham Chính Chánh đoán sự, sau đó
ông về trí sĩ và mất tại quê nhà vào năm 1736, hưởng thọ 77 tuổi. Sau khi ông
mất, chúa Nguyễn ban tặng hàm Đại lý tự Thượng khanh, được ban tên thụy
là Thuần Hậu.
Khi nhắc đến Nguyễn Khoa Chiêm, sách Đại Nam liệt truyện tiền biên
viết: “Nguyễn Khoa Chiêm là người giỏi văn chương, từng làm sách Nam
triều công nghiệp diễn chí lưu hành ở đời”.[8,9]
Thời đại Nguyễn Khoa Chiêm sống là thời đại đất nước đổ nát, nhân dân
kiệt quệ vì các cuộc giao tranh nội quốc, giá trị đạo đức văn hóa bị băng hoại
nặng nề. Nguyễn Khoa Chiêm được may mắn là người có chỗ đứng trong bộ
máy thống trị, có bố vợ là một đại thần trong triều, được tham gia bàn việc quân
cơ cho nên những tư liệu mà ông có được là đáng tin cậy.
Đến cuối thế kỷ XVII, về cơ bản chiến tranh đã kết thúc nhưng lúc này
đời sống nhân dân đã lâm vào cảnh khốn cùng, không thể vực lên ngay được,
mọi mặt trong quốc gia đều bị suy thoái trầm trọng. Đất nước ta những năm
tháng này do lâm vào cảnh nội chiến triền miên cho nên bộ máy chính quyền
rất đặc biệt. Ở Đàng Ngoài, đã có vua (triều Lê) cai trị đất nước mà lại có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn15
chúa (Trịnh) cũng nắm quyền hành sinh sát như vua, thậm chí còn thâu tóm
Header Page 16 of 112.
10
quyền hành và lấn lướt vua. Người dân lâm vào cảnh một cổ hai tròng: vua Lê
– chúa Trịnh.Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn cai quản, tình hình cũng chẳng
sáng sủa hơn là bao khi mà nhân dân vẫn bị xoáy vào cuộc nội chiến giữa hai
miền Nam - Bắc triều.
Tất cả những khổ cực đau thương đều đè nặng lên cuộc sống của nhân
dân hai miền, khiến cho lòng dân oán thán đến ngút trời . Điều đó đã buộc họ
phải đứng lên đấu tranh chống lại chính quyền phong kiến, và cuộc nổi dậy ấy
đã diễn ra trên phạm vi toàn quốc với qui mô lớn chưa từng có. Họ đấu tranh
nhằm thống nhất giang sơn xã tắc, đấu tranh cho chính cuộc sống của họ và
đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ
lãnh đạo. Phong trào Tây Sơn đã đập tan chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đánh
sập tập đoàn Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế với
niên hiệu Quang Trung năm 1789.
Bối cảnh đất nước hỗn độn như vậy là cội nguồn cảm hứng thôi thúc tác
giả phải viết nên một tác phẩm ghi dấu lại một thời kỳ lịch sử của đất nước.
Thực ra, vào cuối thế kỷ XVII, ở nước ta đã xuất hiện tác phẩm: Nguyễn
Cảnh Thị Hoan Châu ký – một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết dưới dạng gia phả
của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Hoan Châu. Cuốn tiểu thuyết đã tái hiện lại một
giai đoạn lịch sử trên 270 năm của dân tộc, từ vãn Hồ (năm 1406) cho đến Lê
Trung hưng, đời Hy Tông, năm Vĩnh Trị thứ ba (1678). Theo một số nhà
nghiên cứu, đây chính là cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tiên của nước ta.
Còn với Nguyễn Khoa Chiêm, ông đã dùng ngòi bút của mình để ghi lại
toàn cảnh xã hội lúc bấy giờ với một con mắt tinh tường, một đầu óc tư duy
tổng hợp tuyệt vời. Ông đã sử dụng lối kể chuyện lịch sử vốn được nhân dân
ta ưa thích kết hợp với cách hành văn độc đáo của mình. Đây là lối kể rất có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn16
ưu thế trong việc tái hiện lại môi trường xã hội, lịch sử rộng lớn, và Nguyễn
Header Page 17 of 112.
11
Khoa Chiêm đã phát huy được hết ưu thế của lối kể này trong tác phẩm Nam
triều công nghiệp diễn chí.
1.1.2. Về tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí
1.1.2.1. Vài nét về tiểu thuyết chương hồi Việt Nam
Tiểu thuyết chương hồi là một thể loại thuộc loại hình văn hóa trung đại,
xuất hiện và phát triển mạnh nhất ở Trung Quốc trong khoảng từ thế kỷ XIV
đến đầu thế kỷ XIX. Đây là thể loại văn học được coi trọng và đánh giá rất
cao trong văn học cổ Trung Quốc và văn học Việt Nam thời kỳ trung đại.
Tiểu thuyết chương hồi là những tiểu thuyết trường thiên bao gồm nhiều
hồi, đầu mỗi hồi có “hồi mục”, là một hoặc hai câu thất ngôn dự báo tình tiết
chính của hồi. Mỗi hồi viết về một sự kiện chủ yếu và kết thúc hồi có lời dẫn
dắt đến hồi tiếp. Căn cứ theo dung lượng, có thể chia tiểu thuyết chương hồi
thành hai loại lớn và nhỏ. Loại lớn gồm khoảng một trăm hồi trở lên thường
là những tiểu thuyết diễn nghĩa như Tam quốc diễn nghĩa, Đông Chu liệt
quốc…; hay những tiểu thuyết anh hùng như: Thủy hử; tiểu thuyết thần ma
như Tây du ký; tiểu thuyết tình đời như: Kim Bình Mai, Hồng lâu mộng
….Tiểu thuyết chương hồi loại nhỏ có thể bao gồm hai- ba chục hồi có các
tiểu thuyết tài tử giai nhân kể những mối tình của các đôi trai gái, thể hiện ước
mơ hạnh phúc lứa đôi hay những tiểu thuyết khiển trách vạch trần những ung
nhọt xã hội như tác phẩm Quan trường hiện hình ký.
Nói về nguồn gốc của tiểu thuyết chương hồi, các nhà nghiên cứu thống
nhất cho rằng từ những thoại bản (những văn bản làm gốc để người kể chuyện
thuật lại cho thính giả nghe). Thoại bản chính là những câu chuyện sống thực,
hình thành từ thói quen kể chuyện kết hợp với lối diễn xướng của người dân
để trở thành một loại hình văn học bình dân đô thị tiêu biểu, thu hút được
nhiều người xem. Truyện đem kể không chỉ gói gọn trong một đêm mà có thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn17
kéo dài ra rất nhiều đêm. Dung lượng tăng nên cốt truyện phải ngắt nhiều
Header Page 18 of 112.
12
khúc, mỗi khúc đều có sự trọn vẹn tương đối về kết cấu, đồng thời cũng móc
xích với khúc trước và khúc sau nhằm đáp ứng nhu cầu của khán giả và làm
cho khán giả không thể bỏ cuộc giữa chừng. Do nguồn gốc sâu xa là thoại bản
như vậy nên tiểu thuyết chương hồi cơ bản là tiểu thuyết hành động. Nhân vật
chiếm lĩnh người nghe, người đọc bằng hành động và qua hành động mà biểu
hiện tính cách. Lời trần thuật cô đúc, các chi tiết trữ tình ngoại đề ít có dịp
chen vào câu chuyện. Thời lượng mỗi chương cũng đòi hỏi phải miêu tả hành
động của nhân vật một cách chặt chẽ, hợp lý, kết chuỗi liên tục để câu chuyện
đạt được sự thắt nút, mở nút đúng chỗ, không có chi tiết thừa thãi.
Đặc trưng của thể loại này là phân chia cốt truyện thành các hồi và các sự
kiện có vai trò đặc biệt quan trọng. Mỗi hồi bao giờ cũng có một bài thơ tóm
lược nội dung được trình bày trong hồi. Cuối mỗi hồi thường có một bài thơ
ngắn để đánh giá sự kiện hoặc nhân vật trong hồi và sau đó kết thúc bằng câu
đại loại như: Muốn biết sự việc thế nào xem hồi sau sẽ rõ. Sang hồi mới, vấn
đề lại được tiếp tục triển khai với một nhan đề mới. Việc phân chia thành từng
hồi và kết thúc theo kiểu hạ hồi phân giải; tức là kết thúc hồi khi câu chuyện
đang vào lúc căng thẳng có tác dụng quan trọng là nhằm thu hút, lôi cuốn
người đọc, người nghe theo dõi tiếp các hồi sau cho đến khi kết thúc truyện.
Thời gian trong tiểu thuyết chương hồi là thời gian đơn tuyến và một
hướng. Kiểu kết cấu này có nguồn gốc sâu xa từ quan niệm của người xưa về
thời gian và không gian, về mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong sáng
tác nghệ thuật. Đó là kiểu kết cấu thời gian theo dòng tuyến tính, mọi sự kiện,
chủ đề đều xoay quanh nhân vật chính theo dòng thời gian lịch sử từ năm này
qua năm khác…
Tác giả trong tiểu thuyết chương hồi thường đứng ở ngôi thứ ba dẫn dắt
câu chuyện, giới thiệu nhân vật rồi sau đó để câu chuyện tự diễn biến, nhân
vật tự suy nghĩ và hành động. Tác giả thường đưa ra những lời bình phẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn18
bằng các bài thơ hay đoạn thơ ngắn.
Header Page 19 of 112.
13
Ở phần mở đầu các hồi, tác giả thường dùng các câu có tính công thức
như: Hãy nói về, Trước nói… Còn ở phần bình luận thường dùng thơ người
khác, hoặc dẫn dắt bằng những câu như: Vậy nên đời sau có thơ rằng, Vậy
nên đời sau có thơ than rằng, Mới thực là… Và kèm theo đó là những bài thơ
tuy gần gũi với tư tưởng của tác giả nhưng lại không hoàn toàn mang dấu ấn
chủ quan của tác giả. Do đó, có thể nói rằng ngôn ngữ trong tiểu thuyết
chương hồi khá mờ nhạt.
Tóm lại, tiểu thuyết chương hồi là thể loại tiểu thuyết được viết theo kết
cấu chương hồi. Nó là kết quả đúc kết, kết tinh hệ thống hóa của các thoại bản
dân gian. Thể loại này được khơi nguồn từ Trung Hoa vào đời Tống và phát
triển nở rộ ở đời Minh – Thanh với hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng như: Tam
quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Hồng lâu
mộng của Tào Tuyết Cần…
Với sự phát triển nở rộ như vậy, thể loại tiểu thuyết này đã được du nhập
sang một số nước lân cận trong đó có Việt Nam. Tiểu thuyết chương hồi
Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam thời trung đại từ thế kỷ X đến thế kỷ
XIX thể hiện rõ nét nhất trong bộ phận văn học chữ Hán. Ở thời kỳ trung đại,
mỗi một thể loại văn học đều bị chi phối bởi yếu tố xã hội, với tiểu thuyết
chương hồi cũng vậy. Không phải khi mới được du nhập vào Việt Nam thể
loại này đã phát triển ngay mà phải đến gần cuối thế kỷ XVIII- XIX trong
những điều kiện nhất định của lịch sử xã hội, tiểu thuyết chương hồi mới
được chính thức ra đời và phát triển ở nước ta.
Trong bối cảnh văn học Việt Nam thời kỳ trung đại chịu ảnh hưởng lớn
từ văn học Hán thì tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán lại là một hiện
tượng độc đáo của văn học nước nhà thời kỳ này. Tiểu thuyết chương hồi
phản ánh một chủ đề hoàn toàn khác với những tiểu thuyết đã ra đời trước đó,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn19
không hề đề cập đến đề tài tình yêu trai gái mà chỉ đề cập đến các vấn đề lịch
Header Page 20 of 112.
14
sử. Có thể khẳng định rằng thể loại này gắn liền với lịch sử, trực tiếp lấy lịch
sử làm đề tài, thể hiện nổi bật tính chất văn, sử bất phân đồng thời cũng đậm
chất văn chương do chú trọng vào tính cách, chi tiết biểu hiện, hình thức tác
phẩm…
Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII đã trải qua rất nhiều
biến động, xã hội rối ren bởi những cuộc nội chiến, nhân dân cực khổ lầm
than bởi sự vô tâm, trác táng, tranh giành quyền lực của giai cấp phong kiến .
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của người anh hùng Lê Lợi đã đánh tan cuộc
xâm lược của giặc Minh giành lại chủ quyền cho đất nước và khai lập nên
triều Lê. Nhưng suốt cả thời kỳ nhà Lê cai trị đất nước thì chỉ có duy nhất
triều đại vua Lê Thánh Tông là nhân dân được yên ấm thực sự, xã hội thái
bình yên vui. Các đời vua chúa sau đó thi nhau ăn chơi xa xỉ, bóc lột dân
chúng đến tận xương tủy như ở đời vua Lê Tương Dực, Lê Uy Mục… đã làm
cho đất nước suy vong, dân chúng điêu đứng. Trước tình cảnh đó, nhà Mạc
dấy quân cướp ngôi nhà Lê nhằm gây dựng lại đất nước. Tuy nhiên, thời Mạc
thống trị, đất nước ta vẫn chưa được thái bình, xã hội vẫn chưa được ổn định
thực sự. Giai cấp phong kiến thì càng ngày càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn
gây nên cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài và chia cắt lãnh thổ triền miên.
Đó là hai cuộc chiến tranh của các thế lực phong kiến: Lê – Mạc và cuộc
chiến Trịnh – Nguyễn đã đưa đất nước và nhân dân Việt Nam vào cảnh lầm
than cùng cực. Đến thế kỷ XVII, cục diện đất nước nhìn chung không thay
đổi nhiều, lúc này đất nước bị chia cắt thành hai: Đàng Trong và Đàng Ngoài,
thế lực thống trị vẫn không thôi hưởng thụ và bóc lột quần chúng nhân dân,
khiến cho nhân dân tiếp tục đau khổ lầm than. Thậm chí nhân dân Đàng
Ngoài còn phải chịu cảnh một cổ hai tròng là vua Lê và chúa Trịnh thi nhau
đàn áp bóc lột. Sống trong cảnh tối tăm mù mịt đó, nhân dân hai miền không
lúc nào không có mơ ước về một cuộc khởi nghĩa đứng lên đập tan các thế lực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn20
phong kiến thống trị, thống nhất đất nước, xây dựng xã hội thanh bình yên
Header Page 21 of 112.
15
vui. Để đáp ứng lòng mong mỏi ấy của nhân dân, người anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ đã đứng lên kêu gọi nhân dân và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây
Sơn. Cuộc khởi nghĩa đã được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân,
cộng với tài năng, trí tuệ của người lãnh đạo đã giành được thắng lợi vang
dội. Quét sạch các tập đoàn phong kiến lúc bấy giờ, thống nhất giang sơn
đồng thời đánh tan cuộc xâm lược của nhà Thanh, giúp đất nước thoát khỏi
ách thống trị của ngoại bang.
Chỉ trong vòng hơn một thế kỷ, đất nước ta đã trải qua biết bao biến cố,
và những biến cố ấy đã được văn học ghi lại bằng hàng loạt các tác phẩm cụ
thể. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng với văn xuôi chữ Hán, đặc biệt là với thể
loại tiểu thuyết chương hồi với khả năng bao quát quy mô lớn mới đủ khả
năng để tái hiện toàn cảnh bức tranh lịch sử rộng lớn đó.
So với thể loại tiểu thuyết chương hồi trong văn học Trung Quốc, tiểu
thuyết chương hồi của Việt Nam còn kém xa về mặt số lượng, chất lượng
cũng như quy mô của tác phẩm. Thực sự mà nói thì số lượng tiểu thuyết
chương hồi của nước ta không nhiều, ngoài tác phẩm Nam triều công nghiệp
diễn chí được coi như là tác phẩm khai sinh ra nền tiểu thuyết lịch sử chương
hồi của Việt Nam thì còn có một số tác phẩm khác nữa như: Thiên Nam liệt
truyện (chưa rõ tác giả); Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái); Tây
Dương gia tổ bỉ lục (Phạm Ngô Hiên, Nguyễn Hòa Đường); Việt Lam tiểu sử…
Tuy nhiên,với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng tiểu thuyết chương
hồi Việt Nam đã để lại dấu ấn đậm nét trong kho tàng văn học dân tộc góp
phần tái hiện lại được toàn cảnh đất nước giữa thời kỳ lịch sử đầy biến động
nêu trên. Có thể nói, lịch sử đất nước đã được tái hiện một cách sinh động,
sâu sắc và khá toàn diện trong tiểu thuyết chương hồi Việt Nam.
Sự ra đời của thể loại này chủ yếu là do sự tiếp nhận từ nền tiểu thuyết
chương hồi Trung Quốc, do đó ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn21
phần đậm nét: lối kết cấu theo chương hồi, ghi chép theo lối biên niên, mô típ
Header Page 22 of 112.
16
nhân vật và lối xây dựng nhân vật…Tuy vậy, tiểu thuyết chương hồi Việt
Nam vẫn có những nét độc đáo riêng mang bản sắc văn hóa của dân tộc Việt.
Các tác giả Việt Nam hầu như phải tạo ra tất cả trong quá trình sáng tác tác
phẩm chứ không hề được thừa hưởng khung sườn cốt truyện có sẵn cùng
những nhân vật hình thành trước đó như tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc
(hầu như dựa trên cơ sở những thoại bản, có những tác phẩm nhiều người viết
từ trước, người sau chỉnh sửa một cách hoàn chỉnh và đầy đủ thì tác phẩm
mang tên người đó).
Con đường phát triển của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam không hề đơn
giản, bằng phẳng mà phải vượt qua tư tưởng Nho giáo khắt khe, vẫn thường
coi trọng văn học chức năng hành chính mà coi thường văn học nghệ thuật,
đặc biệt là tư tưởng bì tiểu thuyết. Người đặt nền móng cho tiểu thuyết
chương lịch sử chương hồi Việt Nam chính là Nguyễn Khoa Chiêm. Tác
phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của ông là tác phẩm khai sinh ra nền
tiểu thuyết lịch sử chương hồi của Việt Nam và đã đem lại cho văn học Việt
Nam một diện mạo mới. Sau tác phẩm này thì tác phẩm Thiên Nam liệt truyện
được ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, đến nay vẫn
chưa xác định được ai là tác giả. Hoàng Lê nhất thống chí tuy là tác phẩm ra
đời sau nhưng lại có chỗ đứng vững chắc trong nền văn học trung đại và giữ
một vai trò quan trọng trong dòng tiểu thuyết lịch sử chương hồi Việt Nam.
Tác phẩm này vừa hội tụ được tinh hoa văn xuôi tự sự Việt Nam, vừa bộc lộ
những quan điểm văn chương của các tác giả. Ngô gia văn phái đã có cái nhìn
rất chính xác và đúng đắn về phong trào Tây Sơn. Nói chung, mọi tinh hoa
bút lực của dòng họ Ngô đều được dồn cả vào Hoàng Lê nhất thống chí để tạo
nên một dấu ấn riêng đặc sắc trong nền tiểu thuyết chương hồi Việt Nam. Sự
cố gắng của Ngô gia văn phái cũng như của Nguyễn Khoa Chiêm đã giúp tiểu
thuyết chương hồi Việt Nam khẳng định được vai trò to lớn của mình trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn22
tiến trình vận động mạnh mẽ của văn học dân tộc.
Header Page 23 of 112.
17
Sau Hoàng Lê nhất thống chí, tiểu thuyết chương hồi Việt Nam tiếp tục
phát triển nhưng không gặt hái được những thành tựu to lớn nào. Đầu thế kỷ
XIX, tình hình xã hội nước ta có nhiều biến động: triều Nguyễn được thành
lập, Nho giáo suy yếu, thực dân Pháp xâm lược nước ta… . Với những biến
động xã hội đó, văn học trung đại rơi vào tình cảnh bế tắc trong khi văn học
hiện đại chưa kịp ra đời. Điều đáng ngạc nhiên là giữa buổi giao thời ấy lại
xuất hiện hai bộ tiểu thuyết chương hồi là Hoàng Việt hưng chí (Ngô Giáp
Dậu) và Việt Lam tiểu sử (chưa xác định được tác giả). Hai tác phẩm này ra
đời sau Hoàng Lê nhất thống chí khoảng một trăm năm, do đó được thừa
hưởng một nền tảng vững chắc do các tiểu thuyết gia chương hồi tiền bối gây
dựng. Nhưng đáng tiếc là hai tác phẩm này lại non kém về chất lượng nghệ
thuật, không phát huy được vai trò và những thành tựu truyền thống. Long
hưng chí thì muốn phá bỏ công thức kết cấu chương hồi nên chỉ thực hiện
công thức mở đầu còn bỏ đi công thức kết thúc. Chính việc làm đó đã làm cho
tác phẩm rời rạc, thiếu hấp dẫn. Cộng với số lượng nhân vật quá đông khiến
cho tác phẩm mất đi chất văn mà chỉ còn chất sử. Một yếu tố nữa khiến hai
tác phẩm không thành công là bởi vì đã đi theo con đường của tiểu thuyết
chương hồi Trung Quốc như: đưa tiểu thuyết chương hồi quay về lối biên
niên, sau mỗi sự kiện thường kết thúc bằng những câu đố, câu phúng hoặc bài
thơ thay cho lời bình giá trị lịch sử. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng hai tác
phẩm trên cũng vẫn là những cống hiến đáng kể vào tiến trình tiểu thuyết
chương hồi Việt Nam.
Như vậy, ta có thể khái quát lại một số nét về tiểu thuyết chương hồi Việt
Nam như sau:
Thể loại này chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc trên
cơ sở kế thừa và Việt hóa, trải qua quá trình phát triển lâu dài đã tạo nên một
loạt tiểu thuyết chương hồi truyền thống, độc đáo, đậm đà bản sắc văn hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn23
dân tộc, phản ánh chân thực lịch sử đất nước. Phạm vi đề tài chủ yếu là xoay
Header Page 24 of 112.
18
quanh tình hình lịch sử xã hội Việt Nam thời kỳ trung đại. Các tác phẩm tuy
lấy lịch sử làm gốc nhưng không hề bê nguyên lịch sử vào trang sách mà luôn
có sự sáng tạo làm cho tác phẩm đậm đà chất văn và hơi thở của cuộc sống.
Hầu hết các tác phẩm đều có những thành công nhất định trong việc xây
dựng hình tượng nhân vật từ những anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, Nguyễn
Trãi, Đào Duy từ, Nguyễn Bỉnh Khiêm… đến những nhân vật phản diện. Hầu
hết đều được xây dựng hết sức sinh động và rõ nét.Tiểu thuyết chương hồi
như một mốc đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của văn xuôi tự sự thời trung
đại Việt Nam.
Tóm lại, ta thấy tiểu thuyết chương hồi Việt Nam tuy không nhiều và còn
nhiều hạn chế nhưng đó chính là di sản văn hóa quý giá mà cha ông ta đã mất
rất nhiều công sức để tạo dựng và truyền lại cho con cháu muôn đời sau.
1.1.2.2. Về tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí
Về nguyên bản, tác phẩm có tám quyển viết bằng chữ Hán. Ban đầu tác
giả lấy tên tác phẩm là Nam triều công nghiệp diễn chí, sau đó được Dương
Thận Trai đề tựa, Nguyễn Giản viết lời bạt rồi đổi tên thành Việt Nam khai
quốc chí truyện.
Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí lần đầu tiên được giới thiệu
bởi sử gia Trịnh Hoài Đức, qua việc ông dùng một ghi chép của Bảng Trung
hầu Nguyễn Khoa Chiêm để so sánh với Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn
trong Gia Định thành thông chí: “Án Nguyễn Bảng Trung, Nam Việt chí viết
Nặc Ô Đài; Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục viết Nặc Đài”.[8,8] Ngoài ra, ta còn
thấy Sử quán triều Nguyễn đã sử dụng truyền bản của sách để làm tài liệu
tham khảo trong khi biên soạn phần chép tay về thời kỳ các chúa Nguyễn như
Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên, Khâm định Việt sử
thông giám cương mục….
Học giả tiếp theo nghiên cứu về tác phẩm là một người Pháp tên là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn24
L.Cadière. Ông đã sử dụng một bản của Nam triều công nghiệp diễn chí với
Header Page 25 of 112.
19
tên gọi là Việt Nam khai quốc chí truyện để làm tài liệu tham khảo khi ông
viết Le mus de Đồng Hới. Sau L.Cadière, có một sử gia người Pháp tiếp tục
nghiên cứu tác phẩm này là Henri Maspéro, ông đã mượn được bản của
L.Cadière và nhờ người chép hộ đồng thời chỉnh lý và bổ sung những điều mà
L.Cadière còn thiếu sót. Cũng dịp này, ông còn chép tặng Viện Viễn Đông
Bác cổ ở Hà Nội một bản.
Tác phẩm lần đầu tiên được dịch sang chữ quốc ngữ vào năm 1986 bởi
dịch giả Ngô Đức Thọ. Ông đã tìm và so sánh nhiều văn bản rồi dịch sang
chữ quốc ngữ dưới tên gọi Trịnh – Nguyễn diễn chí. Sau đó, Ngô Đức Thọ lại
tiếp tục sửa và xuất bản lại các tác phẩm này dưới nhiều tên gọi khác nhau
như vào năm 1987 và năm 1990 là Mộng bá vương, năm 1994 lấy tên là Việt
Nam khai quốc chí truyện và cuối cùng vào năm 2003 ông sửa và lấy tên là
Nam triều công nghiệp diễn chí.
Về vấn đề xác định tên gọi của tác phẩm, mặc dù có khá nhiều tên gọi
khác nhau trải qua mỗi thời kỳ nhưng đúc kết lại ta có thể thấy hai tên gọi
được dùng nhiều nhất là Nam triều công nghiệp diễn chí và Việt Nam khai
quốc chí truyện. Tác giả Nguyễn Đăng Na trong Con đường giải mã văn học
trung đại Việt Nam thống nhất với quan điểm ấy. Trong các bộ sử lớn của
nước ta thời kì trung đại như: Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam nhất
thống chí, Việt Nam thông giám cương mục cũng nhắc nhiều đến việc này.
Gia phả của dòng họ Nguyễn Khoa ở Thừa Thiên Huế cũng ghi chép lại
là: Nguyễn Khoa Chiêm soạn sách Nam triều công nghiệp diễn chí. Điều này
rất phù hợp với các tài liệu đã đề cập đến ở trên, song ở một số truyền bản lại
đề tên tác phẩm là Việt Nam khai quốc chí truyện, vậy đâu mới là tên gọi
chính thức của tác phẩm? Trước hết, ta phải khẳng định rằng các tài liệu có
nhắc đến tên gọi tác phẩm là Nam triều công nghiệp diễn chí như: Đại Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn25
liệt truyện tiền biên, Đại Nam nhất thống chí, Việt Nam thông giám cương
Header Page 26 of 112.
20
mục đều là các bộ chính sử đáng tin cậy và đều là sách in, còn lại các sách
khác đều chép tay. Thực tế cho thấy sách in bao giờ cũng có độ chính xác cao
hơn sách chép tay, đó là cơ sở thứ nhất để ta khẳng định rằng Nam triều công
nghiệp diễn chí là tên gọi chính xác của tác phẩm. Mặt khác, ta biết là bộ sách
này Nguyễn Khoa Chiêm soạn xong vào năm thứ hai mươi đời chúa Minh
Vương Nguyễn Phúc Chu tức là vào năm 1719, và Nguyễn Khoa Chiêm mất
năm 1736, trong khi đó thì quốc hiệu Việt Nam ra đời ở nước ta vào năm
1804, cho nên hai chữ Việt Nam trong nhan đề tác phẩm không phải do
Nguyễn Khoa Chiêm đặt. Mặt khác, Nguyễn Khoa Chiêm sống vào thời kỳ
đất nước ta chia cắt thành Nam triều và Bắc triều nên ta thấy hai chữ Nam
triều trong nhan đề tác phẩm là hoàn toàn phù hợp với hiện thực lịch sử - xã
hội thời kỳ này. Tính tới thời điểm này thì Nam triều công nghiệp diễn chí
còn lại bốn truyền bản: Một bản của Viện Hán Nôm có ký hiệu là A.24/1-2;
một bản của Viện sử học ký hiệu là HV. 503; hai bản của thư viện hiệp hội Á
Châu Paris ký hiệu là HM.2140 và HM.2141. Tất cả đều mang tên Việt Nam
khai quốc chí truyện. Đây có lẽ là do người đời Nguyễn chữa lại, không đủ
độ tin cậy.
Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, ta thấy
tác phẩm của ông mặc dù là một tiểu thuyết lịch sử chương hồi nhưng lại
không cứng nhắc như những truyện lịch sử khác, mà mang đậm yếu tố văn
học. Điều này thể hiện rất rõ ở hai chữ diễn chí trong nhan đề tác phẩm. Với
hai chữ này, ông đã khẳng định mình viết văn chứ không viết sử, cho nên
trong truyện ta cũng thấy có những sự kiện lịch sử mà ông không đề cập đến
hay đề cập đến nhưng chưa chính xác tuyệt đối như các truyện lịch sử khác.
Chẳng hạn như chi tiết Nguyễn Hoàng đến xin Nguyễn Bỉnh Khiêm kế giữ
thân vào năm 1600, nhưng thực tế thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mất từ năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn26
1585, trước lúc Nguyễn Hoàng vào Nam tới mười lăm năm. Hay chi tiết năm
Header Page 27 of 112.
21
1625 Trịnh Tráng sai người đi mời Phùng Khắc Khoan về để giải nghĩa hai
chữ thanh thúy nhưng theo lịch sử thì Phùng Khắc Khoan đã mất từ năm 1613
rồi. Do đó, nếu xét về góc độ lịch sử thì cũng có những tiểu tiết chưa thật
chính xác để khiến cho tác phẩm trở thành một bộ sử, nhưng xét dưới góc độ
văn học thì đây là một tiểu thuyết lịch sử chương hồi hay, có độ tin cậy cao,
xứng đáng là một tác phẩm mở đầu cho nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi
của Việt Nam.
Với tám quyển tương đương với tám hồi truyện dài và nhiều chi tiết sự
kiện lịch sử, tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí đã khái quát lại bức
tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam thời kỳ Nam – Bắc phân tranh. Truyện
bắt đầu từ thời điểm Nguyễn Hoàng dẫn hơn một nghìn thủy quân vào đánh
nhau với các tướng nhà Mạc để giành vùng Thuận Hóa năm 1558. Sau khi
giành được vùng này, Nguyễn Hoàng một mặt vẫn giữ lễ phiên thần với vua
Lê – chúa Trịnh một mặt lại âm thầm xây dựng cố đô ở phương Nam. Tiếp
sau đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng là đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, nổ ra
sự kiện Nguyễn Khải kéo năm nghìn quân vào bờ bắc sông Nhật Lệ khai mào
thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Chúa Nguyễn
củng cố thế đứng, thu nhận nhiều người từ Bắc Hà vào, đương cự với Chúa
Trịnh liên tiếp bảy lần đại chiến từ năm 1627 tới năm 1672. Cuộc chiến này
có nhiều nhân vật tài giỏi về quân sự - chính trị nổi lên như Đào Duy Từ,
Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, chúa Trịnh
Tráng, chúa Trịnh Căn, chúa Trịnh Tạc. Đánh nhau một khoảng thời gian dài
không có kết quả, hai phe đi vào thế đình chiến. Cuộc chiến tranh không đem
lại kết quả gì chỉ khiến nhân dân hai miền lâm vào cảnh khốn khó, kinh tế của
nước nhà đình trệ, tất cả nhằm thỏa mãn lòng tham lam, hiếu thắng, ích kỷ
của các thế lực phong kiến đương thời. Cùng với việc miêu tả chiến trận, tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn27
phẩm còn đề cập tới nhiều vấn đề nổi bật ở cả hai miền trong thời kỳ này như:
Header Page 28 of 112.
22
những vụ lục đục tranh quyền đoạt chức của nội bộ quan lại cả Đàng Trong
và Đàng Ngoài, những mâu thuẫn trong dòng tộc, anh em chém giết lẫn nhau;
những vụ làm phản, phế ngôi vua chúa…diễn ra rất thường xuyên. Qua đó,
tác phẩm phản ánh sự mục nát thối ruỗng của bộ phận quan lại phong kiến
suy đồi, chỉ đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của muôn vạn dân đen…
Truyện khép lại ở đời chúa Nguyễn Phúc Trăn vào khoảng năm 1689.
Với dung lượng truyện dài và cốt truyện phức tạp, nhưng lại được viết
với lối tiểu thuyết chương hồi, cho nên tác phẩm không hề gây sự nhàm chán
cho người đọc mà có sức thu hút lớn bởi những câu dẫn chuyện rất đặc trưng
của tiểu thuyết chương hồi. Kết thúc mỗi hồi truyện lại có một bài thơ thất
ngôn để bình luận hay cảm thán góp phần làm dịu đi không khí căng thẳng
của chiến trận đồng thời đem lại sắc thái trữ tình cho tác phẩm. Điều đó cho
thấy đây quả thực là một tác phẩm văn học chứ không phải là một bộ sách
lịch sử đơn thuần. Nhận xét về Nam triều công nghiệp diễn chí trong Từ điển
văn học (bộ mới) có viết: Đây có thể coi là tác phẩm mở đầu cho thể loại tiểu
thuyết chương hồi Việt Nam thời kỳ trung đại. Tuy không tránh khỏi lối lược
thuật một cách dài dòng, nhân vật được miêu tả công thức, ngôn ngữ chưa
được chú ý chau chuốt… nhưng nhiều sự kiện chính trị ở cả Đàng Trong và
Đàng Ngoài có liên quan cuộc chiến, nhiều âm mưu phế lập biến loạn, nhiều
trận đánh lớn được lược thuật bằng phong cách kể chuyện chân xác, sinh
động, tự nhiên và tương đối hấp dẫn. Trên nền tảng những sự kiện lịch sử thế
kỷ XVI – XVII, thân thế, hành trang, tính cách của nhân vật lịch sử cũng hiện
lên khá rõ. Ở một số trường hợp, tác giả đã sử dụng lời đối thoại để góp
phần làm bộc lộ tính cách, mưu lược của nhân vật…[19,1033] .
1.1.2.3. Tương quan tiểu thuyết chương hồi Nam triều công nghiệp diễn chí
với Tam quốc diễn nghĩa
Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam ra đời sau tiểu thuyết chương hồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn28
Trung Quốc rất nhiều năm và chịu ảnh hưởng nặng nề của tiểu thuyết chương
Header Page 29 of 112.
23
hồi Trung Quốc là kết quả tất yếu của sự học hỏi, kế thừa từ một nền văn hóa
lớn. Sự ảnh hưởng lớn ấy in đậm trong cả nội dung và hình thức tác phẩm.
Nam triều công nghiệp diễn chí cũng không nằm ngoài quy luật đó, người đọc
dễ dàng nhận thấy những nét tương đồng giữa Nam triều công nghiệp diễn chí
của Nguyễn Khoa Chiêm với Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Tuy
nhiên, đọc kỹ tác phẩm, người đọc sẽ phát hiện ra Nguyễn Khoa Chiêm đã
vận dụng một cách linh hoạt thành tựu của tiểu thuyết chương hồi Trung
Quốc để từ đó sáng tạo nên một tác phẩm rất độc đáo, riêng biệt mang đậm đà
bản sắc dân tộc Việt Nam.
Nếu chỉ đánh giá bề ngoài thì thoạt nhìn Nam triều công nghiệp diễn chí
không có gì khác Tam quốc diễn nghĩa ở phần hình thức kết cấu cả. Như nội
dung thì được chia thành các hồi, tiêu đề các hồi thường được tóm tắt bằng
một bài thơ tóm tắt nội dung của hồi đó, mở đầu, kết thúc đều có những bài
thơ Đường luật. Khi kết thúc hồi và chuyển sang hồi khác đều hay sử dụng
những từ ngữ có sẵn như: “…không biết… như thế nào, hãy xem hồi sau phân
giải”… Thế nhưng khi tìm hiểu kỹ vào từng chi tiết, ta sẽ thấy có những khác
biệt rất rõ để chứng tỏ Nguyễn Khoa Chiêm có sự vận dụng linh hoạt vào tác
phẩm của mình, làm cho tác phẩm của mình có nét độc đáo, sáng tạo riêng.
Cụ thể là ở việc triển khai câu chuyện theo dòng thời gian tuyến tính, các
sự kiện được triển khai theo dòng thời gian từ năm nọ sang năm kia, mùa nọ
sang mùa kia… đó gọi là lối ghi theo kiểu biên niên. Nhưng khi ghi thời gian,
La Quán Trung chỉ chú ý tới hai yếu tố không thể thiếu được là niên hiệu (đời
vua) và tuế thứ (năm của niên hiệu đó), chẳng hạn như: Thái Nguyên nguyên
niên 251; Diên Hi thứ mười lăm 252… . Nhưng trong Nam triều công nghiệp
diễn chí thì Nguyễn Khoa Chiêm lại chú ý tới việc biên niên với ba yếu tố:
niên hiệu, tuế thứ và can chi, chẳng hạn như: …năm Mậu Ngọ, niên hiệu
Chính Trị thứ nhất (1558); Mậu Ngọ niên hiệu Hoằng Định thứ mười chin
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn29
(1618)... Sở dĩ thời gian của Nguyễn Khoa Chiêm đề cập đến tận can chi là
Header Page 30 of 112.
24
bởi ông chỉ tái hiện lịch sử trong khoảng thời gian một thế kỷ, nên việc nhớ rõ
và nắm được can chi là điều dễ hiểu, còn La Quán Trung phải tái hiện lịch sử
tới hàng nghìn năm nên không thể nhớ rõ can chi như vậy. Đó là một nét khác
biệt giữa hai tác phẩm.
Nét khác biệt thứ hai giữa hai tác phẩm là trong Tam quốc diễn nghĩa thì
khi kết thúc một sự kiện luôn có một bài thơ ngắn để kết lại, chủ yếu là thơ
thất ngôn hoặc ngũ ngôn nhưng thường thì chỉ có bốn câu. Ví dụ như: Ở hồi
61, sự kiện Tử Long xông vào vòng vây giành lại A Đẩu, làm cho quân Đông
Ngô khiếp sợ, La Quán Trung có thơ bình luận như sau:
“Năm xưa cứu chúa ở Đương Dương
Nay lại liều thân trận Đại Giang
Ngô Quyền tướng sĩ bay hồn vía
Tử Long anh dũng tiếng đồn vang.”
[43,621]
Còn Nguyễn Khoa Chiêm lại có những bài thơ dài hơn, thường là thơ
tám câu, cụ thể như trong sự kiện Lộc Khê Đào Duy Từ mất, Sãi Vương vô
cùng thương tiếc nhân tài nên khóc lóc, Nguyễn Khoa Chiêm có thơ rằng:
Thơ rằng:
“Lén mây tiên hạc đã bay lâu
Đầu cúi chăng kham chuyện tủi sầu
Đất Bắc thanh danh sông núi biết,
Trời Nam sự nghiệp sử truyền lưu.
Mưu thân chí lớn thêm giàu nước,
Giúp chúa tài cao sánh Vũ Hầu.
Đường chửa chung xe thân thác trước,
Vua tôi thương khóc lệ rơi trào.”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn30
[ 8, 190 – 191]
Header Page 31 of 112.
25
Việc sử dụng những bài thơ tám câu như vậy cho thấy Nam triều công
nghiệp diễn chí hoàn toàn không xuất phát từ thoại bản như Tam quốc diễn
nghĩa. Ngoài ra, ta thấy cách giới thiệu thơ của mỗi tác giả cũng khác nhau.
Trước mỗi bài thơ, La Quán Trung thường cho là thơ đó của người hậu nhân
(người thời sau) đánh giá, bình luận về sự kiện, còn Nguyễn Khoa Chiêm thì lại
nói rằng đó là thơ của người thời nhân (người đương thời). Cách nói này mang
tính thời sự hơn, khiến cho sự kiện diễn ra có độ tin cậy cao hơn.
Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, ta thấy có nhiều sự kiện, tình huống
có môtip giống với Tam quốc diễn nghĩa, đó là điều khó tránh khỏi trong quá
trình học hỏi kinh nghiệm từ một nền văn hóa lâu đời hơn, nhiều thành tựu
hơn. Thế nhưng phải khẳng định lại một lần nữa rằng Nguyễn Khoa Chiêm
không hoàn toàn coppy lại nguyên mẫu của La Quán Trung mà chỉ là sự học
hỏi rồi từ đó vận dụng, và sáng tạo ra những tình tiết mới thể hiện rõ tư chất
của mình và điều đó bộc lộ rõ nét trong tác phẩm của ông. Cụ thể như cùng là
dùng kế nghi binh nhưng hai nhân vật Trương Phi và Chiêu Vũ Nguyễn Hữu
Dật lại có hai cách làm riêng khác biệt nhau. Trương Phi trong Tam quốc diễn
nghĩa dùng cành cây buộc vào đuôi ngựa để cho ngựa chạy, lồng lên tạo ra
bụi mù mịt, khiến cho đối phương từ xa nhìn lại tưởng quân của Trương Phi
mạnh không dám giao chiến. Còn với Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật thì ông
cũng dùng kế này nhưng ở hoàn cảnh không có ngựa như Trương Phi mà ông
cho quân lính chặt cành cây rồi sai lính mỗi người cầm hai cành cây đi đi lại
lại trong rừng, lại sai quân trèo lên treo cờ ở trên cành cao. Cờ hứng gió bay
phần phật khắp nơi, khiến quân Trịnh từ xa trông thấy tưởng là đội quân cả
trăm vạn. [8, 476] Hay ở cảnh Thành không gảy đàn, La Quán Trung đã miêu
tả Khổng Minh trong một hình ảnh của một nhân vật siêu phàm, có tính chất
thần thánh hóa nhân vật. Khổng Minh mở toang cả bốn cửa thành rồi ngạo
nghễ ngồi đốt hương gảy đàn trước sự ngạc nhiên, bối rối, lo lắng của mười
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn31
lăm vạn quân của Tư Mã Ý đang không hiểu ông đang làm gì và không dám
Header Page 32 of 112.
26
động binh. Với mưu lược ấy, Khổng Minh đã cứu mình một bàn thua trông
thấy. Cũng cùng kế này nhưng Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật của Nguyễn Khoa
Chiêm lại thực tế hơn, đúng chất con người hiện thực Việt Nam hơn, không
hề mang nét sử thi, thần thánh hóa. Đó là một trận đánh tại đồn Khu Độc,
biết mình không thể cự lại nổi sự bao vây của quân Trịnh, cũng không thể rút
lui lộ liễu được, nếu quân Trịnh thấy quân Nguyễn rút lui hẳn sẽ biết thế của
quân Nguyễn yếu hơn và đánh đuổi. Để bảo toàn lực lượng, Chiêu Vũ đã
dùng kế của Khổng Minh, một mặt ông cho quân sĩ vui vẻ ca hát, gõ trống
gảy đàn trước sự uy hiếp của quân Trịnh để ra vẻ binh hùng tướng mạnh,
không sợ thế lực của quân Trịnh, nhưng một mặt ông vẫn lặng lẽ chuyển mật
lệnh sửa soạn rút quân…[8, 473], nhờ đó mà lực lượng của quân Nguyễn
được an toàn. Trong truyện còn có một số chi tiết nếu không đọc kỹ sẽ nhầm
tưởng rằng Nguyễn Khoa Chiêm lấy từ La Quán Trung như việc dùng binh
pháp, cụ thể như việc dùng kế li gián ở Tam quốc diễn nghĩa có sự kiện Tào
Tháo bị Chu Du lừa mà giết đi hai tướng tài của mình là Sái Mạo và Trương
Doãn. Còn ở Nam triều công nghiệp diễn chí thì có sự kiện Trịnh Tráng bị
Chiêu Vũ lừa mà giết tướng giỏi Hàn Tiến. Hay những nhân vật có phần hao
hao giống nhau về tính cách như Khổng Minh với giọng điệu khẩu chiến quần
nho rất giống với giọng điệu của Đào Duy Từ. Hay tính nóng nảy của Trương
Phi với bản tính khá nóng nảy, dứt khoát, và rất đỗi trung thành của Tiết Chế
Thuận Nghĩa. Tính cương trực, không màng danh lợi của Quan Công giống
với bản tính thật thà của Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật…
Qua việc phân tích một số nét tương đồng ở hai truyện, ta nhận thấy tác
phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí mặc dù chịu ảnh hưởng nhiều của nền
tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc nhưng vẫn mang đậm bản sắc riêng. Điều
đó khiến cho nền tiểu thuyết chương hồi Việt Nam luôn khẳng định được vị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn32
trí đứng của mình, không bị lạc vào tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc.
Header Page 33 of 112.
27
1.2. Lý thuyết chung về tự sự học và việc vận dụng lý thuyết tự sự học
vào nghiên cứu tác phẩm
1.2.1. Lý thuyết chung về tự sự học
Tự sự học là một chuyên ngành còn khá mới trong khoa học nghiên cứu
văn học nước ta. Hiện nay, nhiều vấn đề của tự sự học cũng đã được các nhà
lí luận quan tâm, tìm hiểu, nhưng có thể coi là muộn so với các nước trên thế
giới. Từ năm 1969, Tezvetan chính thức khai sinh danh từ tự sự học (narrato
logie- tiếng Pháp) khi xuất bản công trình Ngữ pháp câu chuyện mười ngày.
Đến thập niên 70 – 80, tự sự học bắt đầu thịnh hành ở Mỹ thế nhưng chủ
yếu vẫn ứng dụng và phát huy các mô thức lý luận của Pháp.Tự sự học đã tạo
nên một không gian lý tưởng cho đối thoại và hòa nhập giữa truyền thống phê
bình Mỹ và lý luận văn học ở Châu Âu.
Ở Trung Quốc, lý thuyết tự sự học được giới thiệu từ những năm 80 của
thế kỷ XX. Và ở Việt Nam, GS.TS Trần Đình Sử đã nói rằng: “Chúng ta cần
xây dựng cho mình một hệ thống thuật ngữ tiếng Việt về tự sự học”.
Sự phát triển của tự sự học trên thế giới đã khiến cho ngành phê bình lý
luận của Việt Nam ta đứng trước đòi hỏi phải nghiên cứu, phát triển hơn nữa
về lĩnh vực này để bắt kịp đà phát triển của khu vực và nhân loại. Ngày
9/1/2001, Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tổ chức hội
thảo khoa học về tự sự học với sự tham gia của đông đảo học giả và các nhà
phê bình, nghiên cứu. Tại hội thảo này có sự tham gia đóng góp của nhiều
nước qua những bài tham luận nghiên cứu lý thuyết tự sự trên mọi phương
diện của các trường phái trên thế giới và tìm hiểu về truyền thống tự sự của
Châu Âu, Mỹ, Trung Quốc đồng thời bước đầu tìm hiểu về cách thức tự sự
trong văn học Việt Nam. Hội thảo là một dấu mốc lớn đầu tiên của chuyên
ngành tự sự học nước ta.
Với phạm vi hạn hẹp của luận văn, chúng tôi không có tham vọng trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn33
bày tất cả những vấn đề lý thuyết về tự sự bởi đây là một vấn đề vượt ngoài
Header Page 34 of 112.
28
khả năng người viết. Trên cơ sở thành tựu của chuyên ngành tự sự học, chúng
tôi dựa theo một số luận điểm quan trọng để soi chiếu vào Nam triều công
nghiệp diễn chí, phân tích đánh giá tác phẩm từ một góc nhìn mới: góc nhìn
tự sự.
Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa
rộng là nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề có liên quan,
hoặc nói cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản
tự sự nhằm tìm một cách đọc. Tên gọi Tự sự học – Narratology, Narratologie,
là do nhà nghiên cứu Pháp gốc Bungari T.Todorov đề xuất năm 1969, trong
sách “Ngữ pháp Câu chuyện mười ngày”, làm cho ngành nghiên cứu tự sự
trước nay có được một cái tên chính thức và trở thành một khoa nghiên cứu
có tính độc lập vì nội hàm văn hóa của nó.
Tự sự có nghĩa là “kể việc” “kể chuyện” nhưng ngày nay tự sự không
đơn giản chỉ là việc kể chuyện mà là một phương pháp nghiên cứu không thê
thiếu để giải thích, lí giải quá khứ và nó có nguyên lý riêng. Roland Barthes
nói: “Đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự sự”[52,12]. Năm 1993,
J.H.Miller, nhà giải cấu trúc người Mỹ có nói: “Tự sự là cách để ta đưa các
sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng ta có được ý nghĩa. Tự sự là
cách tạo nghĩa cho sự kiện, biến cố”[52,12]. Đến năm 1998, Jonathan Culler
cũng nói: “Tự sự là phương thức chủ yếu để con người hiểu biết sự
vật”[52,12]. Muốn hiểu sự vật nào thì người ta kể câu chuyện về sự vật đó,
như vậy tự sự có nội hàm rất rộng bởi tự sự là phương thức tạo nghĩa và
truyền thông tin. Trong các hình thức tự sự thì tự sự văn học được coi là khá
phức tạp, vì vậy nó đã được nghiên cứu từ xa xưa và đã trở thành đối tượng
nghiên cứu chủ yếu của tự sự học.
Thuật ngữ Narratology được người Trung Quốc dịch là “tự sự học” và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn34
“tự thuật học”, hai khái niệm này có nghĩa tương đương với nhau nhưng trong
Header Page 35 of 112.
29
một số trường hợp lại có sự khác biệt. Cụ thể như “tự thuật học” thì nghiêng
về việc nghiên cứu từng phương diện như hành vi kể, lời kể và cấu trúc sự
kiện, còn “tự sự học” thì nghiên cứu cả hai mặt hành vi lời kể và cấu trúc sự
kiện. Đặc biệt, khi nghiên cứu vào các cấu trúc tự sự cụ thể thì hầu hết người
ta dùng thuật ngữ “tự sự học”.
GS. TS Trần Đình Sử cho rằng: “Gọi là tự sự học, theo chúng tôi nghĩ,
nó bao gồm cả phần lý thuyết cấu trúc văn bản tự sự, cấu trúc sự kiện vừa
bao gồm cả phần nghiên cứu các hình thức và truyền thống tự sự trong các
nền văn học dân tộc cũng như sự so sánh chúng với nhau. Gọi là tự sự học
nói lên được thực chất và tầm bao quát của một bộ môn nghiên cứu liên
ngành” [52,22]
Thực tế tự sự học là khái niệm đã được dùng từ xa xưa. Từ thời Aristote,
Platon người ta đã biết phân biệt các loại tự sự: Tự sự lịch sử khác tự sự nghệ
thuật. Đến thế kỷ V, người ta đã biết phân biệt: Tự sự mô phỏng, tự sự giải
thích và tự sự hỗn hợp nhưng phạm vi quan tâm vẫn chỉ ở trong giới hạn tu từ
học.
Tự sự học hiện đại hình thành từ cuối thế kỷ XX, có thể chia làm ba thời
kì: Tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc, Tự sự học chủ nghĩa cấu trúc và Tự sự
học hậu chủ nghĩa cấu trúc.
Ở thời kì trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học chủ yếu nghiên cứu các
thành phần và chức năng của tự sự. Đến thời kì chủ nghĩa cấu trúc thì người ta
lại chú ý đi tìm mô hình cho hình thức tự sự. Đặc điểm của lí thuyết tự sự chủ
nghĩa cấu trúc là lấy ngôn ngữ học làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở
rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng của ẩn dụ. Mục đích của chủ
nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp nhằm tìm
ra một cách đọc tự sự mà không cần phải đối chiếu giản đơn tác phẩm tự sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn35
với hiện thực khách quan. Mặc dù không phủ nhận được mối quan hệ giữa
Header Page 36 of 112.
30
văn học với đời sống nhưng các tác giả đã góp phần làm sáng tỏ bản chất biểu
đạt và giao tiếp của tự sự. Sau thời kì chủ nghĩa cấu trúc, sang đến thời kì hậu
chủ nghĩa cấu trúc là thời kì gắn liền với kí hiệu học, lấy văn bản làm cơ sở. Ở
đây, hình thức tự sự là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm và như thế
lí thuyết tự sự phải gắn liền với chức năng nhận thức và giao tiếp.
Tổng quan lại toàn bộ quá trình phát triển của lí thuyết tự sự, nhà lí luận
tự sự Mĩ Gerald Prince đã chia làm ba nhóm: nhóm thứ nhất bao gồm những
nhà tự sự chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V.Propp.
Một trong số những người đó là Greimas, ông đã nghiên cứu và giản lược các
chức năng mà V.Propp đưa ra còn hai mươi và có phương pháp làm nổi bật
logic tự sự. Ngoài ra, các nhà lí luận khác như Todorov, Barthes, Remak,
Norman Freidman, Northrop Frye, Etienne Sourian…mỗi người có một cách
riêng và đã chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, đi tìm mẫu cổ của tự
sự, chức năng của biến cố và qui luật tổ hợp, logic phát triển và loại hình cốt
truyện…. Đã có lúc họ cho rằng tác phẩm tự sự không bị chi phối bởi chất
liệu và như thế câu chuyện có thể kể bằng nhiều hình thức khác nhau như ba
lê, điêu khắc, điện ảnh, hội họa…. Cho nên có thể bỏ qua hoặc không đi sâu
vào chất liệu. Nhóm thứ hai lấy G.Genette là đại diện tiêu biểu, có quan điểm
xem nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ nói hay viết để biểu đạt nên rất
coi trọng vai trò của người trần thuật. Ngôn ngữ của người trần thuật được
chú ý rất nhiều vào các yếu tố cơ bản như điểm nhìn trần thuật, giọng điệu
trần thuật… Nhóm này thu hút nhiều nhất sự tham gia của các nhà nghiên cứu
như Dolezel, Micke Bal… Nhóm thứ ba là nhóm coi trọng phương pháp
nghiên cứu tổng thể, hay dung hợp, họ thường coi trọng cả cấu trúc sự kiện
lẫn cấu trúc lời văn. Nhóm này bao gồm những nhà nghiên cứu như: Gerald
Prince, Seymuor Chatman, J.Culler…
Người trần thuật vô hình nên trước đây ít được nhắc đến, ít được chú ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn36
phân tích, lí thuyết tự sự học hiện đại đã chỉ ra người trần thuật như là một hệ
Header Page 37 of 112.
31
thống biểu đạt bởi thực tế và trần thuật đã chi phối tiến trình tự sự từ hình
thức đến bình luận. Lí thuyết tự sự cho thấy sự biến dạng thời gian bằng các
biện pháp rút gọn, tỉnh lược, kéo dài, dừng lại, lặp lại và các hình thức đổi
thay tính liên tục của sự kiện. Từ đó, nó giúp quan sát cụ thể hơn cơ chế nghệ
thuật của tự sự. Tự sự nghiên cứu sâu về hành vi ngôn ngữ tự sự và các hệ
thống của nó, bao gồm việc phân loại các cách chuyển thuật ngôn ngữ người
khác như trực tiếp, gián tiếp, tự do, các hình thức đối thoại nội tâm, dòng ý
thức. Tự sự học gắn chặt với phong cách học tiểu thuyết, không thể nghiên
cứu phong cách học tiểu thuyết nếu bỏ qua tự sự.
Trong tác phẩm tự sự, vai trò của người trần thuật khá quan trọng. Trần
thuật là một phương diện cơ bản của phương thức tự sự. Người trần thuật giới
thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật
theo cách nhìn của chính mình. Thành phần của tự sự không chỉ là lời thuật,
chức năng không chỉ là kể việc, mà thành phần và chức năng của nó bao hàm
cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, đan
xen những lời bàn luận về cuộc sống, phong tục, đạo đức, những lời trữ tình
ngoại đề, lời ghi chú của tác giả. Hình thức chủ yếu của trần thuật là độc thoại
nội tâm nhưng cũng có thể là độc thoại hoặc mang tính chất độc thoại.
Trong văn học phương Tây thế kỉ XVIII, thể loại tiểu thuyết phát triển
mạnh và rất thịnh hành lối trần thuật sử dụng ngôi thứ nhất. Cách trần thuật
này có khi biến thành dòng ý thức hay lời độc thoại nội tâm của người trần
thuật. Còn những tiểu thuyết mà người kể ở ngôi thứ ba đã xuất hiện trước đó
rất lâu, với đặc điểm là ngôi kể thứ ba có cái nhìn khá khách quan, có thể kể
một cách tự do linh hoạt… Ở Việt Nam, thời kì này đã xuất hiện Nam triều
công nghiệp diễn chí với ngôi kể thứ ba đã tái hiện lại một cách khách quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn37
về những sự kiện lịch sử nước ta thời Trịnh – Nguyễn phân tranh.
Header Page 38 of 112.
32
1.2.2. Việc vận dụng lí thuyết tự sự vào nghiên cứu tác phẩm Nam triều
công nghiệp diễn chí
Thực tế nghiên cứu cho thấy việc nghiên cứu tự sự đã mở ra khả năng
nghiên cứu truyền thống tự sự trong mỗi nền văn học. Chúng ta biết rằng mỗi
nền văn học đều có một hệ thống thể loại tự sự và các thể loại ấy tiếp nối nhau
trong lịch sử. Nhưng thực chất về sự khác biệt của các thể loại thì từ trước tới
giờ ta chỉ có thể nhận ra một cách cảm tính. Hiện nay, nhờ có lí thuyết tự sự,
ta đã được cung cấp những khái niệm về cấu trúc văn bản, cho phép ta nhận ra
các đặc điểm trên một cách cụ thể, sáng rõ và khoa học.
Lí thuyết tự sự cho ta thấy không chỉ là kĩ thuật trần thuật của các thể
loại, các nhà văn mà còn cho ta thấy cả một truyền thống văn hóa ở đằng sau
nó, và từ đó cho ta nhìn lại các vấn đề văn học dân tộc một cách chính xác và
sâu sắc.
Văn học Việt Nam có truyền thống tự sự từ lâu đời. Song song với quá
trình sưu tầm, phát hiện, phiên dịch, phiên âm, giới thiệu, diện mạo của nền
văn học ngày càng lộ rõ. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu văn học dân tộc cho
đến nay chủ yếu vẫn chỉ là các công trình nghiên cứu về các dữ kiện bề ngoài
như tiểu sử tác giả, niên đại, bối cảnh lịch sử, nội dung phản ánh, chủ nghĩa
hiện thực, chủ nghĩa nhân đạo… mà chưa đi sâu vào việc nghiên cứu cấu trúc
tự sự bên trong. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng nhận biết về giá trị
lịch sử của văn học nước nhà, dẫn tới sự thiếu hụt một lượng kiến thức lớn về
lịch sử nghệ thuật ngôn từ và lịch sử văn hóa, văn học của chính dân tộc ta.
Do đó, việc tìm hiểu và vận dụng kiến thức về tự sự học là rất quan trọng
trong việc nghiên cứu văn học.
Từ tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, người viết cũng sẽ đi sâu
tìm hiểu tác phẩm ở góc độ của nghệ thuật tự sự. Từ đó sẽ cố gắng chỉ ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn38
những cái hay, độc đáo và đặc sắc của tác phẩm dưới góc nhìn tự sự.
Header Page 39 of 112.
33
Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí là cuốn tiểu thuyết lịch sử
chương hồi đầu tiên của Việt Nam. Khi viết tác phẩm này, Nguyễn Khoa
Chiêm không có ý định viết một bộ sách lịch sử đơn thuần, mà ông muốn qua
sử tạo nên một tác phẩm văn học để lưu giữ lại một cách khách quan lịch sử
nước nhà ở thời kì hỗn độn nhất thời kì Nam – Bắc phân tranh. Cho nên ở
truyện này, ta thấy tác giả đã kết hợp rất khéo léo giữa sử và văn để xây dựng
nên một Nam triều công nghiệp diễn chí hay và độc đáo.
Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, ta sẽ thấy tác giả có lối kể
chuyện rất tự nhiên, khách quan đó là bởi tác giả sử dụng ngôi kể thứ ba, tạo
được cái nhìn chân thực, sống động. Luận văn sẽ có những phân tích cụ thể để
thấy được nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Khoa Chiêm.
Ngoài ra, luận văn sẽ tập trung tìm hiểu sâu hơn về nội dung mà tác
phẩm đề cập đến, đó là những sự kiện lịch sử chân thật, những nhân vật lịch
sử với những tính cách sống động. Trong lịch sử nước ta thời trung đại thì
thời kì nội chiến đã trải qua nhiều trận đánh lớn, trong đó có bảy trận nội
chiến nồi da xáo thịt, gây bao tang thương chết chóc cho nhân dân. Bảy trận
nội chiến đó là: Trận chiến năm 1627, trận thứ hai năm 1633, trận thứ ba năm
1643, trận thứ tư năm 1648, trận thứ năm vào năm 1655-1660, trận thứ sáu
năm 1661-1662, trận thứ bảy năm 1672. Tuy nhiên, trong Nam triều công
nghiệp diễn chí, ta thấy bị khuyết đi hai trận nội chiến đó là trận thứ ba năm
1643 và trận thứ tư vào năm 1648. Những trận còn lại đều được tác giả dựng
lại một cách rất chi tiết, cụ thể. Đó là những trận đánh được mô tả hết sức
sống động như thể đang diễn ra ngay trước mắt bạn đọc vậy. Điều đó chứng
tỏ sự tài tình của tác giả trong nghệ thuật viết truyện.
Ngoài ra, nét đặc sắc nữa trong tác phẩm là tác giả đã sử dụng rất linh
hoạt các bài thơ để đưa vào tác phẩm, và nhờ có các bài thơ mà Nam triều
công nghiệp diễn chí mềm mại, uyển chuyển hơn nhiều. Đặc biệt, sau mỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn39
trận đánh, mỗi sự kiện nổi bật, tác giả lại đưa ra một bài thơ hoặc một vài câu
Header Page 40 of 112.
34
thơ để đánh giá, khiến cho tác phẩm văn học sử trở nên trữ tình và hấp dẫn
hơn. Đồng thời với việc sử dụng các bài thơ, Nguyễn Khoa Chiêm còn có sự
kết hợp giữa các điển tích, điển cố nhằm tạo nên một tác phẩm văn chương
hoàn hảo, có chiều sâu. Việc kết hợp giữa ba yếu tố văn, sử, thơ dưới bàn tay
tài hoa của Nguyễn Khoa Chiêm đã khiến cho những sự kiện lịch sử cách đây
hàng mấy trăm năm trở nên sống động trước mắt độc giả nhiều thế hệ.
Đọc tác phẩm, ta còn thấy ngoài việc am hiểu về chính trị, ngoại giao,
các mưu lược trong chiến trận…, Nguyễn Khoa Chiêm còn thể hiện mình là
một người am hiểu về địa lý, về thế giới tâm linh, về tử vi…. Điều đó không
chỉ cho thấy tài năng, trình độ học vấn của tác giả mà còn giúp bạn đọc hiểu
được phần nào tầng lớp trí thức Việt Nam thời kì này.
Như vậy, nhờ vào tài năng và sự sáng tạo của mình, Nguyễn Khoa
Chiêm đã xây dựng thành công tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí.
Dưới góc nhìn tự sự, tác phẩm này có rất nhiều điều cần nghiên cứu và phân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn40
tích, đó sẽ là nhiệm vụ của luận văn ở những chương sau.
Header Page 41 of 112.
35
Chương 2
CẤU TRÚC TỰ SỰ CỦA NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ
2.1. Cách xây dựng truyện
Nam triều công nghiệp diễn chí là tác phẩm được mệnh danh là cuốn tiểu
thuyết lịch sử chương hồi đầu tiên của Việt Nam, tác phẩm đã đạt được những
thành tựu nhất định về nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên, điều quan trọng
nhất làm nên giá trị của Nam triều công nghiệp diễn chí là đã phản ánh chính
xác và chi tiết lịch sử đương đại nước ta thời kì bấy giờ. Thật khó để có được
một cuốn tiểu thuyết mà vừa có thể coi là một tác phẩm văn học, vừa có thể
coi là một bộ sách lịch sử. Từ đầu, tác giả Nguyễn Khoa Chiêm đã xác định là
mình viết văn chứ không viết sử, việc đó thể hiện ngay ở tên tác phẩm, nhưng
những sự kiện ông đề cập đến lại khiến người đọc thấy nó có giá trị của một
pho sử lớn bởi tính chân thực, chính xác và hết sức cụ thể. Tuy còn một vài
tiểu tiết chưa thật sự chuẩn xác, song đó có thể coi là những sai số trong quá
trình thu thập, tổng hợp các dữ kiện của ông hoặc cũng có thể đó là sự hư cấu
nghệ thuật nhằm mang đến cho tác phẩm màu sắc văn chương.
2.1.1. Dung lượng truyện dài
Một tác phẩm văn học hay không phải được đánh giá bằng độ dài, ngắn
hay số trang, số quyển mà ở chất lượng nghệ thuật của nó. Nhưng độ dài,
ngắn của tác phẩm lại tạo nên tên gọi thể loại như: truyện ngắn, truyện dài,
truyện vừa, tiểu thuyết… Thông thường, truyện ngắn có dung lượng từ vài
dòng đến vài chục trang, còn tiểu thuyết rất khó dừng lại ở con số đó. Tiểu
thuyết thường nhiều hơn số trang là điều dễ hiểu, bởi vì chỉ trong một khối
lượng trang viết lớn, nó mới chứa đựng được nhiều vấn đề, bao trùm được
nhiều vấn đề lớn lao của cuộc sống đất nước. Rất nhiều nhà nghiên cứu cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn41
đã chỉ ra sự bao quát của thể loại tiểu thuyết lớn hơn truyện ngắn rất nhiều
Header Page 42 of 112.
36
trong quá trình sáng tác văn học. Nói như vậy để thấy có sự quy định về độ
dài ngắn cho mỗi thể loại văn học tự sự. Còn để đánh giá về giá trị của tác
phẩm đó thì lại dựa vào những nội hàm bên trong của tác phẩm.
Nam triều công nghiệp diễn chí là một tác phẩm có dung lượng truyện
dài. Tác phẩm gồm tám quyển và có sáu trăm ba mươi hai trang. Nguyễn
Khoa Chiêm vốn là một công thần của triều Nguyễn, lại được sinh sống trong
một gia đình quan lại, hơn nữa sau khi ông lấy vợ thì nhạc phụ của ông lại là
một chức quan lớn,có quyền bàn việc chính sự nên ông có điều kiện để tập
hợp những dữ kiện, tài liệu phục vụ cho quá trình viết lách của mình. Có thể
khẳng định rằng, trong số các tiểu thuyết lịch sử của nước ta, hiếm có tác
phẩm nào lại có sức truyền tải lớn như Nam triều công nghiệp diễn chí. Tác
phẩm đã đề cập đến tình hình đất nước trong một quãng thời gian dài với biết
bao sự kiện của cả hai Đàng. Đồng thời đó cũng là tiếng nói ngầm phê phán
sự chuyên quyền độc đoán của các thế lực phong kiến, vì lợi ích của bản thân
mình mà đem dân chúng bỏ vào cảnh nồi da xáo thịt.
Với dung lượng tám quyển tương đương với tám hồi lớn, đây là một bộ
tiểu thuyết có dung lượng truyện dài rất đáng chú ý. Mặc dù không thể sánh
nổi với các bộ tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc nhưng với chức danh
là tác phẩm mở đầu cho nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi đầu tiên của Việt
Nam thì đúng là một sự mở đầu đầy ấn tượng. Nếu đem so sánh với Tam quốc
diễn nghĩa, sở dĩ tác phẩm của La Quán Trung có dung lượng dài hơn hẳn,
bởi tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc thường có nguồn gốc từ các thoại
bản, hàng loạt thoại bản đã được tập trung lại và chỉnh sửa để thành một hệ
thống lớn, còn với Nam triều công nghiệp diễn chí, tác phẩm ghi chép lại một
thời kì lịch sử ở nước ta, với hầu hết những sự kiện chính nổi bật của giai
đoạn lịch sử từ 1627 đến 1672 qua những trận đánh lớn nhỏ khác nhau thì tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn42
phẩm ngắn hơn là điều dễ hiểu. Tính chân thực cao, diễn biến lịch sử được
Header Page 43 of 112.
37
trình bày sinh động hoàn toàn nhờ vào sự sáng tạo của tác giả qua nghệ thuật
kể chuyện độc đáo khiến cho tác phẩm trở nên gần gũi, cuốn hút độc giả.
Tóm lại, với độ dài như Nam triều công nghiệp diễn chí đang có thì quả
thật đây là một tiểu thuyết lịch sử lớn, có giá trị đến từng chi tiết, sự kiện chứ
không phải dài vì những tình tiết thừa. Do vậy, có thể kết luận một lần nữa là
Nam triều công nghiệp diễn chí là tiểu thuyết lịch sử chương hồi có dung
lượng lớn, có giá trị lịch sử đặc biệt so với mặt bằng chung của tiểu thuyết
chương hồi của nước ta thời kì này.
2.1.2. Cốt truyện phức tạp
Bất cứ một tác phẩm tự sự nào cũng phải có cốt truyện, cốt truyện là yếu
tố quan trọng để câu chuyện hình thành và có ý nghĩa, vậy cốt truyện là gì?
Theo cuốn 150 thuật ngữ văn học của tác giả Lại Nguyên Ân, cốt truyện
là “sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác
phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình” [3,112]
Còn hiểu một cách giản dị thì cốt truyện là một chuỗi các sự việc làm
nòng cốt cho diễn biến câu chuyện hay cụ thể hơn cốt truyện là hệ thống sự
kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính
cách nhân vật trong tác phẩm văn học.
Thực ra, thuật ngữ cốt truyện đã được áp dụng lần đầu vào thế kỷ XVII
từ các nhà văn cổ điển chủ nghĩa P. Corneille và N. Boileau. Các nhà văn này
đã học theo cách nói của Aristoteles, muốn nói đến những sự cố bất thường
trong đời các nhân vật truyền thuyết xa xưa mà các nhà viết kịch thời sau
thường vay mượn.
Bản thân thuật ngữ cốt truyện của tiếng Việt thì từ cốt được hiểu như là
cái lõi, bộ xương, cái sườn, cơ sở của truyện chứ chưa phải là truyện. Đó là
một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó trỏ lớp biến cố của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn43
hình thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố đã tạo ra sự vận động của nội
Header Page 44 of 112.
38
dung cuộc sống được miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là
một phẩm chất có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các
nghệ thuật cùng loại. Trong các thể loại văn học, cốt truyện chính là thành
phần quan trọng thiết yếu của tự sự và kịch và có rất ít ở một số tác phẩm trữ
tình mang tính tự sự.
Cốt truyện có vai trò quan trọng bởi vì cốt truyện tạo ra một trường hành
động cho các nhân vật, cho phép tác giả thể hiện và lí giải tính cách của
chúng. Các hành động của nhân vật dệt nên cốt truyện, cốt truyện hay hoặc dở
một phần lớn ở phương diện hành động của nhân vật. Chức năng của cốt
truyện là bộc lộ các mâu thuẫn trong đời sống, tức là thể hiện xung đột.Có
nhiều kiểu cốt truyện khác nhau như kiểu cốt truyện biên niên và cốt truyện
đồng tâm, cốt truyện đơn tuyến hay cốt truyện đa tuyến.
Cốt truyện được xây dựng bằng nhiều biện pháp kết cấu khác nhau.
Trình tự thông báo với người đọc về các sự kiện diễn ra, việc nhấn mạnh
những liên hệ bên trong mang ý nghĩa và cảm xúc giữa các sự kiện là phạm vi
kết cấu cốt truyện. Lối kết cấu bằng trình tự liên tiếp trước sau của các sự kiện
khiến cho người đọc luôn thấy sự mới mẻ qua từng chi tiết. Ngoài ra, còn có
lối kết cấu đảo lộn trật tự thời gian của các sự kiện, nhằm chuyển sự chú ý của
người đọc từ sự việc sang nội tình bên trong nhân vật.
Các kết cấu cốt truyện được tạo ra theo nhiều cách khác nhau. Có loại cốt
truyện trong đó các sự kiện là kết quả hư cấu thuần túy của nhà văn nhưng
cũng có loại cốt truyện lấy nguyên mẫu từ đời sống thực như các loại cốt
truyện dựa trên các sự kiện lịch sử có thật hoặc loại cốt truyện dựa trên tiểu sử
bản thân nhà văn qua các tác phẩm tự truyện. Có những loại cốt truyện lại dựa
trên dấu tích các câu chuyện hình sự, hoặc cốt truyện vay mượn, được xây
dựng dựa vào một hoặc những cốt truyện văn học đã có sẵn nhưng được điều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn44
chỉnh theo mục đích của người viết.
Header Page 45 of 112.
39
Như vậy, trên cơ sở khái quát một số nét cơ bản về cốt truyện, trở lại với
tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, ta thấy tác phẩm có dung lượng lớn
như vậy thì đương nhiên là sự phức tạp của cốt truyện sẽ tỉ lệ thuận với độ dài
của tác phẩm. Đọc kĩ tác phẩm, người ta nhận thấy cốt truyện của Nam triều
công nghiệp diễn chí rất phức tạp với nhiều tình huống, nhiều sự kiện đan cài,
xen kẽ vào nhau. Điều này là do nội dung phản ánh của truyện là toàn cảnh xã
hội Việt Nam trong giai đoạn nội chiến lớn nhất trong lịch sử trung đại với
khoảng thời gian hơn một trăm năm, tác phẩm đã đề cập rất sâu rộng tình hình
đất nước ta trong giai đoạn này xoay quanh cuộc chiến của các thế lực phong
kiến tranh giành quyền lực, ngôi vị. Đó là cuộc chiến giữa nhà Lê với nhà
Mạc, rồi cuộc chiến giữa quân Nguyễn với quân Trịnh hay cuộc chiến yếu ớt
của vua Lê với chúa Trịnh , hay những cuộc xung đột tranh giành ngôi báu
của các tập đoàn phong kiến Đàng Trong và Đàng Ngoài. Với từng ấy nội
dung được truyền tải trong tám tập truyện, ta thấy cốt truyện thật sự phức tạp
và rắc rối. Chúng tôi xin tóm tắt lại nội dung cơ bản của tác phẩm qua từng
quyển để thấy được sự phức tạp và phong phú của cốt truyện Nam triều công
nghiệp diễn chí.
Ở quyển một, tác giả bắt đầu kể từ sự kiện Mạc Đăng Dung cướp ngôi
nhà Lê. Cựu thần nhà Lê là An Tĩnh hầu Nguyễn Kim dùng danh nghĩa Phù
Lê diệt Mạc chiêu binh mãi mã lập con vua Chiêu Tông là Lê Ninh lúc này
đang trốn ở Ai Lao về làm vua, lấy hiệu là Trang Tông. Nguyễn Kim sau đó
bị nhà Mạc hại chết, còn lại con trai là Nguyễn Hoàng cùng con rể là Trịnh
Kiểm tiếp tục sự nghiệp phò tá vua Lê. Trịnh Kiểm vì có ý muốn thâu tóm
quyền lực nên muốn hại em vợ, song Nguyễn Hoàng tìm kế xin vào trấn thủ
vùng Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa tìm cách dẹp được quân
Mạc, giành lấy phần đất đai phía Nam, bắt đầu sự nghiệp trấn thủ Thuận Hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn45
từ năm 1558. Trịnh Kiểm thấy vậy liền sai anh em quận Mỹ đánh Nguyễn
Header Page 46 of 112.
40
Hoàng nhưng không thành. Nguyễn Hoàng từ đó thu phục được nhân tâm của
dân hai xứ Thuận, Quảng. Năm 1570 Trịnh Kiểm qua đời, con trai là Trịnh
Tùng lên thay. Trịnh Tùng đã điều binh đánh bại quân Mạc vào những năm
1570, 1578, 1580 và năm 1593. Vua Lê Anh Tông qua đời, thái tử Duy Đàm
lên thay hay còn gọi là Lê Thế Tông. Thời gian này, vua Lê bắt đầu bạc
nhược, không dám tự ý quyết định việc triều chính mà mọi việc chủ yếu do
Trịnh Tùng quyết định.
Năm 1583, Mạc Hồng Ninh tiến đánh nhà Lê, Trịnh Tùng đã dẹp tan
quân Mạc. Năm 1591, Trịnh Tùng lại cất quân đánh dẹp Sơn Tây khiến cho
Mạc Hồng Ninh phải bỏ chạy về Đông Kinh. Đến năm 1593, Trịnh Tùng đã
lấy lại được Đông Kinh, rước vua Lê về Thăng Long, quân Mạc thua chạy,
Mạc Hồng Ninh bị bắt giết, nhà họ Mạc đều bị tiêu diệt chỉ trừ con của Mạc
Hồng Ninh là Mạc Đăng Mạo trốn thoát lên Cao Bằng tiếp tục tụ tập đồ đảng
xưng là Long Thái vương. Trịnh Tùng lại đem quân đánh tan nhà Mạc, cuối
cùng bắt giết được tông thất nhà Mạc là Mạc Hùng Lễ ở miền huyện Thanh
Lâm, từ đó dẹp yên được đồ đảng họ Mạc. Nhân cơ hội vua Lê trở về Thăng
Long, Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa ra chúc mừng và được vua Lê phong cho
chức Hữu Thừa tướng, đứng sau Trịnh Tùng. Đến năm 1595, Trịnh Tùng ép
vua Lê phong cho mình chức Đô Nguyên súy Tổng quốc Chính thái sư
Thượng phụ, tước Bình An vương và được phép mở vương phủ.
Năm Kỉ Hợi 1599, vua Lê Thế Tông qua đời, con trai là hoàng tử Lê Duy
Tân lên nối ngôi còn gọi là vua Lê Kính Tông. Do vua lúc lên ngôi còn nhỏ
nên Bình An vương Trịnh Tùng phải phụ giúp việc triều chính, nhân cơ hội
ấy, Trịnh Tùng thâu tóm quyền lực vào tay mình. Trịnh Tùng có ý muốn diệt
Nguyễn Hoàng để khỏi lo mối họa về sau, Nguyễn Hoàng biết vậy bèn dùng
kế ly gián cho hai tướng Bùi Văn Khuê và Phan Ngạn làm phản phóng hỏa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn46
đốt kinh thành. Nguyễn Hoàng ung dung trở về Nam. Trịnh Tùng phò giá vua
Header Page 47 of 112.
41
Lê đi chạy nạn trong Thanh Hoa đã trở về Thăng Long sau khi Bùi Văn Khuê
và Phan Ngạn chém giết lẫn nhau. Trịnh Tùng tiếp tục đem quân đi đánh dư
đảng nhà Mạc ở Nam Dương, dẹp yên được bảy huyện ở Hải Dương. Nguyễn
Hoàng sau khi trở về Nam cũng ra sức chăm lo cho muôn dân đồng thời cũng
ấp ủ mưu đồ việc lớn.
Năm Quí Sửu 1613, Nam chúa Đoan vương Nguyễn Hoàng qua đời, con
trai là Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên lên thay tiếp tục sự nghiệp của
cha, chăm lo cho muôn dân được yên ấm. Ở Đàng Ngoài thì thiên tai liên tiếp
xảy ra, dư đảng họ Mạc vẫn tiếp tục quấy phá khiến cho dân chúng bất an.
Trịnh Tùng phải cử con trai đi dẹp loạn nhà Mạc, đồng thời phải trấn an dân
chúng. Năm 1619, vua Lê Kính Tông muốn lật đổ Trịnh Tùng bèn câu kết với
con trai thứ của Trịnh Tùng là Vạn Quận công Trịnh Xuân lập mưu giết Trịnh
Tùng. Việc bất thành, Vua Lê Kính Tông bị Trịnh Tùng giết và lập thái tử Lê
Duy Kỳ lên ngôi hay còn gọi là vua Lê Thần Tông.
Quyển hai nội dung chủ yếu xoay quanh việc tranh giành quyền lực ở
triều đình Đàng Trong sau khi Nguyễn Hoàng mất năm 1620. Đó là sự ghen tị
của Văn Nham hầu và Thạch Xuyên hầu khi thấy Thụy Quận công được nối
ngôi chúa. Hai người bèn nhờ quân Trịnh vào giúp sức nhằm lật đổ Thụy
Quận công để cướp ngôi. Nhưng âm mưu ấy đã bị Tuyên Lộc – một vị tướng
giỏi phát hiện ra. Thụy quận công cho quân đi bắt sống anh em Văn Nham.
Từ đó, chúa Nguyễn giận quân Trịnh vì đã đem quân vào mưu lật đổ triều
Nguyễn để lấn át bờ cõi nên từ đấy không nộp thuế ra Kinh đô nữa mà giữ lại
nhằm chuẩn bị cho mưu đồ riêng. Năm Tân Dậu 1621, Nhà Mạc ở Cao Bằng
lại đánh xuống Kinh đô, bị quân của Vinh Quốc công đánh cho chạy tan tác.
Năm 1623, Trịnh Tùng ốm nặng, con cháu họ Trịnh thi nhau dùng kế để
giành ngôi chúa. Cha con Trịnh Đỗ đã dùng mưu đưa Trịnh Tùng về nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn47
riêng, rồi lừa giết Trịnh Xuân. Trịnh Tráng nghe tin bèn đem quân đi lánh ở
Header Page 48 of 112.
42
Ninh Giang đồng thời tranh thủ củng cố lực lượng. Sau khi Trịnh Tùng mất,
vì lo sợ thế lực của Trịnh Tráng nên cha con Trịnh Đỗ đến đầu hàng. Trịnh
Tráng lên ngôi chúa thay cha, sau này quận Thạch, con trai Trịnh Đỗ làm
phản đã bị Trịnh Tráng giết chết.
Năm 1624, Trịnh Tráng cho người vào Đàng Trong đòi thuế nhưng chúa
Nam lấy lí do mất mùa không nộp. Năm 1625, chúa Trịnh sai người lên Cao
Bằng dẹp loạn đảng họ Mạc, bắt được bè lũ nhà Mạc về Kinh đô, nhà Mạc xin
hàng để giữ mạng, tiếp tục tính kế về sau. Thời gian này xuất hiện nhân vật
Đào Duy Từ còn gọi là Lộc Khê là người tài giỏi nhưng lại là con nhà ca
xướng nên không được Bắc triều trọng dụng. Đào Duy Từ đã vào Nam tìm
cách tiếp cận với chúa Nguyễn và đã được chúa Nguyễn, tin dùng. Năm Bính
Dần 1626, chúa Trịnh lại sai người vào Nam đòi chúa Nguyễn nộp thuế, chúa
Nguyễn vẫn không nộp nên chúa Trịnh nổi giận quyết đem quân đi đánh phạt.
Năm Đinh Mão 1627, Thanh Đô vương dẫn quân đánh phạt xứ Nam, bắt đầu
cho một quá trình nội chiến lâu dài, hao người, tốn của. Chiêu Vũ Nguyễn
Hữu Dật dùng kế khiến cho quân Trịnh rút lui về Kinh đô.
Tiếp theo là sự kiện chúa Nam nghe theo lời của Đào Duy Từ cho đắp
lũy Nhật Lệ để làm kế cố thủ, giữ lấy tô thuế xung vào việc chi dùng để “mưu
tính khôi phục Trung đô”[8, 168]. Chúa Trịnh sai đóng quân ở châu Bố Chính
cố ý nhòm ngó vào chính sự của Nam triều. Ở Nam triều, con trai chúa
Nguyễn là Nguyễn Phúc Anh muốn tranh giành ngôi chúa bèn ngấm ngầm
nhờ Thanh Đô vương giúp đỡ. Tháng 10 năm 1633, Thanh Đô vương đem đại
binh đi đánh Nam Hà với mục đích kết hợp với quân của Nguyễn Phúc Anh
để lật đổ chúa Nguyễn nhưng không thành, quân Trịnh bị đánh thua chạy tan
tác, lại bị cướp mất phần đất ở châu Bố Chính. Nguyễn Phúc Anh từ đó rắp
tâm làm phản. Tháng 10 năm 1634, Đào Duy Từ qua đời được chúa Nam truy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn48
phong lập đền thờ phụng. Năm 1635, Sãi vương ốm nặng rồi qua đời, truyền
Header Page 49 of 112.
43
ngôi chúa lại cho con trai là Nguyễn Phúc Lan. Dương Nghĩa Hầu Nguyễn
Phúc Anh nghe tin không về chịu tang cha, chúa Nguyễn rất buồn ra lệnh bắt
sống giải về chứ không giáng tội chết vì vẫn nghĩ xót tình anh em. Ở Bắc
triều, Thanh Đô vương Trịnh Tùng cũng nghi ngờ và ghen tị với người em
mình là Trịnh Phúc nên lập mưu sai Trịnh Phúc lên Cao Bằng dẹp nhà Mạc
rồi sai người ngầm giết hại. Sự việc không thành, Trịnh Phúc cũng uất ức và
uống thuốc độc tự vẫn.
Năm Mậu Dần 1638, nhà Mạc ở Cao Bằng đánh xuống Thái Nguyên
nhưng cũng bị Thanh Đô vương đánh tan. Tháng 4 năm 1640, chúa Trịnh ban
quốc tính cho Hiền Quận công Nguyễn Khắc Tôn ở châu Bố Chính, từ đó y
sinh lòng kiêu ngạo muốn đoạt lấy Nam triều để lập làm chúa. Chúa Thượng
bèn lập mưu trừ Nguyễn Khắc Tôn. Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật dùng kế ly
gián khiến chúa Trịnh tự bắt giết Nguyễn Khắc Tôn. Sau khi biết mình mắc
mưu, chúa Trịnh vô cùng căm giận, muốn đem quân đánh phạt Nam triều. Ở
Nam triều, chúa Thượng bị người vợ góa của anh trai Khánh Mỹ Hầu mê
hoặc nên không quan tâm đến chính sự mà chỉ muốn ăn chơi hưởng thụ khiến
dân chúng oán thán. Ở thời điểm này, không nói đến việc chúa Thượng qua
đời năm 1648, con trai thứ hai là Hiền vương Nguyễn Phúc Tần nối ngôi.
Quyển bốn bắt đầu bằng sự kiện sau khi lên ngôi, Nguyễn Phúc Tần có ý
muốn mở mang bờ cõi, tiến quân ra Bắc. Năm 1655, thấy Hàn Tiến thường
xuyên đem quân quấy nhiễu vùng ven Bố Chính, chúa Nguyễn sai Chiêu Vũ
Nguyễn Hữu Dật và Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến cầm quân đi đánh dẹp.
Trong thế trận lần này, Hàn Tiến thua phải tháo chạy về Hẻm Nó, Chiêu Vũ
Nguyễn Hữu Dật muốn chiêu dụ Hàn Tiến nhưng không được bèn nổi giận
dùng kế ly gián, mượn tay họ Trịnh giết Hàn Tiến. Chúa Trịnh mắc mưu bèn
bắt Hàn Tiến về Kinh chịu tội, Hàn Tiến uất ức uống thuốc độc chết. Nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn49
Nguyễn chiếm được Nghệ An bèn dùng kế chiêu dân khiến dân tình ở Nghệ
Header Page 50 of 112.
44
An theo về rất đông. Quân Trịnh tiếp tục cho quân vào đánh chiếm Dinh Cầu
nhưng mắc mưu quân Nguyễn nên đại bại, binh sĩ chết rất nhiều, quân
Nguyễn thừa thắng xông ra phá tan doanh trại ở Lạc Xuyên rồi dẫn quân
thẳng đến cửa Kỳ La tiến đánh quân thủy. Quân Nguyễn thắng to, quân Trịnh
thảm bại phải cầu quân cứu viện. Đương Quận công Đào Quang Nhiêu dẫn
một vạn năm trăm nghìn quân vào tiếp ứng. Trận đầu giao chiến, quân Trịnh
thua bèn lui về cố thủ. Bên Nam, Chiêu Vũ cho người mang của cải ra bốn
trấn ở Đàng Ngoài làm thuyết khách chiêu dụ hào kiệt cùng họp sức đánh họ
Trịnh. Nhà Mạc ở Cao Bằng, quận Phấn ở hải Dương, Phạm Hữu Lễ ở Sơn
Tây đều nhất loạt đồng ý giúp chúa Nguyễn đánh ra thu phục Trung đô, đánh
dẹp họ Trịnh. Trên chiến trường, cuộc chiến giữa hai thế lực Trịnh – Nguyễn
diễn ra hết sức khốc liệt, quân Nam đánh cho quân Bắc thua chạy tan tác.
Quận Đương thua chạy xấu hổ về báo tin với triều đình, chúa Trịnh sai Ninh
Quận công Trịnh Tuyền đem quân vào tiếp ứng. Nhưng Trịnh Tuyền lại mắc
mưu Chiêu Vũ nên bị đánh thua chạy. Tình hình chiến trận cực kì hỗn độn.
Giữa lúc ấy, ở Thăng Long, Tây Định vương đang đau đầu tìm cách đối phó
với các thế lực trong và ngoài muốn đánh vào Kinh đô. Chúa Trịnh bèn nghĩ
kế đánh quận Phấn ở Hải Dương trước, Phạm Hữu Lễ biết tin ấy tìm cách lọt
vào phủ chúa Trịnh, chiêu mộ lòng người, định làm nội ứng cho quân Nam và
sai con trai vào làm con tin tại Nam triều.
Quyển năm bắt đầu từ sự việc con trai Phạm Hữu Lễ là Tú Phượng vào
Nam dâng chúa Hiền tờ khải cùng sổ ứng nghĩa của Phạm Hữu Lễ và những
người cùng chí hướng phù Nguyễn diệt Trịnh ngoài Bắc để bày tỏ lòng trung
thành và mong chúa Hiền sớm tiến ra Đàng Ngoài. Chúa Hiền rất mừng và
ban thưởng cho những người đó. Ngày 18 tháng 4 năm 1657, Thanh Đô
vương Trịnh Tráng mất, Tây Định vương Trịnh Tạc lên ngôi chúa. Chúa Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn50
ban đầu định nhân cơ hội này đem quân đánh xong lại nghĩ nếu tiến đánh
Header Page 51 of 112.
45
người đang có tang là bất nghĩa nên thôi. Ở Đàng Ngoài, Trịnh Tạc vừa lên
ngôi đã giết Ninh Quốc công Trịnh Tuyền rồi sai Phú Quận công Trịnh Căn
vào Nghệ An thống lĩnh binh quyền. Trịnh Căn dẫn quân đánh vào đồn lũy
của quân Nguyễn nhưng bị Nguyễn Hữu Dật đánh cho thua chạy và quân
Nguyễn chiếm đánh luôn lũy Đồng Hôn, Nghệ Tĩnh. Hai bên Trịnh – Nguyễn
còn đánh nhau mấy trận để tranh giành lũy Đồng Hôn này. Năm 1659, có bảy
vị nhân sĩ ở Đàng Ngoài vào Nam xin được theo phò chúa Nguyễn, nhân dịp
này chúa Nguyễn sai Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật cùng Thuận Nghĩa Nguyễn
Hữu Tiến bàn mưu tính kế, định ngày tiến quân ra Bắc.Tháng hai năm 1659,
Trịnh Căn sai người viết thư khiêu khích quân Nguyễn là “càn bậy tự phong
tước lớn, không đếm xỉa gì đến thiện ý của tiên vương, có ý định xâm lăng
thôn tính”[8, 403]. Chiêu Vũ và Thuận Nghĩa tức giận sai người viết thư
mắng trả, hai bên lời qua tiếng lại với nhau một thời gian đến tháng 5 năm
1659 mới chấm dứt. Bên Trịnh yếu thế hơn,vừa thẹn vừa tức sau đó sai người
mang lễ vật sang dụ dỗ Chiêu Vũ đầu hàng nhưng thất bại. Lúc bấy giờ, việc
cha con Ký Lục hồ Phạm Hữu Lễ bị lộ, chúa Trịnh sai người bắt giết cả họ
nhà Ký Lục hồ không sót một ai, sự việc này khiến cho kế hoạch tiến quân ra
Bắc của quân Nguyễn bị hoãn lại vì mất đi nội ứng. Chiêu Vũ tức giận bèn
viết thư bêu diếu Trịnh Tạc việc định dụ hàng mình, mắng họ Trịnh lừa dối
hại vua, tàn ngược dân chúng. Quân Trịnh tức giận liền sai Lan Quận công
dẫn quân tiến vào Nam. Lúc này quân Nam đã chiếm bảy tám châu ở Nghệ
An, thi hành nhiều luật lệ mới như tuyển chọn binh lính, thu thuế thân, đo
ruộng tính thóc để thu tô thuế, quấy nhiễu trăm họ nên phần nào cũng bị mất
lòng dân. Quân Trịnh nhân cơ hội đó cho người rải tờ rơi, tố cáo quân Nam,
làm dân lung lay theo quân Trịnh rất nhiều. Ngoài ra, vào thời điểm này, giữa
hai vị tướng giỏi của Nam triều là Chiêu Vũ và Thuận Nghĩa có bất đồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn51
quan điểm dẫn tới bất hòa.
Header Page 52 of 112.
46
Quyển sáu bắt đầu từ sau khi quân Trịnh cố tình cho người rải tờ rơi làm
lay động lòng nhân dân thì tiết chế Thuận Nghĩa nghe tin có quân lính manh
tâm làm phản. Chiêu Vũ thì bị nghi ngờ rồi buồn rầu, lo nghĩ đến ốm yếu đi.
Thuận Nghĩa thấy quân mình không đủ mạnh để giữ Nghệ An nên đã quyết
định rút quân. Cũng do hai vị tướng có chuyện bất hòa với nhau mà trong trận
đánh năm 1660 ở bờ Bắc sông Lam, quân Nguyễn bị thua. Sau đó, quân
Nguyễn đóng quân ở bờ nam sông Lam. Trịnh Căn vì căm ghét Chiêu Vũ
năm lần bảy lượt bày kế khiến quân Trịnh bị thua bèn sai quân đánh úp muốn
bắt sống Chiêu Vũ rồi thừa cơ hội bắt luôn Thuận Nghĩa nhằm chặt đứt hai
cánh tay đắc lực của chúa Nguyễn. Chiêu Vũ biết được bèn dẫn quân chặn
đánh quân Trịnh khiến quân Trịnh thua to phải dẫn quân chạy trốn về đồn
cảng Phúc Châu. Đến tháng mười năm 1660, quân Nam đã chán nản với cuộc
chiến này, lòng dân thì ly tán không ủng hộ, lại thêm có số quân lính Bắc theo
hàng trước kia nay có ý làm phản nên Thuận Nghĩa muốn chém đi nhưng
Chiêu Vũ không đồng ý, muốn tiến hành đánh nhanh cho lòng quân và dân đỡ
chán. Thuận Nghĩa bề ngoài thì đồng ý nhưng bên trong ngầm có ý rút lui, sau
khi thất trận ở lũy Lũng Gió thì càng quyết tâm rút quân về Nam. Ngày hai
bảy tháng mười một năm 1660, Thuận Nghĩa một mặt truyền lệnh cho tướng
các đạo sửa soạn đem quân đánh nhau qua bờ bắc sông Lam lần nữa để thừa
cơ đánh thẳng ra Trung đô, một mặt lại dặn riêng các tướng đến canh ba tự rút
quân về địa giới phía nam châu Bố Chính, hẹn gặp nhau ở lũy Hoành Sơn,
nhưng lại không báo cho Chiêu Vũ biết nên Chiêu Vũ bị bỏ lại giữa vòng vây
của quân Trịnh. Chiêu Vũ phải bày kế nghi binh, bí mật rút ra ngoài nhằm
hướng Đèo Ngang đi gấp đến ngày hai mươi chín tháng mười một năm 1660
mới về đến lũy Hoành Sơn, lúc ấy quân Bắc có đuổi theo nhưng bị quân Nam
mai phục nên thua chạy về Bắc.
Tháng giêng năm 1661, Chiêu Vũ được chúa Hiền phong cho làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn52
Chưởng trấn, thủ dinh Bố Chính, đến tháng tám lại điều Chiêu Vũ về đóng ở
Header Page 53 of 112.
47
xã Phúc Lộc để tiện cho việc phòng thủ. Tháng mười một năm 1661, chúa
Trịnh sai con trai là Trịnh Căn đem quân vào đánh Đàng Trong trả thù việc
năm trước quân Nam xâm phạm bờ cõi. Quân Trịnh vượt sông Gianh tiến
thẳng về phía trấn dinh Bố Chính, chúa Hiền biết tin liền sai con trai thứ hai là
công tử Hiệp Đức Nguyễn Phúc Thuần đem quân đi chặn giặc. Quân Trịnh
lừa quân Nguyễn đưa sắc chỉ giả của vua để mở cổng thành nhưng không
được bèn nổi giận xua quân đánh gấp nhưng không địch nổi với quân Nam
bèn trở về đóng trại ở thôn Phúc Tự, chia quân đi đào đất đắp lũy để tạo thế
cầm cự cố thủ. Chiêu Vũ cho quân rút vào lũy Đồng Hới. Tháng giêng năm
1662, quân tướng bên Nam sau khi bàn bạc quyết định dùng kế dĩ dật đãi lao
nghĩa là lấy quân nhàn nhã đối chọi với quân mệt mỏi để đánh quân Trịnh. Từ
đó quân Nam án binh bất động, không đáp trả mọi hành động khiêu chiến của
quân Bắc. Quân Bắc viết thư nhục mạ Chiêu Vũ và yêu cầu Chiêu Vũ tự đầu
hàng để cùng tận hưởng phú quý nếu không sẽ lâm vào tình trạng đầu rơi máu
chảy. Chiêu Vũ vô cùng tức giận bèn bàn với nguyên súy Hiệp Đức tấn công
quân Trịnh. Nhân lúc trời tối, Chiêu Vũ tấn công, quân Trịnh bị bất ngờ khiếp
sợ bèn bỏ chạy cuống cuồng về phía Bắc, nhưng quân Nam lại bất ngờ đánh
chặn, quân Bắc càng hoảng loạn thi nhau chạy về Kinh đô chịu tội. Sau chiến
thắng này, chúa Hiền lại hạ lệnh cho đẵp lũy ở xã Trấn Ninh để bảo vệ cửa
biển cùng với lũy Động Cát làm thành thế ỷ dốc để sẵn sàng cố thủ. Tháng
mười hai năm 1662, vua Lê Thần Tông qua đời, Lê Huyền Tông lên nối ngôi.
Tháng hai năm 1664, Thuận Nghĩa do tuổi cao sức yếu xin từ quan, Chiêu Vũ
lên thay thế giữ chức Tiết chế Trấn thủ đạo Lưu Đồn. Tháng hai năm 1666,
chúa Hiền cho xây dựng chùa trên núi Cổ Rùa ở bãi cát Trường Sa. Tháng
tám năm 1666, Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến qua đời, được truy tặng Hiệp
Mưu tá Lý công thần Trung quân Đô đốc phủ Chưởng phủ sự Đại Đô đốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn53
tước Thuận Quận công.Từ năm 1668, chúa Hiền liên tục cho tu sửa kênh
Header Page 54 of 112.
48
mương, ruộng đồng, chú ý phát triển nông nghiệp, nên mùa màng tốt tươi.
Năm 1671, Bắc triều lại sai người vào đòi cống nộp sản vật và tô thuế nhưng
chúa Nam không nghe khiến Tây Định vương Trịnh Tạc nổi giận định dấy
binh đánh phạt nhưng do điều kiện không phù hợp nên đành thôi. Chúa Trịnh
tích cực tranh thủ lấy lòng dân trong vùng và cầu thân với các nước Ô Lan,
Hoa Lang, Nhật Bản để chuẩn bị đánh Nam triều.
Quyển bảy bắt đầu từ năm Nhâm Tý 1672, Tây Định vương Trịnh Tạc
truyền lệnh điểm mười vạn quân nhưng lại nói lên mười tám vạn quân, đích
thân chỉ huy, kéo vua Lê đi cùng tiến vào và chiếm đất phía Nam. Tại đây,
diễn ra trận giao chiến lớn nhất trong Nam triều công nghiệp diễn chí. Chúa
Hiền phong cho công tử Hiệp Đức làm Nguyên súy cầm quân đánh địch.
Tháng bảy năm 1672, quân Trịnh đóng ở phía bắc sông Gianh tiến vào địa
giới xứ Nam. Trận đầu ra quân, Tây Định vương giành chiến thắng đem quân
vào đóng ở doanh Bố Chính, từ đó hai bên cố thủ không ra đánh. Chúa Hiền
họp bàn tìm kế đánh địch, muốn lợi dụng việc quân Trịnh đánh xa mệt mỏi và
địa thế hiểm trở ở đất Nam để chiếm ưu thế. Đồng thời, lại cho tuyển thêm
quân ở hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam rồi nói phao lên là có hai mươi sáu
vạn quân, nhằm uy hiếp tinh thần quân Trịnh.
Ngày hai mươi ba tháng chín năm 1672, Hiền vương đem đại quân đi
tiếp ứng cho đội quân của công tử Hiệp Đức đang cự nhau với địch. Bên quân
Trịnh, Tây Định vương từ khi đóng quân ở Bố Chính vẫn chưa đánh trận nào,
chỉ cố thủ sai lính đắp hào lũy để phòng thủ và nghe ngóng tình hình bên Nam
là chính. Tướng bên Nam là Vân Trường do chủ quan nên dẫn quân đánh
quân Bắc nhưng đại bại.Từ đó hai bên lại lui về cố thủ không giao chiến nữa.
Đến ngày hai mươi tháng mười một năm 1672, quân Bắc tiến đánh thành Trấn
Ninh, tại đây hai bên hỗn chiến quyết liệt, quân Bắc quyết tâm phá thành,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn54
quân Nam kinh sợ phải cầu cứu Hiệp Đức và Chiêu Vũ. Hai bên giao chiến
Header Page 55 of 112.
49
quyết liệt và thương vong rất nhiều,tâm trạng quân lính thì hoang mang lo sợ
và oán hận thế lực cầm quyền nhất là phía quân Trịnh do lính chết quá nhiều.
Trịnh Căn trúng gió nằm liệt giường phải đưa về Kinh gấp. Chúa Trịnh xét
thấy tình hình tướng sĩ đau ốm chết chóc nhiều mà lòng quân thì mệt mỏi,
thêm nữa dân ở bốn trấn ngoài Bắc có nhiều kẻ manh nha làm phản nên bàn
với vua Lê cho rút quân về điện Phù Lộ phía bắc sông Gianh. Tuy rút về Phù
Lộ nhưng trong lòng Tây Định vương vẫn vô cùng căm tức quân Nam nên
ngày mùng chín tháng mười hai năm 1672, đến doanh Bố Chính truyền lệnh
cho quân sĩ phải dốc sức đánh một trận lớn. Quân Nam thấy vậy dùng kế hư
trương thanh thế khiến quân Trịnh vô cùng kinh sợ. Quân Bắc định dùng kế
lừa quân Nam nhưng không thành. Đến ngày mười ba tháng mười hai năm
1672, quân Bắc cho đem súng lớn đến dàn trước thành Trấn Ninh bắn dồn dập
vào thành, hai bên giao chiến lớn. Tướng bên Trịnh thấy không hạ nổi thành
liền bỏ mặc quân lính ẩn nấp dưới hầm mà trốn về bờ bắc sông Gianh, đến khi
quân sĩ biết tướng đã chạy cũng đồng loạt hạ cờ, vứt súng đạn tranh nhau tháo
chạy, dẫm đạp cả lên nhau, chết nhiều không đếm xuể. Trận Trấn Ninh kết
thúc, quân Nam đại thắng. Tháng hai năm 1673, chúa Hiền truyền lệnh đem
quân về Phú Xuân.
Quyển tám bắt đầu từ tháng chín năm 1672, Tây Định vương Trịnh Tạc
khi đem quân đi đánh xứ Nam thì phò mã thứ hai là quận Tiến thấy trong
nước bỏ không bèn có ý làm loạn để đoạt lấy ngôi chúa. Tây Định vương
nghe tin ấy tức tốc trở về, bắt và tra hỏi quận Tiến mọi chuyện rồi xử phạt
quận Tiến cùng em trai bằng biện pháp lăng trì. Ở Đàng Trong, sau trận đại
chiến, chúa Hiền miễn thuế ba năm cho dân ở vùng bắc Bố Chính và huyện
Khang Lộc để nhân dân yên bề làm ăn, khắc phục hậu quả chiến tranh. Năm
1673, quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Đài muốn làm phản, không muốn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn55
cống nộp cho Nam triều nữa bèn sai sứ giả sang cầu viện Xiêm La giúp mình,
Header Page 56 of 112.
50
nhân đó nói phao lên rằng vua Xiêm La chuẩn bị đem quân sang đánh. Em
trai Nặc Ong Đài là Nặc Nộn chạy sang Nam triều cấp báo. Chúa Hiền biết tin
nổi giận, tháng tư năm 1674, sai quân tiến đánh sang đất Cao Miên, bị đánh
bất ngờ, Nặc Ong Đài bỏ chạy, Nặc Thu xin hàng, nguyện làm phiên thần mãi
mãi, hàng năm tiên cống cho Nam triều.
Tháng tư năm 1675, chúa Hiền mở khoa thi chọn kẻ sĩ, tuyển được hơn
ba mươi người thuộc hạng hoa văn. Tháng sáu năm 1675, công tử Hiệp Đức
qua đời ở tuổi ba mươi ba, Hiền vương đau xót sắc phong con là Minh nghĩa
Tuyên lực Công thần Khai quốc sự, thiếu úy Hiệp quận công Nguyễn Phúc
Thuần. Ở Bắc triều, khi thấy Hiệp Đức qua đời thì rất lấy làm mừng vì bớt
được một gánh lo. Tháng hai năm 1679, chúa Hiền lại cho quan khâm sai văn
võ đi tuyển duyệt quan lại ở hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam. Cùng năm đó
có một đoàn tàu thủy do tướng quân Dương Ngạn Địch nước Minh vì thua
quân Thanh chạy trốn, lại gặp bão nên dạt vào hải phận Nam triều. Dương
Ngạn Địch cầu xin một chốn nương thân được chúa Hiền thương tình giúp đỡ.
Ngày mười tám tháng hai năm 1681, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật đột ngột
lâm bệnh đến ngày mùng ba tháng ba năm 1681 thì qua đời thọ 78 tuổi. Chúa
Hiền vô cùng thương tiếc và sắc phong cho là Tán trị Tĩnh nạn Công thần, Tả
quan Đô đốc, Chiêu Quận công để đề đáp công lao bậc huân thần, cho dùng
nghi lễ tước công, an táng tại núi Yên Đại, Quảng Bình.
Tháng năm năm 1681, chúa Hiền cho đắp hai đài ngự để hàng năm đua
ngựa. Tháng hai năm 1684, chúa lại sai các quan đi tuyển quân ở hai xứ
Quảng Nam và Thuận Hóa. Tháng ba năm 1684, ở Bắc triều, Tây Định vương
Trịnh Tạc mất, Phú Quận công Trịnh Căn nối vị lúc đau ốm phải nằm ngự
triều mà chấp chính. Chúa Hiền thấy vậy có ý muốn đánh ra Trung đô, nhưng
do trong xứ mất mùa nên đành bỏ ý định ấy. Năm 1684, con trai trưởng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn56
chúa Hiền là Phúc Mỹ hầu Nguyễn Phúc Diễn mất, thọ 45 tuổi. Tháng bảy
Header Page 57 of 112.
51
năm 1685 công tử thứ tư là Cương Lĩnh hầu cũng qua đời. Tháng ba năm
1687, Chúa Hiền qua đời, thọ 68 tuổi, ở ngôi bốn mươi năm, con trai là
Hoằng Quốc công Nguyễn Phúc Trăn nối ngôi gọi là chúa Nghĩa. Năm 1688,
vua Cao Miên là Nặc Thu làm phản nên năm 1689, chúa Nghĩa sai quân đi
dẹp loạn. Truyện Nam triều công nghiệp diễn chí kết thúc ở đây, khép lại một
thời kì lịch sử tang thương của đất nước ta – thời kì Trịnh Nguyễn phân tranh.
Như vậy, tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí đã tái hiện toàn bộ
lịch sử nước nhà trong hơn một trăm năm với biết bao sự kiện, và hàng loạt
trận đánh khốc liệt. Có thể nói, với dung lượng dài như vậy, tác phẩm đã
truyền tải được một nội dung vô cùng to lớn. Nguyễn Khoa Chiêm quả là một
tài năng thiên bẩm khi ông vừa góp nhặt, vừa xây dựng thành một câu chuyện
lịch sử bề thế và hoành tráng như vậy. Đọc tác phẩm, ta thấy cuốn hút hấp dẫn
chứ không hề khô khan cứng nhắc như những câu chuyện lịch sử khác, chứng
tỏ sự sáng tạo tuyệt vời của tác giả.
2.2. Tự sự về thế giới nhân vật
2.2.1. Thế giới nhân vật
Nhân vật là phạm trù cơ bản của văn học. Trong nghiên cứu phê bình và
lí luận văn học, nhân vật là một khái niệm quen thuộc, thiết yếu. Ở tiểu thuyết
truyền thống, các nhân vật thường được xây dựng theo công thức bao gồm tên
gọi, tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách... Theo đó, nhà văn sẽ xây dựng nhân vật
từ những đường nét ngoại hình đến tính cách, hành động, tâm trạng… để các
nhân vật trở thành những hình tượng sống động.
Nhân vật văn học chính là con người được miêu tả, thể hiện trong văn
học bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về
con người và nhân vật chính là sản phẩm của tư duy nghệ thuật, sự sáng tạo
của nhà văn nhằm thể hiện một tư tưởng cụ thể.
Nhân vật văn học có thể là những con người giống như thật hoặc có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn57
nguyên mẫu ở ngoài đời, cũng có khi là những nhân vật do nhà văn hư cấu
Header Page 58 of 112.
52
tưởng tượng ra hoặc cũng có thể là các sự vật, hiện tượng trong đời sống…
nhưng mang dáng dấp, tâm hồn con người, được miêu tả cụ thể hoặc khái
quát và rất sinh động.
Nhân vật là yếu tố quan trọng cấu thành tác phẩm, nếu không có nhân vật
sẽ không có tác phẩm văn chương. Nhân vật nhiều khi là hình thức nghệ thuật
ước lệ để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng, và qua nhân
vật nhà văn cũng muốn gửi gắm quan niệm nghệ thuật và tư tưởng thẩm mỹ
của mình về con người và cuộc đời.
Xét về mặt kết cấu, ta có các loại nhân vật như: nhân vật chính, nhân vật
phụ, nhân vật trung tâm…
Còn xét về phương diện tư tưởng, ta có nhân vật chính diện, nhân vật
phản diện, tích cực, tiêu cực… Cách phân loại này dựa vào những mâu thuẫn
đối kháng trong xã hội.
Trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, ta thấy hệ thống nhân
vật rất lớn, hầu hết là những nhân vật có thực ngoài đời được tác giả đưa vào
truyện. Ngoài những nhân vật ở vị trí đỉnh cao của xã hội như vua, chúa, còn
có những nhân vật anh hùng nổi tiếng trong lịch sử như Phùng Khắc Khoan,
Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật… Đó là những con người có thật và rất quen
thuộc trong lịch sử Việt Nam ta ở thời kỳ này.
Đầu tiên phải kể đến là các vị vua nhà Lê. Kể từ sau khi bị nhà Mạc cướp
ngôi rồi được các công thần giúp sức lấy lại ngôi báu, sau đó được họ Trịnh
giúp đỡ rất nhiều khi gây dựng lại triều đình thì các vị vua Lê dần dần trở nên
mờ nhạt, họ trở thành những con bù nhìn cho nhà Trịnh giật dây, điều khiển.
Duy nhất có vua Lê Kính Tông định lật đổ họ Trịnh thì bị phát hiện và giết
chết. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, ta thấy sự xuất hiện của các vị
vua Lê rất đúng với ghi chép trong các bộ sử cũ.
Vua Lê Chiêu Tông là vị vua xuất hiện đầu tiên trong tác phẩm nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn58
sau đó bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi, Chiêu Tông phải chạy về Thanh Hóa và
Header Page 59 of 112.
53
tại đây ông đã thu thập tàn binh rồi tìm cách lấy lại Kinh đô nhưng ông đã bị
Mạc Đăng Dung bắt và giết hại.
Sau Lê Chiêu Tông là vua Lê Trang Tông tức Lê Ninh, con của Lê Chiêu
Tông là vị vua may mắn thoát chết khi cùng mẹ chạy trốn sang Ai Lao và sau
này được An Tĩnh hầu Nguyễn Kim tìm thấy, đón về đưa lên làm vua.
Sau Lê Trang Tông là vua Lê Anh Tông trị vì được mười bảy năm, thọ
bốn mươi hai tuổi. Vị vua này cũng không có quyền lực trong tay, chính sự
vẫn do phủ chúa quyết định.
Vua Lê Duy Đàm hay còn gọi là Lê Thế Tông, con trai vua Lê Anh
Tông, lên ngôi khi mới bảy tuổi, mọi việc vẫn giao cho Trịnh Tùng xem xét.
Vua trị vì hai mươi bảy năm, mất năm 1599 thọ ba mươi tư tuổi. Lê Duy Đàm
là vị vua đầu tiên trở về Kinh đô Thăng Long năm 1593, sau thời kì bị nhà
Mạc cướp ngôi phải chạy về đất Thanh Hóa.
Sau Lê Duy Đàm là vua Lê Duy Tân, con trai thứ hai của vua Quang
Hưng, lấy niên hiệu Thuận Đức, sau đổi lại là Hoằng Định vào năm 1619.
Vua Kính Tông là vị vua duy nhất của triều Lê không muốn là ông vua bù
nhìn và chịu cảnh họ Trịnh thâu tóm nên đã liên kết với Trịnh Xuân, con trai
Trịnh Tùng mưu giết Trịnh Tùng nhưng không thành. Vua bị thắt cổ chết, vứt
xác ra ngoài sân chầu.
Vua Lê Duy Kỳ hay còn gọi là vua Lê Thần Tông là con trai vua Lê Kính
Tông. Khi lên ngôi, lấy niên hiệu là Vĩnh Tộ, sau này đổi thành Khánh Đức
Vua Lê Duy Vũ niên hiệu Cảnh Trị tên khác là Lê Huyền Tông; Lê Duy
Cối tức Lê Gia Tông; Lê Duy Cáp tức Lê Hy Tông đều là những ông vua hết
sức mờ nhạt trong thời kì Lê Trung hưng nên rất ít xuất hiện trong tác phẩm.
Mặt khác, các ông vua này hầu hết khi lên ngôi còn rất trẻ, mọi việc triều chính
vẫn trong tay phủ chúa quyết định, họ hầu như chỉ là bù nhìn cho nên không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn59
được nhắc đến nhiều trong tác phẩm.
Header Page 60 of 112.
54
Như vậy, các vị vua triều Lê được đưa vào tác phẩm rất đúng so với các
sách lịch sử ghi lại. Điều này cho thấy tác giả đã rất tôn trọng lịch sử và có ý
thức xây dựng một tác phẩm văn học nhưng vẫn gắn chặt với lịch sử.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, các nhân vật triều Mạc cũng
chiếm một vị trí khá quan trọng. Nhà Mạc bắt đầu khi nhà Lê suy yếu, Mạc
Đăng Dung nổi dậy cướp ngôi. Thời gian đầu mới lên ngôi, nhà Mạc cũng giữ
quyền hành trong cả nước nhưng sau đó lại bị họ Trịnh đánh bại, nhà Mạc
thua phải bỏ chạy về Cao Bằng. Sau khi nhà Lê và họ Trịnh đã lấy lại được
Kinh đô, thi thoảng nhà Mạc lại kéo quân xuống đánh nhưng đều thất bại
thảm hại. Lần sau cùng tấn công Lê – Trịnh, Mạc Kính Cung thua và phải
chạy sang biên giới. Trong tác phẩm, nhà Mạc không được khắc họa nhiều và
mô tả chi tiết song cũng có một vài nhân vật được tác giả nói đến, đó hầu hết
là những nhân vật mà lịch sử cũng đã ghi chép như vua Mạc Đăng Dung là vị
vua đầu tiên của nhà Mạc là người gây dựng lên nhà Mạc bằng con đường
tiếm ngôi nhà Lê.
Vua Mạc Mậu Hợp niên hiệu là Sùng Khanh lên ngôi khi mới tròn hai
tuổi cũng chưa có phát kiến gì mới để xây dựng đất nước. Vị vua này sau đó
bị Trịnh Tùng giết và nhà Mạc bị lật đổ từ đây. Những đời vua Mạc về sau chủ
yếu lưu vong khắp nơi trên đất nước và thậm chí ra cả nước ngoài.
Khi Mạc Mậu Hợp lên ngôi còn quá nhỏ thì Tể tướng Diễn Quốc công
Mạc Kính Điển đã thay thế vua điều hành việc triều chính một thời gian.
Trong thời gian này, nhà Mạc thường đem quân đánh nhà Trịnh đang đóng ở
Thanh Hóa.
Mạc Đăng Mạo là con Mạc Mậu Hợp, sau khi nhà Mạc mất, Mạc Đăng
Hạo trốn lên Cao Bằng lập cơ sở và xưng tên hiệu là Long Thái vương.
Mạc Kính Chỉ con Tể tướng Mạc Kính Điển được đồ đảng họ Mạc ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn60
Thanh Lâm lập lên làm vua lấy niên hiệu là Khang Hựu. Sau này, Mạc Kính
Header Page 61 of 112.
55
Chỉ bị Trịnh Tùng bắt được và chém đầu, từ đó dư đảng nhà họ Mạc tạm thời
không dám nổi dậy nữa.
Mạc Kính Cung là vua Kiền Thống bị Trịnh Tùng đánh sang biên giới.
Ông vua này từng xưng vương ở Hải Dương.
Mạc Kính Khoan là Mạc Khánh vương, xưng vương ở Cao Bằng, đã
từng đem quân đi đánh nhà Lê nhưng toàn thất bại lại chạy về Cao Bằng, mãi
tới tháng giêng năm 1625, trong một trận đánh với nhà Lê bị thua to phải xin
hàng thì từ đó trở đi mới tạm yên vị không dám đánh quân Trịnh nữa. Ngoài
ra, còn có hai đời vua Mạc nữa là Mạc Kính Vũ niên hiệu Thuận Đức và Mạc
Kính Hoàn niên hiệu Thịnh Đức, hai vị vua này vẫn không hết hi vọng giành
lại ngôi báu từ nhà Lê nên thỉnh thoảng lại dấy quân đánh nhà Lê nhưng đều
thất bại.
Cũng giống như các vị vua triều Lê, các vị vua họ Mạc cũng xuất hiện
khá mờ nhạt trong tác phẩm, mọi sự trọng tâm chú ý hầu như được dồn hết
cho các nhân vật phía nhà Trịnh và nhà Nguyễn.
Về phía dòng họ Trịnh, từ khi phò tá vua Lê giành lại chính quyền và
giúp đỡ vua Lê dựng nước rồi dần dần tiếm quyền của vua Lê thì nhà Trịnh đã
trải qua năm đời chúa, từ Trịnh Kiểm cho đến Trịnh Căn. Họ hầu hết là những
nhân vật nổi tiếng được ghi danh trong lịch sử, nhưng trong tác phẩm của
Nguyễn Khoa Chiêm thì những vị chúa này hiện lên vô cùng chân thực, gần
gũi với bạn đọc. Nhân vật đầu tiên ta phải kể đến là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm
vốn là con rể của An Tĩnh hầu Nguyễn Kim, tức Thái sư Minh Khang vương.
Trịnh Kiểm cũng là một trong những đại thần có công phò tá vua Lê giành lại
ngôi từ nhà Mạc. Sau khi vua Lê lên ngôi, Nguyễn Kim bị dư đảng nhà Mạc
đầu độc chết, Trịnh Kiểm trở thành người phò tá đắc lực cho vua Lê song
càng ngày Trịnh Kiểm càng thâu tóm quyền lực vào tay mình, chèn ép vua Lê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn61
trở thành bù nhìn và dần biến bộ máy cai trị đất nước thành một bộ máy kì lạ
Header Page 62 of 112.
56
là có vua và có chúa. Việc làm đó khiến nhân dân lâm vào cảnh một cổ hai
tròng vô cùng khốn khổ. Trịnh Kiểm là người tính toán và lạnh lùng, khi lo sợ
Nguyễn Hoàng, con Nguyễn Kim giỏi giang hơn mình, có thể sẽ lấn át mình
nên đã tìm cách để tiêu diệt. Nguyễn Hoàng đã đoán ra được âm mưu ấy nên
tìm cách trốn vào Đàng Trong.
Sau Trịnh Kiểm, vị chúa thứ hai được tác giả đưa vào tác phẩm là Trịnh
Tùng. Trịnh Tùng là con trai Trịnh Kiểm, tức Bình An vương. Đây là vị chúa
giỏi, có tài cầm quân, thao lược tốt, nhiều lần giúp nhà Lê đánh tan các cuộc
tấn công của nhà Mạc. Chúa ở ngôi năm mươi tư năm, mất năm 1620.
Sau Trịnh Tùng là Trịnh Tráng, tức là Thanh Đô vương, là vị chúa thứ ba
của nhà Trịnh cũng là người đầu tiên khai mào cuộc nội chiến Nam – Bắc
triều vào năm 1627. Sau đó còn tiếp tục đem quân giao chiến với nhà Nguyễn
thêm mấy lần nữa nhưng đều thất bại. Đây là vị chúa hiếu chiến nhưng lại
không có tài cầm quân như Trịnh Tùng nên hầu hết các lần ra quân của Trịnh
Tráng đều thua trận, gây tổn thất lớn cho cả triều đình. Nhân dân cũng phải
gánh chịu những hệ lụy của các trận chiến đó.
Vị chúa thứ tư là Trịnh Tạc, con trai Trịnh Tráng, tức là Tây Định vương.
Khi lên ngôi chúa, Trịnh Tạc cũng hai lần dẫn quân đi đánh nhà Nguyễn. Đặc
biệt là trận đánh lớn nhất năm 1672,Trịnh Tạc đích thân cầm quân nhưng sau
bảy lần tiến công, Trịnh Tạc phải cuốn cờ rút quân lui về miền Bắc, từ đó
chấm dứt cuộc nội chiến Nam – Bắc triều.
Vị chúa cuối cùng xuất hiện trong tác phẩm là Trịnh Căn. So với các vị
chúa khác, Trịnh Căn không nổi bật, mà được miêu tả khá mờ nhạt bởi khi lên
ngôi chúa thì Trịnh căn đang bị trúng gió ốm nặng trong trận giao chiến với
nhà Nguyễn.
Nhìn chung, các vị chúa Trịnh được miêu tả trong tác phẩm đều là những
kẻ tiếm quyền, độc ác, tàn nhẫn, lạnh lùng. Hầu như tác giả không dành tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn62
cảm hay ưu ái nào cho những nhân vật này.
Header Page 63 of 112.
57
Khác với các chúa Trịnh, khi miêu tả các đời chúa Nguyễn, Nguyễn
Khoa Chiêm có cái nhìn và giọng điệu nhẹ nhàng hơn nhưng cũng không
hoàn toàn ca ngợi một chiều mà cũng có chỉ ra những sai lầm, những thiếu sót
và những điều chưa làm được của họ. Đó là cái nhìn khách quan khi xây dựng
nhân vật theo cách lấy nhân vật nguyên mẫu đem nguyên vào tác phẩm của
mình. Bởi xét theo một góc độ khác thì tác phẩm này cũng được coi như một
pho sử thời kì này. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tác giả đã kì công
xây dựng hơn hai trăm nhân vật gắn liền với dòng họ Nguyễn nhưng tiêu biểu
nhất phải kể đến là năm vị chúa Nguyễn và các thuộc hạ thân cận như Nguyễn
Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến, Đào Duy Từ…
Vị chúa Nguyễn đầu tiên phải nhắc đến là chúa Tiên Nguyễn Hoàng.
Nguyễn Hoàng là con trai An Tĩnh hầu Nguyễn Kim. Sau khi Nguyễn Kim
mất, Trịnh Kiểm lo sợ Nguyễn Hoàng sẽ lấn át mình nên tìm kế trừ đi.
Nguyễn Hoàng bèn tìm cách thoát vào vùng Thuận Quảng. Sau đó, gây dựng
một cơ ngơi vương triều riêng ở Đàng Trong. Nguyễn Hoàng được miêu tả là
một vị chúa tài ba, đức độ, thương dân như con, chăm lo cho dân có cuộc
sống an bình. Ở thời điểm đó, Nguyễn Hoàng chưa công khai chống lại triều
đình Lê – Trịnh, ông vẫn thực hiện nghĩa vụ phiên thần, thuế khóa đầy đủ.
Khi Trịnh Kiểm mất, ông vẫn phúng điếu chu đáo. Khi nhà Lê thu phục lại
được Kinh đô, Nguyễn Hoàng cũng ra chúc mừng và ở lại đây một thời gian
dài mới trở về Thanh Hóa. Nhìn chung, Nguyễn Hoàng là vị chúa có tài cai
trị, thời gian ở ngôi chúa, ông đã giúp nhân dân Đàng Trong có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, thái bình thịnh vượng.
Vị chúa thứ hai được nhắc đến trong tác phẩm là chúa Nguyễn Phúc
Nguyên hay còn gọi là Sãi vương, là con trai thứ sáu của Nguyễn Hoàng, kế
nghiệp năm 1613. Từ đời chúa Sãi trở đi, Nam triều bắt đầu trở mặt với Bắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn63
triều khi Sãi vương không chịu nộp tô thuế ra Bắc nữa với lí do là mất mùa.
Header Page 64 of 112.
58
Sự thật là do Trịnh Tráng đã câu kết với hai em trai của Sãi vương để lật đổ
ông, vì vậy Sãi vương mới nuôi ý định thu phục Trung đô và tiếp tục phò tá
sự nghiệp cho vua Lê. Chính vì thế, chúa đã ra lệnh tích trữ tiền của, lương
thảo để đợi thời cơ thuận lợi sẽ ra tay. Chúa Sãi được đánh giá là vị chúa có
tài cầm quân, sáng trí lại có lòng yêu thương dân chúng. Thời kì ông trị vì,
cuộc sống nhân dân Đàng Trong cũng được ấm êm hạnh phúc. Ngoài ra, chúa
còn nổi tiếng là người anh minh, biết thu phục và trọng dụng người hiền tài,
cho nên chúa lại càng có sự hậu thuẫn, giúp đỡ của những viên tướng tài giỏi
trong công cuộc đấu tranh mở mang bờ cõi, diệt Trịnh và phò tá cơ nghiệp
vua Lê.
Vị chúa thứ ba là chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan là con trai của chúa
Sãi, sinh năm 1601 mất năm 1648, lên ngôi chúa năm 1635. Trong Nam triều
công nghiệp diễn chí, chúa Thượng là người ân đức, yêu dân, gần gũi với
quan tướng. Nhưng chúa lại là người đam mê sắc dục nên có chuyện chúa tư
thông với vợ góa của anh trai mình là Khánh Mỹ hầu nên để Tống thị tự tung
tự tác. Điều này có nhắc tới trong tác phẩm nhưng do phải giữ đạo quân thần
nên tác giả không dám nói nhiều.
Vị chúa thứ tư là chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, là con trai thứ hai của
chúa Thượng, kế nghiệp năm 1648. Ông là vị chúa đầu tiên có sách lược sai
quân đi đánh quân Bắc vào năm 1655, còn những lần giao tranh trước đều là
do quân Bắc khai mào, dẫn quân vào đánh trước. Trận đánh này là trận đánh
diễn ra lâu nhất trong lịch sử chiến tranh Nam – Bắc triều từ năm 1655 đến
năm 1600 khiến cho dân chúng hai Đàng kiệt quệ, khổ sở. Chúa Hiền được
miêu tả là vị chúa có chí lớn, có tài nhìn xa trông rộng, thu phục được bảy tám
châu huyện, anh hùng hào kiệt theo về rất nhiều.
Vị chúa thứ năm được nhắc đến là chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn, con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn64
trai thứ ba của Nguyễn Phúc Hiền. Trong tác phẩm không nói nhiều về ông
Header Page 65 of 112.
59
nhưng trong lịch sử thì ông là người đã có công trong việc chấn hưng lại nền
Nho giáo đã bị suy đồi từ đời chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần.
Bên cạnh các vị chúa nhà Nguyễn, tác giả còn đưa vào tác phẩm những
nhân vật anh hùng, danh sĩ nổi tiếng thời kì này. Đó là những người đã bên
cạnh chúa Nguyễn trong công cuộc đấu tranh với nhà Trịnh, tiêu biểu như
Đào Duy Từ, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến,
công tử Hiệp Đức, con trai của chúa Nguyễn Phúc Tần.
Trong số các nhân sĩ đã theo giúp chúa Nguyễn thì có Đào Duy Từ là
một người nổi tiếng trong lịch sử. Trong tác phẩm, ông là một vị tướng được
các đời chúa rất trọng dụng.
Ông sinh năm 1572, mất năm 1634 quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn,
phủ Tĩnh Gia, hiệu là Lộc Khê. Ông là nhà quân sự, nhà thơ, danh thần thời
chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông chỉ làm quan với chúa Nguyễn tám năm
nhưng trong tám năm ấy ông đã xây dựng cho chúa Nguyễn một cơ sở xã hội
vững chắc và một đội quân hùng mạnh. Vì vậy, ông được coi là đệ nhất khai
quốc công thần của chúa Nguyễn và được thờ ở nhà Thái miếu.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Đào Duy Từ đã được Nguyễn
Khoa Chiêm khắc họa thành một nhân vật tài tử, tinh thông kinh văn địa lý,
được suy tôn là Gia Cát tiên sinh. Vì bất mãn với triều đình Lê – Trịnh không
coi trọng nhân tài, lại nghe danh chúa Nam biết trọng đãi người hiền nên Đào
Duy Từ đã tìm cách vào Đàng Trong, rồi dần dần tìm người tiến cử mình với
chúa Nguyễn. Khi làm quan với chúa Nguyễn, Đào Duy Từ đã hết lòng hết
sức giúp chúa xây dựng một cơ sở xã hội cũng như một lực lượng quân đội
hùng hậu. Những ý kiến của ông được ví như những mưu lược của Gia Cát
Lượng. Chính ông là người đề xuất chúa Nguyễn đắp lũy Trường Dục năm
1630 và Lũy Thầy năm 1631. Hai lũy này đã giúp ngăn chặn được các cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn65
tấn công của quân Trịnh trong suốt thời kì nội chiến. Ông cũng nhiều lần
Header Page 66 of 112.
60
đóng góp những ý kiến sáng suốt cho chúa Nguyễn trong việc chính sự và
cũng chính ông đã tiến cử con rể của mình là Nguyễn Hữu Tiến, người mà
sau này có đóng góp rất lớn trong sự nghiệp của chúa Nguyễn. Đào Duy Từ
được coi là đệ nhất công thần của họ Nguyễn.
Danh tướng Nguyễn Hữu Tiến cũng là một nhân vật lịch sử có thật được
tác giả đưa vào tác phẩm. Nguyễn Hữu Tiến sinh năm 1602 tại huyện Bồng
Sơn, phủ Quy Nhơn (huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định), tổ tiên gốc ở huyện
Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Cha ông mất sớm, nhà nghèo nhưng ông sớm có
chí lớn, bản tính thâm trầm và cương quyết, vừa làm lụng nuôi mẹ già, vừa
tìm thầy học võ vừa rèn luyện văn chương. Chính vì thế, Nguyễn Hữu Tiến
trở thành một con người tài giỏi và sau này khi làm quan với chúa Nguyễn,
ông đóng góp được rất nhiều công lao. Ông mất năm 1666.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Hữu Tiến được tác giả
miêu tả là một vị tường tài ba, dũng cảm phi thường, trượng nghĩa và trung
thành với chúa Nguyễn tựa như Quan Công trong Tam quốc diễn nghĩa vậy.
Trong những lần giao chiến với quân Trịnh, ông đã cầm quân ra trận hai lần
vào năm 1648 và năm 1655-1660. Trong lần giao chiến năm 1655-1660 do
bất hòa với Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật nên trận chiến đó không thành công.
Nhìn chung, hình tượng Nguyễn Hữu Tiến trong tác phẩm là một hình
tượng đẹp và được tác giả tập trung bút lực khắc họa, trở thành một hình
tượng sinh động.
Cùng với Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến thì Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật
cũng là một nhân vật tài năng xuất chúng.
Nguyễn Hữu Dật sinh năm 1603, mất năm 1681, là đại công thần của
chúa Nguyễn ở Đàng Trong thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ông là người có
công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn và đánh lui nhiều cuộc Nam tiến của quân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn66
Trịnh, giữ vững lãnh thổ Đàng Trong và được phong chức Chiêu Vũ hầu .
Header Page 67 of 112.
61
Trong tác phẩm, Nguyễn Hữu Dật hiện lên là một con người thông minh,
tinh thông kinh văn địa lý, đức lành tính tốt. Ông được các đời chúa Sãi, chúa
Hiền, chúa Thượng trọng dụng, lần lượt giao cho các chức: Văn chức, Giám
chiến, Cai cơ, Đốc chiến, Tiết chế… Trong trận chiến lần thứ sáu 1655-1600,
ông được giao chức Đốc chiến, lập kế bày mưu đánh đâu thắng đó, giúp quân
Nguyễn thu gọn bảy châu huyện phía nam sông Lam. Trong trận Trấn Ninh,
Nguyễn Hữu Dật và Hiệp Đức công tử đánh cho quân Trịnh phải cuốn cờ
chạy về Bắc ngày hai mươi tháng giêng năm 1673. Từ đó trở đi, chiến trường
Trịnh – Nguyễn im ắng, Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến trở thành hai
công thần khai quốc của nhà chúa Nguyễn.
Công Tử Hiệp Đức Nguyễn Phúc Thuần là con trai thứ tư của Hiền
vương Nguyễn Phúc Tần và Chánh phi Châu Thị Viên. Tên là Hiệp hay còn
gọi là Thuần, sinh năm Quý Tỵ 1653, đến khi trưởng thành được phong chức
Chưởng Dinh, tước Hiệp Đức hầu.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, công tử Hiệp Đức được tác giả
khắc họa là một viên tướng trẻ tuổi, thông minh, có tài cầm quân và có lòng
dũng cảm, là người đức độ, nhân từ,biết tránh xa sắc đẹp và sùng bái Phật
pháp. Trong trận Trấn Ninh năm 1672, ông được phong là Nguyên súy đã
cùng với Nguyễn Hữu Dật đánh đuổi được quân Trịnh, bảo toàn được lãnh
thổ Đàng Trong cho Chúa Nguyễn.
Ngoài ra, ta còn thấy trong tác phẩm có sự xuất hiện của Phùng Khắc
Khoan, một vị tướng có tài trong lịch sử nước nhà. Ông đã từng đi xứ Trung
Quốc, làm được rất nhiều việc cống hiến cho đất nước. Ông được tôn làm ông
tổ nghề dệt, nghề trồng ngô ở nước ta. Phùng Khắc Khoan xuất hiện trong tác
phẩm như một vì sao sáng, được ví ngang với Khổng Minh của Trung Quốc
bởi sự am hiểu, thông thạo văn võ, giỏi ứng xử…
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tác giả đã kì công xây dựng hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn67
hai trăm nhân vật, đặc biệt là rất chú ý đến các nhân vật họ Trịnh và họ
Header Page 68 of 112.
62
Nguyễn. Khách quan đánh giá, ta thấy cái nhìn của Nguyễn Khoa Chiêm dành
cho các nhân vật họ Nguyễn có phần ưu ái hơn hẳn. Trong khi miêu tả các
nhân vật nhà Trịnh, ta thấy hiện lên những vị chúa bạo tàn, hiếu chiến, bất
trung…còn các nhân vật nhà Nguyễn thì thường là những người tài trí, đức
độ, nhân nghĩa. Nghệ thuật tự sự về thế giới nhân vật của tác giả rất linh hoạt,
phong phú, đầy biến hóa. Bên cạnh việc ghi rõ tên họ, chức tước, năm sinh,
năm mất, quê hương, gia thế, quá trình phát triển, thành đạt…, Nguyễn Khoa
Chiêm còn chú ý đặc tả tính cách, tâm trạng nhân vật, khiến cho nhiều nhân
vật lịch sử trở nên sống động, hấp dẫn. Ông còn đặt cho nhân vật vào các tình
thế hiểm nghèo, các xung đột gay gắt, các trận chiến khốc liệt để miêu tả cảm
xúc, tâm tư, trí tuệ của họ. Nghệ thuật tự sự khi thì lướt nhanh, khi lại đặc tả,
có lúc chỉ cần vài câu văn ngắn mang tính thông tin tư liệu, có lúc lại dành cả
một đoạn dài để khắc họa suy nghĩ, tâm trạng nhân vật. Mấy trăm con người,
người mờ nhạt, người chỉ loáng qua, người thành hình tượng sống động…Tất
cả đã cho thấy một bút lực đa dạng, đầy biến ảo, khiến cho thế giới nhân vật
trong Nam triều công nghiệp diễn chí vừa đậm chất sử vừa có chất văn, vừa là
nhân vật của đời thực vừa mang được những đặc điểm của nhân vật tiểu
thuyết, đúng là một tác phẩm khá thành công ở nghệ thuật tự sự nhân vật.
Nhìn chung, các nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn chí đều là
những nhân vật có ảnh hưởng đến lịch sử nước ta trong giai đoạn thế kỷ XVI-
-XVII. Đó là những ông vua, những vị chúa, những viên tướng, những nho sĩ;
có người có công danh viên mãn, có người có kết cục bi thảm nhưng đều là
những nhân vật không thể thiếu được trên vũ đài lịch sử, góp phần tạo nên
cục diện phân tranh kéo dài suốt hai trăm năm. Đó là một thời kì tang thương
nhưng không kém phần hào hùng. Tất cả các nhân vật ấy đều là những đứa
con đẻ của thời đại, mang đậm hơi thở của thời đại, là những nhân tố không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn68
thể thiếu để tạo nên một thời kì lịch sử đầy biến động.
Header Page 69 of 112.
63
2.2.2. Sự kiện chân thực
Trong tác phẩm tự sự thì sự kiện tạo nên cốt truyện, cốt truyện quy định
giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Tác phẩm hay, dở, chân thực, không chân
thực đều dựa chủ yếu vào cốt truyện và nghệ thuật kể chuyện của tác giả.
Với Nam triều công nghiệp diễn chí, hầu hết các sự kiện lịch sử ở nước
ta trong khoảng thời gian thế kỷ XVI- XVII đều được ghi lại một cách chân
thực dưới ngòi bút văn chương tài ba của Nguyễn Khoa Chiêm. Theo Giáo sư
Phan Khoang xác nhận thì “tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm có giá trị tư
liệu lịch sử quí giá…”[8,9].
Tìm hiểu tác phẩm, ta thấy hầu hết các sự kiện trong Nam triều công
nghiệp diễn chí đều là những sự kiện có thật ngoại trừ một số sự kiện mang
yếu tố thần kì. Từ những trận giao chiến, những lần vua chúa băng hà, những
lần vua chúa lên ngôi, những biến loạn cung đình… đều có thật trong lịch sử.
Phải chăng chính vì thế mà tác phẩm còn được coi như là một pho tư liệu lịch
sử quí giá?
Tác giả đã khéo léo đưa những sự kiện lịch sử vào tác phẩm mà không hề
làm tác phẩm cứng nhắc như những câu chuyện lịch sử khác. Đầu tiên đó là
sự kiện Nguyễn Hoàng dẫn hơn một nghìn thủy quân vào đánh nhau với các
tướng nhà Mạc để giành vùng đất Thuận Hóa năm 1558, đồng thời là để tránh
sự hiềm khích của Trịnh Kiểm. Biết được Trịnh Kiểm muốn trừ diệt mình,
Nguyễn Hoàng giả điên và nhờ chị gái là chính phi của Trịnh Kiểm xin cho
mình vào trấn thủ vùng Thuận Hóa. Trịnh Kiểm nghĩ rằng đây là cơ hội thuận
lợi để nhờ tay nhà Mạc giết chết Nguyễn Hoàng, nên đã đồng ý xin vua Lê
cho Nguyễn Hoàng dẫn quân vào vùng Thuận Hóa dẹp nhà Mạc. Sự kiện này
trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi lại rất rõ: “Tháng 10, Thái sư Trịnh
Kiểm vào chầu, dâng biểu tâu xin sai con thứ của Chiêu huân tĩnh công là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn69
Đoan quận công Nguyễn Hoàng đem quân vào trấn thủ xứ Thuận Hóa, để
Header Page 70 of 112.
64
phòng giặc phía Đông, cùng với Trấn quận công (không rõ tên) ở Quảng
Nam cùng giúp đỡ” [29, 639]
Hay sự kiện Đào Duy Từ, một danh sĩ ở Đàng Ngoài vốn rất thông minh,
tài giỏi nhưng không được trọng dụng vì là con nhà xướng ca vô loài, lại nghe
chúa Nguyễn là người trọng kẻ hiền, biệt đãi nhân tài nên ông đã tìm cách vào
Đàng Trong rồi được tiến cử với chúa Nguyễn, sau được chúa Nguyễn hết
mực trọng đãi và ông cũng tận tâm tận lực với chúa Nguyễn. Sự kiện Đào
Duy Từ bày kế đắp lũy Trường Dục và lũy Thầy là có thật. Chính nhờ hai lũy
này mà nhà Nguyễn tránh được nhiều cuộc tấn công mạnh mẽ của nhà Trịnh.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, những mốc sự kiện như vua chúa
băng hà, hay vua chúa mới nối ngôi đều được đề cập đến rất chính xác và
được ghi chép cẩn thận theo từng năm. Đó là điều rất đáng khâm phục ở
Nguyễn Khoa Chiêm bởi ông đã ghi chép lại các mốc lịch sử ấy một cách chi
tiết và khoa học dưới hình thức một câu chuyện làm hấp dẫn bạn đọc, đúng
theo cách viết sử ở trong văn.
Những sự kiện quan trọng khác trong tác phẩm cũng là những sự kiện có
thật trong lịch sử như những trận giao tranh giữa quân đội nhà Mạc và nhà Lê
– Trịnh, hay những trận đánh giữa hai nhà Trịnh – Nguyễn đều rất trùng khớp
với những tài liệu lịch sử để lại.
Ví dụ như sự kiện nhà Mạc tấn công nhà Lê trong Nam triều công nghiệp
diễn chí có viết vào năm Quang Hưng thứ nhất (1578), “Tháng bảy, tướng
nhà Mạc đem quân vào đánh xứ Lũy Cổn. Đô tướng Trịnh Tùng xốc quân ra
đánh. Quân Mạc thua lớn bỏ chạy”[8, 41]. Sự kiện này cũng được Đại Việt
sử ký toàn thư ghi chép lại rất rõ như sau: “Tháng bảy, Mạc Kính Điển đem
quân vào lấn các huyện dọc sông xứ Thanh Hoa. Khi đến xã Giang Biểu, tiết
chế Trịnh Tùng sai bọn Trịnh Bách đem quân qua sông đặt phục ở núi Phụng
Công, đánh nhau to ở cầu Phụng Công, họp các súng bắn vào, quân Mạc chết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn70
không xiết kể. Kính Điển rút quân về Kính ấp”.[29, 675]
Header Page 71 of 112.
65
Hay những sự kiện nhỏ lẻ như sự kiện vào năm 1611, “Ngày mười tháng
sáu núi Tản Viên ở Đàng Ngoài bị lở hơn mươi trượng, sâu ba, bốn thước.
Ngày mười tám, xứ Kinh Bắc trời mưa màu đỏ suốt một ngày đêm, sông ngòi
khe suối khắp nơi đều một màu máu phải đến mười ngày mới rút hết” (Nam
triều công nghiệp diễn chí) [8,89] thì ở trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng đề
cập đến rất chi tiết “Tân Hợi năm thứ mười hai (1611) (Minh Vạn lịch năm
thứ 39). Mùa đông tháng mười, ngày mồng sáu, núi Tản Viên bị lở đến hơn
mười hai trượng. Ngày mười tám, ở huyện Việt Yên trời mưa máu một ngày
một đêm”[29, 764 - 765].Những sự kiện ấy chứng tỏ Nguyễn Khoa Chiêm rất
quan tâm và ghi chép chính xác tình hình chính sự hay đời sống của đất nước
ta ở thời kỳ này.
Ngoài ra, yếu tố cốt lõi của tác phẩm là những trận đánh, những cuộc tấn
công của quân Trịnh với nhà Nguyễn ở Đàng Trong mới là nội dung nổi bật
của tác phẩm. Đây là những sự kiện trọng đại được tác giả tập trung bút lực
xây dựng một cách chân thực và sống động nhất.
Mở đầu là sự kiện năm 1627, khi quân Trịnh cố tình kiếm cớ gây chiến
với nhà Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Nam không nghe theo chỉ dụ của nhà
Trịnh nên nhà Trịnh vô cùng tức tối. Tháng ba năm 1627, Thanh Đô vương
đích thân thống lĩnh đại quân thủy bộ rước theo xa giá vua Lê vào đánh xứ
Nam. Trải qua vài lần giao chiến nhưng không thắng nổi, thêm nữa lại mắc
mưu phản gián của nhà Nguyễn nên quân Trịnh vội vàng rút về Bắc. Sự kiện
này trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng nhắc tới “Tháng hai Thanh Đô vương
hộ vệ thánh giá đi đánh. Quân đến cửa biển Nhật Lệ, giặc cậy là hiểm cố
chống lại, quân mấy lần giao chiến không lợi bèn trở về”[29,784]. Đó là trận
giao chiến đầu tiên của quân Trịnh và quân Nguyễn, còn những trận đánh sau
này Nam triều công nghiệp diễn chí có đề cập hoặc không (có thể do thất lạc
hoặc truyền bản bị rơi rụng, hoặc tác giả cố tình không đề cập đến) nhưng hầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn71
như trận đánh nào cũng là những sự kiện hết sức chân thực.
Header Page 72 of 112.
66
Trong số bảy cuộc nội chiến thì cuộc nội chiến thứ sáu từ năm 1655 đến
năm 1660 là trận đánh kéo dài nhất, khốc liệt nhất trong lịch sử Trịnh –
Nguyễn phân tranh. Trận đánh này được ghi chép lại rất tỉ mỉ và chính xác.
Tháng tư năm 1655, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật
mang quân vượt sông Gianh đánh bắc Bố Chính. Tướng Trịnh là Phạm Tất
Toàn đầu hàng. Hai tướng thừa thắng xông lên đánh Hoành Sơn, Lê Hữu Đức
thua chạy, Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đánh luôn Hà Trung, Lê
Văn Hiểu thua chạy, cùng Lê Hữu Đức lui về giữ An Trường, Nghệ An.
Thanh Đô vương Trịnh Tráng thấy các tướng thua luôn bèn sai Trịnh Trượng
làm thống lĩnh mang quân vào Nam, triệu các tướng cũ về. Lê văn Hiểu bị
thương nửa đường chết, Lê Hữu Đức bị giáng chức. Trịnh Trượng tiếp quản
quân đội và dẫn quân vào Kỳ Hoa, sau đó tiến vào Kỳ La. Lúc này Nguyễn
Hữu Tiến đã rút về nam sông Gianh nhử Trịnh Trượng nhưng không được.
Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến thấy thế bèn cho quân rút khỏi Lạc
Xuyên về giữ An Trường. Thế là bảy huyện Nghệ An ở phía nam sông Gianh
về tay chúa Nguyễn.
Trịnh Tráng giáng chức Trịnh Trượng rồi cho con là Trịnh Tạc vào làm
thống lĩnh. Nguyễn Hữu Tiến thấy Trịnh có thêm viện binh thì liền rút về giữ
Hà Trung. Gặp lúc quân Mạc quấy rối phía Bắc, Trịnh Tạc phải rút quân về
chỉ cử Đào Quang Nhiêu ở lại đóng An Trường và Vũ Văn Thiêm đóng ở
Khu Độc, Thân Văn Quang và Mẫn Văn Liên đóng ở Tiếp Vũ.
Năm 1656, Hữu Tiến đánh Tiếp Vũ, Thân Văn Quang và Mẫn Văn Liên
bỏ chạy. Hữu Dật thì đánh tan thủy quân của Vũ Văn Thiêm, Thiêm cũng bỏ
chạy. Rồi quân Nguyễn lại hợp sức đánh Đào Quang Nhiêu làm vị tướng này
bỏ chạy về giữ An Trường.
Trịnh Tráng thấy vậy bèn cử Trịnh Tuyền vào cứu viện, song lại thêm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn72
một lần nữa bị quân của chúa Nguyễn đánh cho đại bại.
Header Page 73 of 112.
67
Trong khi thế trận đang diễn ra hết sức căng thẳng thì Trịnh Tráng bệnh
nặng, Trịnh Tạc lên cầm quyền thay cha nhưng lại có bất hòa với em trai là
Trịnh Tuyền. sau khi cha mất,hai anh em lục đục và một phần là mắc mưu của
nhà Nguyễn nên Trịnh Tạc đã giết em mình là Trịnh Tuyền.
Tháng sáu năm 1657, Trịnh Căn lại chia quân tiến đánh Thanh Chương,
Nguyễn Hữu Tiến biết trước nên đã phòng bị kĩ càng, quân Trịnh thua phải rút
về bờ bắc sông Lam, chỉ giao tranh những trận nhỏ. Sang tháng sáu năm 1658,
tù trưởng Lang Công Chấn ở Quỳnh Lưu theo quân Nguyễn, mang quân đi
đánh Trịnh bị quân Trịnh bắt giải về Kinh thành Thăng Long. Tháng bảy,
quân Nguyễn vượt sông Lam đánh thắng Nguyễn Hữu Tá ở Hưng Nguyên
nhưng lại bị Lê Thì Hiến đánh bại phải rút quân về. Tháng mười hai năm ấy,
quân Trịnh đánh huyện Hương Sơn, thắng quân Nguyễn. Tháng tám năm
1660, quân Trịnh lại tiến đánh Nghi Xuân và bị bại trận.
Thời gian sau đó, quân Nam rất muốn đánh ra Bắc nhưng lực chưa đủ
mạnh, lại đang trông chờ vào các thế lực ở ngoài Bắc nhưng lại không khả thi
do một số người bị nhà Trịnh bắt được và xử tử. Lúc này, các tướng bên nhà
Nguyễn cũng có sự lục đục với nhau. Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật được chúa
Hiền tin yêu hơn nên bị Hữu Tiến cùng các thuộc tướng ganh ghét. Sự việc
Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật bị quân Bắc mang vàng bạc lụa là đến để dụ dỗ
mua chuộc mà không được cũng khiến cho Hữu Tiến sinh nghi Hữu Dật. Từ
đó, nội bộ mất đoàn kết khiến cho trận đánh ở Khu Độc, Hữu Dật bị thua, phải
nhanh chóng nghĩ kế để cho quân lính rút lui mà không bị truy đuổi, tránh gây
thiệt hại. Về đến Hoành Sơn, quân của Hữu Dật mới gặp được quân của Hữu
Tiến, đúng lúc quân Trịnh cũng đuổi tới, hai bên giao chiến dữ dội và thiệt hại
vô cùng lớn. Sau trận đánh này, hai bên đi vào thế ngừng chiến. Quân Trịnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn73
đã thu lại được bảy huyện ở Nghệ An mất từ năm 1655. Trận chiến thứ sáu
Header Page 74 of 112.
68
kéo dài suốt năm năm từ 1655 đến 1660 đã kết thúc, tham vọng Bắc tiến của
quân Nguyễn hoàn toàn thất bại.
Trận đánh này nhiều sách cũng ghi chép lại khá kĩ lưỡng và chi tiết.
Những tình tiết mà Nguyễn Khoa Chiêm đưa vào tác phẩm không phải là hư
cấu mà phần lớn là những sự kiện có thật. Sách Việt Nam sử lược mô tả trận
này hai bên có thắng có thua, nhưng trong sách Đại Việt sử ký toàn thư của
nhà Lê – Trịnh lại cho rằng trận này quân Trịnh thắng lớn, còn sách Đại Nam
thực lục tiền biên của nhà Nguyễn biên soạn sau này thì lại cho rằng trận này
quân Nguyễn thắng. Nhìn chung, trên góc độ nghiên cứu, người viết cũng
đồng nhất ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu Việt Nam sử lược là ở trận
này hai bên đều có thắng có thua; sau trận đầu của quân Nguyễn thì quân
Trịnh bị thua, nếu mà thắng thì sẽ tiếp tục tiến đánh chứ không phải bỏ chạy
về giữ An Trường.
Ở trận đánh thứ bảy, trận đánh cuối cùng của thời kỳ nội chiến Trịnh –
Nguyễn, lịch sử cũng ghi chép rất kĩ. Năm 1672, chúa Trịnh lại cử binh Nam
tiến, sai con là Trịnh Căn lĩnh thủy binh, Lê Thì Hiến lĩnh bộ binh.
Thời gian đó ở Đàng Trong, Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến mất vào năm
1666, chúa Nguyễn cử em là công tử Hiệp Đức Nguyễn Phúc Thuần cùng
Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật ra chống cự, hai bên giao chiến mấy lần nhưng
không phân thắng bại. Quân Trịnh đánh mãi không thắng bèn rút về bắc Bố
Chính, Trịnh Căn bị ốm nên Trịnh Tạc rút đại quân về Kinh, chỉ cử hai tướng
Lê Thì Hiến và Lê Sĩ Triệt ở lại trấn thủ. Sau đó, hai vị tướng này đốc quân vào
đánh trận cuối, không thắng nổi bèn bỏ chạy về bắc sông Gianh.
Trận chiến này được tác giả Nguyễn Khoa Chiêm miêu tả rất kĩ. Đây là
cuộc chiến khốc liệt nhất, hao người tốn của nhất và là cuộc chiến được chuẩn
bị kĩ lưỡng nhất vì sau một thời gian dài ngừng chiến, cả hai bên đều có điều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn74
kiện để chuẩn bị cả sức người lẫn của. Nhà Trịnh đã diệt xong nhà Mạc nên
Header Page 75 of 112.
69
rảnh tay để lo diệt trừ quân Nguyễn. Còn quân Nam tuy lực lượng không đông
bằng quân Bắc nhưng lại cực kỳ tinh nhuệ, điều này Trịnh Tạc cũng phải thừa
nhận và hơn nữa quân Nam có sự chuẩn bị đề phòng quân Bắc từ trước nên
đào hào đắp lũy phòng thủ rất kỹ lưỡng.
Trận chiến giữ thành Trấn Ninh được Nguyễn Khoa Chiêm miêu tả như
sau: “Ngày hai mươi lăm, vào giờ Thìn, quân Bắc tiến thẳng đến dưới thành
Trấn Ninh, tiếng hò reo vang dậy, tiếng chiêng trống vang trời. Quân hai bên
đánh lớn, tiếng súng nổ ầm ầm. Quân Nam bám vào mặt thành mà đánh.
Quân Bắc đi dưới đường đánh gấp vào thành, đôi bên giành giật nhau từ sáng
đến tối không phân thắng bại”. [8, 545]
Ngày hai mươi sáu, quân Bắc cho người “bám tường trèo lên mặt thành,
quân nấp dưới thì bắn súng trợ chiến. Khi thấy quân Bắc trèo lên lũy quân
Nam cầm giáo nhọn mà đâm xuống, quân trèo thành chết lăn rất nhiều, xác
chết đầy hào rãnh. Quân Bắc chồng các xác chết làm thang mà trèo lên, quân
giữ thành ra sức chém giết, thây chất thành từng đống cao. Quân sĩ đâm mỏi
tay thì đẩy súng lớn ra bắn. Quân Bắc dùng dây thừng, buộc thòng lọng
quăng vào nòng súng mà kéo xuống rồi tống đất đá, rơm cỏ vào làm tắc nòng
không bắn được. Quân Nam lại dùng thương dài mà đâm, quân Bắc cũng đâm
trả. Quân đôi bên cứ thế hỗn chiến kéo dài”[8, 546].
Ngày hai mươi bảy, quân Bắc cho ba nghìn quân cầm cuốc để đào chân
thành Trấn Ninh. Quân hai bên đánh lớn. Súng đạn cung nỏ cùng bay tới tấp
như mưa. Tường thành có nguy cơ sập đổ. Nguyễn Hữu Dật nhanh trí dùng kế
nghi binh đốt đuốc trong thành sáng rực như ban ngày khiến quân Bắc ngờ có
mai phục không dám áp sát nữa. Quân Bắc lại dùng cách thả diều giấy đeo
thuốc phát hỏa vào trong thành khi diều rơi chạm nóc nhà, đài súng thì thuốc
lửa bốc cháy khiến nhiều doanh trại, kho tàng trong thành cháy rực, quân Bắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn75
tiến đến sát chân thành, Chiêu Vũ bèn sai quân cưa hơn ba trăm tấm gố đóng
Header Page 76 of 112.
70
đinh vào rồi buộc thừng thả xuống thành làm cho biết bao quân Trịnh phải
chết đau đớn. Trận chiến này thương vong ở cả hai bên nhiều không biết kể
đâu cho hết, máu chảy thành sông, thây chất thành núi…Nhân dân ở các làng
xóm quanh vùng Trấn Ninh cũng bị quân Trịnh tra khảo tàn sát, cướp bóc
nhiều, oán than không để đâu cho hết…Dù không thẳng thừng phê phán cuộc
chiến tranh Trịnh – Nguyễn nhưng những chi tiết ấy đã ngầm lên án cuộc
chiến nồi da xáo thịt này. Cuộc chiến tranh giành quyền lực đã khiến nhân dân
trong một nước phải hạ sát lẫn nhau, đau thương nào lớn hơn thế nữa. Có
những cảnh mà khi quân Nam tấn công, quân Bắc đã dùng trái phá ném
xuống, có người lính Bắc ở ngoài đã kêu lên rằng: “Chúng tôi và các anh em
đều là người cả, sao nỡ tàn hại lẫn nhau. Chỉ vì nhà chúa tranh chấp, anh em
ta mới phải chịu chết oan. Tôi bảo anh em, nếu thấy trái phá bay vào người ở
xa thì chạy nấp cho nhanh, người ở gần thì nằm sát xuống mặt đất mà tránh
được thì vô sự” [8, 545]. Và khi quân Bắc ở ngoài dùng diều giấy kèm thuốc
phát hỏa bay vào thành cũng có người lính ở bên Bắc đứng ngoài thành kêu to
vào : “rơi trúng người thì xúc cát hất vào mà dập, lửa sẽ không cháy lan nữa.
Còn đổ nước lửa sẽ cháy loang ra sẽ chết”[8, 554]. Qua những tình tiết như
vậy, ta đã thấy hiện lên cả một khung cảnh chiến trường khốc liệt, nơi những
con người đang phải tự đâm giết nhau mà không hề muốn, những con người
ấy cùng chung một bọc trứng mẹ Âu Cơ mà giờ đây phải theo lệnh của các vị
vua chúa mà chém giết lẫn nhau, thật tang thương.
Nhìn chung, nghệ thuật tự sự các sự kiện trong Nam triều công nghiệp
diễn chí cũng hết sức đa dạng, biến hóa. Nhiều chi tiết tác giả chỉ lướt qua
theo kiểu thông tin vắn tắt nhưng có những chi tiết, tác giả lại tập trung miêu
tả, tường thuật hết sức tỉ mỉ. Nhà văn không dừng ở việc lược thuật sự kiện
như một số sách sử thông thường mà nhiều khi dựng lại một bức tranh vô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn76
cùng sinh động về các trận chiến với những chi tiết, hình ảnh, âm thanh vô
Header Page 77 of 112.
71
cùng cụ thể, chọn lọc khiến người đọc như được sống lại trong không khí lịch
sử ấy. Bút lực tự sự của Nguyễn Khoa Chiêm giống như một ống kính quay
phim, khi thì thu nhỏ, lúc lại phóng to, khi quay toàn cảnh,lúc quay cận cảnh,
khi lướt nhanh, khi chậm rãi…khiến cho các sự kiện trở nên sống động, chất
sử hòa với chất văn tạo nên sự lôi cuốn và hấp dẫn đặc biệt.
Nghệ thuật tự sự của tác giả đã tạo ra những cốt truyện sinh động và hấp
dẫn. Tính chân thực lịch sử đan xen với tính hình tượng của văn chương nghệ
thuật, ngòi bút nhà văn tung hoành theo các sự kiện nhưng thái độ, tình cảm
của ông dường như vẫn nghiêng về phía đề cao quân Nguyễn. Đó là những
đặc điểm riêng, rất đáng ghi nhận, khẳng định một tài năng tự sự của nền văn
học trung đại Việt Nam.
2.3. Tự sự về những truyện kì ảo
2.3.1. Nhân vật và hoàn cảnh
Trong mỗi tác phẩm của mình, nhà văn thường gây sự chú ý, lôi kéo
người đọc bằng những chi tiết đặc biệt, những vấn đề độc đáo,những tình
huống lạ. Đó có thể là những sự kiện quan trọng ảnh hưởng đến cuộc đời, số
phận nhân vật chính nhưng cũng có thể là những chi tiết ngoài lề sự kiện
chính, có giá trị để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn người đọc. Một trong
những chi tiết nổi bật được Nguyễn Khoa Chiêm chọn lựa là cái kì ảo.
Thuật ngữ kì ảo (fantastic) xuất hiện trong tiếng Anh trung cổ vào
khoảng thế kỷ XIV, được bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp. Tiếng La tinh là
phantasticus có nghĩa là “tạo ra những hình ảnh thuộc về tinh thần” và chữ
Phantazein có nghĩa là “ xuất hiện trong tâm trí”.
Trong lịch sử văn học nhân loại, yếu tố kì ảo đã ra đời từ rất sớm trong
các sáng tác folklore. Các nhà văn ở các thời kì văn học đã biết vận dụng yếu
tố kì ảo để xây dựng nên nét riêng đặc sắc cho tác phẩm của mình. Nguyễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn77
Dữ là một ví dụ tiêu biểu khi ông đưa yếu tố kì ảo vào tập truyện Truyền kỳ
Header Page 78 of 112.
72
mạn lục, khiến cho tác phẩm mang một nét lung linh huyền bí riêng rất thu hút
độc giả. Đôi khi trong sáng tác nghệ thuật, các tình huống thắt nút đi vào thể
khó gỡ thì việc lựa chọn đưa một yếu tố kì ảo vào sẽ góp phần cởi nút cho tình
huống, sự kiện đó.
Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là một tác
phẩm được ví như một tư liệu lịch sử quí giá bởi tính chân thực của từng sự
kiện, nhân vật song tác phẩm cũng gây chú ý với bạn đọc bởi một yếu tố
không nằm trong số các sự kiện nổi bật của tác phẩm đó là những yếu tố kì ảo.
Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, bạn đọc hẳn sẽ rất băn khoăn khi
gặp những yếu tố kì ảo, thần bí trong tác phẩm và không biết nên hiểu tác
phẩm như thế nào cho chính xác, bởi bên cạnh những sự kiện, những nhân vật
chân thực ấy lại xuất hiện những tình tiết kì ảo đến vô lý được tác giả đưa vào.
Phải chăng do Nguyễn Khoa Chiêm chịu ảnh hưởng của tác phẩm Tam quốc
diễn nghĩa của tác giả La Quán Trung nên đôi khi cũng đưa thêm yếu tố
hoang đường vào truyện để làm cho tác phẩm tăng thêm tính tiểu thuyết và
hấp dẫn?
Đầu tiên phải kể đến là chi tiết chúa Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong dẹp
nhà Mạc xây dựng cơ đồ riêng. Lúc này quân đội của chúa còn rất yếu, vũ khí
thô sơ và thuyền chiến không nhiều trong khi tướng nhà Mạc là quận Lập thì
quân đông, thuyền lắm. Nguyễn Hoàng lúc này đang rất lo lắng tìm kế chống
lại. Một đêm chúa đang ngồi đốt đuốc, bỗng nghe bên bờ sông tiếng dòng
nước kêu vang vang “Trảo trảo” chúa rất lấy làm lạ, bèn cầu khấn thần linh.
Đêm hôm ấy, Nguyễn Hoàng mơ thấy một người đàn bà mặc áo xanh, tay ầm
chiếc quạt đến nói rằng: “ Tướng quân muốn diệt trừ ngụy đảng cần lập kế dụ
chúng đến bãi cát bên sông, thiếp sẽ giúp sức trừ được, khỏi phiền nhiễu đến
nhân dân trong miền”[8, 29]. Chúa tỉnh dậy mới biết mình nằm mộng và nghĩ
rằng có thần linh giúp sức như vậy hẳn là sẽ thắng. Sau đó, Nguyễn Hoàng đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn78
dùng mĩ nhân kế là lừa diệt được quận Lập mà không hề hao binh tổn tướng.
Header Page 79 of 112.
73
Hay là trong sự tích chúa Nguyễn cho xây dựng chùa Thiên Mụ cũng
mang yếu tố kì ảo, hoang đường. Cụ thể là trong một lần chúa Nam đi du
ngoạn các cảnh đẹp ở xứ, khi đến xã Hà Khê, huyện Hương Trà thấy giữa
chốn đồng bằng nổi lên một gò cao dáng tựa như một chiếc đầu rồng đang
ngoái nhìn về phía núi mẹ. Đoan vương lấy làm thích thú bèn trèo lên ngắm
thì thấy có một con hào chạy ngang chân núi, cho hỏi người địa phương thì
được biết rằng đó là do một viên tướng nhà Đường xưa kia muốn yểm vượng
khí của nước ta nên làm vậy. Đêm hôm ấy, người dân trong vùng thấy một
người đàn bà thể sắc trông còn trẻ nhưng mày, tóc bạc phơ, mặc bộ quần áo
đỏ ngồi dưới chân núi mà than vãn rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc
quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều thì nên lập chùa
thờ Phật, cẩn xin linh khí trở về núi này để phúc dân, giúp nước, tất không có
gì phải lo”[8, 82]. Người đàn bà ấy nói xong thì biến mất. Chúa nghe thấy thế
mừng lắm, sai người dựng chùa đặt tên là chùa Thiên Mụ, dân chúng từ đó
đến cầu khấn quả nhiên thấy linh thiêng. Quả thật từ đó về sau, ta thấy dường
như vượng khí đã trở lại với Nam triều. Cho nên với hiện tượng này, ta chưa
thể giải thích được là có yếu tố thần linh thật hay không, chỉ biết rằng khi đưa
chi tiết kì ảo vào tác phẩm, Nguyễn Khoa Chiêm có được cách giải thích hợp
với lòng người thời bấy giờ vốn rất sùng tâm linh. Dường như đó là một cách
giải thích cho sự thịnh vượng và bình an mà Nguyễn Hoàng đem lại cho dân
xứ Đàng Trong thời kì này.
Rồi chuyện về giấc mơ đi chơi núi Bồ Đà của công tử Hiệp Đức và sự
ứng nghiệm của giấc mơ ấy vào cuộc đời của vị công tử tài giỏi này như góp
phần khẳng định vị trí đặc biệt của yếu tố tâm linh trong cộng đồng người
Việt. Chuyện là công tử Hiệp Đức vốn mộ đạo, một hôm nằm mơ ngủ thấy
mình được đi chơi núi Bồ Đà cùng các vị cao tăng, thiền sư và được một vị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn79
thiền sư ban cho một bài kệ dặn nhớ cho kỹ. Tỉnh dậy, công tử nhớ lại bài kệ,
Header Page 80 of 112.
74
tìm cách giải nghĩa và thấy bài kệ như báo trước số mệnh ngắn ngủi của mình
thì trong lòng rất buồn. Một thời gian sau, công tử mắc bệnh đậu mùa nặng và
qua đời, trước khi mất còn khóc với cha mình là Hiền vương và kết luận:
“Nay số trời đã hết, tự xét là ứng với lời kệ trong giấc mộng năm xưa”[8,
596]. Sau khi công tử Hiệp Đức qua đời thì người ta mới hiểu được ý nghĩa
của câu thơ cuối trong bài kệ là “Đĩnh trung minh kính nguyên vô ức” [8,
596] có nghĩa là ngày rằm, tháng sáu năm nay công tử Hiệp Đức tận số. Bấy
giờ người ta mới biết bài kệ quả là ứng nghiệm không sai.
Cũng sử dụng yếu tố kì ảo nhưng lại mang một hơi hướng khác đi trong
một hoàn cảnh khác. Đó là vào “năm Giáp Dần, niên hiệu Hoằng Định thứ
mười lăm 1614, mùa xuân, ngày hai mươi chín tháng hai là ngày giỗ vua Lê
Thánh Tông. Bình An vương Trịnh Tùng đang đứng làm lễ, chợt từ ngoài rèm
có người bước vào, liền lúc đó các cành hoa cắm trong ba lọ hoa đặt trên
hương án không dưng bỗng rơi xuống đất, bay vòng vòng rồi tung ra khắp
nơi. Vương lấy làm lạ, không biết có điềm gì gở không nhưng trong lòng cảm
thấy rất lo buồn”[8, 93]. Cùng với sự lo lắng đó thì đúng là vào năm đó ở
Đàng Ngoài thời tiết đại hạn, lúa má chết khô khiến trăm họ sầu khổ, lòng dân
vô cùng oán thán. Thêm nữa là vào mùa đông lại xuất hiện sấm bất thường
kêu chuyển động cả trời đất, ai nấy đều lo lắng. Cho nên, có thể coi đó là điềm
gở được báo trước. Trong tác phẩm, ta còn thấy có nhiều đoạn nói về những
điềm báo của thiên nhiên rất kì lạ, cụ thể như vào năm Ất Mão 1615, “Tháng
ba ngày mùng mười có nhật thực, đến ngày hai mươi tám ở xã Hoằng Liệt,
huyện Thanh Trì vào khoảng giờ Thân nước sông Cái bỗng dưng cạn hết,
trong khoảng hơn năm khắc, cá tôm đều phơi ra giữa dòng, người dân bắt
được nhiều vô kể”[8, 794]. Điềm lạ đến như vậy không ai giải thích được
nguyên nhân nhưng đến tháng tám nhuận của năm ấy thì Kinh thành cháy to,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn80
thiệt hại khá lớn về người và của.
Header Page 81 of 112.
75
Rồi một loạt sự kiện nữa xảy ra như vào ngày mười một tháng mười năm
1636, có động đất ở Nghệ An hơn nửa tiếng đồng hồ hay là vào tháng sáu năm
1611 ở “núi Tản Viên ở Đàng Ngoài lở dài hơn hai mươi trượng, sâu ba, bốn
thước”[8, 789] hay vào “năm Bính Thìn, niên hiệu Hoằng Định thứ mười bảy
(1616), mùa xuân, ngày mười sáu tháng giêng, nguyệt thực. Mặt trăng bị che
khuất khoảng một phần mười, lại có sao Khách chạm vào quầng mặt trời, hơn
mười ngày mới hết”[8, 95] và sau khi hiện tượng đó xảy ra thì cung phi họ Tô
của Bình An vương ốm chết… Nói chung, trong tác phẩm rất nhiều lần tác giả
đã đề cập đến những hiện tượng thiên nhiên kì lạ và có lẽ đó là một cách giải
thích của tác giả về những chuyện xảy ra sau đó ứng với những điềm báo của
tự nhiên như một lời giải thích hợp lý với tư tưởng tâm linh của người Việt ở
thời kì này.
Có thể nói, yếu tố kì ảo đã được Nguyễn Khoa Chiêm đan cài vào hoàn
cảnh và cuộc đời nhân vật, tạo nên một mạch tự sự khác thường, tăng tính
chất huyền bí. Đây không phải là điều mới lạ trong các tác phẩm tiểu thuyết
lịch sử, các nhà văn Trung Quốc đã sử dụng như một biện pháp nghệ thuật
truyền thống. Tuy nhiên, Nguyễn Khoa Chiêm vẫn tìm được cách kể riêng,
tạo ra sự đan xen thú vị trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tăng thêm tính
hấp dẫn cho tác phẩm.
2.3.2. Chiều sâu tâm linh và đạo lý
Người Việt ta từ xưa đến nay vốn tôn sùng đạo Phật và có đời sống tâm
linh rất phong phú. Người ta thường tin vào các hiện tượng thần bí, duy tâm.
Có lẽ cũng bởi nguyên nhân ấy mà chính tác giả cũng chịu ảnh hưởng của cái
nhìn huyền học tôn giáo. Trong truyện, ta thấy sự kiện nào trùng với một hiện
tượng thiên nhiên thích hợp cũng đều được xem là điềm ứng của thiên mệnh.
Đôi khi với lối quan niệm này mà nhân dân đôi khi bị bức màn thần bí che
phủ và lừa bịp. Đây cũng là điểm hạn chế do nhận thức của người Việt ta ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn81
thời kì này.
Header Page 82 of 112.
76
Như mọi nơi trên thế giới, từ thuở xa xưa các dân tộc Việt Nam đã thờ rất
nhiều thần linh. Họ thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà thực chất là
các hiện tượng thiên nhiên và xã hội chưa thể giải thích được. Ngày nay, nhờ
những nghiên cứu, những lễ hội, những phong tục hiện hữu chúng ta biết
nhiều hơn về cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của các dân tộc Việt Nam
cổ nói chung và tín ngưỡng của họ nói riêng.
Người xưa tin rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên người ta thường
thờ rất nhiều vị thần như thần Mặt Trời, Mặt Trăng, thờ Thần Sông, Thần Núi,
thờ Thổ Công, Hoàng làng… Và họ tin rằng khi có lòng tôn sùng thờ cúng các
vị thần ấy chu đáo, họ sẽ được các vị thần ban phúc lộc cho mình…
Bởi thế, trong tác phẩm ta thấy tác giả đã nhiều lần nói đến sự xuất hiện
của các vị thần trong các giấc mơ của các nhà lãnh đạo nhằm báo trước một sự
việc gì sắp diễn ra hoặc trợ giúp họ hoàn thành công việc như sự việc Nguyễn
Hoàng được thần linh miếu Trảo Trảo giúp đỡ dẹp quân Mạc, hay công tử
Hiệp Đức được các vị thiền sư cho bài kệ báo trước số mệnh của ông….
Ngày nay, thuật chiêm tinh không còn xa lạ với người hiện đại nữa và
trong thực tế người ta đã có nhiều lý giải về những hiện tượng khoa học này
nhưng ở thời trung đại, khi khoa học chưa phát triển thì chuyện xem thiên văn
địa lý để đoán biết sự việc là chuyện bình thường. Thậm chí ở trong triều
đình, bao giờ cũng có một vị quan chuyên về mảng xem thiên văn, để trả lời
cho vua biết ý nghĩa các hiện tượng thiên nhiên. Những bậc học hành đỗ đạt
cao hoặc có trình độ học vấn uyên thâm đều là những người giỏi về thuật
chiêm tinh, độn số. Một trong số những người đó có Nguyễn Khoa Chiêm,
ông không chỉ đưa ra những hiện tượng tự nhiên đặc biệt để giải thích các
hiện tượng xã hội, ông còn dựa trên những lời sấm truyền, ngạn ngữ trong dân
gian để mở đường cho sự xuất hiện của nhân vật hoặc sự kiện và coi đó như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn82
một lẽ tất nhiên.
Header Page 83 of 112.
77
Mặc dù là một tác phẩm văn học mang tính lịch sử khá rõ nét nhưng
Nguyễn Khoa Chiêm đã đưa thêm yếu tố hoang đường vào tác phẩm nhằm
làm cho tác phẩm có tính chất tiểu thuyết hơn một tác phẩm lịch sử, mặt khác
cũng là phản ánh sinh động đời sống tâm linh của người Việt thời kì này. Vì
thế tác phẩm không chỉ đơn thuần cung cấp cho độc giả những kiến thức cơ
bản về lịch sử nước nhà còn làm cho độc giả bị say mê, cuốn hút bởi nội dung
cũng như cách thức viết truyện có kèm theo yếu tố kì ảo hoang đường của tác
giả. Mặt khác, Nam triều công nghiệp diễn chí là tác phẩm mà tác giả viết về
những triều đại phong kiến, về các vị chúa, các ông vua. Mà xã hội phong
kiến lại có quan điểm vua, chúa là thiên tử, là người được trời cao phái xuống
trị vì thiên hạ, giúp dân an bang lập nghiệp, thường được thần, Phật phù trợ,
hiển linh báo trước cho một số sự kiện nên trong tác phẩm cũng không thể
thiếu các yếu tố siêu nhiên, thần kỳ được. Một vấn đề nữa là các yếu tố này
xuất hiện trong tác phẩm thường xuyên sẽ tạo cho tác phẩm có được nét dân
gian hóa và trở nên gần gũi lôi cuốn hơn.
Nói tóm lại, có thể khẳng định rằng bằng cách viết riêng của mình
Nguyễn Khoa Chiêm đã thành công trong việc viết một truyện sử bằng văn.
Một thành công rất đáng ca ngợi.
2.4. Tự sự bằng thơ
2.4.1. Truyện giới thiệu về thơ
Như chúng ta đã biết, tiểu thuyết chương hồi có những đặc trưng riêng
của mình như mở đầu mỗi hồi thường có hai câu thơ hoặc câu văn biền ngẫu
nêu tóm tắt diễn biến chính trong hồi; cuối mỗi hồi thường có một bài thơ
ngắn để đánh giá sự kiện hoặc nhân vật trong hồi và sau đó kết thúc bằng câu
đại loại như: Muốn biết sự việc thế nào xem hồi sau sẽ rõ. Và khi sang hồi
mới sẽ lại tiếp tục triển khai với một nhan đề mới. Đó là cấu trúc riêng của thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn83
loại văn học này. Nam triều công nghiệp diễn chí cũng không nằm ngoài
Header Page 84 of 112.
78
phạm vi cấu trúc ấy. Tuy nhiên, khi tìm hiểu sâu về tác phẩm, ta sẽ thấy
Nguyễn Khoa Chiêm đã vận dụng rất linh hoạt việc đưa các bài thơ vào trong
tác phẩm mình nhằm tăng tính trữ tình cho thể loại văn vốn bị coi là khô khan
này. Ngoài ra, ta còn thấy dường như Nguyễn Khoa Chiêm cố tình đưa thơ
vào truyện để giới thiệu câu chuyện dưới hình thức một bài thơ nhằm làm cho
người đọc dễ thuộc dễ nhớ các sự kiện trong tác phẩm và làm như vậy sẽ
khiến tác phẩm gần gũi với mọi người hơn.
Ở đầu mỗi quyển, tương đương với mỗi hồi Nguyễn Khoa Chiêm thường
đưa vào đó một bài thơ nêu tóm tắt nội dung nổi bật của hồi đó. Ví dụ như ở
quyển thứ nhất là bài thơ:
Thơ rằng:
Ngày bụi phất đêm dặc dài
Kể chuyện rồng rên hổ rống
Khoe tài côn nhảy bằng bay
Đến đầu chẳng biết trời đất rộng
Đưa mắt mới hay núi song dài
Ngoài cuộc chán xem tranh thắng bại
Trong lòng những muốn giữ đất đai
Đó thịnh kia suy, triều đại hưng vong chẳng đổi
Đông chinh, Tây chiến, trời ngừng ứng thuận chẳng hề sai.
[8, 27]
Bằng một bài thơ ngắn gọn, đầy tính triết lý, tác giả đã khái quát qua nội
dung trong hồi về những cuộc chiến của những triều đại, những âm mưu tranh
giành đất đai mà khi đọc tác phẩm bạn đọc sẽ thấy rõ.
Hay ở đầu quyển ba có bài thơ rằng:
Ngời ngời tinh đẩu sáng bầu trời,
Chỉ thấy Đào Từ gắng giúp đời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn84
Tráng sĩ cần vương mong giúp rập,
Header Page 85 of 112.
79
Lòng son báo nước nắm cơ thời.
Quyết tìm mưu lược yên bờ cõi,
Hiển đạt thanh danh khắp mọi nơi.
Mong chúa phương Nam mau thống nhất,
Thăng Long về lại khỏi chê cười!
[7, 165]
Thì nội dung ở quyển này chủ yếu nói về nhân vật Đào Duy Từ, một vị
nhân sĩ tài giỏi, lập công lón cho chúa Nguyễn.
Hay ở quyển thứ năm có bài thơ như sau:
Thơ rằng:
Anh hùng lừng lẫy khắp Trung châu,
Xã tắc oai linh hộ nguyện cầu.
Bái ấp điềm thiêng rồng đến hiện,
Gia hương linh ứng phượng về chầu.
Thành trì bền chắc muôn thuở vững,
Kẻ sĩ theo về chật trước sau.
Khai sáng cơ đồ nên thánh chúa,
Tía hồng mây rạng tỏa kim âu.
[7, 347]
Bài thơ ngắn gọn, súc tích, câu thơ đầy tính triết lý, hàm ẩn khiến cho
người đọc cảm thấy tò mò về nội dung trong hồi nên càng cuốn hút họ phải
đọc. Với bài thơ này, Nguyễn Khoa Chiêm muốn nói đến sự việc cha con Ký
Lục hồ, Tú Phượng nghe tin chúa Nam trọng người tài bèn tìm đến mong giúp
rập. Từ đó, chúa Nam có thêm vây cánh ở Đàng Ngoài nên càng cố gắng hết
sức chuẩn bị đánh ra Trung đô. Rồi lại có các viên tướng bên Trịnh là Đoàn
Hiển Bá, Cổn Lương tử, Đoán Chân tử, cống sĩ Canh, cống sĩ Vương Điền,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn85
cống sĩ Ban, vệ sĩ hộ binh Tộ cùng nhau vào hàng chúa Nam. Như vậy là, với
Header Page 86 of 112.
80
tài đức của mình, chúa Nam đã thu hút được đông đảo người tài theo về, đúng
như trong bài thơ đã nói:
Kẻ sĩ theo về chật trước sau.
Trong tiểu thuyết chương hồi thì hầu như ở đầu mỗi hồi đều có một bài
thơ ngắn hoặc một câu văn biền ngẫu nêu tóm tắt nội dung của hồi. Trong
Nam triều công nghiệp diễn chí thì hầu như ở đầu mỗi quyển đều có một bài
thơ nêu tóm tắt nội dung của quyển ấy, nhưng cũng có quyển khuyết đi bài
thơ này như ở quyển hai, quyển bảy. Điều này không hề ảnh hưởng đến chất
lượng của tác phẩm mà lại gây hiệu ứng ngược, khiến độc giả phải tiếp tục tìm
hiểu về nội dung của cuốn sách.
Trong Hoàng Lê nhất thống chí thì Ngô gia văn phái lại dùng hai câu
biền ngẫu tám chữ hoặc mười chữ để nói trước mỗi hồi. Còn trong Tam quốc
diễn nghĩa trước mỗi chương cũng dùng hai câu thơ thất ngôn để nói. Như
vậy, rõ ràng Nguyễn Khoa Chiêm đã có sáng tạo riêng của ông khi dùng
những bài thơ bảy chữ để tóm lược nội dung của mỗi hồi, mỗi quyển.
Trong tiểu thuyết chương hồi, khi kết thúc mỗi hồi thông thường sẽ có
một bài thơ ngắn để tổng kết đánh giá sự kiện diễn ra trong hồi đó và câu thơ
cuối hồi này có mối quan hệ nhân quả với hai câu đề ở đầu mỗi hồi. Như
trong Hoàng Lê nhất thống chí, cuối mỗi hồi thường có hai câu thơ thất ngôn
để đánh giá sự kiện trong hồi như khi kết thúc hồi thứ nhất tác giả đã đưa ra
hai câu:
Thật là:
Ái ân, cô gái không e sợ
Hoan hỉ, chàng trai lại dở dang
[43, 23]
Trong khi đó câu thơ mở đầu hồi là:
Đặng Tuyên Phi được yêu dấu, đứng đầu hậu cung
Vương thế tử bị truất ngôi, ra ở nhà kín
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn86
[43, 7]
Header Page 87 of 112.
81
Hay ở hồi thứ ba mở đầu bằng hai câu
Dương nguyên cữu bàn chém kiêu binh
Nguyễn Quốc sư mưu trừ nội loạn
[43, 52]
Và kết thúc bằng hai câu:
Thật là :
Áo cá hớ hênh nên chẳng quyết
Lòng hồ cố chấp hóa ngờ nhau.
[43, 80]
Nhìn chung, ở Hoàng Lê nhất thống chí, các câu thơ kết thúc mỗi hồi có
nội dung khá trừu tượng, người đọc phải suy nghĩ để thấy được thâm ý sâu xa
trong đó. Điều này khác hẳn với Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa
Chiêm đã có những cách tân để cho tác phẩm của mình không bị đi vào khuôn
mẫu một cách cứng nhắc, ví dụ như khi hết quyển ông thường không có thơ
đánh giá chung về nội dung của quyển đó mà chỉ là một bài thơ kết luận về một
sự kiện nổi bật trong tác phẩm và cũng có những quyển khi kết thúc, tác giả
không đưa thơ vào như để tạo dấu ấn riêng cho mình.
Ví dụ như khi kết thúc quyển một, ông đã đánh giá sự kiện Trịnh Tùng
giết vua Lê Kính Tông bằng một bài thơ:
Thương xót Lê hoàng phận bĩ là!
Rồng thần thất thế gặp yêu xà.
Anh hùng ít kẻ giúp triều chính,
Tiếm loạn nhiều tay rắp gian tà.
Trịnh Xuân ví thử mưu chắc thắng,
Định Đế nào đâu phải khóc la.
Kìa xen bố con tru diệt lẫn,
Mới biết long trời bỏ Trịnh gia.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn87
[8, 105]
Header Page 88 of 112.
82
Bài thơ trên Nguyễn Khoa Chiêm đã gán cho tác giả là người đương thời
để có thể bộc bạch hết những suy nghĩ, đánh giá của mình về sự kiện này.
Trong bài thơ, tác giả sử dụng nhiều từ cảm thán để nói lên sự thương xót đối
với vua Lê Kính Tông, một ông vua duy nhất của nhà Lê dám đứng lên đương
đầu với nhà Trịnh và đồng thời cũng phê phán Trịnh Tùng vì tội dám giết vua
là tội không thể tha. Cũng trong bài thơ, Nguyễn Khoa Chiêm còn tỏ thái độ
chê trách gia đình Trịnh Tùng đã không biết đường ăn ở để đến nỗi con phải
lập mưu giết cha.
Ngoài ra, đọc tác phẩm và so sánh với các tác phẩm khác như Hoàng Lê
nhất thống chí, Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử.. chúng ta nhận thấy rằng tác
phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm có nhiều thơ
hơn các tác phẩm khác. Ngoài các bài thơ bình luận về các sự kiện nổi bật ở
trong hồi, còn có những bài kệ, những bài thơ sấm… mà cần phải thông hiểu
thơ ca, có kiến thức văn chương sâu sắc mới giải nghĩa được. Hay trong trận
chiến 1655 – 1660, sau khi kết thúc trận chiến, tác giả cũng đưa vào tác phẩm
những bài văn tế quân sĩ cả hai Đàng và còn có cả một bài phú dài về trận
Trấn Ninh. Rõ ràng, tác giả đã có những chọn lọc tuyệt vời khi đem thơ vào
trong tác phẩm. Điều đó chứng tỏ tác giả có biệt tài trong cả sáng tác thơ và
văn, đặc biệt là có kiến thức uyên thâm, thông thạo nhiều lĩnh vực.
Nhìn chung, Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm đã
rất thành công trong việc kết hợp giữa ba chất liệu văn xuôi, lịch sử, và thơ.
Ba chất liệu này đã tạo nên một tiểu thuyết lịch sử chương hồi độc đáo, đặc
biệt và có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử văn học trung đại nói riêng, văn học
Việt Nam nói chung.
2.4.2. Lời bình bằng thơ trong truyện.
Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, độc giả luôn bị cuốn hút bởi nghệ
thuật kể chuyện của Nguyễn Khoa Chiêm. Ông đã sử dụng lối kể chuyện chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn88
xác, sinh động, tự nhiên, giản dị và hấp dẫn để miêu tả nhiều sự kiện chính trị
Header Page 89 of 112.
83
ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài như các cuộc chiến, các âm mưu phế lập,
biến loạn, nhiều trận đánh lớn…Cách viết của ông thường chú trọng vấn đề kể
hơn là tả, câu văn của ông không quá nặng nề vào công thức, giúp độc giả dễ
dàng tiếp nhận. Tuy nhiên, đôi khi cách hành văn của ông lại rơi vào nhược
điểm là lược thuật dài dòng, ngôn ngữ chưa được chau truốt khiến nhiều đoạn
trở nên khô khan, khó hiểu. Và dường như để khắc phục nhược điểm đó,
Nguyễn Khoa Chiêm đã cài vào Nam triều công nghiệp diễn chí của mình
những bài thơ để cho tác phẩm bớt đi sự khô khan cứng nhắc trở nên mềm
mại hơn.
Sau khi kết thúc một sự kiện có ý nghĩa, Nguyễn Khoa Chiêm thường ghi
lại một bài thơ có thể là thất ngôn bát cú, hoặc ngũ ngôn bát cú để bày tỏ ý
kiến đánh giá của mình về sự kiện ấy đồng thời làm tăng tính trữ tình cho tác
phẩm. Thường thì tác giả không bao giờ nhận bài thơ đó là của mình mà
mượn tên tác giả dân gian vô danh như: Người đương thời có thơ rằng để nói
lên tính khách quan của sự kiện. Đó thường là những lời bình bằng thơ hết sức
cô đọng, súc tích và ý nghĩa.
Ví dụ khi chúa Nam cho Lộc Tiên đến chiêu dụ Hàn Tiến về với mình
mà Hàn Tiến không đồng ý, Nguyễn Khoa Chiêm viết rằng:
Người đương thời biết chuyện có làm bài thơ luật như sau:
Ngoài cõi cầm quân chốn chiến trường,
Cửu trùng ơn nặng há xem thường.
Trung thần quyết chẳng thờ hai chúa,
Liệt nữ ai người chịu đổi chồng.
Chớ bảo Từ công không chịu khát,
Hãy rằng Ngu thị sử nêu gương.
Quan nhân tự thuở Há Đường ấy,
Yêm hoạn như ông thật ít dường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn89
[8, 257]
Header Page 90 of 112.
84
Bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngắn gọn, súc tích, nội dung chủ yếu
là ca ngợi tinh thần trung quân của Hàn Tiến đối với chúa Trịnh. Mặc dù chỉ
có tám câu thơ nhưng Nguyễn Khoa Chiêm đã làm nổi bật nhận xét của mình
về Hàn Tiến qua hai điển tích là Từ Thứ dù phải về với Tào Tháo nhưng vẫn
giữ lòng trung với Lưu Bị, và điển tích thứ hai về Ngu Cơ, người tì thiếp của
Hạng Vũ, khi Hạng Vũ qua đời nàng cũng tự sát theo chồng luôn. Việc sử
dụng hai điển tích đó, làm nổi bật giá trị của Hàn Tiến, thể hiện thái độ của
Nguyễn Khoa Chiêm khi đánh giá về nhân vật này.
Hay sau khi Hàn Tiến tự tử, ông có viết như sau:
Người đương thời có thơ rằng:
Trung nghĩa lòng son chí chẳng dời;
Nào hay tâm sự chẳng theo thời.
Núi vô trúng đạn người khôn đoái,
Nhà trạm canh khuya luống ngậm cười.
Năm trước xót ông buồn chưa dứt,
Ngày rày tưởng nhớ lệ khôn rơi.
Mới hay phú quý là giấc mộng,
Chẳng quản nên chăng chuyện ở đời.
[8, 265]
Bài thơ chứa đầy những từ ngữ nhớ, ngậm cười, xót, buồn, lệ khôn rơi,
tưởng nhớ để nói lên sự thương tiếc với một con người có tài năng, trung
thành với chủ lại bị hại đến mức phải tự tử nên tác giả rất xót thương. Đó cũng
bởi tác giả rất khâm phục những con người tài giỏi, trung thành như Hàn Tiến.
Hay khi nói về đội quân của công tử Hiệp Đức đi đánh chặn đội quân của
Hào Man Lê Thì Hiến năm 1661. Đội quân này rất hùng dũng lại được chỉ huy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn90
là người tài đức vẹn toàn nên khi xuất quân khí thế rất mạnh,tác giả đã viết rằng:
Header Page 91 of 112.
85
Chỉ thấy:
Quân uy nghiêm túc, kiếm bích buốt rừng,
Chiêng trống động trời xanh, tinh kỳ che đất biếc,
Người người dương oai đoạt mạnh,
Ai nấy ra sức tranh hung.
Mới hay Đàng Trong khỏe vững,
Chẳng ai không một thắng trăm.
[8, 482]
Đó quả thật là một lời khen rất chính xác thông qua bài thơ mang tính
chất bình luận của tác giả.
Trong trận chiến giành, giữ thành Trấn Ninh, để bộc lộ sự thương xót của
mình với các quân sĩ tử nạn, lại thêm căm hờn sự tham lam, ích kỉ, độc ác của
các đấng vua chúa đã bắt buộc người trong một nước phải giết hại lẫn nhau,
Nguyễn Khoa Chiêm có thơ rằng:
Chiến khí xung thiên sang vọng lâu.
Nước trời lấp loáng ánh đêm thâu.
Rồng cuộn đêm ngày giơ nanh vuốt,
Hổ dữ ngày tranh vểnh ngược râu.
Trước lũy quân say liền đánh trận,
Trong thành quyết chí lập công đầu.
Địch quân lạ có ai kêu bảo,
Mới biết lòng trời muốn giúp lâu.
[8, 545]
Hay sau trận nội chiến 1655-1660, sau khi quân Nam rút về Đàng Trong,
ông có thơ bình rằng:
Người đương thời có thơ rằng:
Anh hùng trời trao mệnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn91
Trí giỏi lại thông minh
Header Page 92 of 112.
86
Đức dầy yên bờ cõi
Tài cao quân giặc lánh
Mưu lược biết thế vận
Ơn trị thấu dân tình
Mây tạnh trời lại sáng
Nghìn thu hưởng thái bình.
[7,478]
Nhìn chung, trước mỗi sự kiện quan trọng, tác giả đều có cái nhìn rất
khách quan để từ đó đưa ra những đánh giá, bình luận rất chính xác, không
thiên lệch.
Ngoài ra, trong truyện tác giả còn rất nhiều lần đưa ra những lời bình
luận bằng thơ vô cùng sắc đáng về các sự kiện quan trọng, nổi bật. Những bài
thơ ấy đã giúp tác giả rất nhiều khi muốn đưa nhận xét của mình mà không
ảnh hưởng đến ai, ông mượn lời người đương thời vô danh để viết nên không
sợ phạm húy hay mắc tội với triều đình nào cả. Đó quả là một sự lựa chọn rất
thông minh và sáng suốt của tác giả.
Nhìn chung, trước mỗi sự kiện quan trọng, tác giả đều có cái nhìn khá
khách quan để từ đó đưa ra những đánh giá, bình luận chính xác, không thiên
lệch, thể hiện cái nhìn bao quát và có thái độ đánh giá riêng trước mỗi sự kiện.
Tóm lại, trong Nam triều công nghiệp diễn chí, thơ đã đóng một phần
quan trọng trong thành công của nghệ thuật kể chuyện và sự thành công ấy
một lần nữa khẳng định lại rằng thơ là một phần không thể thiếu trong tiểu
thuyết chương hồi và đặc biệt là trong Nam triều công nghiệp diễn chí của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn92
Nguyễn Khoa Chiêm.
Header Page 93 of 112.
87
Chương 3
HÌNH THỨC TỰ SỰ CỦA NAM TRIỀU
CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ
3.1. Vai trò của người kể chuyện trong Nam triều công nghiệp diễn chí
3.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba khách quan
Trong tác phẩm tự sự, ngôi kể đóng vai trò rất quan trọng. Ngôi kể chính
là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng khi kể chuyện. Khi người kể xưng “tôi”
thì đó là kể theo ngôi thứ nhất còn khi người kể giấu mình, gọi sự vật bằng cái
tên của chúng, như “người ta kể” thì đó gọi là kể theo ngôi thứ ba. Mỗi một
ngôi kể có lợi thế riêng của nó. Ngôi kể thứ nhất thì chỉ được kể theo những gì
mình được biết, được chứng kiến, được trải qua, có thể nói ra cảm tưởng của
mình một cách trực tiếp và mang tính chủ quan. Ngôi kể này thường áp dụng
trong các tác phẩm tự thuật hoặc hồi ức, chủ thể tự kể về mình, hoặc trong các
tác phẩm mà chủ thể hóa thân vào nhân vật để đảm bảo sự thật cho câu
chuyện. Kể theo ngôi thứ ba thì người kể giấu mình, độc giả không biết người
kể là ai. Người kể có mặt ở khắp nơi, biết mọi chuyện và kể như người ta kể.
Kể ở ngôi thứ ba thường mang tính khách quan, nhòe mờ tính chủ quan cho
nên lời kể thường rất tự nhiên, hoạt bát, có thể di chuyển điểm nhìn đến khắp
mọi nơi.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tác giả chọn ngôi kể thứ ba, nhà
văn ẩn mình và không ai biết người kể. Chính vì thế, tác giả có thể kể mọi
chuyện và kể ở khắp nơi trên mọi miền đất nước. Cách kể ấy tạo ra tính xác
thực không thiên lệch, khiến cho câu chuyện hiển hiện với sự hấp dẫn thú vị.
Mặc dù trong tác phẩm tác giả không lộ diện mình là ai, thuộc phe nào,
nhưng những sự kiện tác giả đề cập lại rất chính xác, đặc biệt những nhận
định của ông khá chuẩn mực, không thiên lệch. Mặc dù đọc tác phẩm ta thấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn93
Nguyễn Khoa Chiêm có nhiều ưu ái khi kể về các chúa Nam triều, song khách
Header Page 94 of 112.
88
quan mà nói thì những lời kể của tác giả cũng không hoàn toàn phiến diện.
Khi các chúa Nam triều có những khuyết điểm gì, ông cũng đều mạnh dạn chỉ
rõ chứ không bao che, lấp liếm. Điều đó lại càng tăng thêm tính khách quan
cho tác phẩm. Ví dụ như tác giả đã phê phán chúa Nguyễn Phúc Lan cũng có
thời kì ăn chơi, hưởng lạc, sa vào sắc dục để ảnh hưởng đến triều chính, hay là
chuyện con trai của chúa tranh giành ngôi vị, giết hại lẫn nhau. Cụ thể là
chuyện chúa Thượng sau khi lên ngôi chúa đã bị Dương Nghĩa hầu ghen tị
quyết chí làm phản, Tường Quận công phải đi bắt về xử tội. Hoặc việc Thụy
Quận công Nguyễn Phúc Nguyên được lên nối ngôi chúa thì hai người em là
Văn Nham và Thạch Xuyên vốn là anh em cùng cha khác mẹ sinh lòng ghen
ghét và có mưu đồ tranh giành ngôi chúa. Hai người này lên kế hoạch liên kết
với quân Trịnh để lật đổ chúa Sãi, nhưng kế hoạch bị bại lộ và bị Tuyên Lộc
theo mệnh chúa bắt đem về giam tại nhà rồi sau này xấu hổ quá mà chết. Có
đoạn ông còn nói đến việc thiếu quyết đoán, chần chừ của chúa Nguyễn trong
chính trị như sự việc của Hiền vương Nguyễn Phúc Tần, người đã để lỡ mất
cơ hội thu phục Trung đô, thống nhất giang sơn mặc dù thế trận đã nghiêng
hẳn về phía Nam triều, để rồi khi mất Ký Lục hồ, chúa cũng phải hối tiếc rằng
không có cơ hội thứ hai như vậy nữa….Hay sự việc các tướng lĩnh của chúa
Nam Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật và Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến lục đục
với nhau gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến kết quả trận chiến cũng
được Nguyễn Khoa Chiêm thẳng thắn chỉ ra.
Còn về phía quân Bắc triều, tác giả cũng không ngại ngùng khi chỉ rõ bộ
mặt đớn hèn của các vua Lê chỉ biết ăn chơi hưởng lạc không có chính kiến
riêng, không có tài cán gì để nhà Trịnh thâu tóm quyền hành, lấn lướt vua,
hành hạ nhân dân, khiến nhân dân rơi vào tình cảnh một cổ hai tròng. Ngoài
ra, ông còn chỉ rõ sự ích kỷ của các đời vua Lê khi mặc sức cho chúa Trịnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn94
hoành hành trong thiên hạ, còn bản than mình lo hưởng thụ và thi nhau tranh
Header Page 95 of 112.
89
chấp ngôi báu…Qua việc chỉ trích các đời vua Lê, ta thấy Nguyễn Khoa
Chiêm đã rất khôn khéo khi mượn điểm nhìn nghệ thuật từ bên ngoài để nhìn
vào sự thật đồng thời dùng ngôi kể ẩn mình để nói lên tất cả những suy nghĩ
chân thật về hiện thực xã hội mà không ai có thể trách cứ hay bắt lỗi được.
Cũng với cái nhìn toàn cảnh và không thiên lệch ấy, Nguyễn Khoa
Chiêm đã cho bạn đọc thấy rõ bộ mặt xấu xa, tàn ác của các đời chúa Trịnh.
Hầu hết các đời chúa hiện lên trong tác phẩm đều là những ông chúa tàn bạo,
độc ác, trên khinh mạn thiên tử, dưới coi thường muôn dân, lấn lướt quyền
hành của vua, giết vua hại trung thần.. tội nào cũng có. Đó là những lần lấn
quyền vua tự quyết định việc của quốc gia, hay là việc giết vua cũ thay vua
mới mà không cần ý kiến ai. Nhìn chung, dưới con mắt của Nguyễn Khoa
Chiêm thì các đời chúa Trịnh hiện lên đều là những ông chúa đáng ghét hơn
đáng kính. Những điều này cho thấy tác giả có cái nhìn chuẩn xác và đầy bản
lĩnh mới dám viết lên thành một câu chuyện hay như vậy. Thông qua câu
chuyện, tác giả muốn lên án cuộc nội chiến kéo dài hơn một trăm năm giữa
Đàng Trong và Đàng Ngoài, làm cho người chịu khổ nhất không ai khác chính
là người dân. Còn các vị vua chúa tham gia cuộc nội chiến này không có mục
đích nào khác ngoài mục đích tranh giành quyền lực, địa vị, không hề quan
tâm đến cuộc sống của bá tính, muôn dân lầm than mất mát ra sao họ không
thèm đếm xỉa đến.
Bên cạnh việc phê phán mặt sai lầm của các phe phái, tác giả cũng nói
lên những mặt tốt, những yếu tố tích cực mà các ông vua, vị chúa đã làm
được. Đó là lời khen cho các đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, họ là những
ông chúa biết yêu thương dân chúng, biết trọng đãi kẻ hiền. Đọc tác phẩm, ta
thấy được từ đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng đến đời chúa Sãi vương Nguyễn
Phúc Trăn, các vị chúa này đều có những chính sách khuyến khích nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn95
nghiệp phát triển, có nhiều lần miễn thuế cho dân khi gặp thiên tai, biết bảo vệ
Header Page 96 of 112.
90
dân, phát lương cho dân khi đói kém…. Nhìn chung, họ yêu dân như con và
có ý thức xây dựng đất nước thịnh vượng cho muôn dân. Các vị chúa Trịnh
cũng được ông nhắc đến công lao phò giúp vua Lê xây dựng đất nước. Còn
các vua Lê thì phần nào cũng có mặt tốt riêng, cũng có ông vua muốn giành lại
thực quyền đã lên kế hoạch đánh đổ Trịnh Tùng nhưng rồi bị phát hiện nên phải
chết một cách đau xót.
Từ ngôi kể thứ ba, Nguyễn Khoa Chiêm đã làm được một công việc vô
cùng nặng nhọc đó là ghi lại toàn bộ diễn tiến của lịch sử nước ta trong suốt
một chặng đường dài với cái nhìn toàn cảnh và nội dung phản ánh khá khách
quan. Điều đó đã tạo cho Nam triều công nghiệp diễn chí một sức hấp dẫn
riêng đối với bạn đọc nhiều thế hệ. Đây chính là một nét đặc sắc trong nghệ
thuật kể chuyện của Nguyễn Khoa Chiêm.
3.1.2. Điểm nhìn nghệ thuật từ bên ngoài
Trong tác phẩm tự sự, ngôi kể chiếm phần quan trọng nhưng nếu chỉ quan
tâm đến ngôi kể thì sẽ không thấy được nội hàm của tác phẩm một cách toàn diện.
Điểm nhìn nghệ thuật là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu. Điểm nhìn là
vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm.
Có nhiều loại điểm nhìn như điểm nhìn của người trần thuật, tác giả hay
của nhân vật trữ tình và của nhân vật trong tác phẩm tự sự, điểm nhìn không
gian và điểm nhìn thời gian. Ngoài ra, còn có điểm nhìn bên trong và điểm
nhìn bên ngoài, điểm nhìn đánh giá tư tưởng cảm xúc, điểm nhìn ngôn từ,
quán ngữ…
Trong tác phẩm tự sự, không nhất thiết người viết phải giữ một điểm nhìn
cố định cho toàn bộ tác phẩm của mình mà có thể có sự dịch chuyển, thay đổi
điểm nhìn để phù hợp với từng hoàn cảnh, khung cảnh diễn ra trong tác phẩm.
Mặt khác, sự dịch chuyển điểm nhìn sẽ giúp cho lời trần thuật của tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn96
được phong phú hơn, do đó tránh được sự nhàm chán cho người đọc. Trong
Header Page 97 of 112.
91
nhiều trường hợp thì dịch chuyển từ điểm nhìn bên ngoài tới điểm nhìn bên
trong sẽ giúp cho tác giả dễ dàng bộc lộ được nội tâm, suy nghĩ của nhân vật
một cách khách quan nhất.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, điểm nhìn trần thuật chính là
điểm nhìn bên ngoài, tác giả đã quan sát tất cả các sự kiện từ bên ngoài, như
một người ngoài cuộc theo dõi thật chi tiết toàn bộ các sự kiện diễn ra để rồi
ghi lại một cách cụ thể, rõ ràng và khách quan nhất.
Từ bên ngoài nhìn vào hiện thực lịch sử, Nguyễn Khoa Chiêm đã thấy
được toàn cảnh tối tăm của triều đình phong kiến Việt Nam thế kỷ XVI –
XVII và phản ánh hiện thực ấy một cách rõ nét, sinh động, chân thực trong
Nam triều công nghiệp diễn chí.
Chỉ có sử dụng điểm nhìn bên ngoài, Nguyễn Khoa Chiêm mới có thể
miêu tả đầy đủ và trọn vẹn những gì đang diễn ra, từ hình dáng, tính cách các
nhân vật, đến toàn cảnh các trận chiến. Với chiều dài lịch sử hàng trăm năm,
với vài trăm nhân vật lịch sử,chỉ có đứng ở ngoài nhìn vào thì mới có thể có
cái nhìn bao quát rộng lớn đến vậy.
Ví dụ như ở trận đánh giữ thành Trấn Ninh năm 1655 – 1660 tác giả có
miêu tả khí thế trận đánh của cả hai bên như sau:
“Ngày hai mươi lăm, vào giờ Thìn, quân Bắc tiến thẳng đến dưới thành
Trấn Ninh, tiếng hò reo vang dậy, tiếng chiêng trống vang trời. Quân hai bên
đánh lớn, tiếng súng nổ ầm ầm. Quân Nam bám vào mặt thành mà đánh.
Quân Bắc đi dưới đường đánh gấp vào thành, đôi bên giành giật nhau từ sáng
đến tối không phân thắng bại”. [8, 543]
Ngày hai mươi sáu, quân Bắc cho người “bám tường leo lên mặt thành,
quân nấp dưới hầm thì bắn sung trợ chiến. Khi thấy quân Bắc trèo lên lũy
quân Nam cầm giáo nhọn mà đâm xuống, quân trèo thành chết lăn rất nhiều,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn97
xác chết đầy hào rãnh. Quân Bắc chồng các xác chết làm thang mà trèo lên,
Header Page 98 of 112.
92
quân giữ thành ra sức mà đâm giết, thây chất thành từng đống cao. Quân sĩ
đâm mỏi tay thì đẩy súng lớn ra bắn. Quân Bắc dùng dây thừng buộc thòng
lọng quăng vào nòng súng mà kéo xuống rồi tống đất đá, rơm cỏ vào làm tắc
nòng không bắn được. Quân Nam lại dung thương dài mà đâm, quân Bắc
cũng đâm trả. Quân đôi bên cứ thế hỗn chiến kéo dài” [8, 544]
Ngoài ra, tác giả còn miêu tả quân Bắc còn “dùng sào dẫn hóa chất mồi
lửa vào đốt mái đài, ngọn lửa bốc cháy rừng rực ngút trời”, lại “ném cả trái
phá vào thành”.[8, 545]
Rất nhiều các trận đánh, các sự kiện quan trọng được miêu tả một cách kĩ
lưỡng và tổng thể, điều đó càng chứng tỏ rằng tác giả có cái nhìn rất rộng và
đa chiều. Điểm nhìn từ bên ngoài đã bao trùm cả tác phẩm và tạo nên sự thành
công về nghệ thuật tự sự mà hiếm tác phẩm nào ở thời kì này có được.
3.2. Nghệ thuật kể chuyện trong Nam triều công nghiệp diễn chí
3.2.1. Cách mở đầu trực tiếp
Nói về nghệ thuật kể chuyện, mỗi nhà văn có một cách riêng, một trình
độ kể khác nhau. Cùng một cốt truyện ấy nhưng có người kể hay, có người kể
không hay, có người khi vừa vào truyện đã lôi cuốn người nghe muốn nghe
mãi đến hết chuyện, nhưng cũng có người khi vừa bắt đầu câu chuyện đã thấy
nhạt và không ai muốn nghe tiếp mặc dù cốt truyện rất hay. Trong sáng tác
văn học cũng vậy, không phải bất cứ nhà văn nào cũng viết hay, viết tốt, biết
cách đưa bạn đọc đến với tác phẩm của mình. Thực tế cho thấy không hiếm
nhà văn mặc dù cốt truyện hay nhưng cách viết lại nhạt nhẽo và không gây
được sự chú ý của bạn đọc.
Nghệ thuật kể chuyện đạt tới tầm cao là phải hấp dẫn được người nghe,
người đọc ngay từ cách mở đầu câu chuyện. Mở đầu phải hay, linh hoạt, lôi
cuốn thì người đọc người nghe mới say mê, có tâm thế theo dõi cả câu chuyện.
Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tác giả đã rất thành công khi gây
sự chú ý với độc giả ngay ở cách mở đầu trực tiếp giới thiệu thẳng vào cốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn98
truyện. Cách mở đầu này tạo ra sự chú ý cho độc giả.
Header Page 99 of 112.
93
Ngay từ những dòng đầu tiên, Nguyễn Khoa Chiêm đã đưa vào một bài
thơ rất hay, tạo sự tò mò cho độc giả. Bài thơ dường như đã nói lên ý đồ của
tác giả khi xây dựng tác phẩm, mở ra những phán đoán, suy tư cho độc giả.
Những bài thơ ấy thường ngầm thông báo về lẽ thịnh suy của thời cuộc, đánh
giá khái quát những sự kiện, những nhân vật lịch sử. Ví dụ như:
Thơ rằng:
Ngày bụi phất đêm dặc dài
Kể chuyện rồng lên hổ rống
Khoe tài côn nhảy bằng bay
Đến đầu chẳng biết trời đất rộng
Đưa mắt mới hay núi sông dài
Ngoài cuộc chán xem tranh thắng bại
Trong vòng những muốn giữ đất đai
Đó thịnh suy, triều đại hưng vong chăng đổi
Đông chinh Tây chiến, trời người ứng thuận chẳng hề sai.
[8, 21]
Tiếp đó, tác giả đưa bạn đọc đến với những khái quát về lịch sử nước nhà
từ thời “Hùng Vương, Triệu Vương đến Đinh, Lý, Trần, Lê, sáu triều đại hưng
phế tiếp nhau” [8, 22] để giới thiệu tiếp sự ra đời và tồn tại của triều Lê, rồi
sau đó mới nhắc đến việc các đời vua Lê lên ngôi thay vua Trần ra sao, các
vua Lê cai trị đất nước như thế nào khiến cho cường thần Mạc Đăng Dung
cướp ngôi; rồi hoàng tử Lê Ninh phải chạy sang Ai Lao trốn như thế nào. Tất
cả đều được Nguyên Khoa Chiêm miêu tả ngắn gọn và súc tích để bạn đọc
nhanh chóng nắm được vấn đề. Sau khi nói qua về lịch sử hình thành triều Lê
và nguyên nhân nhà Lê bị mất ngôi bởi nhà Mạc,tác giả mới chính thức đi vào
câu chuyện của mình.
Với cách vào chuyện thông minh, tác giả vừa kể, vừa nhắc bạn đọc có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn99
một chút liên hệ với lịch sử nước nhà để từ đó dẫn dắt vào câu chuyện một
Header Page 100 of 112.
94
cách tự nhiên. Nguyễn Khoa Chiêm đã tạo cho Nam triều công nghiệp diễn
chí có một màn mở đầu đầy ấn tượng và hấp dẫn khi kết hợp giữa thơ và văn
để tạo ra sự linh hoạt và lôi cuốn. Điều này đã khiến cho tác phẩm có sự thành
công rất sớm, khiến độc giả bị hút theo cốt truyện mà tác giả kể sau đó. Đấy
chính là thành công đầu tiên của Nguyễn Khoa Chiêm khi viết Nam triều công
nghiệp diễn chí, để rồi, tiếp nối thành công ấy, tác giả cứ lôi cuốn người đọc
đi hết sự kiện này đến sự kiện kia, hồi này đến hồi khác cho đến cuối truyện.
Nguyễn Khoa Chiêm đã biết vận dụng điều đó và làm cho tác phẩm của
ông hấp dẫn ngay từ phút đầu tiên mở truyện. Đó là thành công của ông trong
sáng tác văn chương mà ở thời kỳ ông không phải ai cũng làm được.
3.2.2. Cách dẫn dắt chuyện lôgic
Sau cách mở đầu câu chuyên linh hoạt và lôi cuốn, tác giả còn có một
nhiệm vụ quan trọng là phải làm sao triển khai toàn bộ nội dung, cốt truyện
mà mình đã ấp ủ để cho bạn đọc hiểu, yêu thích nội dung đó và tiếp tục khám
phá cái hay, cái mới trong tác phẩm. Điều này một phần dựa vào yếu tố cốt
truyện và phần quan trọng không kém là ở khả năng dẫn chuyện của tác giả.
Cách dẫn chuyện rất quan trọng trong tác phẩm, bởi nếu không dẫn
chuyện hay và lôgic, nhà văn sẽ khiến cho tác phẩm rời rạc, khô khan và thiếu
hấp dẫn, từ đó sẽ dẫn đến tâm lý chán đọc hoặc đọc không nhiệt tình, không
muốn khám phá tiếp về tác phẩm. Điều này sẽ gây bất lợi cho tác giả và sẽ là
một trong những nguyên nhân khiến tác phẩm thất bại.
Có lẽ nắm được rất rõ điều đó cho nên Nguyễn Khoa Chiêm đã rất chú ý
tới việc triển khai cốt truyện và cách dẫn chuyện để cho độc giả chú ý vào câu
chuyện. Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, độc giả sẽ cảm nhận được nhiệt
huyết của nhà văn khi cố công xây dựng một câu chuyện lịch sử nhưng lại
mang đậm tính văn học, và câu chuyện đó được tác giả kể với một thái độ rất
say sưa, rất cuốn hút bởi một lối dẫn chuyện thông minh và logic.
Sự khéo léo của tác giả khi dẫn người nghe vào câu chuyện của mình là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn100
khi kể tác giả thường có những chú thích rất rõ ràng cho những sự kiện đã xảy
Header Page 101 of 112.
95
ra trước đó để nhắc độc giả nhớ lại và tưởng tượng tốt hơn về quá khứ, từ đó
dẫn đến hiện thực câu chuyện mà tác giả đang kể. Những tình tiết trong tác
phẩm thường được Nguyễn Khoa Chiêm viết khá cụ thể, chi tiết để người đọc
nắm bắt kĩ hơn. Rồi các sự kiện nối tiếp nhau liên tục bởi những từ nối như:
bỗng, lại nói, từ đó… được tác giả sử dụng với cường độ cao nhằm kết nối
các sự kiện lại với nhau. Ngoài ra, khi kể chuyện, tác giả rất chú ý đến yếu tố
thời gian, điều này sẽ khiến cho tác phẩm mang đậm tính chân thực, làm cho
người đọc cảm thấy thú vị và tin tưởng hơn. Một yếu tố nữa khiến cho cách
dẫn chuyện của tác giả trở nên hay và hấp dẫn là việc kết hợp, đan xen giữa
ba yếu tố văn – sử - thơ trong mạch tự sự khiến cho tác phẩm có tiết tấu nhẹ
nhàng, mềm mại, giúp độc giả không cảm thấy nhàm bởi tính chất của những
sự kiện lịch sử khô khan. Trong truyện, ta thấy tác giả còn có kiến thức rất
uyên thâm về nhiều lĩnh vực như: chính trị, văn học, xã hội… thể hiện qua
việc đưa ra những bình luận xác đáng. Hơn nữa, ông còn thể hiện tầm học vấn
của mình qua hệ thống điển tích, điển cố đã đề cập đến khá nhiều trong tác
phẩm. Hầu như ở mỗi sự kiện quan trọng, khi đưa ra những lời bình, tác giả
không bao giờ quên đưa vào đó những điển tích, điển cố phù hợp để làm sinh
động, hấp dẫn hơn cho câu chuyện. Ví dụ khi Nguyễn Hoàng diệt được tướng
Mạc là Lập Bạo, Nguyễn Khoa Chiêm có thơ rằng:
Người đương thời bấy giờ có thơ chê cười Lập Bạo rằng:
Giúp rập thưa tài chốn dậu li,
Nhờ mưu nữ sắc thắng binh uy.
Tình xưa người cũ nay đành dứt,
Duyên mới hồn bay vẽ nét mày.
Trác gặp Thuyền Quyên, thân chẳng vẹn.
Tiễn mừng Tây Tử nước qua nguy.
Ai rằng Lập Bạo phường khinh suất,
Thủa trước hùng anh có khác gì?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn101
[8, 32]
Header Page 102 of 112.
96
Có một sự kiện lớn mà chỉ bằng hai câu thơ, tác giả đã giới thiệu cho bạn
đọc thấy hai điển tích của nước Trung Hoa là điển tích về việc Vương Doãn
gả Điêu Thuyền cho cả Đổng Trác và Lã Bố. Cả hai đều say đắm sắc đẹp của
trang tuyệt sắc này và kết cục cuối cùng mà Vương Doãn mong muốn cũng
xảy ra, Lã Bố giết chết Đổng Trác nhằm chiếm người đẹp cho riêng mình; và
điển tích về Việt vương Câu Tiễn dùng Tây Thi dâng cho Ngô vương Phù Sai
với mục đích chính trị…
Ngoài ra, trong tác phẩm còn rất nhiều lần tác giả đưa vào những điển
tích, điển cố khác nhau mang tính thần bí để làm tăng sự hấp dẫn cho tác
phẩm. Trong văn học trung đại, việc sử dụng hệ thống các điển tích, điển cố là
điều thường thấy, giúp tác phẩm trở nên sâu sắc hơn, giàu liên tưởng hơn.
Cùng với việc sử dụng điển tích, tác giả còn đưa vào truyện những yếu tố kì
ảo để làm cho tác phẩm thêm sinh động. Việc thần thánh hóa các sự kiện là
một nét văn hóa không thể thiếu của người Việt thời kì này. Do đó, tác phẩm
đón nhận được sự quan tâm của độc giả là điều dễ hiểu. Yếu tố kì ảo hòa
quyện vào những nhân vật có thực trong lịch sử cũng là một yếu tố giúp tác
phẩm có sức hút đối với độc giả.
Tóm lại, nghệ thuật kể chuyện trong Nam triều công nghiệp diễn chí là sự
kết hợp tuyệt vời giữa nhiều yếu tố nhưng đặc biệt quan trọng là cách dẫn
chuyện vô cùng hấp dẫn cộng với cốt truyện chọn lọc,hay và giàu ý nghĩa, đã
khiến cho Nam triều công nghiệp diễn chí trở thành tác phẩm đặc sắc cả về tính
chất văn học và tính chất sử học.
3.2.3. Kết thúc chuyện khép kín
Trọn vẹn ba mươi chương của Nam triều công nghiệp diễn chí là sự tái
hiện đời sống xã hội trong hơn một trăm ba mươi năm lịch sử nước nhà với
cuộc nội chiến tàn khốc nhất trong thời kỳ trung đại cuộc nội chiến Lê – Mạc
và đặc biệt là cuộc nội chiến giữa nhà Trịnh với nhà Nguyễn. Cuộc chiến đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn102
gây bao nhiêu đau thương chết chóc cho toàn dân tộc, với tổng cộng bảy trận
Header Page 103 of 112.
97
giao tranh lớn, trận cuối cùng vào năm 1672, khép lại thời kì Trịnh – Nguyễn
phân tranh.
Câu chuyện dừng ở chỗ hai bên ngừng giao chiến chứ không phải là sự
khép lại của lịch sử. Gần kết truyện thì những nhân vật anh hùng tiêu biểu của
cả hai triều phần lớn đã qua đời. Ở bên Nam triều, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật
mất năm 1681, đến năm 1684, con trưởng của chúa Hiền là Phúc Mỹ hầu
Nguyễn Phúc Diễn mất, đến năm 1685, công tử thứ tư của chúa là Cương
Lĩnh hầu cũng mất và đến năm 1687 chúa Hiền cũng qua đời, con trai thứ ba
là Nguyễn Phúc Trăn nối ngôi cha. Còn ở Bắc triều, năm 1684, Tây Định
vương mất, Phú Quận công Trịnh Tạc lên nối ngôi lúc bị ốm nên phải nằm
ngự triều mà chấp chính.
Tác phẩm kết thúc ở đoạn hai bên đã ngưng chiến, quay về chăm lo củng
cố phát triển vương triều và ổn định xã hội. Nói là kết thúc ở đây nhưng kì
thực là kết thúc cuộc giao tranh giữa hai Đàng, còn lịch sử thì vẫn tiếp diễn
theo hành trình lâu dài của nó. Và ngay sau thời điểm kết thúc, một thời kì
lịch sử nữa đầy biến động sẽ lại bắt đầu với cuộc nổi dậy của nhân dân cả hai
Đàng, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.
Chính cuộc khởi nghĩa này đã đập tan ý đồ tấn công lẫn nhau của cả hai
vương triều, mở ra triều đại Tây Sơn vào năm 1789.
Tóm lại, với cách mở đầu, dẫn chuyện và kết thúc đặc sắc ấy, tác giả
Nguyễn Khoa Chiêm đã tạo được ấn tượng đặc biệt đối với độc giả về một
cuốn tiểu thuyết được mệnh danh là khai sinh ra nền tiểu thuyết lịch sử chương
hồi Việt Nam. Tác phẩm đã thực sự khẳng định được vai trò tiên phong của
mình trong việc phát triển nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi của nước ta khi
mà sau Nguyễn Khoa Chiêm còn có rất nhiều tác giả nữa viết theo thể loại này.
Hệ thống tác phẩm tiểu thuyết lịch sử chương hồi đã góp phần làm cho nền văn
học trung đại nói riêng, văn học Việt Nam nói chung thêm phong phú, có sức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn103
sống lâu bền với thời gian.
Header Page 104 of 112.
98
PHẦN KẾT LUẬN
Nam triều công nghiệp diễn chí là một tác phẩm có ý nghĩa trong nền văn
học Việt Nam. Đây là tác phẩm mở đầu nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi của
nước ta. Mặc dù có vị trí quan trọng như vậy song các nghiên cứu về tác phẩm
chưa nhiều. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu của các nhà
nghiên cứu đi trước, luận văn của chúng tôi cũng đã cố gắng đi sâu tìm hiểu,
nghiên cứu về tác phẩm. Nhưng trong phạm vị giới hạn của luận văn, người
viết chỉ tập trung tìm hiểu về nghệ thuật tự sự của tác phẩm. Qua quá trình
nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận chính như sau:
1. Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là cuốn tiểu
thuyết lịch sử chương hồi đầu tiên của Việt Nam ta được viết bằng chữ Hán,
dày sáu trăm ba mươi hai trang, chia làm tám quyển, tương đương với tám
hồi. Trải qua một thời gian dài, tác phẩm đến nay không còn giữ nguyên vẹn
được như lúc đầu, có những phần bị cắt xén, có những phần được thêm vào,
thậm chí ngay cả tên gọi của tác phẩm cũng bị thay đổi nhưng cuối cùng tác
phẩm vẫn lấy lại được cái tên ban đầu là Nam triều công nghiệp diễn chí.
2. Về mặt cấu trúc tự sự, chúng tôi nhận thấy từ nội dung truyện, những
yếu tố kì ảo trong truyện, những nhân vật, những sự kiện có thật trong lịch sử
đã được tác giả đưa vào tiểu thuyết khiến cho tác phẩm có giá trị lớn về mặt
lịch sử. Ngoài ra, tác phẩm còn có những lời bình, lời giới thiệu bằng thơ làm
tăng thêm tính trữ tình và chất văn chương cho tác phẩm. Cấu trúc tự sự này
khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Khoa Chiêm trong tiến trình văn
xuôi dân tộc.
3. Về mặt hình thức tự sự của tác phẩm, có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng
ngôi kể thứ ba để tạo nên một cái nhìn toàn diện, đa chiều và khách quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn104
nhằm tăng tính chân thực cho tác phẩm. Ngoài ra, điểm nhìn từ bên ngoài
Header Page 105 of 112.
99
cũng giúp nhà văn có cái nhìn toàn cảnh, rộng lớn hơn để có thể cập nhật toàn
bộ những thông tin vào trong các chương hồi.
4. Về nghệ thuật kể chuyện, tác giả đã rất thành công trong việc kể
chuyện, đặc biệt là trong cách mở đầu tác phẩm rất linh hoạt và lôi cuốn. Điều
này khiến cho tác phẩm có được thành công ngay từ bước đầu. Tiếp đó là cách
triển khai nội dung, cốt truyện một cách hài hòa cộng với lối dẫn chuyện hấp
dẫn đã giúp cho người đọc có hứng thú để đi theo hết toàn bộ tác phẩm. Ngoài
ra, sự đan xen giữa những nhân vật có thực, sự kiện có thực với những tình
tiết mang tính kì ảo đã khiến cho Nam triều công nghiệp diễn chí vừa đậm
chất sử vừa đậm chất văn, làm nên sự đặc sắc của tác phẩm.
Kết thúc truyện khép kín, không tạo thêm một luồng ý kiến nào xung
quanh việc cả hai bên ngừng giao chiến sau bảy cuộc đại chiến kéo dài gây
tổn lớn. Khép lại câu chuyện cũng chính là khép lại màn kịch đầy bi thương
của đất nước trong cuộc chiến nồi da xáo thịt. Cách kết thúc này tạo ra sự
hoàn chỉnh của một tác phẩm lịch sử chương hồi trong một sinh thể nghệ thuật
thống nhất cũng góp thêm vào thành công của Nam triều công nghiệp diễn chí.
Được viết bởi một vị quan triều Nguyễn, cho nên ngòi bút dù cố gắng tạo
cái nhìn khách quan nhưng cũng không giấu nổi việc tác giả ca ngợi công lao
của triều Nguyễn trong việc mở mang bờ cõi phía Nam đất nước ta. Thực tế
cho thấy tác giả cũng không tỏ rõ ý kiến phê phán cuộc chiến tranh này trong
tác phẩm mà tự bản thân tác phẩm nói lên điều đó. Với ý nghĩa khách quan
của mình, tác phẩm đã lên án, tố cáo mạnh mẽ cuộc chiến tranh phi nghĩa,
cuộc chiến của lòng tham, tính ích kỉ, hiếu thắng của các thế lực vua chúa thời
kì này. Và đây là giá trị tư tưởng đặc sắc mà Nam triều công nghiệp diễn chí
đã đem đến cho các thế hệ bạn đọc.
Gần ba thế kỷ đã trôi qua kể từ khi tác phẩm ra đời, song Nam triều công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn105
nghiệp diễn chí hầu như vẫn giữ nguyên được những giá trị vốn có của nó.
Header Page 106 of 112.
100
Một trong những giá trị nổi bật của cuốn sách này là nghệ thuật tự sự đặc sắc
của Nguyễn Khoa Chiêm – một tài năng văn học độc đáo của đất nước –
người đã có công đầu trong việc khai sinh thể loại tiểu thuyết lịch sử chương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn106
hồi Việt Nam.
Header Page 107 of 112.
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1996), “Loại hình tác giả văn học và vấn đề phương
pháp luận nghiên cứu”, Tạp chí Văn học, số 2.
2. Lại Nguyên Ân – Bùi Văn Trọng Cường (2001), Từ điển văn học Việt
Nam- từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
4. Trần Lê Bảo (1991), “Cái “kỳ” trong tổ chức nghệ thuật Tam Quốc chí
diễn nghĩa của La Quán Trung”, Tạp chí Văn học, số 3.
5. Phạm Tú Châu (1997), “Tiểu thuyết Minh Thanh và diễn tiến tiểu thuyết
Hán Nôm ở nước ta”, sách: Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Mấy đặc trưng loại đặc biệt của nền văn học
Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX”, Tạp chí văn học, số 4.
7. Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu tá (2005), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb
Thế giới, Hà Nội.
8. Nguyễn Khoa Chiêm (1994), Nam triều công nghiệp diễn chí (Ngô Đức
Thọ - Nguyễn Thúy Nga giới thiệu, dịch và chú thích), Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
9. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng (2001), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Trần Xuân Đề (2001), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn107
Hà Nội.
Header Page 108 of 112.
102
13. Trần Xuân Đề (2003), Tác giả, tác phẩm văn học phương Đông (Trung
Quốc), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
14. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2001), Những vấn đề lý luận và lịch sử nghiên
cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Hà Minh Đức (2007), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Trần Văn Giáp (2003), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tập 1, tập 2 (Tác
phẩm được tặng Giải thưởng Hồ chí Minh) Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Vũ Thanh Hà (2005), “Hoàng Lê nhất thống chí và thể loại tiểu thuyết
chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí văn học, số 6
18. Dương Quảng Hàm(2005), Việt Nam văn học sử yếu (Tái bản), Nxb Trẻ,
Tp. Hồ Chí Minh.
19. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (Đồng
chủ biên) (2004), Từ điển văn học, Bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
20. Nguyễn Xuân Hòa (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung
Quốc đến tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thanh Hóa.
21. Nguyễn Văn Hoàn (1973), “Phong trào khởi nghĩa nông dân và văn học
Việt Nam thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX”, Tạp chí Văn học, số 4.
22. Nguyễn Văn Huân, Bùi Huy Tuấn (2008), Thành ngữ và điển cố Trung
Hoa, Nxb Hải Phòng.
23. Lại Văn Hùng (2002), “Bộ ba tác phẩm Truyện ngắn - Ký - Tiểu thuyết
chương hồi”, Tạp chí Hán Nôm, số 3.
24. Lại Văn Hùng (2002), “Bộ ba tác phẩm Truyện ngắn - Ký - Tiểu thuyết
chương hồi”, Tạp chí Hán Nôm, số 3.
25. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
26. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn108
Nxb Văn học, Hà Nội.
Header Page 109 of 112.
103
27. Đặng Thanh Lê (1992), “Nghiên cứu văn hoc cổ trung đại Việt Nam
trong mối quan hệ với khu vực”, Tạp chí Văn học, số 1.
28. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn thư , Tập 1 (Cao Huy Giu dịch),
(tái bản), Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội.
29. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2 (Cao Huy Giu dịch),
(tái bản), Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội.
30. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế
kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Bùi Văn Lợi (1999), “Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu
nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí
Văn học, số 9.
32. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học Việt
Nam trung đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
33. Phương Lựu (2005), Lí luận văn học cổ điển phương Đông, Tập 1, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
34. Đặng Thai Mai (1961), “Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học
Việt Nam và Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7.
35. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 3,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Nguyễn Phong Nam (Chủ biên), Trần Hữu Duy, Huỳnh Kim Thành, Trần
Đại Vinh (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
37. Bùi Văn Nguyên (1987), Lịch sử Văn học Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
38. Bùi Văn Nguyên (1978), Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam (Từ thế kỉ
XI đến giữ thế kỉ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam - Danh mục và phân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn109
loại”, Tạp chí Hán Nôm, số 3.
Header Page 110 of 112.
104
40. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dung và nghệ
thuật”, Tạp chí Hán Nôm, số 4.
41. Trần Nghĩa (Chủ biên) (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam,
Tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.
42. Vương Trí Nhàn (Sưu tầm, biên soạn), (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
43. Ngô gia văn phái (2002), Hoàng Lê nhất thống chí (Nguyễn Đức Vân- Kiều
Thu Hoạch dịch, chú thích, Trần Nghĩa giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và Văn
học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Nguyễn Giang, Trần Ngọc Vương,
Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Vân Thu (1998), Về con người cá nhân trong
văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục.
46. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – Quan niệm con
người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Nguyễn Hữu Sơn (1998), “Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỷ XVI – các
bước nối tiếp và phát triển”, tạp chí văn học, số 5.
48. Nguyễn Hữu Sơn (1990), “Khảo sát cái nhìn đạo lý trong văn học cổ
điển dân tộc”, Tạp chí Văn học, số 6.
49. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung
đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số7.
50. Trần Đình Sử (2005), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007) Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch
sử, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
53. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn110
Quốc gia, Hà Nội.
Header Page 111 of 112.
105
54. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại- tác gia- tác phẩm văn
học trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
55. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
56. Bùi Duy Tân (2006), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X-
XIX), tập 1, Nxb Đại học Giáo dục, Hà Nội.
57. Trần Thị Băng Thanh - Lại Văn Hùng (Chủ biên) (2005), Tìm hiểu quan
niệm và sự hình thành dòng văn trong văn học Việt Nam (Thế kỷ XVIII -
nửa đầu thế kỉ XIX), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
58. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
59. Nguyễn Quyết Thắng - Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử
Việt Nam, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
60. Chương Thâu - Trần Ngọc Vương (Chủ biên) (2003), Phan Bội Châu -
về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
61. Trần Nho Thìn (2003) Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Ngô Đức Thọ (1994) “Lời giới thiệu” sách Nam triều công nghiệp diễn
chí, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
63. Lương Duy Thứ (2000), Để hiểu 8 bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
64. La Quán Trung (2007), Tam quốc diễn nghĩa (Phan kế Bính dịch), Nxb
Văn học,Hà Nội.
65. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
66. Trần Ngọc Vương (Chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ X-XIX (những vấn
đề lí luận và lịch sử), Nxb Giáo dục, 2007.
67. Trần Ngọc Vương (2003), “Một số vấn đề liên quan đến tính đặc thù của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn111
văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 5.
Header Page 112 of 112.
Bìa cuốn Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm (xuất bản 2003)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn112