Header Page 1 of 112.

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

x

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THUỲ LINH

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG

TIỂU THUYẾT NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ CỦA NGUYỄN KHOA CHIÊM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN - 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn1

Header Page 2 of 112.

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THUỲ LINH

NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG

TIỂU THUYẾT NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ CỦA NGUYỄN KHOA CHIÊM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS Ngô Gia Võ

THÁI NGUYÊN - 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn2

Header Page 3 of 112.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các

nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố

trong bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012

Tác giả luận văn

Xác nhận của người hướng dẫn khoa học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn3

TS. Ngô Gia Võ Nguyễn Thuỳ Linh

Header Page 4 of 112.

LỜI CẢM ƠN

Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn

TS. Ngô Gia Võ, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá

trình thực hiện đề tài.

Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học,

cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên

đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại

trường.

Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới bạn bè cùng gia đình

và những người thân yêu đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện

giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn4

Nguyễn Thuỳ Linh

Header Page 5 of 112.

i

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục ........................................................................................................... i

MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1

NỘI DUNG ................................................................................................... 8

Chương 1 GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM NAM TRIỀU CÔNG

NGHIỆP DIỄN CHÍ VÀ KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ LÍ THUYẾT

TỰ SỰ HỌC ................................................................................................. 8

1.1. Khái lược về tác giả, tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí .......... 8

1.1.1. Về tác giả Nguyễn Khoa Chiêm .................................................... 8

1.1.2. Về tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí ...............................11

1.2. Lý thuyết chung về tự sự học và việc vận dụng lý thuyết tự sự học

vào nghiên cứu tác phẩm...........................................................................27

1.2.1. Lý thuyết chung về tự sự học .......................................................27

1.2.2. Việc vận dụng lí thuyết tự sự vào nghiên cứu tác phẩm Nam

triều công nghiệp diễn chí ......................................................................32

Chương 2 CẤU TRÚC TỰ SỰ CỦA NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP

DIỄN CHÍ....................................................................................................35

2.1. Cách xây dựng truyện.........................................................................35

2.1.1. Dung lượng truyện dài.................................................................35

2.1.2. Cốt truyện phức tạp ......................................................................37

2.2. Tự sự về thế giới nhân vật ..................................................................51

2.2.1. Thế giới nhân vật .........................................................................51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn5

2.2.2. Sự kiện chân thực........................................................................63

Header Page 6 of 112.

ii

2.3. Tự sự về những truyện kì ảo..............................................................71

2.3.1. Nhân vật và hoàn cảnh .................................................................71

2.3.2. Chiều sâu tâm linh và đạo lý ........................................................75

2.4. Tự sự bằng thơ ...................................................................................77

2.4.1. Truyện giới thiệu về thơ ...............................................................77

2.4.2. Lời bình bằng thơ trong truyện.....................................................82

Chương 3 HÌNH THỨC TỰ SỰ CỦA NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP

DIỄN CHÍ....................................................................................................87

3.1. Vai trò của người kể chuyện trong Nam triều công nghiệp diễn chí ...87

3.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba khách quan.....................................87

3.1.2. Điểm nhìn nghệ thuật từ bên ngoài...............................................90

3.2. Nghệ thuật kể chuyện trong Nam triều công nghiệp diễn chí..............92

3.2.1. Cách mở đầu trực tiếp ..................................................................92

3.2.2. Cách dẫn dắt chuyện lôgic............................................................94

3.2.3. Kết thúc chuyện khép kín .............................................................96

PHẦN KẾT LUẬN......................................................................................98

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn6

TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................101

Header Page 7 of 112.

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn học trung đại Việt Nam có lịch sử gần một ngàn năm. Có thể nói,

thành tựu của văn học viết Việt Nam dường như được tập trung nhiều nhất

vào văn học trung đại. Trong mười mấy thế kỷ ấy, văn học thế kỷ XVIII đã có

bước phát triển vượt bậc đạt được những thành tựu rực rỡ. Cùng với các thể

loại văn học khác, văn xuôi tự sự trong đó có tự sự lịch sử phát triển khá

mạnh mà tiêu biểu có tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn

Khoa Chiêm, tác phẩm mở đầu cho sự ra đời của một thể loại mới – tiểu

thuyết lịch sử chương hồi Việt Nam. Tác phẩm này còn có các tên gọi khác

như: Trịnh – Nguyễn diễn chí; Mộng bá vương; Việt Nam khai quốc chí

truyện; Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp diễn chí; Nam Việt

chí; Công nghiệp diễn chí.

1.1. Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là một tác

phẩm văn xuôi chữ Hán thành công ở cả hai phương diện: Nội dung và nghệ

thuật và được đánh giá là tác phẩm có ý nghĩa khai sinh ra nền tiểu thuyết lịch

sử chương hồi của Việt Nam. PGS.TS Nguyễn Đăng Na đã khẳng định: “Mặc

dù đương thời chưa ra đời thể loại truyện ngắn lịch sử, nhưng với Nam triều

công nghiệp diễn chí thì tiểu thuyết lịch sử Việt Nam viết theo lối chương hồi

đã xuất hiện”[35,23]. Từ đây văn xuôi tự sự trưởng thành, đủ sức phản ánh

những vấn đề lịch sử rộng lớn với tầm khái quát hóa cuộc sống trên qui mô

toàn dân tộc.

Tuy có ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng dường như tác phẩm Nam

triều công nghiệp diễn chí vẫn chưa được nghiên cứu toàn diện và sâu sắc.

Hầu như khi nhắc đến tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thì người ta chỉ nhắc

nhiều đến Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, một đỉnh cao của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn7

thể loại này. Điều đó chưa thật công bằng với Nam triều công nghiệp diễn chí.

Header Page 8 of 112.

2

Vì vậy, việc tìm hiểu nghiên cứu tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí

một cách khoa học sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc đánh giá đúng mức giá trị

của tác phẩm và góp phần đem đến cho bạn đọc các thế hệ sự hiểu biết đầy đủ

hơn nữa về một tác phẩm văn xuôi tự sự chữ Hán đặc sắc trong nền văn học

Việt Nam.

1.2. Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, ta không chỉ thấy ấn tượng ở

chỗ tác giả đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật mà còn tài hoa

trong cách kể chuyện. Việc các nhân vật lịch sử được đưa vào tác phẩm và trở

thành những hình tượng nghệ thuật độc đáo đã khẳng định tài năng sáng tạo

của tác giả. Các nhân vật trong tác phẩm vừa được bảo lưu những đặc điểm

vốn có thật trong lịch sử vừa được hư cấu, sáng tạo thành những nhân vật văn

học thực sự. Cách dẫn chuyện, kể chuyện thật tự nhiên và linh hoạt khiến cho

tác phẩm thu hút được sự theo dõi chú ý của bạn đọc chứ không khô khan

cứng nhắc như những truyện kể lịch sử thong thường. Do đó, việc tìm hiểu

nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí sẽ giúp ta đi

sâu vào một phương diện quan trọng trong giá trị nghệ thuật của tác phẩm,

góp phần lý giải được câu hỏi vì sao đó lại là tác phẩm được đánh giá là có ý

nghĩa khai sinh ra nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi của Việt Nam.

Mặt khác, hiện nay trong chương trình ngữ văn nhà trường từ bậc trung

học đến đại học đều không được tiếp cận tác phẩm Nam triều công nghiệp

diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm một cách trọn vẹn và sâu sắc. Nhận thức

được tầm quan trọng của tác phẩm nên người viết đã quyết định dành thời

gian nghiên cứu Nam triều công nghiệp diễn chí, tập trung đi sâu vào vấn đề

“Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của

Nguyễn Khoa Chiêm”. Luận văn được hoàn thành sẽ góp phần soi sáng giá trị

đặc sắc của một tác phẩm văn xuôi tự sự thời trung đại,khẳng định rõ hơn vị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn8

trí của Nguyễn Khoa Chiêm trong tiến trình văn học viết Việt Nam.

Header Page 9 of 112.

3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Mặc dù Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm được

đánh giá là tác phẩm có ý nghĩa mở đầu cho nền tiểu thuyết chương hồi Việt

Nam nhưng những tài liệu nghiên cứu và những bài viết về tác phẩm còn

chưa nhiều, đặc biệt là những công trình nghiên cứu lớn còn rất ít. Mặt khác,

nghiên cứu văn học theo hướng tự sự học cũng là một hướng nghiên cứu còn

mới nên những bài viết, cũng còn thưa vắng.

Bản thân tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí hay còn gọi là Việt

Nam khai quốc chí truyện là tác phẩm có số phận đầy trắc trở, phức tạp. Từ

quá trình hoàn chỉnh tác phẩm, tên gọi, tác giả đến những ý nghĩa nội dung và

nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này có nhiều kiến giải, đánh giá khác nhau.

Điểm qua ý kiến của các nhà nghiên cứu từ khi tác phẩm ra đời đến nay, ta sẽ

nhận thức rõ hơn điều đó.

Theo cuốn Việt Nam khai quốc chí truyện, tác giả Ngô Đức Thọ đã giới

thiệu rằng: Người đầu tiên nói đến tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí

của Nguyễn Khoa Chiêm là danh sĩ triều Nguyễn, Trịnh Hoài Đức (1765 –

1825) Phó Tổng đài Sứ quán triều Minh Mệnh, tiếp đó là một học giả người

Pháp tên là L. Cadière.

Năm 1969, sử gia Phan Khoang khi nghiên cứu lịch sử xứ Đàng Trong

đã được tham khảo một truyền bản của Nam triều công nghiệp diễn chí có

tên sách là Nam triều Nguyễn chúa khai quốc công nghiệp diễn chí. Ông xác

nhận “Tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm có giá trị tư liệu lịch sử quí giá, nhưng

cũng tinh tế để khỏi sa vào những tình tiết ít nhiều đã bị tiểu thuyết hóa”.[8,9]

Năm 1974, Tập san Sử Địa đã đăng bài khảo cứu công phu Đúng ba

trăm năm trước của tác giả Hoàng Xuân Hãn. Nhân kỷ niệm ba trăm năm

ngưng chiến Nam – Bắc phân tranh thời Trịnh – Nguyễn, Hoàng Xuân Hãn đã

căn cứ vào tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm để trình bày một cách tóm tắt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn9

những sự kiện chính của thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ông viết: “…đối

Header Page 10 of 112.

4

với những triều chúa Nguyễn, sách này có giá trị tương đương với sách

Hoàng Lê nhất thống chí đối với các triều cuối Trịnh và đầu Tây Sơn…Tôi

nghĩ rằng về đại cương cũng như về chi tiết sách này khá đáng tin cậy, nhất

là về khoảng từ Chúa Sãi về sau”. [8,10]

Hai nhà sử học là Hoàng Xuân Hãn và Phan Khoang đều khẳng định

giá trị chân chính của tác phẩm, dẫu rằng mỗi người nhấn mạnh về một

phương diện văn hoặc sử. Điều thú vị là dù thiên về văn hay sử thì cả hai nhà

nghiên cứu trên đều khẳng định giá trị đặc biệt của tác phẩm này.

Trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại - Tập 3, Nguyễn

Đăng Na giới thiệu và tuyển soạn, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000, ở phần giới

thiệu chung: Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam thời trung đại – quá trình hình

thành, phát triển và đặc trưng nghệ thuật, Nguyễn Đăng Na đã nói đến “cách

giới thiệu nhân vật” hay “lối tả người, giới thiệu nhân vật”[35,30-33] của

Nam triều công nghiệp diễn chí trong sự đối sánh với Tam quốc diễn nghĩa

của La Quán Trung để thấy được những nét tương đồng và nhất là những nét

khác biệt và độc đáo của Nguyễn Khoa Chiêm so với La Quán Trung. Tất cả

nhằm khẳng định Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm

không phải là sự mô phỏng của Tam quốc diễn nghĩa.

Trong cuốn Nam triều công nghiệp diễn chí, Ngô Đức Thọ - Nguyễn

Thúy Nga giới thiệu, dịch và chú thích, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2003, ở lời

giới thiệu: Nam triều công nghiệp diễn chí - tác giả - văn bản - tác phẩm, tác

giả Ngô Đức Thọ cũng cho rằng: “Trên bình diện những sự kiện lịch sử từ

nửa cuối thế kỷ XVI đến gần hết thế kỷ XVII, tác phẩm đã tái hiện nhiều nhân

vật văn võ ở cả hai miền”[8,17]

Điểm lại lịch sử nghiên cứu Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn

Khoa Chiêm, chúng tôi nhận thấy các tác giả mới chỉ dừng lại ở chỗ giới

thiệu, nêu vấn đề đối chiếu, so sánh, hoặc đánh giá khái quát giá trị tác phẩm,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn10

nhưng số lượng bài viết chưa nhiều. Đó cũng là những gợi ý và điều kiện để

Header Page 11 of 112.

5

người viết thực hiện đề tài này. Mong rằng với nỗ lực hết mình, chúng tôi sẽ

có những đóng góp riêng trong việc khám phá giá trị và vẻ đẹp của tác phẩm

Nam triều công nghiệp diễn chí.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi đề tài

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn đi vào khám phá giá trị nghệ thuật của tác phẩm Nam triều

công nghiệp diễn chí. Đối tượng nghiên cứu tập trung vào “Nghệ thuật tự sự”

– một biện pháp nghệ thuật quan trọng, góp phần chủ yếu vào thành công của

tác phẩm.

3.2 Phạm vi đề tài

Văn bản nghiên cứu là tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí của

Nguyễn Khoa Chiêm, do các tác giả Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga giới

thiệu, dịch và chú thích, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2003. Ngoài ra, trong quá

trình thực hiện, người viết có thể sử dụng một số cuốn tiểu thuyết chương hồi

tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam như Hoàng Lê nhất thống chí, Việt

Lam tiểu sử… để so sánh nhằm đánh giá đúng đắn hơn giá trị của Nam triều

công nghiệp diễn chí. Bên cạnh đó, người viết còn tham khảo thêm tiểu thuyết

chương hồi Trung Quốc là Tam quốc diễn nghĩa của tác giả La Quán Trung

để đặt tác phẩm vào thế đối sánh từ đó nhận thức sâu sắc hơn giá trị đích thực

của tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Làm nổi bật tài năng, lối kể chuyện độc đáo của Nguyễn Khoa Chiêm

qua những nét đặc sắc về phương diện nghệ thuật tự sự trong tác phẩm Nam

triều công nghiệp diễn chí.

Góp phần khẳng định vị trí mở đầu xứng đáng của tiểu thuyết Nam triều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn11

công nghiệp diễn chí đối với nền tiểu thuyết chương hồi Việt Nam.

Header Page 12 of 112.

6

Có thêm những tri thức cần thiết để vận dụng vào việc học tập, nghiên

cứu các tác phẩm cùng thể loại cũng như việc giảng dạy tác phẩm văn học ở

trường phổ thông.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn tập trung làm rõ giá trị tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn

chí của Nguyễn Khoa Chiêm về phương diện nghệ thuật tự sự.

Đặt tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí trong sự đối sánh với các

tiểu thuyết chương hồi của nền văn học Việt Nam về phương diện nghệ thuật

tự sự, làm rõ những đóng góp của Nguyễn Khoa Chiêm trong nền tiểu thuyết

lịch sử chương hồi Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để nghiên cứu đề tài này, người viết sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:

5.1. Phương pháp thống kê

Trên cơ sở khảo sát tiểu thuyết Nam triều công nghiệp diễn chí, người

viết tiến hành thống kê và phân loại các cứ liệu. Đó là cơ sở khoa học chứng

minh cho những luận điểm sẽ trình bày trong luận văn.

5.2. Phương pháp phân tích

Đây là phương pháp được dùng để phân tích và miêu tả cụ thể các dữ

liệu đã thống kê, từ đó đưa ra nhận xét cho các đặc điểm đã nêu. Kết quả thu

được từ sự phân tích, miêu tả này sẽ là những luận cứ khảo chứng cho các

luận điểm mà người viết đề xuất trong đề tài.

5.3. Phương pháp so sánh, tổng hợp và hệ thống

Bên cạnh việc thống kê, phân loại, phân tích, chúng tôi sẽ tiến hành so

sánh, đối chiếu giữa Nam triều công nghiệp diễn chí với một số tác phẩm văn

học chữ Hán khác. Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ tổng hợp, xem xét tác phẩm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn12

trong hệ thống văn xuôi trung đại nói riêng và văn học trung đại nói chung.

Header Page 13 of 112.

7

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của

luận văn được triển khai thành ba chương sau đây:

Chương I: Giới thiệu tác giả, tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí

và khái lược chung về lí thuyết tự sự học

Chương II: Cấu trúc tự sự của Nam triều công nghiệp diễn chí

Chương III: Hình thức tự sự của Nam triều công nghiệp diễn chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn13

Header Page 14 of 112.

8

NỘI DUNG

Chương 1

GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TÁC PHẨM

NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ VÀ KHÁI LƯỢC CHUNG

VỀ LÍ THUYẾT TỰ SỰ HỌC

1.1. Khái lược về tác giả, tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí

1.1.1. Về tác giả Nguyễn Khoa Chiêm

Tác giả Nguyễn Khoa Chiêm sinh năm Kỷ Hợi 1659, mất năm Bính Thìn

1736, người huyện Hương Trà, nay là Thừa Thiên Huế. Từng làm quan to cho

triều Nguyễn và được phong tước Bảng Trung hầu, tự Bảng Trung.

Ông vốn gốc người Hải Dương, cụ nội Nguyễn Đình Thân là thuộc hạ

của Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng, theo Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận

Hóa từ năm 1558, rồi nhập tịch ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, và

trở thành khởi tổ của một dòng vọng tộc ở cố đô Huế.

Nguyễn Đình Thân sinh ra Nguyễn Đình Khôi (1594 – 1678), tước

Thuần Mỹ Nam. Đến năm 1638, Nguyễn Đình Khôi theo chúa Nguyễn Phúc

Lan rời phủ chúa về vùng Hương Trà, Thừa Thiên Huế và ở luôn đấy rồi đổi

họ thành Nguyễn Khoa.

Nguyễn Khoa Danh (1632 – 1697) là con của Nguyễn Đình Khôi, tước là

Cảnh Lộc bá. Ông kết hôn với bà Lê Thị Am và sinh được người con trai duy

nhất là Nguyễn Khoa Chiêm. Sau này, Nguyễn Khoa Chiêm lấy bà Trần Thị

Mận, con gái của cai bạ Trần Đình Ân và sinh được mười hai người con.

Trong số tám người con trai ấy thì có Nguyễn Khoa Đăng, người con thứ ba

là một viên quan giỏi, có tài xử kiện, được người cùng thời mệnh danh là

“Bao Công”. Ông có công lớn trong việc diệt bọn cướp hung bạo thời nhà Hồ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn14

và trừ được sóng dữ ở phá Tam Giang.

Header Page 15 of 112.

9

Tuổi trẻ, Nguyễn Khoa Chiêm là người học rộng tài cao, am hiểu nhiều

lĩnh vực, từng được bổ chức Thủy hạp. Đến năm 1701 là năm thứ mười đời

chúa Nguyễn Phúc Chu, ông được giao việc đi Quảng Bình để đốc thúc việc

đắp Chính Lũy, đi cùng đoàn còn có Văn chức Trần Đình Khánh, Cai cơ

Ngoại tả Tôn Thất Diệu và Nội hữu Tống Thúc Tài.

Đến năm 1710, ông được thăng chức Cai hạp ở Chính Danh, kiêm chức

Tri bạ, do tài giỏi nên được Trần Đình Ân yêu mến và tiến cử với Chúa

Nguyễn, từ đó ông được Minh Vương yêu mến và tin dùng.

Vào năm 1718, Nguyễn Khoa Chiêm được thăng chức Cai bạ Phó đoán

sự. Đến năm 1724, lại được thăng chức Tham Chính Chánh đoán sự, sau đó

ông về trí sĩ và mất tại quê nhà vào năm 1736, hưởng thọ 77 tuổi. Sau khi ông

mất, chúa Nguyễn ban tặng hàm Đại lý tự Thượng khanh, được ban tên thụy

là Thuần Hậu.

Khi nhắc đến Nguyễn Khoa Chiêm, sách Đại Nam liệt truyện tiền biên

viết: “Nguyễn Khoa Chiêm là người giỏi văn chương, từng làm sách Nam

triều công nghiệp diễn chí lưu hành ở đời”.[8,9]

Thời đại Nguyễn Khoa Chiêm sống là thời đại đất nước đổ nát, nhân dân

kiệt quệ vì các cuộc giao tranh nội quốc, giá trị đạo đức văn hóa bị băng hoại

nặng nề. Nguyễn Khoa Chiêm được may mắn là người có chỗ đứng trong bộ

máy thống trị, có bố vợ là một đại thần trong triều, được tham gia bàn việc quân

cơ cho nên những tư liệu mà ông có được là đáng tin cậy.

Đến cuối thế kỷ XVII, về cơ bản chiến tranh đã kết thúc nhưng lúc này

đời sống nhân dân đã lâm vào cảnh khốn cùng, không thể vực lên ngay được,

mọi mặt trong quốc gia đều bị suy thoái trầm trọng. Đất nước ta những năm

tháng này do lâm vào cảnh nội chiến triền miên cho nên bộ máy chính quyền

rất đặc biệt. Ở Đàng Ngoài, đã có vua (triều Lê) cai trị đất nước mà lại có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn15

chúa (Trịnh) cũng nắm quyền hành sinh sát như vua, thậm chí còn thâu tóm

Header Page 16 of 112.

10

quyền hành và lấn lướt vua. Người dân lâm vào cảnh một cổ hai tròng: vua Lê

– chúa Trịnh.Ở Đàng Trong, chúa Nguyễn cai quản, tình hình cũng chẳng

sáng sủa hơn là bao khi mà nhân dân vẫn bị xoáy vào cuộc nội chiến giữa hai

miền Nam - Bắc triều.

Tất cả những khổ cực đau thương đều đè nặng lên cuộc sống của nhân

dân hai miền, khiến cho lòng dân oán thán đến ngút trời . Điều đó đã buộc họ

phải đứng lên đấu tranh chống lại chính quyền phong kiến, và cuộc nổi dậy ấy

đã diễn ra trên phạm vi toàn quốc với qui mô lớn chưa từng có. Họ đấu tranh

nhằm thống nhất giang sơn xã tắc, đấu tranh cho chính cuộc sống của họ và

đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn do người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ

lãnh đạo. Phong trào Tây Sơn đã đập tan chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đánh

sập tập đoàn Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế với

niên hiệu Quang Trung năm 1789.

Bối cảnh đất nước hỗn độn như vậy là cội nguồn cảm hứng thôi thúc tác

giả phải viết nên một tác phẩm ghi dấu lại một thời kỳ lịch sử của đất nước.

Thực ra, vào cuối thế kỷ XVII, ở nước ta đã xuất hiện tác phẩm: Nguyễn

Cảnh Thị Hoan Châu ký – một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết dưới dạng gia phả

của dòng họ Nguyễn Cảnh ở Hoan Châu. Cuốn tiểu thuyết đã tái hiện lại một

giai đoạn lịch sử trên 270 năm của dân tộc, từ vãn Hồ (năm 1406) cho đến Lê

Trung hưng, đời Hy Tông, năm Vĩnh Trị thứ ba (1678). Theo một số nhà

nghiên cứu, đây chính là cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tiên của nước ta.

Còn với Nguyễn Khoa Chiêm, ông đã dùng ngòi bút của mình để ghi lại

toàn cảnh xã hội lúc bấy giờ với một con mắt tinh tường, một đầu óc tư duy

tổng hợp tuyệt vời. Ông đã sử dụng lối kể chuyện lịch sử vốn được nhân dân

ta ưa thích kết hợp với cách hành văn độc đáo của mình. Đây là lối kể rất có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn16

ưu thế trong việc tái hiện lại môi trường xã hội, lịch sử rộng lớn, và Nguyễn

Header Page 17 of 112.

11

Khoa Chiêm đã phát huy được hết ưu thế của lối kể này trong tác phẩm Nam

triều công nghiệp diễn chí.

1.1.2. Về tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí

1.1.2.1. Vài nét về tiểu thuyết chương hồi Việt Nam

Tiểu thuyết chương hồi là một thể loại thuộc loại hình văn hóa trung đại,

xuất hiện và phát triển mạnh nhất ở Trung Quốc trong khoảng từ thế kỷ XIV

đến đầu thế kỷ XIX. Đây là thể loại văn học được coi trọng và đánh giá rất

cao trong văn học cổ Trung Quốc và văn học Việt Nam thời kỳ trung đại.

Tiểu thuyết chương hồi là những tiểu thuyết trường thiên bao gồm nhiều

hồi, đầu mỗi hồi có “hồi mục”, là một hoặc hai câu thất ngôn dự báo tình tiết

chính của hồi. Mỗi hồi viết về một sự kiện chủ yếu và kết thúc hồi có lời dẫn

dắt đến hồi tiếp. Căn cứ theo dung lượng, có thể chia tiểu thuyết chương hồi

thành hai loại lớn và nhỏ. Loại lớn gồm khoảng một trăm hồi trở lên thường

là những tiểu thuyết diễn nghĩa như Tam quốc diễn nghĩa, Đông Chu liệt

quốc…; hay những tiểu thuyết anh hùng như: Thủy hử; tiểu thuyết thần ma

như Tây du ký; tiểu thuyết tình đời như: Kim Bình Mai, Hồng lâu mộng

….Tiểu thuyết chương hồi loại nhỏ có thể bao gồm hai- ba chục hồi có các

tiểu thuyết tài tử giai nhân kể những mối tình của các đôi trai gái, thể hiện ước

mơ hạnh phúc lứa đôi hay những tiểu thuyết khiển trách vạch trần những ung

nhọt xã hội như tác phẩm Quan trường hiện hình ký.

Nói về nguồn gốc của tiểu thuyết chương hồi, các nhà nghiên cứu thống

nhất cho rằng từ những thoại bản (những văn bản làm gốc để người kể chuyện

thuật lại cho thính giả nghe). Thoại bản chính là những câu chuyện sống thực,

hình thành từ thói quen kể chuyện kết hợp với lối diễn xướng của người dân

để trở thành một loại hình văn học bình dân đô thị tiêu biểu, thu hút được

nhiều người xem. Truyện đem kể không chỉ gói gọn trong một đêm mà có thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn17

kéo dài ra rất nhiều đêm. Dung lượng tăng nên cốt truyện phải ngắt nhiều

Header Page 18 of 112.

12

khúc, mỗi khúc đều có sự trọn vẹn tương đối về kết cấu, đồng thời cũng móc

xích với khúc trước và khúc sau nhằm đáp ứng nhu cầu của khán giả và làm

cho khán giả không thể bỏ cuộc giữa chừng. Do nguồn gốc sâu xa là thoại bản

như vậy nên tiểu thuyết chương hồi cơ bản là tiểu thuyết hành động. Nhân vật

chiếm lĩnh người nghe, người đọc bằng hành động và qua hành động mà biểu

hiện tính cách. Lời trần thuật cô đúc, các chi tiết trữ tình ngoại đề ít có dịp

chen vào câu chuyện. Thời lượng mỗi chương cũng đòi hỏi phải miêu tả hành

động của nhân vật một cách chặt chẽ, hợp lý, kết chuỗi liên tục để câu chuyện

đạt được sự thắt nút, mở nút đúng chỗ, không có chi tiết thừa thãi.

Đặc trưng của thể loại này là phân chia cốt truyện thành các hồi và các sự

kiện có vai trò đặc biệt quan trọng. Mỗi hồi bao giờ cũng có một bài thơ tóm

lược nội dung được trình bày trong hồi. Cuối mỗi hồi thường có một bài thơ

ngắn để đánh giá sự kiện hoặc nhân vật trong hồi và sau đó kết thúc bằng câu

đại loại như: Muốn biết sự việc thế nào xem hồi sau sẽ rõ. Sang hồi mới, vấn

đề lại được tiếp tục triển khai với một nhan đề mới. Việc phân chia thành từng

hồi và kết thúc theo kiểu hạ hồi phân giải; tức là kết thúc hồi khi câu chuyện

đang vào lúc căng thẳng có tác dụng quan trọng là nhằm thu hút, lôi cuốn

người đọc, người nghe theo dõi tiếp các hồi sau cho đến khi kết thúc truyện.

Thời gian trong tiểu thuyết chương hồi là thời gian đơn tuyến và một

hướng. Kiểu kết cấu này có nguồn gốc sâu xa từ quan niệm của người xưa về

thời gian và không gian, về mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong sáng

tác nghệ thuật. Đó là kiểu kết cấu thời gian theo dòng tuyến tính, mọi sự kiện,

chủ đề đều xoay quanh nhân vật chính theo dòng thời gian lịch sử từ năm này

qua năm khác…

Tác giả trong tiểu thuyết chương hồi thường đứng ở ngôi thứ ba dẫn dắt

câu chuyện, giới thiệu nhân vật rồi sau đó để câu chuyện tự diễn biến, nhân

vật tự suy nghĩ và hành động. Tác giả thường đưa ra những lời bình phẩm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn18

bằng các bài thơ hay đoạn thơ ngắn.

Header Page 19 of 112.

13

Ở phần mở đầu các hồi, tác giả thường dùng các câu có tính công thức

như: Hãy nói về, Trước nói… Còn ở phần bình luận thường dùng thơ người

khác, hoặc dẫn dắt bằng những câu như: Vậy nên đời sau có thơ rằng, Vậy

nên đời sau có thơ than rằng, Mới thực là… Và kèm theo đó là những bài thơ

tuy gần gũi với tư tưởng của tác giả nhưng lại không hoàn toàn mang dấu ấn

chủ quan của tác giả. Do đó, có thể nói rằng ngôn ngữ trong tiểu thuyết

chương hồi khá mờ nhạt.

Tóm lại, tiểu thuyết chương hồi là thể loại tiểu thuyết được viết theo kết

cấu chương hồi. Nó là kết quả đúc kết, kết tinh hệ thống hóa của các thoại bản

dân gian. Thể loại này được khơi nguồn từ Trung Hoa vào đời Tống và phát

triển nở rộ ở đời Minh – Thanh với hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng như: Tam

quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Hồng lâu

mộng của Tào Tuyết Cần…

Với sự phát triển nở rộ như vậy, thể loại tiểu thuyết này đã được du nhập

sang một số nước lân cận trong đó có Việt Nam. Tiểu thuyết chương hồi

Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam thời trung đại từ thế kỷ X đến thế kỷ

XIX thể hiện rõ nét nhất trong bộ phận văn học chữ Hán. Ở thời kỳ trung đại,

mỗi một thể loại văn học đều bị chi phối bởi yếu tố xã hội, với tiểu thuyết

chương hồi cũng vậy. Không phải khi mới được du nhập vào Việt Nam thể

loại này đã phát triển ngay mà phải đến gần cuối thế kỷ XVIII- XIX trong

những điều kiện nhất định của lịch sử xã hội, tiểu thuyết chương hồi mới

được chính thức ra đời và phát triển ở nước ta.

Trong bối cảnh văn học Việt Nam thời kỳ trung đại chịu ảnh hưởng lớn

từ văn học Hán thì tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán lại là một hiện

tượng độc đáo của văn học nước nhà thời kỳ này. Tiểu thuyết chương hồi

phản ánh một chủ đề hoàn toàn khác với những tiểu thuyết đã ra đời trước đó,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn19

không hề đề cập đến đề tài tình yêu trai gái mà chỉ đề cập đến các vấn đề lịch

Header Page 20 of 112.

14

sử. Có thể khẳng định rằng thể loại này gắn liền với lịch sử, trực tiếp lấy lịch

sử làm đề tài, thể hiện nổi bật tính chất văn, sử bất phân đồng thời cũng đậm

chất văn chương do chú trọng vào tính cách, chi tiết biểu hiện, hình thức tác

phẩm…

Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII đã trải qua rất nhiều

biến động, xã hội rối ren bởi những cuộc nội chiến, nhân dân cực khổ lầm

than bởi sự vô tâm, trác táng, tranh giành quyền lực của giai cấp phong kiến .

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của người anh hùng Lê Lợi đã đánh tan cuộc

xâm lược của giặc Minh giành lại chủ quyền cho đất nước và khai lập nên

triều Lê. Nhưng suốt cả thời kỳ nhà Lê cai trị đất nước thì chỉ có duy nhất

triều đại vua Lê Thánh Tông là nhân dân được yên ấm thực sự, xã hội thái

bình yên vui. Các đời vua chúa sau đó thi nhau ăn chơi xa xỉ, bóc lột dân

chúng đến tận xương tủy như ở đời vua Lê Tương Dực, Lê Uy Mục… đã làm

cho đất nước suy vong, dân chúng điêu đứng. Trước tình cảnh đó, nhà Mạc

dấy quân cướp ngôi nhà Lê nhằm gây dựng lại đất nước. Tuy nhiên, thời Mạc

thống trị, đất nước ta vẫn chưa được thái bình, xã hội vẫn chưa được ổn định

thực sự. Giai cấp phong kiến thì càng ngày càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn

gây nên cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài và chia cắt lãnh thổ triền miên.

Đó là hai cuộc chiến tranh của các thế lực phong kiến: Lê – Mạc và cuộc

chiến Trịnh – Nguyễn đã đưa đất nước và nhân dân Việt Nam vào cảnh lầm

than cùng cực. Đến thế kỷ XVII, cục diện đất nước nhìn chung không thay

đổi nhiều, lúc này đất nước bị chia cắt thành hai: Đàng Trong và Đàng Ngoài,

thế lực thống trị vẫn không thôi hưởng thụ và bóc lột quần chúng nhân dân,

khiến cho nhân dân tiếp tục đau khổ lầm than. Thậm chí nhân dân Đàng

Ngoài còn phải chịu cảnh một cổ hai tròng là vua Lê và chúa Trịnh thi nhau

đàn áp bóc lột. Sống trong cảnh tối tăm mù mịt đó, nhân dân hai miền không

lúc nào không có mơ ước về một cuộc khởi nghĩa đứng lên đập tan các thế lực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn20

phong kiến thống trị, thống nhất đất nước, xây dựng xã hội thanh bình yên

Header Page 21 of 112.

15

vui. Để đáp ứng lòng mong mỏi ấy của nhân dân, người anh hùng áo vải

Nguyễn Huệ đã đứng lên kêu gọi nhân dân và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây

Sơn. Cuộc khởi nghĩa đã được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân,

cộng với tài năng, trí tuệ của người lãnh đạo đã giành được thắng lợi vang

dội. Quét sạch các tập đoàn phong kiến lúc bấy giờ, thống nhất giang sơn

đồng thời đánh tan cuộc xâm lược của nhà Thanh, giúp đất nước thoát khỏi

ách thống trị của ngoại bang.

Chỉ trong vòng hơn một thế kỷ, đất nước ta đã trải qua biết bao biến cố,

và những biến cố ấy đã được văn học ghi lại bằng hàng loạt các tác phẩm cụ

thể. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng với văn xuôi chữ Hán, đặc biệt là với thể

loại tiểu thuyết chương hồi với khả năng bao quát quy mô lớn mới đủ khả

năng để tái hiện toàn cảnh bức tranh lịch sử rộng lớn đó.

So với thể loại tiểu thuyết chương hồi trong văn học Trung Quốc, tiểu

thuyết chương hồi của Việt Nam còn kém xa về mặt số lượng, chất lượng

cũng như quy mô của tác phẩm. Thực sự mà nói thì số lượng tiểu thuyết

chương hồi của nước ta không nhiều, ngoài tác phẩm Nam triều công nghiệp

diễn chí được coi như là tác phẩm khai sinh ra nền tiểu thuyết lịch sử chương

hồi của Việt Nam thì còn có một số tác phẩm khác nữa như: Thiên Nam liệt

truyện (chưa rõ tác giả); Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái); Tây

Dương gia tổ bỉ lục (Phạm Ngô Hiên, Nguyễn Hòa Đường); Việt Lam tiểu sử…

Tuy nhiên,với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng tiểu thuyết chương

hồi Việt Nam đã để lại dấu ấn đậm nét trong kho tàng văn học dân tộc góp

phần tái hiện lại được toàn cảnh đất nước giữa thời kỳ lịch sử đầy biến động

nêu trên. Có thể nói, lịch sử đất nước đã được tái hiện một cách sinh động,

sâu sắc và khá toàn diện trong tiểu thuyết chương hồi Việt Nam.

Sự ra đời của thể loại này chủ yếu là do sự tiếp nhận từ nền tiểu thuyết

chương hồi Trung Quốc, do đó ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn21

phần đậm nét: lối kết cấu theo chương hồi, ghi chép theo lối biên niên, mô típ

Header Page 22 of 112.

16

nhân vật và lối xây dựng nhân vật…Tuy vậy, tiểu thuyết chương hồi Việt

Nam vẫn có những nét độc đáo riêng mang bản sắc văn hóa của dân tộc Việt.

Các tác giả Việt Nam hầu như phải tạo ra tất cả trong quá trình sáng tác tác

phẩm chứ không hề được thừa hưởng khung sườn cốt truyện có sẵn cùng

những nhân vật hình thành trước đó như tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc

(hầu như dựa trên cơ sở những thoại bản, có những tác phẩm nhiều người viết

từ trước, người sau chỉnh sửa một cách hoàn chỉnh và đầy đủ thì tác phẩm

mang tên người đó).

Con đường phát triển của tiểu thuyết chương hồi Việt Nam không hề đơn

giản, bằng phẳng mà phải vượt qua tư tưởng Nho giáo khắt khe, vẫn thường

coi trọng văn học chức năng hành chính mà coi thường văn học nghệ thuật,

đặc biệt là tư tưởng bì tiểu thuyết. Người đặt nền móng cho tiểu thuyết

chương lịch sử chương hồi Việt Nam chính là Nguyễn Khoa Chiêm. Tác

phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của ông là tác phẩm khai sinh ra nền

tiểu thuyết lịch sử chương hồi của Việt Nam và đã đem lại cho văn học Việt

Nam một diện mạo mới. Sau tác phẩm này thì tác phẩm Thiên Nam liệt truyện

được ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, đến nay vẫn

chưa xác định được ai là tác giả. Hoàng Lê nhất thống chí tuy là tác phẩm ra

đời sau nhưng lại có chỗ đứng vững chắc trong nền văn học trung đại và giữ

một vai trò quan trọng trong dòng tiểu thuyết lịch sử chương hồi Việt Nam.

Tác phẩm này vừa hội tụ được tinh hoa văn xuôi tự sự Việt Nam, vừa bộc lộ

những quan điểm văn chương của các tác giả. Ngô gia văn phái đã có cái nhìn

rất chính xác và đúng đắn về phong trào Tây Sơn. Nói chung, mọi tinh hoa

bút lực của dòng họ Ngô đều được dồn cả vào Hoàng Lê nhất thống chí để tạo

nên một dấu ấn riêng đặc sắc trong nền tiểu thuyết chương hồi Việt Nam. Sự

cố gắng của Ngô gia văn phái cũng như của Nguyễn Khoa Chiêm đã giúp tiểu

thuyết chương hồi Việt Nam khẳng định được vai trò to lớn của mình trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn22

tiến trình vận động mạnh mẽ của văn học dân tộc.

Header Page 23 of 112.

17

Sau Hoàng Lê nhất thống chí, tiểu thuyết chương hồi Việt Nam tiếp tục

phát triển nhưng không gặt hái được những thành tựu to lớn nào. Đầu thế kỷ

XIX, tình hình xã hội nước ta có nhiều biến động: triều Nguyễn được thành

lập, Nho giáo suy yếu, thực dân Pháp xâm lược nước ta… . Với những biến

động xã hội đó, văn học trung đại rơi vào tình cảnh bế tắc trong khi văn học

hiện đại chưa kịp ra đời. Điều đáng ngạc nhiên là giữa buổi giao thời ấy lại

xuất hiện hai bộ tiểu thuyết chương hồi là Hoàng Việt hưng chí (Ngô Giáp

Dậu) và Việt Lam tiểu sử (chưa xác định được tác giả). Hai tác phẩm này ra

đời sau Hoàng Lê nhất thống chí khoảng một trăm năm, do đó được thừa

hưởng một nền tảng vững chắc do các tiểu thuyết gia chương hồi tiền bối gây

dựng. Nhưng đáng tiếc là hai tác phẩm này lại non kém về chất lượng nghệ

thuật, không phát huy được vai trò và những thành tựu truyền thống. Long

hưng chí thì muốn phá bỏ công thức kết cấu chương hồi nên chỉ thực hiện

công thức mở đầu còn bỏ đi công thức kết thúc. Chính việc làm đó đã làm cho

tác phẩm rời rạc, thiếu hấp dẫn. Cộng với số lượng nhân vật quá đông khiến

cho tác phẩm mất đi chất văn mà chỉ còn chất sử. Một yếu tố nữa khiến hai

tác phẩm không thành công là bởi vì đã đi theo con đường của tiểu thuyết

chương hồi Trung Quốc như: đưa tiểu thuyết chương hồi quay về lối biên

niên, sau mỗi sự kiện thường kết thúc bằng những câu đố, câu phúng hoặc bài

thơ thay cho lời bình giá trị lịch sử. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng hai tác

phẩm trên cũng vẫn là những cống hiến đáng kể vào tiến trình tiểu thuyết

chương hồi Việt Nam.

Như vậy, ta có thể khái quát lại một số nét về tiểu thuyết chương hồi Việt

Nam như sau:

Thể loại này chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc trên

cơ sở kế thừa và Việt hóa, trải qua quá trình phát triển lâu dài đã tạo nên một

loạt tiểu thuyết chương hồi truyền thống, độc đáo, đậm đà bản sắc văn hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn23

dân tộc, phản ánh chân thực lịch sử đất nước. Phạm vi đề tài chủ yếu là xoay

Header Page 24 of 112.

18

quanh tình hình lịch sử xã hội Việt Nam thời kỳ trung đại. Các tác phẩm tuy

lấy lịch sử làm gốc nhưng không hề bê nguyên lịch sử vào trang sách mà luôn

có sự sáng tạo làm cho tác phẩm đậm đà chất văn và hơi thở của cuộc sống.

Hầu hết các tác phẩm đều có những thành công nhất định trong việc xây

dựng hình tượng nhân vật từ những anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, Nguyễn

Trãi, Đào Duy từ, Nguyễn Bỉnh Khiêm… đến những nhân vật phản diện. Hầu

hết đều được xây dựng hết sức sinh động và rõ nét.Tiểu thuyết chương hồi

như một mốc đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của văn xuôi tự sự thời trung

đại Việt Nam.

Tóm lại, ta thấy tiểu thuyết chương hồi Việt Nam tuy không nhiều và còn

nhiều hạn chế nhưng đó chính là di sản văn hóa quý giá mà cha ông ta đã mất

rất nhiều công sức để tạo dựng và truyền lại cho con cháu muôn đời sau.

1.1.2.2. Về tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí

Về nguyên bản, tác phẩm có tám quyển viết bằng chữ Hán. Ban đầu tác

giả lấy tên tác phẩm là Nam triều công nghiệp diễn chí, sau đó được Dương

Thận Trai đề tựa, Nguyễn Giản viết lời bạt rồi đổi tên thành Việt Nam khai

quốc chí truyện.

Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí lần đầu tiên được giới thiệu

bởi sử gia Trịnh Hoài Đức, qua việc ông dùng một ghi chép của Bảng Trung

hầu Nguyễn Khoa Chiêm để so sánh với Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn

trong Gia Định thành thông chí: “Án Nguyễn Bảng Trung, Nam Việt chí viết

Nặc Ô Đài; Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục viết Nặc Đài”.[8,8] Ngoài ra, ta còn

thấy Sử quán triều Nguyễn đã sử dụng truyền bản của sách để làm tài liệu

tham khảo trong khi biên soạn phần chép tay về thời kỳ các chúa Nguyễn như

Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên, Khâm định Việt sử

thông giám cương mục….

Học giả tiếp theo nghiên cứu về tác phẩm là một người Pháp tên là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn24

L.Cadière. Ông đã sử dụng một bản của Nam triều công nghiệp diễn chí với

Header Page 25 of 112.

19

tên gọi là Việt Nam khai quốc chí truyện để làm tài liệu tham khảo khi ông

viết Le mus de Đồng Hới. Sau L.Cadière, có một sử gia người Pháp tiếp tục

nghiên cứu tác phẩm này là Henri Maspéro, ông đã mượn được bản của

L.Cadière và nhờ người chép hộ đồng thời chỉnh lý và bổ sung những điều mà

L.Cadière còn thiếu sót. Cũng dịp này, ông còn chép tặng Viện Viễn Đông

Bác cổ ở Hà Nội một bản.

Tác phẩm lần đầu tiên được dịch sang chữ quốc ngữ vào năm 1986 bởi

dịch giả Ngô Đức Thọ. Ông đã tìm và so sánh nhiều văn bản rồi dịch sang

chữ quốc ngữ dưới tên gọi Trịnh – Nguyễn diễn chí. Sau đó, Ngô Đức Thọ lại

tiếp tục sửa và xuất bản lại các tác phẩm này dưới nhiều tên gọi khác nhau

như vào năm 1987 và năm 1990 là Mộng bá vương, năm 1994 lấy tên là Việt

Nam khai quốc chí truyện và cuối cùng vào năm 2003 ông sửa và lấy tên là

Nam triều công nghiệp diễn chí.

Về vấn đề xác định tên gọi của tác phẩm, mặc dù có khá nhiều tên gọi

khác nhau trải qua mỗi thời kỳ nhưng đúc kết lại ta có thể thấy hai tên gọi

được dùng nhiều nhất là Nam triều công nghiệp diễn chí và Việt Nam khai

quốc chí truyện. Tác giả Nguyễn Đăng Na trong Con đường giải mã văn học

trung đại Việt Nam thống nhất với quan điểm ấy. Trong các bộ sử lớn của

nước ta thời kì trung đại như: Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam nhất

thống chí, Việt Nam thông giám cương mục cũng nhắc nhiều đến việc này.

Gia phả của dòng họ Nguyễn Khoa ở Thừa Thiên Huế cũng ghi chép lại

là: Nguyễn Khoa Chiêm soạn sách Nam triều công nghiệp diễn chí. Điều này

rất phù hợp với các tài liệu đã đề cập đến ở trên, song ở một số truyền bản lại

đề tên tác phẩm là Việt Nam khai quốc chí truyện, vậy đâu mới là tên gọi

chính thức của tác phẩm? Trước hết, ta phải khẳng định rằng các tài liệu có

nhắc đến tên gọi tác phẩm là Nam triều công nghiệp diễn chí như: Đại Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn25

liệt truyện tiền biên, Đại Nam nhất thống chí, Việt Nam thông giám cương

Header Page 26 of 112.

20

mục đều là các bộ chính sử đáng tin cậy và đều là sách in, còn lại các sách

khác đều chép tay. Thực tế cho thấy sách in bao giờ cũng có độ chính xác cao

hơn sách chép tay, đó là cơ sở thứ nhất để ta khẳng định rằng Nam triều công

nghiệp diễn chí là tên gọi chính xác của tác phẩm. Mặt khác, ta biết là bộ sách

này Nguyễn Khoa Chiêm soạn xong vào năm thứ hai mươi đời chúa Minh

Vương Nguyễn Phúc Chu tức là vào năm 1719, và Nguyễn Khoa Chiêm mất

năm 1736, trong khi đó thì quốc hiệu Việt Nam ra đời ở nước ta vào năm

1804, cho nên hai chữ Việt Nam trong nhan đề tác phẩm không phải do

Nguyễn Khoa Chiêm đặt. Mặt khác, Nguyễn Khoa Chiêm sống vào thời kỳ

đất nước ta chia cắt thành Nam triều và Bắc triều nên ta thấy hai chữ Nam

triều trong nhan đề tác phẩm là hoàn toàn phù hợp với hiện thực lịch sử - xã

hội thời kỳ này. Tính tới thời điểm này thì Nam triều công nghiệp diễn chí

còn lại bốn truyền bản: Một bản của Viện Hán Nôm có ký hiệu là A.24/1-2;

một bản của Viện sử học ký hiệu là HV. 503; hai bản của thư viện hiệp hội Á

Châu Paris ký hiệu là HM.2140 và HM.2141. Tất cả đều mang tên Việt Nam

khai quốc chí truyện. Đây có lẽ là do người đời Nguyễn chữa lại, không đủ

độ tin cậy.

Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm, ta thấy

tác phẩm của ông mặc dù là một tiểu thuyết lịch sử chương hồi nhưng lại

không cứng nhắc như những truyện lịch sử khác, mà mang đậm yếu tố văn

học. Điều này thể hiện rất rõ ở hai chữ diễn chí trong nhan đề tác phẩm. Với

hai chữ này, ông đã khẳng định mình viết văn chứ không viết sử, cho nên

trong truyện ta cũng thấy có những sự kiện lịch sử mà ông không đề cập đến

hay đề cập đến nhưng chưa chính xác tuyệt đối như các truyện lịch sử khác.

Chẳng hạn như chi tiết Nguyễn Hoàng đến xin Nguyễn Bỉnh Khiêm kế giữ

thân vào năm 1600, nhưng thực tế thì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mất từ năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn26

1585, trước lúc Nguyễn Hoàng vào Nam tới mười lăm năm. Hay chi tiết năm

Header Page 27 of 112.

21

1625 Trịnh Tráng sai người đi mời Phùng Khắc Khoan về để giải nghĩa hai

chữ thanh thúy nhưng theo lịch sử thì Phùng Khắc Khoan đã mất từ năm 1613

rồi. Do đó, nếu xét về góc độ lịch sử thì cũng có những tiểu tiết chưa thật

chính xác để khiến cho tác phẩm trở thành một bộ sử, nhưng xét dưới góc độ

văn học thì đây là một tiểu thuyết lịch sử chương hồi hay, có độ tin cậy cao,

xứng đáng là một tác phẩm mở đầu cho nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi

của Việt Nam.

Với tám quyển tương đương với tám hồi truyện dài và nhiều chi tiết sự

kiện lịch sử, tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí đã khái quát lại bức

tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam thời kỳ Nam – Bắc phân tranh. Truyện

bắt đầu từ thời điểm Nguyễn Hoàng dẫn hơn một nghìn thủy quân vào đánh

nhau với các tướng nhà Mạc để giành vùng Thuận Hóa năm 1558. Sau khi

giành được vùng này, Nguyễn Hoàng một mặt vẫn giữ lễ phiên thần với vua

Lê – chúa Trịnh một mặt lại âm thầm xây dựng cố đô ở phương Nam. Tiếp

sau đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng là đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, nổ ra

sự kiện Nguyễn Khải kéo năm nghìn quân vào bờ bắc sông Nhật Lệ khai mào

thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Chúa Nguyễn

củng cố thế đứng, thu nhận nhiều người từ Bắc Hà vào, đương cự với Chúa

Trịnh liên tiếp bảy lần đại chiến từ năm 1627 tới năm 1672. Cuộc chiến này

có nhiều nhân vật tài giỏi về quân sự - chính trị nổi lên như Đào Duy Từ,

Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, chúa Trịnh

Tráng, chúa Trịnh Căn, chúa Trịnh Tạc. Đánh nhau một khoảng thời gian dài

không có kết quả, hai phe đi vào thế đình chiến. Cuộc chiến tranh không đem

lại kết quả gì chỉ khiến nhân dân hai miền lâm vào cảnh khốn khó, kinh tế của

nước nhà đình trệ, tất cả nhằm thỏa mãn lòng tham lam, hiếu thắng, ích kỷ

của các thế lực phong kiến đương thời. Cùng với việc miêu tả chiến trận, tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn27

phẩm còn đề cập tới nhiều vấn đề nổi bật ở cả hai miền trong thời kỳ này như:

Header Page 28 of 112.

22

những vụ lục đục tranh quyền đoạt chức của nội bộ quan lại cả Đàng Trong

và Đàng Ngoài, những mâu thuẫn trong dòng tộc, anh em chém giết lẫn nhau;

những vụ làm phản, phế ngôi vua chúa…diễn ra rất thường xuyên. Qua đó,

tác phẩm phản ánh sự mục nát thối ruỗng của bộ phận quan lại phong kiến

suy đồi, chỉ đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của muôn vạn dân đen…

Truyện khép lại ở đời chúa Nguyễn Phúc Trăn vào khoảng năm 1689.

Với dung lượng truyện dài và cốt truyện phức tạp, nhưng lại được viết

với lối tiểu thuyết chương hồi, cho nên tác phẩm không hề gây sự nhàm chán

cho người đọc mà có sức thu hút lớn bởi những câu dẫn chuyện rất đặc trưng

của tiểu thuyết chương hồi. Kết thúc mỗi hồi truyện lại có một bài thơ thất

ngôn để bình luận hay cảm thán góp phần làm dịu đi không khí căng thẳng

của chiến trận đồng thời đem lại sắc thái trữ tình cho tác phẩm. Điều đó cho

thấy đây quả thực là một tác phẩm văn học chứ không phải là một bộ sách

lịch sử đơn thuần. Nhận xét về Nam triều công nghiệp diễn chí trong Từ điển

văn học (bộ mới) có viết: Đây có thể coi là tác phẩm mở đầu cho thể loại tiểu

thuyết chương hồi Việt Nam thời kỳ trung đại. Tuy không tránh khỏi lối lược

thuật một cách dài dòng, nhân vật được miêu tả công thức, ngôn ngữ chưa

được chú ý chau chuốt… nhưng nhiều sự kiện chính trị ở cả Đàng Trong và

Đàng Ngoài có liên quan cuộc chiến, nhiều âm mưu phế lập biến loạn, nhiều

trận đánh lớn được lược thuật bằng phong cách kể chuyện chân xác, sinh

động, tự nhiên và tương đối hấp dẫn. Trên nền tảng những sự kiện lịch sử thế

kỷ XVI – XVII, thân thế, hành trang, tính cách của nhân vật lịch sử cũng hiện

lên khá rõ. Ở một số trường hợp, tác giả đã sử dụng lời đối thoại để góp

phần làm bộc lộ tính cách, mưu lược của nhân vật…[19,1033] .

1.1.2.3. Tương quan tiểu thuyết chương hồi Nam triều công nghiệp diễn chí

với Tam quốc diễn nghĩa

Tiểu thuyết chương hồi Việt Nam ra đời sau tiểu thuyết chương hồi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn28

Trung Quốc rất nhiều năm và chịu ảnh hưởng nặng nề của tiểu thuyết chương

Header Page 29 of 112.

23

hồi Trung Quốc là kết quả tất yếu của sự học hỏi, kế thừa từ một nền văn hóa

lớn. Sự ảnh hưởng lớn ấy in đậm trong cả nội dung và hình thức tác phẩm.

Nam triều công nghiệp diễn chí cũng không nằm ngoài quy luật đó, người đọc

dễ dàng nhận thấy những nét tương đồng giữa Nam triều công nghiệp diễn chí

của Nguyễn Khoa Chiêm với Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Tuy

nhiên, đọc kỹ tác phẩm, người đọc sẽ phát hiện ra Nguyễn Khoa Chiêm đã

vận dụng một cách linh hoạt thành tựu của tiểu thuyết chương hồi Trung

Quốc để từ đó sáng tạo nên một tác phẩm rất độc đáo, riêng biệt mang đậm đà

bản sắc dân tộc Việt Nam.

Nếu chỉ đánh giá bề ngoài thì thoạt nhìn Nam triều công nghiệp diễn chí

không có gì khác Tam quốc diễn nghĩa ở phần hình thức kết cấu cả. Như nội

dung thì được chia thành các hồi, tiêu đề các hồi thường được tóm tắt bằng

một bài thơ tóm tắt nội dung của hồi đó, mở đầu, kết thúc đều có những bài

thơ Đường luật. Khi kết thúc hồi và chuyển sang hồi khác đều hay sử dụng

những từ ngữ có sẵn như: “…không biết… như thế nào, hãy xem hồi sau phân

giải”… Thế nhưng khi tìm hiểu kỹ vào từng chi tiết, ta sẽ thấy có những khác

biệt rất rõ để chứng tỏ Nguyễn Khoa Chiêm có sự vận dụng linh hoạt vào tác

phẩm của mình, làm cho tác phẩm của mình có nét độc đáo, sáng tạo riêng.

Cụ thể là ở việc triển khai câu chuyện theo dòng thời gian tuyến tính, các

sự kiện được triển khai theo dòng thời gian từ năm nọ sang năm kia, mùa nọ

sang mùa kia… đó gọi là lối ghi theo kiểu biên niên. Nhưng khi ghi thời gian,

La Quán Trung chỉ chú ý tới hai yếu tố không thể thiếu được là niên hiệu (đời

vua) và tuế thứ (năm của niên hiệu đó), chẳng hạn như: Thái Nguyên nguyên

niên 251; Diên Hi thứ mười lăm 252… . Nhưng trong Nam triều công nghiệp

diễn chí thì Nguyễn Khoa Chiêm lại chú ý tới việc biên niên với ba yếu tố:

niên hiệu, tuế thứ và can chi, chẳng hạn như: …năm Mậu Ngọ, niên hiệu

Chính Trị thứ nhất (1558); Mậu Ngọ niên hiệu Hoằng Định thứ mười chin

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn29

(1618)... Sở dĩ thời gian của Nguyễn Khoa Chiêm đề cập đến tận can chi là

Header Page 30 of 112.

24

bởi ông chỉ tái hiện lịch sử trong khoảng thời gian một thế kỷ, nên việc nhớ rõ

và nắm được can chi là điều dễ hiểu, còn La Quán Trung phải tái hiện lịch sử

tới hàng nghìn năm nên không thể nhớ rõ can chi như vậy. Đó là một nét khác

biệt giữa hai tác phẩm.

Nét khác biệt thứ hai giữa hai tác phẩm là trong Tam quốc diễn nghĩa thì

khi kết thúc một sự kiện luôn có một bài thơ ngắn để kết lại, chủ yếu là thơ

thất ngôn hoặc ngũ ngôn nhưng thường thì chỉ có bốn câu. Ví dụ như: Ở hồi

61, sự kiện Tử Long xông vào vòng vây giành lại A Đẩu, làm cho quân Đông

Ngô khiếp sợ, La Quán Trung có thơ bình luận như sau:

“Năm xưa cứu chúa ở Đương Dương

Nay lại liều thân trận Đại Giang

Ngô Quyền tướng sĩ bay hồn vía

Tử Long anh dũng tiếng đồn vang.”

[43,621]

Còn Nguyễn Khoa Chiêm lại có những bài thơ dài hơn, thường là thơ

tám câu, cụ thể như trong sự kiện Lộc Khê Đào Duy Từ mất, Sãi Vương vô

cùng thương tiếc nhân tài nên khóc lóc, Nguyễn Khoa Chiêm có thơ rằng:

Thơ rằng:

“Lén mây tiên hạc đã bay lâu

Đầu cúi chăng kham chuyện tủi sầu

Đất Bắc thanh danh sông núi biết,

Trời Nam sự nghiệp sử truyền lưu.

Mưu thân chí lớn thêm giàu nước,

Giúp chúa tài cao sánh Vũ Hầu.

Đường chửa chung xe thân thác trước,

Vua tôi thương khóc lệ rơi trào.”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn30

[ 8, 190 – 191]

Header Page 31 of 112.

25

Việc sử dụng những bài thơ tám câu như vậy cho thấy Nam triều công

nghiệp diễn chí hoàn toàn không xuất phát từ thoại bản như Tam quốc diễn

nghĩa. Ngoài ra, ta thấy cách giới thiệu thơ của mỗi tác giả cũng khác nhau.

Trước mỗi bài thơ, La Quán Trung thường cho là thơ đó của người hậu nhân

(người thời sau) đánh giá, bình luận về sự kiện, còn Nguyễn Khoa Chiêm thì lại

nói rằng đó là thơ của người thời nhân (người đương thời). Cách nói này mang

tính thời sự hơn, khiến cho sự kiện diễn ra có độ tin cậy cao hơn.

Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, ta thấy có nhiều sự kiện, tình huống

có môtip giống với Tam quốc diễn nghĩa, đó là điều khó tránh khỏi trong quá

trình học hỏi kinh nghiệm từ một nền văn hóa lâu đời hơn, nhiều thành tựu

hơn. Thế nhưng phải khẳng định lại một lần nữa rằng Nguyễn Khoa Chiêm

không hoàn toàn coppy lại nguyên mẫu của La Quán Trung mà chỉ là sự học

hỏi rồi từ đó vận dụng, và sáng tạo ra những tình tiết mới thể hiện rõ tư chất

của mình và điều đó bộc lộ rõ nét trong tác phẩm của ông. Cụ thể như cùng là

dùng kế nghi binh nhưng hai nhân vật Trương Phi và Chiêu Vũ Nguyễn Hữu

Dật lại có hai cách làm riêng khác biệt nhau. Trương Phi trong Tam quốc diễn

nghĩa dùng cành cây buộc vào đuôi ngựa để cho ngựa chạy, lồng lên tạo ra

bụi mù mịt, khiến cho đối phương từ xa nhìn lại tưởng quân của Trương Phi

mạnh không dám giao chiến. Còn với Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật thì ông

cũng dùng kế này nhưng ở hoàn cảnh không có ngựa như Trương Phi mà ông

cho quân lính chặt cành cây rồi sai lính mỗi người cầm hai cành cây đi đi lại

lại trong rừng, lại sai quân trèo lên treo cờ ở trên cành cao. Cờ hứng gió bay

phần phật khắp nơi, khiến quân Trịnh từ xa trông thấy tưởng là đội quân cả

trăm vạn. [8, 476] Hay ở cảnh Thành không gảy đàn, La Quán Trung đã miêu

tả Khổng Minh trong một hình ảnh của một nhân vật siêu phàm, có tính chất

thần thánh hóa nhân vật. Khổng Minh mở toang cả bốn cửa thành rồi ngạo

nghễ ngồi đốt hương gảy đàn trước sự ngạc nhiên, bối rối, lo lắng của mười

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn31

lăm vạn quân của Tư Mã Ý đang không hiểu ông đang làm gì và không dám

Header Page 32 of 112.

26

động binh. Với mưu lược ấy, Khổng Minh đã cứu mình một bàn thua trông

thấy. Cũng cùng kế này nhưng Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật của Nguyễn Khoa

Chiêm lại thực tế hơn, đúng chất con người hiện thực Việt Nam hơn, không

hề mang nét sử thi, thần thánh hóa. Đó là một trận đánh tại đồn Khu Độc,

biết mình không thể cự lại nổi sự bao vây của quân Trịnh, cũng không thể rút

lui lộ liễu được, nếu quân Trịnh thấy quân Nguyễn rút lui hẳn sẽ biết thế của

quân Nguyễn yếu hơn và đánh đuổi. Để bảo toàn lực lượng, Chiêu Vũ đã

dùng kế của Khổng Minh, một mặt ông cho quân sĩ vui vẻ ca hát, gõ trống

gảy đàn trước sự uy hiếp của quân Trịnh để ra vẻ binh hùng tướng mạnh,

không sợ thế lực của quân Trịnh, nhưng một mặt ông vẫn lặng lẽ chuyển mật

lệnh sửa soạn rút quân…[8, 473], nhờ đó mà lực lượng của quân Nguyễn

được an toàn. Trong truyện còn có một số chi tiết nếu không đọc kỹ sẽ nhầm

tưởng rằng Nguyễn Khoa Chiêm lấy từ La Quán Trung như việc dùng binh

pháp, cụ thể như việc dùng kế li gián ở Tam quốc diễn nghĩa có sự kiện Tào

Tháo bị Chu Du lừa mà giết đi hai tướng tài của mình là Sái Mạo và Trương

Doãn. Còn ở Nam triều công nghiệp diễn chí thì có sự kiện Trịnh Tráng bị

Chiêu Vũ lừa mà giết tướng giỏi Hàn Tiến. Hay những nhân vật có phần hao

hao giống nhau về tính cách như Khổng Minh với giọng điệu khẩu chiến quần

nho rất giống với giọng điệu của Đào Duy Từ. Hay tính nóng nảy của Trương

Phi với bản tính khá nóng nảy, dứt khoát, và rất đỗi trung thành của Tiết Chế

Thuận Nghĩa. Tính cương trực, không màng danh lợi của Quan Công giống

với bản tính thật thà của Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật…

Qua việc phân tích một số nét tương đồng ở hai truyện, ta nhận thấy tác

phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí mặc dù chịu ảnh hưởng nhiều của nền

tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc nhưng vẫn mang đậm bản sắc riêng. Điều

đó khiến cho nền tiểu thuyết chương hồi Việt Nam luôn khẳng định được vị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn32

trí đứng của mình, không bị lạc vào tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc.

Header Page 33 of 112.

27

1.2. Lý thuyết chung về tự sự học và việc vận dụng lý thuyết tự sự học

vào nghiên cứu tác phẩm

1.2.1. Lý thuyết chung về tự sự học

Tự sự học là một chuyên ngành còn khá mới trong khoa học nghiên cứu

văn học nước ta. Hiện nay, nhiều vấn đề của tự sự học cũng đã được các nhà

lí luận quan tâm, tìm hiểu, nhưng có thể coi là muộn so với các nước trên thế

giới. Từ năm 1969, Tezvetan chính thức khai sinh danh từ tự sự học (narrato

logie- tiếng Pháp) khi xuất bản công trình Ngữ pháp câu chuyện mười ngày.

Đến thập niên 70 – 80, tự sự học bắt đầu thịnh hành ở Mỹ thế nhưng chủ

yếu vẫn ứng dụng và phát huy các mô thức lý luận của Pháp.Tự sự học đã tạo

nên một không gian lý tưởng cho đối thoại và hòa nhập giữa truyền thống phê

bình Mỹ và lý luận văn học ở Châu Âu.

Ở Trung Quốc, lý thuyết tự sự học được giới thiệu từ những năm 80 của

thế kỷ XX. Và ở Việt Nam, GS.TS Trần Đình Sử đã nói rằng: “Chúng ta cần

xây dựng cho mình một hệ thống thuật ngữ tiếng Việt về tự sự học”.

Sự phát triển của tự sự học trên thế giới đã khiến cho ngành phê bình lý

luận của Việt Nam ta đứng trước đòi hỏi phải nghiên cứu, phát triển hơn nữa

về lĩnh vực này để bắt kịp đà phát triển của khu vực và nhân loại. Ngày

9/1/2001, Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tổ chức hội

thảo khoa học về tự sự học với sự tham gia của đông đảo học giả và các nhà

phê bình, nghiên cứu. Tại hội thảo này có sự tham gia đóng góp của nhiều

nước qua những bài tham luận nghiên cứu lý thuyết tự sự trên mọi phương

diện của các trường phái trên thế giới và tìm hiểu về truyền thống tự sự của

Châu Âu, Mỹ, Trung Quốc đồng thời bước đầu tìm hiểu về cách thức tự sự

trong văn học Việt Nam. Hội thảo là một dấu mốc lớn đầu tiên của chuyên

ngành tự sự học nước ta.

Với phạm vi hạn hẹp của luận văn, chúng tôi không có tham vọng trình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn33

bày tất cả những vấn đề lý thuyết về tự sự bởi đây là một vấn đề vượt ngoài

Header Page 34 of 112.

28

khả năng người viết. Trên cơ sở thành tựu của chuyên ngành tự sự học, chúng

tôi dựa theo một số luận điểm quan trọng để soi chiếu vào Nam triều công

nghiệp diễn chí, phân tích đánh giá tác phẩm từ một góc nhìn mới: góc nhìn

tự sự.

Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa

rộng là nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề có liên quan,

hoặc nói cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản

tự sự nhằm tìm một cách đọc. Tên gọi Tự sự học – Narratology, Narratologie,

là do nhà nghiên cứu Pháp gốc Bungari T.Todorov đề xuất năm 1969, trong

sách “Ngữ pháp Câu chuyện mười ngày”, làm cho ngành nghiên cứu tự sự

trước nay có được một cái tên chính thức và trở thành một khoa nghiên cứu

có tính độc lập vì nội hàm văn hóa của nó.

Tự sự có nghĩa là “kể việc” “kể chuyện” nhưng ngày nay tự sự không

đơn giản chỉ là việc kể chuyện mà là một phương pháp nghiên cứu không thê

thiếu để giải thích, lí giải quá khứ và nó có nguyên lý riêng. Roland Barthes

nói: “Đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự sự”[52,12]. Năm 1993,

J.H.Miller, nhà giải cấu trúc người Mỹ có nói: “Tự sự là cách để ta đưa các

sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng ta có được ý nghĩa. Tự sự là

cách tạo nghĩa cho sự kiện, biến cố”[52,12]. Đến năm 1998, Jonathan Culler

cũng nói: “Tự sự là phương thức chủ yếu để con người hiểu biết sự

vật”[52,12]. Muốn hiểu sự vật nào thì người ta kể câu chuyện về sự vật đó,

như vậy tự sự có nội hàm rất rộng bởi tự sự là phương thức tạo nghĩa và

truyền thông tin. Trong các hình thức tự sự thì tự sự văn học được coi là khá

phức tạp, vì vậy nó đã được nghiên cứu từ xa xưa và đã trở thành đối tượng

nghiên cứu chủ yếu của tự sự học.

Thuật ngữ Narratology được người Trung Quốc dịch là “tự sự học” và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn34

“tự thuật học”, hai khái niệm này có nghĩa tương đương với nhau nhưng trong

Header Page 35 of 112.

29

một số trường hợp lại có sự khác biệt. Cụ thể như “tự thuật học” thì nghiêng

về việc nghiên cứu từng phương diện như hành vi kể, lời kể và cấu trúc sự

kiện, còn “tự sự học” thì nghiên cứu cả hai mặt hành vi lời kể và cấu trúc sự

kiện. Đặc biệt, khi nghiên cứu vào các cấu trúc tự sự cụ thể thì hầu hết người

ta dùng thuật ngữ “tự sự học”.

GS. TS Trần Đình Sử cho rằng: “Gọi là tự sự học, theo chúng tôi nghĩ,

nó bao gồm cả phần lý thuyết cấu trúc văn bản tự sự, cấu trúc sự kiện vừa

bao gồm cả phần nghiên cứu các hình thức và truyền thống tự sự trong các

nền văn học dân tộc cũng như sự so sánh chúng với nhau. Gọi là tự sự học

nói lên được thực chất và tầm bao quát của một bộ môn nghiên cứu liên

ngành” [52,22]

Thực tế tự sự học là khái niệm đã được dùng từ xa xưa. Từ thời Aristote,

Platon người ta đã biết phân biệt các loại tự sự: Tự sự lịch sử khác tự sự nghệ

thuật. Đến thế kỷ V, người ta đã biết phân biệt: Tự sự mô phỏng, tự sự giải

thích và tự sự hỗn hợp nhưng phạm vi quan tâm vẫn chỉ ở trong giới hạn tu từ

học.

Tự sự học hiện đại hình thành từ cuối thế kỷ XX, có thể chia làm ba thời

kì: Tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc, Tự sự học chủ nghĩa cấu trúc và Tự sự

học hậu chủ nghĩa cấu trúc.

Ở thời kì trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học chủ yếu nghiên cứu các

thành phần và chức năng của tự sự. Đến thời kì chủ nghĩa cấu trúc thì người ta

lại chú ý đi tìm mô hình cho hình thức tự sự. Đặc điểm của lí thuyết tự sự chủ

nghĩa cấu trúc là lấy ngôn ngữ học làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở

rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng của ẩn dụ. Mục đích của chủ

nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp nhằm tìm

ra một cách đọc tự sự mà không cần phải đối chiếu giản đơn tác phẩm tự sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn35

với hiện thực khách quan. Mặc dù không phủ nhận được mối quan hệ giữa

Header Page 36 of 112.

30

văn học với đời sống nhưng các tác giả đã góp phần làm sáng tỏ bản chất biểu

đạt và giao tiếp của tự sự. Sau thời kì chủ nghĩa cấu trúc, sang đến thời kì hậu

chủ nghĩa cấu trúc là thời kì gắn liền với kí hiệu học, lấy văn bản làm cơ sở. Ở

đây, hình thức tự sự là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm và như thế

lí thuyết tự sự phải gắn liền với chức năng nhận thức và giao tiếp.

Tổng quan lại toàn bộ quá trình phát triển của lí thuyết tự sự, nhà lí luận

tự sự Mĩ Gerald Prince đã chia làm ba nhóm: nhóm thứ nhất bao gồm những

nhà tự sự chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V.Propp.

Một trong số những người đó là Greimas, ông đã nghiên cứu và giản lược các

chức năng mà V.Propp đưa ra còn hai mươi và có phương pháp làm nổi bật

logic tự sự. Ngoài ra, các nhà lí luận khác như Todorov, Barthes, Remak,

Norman Freidman, Northrop Frye, Etienne Sourian…mỗi người có một cách

riêng và đã chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, đi tìm mẫu cổ của tự

sự, chức năng của biến cố và qui luật tổ hợp, logic phát triển và loại hình cốt

truyện…. Đã có lúc họ cho rằng tác phẩm tự sự không bị chi phối bởi chất

liệu và như thế câu chuyện có thể kể bằng nhiều hình thức khác nhau như ba

lê, điêu khắc, điện ảnh, hội họa…. Cho nên có thể bỏ qua hoặc không đi sâu

vào chất liệu. Nhóm thứ hai lấy G.Genette là đại diện tiêu biểu, có quan điểm

xem nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ nói hay viết để biểu đạt nên rất

coi trọng vai trò của người trần thuật. Ngôn ngữ của người trần thuật được

chú ý rất nhiều vào các yếu tố cơ bản như điểm nhìn trần thuật, giọng điệu

trần thuật… Nhóm này thu hút nhiều nhất sự tham gia của các nhà nghiên cứu

như Dolezel, Micke Bal… Nhóm thứ ba là nhóm coi trọng phương pháp

nghiên cứu tổng thể, hay dung hợp, họ thường coi trọng cả cấu trúc sự kiện

lẫn cấu trúc lời văn. Nhóm này bao gồm những nhà nghiên cứu như: Gerald

Prince, Seymuor Chatman, J.Culler…

Người trần thuật vô hình nên trước đây ít được nhắc đến, ít được chú ý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn36

phân tích, lí thuyết tự sự học hiện đại đã chỉ ra người trần thuật như là một hệ

Header Page 37 of 112.

31

thống biểu đạt bởi thực tế và trần thuật đã chi phối tiến trình tự sự từ hình

thức đến bình luận. Lí thuyết tự sự cho thấy sự biến dạng thời gian bằng các

biện pháp rút gọn, tỉnh lược, kéo dài, dừng lại, lặp lại và các hình thức đổi

thay tính liên tục của sự kiện. Từ đó, nó giúp quan sát cụ thể hơn cơ chế nghệ

thuật của tự sự. Tự sự nghiên cứu sâu về hành vi ngôn ngữ tự sự và các hệ

thống của nó, bao gồm việc phân loại các cách chuyển thuật ngôn ngữ người

khác như trực tiếp, gián tiếp, tự do, các hình thức đối thoại nội tâm, dòng ý

thức. Tự sự học gắn chặt với phong cách học tiểu thuyết, không thể nghiên

cứu phong cách học tiểu thuyết nếu bỏ qua tự sự.

Trong tác phẩm tự sự, vai trò của người trần thuật khá quan trọng. Trần

thuật là một phương diện cơ bản của phương thức tự sự. Người trần thuật giới

thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật

theo cách nhìn của chính mình. Thành phần của tự sự không chỉ là lời thuật,

chức năng không chỉ là kể việc, mà thành phần và chức năng của nó bao hàm

cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, đan

xen những lời bàn luận về cuộc sống, phong tục, đạo đức, những lời trữ tình

ngoại đề, lời ghi chú của tác giả. Hình thức chủ yếu của trần thuật là độc thoại

nội tâm nhưng cũng có thể là độc thoại hoặc mang tính chất độc thoại.

Trong văn học phương Tây thế kỉ XVIII, thể loại tiểu thuyết phát triển

mạnh và rất thịnh hành lối trần thuật sử dụng ngôi thứ nhất. Cách trần thuật

này có khi biến thành dòng ý thức hay lời độc thoại nội tâm của người trần

thuật. Còn những tiểu thuyết mà người kể ở ngôi thứ ba đã xuất hiện trước đó

rất lâu, với đặc điểm là ngôi kể thứ ba có cái nhìn khá khách quan, có thể kể

một cách tự do linh hoạt… Ở Việt Nam, thời kì này đã xuất hiện Nam triều

công nghiệp diễn chí với ngôi kể thứ ba đã tái hiện lại một cách khách quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn37

về những sự kiện lịch sử nước ta thời Trịnh – Nguyễn phân tranh.

Header Page 38 of 112.

32

1.2.2. Việc vận dụng lí thuyết tự sự vào nghiên cứu tác phẩm Nam triều

công nghiệp diễn chí

Thực tế nghiên cứu cho thấy việc nghiên cứu tự sự đã mở ra khả năng

nghiên cứu truyền thống tự sự trong mỗi nền văn học. Chúng ta biết rằng mỗi

nền văn học đều có một hệ thống thể loại tự sự và các thể loại ấy tiếp nối nhau

trong lịch sử. Nhưng thực chất về sự khác biệt của các thể loại thì từ trước tới

giờ ta chỉ có thể nhận ra một cách cảm tính. Hiện nay, nhờ có lí thuyết tự sự,

ta đã được cung cấp những khái niệm về cấu trúc văn bản, cho phép ta nhận ra

các đặc điểm trên một cách cụ thể, sáng rõ và khoa học.

Lí thuyết tự sự cho ta thấy không chỉ là kĩ thuật trần thuật của các thể

loại, các nhà văn mà còn cho ta thấy cả một truyền thống văn hóa ở đằng sau

nó, và từ đó cho ta nhìn lại các vấn đề văn học dân tộc một cách chính xác và

sâu sắc.

Văn học Việt Nam có truyền thống tự sự từ lâu đời. Song song với quá

trình sưu tầm, phát hiện, phiên dịch, phiên âm, giới thiệu, diện mạo của nền

văn học ngày càng lộ rõ. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu văn học dân tộc cho

đến nay chủ yếu vẫn chỉ là các công trình nghiên cứu về các dữ kiện bề ngoài

như tiểu sử tác giả, niên đại, bối cảnh lịch sử, nội dung phản ánh, chủ nghĩa

hiện thực, chủ nghĩa nhân đạo… mà chưa đi sâu vào việc nghiên cứu cấu trúc

tự sự bên trong. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng nhận biết về giá trị

lịch sử của văn học nước nhà, dẫn tới sự thiếu hụt một lượng kiến thức lớn về

lịch sử nghệ thuật ngôn từ và lịch sử văn hóa, văn học của chính dân tộc ta.

Do đó, việc tìm hiểu và vận dụng kiến thức về tự sự học là rất quan trọng

trong việc nghiên cứu văn học.

Từ tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, người viết cũng sẽ đi sâu

tìm hiểu tác phẩm ở góc độ của nghệ thuật tự sự. Từ đó sẽ cố gắng chỉ ra

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn38

những cái hay, độc đáo và đặc sắc của tác phẩm dưới góc nhìn tự sự.

Header Page 39 of 112.

33

Tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí là cuốn tiểu thuyết lịch sử

chương hồi đầu tiên của Việt Nam. Khi viết tác phẩm này, Nguyễn Khoa

Chiêm không có ý định viết một bộ sách lịch sử đơn thuần, mà ông muốn qua

sử tạo nên một tác phẩm văn học để lưu giữ lại một cách khách quan lịch sử

nước nhà ở thời kì hỗn độn nhất thời kì Nam – Bắc phân tranh. Cho nên ở

truyện này, ta thấy tác giả đã kết hợp rất khéo léo giữa sử và văn để xây dựng

nên một Nam triều công nghiệp diễn chí hay và độc đáo.

Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, ta sẽ thấy tác giả có lối kể

chuyện rất tự nhiên, khách quan đó là bởi tác giả sử dụng ngôi kể thứ ba, tạo

được cái nhìn chân thực, sống động. Luận văn sẽ có những phân tích cụ thể để

thấy được nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Khoa Chiêm.

Ngoài ra, luận văn sẽ tập trung tìm hiểu sâu hơn về nội dung mà tác

phẩm đề cập đến, đó là những sự kiện lịch sử chân thật, những nhân vật lịch

sử với những tính cách sống động. Trong lịch sử nước ta thời trung đại thì

thời kì nội chiến đã trải qua nhiều trận đánh lớn, trong đó có bảy trận nội

chiến nồi da xáo thịt, gây bao tang thương chết chóc cho nhân dân. Bảy trận

nội chiến đó là: Trận chiến năm 1627, trận thứ hai năm 1633, trận thứ ba năm

1643, trận thứ tư năm 1648, trận thứ năm vào năm 1655-1660, trận thứ sáu

năm 1661-1662, trận thứ bảy năm 1672. Tuy nhiên, trong Nam triều công

nghiệp diễn chí, ta thấy bị khuyết đi hai trận nội chiến đó là trận thứ ba năm

1643 và trận thứ tư vào năm 1648. Những trận còn lại đều được tác giả dựng

lại một cách rất chi tiết, cụ thể. Đó là những trận đánh được mô tả hết sức

sống động như thể đang diễn ra ngay trước mắt bạn đọc vậy. Điều đó chứng

tỏ sự tài tình của tác giả trong nghệ thuật viết truyện.

Ngoài ra, nét đặc sắc nữa trong tác phẩm là tác giả đã sử dụng rất linh

hoạt các bài thơ để đưa vào tác phẩm, và nhờ có các bài thơ mà Nam triều

công nghiệp diễn chí mềm mại, uyển chuyển hơn nhiều. Đặc biệt, sau mỗi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn39

trận đánh, mỗi sự kiện nổi bật, tác giả lại đưa ra một bài thơ hoặc một vài câu

Header Page 40 of 112.

34

thơ để đánh giá, khiến cho tác phẩm văn học sử trở nên trữ tình và hấp dẫn

hơn. Đồng thời với việc sử dụng các bài thơ, Nguyễn Khoa Chiêm còn có sự

kết hợp giữa các điển tích, điển cố nhằm tạo nên một tác phẩm văn chương

hoàn hảo, có chiều sâu. Việc kết hợp giữa ba yếu tố văn, sử, thơ dưới bàn tay

tài hoa của Nguyễn Khoa Chiêm đã khiến cho những sự kiện lịch sử cách đây

hàng mấy trăm năm trở nên sống động trước mắt độc giả nhiều thế hệ.

Đọc tác phẩm, ta còn thấy ngoài việc am hiểu về chính trị, ngoại giao,

các mưu lược trong chiến trận…, Nguyễn Khoa Chiêm còn thể hiện mình là

một người am hiểu về địa lý, về thế giới tâm linh, về tử vi…. Điều đó không

chỉ cho thấy tài năng, trình độ học vấn của tác giả mà còn giúp bạn đọc hiểu

được phần nào tầng lớp trí thức Việt Nam thời kì này.

Như vậy, nhờ vào tài năng và sự sáng tạo của mình, Nguyễn Khoa

Chiêm đã xây dựng thành công tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí.

Dưới góc nhìn tự sự, tác phẩm này có rất nhiều điều cần nghiên cứu và phân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn40

tích, đó sẽ là nhiệm vụ của luận văn ở những chương sau.

Header Page 41 of 112.

35

Chương 2

CẤU TRÚC TỰ SỰ CỦA NAM TRIỀU CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ

2.1. Cách xây dựng truyện

Nam triều công nghiệp diễn chí là tác phẩm được mệnh danh là cuốn tiểu

thuyết lịch sử chương hồi đầu tiên của Việt Nam, tác phẩm đã đạt được những

thành tựu nhất định về nội dung và nghệ thuật. Tuy nhiên, điều quan trọng

nhất làm nên giá trị của Nam triều công nghiệp diễn chí là đã phản ánh chính

xác và chi tiết lịch sử đương đại nước ta thời kì bấy giờ. Thật khó để có được

một cuốn tiểu thuyết mà vừa có thể coi là một tác phẩm văn học, vừa có thể

coi là một bộ sách lịch sử. Từ đầu, tác giả Nguyễn Khoa Chiêm đã xác định là

mình viết văn chứ không viết sử, việc đó thể hiện ngay ở tên tác phẩm, nhưng

những sự kiện ông đề cập đến lại khiến người đọc thấy nó có giá trị của một

pho sử lớn bởi tính chân thực, chính xác và hết sức cụ thể. Tuy còn một vài

tiểu tiết chưa thật sự chuẩn xác, song đó có thể coi là những sai số trong quá

trình thu thập, tổng hợp các dữ kiện của ông hoặc cũng có thể đó là sự hư cấu

nghệ thuật nhằm mang đến cho tác phẩm màu sắc văn chương.

2.1.1. Dung lượng truyện dài

Một tác phẩm văn học hay không phải được đánh giá bằng độ dài, ngắn

hay số trang, số quyển mà ở chất lượng nghệ thuật của nó. Nhưng độ dài,

ngắn của tác phẩm lại tạo nên tên gọi thể loại như: truyện ngắn, truyện dài,

truyện vừa, tiểu thuyết… Thông thường, truyện ngắn có dung lượng từ vài

dòng đến vài chục trang, còn tiểu thuyết rất khó dừng lại ở con số đó. Tiểu

thuyết thường nhiều hơn số trang là điều dễ hiểu, bởi vì chỉ trong một khối

lượng trang viết lớn, nó mới chứa đựng được nhiều vấn đề, bao trùm được

nhiều vấn đề lớn lao của cuộc sống đất nước. Rất nhiều nhà nghiên cứu cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn41

đã chỉ ra sự bao quát của thể loại tiểu thuyết lớn hơn truyện ngắn rất nhiều

Header Page 42 of 112.

36

trong quá trình sáng tác văn học. Nói như vậy để thấy có sự quy định về độ

dài ngắn cho mỗi thể loại văn học tự sự. Còn để đánh giá về giá trị của tác

phẩm đó thì lại dựa vào những nội hàm bên trong của tác phẩm.

Nam triều công nghiệp diễn chí là một tác phẩm có dung lượng truyện

dài. Tác phẩm gồm tám quyển và có sáu trăm ba mươi hai trang. Nguyễn

Khoa Chiêm vốn là một công thần của triều Nguyễn, lại được sinh sống trong

một gia đình quan lại, hơn nữa sau khi ông lấy vợ thì nhạc phụ của ông lại là

một chức quan lớn,có quyền bàn việc chính sự nên ông có điều kiện để tập

hợp những dữ kiện, tài liệu phục vụ cho quá trình viết lách của mình. Có thể

khẳng định rằng, trong số các tiểu thuyết lịch sử của nước ta, hiếm có tác

phẩm nào lại có sức truyền tải lớn như Nam triều công nghiệp diễn chí. Tác

phẩm đã đề cập đến tình hình đất nước trong một quãng thời gian dài với biết

bao sự kiện của cả hai Đàng. Đồng thời đó cũng là tiếng nói ngầm phê phán

sự chuyên quyền độc đoán của các thế lực phong kiến, vì lợi ích của bản thân

mình mà đem dân chúng bỏ vào cảnh nồi da xáo thịt.

Với dung lượng tám quyển tương đương với tám hồi lớn, đây là một bộ

tiểu thuyết có dung lượng truyện dài rất đáng chú ý. Mặc dù không thể sánh

nổi với các bộ tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc nhưng với chức danh

là tác phẩm mở đầu cho nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi đầu tiên của Việt

Nam thì đúng là một sự mở đầu đầy ấn tượng. Nếu đem so sánh với Tam quốc

diễn nghĩa, sở dĩ tác phẩm của La Quán Trung có dung lượng dài hơn hẳn,

bởi tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc thường có nguồn gốc từ các thoại

bản, hàng loạt thoại bản đã được tập trung lại và chỉnh sửa để thành một hệ

thống lớn, còn với Nam triều công nghiệp diễn chí, tác phẩm ghi chép lại một

thời kì lịch sử ở nước ta, với hầu hết những sự kiện chính nổi bật của giai

đoạn lịch sử từ 1627 đến 1672 qua những trận đánh lớn nhỏ khác nhau thì tác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn42

phẩm ngắn hơn là điều dễ hiểu. Tính chân thực cao, diễn biến lịch sử được

Header Page 43 of 112.

37

trình bày sinh động hoàn toàn nhờ vào sự sáng tạo của tác giả qua nghệ thuật

kể chuyện độc đáo khiến cho tác phẩm trở nên gần gũi, cuốn hút độc giả.

Tóm lại, với độ dài như Nam triều công nghiệp diễn chí đang có thì quả

thật đây là một tiểu thuyết lịch sử lớn, có giá trị đến từng chi tiết, sự kiện chứ

không phải dài vì những tình tiết thừa. Do vậy, có thể kết luận một lần nữa là

Nam triều công nghiệp diễn chí là tiểu thuyết lịch sử chương hồi có dung

lượng lớn, có giá trị lịch sử đặc biệt so với mặt bằng chung của tiểu thuyết

chương hồi của nước ta thời kì này.

2.1.2. Cốt truyện phức tạp

Bất cứ một tác phẩm tự sự nào cũng phải có cốt truyện, cốt truyện là yếu

tố quan trọng để câu chuyện hình thành và có ý nghĩa, vậy cốt truyện là gì?

Theo cuốn 150 thuật ngữ văn học của tác giả Lại Nguyên Ân, cốt truyện

là “sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác

phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình” [3,112]

Còn hiểu một cách giản dị thì cốt truyện là một chuỗi các sự việc làm

nòng cốt cho diễn biến câu chuyện hay cụ thể hơn cốt truyện là hệ thống sự

kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính

cách nhân vật trong tác phẩm văn học.

Thực ra, thuật ngữ cốt truyện đã được áp dụng lần đầu vào thế kỷ XVII

từ các nhà văn cổ điển chủ nghĩa P. Corneille và N. Boileau. Các nhà văn này

đã học theo cách nói của Aristoteles, muốn nói đến những sự cố bất thường

trong đời các nhân vật truyền thuyết xa xưa mà các nhà viết kịch thời sau

thường vay mượn.

Bản thân thuật ngữ cốt truyện của tiếng Việt thì từ cốt được hiểu như là

cái lõi, bộ xương, cái sườn, cơ sở của truyện chứ chưa phải là truyện. Đó là

một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó trỏ lớp biến cố của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn43

hình thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố đã tạo ra sự vận động của nội

Header Page 44 of 112.

38

dung cuộc sống được miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là

một phẩm chất có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các

nghệ thuật cùng loại. Trong các thể loại văn học, cốt truyện chính là thành

phần quan trọng thiết yếu của tự sự và kịch và có rất ít ở một số tác phẩm trữ

tình mang tính tự sự.

Cốt truyện có vai trò quan trọng bởi vì cốt truyện tạo ra một trường hành

động cho các nhân vật, cho phép tác giả thể hiện và lí giải tính cách của

chúng. Các hành động của nhân vật dệt nên cốt truyện, cốt truyện hay hoặc dở

một phần lớn ở phương diện hành động của nhân vật. Chức năng của cốt

truyện là bộc lộ các mâu thuẫn trong đời sống, tức là thể hiện xung đột.Có

nhiều kiểu cốt truyện khác nhau như kiểu cốt truyện biên niên và cốt truyện

đồng tâm, cốt truyện đơn tuyến hay cốt truyện đa tuyến.

Cốt truyện được xây dựng bằng nhiều biện pháp kết cấu khác nhau.

Trình tự thông báo với người đọc về các sự kiện diễn ra, việc nhấn mạnh

những liên hệ bên trong mang ý nghĩa và cảm xúc giữa các sự kiện là phạm vi

kết cấu cốt truyện. Lối kết cấu bằng trình tự liên tiếp trước sau của các sự kiện

khiến cho người đọc luôn thấy sự mới mẻ qua từng chi tiết. Ngoài ra, còn có

lối kết cấu đảo lộn trật tự thời gian của các sự kiện, nhằm chuyển sự chú ý của

người đọc từ sự việc sang nội tình bên trong nhân vật.

Các kết cấu cốt truyện được tạo ra theo nhiều cách khác nhau. Có loại cốt

truyện trong đó các sự kiện là kết quả hư cấu thuần túy của nhà văn nhưng

cũng có loại cốt truyện lấy nguyên mẫu từ đời sống thực như các loại cốt

truyện dựa trên các sự kiện lịch sử có thật hoặc loại cốt truyện dựa trên tiểu sử

bản thân nhà văn qua các tác phẩm tự truyện. Có những loại cốt truyện lại dựa

trên dấu tích các câu chuyện hình sự, hoặc cốt truyện vay mượn, được xây

dựng dựa vào một hoặc những cốt truyện văn học đã có sẵn nhưng được điều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn44

chỉnh theo mục đích của người viết.

Header Page 45 of 112.

39

Như vậy, trên cơ sở khái quát một số nét cơ bản về cốt truyện, trở lại với

tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, ta thấy tác phẩm có dung lượng lớn

như vậy thì đương nhiên là sự phức tạp của cốt truyện sẽ tỉ lệ thuận với độ dài

của tác phẩm. Đọc kĩ tác phẩm, người ta nhận thấy cốt truyện của Nam triều

công nghiệp diễn chí rất phức tạp với nhiều tình huống, nhiều sự kiện đan cài,

xen kẽ vào nhau. Điều này là do nội dung phản ánh của truyện là toàn cảnh xã

hội Việt Nam trong giai đoạn nội chiến lớn nhất trong lịch sử trung đại với

khoảng thời gian hơn một trăm năm, tác phẩm đã đề cập rất sâu rộng tình hình

đất nước ta trong giai đoạn này xoay quanh cuộc chiến của các thế lực phong

kiến tranh giành quyền lực, ngôi vị. Đó là cuộc chiến giữa nhà Lê với nhà

Mạc, rồi cuộc chiến giữa quân Nguyễn với quân Trịnh hay cuộc chiến yếu ớt

của vua Lê với chúa Trịnh , hay những cuộc xung đột tranh giành ngôi báu

của các tập đoàn phong kiến Đàng Trong và Đàng Ngoài. Với từng ấy nội

dung được truyền tải trong tám tập truyện, ta thấy cốt truyện thật sự phức tạp

và rắc rối. Chúng tôi xin tóm tắt lại nội dung cơ bản của tác phẩm qua từng

quyển để thấy được sự phức tạp và phong phú của cốt truyện Nam triều công

nghiệp diễn chí.

Ở quyển một, tác giả bắt đầu kể từ sự kiện Mạc Đăng Dung cướp ngôi

nhà Lê. Cựu thần nhà Lê là An Tĩnh hầu Nguyễn Kim dùng danh nghĩa Phù

Lê diệt Mạc chiêu binh mãi mã lập con vua Chiêu Tông là Lê Ninh lúc này

đang trốn ở Ai Lao về làm vua, lấy hiệu là Trang Tông. Nguyễn Kim sau đó

bị nhà Mạc hại chết, còn lại con trai là Nguyễn Hoàng cùng con rể là Trịnh

Kiểm tiếp tục sự nghiệp phò tá vua Lê. Trịnh Kiểm vì có ý muốn thâu tóm

quyền lực nên muốn hại em vợ, song Nguyễn Hoàng tìm kế xin vào trấn thủ

vùng Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa tìm cách dẹp được quân

Mạc, giành lấy phần đất đai phía Nam, bắt đầu sự nghiệp trấn thủ Thuận Hóa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn45

từ năm 1558. Trịnh Kiểm thấy vậy liền sai anh em quận Mỹ đánh Nguyễn

Header Page 46 of 112.

40

Hoàng nhưng không thành. Nguyễn Hoàng từ đó thu phục được nhân tâm của

dân hai xứ Thuận, Quảng. Năm 1570 Trịnh Kiểm qua đời, con trai là Trịnh

Tùng lên thay. Trịnh Tùng đã điều binh đánh bại quân Mạc vào những năm

1570, 1578, 1580 và năm 1593. Vua Lê Anh Tông qua đời, thái tử Duy Đàm

lên thay hay còn gọi là Lê Thế Tông. Thời gian này, vua Lê bắt đầu bạc

nhược, không dám tự ý quyết định việc triều chính mà mọi việc chủ yếu do

Trịnh Tùng quyết định.

Năm 1583, Mạc Hồng Ninh tiến đánh nhà Lê, Trịnh Tùng đã dẹp tan

quân Mạc. Năm 1591, Trịnh Tùng lại cất quân đánh dẹp Sơn Tây khiến cho

Mạc Hồng Ninh phải bỏ chạy về Đông Kinh. Đến năm 1593, Trịnh Tùng đã

lấy lại được Đông Kinh, rước vua Lê về Thăng Long, quân Mạc thua chạy,

Mạc Hồng Ninh bị bắt giết, nhà họ Mạc đều bị tiêu diệt chỉ trừ con của Mạc

Hồng Ninh là Mạc Đăng Mạo trốn thoát lên Cao Bằng tiếp tục tụ tập đồ đảng

xưng là Long Thái vương. Trịnh Tùng lại đem quân đánh tan nhà Mạc, cuối

cùng bắt giết được tông thất nhà Mạc là Mạc Hùng Lễ ở miền huyện Thanh

Lâm, từ đó dẹp yên được đồ đảng họ Mạc. Nhân cơ hội vua Lê trở về Thăng

Long, Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa ra chúc mừng và được vua Lê phong cho

chức Hữu Thừa tướng, đứng sau Trịnh Tùng. Đến năm 1595, Trịnh Tùng ép

vua Lê phong cho mình chức Đô Nguyên súy Tổng quốc Chính thái sư

Thượng phụ, tước Bình An vương và được phép mở vương phủ.

Năm Kỉ Hợi 1599, vua Lê Thế Tông qua đời, con trai là hoàng tử Lê Duy

Tân lên nối ngôi còn gọi là vua Lê Kính Tông. Do vua lúc lên ngôi còn nhỏ

nên Bình An vương Trịnh Tùng phải phụ giúp việc triều chính, nhân cơ hội

ấy, Trịnh Tùng thâu tóm quyền lực vào tay mình. Trịnh Tùng có ý muốn diệt

Nguyễn Hoàng để khỏi lo mối họa về sau, Nguyễn Hoàng biết vậy bèn dùng

kế ly gián cho hai tướng Bùi Văn Khuê và Phan Ngạn làm phản phóng hỏa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn46

đốt kinh thành. Nguyễn Hoàng ung dung trở về Nam. Trịnh Tùng phò giá vua

Header Page 47 of 112.

41

Lê đi chạy nạn trong Thanh Hoa đã trở về Thăng Long sau khi Bùi Văn Khuê

và Phan Ngạn chém giết lẫn nhau. Trịnh Tùng tiếp tục đem quân đi đánh dư

đảng nhà Mạc ở Nam Dương, dẹp yên được bảy huyện ở Hải Dương. Nguyễn

Hoàng sau khi trở về Nam cũng ra sức chăm lo cho muôn dân đồng thời cũng

ấp ủ mưu đồ việc lớn.

Năm Quí Sửu 1613, Nam chúa Đoan vương Nguyễn Hoàng qua đời, con

trai là Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên lên thay tiếp tục sự nghiệp của

cha, chăm lo cho muôn dân được yên ấm. Ở Đàng Ngoài thì thiên tai liên tiếp

xảy ra, dư đảng họ Mạc vẫn tiếp tục quấy phá khiến cho dân chúng bất an.

Trịnh Tùng phải cử con trai đi dẹp loạn nhà Mạc, đồng thời phải trấn an dân

chúng. Năm 1619, vua Lê Kính Tông muốn lật đổ Trịnh Tùng bèn câu kết với

con trai thứ của Trịnh Tùng là Vạn Quận công Trịnh Xuân lập mưu giết Trịnh

Tùng. Việc bất thành, Vua Lê Kính Tông bị Trịnh Tùng giết và lập thái tử Lê

Duy Kỳ lên ngôi hay còn gọi là vua Lê Thần Tông.

Quyển hai nội dung chủ yếu xoay quanh việc tranh giành quyền lực ở

triều đình Đàng Trong sau khi Nguyễn Hoàng mất năm 1620. Đó là sự ghen tị

của Văn Nham hầu và Thạch Xuyên hầu khi thấy Thụy Quận công được nối

ngôi chúa. Hai người bèn nhờ quân Trịnh vào giúp sức nhằm lật đổ Thụy

Quận công để cướp ngôi. Nhưng âm mưu ấy đã bị Tuyên Lộc – một vị tướng

giỏi phát hiện ra. Thụy quận công cho quân đi bắt sống anh em Văn Nham.

Từ đó, chúa Nguyễn giận quân Trịnh vì đã đem quân vào mưu lật đổ triều

Nguyễn để lấn át bờ cõi nên từ đấy không nộp thuế ra Kinh đô nữa mà giữ lại

nhằm chuẩn bị cho mưu đồ riêng. Năm Tân Dậu 1621, Nhà Mạc ở Cao Bằng

lại đánh xuống Kinh đô, bị quân của Vinh Quốc công đánh cho chạy tan tác.

Năm 1623, Trịnh Tùng ốm nặng, con cháu họ Trịnh thi nhau dùng kế để

giành ngôi chúa. Cha con Trịnh Đỗ đã dùng mưu đưa Trịnh Tùng về nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn47

riêng, rồi lừa giết Trịnh Xuân. Trịnh Tráng nghe tin bèn đem quân đi lánh ở

Header Page 48 of 112.

42

Ninh Giang đồng thời tranh thủ củng cố lực lượng. Sau khi Trịnh Tùng mất,

vì lo sợ thế lực của Trịnh Tráng nên cha con Trịnh Đỗ đến đầu hàng. Trịnh

Tráng lên ngôi chúa thay cha, sau này quận Thạch, con trai Trịnh Đỗ làm

phản đã bị Trịnh Tráng giết chết.

Năm 1624, Trịnh Tráng cho người vào Đàng Trong đòi thuế nhưng chúa

Nam lấy lí do mất mùa không nộp. Năm 1625, chúa Trịnh sai người lên Cao

Bằng dẹp loạn đảng họ Mạc, bắt được bè lũ nhà Mạc về Kinh đô, nhà Mạc xin

hàng để giữ mạng, tiếp tục tính kế về sau. Thời gian này xuất hiện nhân vật

Đào Duy Từ còn gọi là Lộc Khê là người tài giỏi nhưng lại là con nhà ca

xướng nên không được Bắc triều trọng dụng. Đào Duy Từ đã vào Nam tìm

cách tiếp cận với chúa Nguyễn và đã được chúa Nguyễn, tin dùng. Năm Bính

Dần 1626, chúa Trịnh lại sai người vào Nam đòi chúa Nguyễn nộp thuế, chúa

Nguyễn vẫn không nộp nên chúa Trịnh nổi giận quyết đem quân đi đánh phạt.

Năm Đinh Mão 1627, Thanh Đô vương dẫn quân đánh phạt xứ Nam, bắt đầu

cho một quá trình nội chiến lâu dài, hao người, tốn của. Chiêu Vũ Nguyễn

Hữu Dật dùng kế khiến cho quân Trịnh rút lui về Kinh đô.

Tiếp theo là sự kiện chúa Nam nghe theo lời của Đào Duy Từ cho đắp

lũy Nhật Lệ để làm kế cố thủ, giữ lấy tô thuế xung vào việc chi dùng để “mưu

tính khôi phục Trung đô”[8, 168]. Chúa Trịnh sai đóng quân ở châu Bố Chính

cố ý nhòm ngó vào chính sự của Nam triều. Ở Nam triều, con trai chúa

Nguyễn là Nguyễn Phúc Anh muốn tranh giành ngôi chúa bèn ngấm ngầm

nhờ Thanh Đô vương giúp đỡ. Tháng 10 năm 1633, Thanh Đô vương đem đại

binh đi đánh Nam Hà với mục đích kết hợp với quân của Nguyễn Phúc Anh

để lật đổ chúa Nguyễn nhưng không thành, quân Trịnh bị đánh thua chạy tan

tác, lại bị cướp mất phần đất ở châu Bố Chính. Nguyễn Phúc Anh từ đó rắp

tâm làm phản. Tháng 10 năm 1634, Đào Duy Từ qua đời được chúa Nam truy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn48

phong lập đền thờ phụng. Năm 1635, Sãi vương ốm nặng rồi qua đời, truyền

Header Page 49 of 112.

43

ngôi chúa lại cho con trai là Nguyễn Phúc Lan. Dương Nghĩa Hầu Nguyễn

Phúc Anh nghe tin không về chịu tang cha, chúa Nguyễn rất buồn ra lệnh bắt

sống giải về chứ không giáng tội chết vì vẫn nghĩ xót tình anh em. Ở Bắc

triều, Thanh Đô vương Trịnh Tùng cũng nghi ngờ và ghen tị với người em

mình là Trịnh Phúc nên lập mưu sai Trịnh Phúc lên Cao Bằng dẹp nhà Mạc

rồi sai người ngầm giết hại. Sự việc không thành, Trịnh Phúc cũng uất ức và

uống thuốc độc tự vẫn.

Năm Mậu Dần 1638, nhà Mạc ở Cao Bằng đánh xuống Thái Nguyên

nhưng cũng bị Thanh Đô vương đánh tan. Tháng 4 năm 1640, chúa Trịnh ban

quốc tính cho Hiền Quận công Nguyễn Khắc Tôn ở châu Bố Chính, từ đó y

sinh lòng kiêu ngạo muốn đoạt lấy Nam triều để lập làm chúa. Chúa Thượng

bèn lập mưu trừ Nguyễn Khắc Tôn. Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật dùng kế ly

gián khiến chúa Trịnh tự bắt giết Nguyễn Khắc Tôn. Sau khi biết mình mắc

mưu, chúa Trịnh vô cùng căm giận, muốn đem quân đánh phạt Nam triều. Ở

Nam triều, chúa Thượng bị người vợ góa của anh trai Khánh Mỹ Hầu mê

hoặc nên không quan tâm đến chính sự mà chỉ muốn ăn chơi hưởng thụ khiến

dân chúng oán thán. Ở thời điểm này, không nói đến việc chúa Thượng qua

đời năm 1648, con trai thứ hai là Hiền vương Nguyễn Phúc Tần nối ngôi.

Quyển bốn bắt đầu bằng sự kiện sau khi lên ngôi, Nguyễn Phúc Tần có ý

muốn mở mang bờ cõi, tiến quân ra Bắc. Năm 1655, thấy Hàn Tiến thường

xuyên đem quân quấy nhiễu vùng ven Bố Chính, chúa Nguyễn sai Chiêu Vũ

Nguyễn Hữu Dật và Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến cầm quân đi đánh dẹp.

Trong thế trận lần này, Hàn Tiến thua phải tháo chạy về Hẻm Nó, Chiêu Vũ

Nguyễn Hữu Dật muốn chiêu dụ Hàn Tiến nhưng không được bèn nổi giận

dùng kế ly gián, mượn tay họ Trịnh giết Hàn Tiến. Chúa Trịnh mắc mưu bèn

bắt Hàn Tiến về Kinh chịu tội, Hàn Tiến uất ức uống thuốc độc chết. Nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn49

Nguyễn chiếm được Nghệ An bèn dùng kế chiêu dân khiến dân tình ở Nghệ

Header Page 50 of 112.

44

An theo về rất đông. Quân Trịnh tiếp tục cho quân vào đánh chiếm Dinh Cầu

nhưng mắc mưu quân Nguyễn nên đại bại, binh sĩ chết rất nhiều, quân

Nguyễn thừa thắng xông ra phá tan doanh trại ở Lạc Xuyên rồi dẫn quân

thẳng đến cửa Kỳ La tiến đánh quân thủy. Quân Nguyễn thắng to, quân Trịnh

thảm bại phải cầu quân cứu viện. Đương Quận công Đào Quang Nhiêu dẫn

một vạn năm trăm nghìn quân vào tiếp ứng. Trận đầu giao chiến, quân Trịnh

thua bèn lui về cố thủ. Bên Nam, Chiêu Vũ cho người mang của cải ra bốn

trấn ở Đàng Ngoài làm thuyết khách chiêu dụ hào kiệt cùng họp sức đánh họ

Trịnh. Nhà Mạc ở Cao Bằng, quận Phấn ở hải Dương, Phạm Hữu Lễ ở Sơn

Tây đều nhất loạt đồng ý giúp chúa Nguyễn đánh ra thu phục Trung đô, đánh

dẹp họ Trịnh. Trên chiến trường, cuộc chiến giữa hai thế lực Trịnh – Nguyễn

diễn ra hết sức khốc liệt, quân Nam đánh cho quân Bắc thua chạy tan tác.

Quận Đương thua chạy xấu hổ về báo tin với triều đình, chúa Trịnh sai Ninh

Quận công Trịnh Tuyền đem quân vào tiếp ứng. Nhưng Trịnh Tuyền lại mắc

mưu Chiêu Vũ nên bị đánh thua chạy. Tình hình chiến trận cực kì hỗn độn.

Giữa lúc ấy, ở Thăng Long, Tây Định vương đang đau đầu tìm cách đối phó

với các thế lực trong và ngoài muốn đánh vào Kinh đô. Chúa Trịnh bèn nghĩ

kế đánh quận Phấn ở Hải Dương trước, Phạm Hữu Lễ biết tin ấy tìm cách lọt

vào phủ chúa Trịnh, chiêu mộ lòng người, định làm nội ứng cho quân Nam và

sai con trai vào làm con tin tại Nam triều.

Quyển năm bắt đầu từ sự việc con trai Phạm Hữu Lễ là Tú Phượng vào

Nam dâng chúa Hiền tờ khải cùng sổ ứng nghĩa của Phạm Hữu Lễ và những

người cùng chí hướng phù Nguyễn diệt Trịnh ngoài Bắc để bày tỏ lòng trung

thành và mong chúa Hiền sớm tiến ra Đàng Ngoài. Chúa Hiền rất mừng và

ban thưởng cho những người đó. Ngày 18 tháng 4 năm 1657, Thanh Đô

vương Trịnh Tráng mất, Tây Định vương Trịnh Tạc lên ngôi chúa. Chúa Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn50

ban đầu định nhân cơ hội này đem quân đánh xong lại nghĩ nếu tiến đánh

Header Page 51 of 112.

45

người đang có tang là bất nghĩa nên thôi. Ở Đàng Ngoài, Trịnh Tạc vừa lên

ngôi đã giết Ninh Quốc công Trịnh Tuyền rồi sai Phú Quận công Trịnh Căn

vào Nghệ An thống lĩnh binh quyền. Trịnh Căn dẫn quân đánh vào đồn lũy

của quân Nguyễn nhưng bị Nguyễn Hữu Dật đánh cho thua chạy và quân

Nguyễn chiếm đánh luôn lũy Đồng Hôn, Nghệ Tĩnh. Hai bên Trịnh – Nguyễn

còn đánh nhau mấy trận để tranh giành lũy Đồng Hôn này. Năm 1659, có bảy

vị nhân sĩ ở Đàng Ngoài vào Nam xin được theo phò chúa Nguyễn, nhân dịp

này chúa Nguyễn sai Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật cùng Thuận Nghĩa Nguyễn

Hữu Tiến bàn mưu tính kế, định ngày tiến quân ra Bắc.Tháng hai năm 1659,

Trịnh Căn sai người viết thư khiêu khích quân Nguyễn là “càn bậy tự phong

tước lớn, không đếm xỉa gì đến thiện ý của tiên vương, có ý định xâm lăng

thôn tính”[8, 403]. Chiêu Vũ và Thuận Nghĩa tức giận sai người viết thư

mắng trả, hai bên lời qua tiếng lại với nhau một thời gian đến tháng 5 năm

1659 mới chấm dứt. Bên Trịnh yếu thế hơn,vừa thẹn vừa tức sau đó sai người

mang lễ vật sang dụ dỗ Chiêu Vũ đầu hàng nhưng thất bại. Lúc bấy giờ, việc

cha con Ký Lục hồ Phạm Hữu Lễ bị lộ, chúa Trịnh sai người bắt giết cả họ

nhà Ký Lục hồ không sót một ai, sự việc này khiến cho kế hoạch tiến quân ra

Bắc của quân Nguyễn bị hoãn lại vì mất đi nội ứng. Chiêu Vũ tức giận bèn

viết thư bêu diếu Trịnh Tạc việc định dụ hàng mình, mắng họ Trịnh lừa dối

hại vua, tàn ngược dân chúng. Quân Trịnh tức giận liền sai Lan Quận công

dẫn quân tiến vào Nam. Lúc này quân Nam đã chiếm bảy tám châu ở Nghệ

An, thi hành nhiều luật lệ mới như tuyển chọn binh lính, thu thuế thân, đo

ruộng tính thóc để thu tô thuế, quấy nhiễu trăm họ nên phần nào cũng bị mất

lòng dân. Quân Trịnh nhân cơ hội đó cho người rải tờ rơi, tố cáo quân Nam,

làm dân lung lay theo quân Trịnh rất nhiều. Ngoài ra, vào thời điểm này, giữa

hai vị tướng giỏi của Nam triều là Chiêu Vũ và Thuận Nghĩa có bất đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn51

quan điểm dẫn tới bất hòa.

Header Page 52 of 112.

46

Quyển sáu bắt đầu từ sau khi quân Trịnh cố tình cho người rải tờ rơi làm

lay động lòng nhân dân thì tiết chế Thuận Nghĩa nghe tin có quân lính manh

tâm làm phản. Chiêu Vũ thì bị nghi ngờ rồi buồn rầu, lo nghĩ đến ốm yếu đi.

Thuận Nghĩa thấy quân mình không đủ mạnh để giữ Nghệ An nên đã quyết

định rút quân. Cũng do hai vị tướng có chuyện bất hòa với nhau mà trong trận

đánh năm 1660 ở bờ Bắc sông Lam, quân Nguyễn bị thua. Sau đó, quân

Nguyễn đóng quân ở bờ nam sông Lam. Trịnh Căn vì căm ghét Chiêu Vũ

năm lần bảy lượt bày kế khiến quân Trịnh bị thua bèn sai quân đánh úp muốn

bắt sống Chiêu Vũ rồi thừa cơ hội bắt luôn Thuận Nghĩa nhằm chặt đứt hai

cánh tay đắc lực của chúa Nguyễn. Chiêu Vũ biết được bèn dẫn quân chặn

đánh quân Trịnh khiến quân Trịnh thua to phải dẫn quân chạy trốn về đồn

cảng Phúc Châu. Đến tháng mười năm 1660, quân Nam đã chán nản với cuộc

chiến này, lòng dân thì ly tán không ủng hộ, lại thêm có số quân lính Bắc theo

hàng trước kia nay có ý làm phản nên Thuận Nghĩa muốn chém đi nhưng

Chiêu Vũ không đồng ý, muốn tiến hành đánh nhanh cho lòng quân và dân đỡ

chán. Thuận Nghĩa bề ngoài thì đồng ý nhưng bên trong ngầm có ý rút lui, sau

khi thất trận ở lũy Lũng Gió thì càng quyết tâm rút quân về Nam. Ngày hai

bảy tháng mười một năm 1660, Thuận Nghĩa một mặt truyền lệnh cho tướng

các đạo sửa soạn đem quân đánh nhau qua bờ bắc sông Lam lần nữa để thừa

cơ đánh thẳng ra Trung đô, một mặt lại dặn riêng các tướng đến canh ba tự rút

quân về địa giới phía nam châu Bố Chính, hẹn gặp nhau ở lũy Hoành Sơn,

nhưng lại không báo cho Chiêu Vũ biết nên Chiêu Vũ bị bỏ lại giữa vòng vây

của quân Trịnh. Chiêu Vũ phải bày kế nghi binh, bí mật rút ra ngoài nhằm

hướng Đèo Ngang đi gấp đến ngày hai mươi chín tháng mười một năm 1660

mới về đến lũy Hoành Sơn, lúc ấy quân Bắc có đuổi theo nhưng bị quân Nam

mai phục nên thua chạy về Bắc.

Tháng giêng năm 1661, Chiêu Vũ được chúa Hiền phong cho làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn52

Chưởng trấn, thủ dinh Bố Chính, đến tháng tám lại điều Chiêu Vũ về đóng ở

Header Page 53 of 112.

47

xã Phúc Lộc để tiện cho việc phòng thủ. Tháng mười một năm 1661, chúa

Trịnh sai con trai là Trịnh Căn đem quân vào đánh Đàng Trong trả thù việc

năm trước quân Nam xâm phạm bờ cõi. Quân Trịnh vượt sông Gianh tiến

thẳng về phía trấn dinh Bố Chính, chúa Hiền biết tin liền sai con trai thứ hai là

công tử Hiệp Đức Nguyễn Phúc Thuần đem quân đi chặn giặc. Quân Trịnh

lừa quân Nguyễn đưa sắc chỉ giả của vua để mở cổng thành nhưng không

được bèn nổi giận xua quân đánh gấp nhưng không địch nổi với quân Nam

bèn trở về đóng trại ở thôn Phúc Tự, chia quân đi đào đất đắp lũy để tạo thế

cầm cự cố thủ. Chiêu Vũ cho quân rút vào lũy Đồng Hới. Tháng giêng năm

1662, quân tướng bên Nam sau khi bàn bạc quyết định dùng kế dĩ dật đãi lao

nghĩa là lấy quân nhàn nhã đối chọi với quân mệt mỏi để đánh quân Trịnh. Từ

đó quân Nam án binh bất động, không đáp trả mọi hành động khiêu chiến của

quân Bắc. Quân Bắc viết thư nhục mạ Chiêu Vũ và yêu cầu Chiêu Vũ tự đầu

hàng để cùng tận hưởng phú quý nếu không sẽ lâm vào tình trạng đầu rơi máu

chảy. Chiêu Vũ vô cùng tức giận bèn bàn với nguyên súy Hiệp Đức tấn công

quân Trịnh. Nhân lúc trời tối, Chiêu Vũ tấn công, quân Trịnh bị bất ngờ khiếp

sợ bèn bỏ chạy cuống cuồng về phía Bắc, nhưng quân Nam lại bất ngờ đánh

chặn, quân Bắc càng hoảng loạn thi nhau chạy về Kinh đô chịu tội. Sau chiến

thắng này, chúa Hiền lại hạ lệnh cho đẵp lũy ở xã Trấn Ninh để bảo vệ cửa

biển cùng với lũy Động Cát làm thành thế ỷ dốc để sẵn sàng cố thủ. Tháng

mười hai năm 1662, vua Lê Thần Tông qua đời, Lê Huyền Tông lên nối ngôi.

Tháng hai năm 1664, Thuận Nghĩa do tuổi cao sức yếu xin từ quan, Chiêu Vũ

lên thay thế giữ chức Tiết chế Trấn thủ đạo Lưu Đồn. Tháng hai năm 1666,

chúa Hiền cho xây dựng chùa trên núi Cổ Rùa ở bãi cát Trường Sa. Tháng

tám năm 1666, Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến qua đời, được truy tặng Hiệp

Mưu tá Lý công thần Trung quân Đô đốc phủ Chưởng phủ sự Đại Đô đốc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn53

tước Thuận Quận công.Từ năm 1668, chúa Hiền liên tục cho tu sửa kênh

Header Page 54 of 112.

48

mương, ruộng đồng, chú ý phát triển nông nghiệp, nên mùa màng tốt tươi.

Năm 1671, Bắc triều lại sai người vào đòi cống nộp sản vật và tô thuế nhưng

chúa Nam không nghe khiến Tây Định vương Trịnh Tạc nổi giận định dấy

binh đánh phạt nhưng do điều kiện không phù hợp nên đành thôi. Chúa Trịnh

tích cực tranh thủ lấy lòng dân trong vùng và cầu thân với các nước Ô Lan,

Hoa Lang, Nhật Bản để chuẩn bị đánh Nam triều.

Quyển bảy bắt đầu từ năm Nhâm Tý 1672, Tây Định vương Trịnh Tạc

truyền lệnh điểm mười vạn quân nhưng lại nói lên mười tám vạn quân, đích

thân chỉ huy, kéo vua Lê đi cùng tiến vào và chiếm đất phía Nam. Tại đây,

diễn ra trận giao chiến lớn nhất trong Nam triều công nghiệp diễn chí. Chúa

Hiền phong cho công tử Hiệp Đức làm Nguyên súy cầm quân đánh địch.

Tháng bảy năm 1672, quân Trịnh đóng ở phía bắc sông Gianh tiến vào địa

giới xứ Nam. Trận đầu ra quân, Tây Định vương giành chiến thắng đem quân

vào đóng ở doanh Bố Chính, từ đó hai bên cố thủ không ra đánh. Chúa Hiền

họp bàn tìm kế đánh địch, muốn lợi dụng việc quân Trịnh đánh xa mệt mỏi và

địa thế hiểm trở ở đất Nam để chiếm ưu thế. Đồng thời, lại cho tuyển thêm

quân ở hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam rồi nói phao lên là có hai mươi sáu

vạn quân, nhằm uy hiếp tinh thần quân Trịnh.

Ngày hai mươi ba tháng chín năm 1672, Hiền vương đem đại quân đi

tiếp ứng cho đội quân của công tử Hiệp Đức đang cự nhau với địch. Bên quân

Trịnh, Tây Định vương từ khi đóng quân ở Bố Chính vẫn chưa đánh trận nào,

chỉ cố thủ sai lính đắp hào lũy để phòng thủ và nghe ngóng tình hình bên Nam

là chính. Tướng bên Nam là Vân Trường do chủ quan nên dẫn quân đánh

quân Bắc nhưng đại bại.Từ đó hai bên lại lui về cố thủ không giao chiến nữa.

Đến ngày hai mươi tháng mười một năm 1672, quân Bắc tiến đánh thành Trấn

Ninh, tại đây hai bên hỗn chiến quyết liệt, quân Bắc quyết tâm phá thành,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn54

quân Nam kinh sợ phải cầu cứu Hiệp Đức và Chiêu Vũ. Hai bên giao chiến

Header Page 55 of 112.

49

quyết liệt và thương vong rất nhiều,tâm trạng quân lính thì hoang mang lo sợ

và oán hận thế lực cầm quyền nhất là phía quân Trịnh do lính chết quá nhiều.

Trịnh Căn trúng gió nằm liệt giường phải đưa về Kinh gấp. Chúa Trịnh xét

thấy tình hình tướng sĩ đau ốm chết chóc nhiều mà lòng quân thì mệt mỏi,

thêm nữa dân ở bốn trấn ngoài Bắc có nhiều kẻ manh nha làm phản nên bàn

với vua Lê cho rút quân về điện Phù Lộ phía bắc sông Gianh. Tuy rút về Phù

Lộ nhưng trong lòng Tây Định vương vẫn vô cùng căm tức quân Nam nên

ngày mùng chín tháng mười hai năm 1672, đến doanh Bố Chính truyền lệnh

cho quân sĩ phải dốc sức đánh một trận lớn. Quân Nam thấy vậy dùng kế hư

trương thanh thế khiến quân Trịnh vô cùng kinh sợ. Quân Bắc định dùng kế

lừa quân Nam nhưng không thành. Đến ngày mười ba tháng mười hai năm

1672, quân Bắc cho đem súng lớn đến dàn trước thành Trấn Ninh bắn dồn dập

vào thành, hai bên giao chiến lớn. Tướng bên Trịnh thấy không hạ nổi thành

liền bỏ mặc quân lính ẩn nấp dưới hầm mà trốn về bờ bắc sông Gianh, đến khi

quân sĩ biết tướng đã chạy cũng đồng loạt hạ cờ, vứt súng đạn tranh nhau tháo

chạy, dẫm đạp cả lên nhau, chết nhiều không đếm xuể. Trận Trấn Ninh kết

thúc, quân Nam đại thắng. Tháng hai năm 1673, chúa Hiền truyền lệnh đem

quân về Phú Xuân.

Quyển tám bắt đầu từ tháng chín năm 1672, Tây Định vương Trịnh Tạc

khi đem quân đi đánh xứ Nam thì phò mã thứ hai là quận Tiến thấy trong

nước bỏ không bèn có ý làm loạn để đoạt lấy ngôi chúa. Tây Định vương

nghe tin ấy tức tốc trở về, bắt và tra hỏi quận Tiến mọi chuyện rồi xử phạt

quận Tiến cùng em trai bằng biện pháp lăng trì. Ở Đàng Trong, sau trận đại

chiến, chúa Hiền miễn thuế ba năm cho dân ở vùng bắc Bố Chính và huyện

Khang Lộc để nhân dân yên bề làm ăn, khắc phục hậu quả chiến tranh. Năm

1673, quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Đài muốn làm phản, không muốn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn55

cống nộp cho Nam triều nữa bèn sai sứ giả sang cầu viện Xiêm La giúp mình,

Header Page 56 of 112.

50

nhân đó nói phao lên rằng vua Xiêm La chuẩn bị đem quân sang đánh. Em

trai Nặc Ong Đài là Nặc Nộn chạy sang Nam triều cấp báo. Chúa Hiền biết tin

nổi giận, tháng tư năm 1674, sai quân tiến đánh sang đất Cao Miên, bị đánh

bất ngờ, Nặc Ong Đài bỏ chạy, Nặc Thu xin hàng, nguyện làm phiên thần mãi

mãi, hàng năm tiên cống cho Nam triều.

Tháng tư năm 1675, chúa Hiền mở khoa thi chọn kẻ sĩ, tuyển được hơn

ba mươi người thuộc hạng hoa văn. Tháng sáu năm 1675, công tử Hiệp Đức

qua đời ở tuổi ba mươi ba, Hiền vương đau xót sắc phong con là Minh nghĩa

Tuyên lực Công thần Khai quốc sự, thiếu úy Hiệp quận công Nguyễn Phúc

Thuần. Ở Bắc triều, khi thấy Hiệp Đức qua đời thì rất lấy làm mừng vì bớt

được một gánh lo. Tháng hai năm 1679, chúa Hiền lại cho quan khâm sai văn

võ đi tuyển duyệt quan lại ở hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam. Cùng năm đó

có một đoàn tàu thủy do tướng quân Dương Ngạn Địch nước Minh vì thua

quân Thanh chạy trốn, lại gặp bão nên dạt vào hải phận Nam triều. Dương

Ngạn Địch cầu xin một chốn nương thân được chúa Hiền thương tình giúp đỡ.

Ngày mười tám tháng hai năm 1681, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật đột ngột

lâm bệnh đến ngày mùng ba tháng ba năm 1681 thì qua đời thọ 78 tuổi. Chúa

Hiền vô cùng thương tiếc và sắc phong cho là Tán trị Tĩnh nạn Công thần, Tả

quan Đô đốc, Chiêu Quận công để đề đáp công lao bậc huân thần, cho dùng

nghi lễ tước công, an táng tại núi Yên Đại, Quảng Bình.

Tháng năm năm 1681, chúa Hiền cho đắp hai đài ngự để hàng năm đua

ngựa. Tháng hai năm 1684, chúa lại sai các quan đi tuyển quân ở hai xứ

Quảng Nam và Thuận Hóa. Tháng ba năm 1684, ở Bắc triều, Tây Định vương

Trịnh Tạc mất, Phú Quận công Trịnh Căn nối vị lúc đau ốm phải nằm ngự

triều mà chấp chính. Chúa Hiền thấy vậy có ý muốn đánh ra Trung đô, nhưng

do trong xứ mất mùa nên đành bỏ ý định ấy. Năm 1684, con trai trưởng của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn56

chúa Hiền là Phúc Mỹ hầu Nguyễn Phúc Diễn mất, thọ 45 tuổi. Tháng bảy

Header Page 57 of 112.

51

năm 1685 công tử thứ tư là Cương Lĩnh hầu cũng qua đời. Tháng ba năm

1687, Chúa Hiền qua đời, thọ 68 tuổi, ở ngôi bốn mươi năm, con trai là

Hoằng Quốc công Nguyễn Phúc Trăn nối ngôi gọi là chúa Nghĩa. Năm 1688,

vua Cao Miên là Nặc Thu làm phản nên năm 1689, chúa Nghĩa sai quân đi

dẹp loạn. Truyện Nam triều công nghiệp diễn chí kết thúc ở đây, khép lại một

thời kì lịch sử tang thương của đất nước ta – thời kì Trịnh Nguyễn phân tranh.

Như vậy, tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí đã tái hiện toàn bộ

lịch sử nước nhà trong hơn một trăm năm với biết bao sự kiện, và hàng loạt

trận đánh khốc liệt. Có thể nói, với dung lượng dài như vậy, tác phẩm đã

truyền tải được một nội dung vô cùng to lớn. Nguyễn Khoa Chiêm quả là một

tài năng thiên bẩm khi ông vừa góp nhặt, vừa xây dựng thành một câu chuyện

lịch sử bề thế và hoành tráng như vậy. Đọc tác phẩm, ta thấy cuốn hút hấp dẫn

chứ không hề khô khan cứng nhắc như những câu chuyện lịch sử khác, chứng

tỏ sự sáng tạo tuyệt vời của tác giả.

2.2. Tự sự về thế giới nhân vật

2.2.1. Thế giới nhân vật

Nhân vật là phạm trù cơ bản của văn học. Trong nghiên cứu phê bình và

lí luận văn học, nhân vật là một khái niệm quen thuộc, thiết yếu. Ở tiểu thuyết

truyền thống, các nhân vật thường được xây dựng theo công thức bao gồm tên

gọi, tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách... Theo đó, nhà văn sẽ xây dựng nhân vật

từ những đường nét ngoại hình đến tính cách, hành động, tâm trạng… để các

nhân vật trở thành những hình tượng sống động.

Nhân vật văn học chính là con người được miêu tả, thể hiện trong văn

học bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về

con người và nhân vật chính là sản phẩm của tư duy nghệ thuật, sự sáng tạo

của nhà văn nhằm thể hiện một tư tưởng cụ thể.

Nhân vật văn học có thể là những con người giống như thật hoặc có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn57

nguyên mẫu ở ngoài đời, cũng có khi là những nhân vật do nhà văn hư cấu

Header Page 58 of 112.

52

tưởng tượng ra hoặc cũng có thể là các sự vật, hiện tượng trong đời sống…

nhưng mang dáng dấp, tâm hồn con người, được miêu tả cụ thể hoặc khái

quát và rất sinh động.

Nhân vật là yếu tố quan trọng cấu thành tác phẩm, nếu không có nhân vật

sẽ không có tác phẩm văn chương. Nhân vật nhiều khi là hình thức nghệ thuật

ước lệ để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng, và qua nhân

vật nhà văn cũng muốn gửi gắm quan niệm nghệ thuật và tư tưởng thẩm mỹ

của mình về con người và cuộc đời.

Xét về mặt kết cấu, ta có các loại nhân vật như: nhân vật chính, nhân vật

phụ, nhân vật trung tâm…

Còn xét về phương diện tư tưởng, ta có nhân vật chính diện, nhân vật

phản diện, tích cực, tiêu cực… Cách phân loại này dựa vào những mâu thuẫn

đối kháng trong xã hội.

Trong tác phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí, ta thấy hệ thống nhân

vật rất lớn, hầu hết là những nhân vật có thực ngoài đời được tác giả đưa vào

truyện. Ngoài những nhân vật ở vị trí đỉnh cao của xã hội như vua, chúa, còn

có những nhân vật anh hùng nổi tiếng trong lịch sử như Phùng Khắc Khoan,

Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật… Đó là những con người có thật và rất quen

thuộc trong lịch sử Việt Nam ta ở thời kỳ này.

Đầu tiên phải kể đến là các vị vua nhà Lê. Kể từ sau khi bị nhà Mạc cướp

ngôi rồi được các công thần giúp sức lấy lại ngôi báu, sau đó được họ Trịnh

giúp đỡ rất nhiều khi gây dựng lại triều đình thì các vị vua Lê dần dần trở nên

mờ nhạt, họ trở thành những con bù nhìn cho nhà Trịnh giật dây, điều khiển.

Duy nhất có vua Lê Kính Tông định lật đổ họ Trịnh thì bị phát hiện và giết

chết. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, ta thấy sự xuất hiện của các vị

vua Lê rất đúng với ghi chép trong các bộ sử cũ.

Vua Lê Chiêu Tông là vị vua xuất hiện đầu tiên trong tác phẩm nhưng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn58

sau đó bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi, Chiêu Tông phải chạy về Thanh Hóa và

Header Page 59 of 112.

53

tại đây ông đã thu thập tàn binh rồi tìm cách lấy lại Kinh đô nhưng ông đã bị

Mạc Đăng Dung bắt và giết hại.

Sau Lê Chiêu Tông là vua Lê Trang Tông tức Lê Ninh, con của Lê Chiêu

Tông là vị vua may mắn thoát chết khi cùng mẹ chạy trốn sang Ai Lao và sau

này được An Tĩnh hầu Nguyễn Kim tìm thấy, đón về đưa lên làm vua.

Sau Lê Trang Tông là vua Lê Anh Tông trị vì được mười bảy năm, thọ

bốn mươi hai tuổi. Vị vua này cũng không có quyền lực trong tay, chính sự

vẫn do phủ chúa quyết định.

Vua Lê Duy Đàm hay còn gọi là Lê Thế Tông, con trai vua Lê Anh

Tông, lên ngôi khi mới bảy tuổi, mọi việc vẫn giao cho Trịnh Tùng xem xét.

Vua trị vì hai mươi bảy năm, mất năm 1599 thọ ba mươi tư tuổi. Lê Duy Đàm

là vị vua đầu tiên trở về Kinh đô Thăng Long năm 1593, sau thời kì bị nhà

Mạc cướp ngôi phải chạy về đất Thanh Hóa.

Sau Lê Duy Đàm là vua Lê Duy Tân, con trai thứ hai của vua Quang

Hưng, lấy niên hiệu Thuận Đức, sau đổi lại là Hoằng Định vào năm 1619.

Vua Kính Tông là vị vua duy nhất của triều Lê không muốn là ông vua bù

nhìn và chịu cảnh họ Trịnh thâu tóm nên đã liên kết với Trịnh Xuân, con trai

Trịnh Tùng mưu giết Trịnh Tùng nhưng không thành. Vua bị thắt cổ chết, vứt

xác ra ngoài sân chầu.

Vua Lê Duy Kỳ hay còn gọi là vua Lê Thần Tông là con trai vua Lê Kính

Tông. Khi lên ngôi, lấy niên hiệu là Vĩnh Tộ, sau này đổi thành Khánh Đức

Vua Lê Duy Vũ niên hiệu Cảnh Trị tên khác là Lê Huyền Tông; Lê Duy

Cối tức Lê Gia Tông; Lê Duy Cáp tức Lê Hy Tông đều là những ông vua hết

sức mờ nhạt trong thời kì Lê Trung hưng nên rất ít xuất hiện trong tác phẩm.

Mặt khác, các ông vua này hầu hết khi lên ngôi còn rất trẻ, mọi việc triều chính

vẫn trong tay phủ chúa quyết định, họ hầu như chỉ là bù nhìn cho nên không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn59

được nhắc đến nhiều trong tác phẩm.

Header Page 60 of 112.

54

Như vậy, các vị vua triều Lê được đưa vào tác phẩm rất đúng so với các

sách lịch sử ghi lại. Điều này cho thấy tác giả đã rất tôn trọng lịch sử và có ý

thức xây dựng một tác phẩm văn học nhưng vẫn gắn chặt với lịch sử.

Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, các nhân vật triều Mạc cũng

chiếm một vị trí khá quan trọng. Nhà Mạc bắt đầu khi nhà Lê suy yếu, Mạc

Đăng Dung nổi dậy cướp ngôi. Thời gian đầu mới lên ngôi, nhà Mạc cũng giữ

quyền hành trong cả nước nhưng sau đó lại bị họ Trịnh đánh bại, nhà Mạc

thua phải bỏ chạy về Cao Bằng. Sau khi nhà Lê và họ Trịnh đã lấy lại được

Kinh đô, thi thoảng nhà Mạc lại kéo quân xuống đánh nhưng đều thất bại

thảm hại. Lần sau cùng tấn công Lê – Trịnh, Mạc Kính Cung thua và phải

chạy sang biên giới. Trong tác phẩm, nhà Mạc không được khắc họa nhiều và

mô tả chi tiết song cũng có một vài nhân vật được tác giả nói đến, đó hầu hết

là những nhân vật mà lịch sử cũng đã ghi chép như vua Mạc Đăng Dung là vị

vua đầu tiên của nhà Mạc là người gây dựng lên nhà Mạc bằng con đường

tiếm ngôi nhà Lê.

Vua Mạc Mậu Hợp niên hiệu là Sùng Khanh lên ngôi khi mới tròn hai

tuổi cũng chưa có phát kiến gì mới để xây dựng đất nước. Vị vua này sau đó

bị Trịnh Tùng giết và nhà Mạc bị lật đổ từ đây. Những đời vua Mạc về sau chủ

yếu lưu vong khắp nơi trên đất nước và thậm chí ra cả nước ngoài.

Khi Mạc Mậu Hợp lên ngôi còn quá nhỏ thì Tể tướng Diễn Quốc công

Mạc Kính Điển đã thay thế vua điều hành việc triều chính một thời gian.

Trong thời gian này, nhà Mạc thường đem quân đánh nhà Trịnh đang đóng ở

Thanh Hóa.

Mạc Đăng Mạo là con Mạc Mậu Hợp, sau khi nhà Mạc mất, Mạc Đăng

Hạo trốn lên Cao Bằng lập cơ sở và xưng tên hiệu là Long Thái vương.

Mạc Kính Chỉ con Tể tướng Mạc Kính Điển được đồ đảng họ Mạc ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn60

Thanh Lâm lập lên làm vua lấy niên hiệu là Khang Hựu. Sau này, Mạc Kính

Header Page 61 of 112.

55

Chỉ bị Trịnh Tùng bắt được và chém đầu, từ đó dư đảng nhà họ Mạc tạm thời

không dám nổi dậy nữa.

Mạc Kính Cung là vua Kiền Thống bị Trịnh Tùng đánh sang biên giới.

Ông vua này từng xưng vương ở Hải Dương.

Mạc Kính Khoan là Mạc Khánh vương, xưng vương ở Cao Bằng, đã

từng đem quân đi đánh nhà Lê nhưng toàn thất bại lại chạy về Cao Bằng, mãi

tới tháng giêng năm 1625, trong một trận đánh với nhà Lê bị thua to phải xin

hàng thì từ đó trở đi mới tạm yên vị không dám đánh quân Trịnh nữa. Ngoài

ra, còn có hai đời vua Mạc nữa là Mạc Kính Vũ niên hiệu Thuận Đức và Mạc

Kính Hoàn niên hiệu Thịnh Đức, hai vị vua này vẫn không hết hi vọng giành

lại ngôi báu từ nhà Lê nên thỉnh thoảng lại dấy quân đánh nhà Lê nhưng đều

thất bại.

Cũng giống như các vị vua triều Lê, các vị vua họ Mạc cũng xuất hiện

khá mờ nhạt trong tác phẩm, mọi sự trọng tâm chú ý hầu như được dồn hết

cho các nhân vật phía nhà Trịnh và nhà Nguyễn.

Về phía dòng họ Trịnh, từ khi phò tá vua Lê giành lại chính quyền và

giúp đỡ vua Lê dựng nước rồi dần dần tiếm quyền của vua Lê thì nhà Trịnh đã

trải qua năm đời chúa, từ Trịnh Kiểm cho đến Trịnh Căn. Họ hầu hết là những

nhân vật nổi tiếng được ghi danh trong lịch sử, nhưng trong tác phẩm của

Nguyễn Khoa Chiêm thì những vị chúa này hiện lên vô cùng chân thực, gần

gũi với bạn đọc. Nhân vật đầu tiên ta phải kể đến là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm

vốn là con rể của An Tĩnh hầu Nguyễn Kim, tức Thái sư Minh Khang vương.

Trịnh Kiểm cũng là một trong những đại thần có công phò tá vua Lê giành lại

ngôi từ nhà Mạc. Sau khi vua Lê lên ngôi, Nguyễn Kim bị dư đảng nhà Mạc

đầu độc chết, Trịnh Kiểm trở thành người phò tá đắc lực cho vua Lê song

càng ngày Trịnh Kiểm càng thâu tóm quyền lực vào tay mình, chèn ép vua Lê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn61

trở thành bù nhìn và dần biến bộ máy cai trị đất nước thành một bộ máy kì lạ

Header Page 62 of 112.

56

là có vua và có chúa. Việc làm đó khiến nhân dân lâm vào cảnh một cổ hai

tròng vô cùng khốn khổ. Trịnh Kiểm là người tính toán và lạnh lùng, khi lo sợ

Nguyễn Hoàng, con Nguyễn Kim giỏi giang hơn mình, có thể sẽ lấn át mình

nên đã tìm cách để tiêu diệt. Nguyễn Hoàng đã đoán ra được âm mưu ấy nên

tìm cách trốn vào Đàng Trong.

Sau Trịnh Kiểm, vị chúa thứ hai được tác giả đưa vào tác phẩm là Trịnh

Tùng. Trịnh Tùng là con trai Trịnh Kiểm, tức Bình An vương. Đây là vị chúa

giỏi, có tài cầm quân, thao lược tốt, nhiều lần giúp nhà Lê đánh tan các cuộc

tấn công của nhà Mạc. Chúa ở ngôi năm mươi tư năm, mất năm 1620.

Sau Trịnh Tùng là Trịnh Tráng, tức là Thanh Đô vương, là vị chúa thứ ba

của nhà Trịnh cũng là người đầu tiên khai mào cuộc nội chiến Nam – Bắc

triều vào năm 1627. Sau đó còn tiếp tục đem quân giao chiến với nhà Nguyễn

thêm mấy lần nữa nhưng đều thất bại. Đây là vị chúa hiếu chiến nhưng lại

không có tài cầm quân như Trịnh Tùng nên hầu hết các lần ra quân của Trịnh

Tráng đều thua trận, gây tổn thất lớn cho cả triều đình. Nhân dân cũng phải

gánh chịu những hệ lụy của các trận chiến đó.

Vị chúa thứ tư là Trịnh Tạc, con trai Trịnh Tráng, tức là Tây Định vương.

Khi lên ngôi chúa, Trịnh Tạc cũng hai lần dẫn quân đi đánh nhà Nguyễn. Đặc

biệt là trận đánh lớn nhất năm 1672,Trịnh Tạc đích thân cầm quân nhưng sau

bảy lần tiến công, Trịnh Tạc phải cuốn cờ rút quân lui về miền Bắc, từ đó

chấm dứt cuộc nội chiến Nam – Bắc triều.

Vị chúa cuối cùng xuất hiện trong tác phẩm là Trịnh Căn. So với các vị

chúa khác, Trịnh Căn không nổi bật, mà được miêu tả khá mờ nhạt bởi khi lên

ngôi chúa thì Trịnh căn đang bị trúng gió ốm nặng trong trận giao chiến với

nhà Nguyễn.

Nhìn chung, các vị chúa Trịnh được miêu tả trong tác phẩm đều là những

kẻ tiếm quyền, độc ác, tàn nhẫn, lạnh lùng. Hầu như tác giả không dành tình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn62

cảm hay ưu ái nào cho những nhân vật này.

Header Page 63 of 112.

57

Khác với các chúa Trịnh, khi miêu tả các đời chúa Nguyễn, Nguyễn

Khoa Chiêm có cái nhìn và giọng điệu nhẹ nhàng hơn nhưng cũng không

hoàn toàn ca ngợi một chiều mà cũng có chỉ ra những sai lầm, những thiếu sót

và những điều chưa làm được của họ. Đó là cái nhìn khách quan khi xây dựng

nhân vật theo cách lấy nhân vật nguyên mẫu đem nguyên vào tác phẩm của

mình. Bởi xét theo một góc độ khác thì tác phẩm này cũng được coi như một

pho sử thời kì này. Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tác giả đã kì công

xây dựng hơn hai trăm nhân vật gắn liền với dòng họ Nguyễn nhưng tiêu biểu

nhất phải kể đến là năm vị chúa Nguyễn và các thuộc hạ thân cận như Nguyễn

Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến, Đào Duy Từ…

Vị chúa Nguyễn đầu tiên phải nhắc đến là chúa Tiên Nguyễn Hoàng.

Nguyễn Hoàng là con trai An Tĩnh hầu Nguyễn Kim. Sau khi Nguyễn Kim

mất, Trịnh Kiểm lo sợ Nguyễn Hoàng sẽ lấn át mình nên tìm kế trừ đi.

Nguyễn Hoàng bèn tìm cách thoát vào vùng Thuận Quảng. Sau đó, gây dựng

một cơ ngơi vương triều riêng ở Đàng Trong. Nguyễn Hoàng được miêu tả là

một vị chúa tài ba, đức độ, thương dân như con, chăm lo cho dân có cuộc

sống an bình. Ở thời điểm đó, Nguyễn Hoàng chưa công khai chống lại triều

đình Lê – Trịnh, ông vẫn thực hiện nghĩa vụ phiên thần, thuế khóa đầy đủ.

Khi Trịnh Kiểm mất, ông vẫn phúng điếu chu đáo. Khi nhà Lê thu phục lại

được Kinh đô, Nguyễn Hoàng cũng ra chúc mừng và ở lại đây một thời gian

dài mới trở về Thanh Hóa. Nhìn chung, Nguyễn Hoàng là vị chúa có tài cai

trị, thời gian ở ngôi chúa, ông đã giúp nhân dân Đàng Trong có cuộc sống ấm

no, hạnh phúc, thái bình thịnh vượng.

Vị chúa thứ hai được nhắc đến trong tác phẩm là chúa Nguyễn Phúc

Nguyên hay còn gọi là Sãi vương, là con trai thứ sáu của Nguyễn Hoàng, kế

nghiệp năm 1613. Từ đời chúa Sãi trở đi, Nam triều bắt đầu trở mặt với Bắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn63

triều khi Sãi vương không chịu nộp tô thuế ra Bắc nữa với lí do là mất mùa.

Header Page 64 of 112.

58

Sự thật là do Trịnh Tráng đã câu kết với hai em trai của Sãi vương để lật đổ

ông, vì vậy Sãi vương mới nuôi ý định thu phục Trung đô và tiếp tục phò tá

sự nghiệp cho vua Lê. Chính vì thế, chúa đã ra lệnh tích trữ tiền của, lương

thảo để đợi thời cơ thuận lợi sẽ ra tay. Chúa Sãi được đánh giá là vị chúa có

tài cầm quân, sáng trí lại có lòng yêu thương dân chúng. Thời kì ông trị vì,

cuộc sống nhân dân Đàng Trong cũng được ấm êm hạnh phúc. Ngoài ra, chúa

còn nổi tiếng là người anh minh, biết thu phục và trọng dụng người hiền tài,

cho nên chúa lại càng có sự hậu thuẫn, giúp đỡ của những viên tướng tài giỏi

trong công cuộc đấu tranh mở mang bờ cõi, diệt Trịnh và phò tá cơ nghiệp

vua Lê.

Vị chúa thứ ba là chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan là con trai của chúa

Sãi, sinh năm 1601 mất năm 1648, lên ngôi chúa năm 1635. Trong Nam triều

công nghiệp diễn chí, chúa Thượng là người ân đức, yêu dân, gần gũi với

quan tướng. Nhưng chúa lại là người đam mê sắc dục nên có chuyện chúa tư

thông với vợ góa của anh trai mình là Khánh Mỹ hầu nên để Tống thị tự tung

tự tác. Điều này có nhắc tới trong tác phẩm nhưng do phải giữ đạo quân thần

nên tác giả không dám nói nhiều.

Vị chúa thứ tư là chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, là con trai thứ hai của

chúa Thượng, kế nghiệp năm 1648. Ông là vị chúa đầu tiên có sách lược sai

quân đi đánh quân Bắc vào năm 1655, còn những lần giao tranh trước đều là

do quân Bắc khai mào, dẫn quân vào đánh trước. Trận đánh này là trận đánh

diễn ra lâu nhất trong lịch sử chiến tranh Nam – Bắc triều từ năm 1655 đến

năm 1600 khiến cho dân chúng hai Đàng kiệt quệ, khổ sở. Chúa Hiền được

miêu tả là vị chúa có chí lớn, có tài nhìn xa trông rộng, thu phục được bảy tám

châu huyện, anh hùng hào kiệt theo về rất nhiều.

Vị chúa thứ năm được nhắc đến là chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn, con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn64

trai thứ ba của Nguyễn Phúc Hiền. Trong tác phẩm không nói nhiều về ông

Header Page 65 of 112.

59

nhưng trong lịch sử thì ông là người đã có công trong việc chấn hưng lại nền

Nho giáo đã bị suy đồi từ đời chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần.

Bên cạnh các vị chúa nhà Nguyễn, tác giả còn đưa vào tác phẩm những

nhân vật anh hùng, danh sĩ nổi tiếng thời kì này. Đó là những người đã bên

cạnh chúa Nguyễn trong công cuộc đấu tranh với nhà Trịnh, tiêu biểu như

Đào Duy Từ, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật, Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến,

công tử Hiệp Đức, con trai của chúa Nguyễn Phúc Tần.

Trong số các nhân sĩ đã theo giúp chúa Nguyễn thì có Đào Duy Từ là

một người nổi tiếng trong lịch sử. Trong tác phẩm, ông là một vị tướng được

các đời chúa rất trọng dụng.

Ông sinh năm 1572, mất năm 1634 quê ở xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn,

phủ Tĩnh Gia, hiệu là Lộc Khê. Ông là nhà quân sự, nhà thơ, danh thần thời

chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Ông chỉ làm quan với chúa Nguyễn tám năm

nhưng trong tám năm ấy ông đã xây dựng cho chúa Nguyễn một cơ sở xã hội

vững chắc và một đội quân hùng mạnh. Vì vậy, ông được coi là đệ nhất khai

quốc công thần của chúa Nguyễn và được thờ ở nhà Thái miếu.

Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Đào Duy Từ đã được Nguyễn

Khoa Chiêm khắc họa thành một nhân vật tài tử, tinh thông kinh văn địa lý,

được suy tôn là Gia Cát tiên sinh. Vì bất mãn với triều đình Lê – Trịnh không

coi trọng nhân tài, lại nghe danh chúa Nam biết trọng đãi người hiền nên Đào

Duy Từ đã tìm cách vào Đàng Trong, rồi dần dần tìm người tiến cử mình với

chúa Nguyễn. Khi làm quan với chúa Nguyễn, Đào Duy Từ đã hết lòng hết

sức giúp chúa xây dựng một cơ sở xã hội cũng như một lực lượng quân đội

hùng hậu. Những ý kiến của ông được ví như những mưu lược của Gia Cát

Lượng. Chính ông là người đề xuất chúa Nguyễn đắp lũy Trường Dục năm

1630 và Lũy Thầy năm 1631. Hai lũy này đã giúp ngăn chặn được các cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn65

tấn công của quân Trịnh trong suốt thời kì nội chiến. Ông cũng nhiều lần

Header Page 66 of 112.

60

đóng góp những ý kiến sáng suốt cho chúa Nguyễn trong việc chính sự và

cũng chính ông đã tiến cử con rể của mình là Nguyễn Hữu Tiến, người mà

sau này có đóng góp rất lớn trong sự nghiệp của chúa Nguyễn. Đào Duy Từ

được coi là đệ nhất công thần của họ Nguyễn.

Danh tướng Nguyễn Hữu Tiến cũng là một nhân vật lịch sử có thật được

tác giả đưa vào tác phẩm. Nguyễn Hữu Tiến sinh năm 1602 tại huyện Bồng

Sơn, phủ Quy Nhơn (huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định), tổ tiên gốc ở huyện

Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Cha ông mất sớm, nhà nghèo nhưng ông sớm có

chí lớn, bản tính thâm trầm và cương quyết, vừa làm lụng nuôi mẹ già, vừa

tìm thầy học võ vừa rèn luyện văn chương. Chính vì thế, Nguyễn Hữu Tiến

trở thành một con người tài giỏi và sau này khi làm quan với chúa Nguyễn,

ông đóng góp được rất nhiều công lao. Ông mất năm 1666.

Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Hữu Tiến được tác giả

miêu tả là một vị tường tài ba, dũng cảm phi thường, trượng nghĩa và trung

thành với chúa Nguyễn tựa như Quan Công trong Tam quốc diễn nghĩa vậy.

Trong những lần giao chiến với quân Trịnh, ông đã cầm quân ra trận hai lần

vào năm 1648 và năm 1655-1660. Trong lần giao chiến năm 1655-1660 do

bất hòa với Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật nên trận chiến đó không thành công.

Nhìn chung, hình tượng Nguyễn Hữu Tiến trong tác phẩm là một hình

tượng đẹp và được tác giả tập trung bút lực khắc họa, trở thành một hình

tượng sinh động.

Cùng với Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến thì Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật

cũng là một nhân vật tài năng xuất chúng.

Nguyễn Hữu Dật sinh năm 1603, mất năm 1681, là đại công thần của

chúa Nguyễn ở Đàng Trong thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ông là người có

công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn và đánh lui nhiều cuộc Nam tiến của quân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn66

Trịnh, giữ vững lãnh thổ Đàng Trong và được phong chức Chiêu Vũ hầu .

Header Page 67 of 112.

61

Trong tác phẩm, Nguyễn Hữu Dật hiện lên là một con người thông minh,

tinh thông kinh văn địa lý, đức lành tính tốt. Ông được các đời chúa Sãi, chúa

Hiền, chúa Thượng trọng dụng, lần lượt giao cho các chức: Văn chức, Giám

chiến, Cai cơ, Đốc chiến, Tiết chế… Trong trận chiến lần thứ sáu 1655-1600,

ông được giao chức Đốc chiến, lập kế bày mưu đánh đâu thắng đó, giúp quân

Nguyễn thu gọn bảy châu huyện phía nam sông Lam. Trong trận Trấn Ninh,

Nguyễn Hữu Dật và Hiệp Đức công tử đánh cho quân Trịnh phải cuốn cờ

chạy về Bắc ngày hai mươi tháng giêng năm 1673. Từ đó trở đi, chiến trường

Trịnh – Nguyễn im ắng, Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến trở thành hai

công thần khai quốc của nhà chúa Nguyễn.

Công Tử Hiệp Đức Nguyễn Phúc Thuần là con trai thứ tư của Hiền

vương Nguyễn Phúc Tần và Chánh phi Châu Thị Viên. Tên là Hiệp hay còn

gọi là Thuần, sinh năm Quý Tỵ 1653, đến khi trưởng thành được phong chức

Chưởng Dinh, tước Hiệp Đức hầu.

Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, công tử Hiệp Đức được tác giả

khắc họa là một viên tướng trẻ tuổi, thông minh, có tài cầm quân và có lòng

dũng cảm, là người đức độ, nhân từ,biết tránh xa sắc đẹp và sùng bái Phật

pháp. Trong trận Trấn Ninh năm 1672, ông được phong là Nguyên súy đã

cùng với Nguyễn Hữu Dật đánh đuổi được quân Trịnh, bảo toàn được lãnh

thổ Đàng Trong cho Chúa Nguyễn.

Ngoài ra, ta còn thấy trong tác phẩm có sự xuất hiện của Phùng Khắc

Khoan, một vị tướng có tài trong lịch sử nước nhà. Ông đã từng đi xứ Trung

Quốc, làm được rất nhiều việc cống hiến cho đất nước. Ông được tôn làm ông

tổ nghề dệt, nghề trồng ngô ở nước ta. Phùng Khắc Khoan xuất hiện trong tác

phẩm như một vì sao sáng, được ví ngang với Khổng Minh của Trung Quốc

bởi sự am hiểu, thông thạo văn võ, giỏi ứng xử…

Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tác giả đã kì công xây dựng hơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn67

hai trăm nhân vật, đặc biệt là rất chú ý đến các nhân vật họ Trịnh và họ

Header Page 68 of 112.

62

Nguyễn. Khách quan đánh giá, ta thấy cái nhìn của Nguyễn Khoa Chiêm dành

cho các nhân vật họ Nguyễn có phần ưu ái hơn hẳn. Trong khi miêu tả các

nhân vật nhà Trịnh, ta thấy hiện lên những vị chúa bạo tàn, hiếu chiến, bất

trung…còn các nhân vật nhà Nguyễn thì thường là những người tài trí, đức

độ, nhân nghĩa. Nghệ thuật tự sự về thế giới nhân vật của tác giả rất linh hoạt,

phong phú, đầy biến hóa. Bên cạnh việc ghi rõ tên họ, chức tước, năm sinh,

năm mất, quê hương, gia thế, quá trình phát triển, thành đạt…, Nguyễn Khoa

Chiêm còn chú ý đặc tả tính cách, tâm trạng nhân vật, khiến cho nhiều nhân

vật lịch sử trở nên sống động, hấp dẫn. Ông còn đặt cho nhân vật vào các tình

thế hiểm nghèo, các xung đột gay gắt, các trận chiến khốc liệt để miêu tả cảm

xúc, tâm tư, trí tuệ của họ. Nghệ thuật tự sự khi thì lướt nhanh, khi lại đặc tả,

có lúc chỉ cần vài câu văn ngắn mang tính thông tin tư liệu, có lúc lại dành cả

một đoạn dài để khắc họa suy nghĩ, tâm trạng nhân vật. Mấy trăm con người,

người mờ nhạt, người chỉ loáng qua, người thành hình tượng sống động…Tất

cả đã cho thấy một bút lực đa dạng, đầy biến ảo, khiến cho thế giới nhân vật

trong Nam triều công nghiệp diễn chí vừa đậm chất sử vừa có chất văn, vừa là

nhân vật của đời thực vừa mang được những đặc điểm của nhân vật tiểu

thuyết, đúng là một tác phẩm khá thành công ở nghệ thuật tự sự nhân vật.

Nhìn chung, các nhân vật trong Nam triều công nghiệp diễn chí đều là

những nhân vật có ảnh hưởng đến lịch sử nước ta trong giai đoạn thế kỷ XVI-

-XVII. Đó là những ông vua, những vị chúa, những viên tướng, những nho sĩ;

có người có công danh viên mãn, có người có kết cục bi thảm nhưng đều là

những nhân vật không thể thiếu được trên vũ đài lịch sử, góp phần tạo nên

cục diện phân tranh kéo dài suốt hai trăm năm. Đó là một thời kì tang thương

nhưng không kém phần hào hùng. Tất cả các nhân vật ấy đều là những đứa

con đẻ của thời đại, mang đậm hơi thở của thời đại, là những nhân tố không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn68

thể thiếu để tạo nên một thời kì lịch sử đầy biến động.

Header Page 69 of 112.

63

2.2.2. Sự kiện chân thực

Trong tác phẩm tự sự thì sự kiện tạo nên cốt truyện, cốt truyện quy định

giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Tác phẩm hay, dở, chân thực, không chân

thực đều dựa chủ yếu vào cốt truyện và nghệ thuật kể chuyện của tác giả.

Với Nam triều công nghiệp diễn chí, hầu hết các sự kiện lịch sử ở nước

ta trong khoảng thời gian thế kỷ XVI- XVII đều được ghi lại một cách chân

thực dưới ngòi bút văn chương tài ba của Nguyễn Khoa Chiêm. Theo Giáo sư

Phan Khoang xác nhận thì “tác phẩm của Nguyễn Khoa Chiêm có giá trị tư

liệu lịch sử quí giá…”[8,9].

Tìm hiểu tác phẩm, ta thấy hầu hết các sự kiện trong Nam triều công

nghiệp diễn chí đều là những sự kiện có thật ngoại trừ một số sự kiện mang

yếu tố thần kì. Từ những trận giao chiến, những lần vua chúa băng hà, những

lần vua chúa lên ngôi, những biến loạn cung đình… đều có thật trong lịch sử.

Phải chăng chính vì thế mà tác phẩm còn được coi như là một pho tư liệu lịch

sử quí giá?

Tác giả đã khéo léo đưa những sự kiện lịch sử vào tác phẩm mà không hề

làm tác phẩm cứng nhắc như những câu chuyện lịch sử khác. Đầu tiên đó là

sự kiện Nguyễn Hoàng dẫn hơn một nghìn thủy quân vào đánh nhau với các

tướng nhà Mạc để giành vùng đất Thuận Hóa năm 1558, đồng thời là để tránh

sự hiềm khích của Trịnh Kiểm. Biết được Trịnh Kiểm muốn trừ diệt mình,

Nguyễn Hoàng giả điên và nhờ chị gái là chính phi của Trịnh Kiểm xin cho

mình vào trấn thủ vùng Thuận Hóa. Trịnh Kiểm nghĩ rằng đây là cơ hội thuận

lợi để nhờ tay nhà Mạc giết chết Nguyễn Hoàng, nên đã đồng ý xin vua Lê

cho Nguyễn Hoàng dẫn quân vào vùng Thuận Hóa dẹp nhà Mạc. Sự kiện này

trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi lại rất rõ: “Tháng 10, Thái sư Trịnh

Kiểm vào chầu, dâng biểu tâu xin sai con thứ của Chiêu huân tĩnh công là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn69

Đoan quận công Nguyễn Hoàng đem quân vào trấn thủ xứ Thuận Hóa, để

Header Page 70 of 112.

64

phòng giặc phía Đông, cùng với Trấn quận công (không rõ tên) ở Quảng

Nam cùng giúp đỡ” [29, 639]

Hay sự kiện Đào Duy Từ, một danh sĩ ở Đàng Ngoài vốn rất thông minh,

tài giỏi nhưng không được trọng dụng vì là con nhà xướng ca vô loài, lại nghe

chúa Nguyễn là người trọng kẻ hiền, biệt đãi nhân tài nên ông đã tìm cách vào

Đàng Trong rồi được tiến cử với chúa Nguyễn, sau được chúa Nguyễn hết

mực trọng đãi và ông cũng tận tâm tận lực với chúa Nguyễn. Sự kiện Đào

Duy Từ bày kế đắp lũy Trường Dục và lũy Thầy là có thật. Chính nhờ hai lũy

này mà nhà Nguyễn tránh được nhiều cuộc tấn công mạnh mẽ của nhà Trịnh.

Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, những mốc sự kiện như vua chúa

băng hà, hay vua chúa mới nối ngôi đều được đề cập đến rất chính xác và

được ghi chép cẩn thận theo từng năm. Đó là điều rất đáng khâm phục ở

Nguyễn Khoa Chiêm bởi ông đã ghi chép lại các mốc lịch sử ấy một cách chi

tiết và khoa học dưới hình thức một câu chuyện làm hấp dẫn bạn đọc, đúng

theo cách viết sử ở trong văn.

Những sự kiện quan trọng khác trong tác phẩm cũng là những sự kiện có

thật trong lịch sử như những trận giao tranh giữa quân đội nhà Mạc và nhà Lê

– Trịnh, hay những trận đánh giữa hai nhà Trịnh – Nguyễn đều rất trùng khớp

với những tài liệu lịch sử để lại.

Ví dụ như sự kiện nhà Mạc tấn công nhà Lê trong Nam triều công nghiệp

diễn chí có viết vào năm Quang Hưng thứ nhất (1578), “Tháng bảy, tướng

nhà Mạc đem quân vào đánh xứ Lũy Cổn. Đô tướng Trịnh Tùng xốc quân ra

đánh. Quân Mạc thua lớn bỏ chạy”[8, 41]. Sự kiện này cũng được Đại Việt

sử ký toàn thư ghi chép lại rất rõ như sau: “Tháng bảy, Mạc Kính Điển đem

quân vào lấn các huyện dọc sông xứ Thanh Hoa. Khi đến xã Giang Biểu, tiết

chế Trịnh Tùng sai bọn Trịnh Bách đem quân qua sông đặt phục ở núi Phụng

Công, đánh nhau to ở cầu Phụng Công, họp các súng bắn vào, quân Mạc chết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn70

không xiết kể. Kính Điển rút quân về Kính ấp”.[29, 675]

Header Page 71 of 112.

65

Hay những sự kiện nhỏ lẻ như sự kiện vào năm 1611, “Ngày mười tháng

sáu núi Tản Viên ở Đàng Ngoài bị lở hơn mươi trượng, sâu ba, bốn thước.

Ngày mười tám, xứ Kinh Bắc trời mưa màu đỏ suốt một ngày đêm, sông ngòi

khe suối khắp nơi đều một màu máu phải đến mười ngày mới rút hết” (Nam

triều công nghiệp diễn chí) [8,89] thì ở trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng đề

cập đến rất chi tiết “Tân Hợi năm thứ mười hai (1611) (Minh Vạn lịch năm

thứ 39). Mùa đông tháng mười, ngày mồng sáu, núi Tản Viên bị lở đến hơn

mười hai trượng. Ngày mười tám, ở huyện Việt Yên trời mưa máu một ngày

một đêm”[29, 764 - 765].Những sự kiện ấy chứng tỏ Nguyễn Khoa Chiêm rất

quan tâm và ghi chép chính xác tình hình chính sự hay đời sống của đất nước

ta ở thời kỳ này.

Ngoài ra, yếu tố cốt lõi của tác phẩm là những trận đánh, những cuộc tấn

công của quân Trịnh với nhà Nguyễn ở Đàng Trong mới là nội dung nổi bật

của tác phẩm. Đây là những sự kiện trọng đại được tác giả tập trung bút lực

xây dựng một cách chân thực và sống động nhất.

Mở đầu là sự kiện năm 1627, khi quân Trịnh cố tình kiếm cớ gây chiến

với nhà Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Nam không nghe theo chỉ dụ của nhà

Trịnh nên nhà Trịnh vô cùng tức tối. Tháng ba năm 1627, Thanh Đô vương

đích thân thống lĩnh đại quân thủy bộ rước theo xa giá vua Lê vào đánh xứ

Nam. Trải qua vài lần giao chiến nhưng không thắng nổi, thêm nữa lại mắc

mưu phản gián của nhà Nguyễn nên quân Trịnh vội vàng rút về Bắc. Sự kiện

này trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng nhắc tới “Tháng hai Thanh Đô vương

hộ vệ thánh giá đi đánh. Quân đến cửa biển Nhật Lệ, giặc cậy là hiểm cố

chống lại, quân mấy lần giao chiến không lợi bèn trở về”[29,784]. Đó là trận

giao chiến đầu tiên của quân Trịnh và quân Nguyễn, còn những trận đánh sau

này Nam triều công nghiệp diễn chí có đề cập hoặc không (có thể do thất lạc

hoặc truyền bản bị rơi rụng, hoặc tác giả cố tình không đề cập đến) nhưng hầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn71

như trận đánh nào cũng là những sự kiện hết sức chân thực.

Header Page 72 of 112.

66

Trong số bảy cuộc nội chiến thì cuộc nội chiến thứ sáu từ năm 1655 đến

năm 1660 là trận đánh kéo dài nhất, khốc liệt nhất trong lịch sử Trịnh –

Nguyễn phân tranh. Trận đánh này được ghi chép lại rất tỉ mỉ và chính xác.

Tháng tư năm 1655, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật

mang quân vượt sông Gianh đánh bắc Bố Chính. Tướng Trịnh là Phạm Tất

Toàn đầu hàng. Hai tướng thừa thắng xông lên đánh Hoành Sơn, Lê Hữu Đức

thua chạy, Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đánh luôn Hà Trung, Lê

Văn Hiểu thua chạy, cùng Lê Hữu Đức lui về giữ An Trường, Nghệ An.

Thanh Đô vương Trịnh Tráng thấy các tướng thua luôn bèn sai Trịnh Trượng

làm thống lĩnh mang quân vào Nam, triệu các tướng cũ về. Lê văn Hiểu bị

thương nửa đường chết, Lê Hữu Đức bị giáng chức. Trịnh Trượng tiếp quản

quân đội và dẫn quân vào Kỳ Hoa, sau đó tiến vào Kỳ La. Lúc này Nguyễn

Hữu Tiến đã rút về nam sông Gianh nhử Trịnh Trượng nhưng không được.

Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến thấy thế bèn cho quân rút khỏi Lạc

Xuyên về giữ An Trường. Thế là bảy huyện Nghệ An ở phía nam sông Gianh

về tay chúa Nguyễn.

Trịnh Tráng giáng chức Trịnh Trượng rồi cho con là Trịnh Tạc vào làm

thống lĩnh. Nguyễn Hữu Tiến thấy Trịnh có thêm viện binh thì liền rút về giữ

Hà Trung. Gặp lúc quân Mạc quấy rối phía Bắc, Trịnh Tạc phải rút quân về

chỉ cử Đào Quang Nhiêu ở lại đóng An Trường và Vũ Văn Thiêm đóng ở

Khu Độc, Thân Văn Quang và Mẫn Văn Liên đóng ở Tiếp Vũ.

Năm 1656, Hữu Tiến đánh Tiếp Vũ, Thân Văn Quang và Mẫn Văn Liên

bỏ chạy. Hữu Dật thì đánh tan thủy quân của Vũ Văn Thiêm, Thiêm cũng bỏ

chạy. Rồi quân Nguyễn lại hợp sức đánh Đào Quang Nhiêu làm vị tướng này

bỏ chạy về giữ An Trường.

Trịnh Tráng thấy vậy bèn cử Trịnh Tuyền vào cứu viện, song lại thêm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn72

một lần nữa bị quân của chúa Nguyễn đánh cho đại bại.

Header Page 73 of 112.

67

Trong khi thế trận đang diễn ra hết sức căng thẳng thì Trịnh Tráng bệnh

nặng, Trịnh Tạc lên cầm quyền thay cha nhưng lại có bất hòa với em trai là

Trịnh Tuyền. sau khi cha mất,hai anh em lục đục và một phần là mắc mưu của

nhà Nguyễn nên Trịnh Tạc đã giết em mình là Trịnh Tuyền.

Tháng sáu năm 1657, Trịnh Căn lại chia quân tiến đánh Thanh Chương,

Nguyễn Hữu Tiến biết trước nên đã phòng bị kĩ càng, quân Trịnh thua phải rút

về bờ bắc sông Lam, chỉ giao tranh những trận nhỏ. Sang tháng sáu năm 1658,

tù trưởng Lang Công Chấn ở Quỳnh Lưu theo quân Nguyễn, mang quân đi

đánh Trịnh bị quân Trịnh bắt giải về Kinh thành Thăng Long. Tháng bảy,

quân Nguyễn vượt sông Lam đánh thắng Nguyễn Hữu Tá ở Hưng Nguyên

nhưng lại bị Lê Thì Hiến đánh bại phải rút quân về. Tháng mười hai năm ấy,

quân Trịnh đánh huyện Hương Sơn, thắng quân Nguyễn. Tháng tám năm

1660, quân Trịnh lại tiến đánh Nghi Xuân và bị bại trận.

Thời gian sau đó, quân Nam rất muốn đánh ra Bắc nhưng lực chưa đủ

mạnh, lại đang trông chờ vào các thế lực ở ngoài Bắc nhưng lại không khả thi

do một số người bị nhà Trịnh bắt được và xử tử. Lúc này, các tướng bên nhà

Nguyễn cũng có sự lục đục với nhau. Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật được chúa

Hiền tin yêu hơn nên bị Hữu Tiến cùng các thuộc tướng ganh ghét. Sự việc

Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật bị quân Bắc mang vàng bạc lụa là đến để dụ dỗ

mua chuộc mà không được cũng khiến cho Hữu Tiến sinh nghi Hữu Dật. Từ

đó, nội bộ mất đoàn kết khiến cho trận đánh ở Khu Độc, Hữu Dật bị thua, phải

nhanh chóng nghĩ kế để cho quân lính rút lui mà không bị truy đuổi, tránh gây

thiệt hại. Về đến Hoành Sơn, quân của Hữu Dật mới gặp được quân của Hữu

Tiến, đúng lúc quân Trịnh cũng đuổi tới, hai bên giao chiến dữ dội và thiệt hại

vô cùng lớn. Sau trận đánh này, hai bên đi vào thế ngừng chiến. Quân Trịnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn73

đã thu lại được bảy huyện ở Nghệ An mất từ năm 1655. Trận chiến thứ sáu

Header Page 74 of 112.

68

kéo dài suốt năm năm từ 1655 đến 1660 đã kết thúc, tham vọng Bắc tiến của

quân Nguyễn hoàn toàn thất bại.

Trận đánh này nhiều sách cũng ghi chép lại khá kĩ lưỡng và chi tiết.

Những tình tiết mà Nguyễn Khoa Chiêm đưa vào tác phẩm không phải là hư

cấu mà phần lớn là những sự kiện có thật. Sách Việt Nam sử lược mô tả trận

này hai bên có thắng có thua, nhưng trong sách Đại Việt sử ký toàn thư của

nhà Lê – Trịnh lại cho rằng trận này quân Trịnh thắng lớn, còn sách Đại Nam

thực lục tiền biên của nhà Nguyễn biên soạn sau này thì lại cho rằng trận này

quân Nguyễn thắng. Nhìn chung, trên góc độ nghiên cứu, người viết cũng

đồng nhất ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu Việt Nam sử lược là ở trận

này hai bên đều có thắng có thua; sau trận đầu của quân Nguyễn thì quân

Trịnh bị thua, nếu mà thắng thì sẽ tiếp tục tiến đánh chứ không phải bỏ chạy

về giữ An Trường.

Ở trận đánh thứ bảy, trận đánh cuối cùng của thời kỳ nội chiến Trịnh –

Nguyễn, lịch sử cũng ghi chép rất kĩ. Năm 1672, chúa Trịnh lại cử binh Nam

tiến, sai con là Trịnh Căn lĩnh thủy binh, Lê Thì Hiến lĩnh bộ binh.

Thời gian đó ở Đàng Trong, Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến mất vào năm

1666, chúa Nguyễn cử em là công tử Hiệp Đức Nguyễn Phúc Thuần cùng

Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật ra chống cự, hai bên giao chiến mấy lần nhưng

không phân thắng bại. Quân Trịnh đánh mãi không thắng bèn rút về bắc Bố

Chính, Trịnh Căn bị ốm nên Trịnh Tạc rút đại quân về Kinh, chỉ cử hai tướng

Lê Thì Hiến và Lê Sĩ Triệt ở lại trấn thủ. Sau đó, hai vị tướng này đốc quân vào

đánh trận cuối, không thắng nổi bèn bỏ chạy về bắc sông Gianh.

Trận chiến này được tác giả Nguyễn Khoa Chiêm miêu tả rất kĩ. Đây là

cuộc chiến khốc liệt nhất, hao người tốn của nhất và là cuộc chiến được chuẩn

bị kĩ lưỡng nhất vì sau một thời gian dài ngừng chiến, cả hai bên đều có điều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn74

kiện để chuẩn bị cả sức người lẫn của. Nhà Trịnh đã diệt xong nhà Mạc nên

Header Page 75 of 112.

69

rảnh tay để lo diệt trừ quân Nguyễn. Còn quân Nam tuy lực lượng không đông

bằng quân Bắc nhưng lại cực kỳ tinh nhuệ, điều này Trịnh Tạc cũng phải thừa

nhận và hơn nữa quân Nam có sự chuẩn bị đề phòng quân Bắc từ trước nên

đào hào đắp lũy phòng thủ rất kỹ lưỡng.

Trận chiến giữ thành Trấn Ninh được Nguyễn Khoa Chiêm miêu tả như

sau: “Ngày hai mươi lăm, vào giờ Thìn, quân Bắc tiến thẳng đến dưới thành

Trấn Ninh, tiếng hò reo vang dậy, tiếng chiêng trống vang trời. Quân hai bên

đánh lớn, tiếng súng nổ ầm ầm. Quân Nam bám vào mặt thành mà đánh.

Quân Bắc đi dưới đường đánh gấp vào thành, đôi bên giành giật nhau từ sáng

đến tối không phân thắng bại”. [8, 545]

Ngày hai mươi sáu, quân Bắc cho người “bám tường trèo lên mặt thành,

quân nấp dưới thì bắn súng trợ chiến. Khi thấy quân Bắc trèo lên lũy quân

Nam cầm giáo nhọn mà đâm xuống, quân trèo thành chết lăn rất nhiều, xác

chết đầy hào rãnh. Quân Bắc chồng các xác chết làm thang mà trèo lên, quân

giữ thành ra sức chém giết, thây chất thành từng đống cao. Quân sĩ đâm mỏi

tay thì đẩy súng lớn ra bắn. Quân Bắc dùng dây thừng, buộc thòng lọng

quăng vào nòng súng mà kéo xuống rồi tống đất đá, rơm cỏ vào làm tắc nòng

không bắn được. Quân Nam lại dùng thương dài mà đâm, quân Bắc cũng đâm

trả. Quân đôi bên cứ thế hỗn chiến kéo dài”[8, 546].

Ngày hai mươi bảy, quân Bắc cho ba nghìn quân cầm cuốc để đào chân

thành Trấn Ninh. Quân hai bên đánh lớn. Súng đạn cung nỏ cùng bay tới tấp

như mưa. Tường thành có nguy cơ sập đổ. Nguyễn Hữu Dật nhanh trí dùng kế

nghi binh đốt đuốc trong thành sáng rực như ban ngày khiến quân Bắc ngờ có

mai phục không dám áp sát nữa. Quân Bắc lại dùng cách thả diều giấy đeo

thuốc phát hỏa vào trong thành khi diều rơi chạm nóc nhà, đài súng thì thuốc

lửa bốc cháy khiến nhiều doanh trại, kho tàng trong thành cháy rực, quân Bắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn75

tiến đến sát chân thành, Chiêu Vũ bèn sai quân cưa hơn ba trăm tấm gố đóng

Header Page 76 of 112.

70

đinh vào rồi buộc thừng thả xuống thành làm cho biết bao quân Trịnh phải

chết đau đớn. Trận chiến này thương vong ở cả hai bên nhiều không biết kể

đâu cho hết, máu chảy thành sông, thây chất thành núi…Nhân dân ở các làng

xóm quanh vùng Trấn Ninh cũng bị quân Trịnh tra khảo tàn sát, cướp bóc

nhiều, oán than không để đâu cho hết…Dù không thẳng thừng phê phán cuộc

chiến tranh Trịnh – Nguyễn nhưng những chi tiết ấy đã ngầm lên án cuộc

chiến nồi da xáo thịt này. Cuộc chiến tranh giành quyền lực đã khiến nhân dân

trong một nước phải hạ sát lẫn nhau, đau thương nào lớn hơn thế nữa. Có

những cảnh mà khi quân Nam tấn công, quân Bắc đã dùng trái phá ném

xuống, có người lính Bắc ở ngoài đã kêu lên rằng: “Chúng tôi và các anh em

đều là người cả, sao nỡ tàn hại lẫn nhau. Chỉ vì nhà chúa tranh chấp, anh em

ta mới phải chịu chết oan. Tôi bảo anh em, nếu thấy trái phá bay vào người ở

xa thì chạy nấp cho nhanh, người ở gần thì nằm sát xuống mặt đất mà tránh

được thì vô sự” [8, 545]. Và khi quân Bắc ở ngoài dùng diều giấy kèm thuốc

phát hỏa bay vào thành cũng có người lính ở bên Bắc đứng ngoài thành kêu to

vào : “rơi trúng người thì xúc cát hất vào mà dập, lửa sẽ không cháy lan nữa.

Còn đổ nước lửa sẽ cháy loang ra sẽ chết”[8, 554]. Qua những tình tiết như

vậy, ta đã thấy hiện lên cả một khung cảnh chiến trường khốc liệt, nơi những

con người đang phải tự đâm giết nhau mà không hề muốn, những con người

ấy cùng chung một bọc trứng mẹ Âu Cơ mà giờ đây phải theo lệnh của các vị

vua chúa mà chém giết lẫn nhau, thật tang thương.

Nhìn chung, nghệ thuật tự sự các sự kiện trong Nam triều công nghiệp

diễn chí cũng hết sức đa dạng, biến hóa. Nhiều chi tiết tác giả chỉ lướt qua

theo kiểu thông tin vắn tắt nhưng có những chi tiết, tác giả lại tập trung miêu

tả, tường thuật hết sức tỉ mỉ. Nhà văn không dừng ở việc lược thuật sự kiện

như một số sách sử thông thường mà nhiều khi dựng lại một bức tranh vô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn76

cùng sinh động về các trận chiến với những chi tiết, hình ảnh, âm thanh vô

Header Page 77 of 112.

71

cùng cụ thể, chọn lọc khiến người đọc như được sống lại trong không khí lịch

sử ấy. Bút lực tự sự của Nguyễn Khoa Chiêm giống như một ống kính quay

phim, khi thì thu nhỏ, lúc lại phóng to, khi quay toàn cảnh,lúc quay cận cảnh,

khi lướt nhanh, khi chậm rãi…khiến cho các sự kiện trở nên sống động, chất

sử hòa với chất văn tạo nên sự lôi cuốn và hấp dẫn đặc biệt.

Nghệ thuật tự sự của tác giả đã tạo ra những cốt truyện sinh động và hấp

dẫn. Tính chân thực lịch sử đan xen với tính hình tượng của văn chương nghệ

thuật, ngòi bút nhà văn tung hoành theo các sự kiện nhưng thái độ, tình cảm

của ông dường như vẫn nghiêng về phía đề cao quân Nguyễn. Đó là những

đặc điểm riêng, rất đáng ghi nhận, khẳng định một tài năng tự sự của nền văn

học trung đại Việt Nam.

2.3. Tự sự về những truyện kì ảo

2.3.1. Nhân vật và hoàn cảnh

Trong mỗi tác phẩm của mình, nhà văn thường gây sự chú ý, lôi kéo

người đọc bằng những chi tiết đặc biệt, những vấn đề độc đáo,những tình

huống lạ. Đó có thể là những sự kiện quan trọng ảnh hưởng đến cuộc đời, số

phận nhân vật chính nhưng cũng có thể là những chi tiết ngoài lề sự kiện

chính, có giá trị để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn người đọc. Một trong

những chi tiết nổi bật được Nguyễn Khoa Chiêm chọn lựa là cái kì ảo.

Thuật ngữ kì ảo (fantastic) xuất hiện trong tiếng Anh trung cổ vào

khoảng thế kỷ XIV, được bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp. Tiếng La tinh là

phantasticus có nghĩa là “tạo ra những hình ảnh thuộc về tinh thần” và chữ

Phantazein có nghĩa là “ xuất hiện trong tâm trí”.

Trong lịch sử văn học nhân loại, yếu tố kì ảo đã ra đời từ rất sớm trong

các sáng tác folklore. Các nhà văn ở các thời kì văn học đã biết vận dụng yếu

tố kì ảo để xây dựng nên nét riêng đặc sắc cho tác phẩm của mình. Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn77

Dữ là một ví dụ tiêu biểu khi ông đưa yếu tố kì ảo vào tập truyện Truyền kỳ

Header Page 78 of 112.

72

mạn lục, khiến cho tác phẩm mang một nét lung linh huyền bí riêng rất thu hút

độc giả. Đôi khi trong sáng tác nghệ thuật, các tình huống thắt nút đi vào thể

khó gỡ thì việc lựa chọn đưa một yếu tố kì ảo vào sẽ góp phần cởi nút cho tình

huống, sự kiện đó.

Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là một tác

phẩm được ví như một tư liệu lịch sử quí giá bởi tính chân thực của từng sự

kiện, nhân vật song tác phẩm cũng gây chú ý với bạn đọc bởi một yếu tố

không nằm trong số các sự kiện nổi bật của tác phẩm đó là những yếu tố kì ảo.

Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, bạn đọc hẳn sẽ rất băn khoăn khi

gặp những yếu tố kì ảo, thần bí trong tác phẩm và không biết nên hiểu tác

phẩm như thế nào cho chính xác, bởi bên cạnh những sự kiện, những nhân vật

chân thực ấy lại xuất hiện những tình tiết kì ảo đến vô lý được tác giả đưa vào.

Phải chăng do Nguyễn Khoa Chiêm chịu ảnh hưởng của tác phẩm Tam quốc

diễn nghĩa của tác giả La Quán Trung nên đôi khi cũng đưa thêm yếu tố

hoang đường vào truyện để làm cho tác phẩm tăng thêm tính tiểu thuyết và

hấp dẫn?

Đầu tiên phải kể đến là chi tiết chúa Nguyễn Hoàng vào Đàng Trong dẹp

nhà Mạc xây dựng cơ đồ riêng. Lúc này quân đội của chúa còn rất yếu, vũ khí

thô sơ và thuyền chiến không nhiều trong khi tướng nhà Mạc là quận Lập thì

quân đông, thuyền lắm. Nguyễn Hoàng lúc này đang rất lo lắng tìm kế chống

lại. Một đêm chúa đang ngồi đốt đuốc, bỗng nghe bên bờ sông tiếng dòng

nước kêu vang vang “Trảo trảo” chúa rất lấy làm lạ, bèn cầu khấn thần linh.

Đêm hôm ấy, Nguyễn Hoàng mơ thấy một người đàn bà mặc áo xanh, tay ầm

chiếc quạt đến nói rằng: “ Tướng quân muốn diệt trừ ngụy đảng cần lập kế dụ

chúng đến bãi cát bên sông, thiếp sẽ giúp sức trừ được, khỏi phiền nhiễu đến

nhân dân trong miền”[8, 29]. Chúa tỉnh dậy mới biết mình nằm mộng và nghĩ

rằng có thần linh giúp sức như vậy hẳn là sẽ thắng. Sau đó, Nguyễn Hoàng đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn78

dùng mĩ nhân kế là lừa diệt được quận Lập mà không hề hao binh tổn tướng.

Header Page 79 of 112.

73

Hay là trong sự tích chúa Nguyễn cho xây dựng chùa Thiên Mụ cũng

mang yếu tố kì ảo, hoang đường. Cụ thể là trong một lần chúa Nam đi du

ngoạn các cảnh đẹp ở xứ, khi đến xã Hà Khê, huyện Hương Trà thấy giữa

chốn đồng bằng nổi lên một gò cao dáng tựa như một chiếc đầu rồng đang

ngoái nhìn về phía núi mẹ. Đoan vương lấy làm thích thú bèn trèo lên ngắm

thì thấy có một con hào chạy ngang chân núi, cho hỏi người địa phương thì

được biết rằng đó là do một viên tướng nhà Đường xưa kia muốn yểm vượng

khí của nước ta nên làm vậy. Đêm hôm ấy, người dân trong vùng thấy một

người đàn bà thể sắc trông còn trẻ nhưng mày, tóc bạc phơ, mặc bộ quần áo

đỏ ngồi dưới chân núi mà than vãn rồi cất tiếng nói to: “Đời sau nếu có bậc

quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam triều thì nên lập chùa

thờ Phật, cẩn xin linh khí trở về núi này để phúc dân, giúp nước, tất không có

gì phải lo”[8, 82]. Người đàn bà ấy nói xong thì biến mất. Chúa nghe thấy thế

mừng lắm, sai người dựng chùa đặt tên là chùa Thiên Mụ, dân chúng từ đó

đến cầu khấn quả nhiên thấy linh thiêng. Quả thật từ đó về sau, ta thấy dường

như vượng khí đã trở lại với Nam triều. Cho nên với hiện tượng này, ta chưa

thể giải thích được là có yếu tố thần linh thật hay không, chỉ biết rằng khi đưa

chi tiết kì ảo vào tác phẩm, Nguyễn Khoa Chiêm có được cách giải thích hợp

với lòng người thời bấy giờ vốn rất sùng tâm linh. Dường như đó là một cách

giải thích cho sự thịnh vượng và bình an mà Nguyễn Hoàng đem lại cho dân

xứ Đàng Trong thời kì này.

Rồi chuyện về giấc mơ đi chơi núi Bồ Đà của công tử Hiệp Đức và sự

ứng nghiệm của giấc mơ ấy vào cuộc đời của vị công tử tài giỏi này như góp

phần khẳng định vị trí đặc biệt của yếu tố tâm linh trong cộng đồng người

Việt. Chuyện là công tử Hiệp Đức vốn mộ đạo, một hôm nằm mơ ngủ thấy

mình được đi chơi núi Bồ Đà cùng các vị cao tăng, thiền sư và được một vị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn79

thiền sư ban cho một bài kệ dặn nhớ cho kỹ. Tỉnh dậy, công tử nhớ lại bài kệ,

Header Page 80 of 112.

74

tìm cách giải nghĩa và thấy bài kệ như báo trước số mệnh ngắn ngủi của mình

thì trong lòng rất buồn. Một thời gian sau, công tử mắc bệnh đậu mùa nặng và

qua đời, trước khi mất còn khóc với cha mình là Hiền vương và kết luận:

“Nay số trời đã hết, tự xét là ứng với lời kệ trong giấc mộng năm xưa”[8,

596]. Sau khi công tử Hiệp Đức qua đời thì người ta mới hiểu được ý nghĩa

của câu thơ cuối trong bài kệ là “Đĩnh trung minh kính nguyên vô ức” [8,

596] có nghĩa là ngày rằm, tháng sáu năm nay công tử Hiệp Đức tận số. Bấy

giờ người ta mới biết bài kệ quả là ứng nghiệm không sai.

Cũng sử dụng yếu tố kì ảo nhưng lại mang một hơi hướng khác đi trong

một hoàn cảnh khác. Đó là vào “năm Giáp Dần, niên hiệu Hoằng Định thứ

mười lăm 1614, mùa xuân, ngày hai mươi chín tháng hai là ngày giỗ vua Lê

Thánh Tông. Bình An vương Trịnh Tùng đang đứng làm lễ, chợt từ ngoài rèm

có người bước vào, liền lúc đó các cành hoa cắm trong ba lọ hoa đặt trên

hương án không dưng bỗng rơi xuống đất, bay vòng vòng rồi tung ra khắp

nơi. Vương lấy làm lạ, không biết có điềm gì gở không nhưng trong lòng cảm

thấy rất lo buồn”[8, 93]. Cùng với sự lo lắng đó thì đúng là vào năm đó ở

Đàng Ngoài thời tiết đại hạn, lúa má chết khô khiến trăm họ sầu khổ, lòng dân

vô cùng oán thán. Thêm nữa là vào mùa đông lại xuất hiện sấm bất thường

kêu chuyển động cả trời đất, ai nấy đều lo lắng. Cho nên, có thể coi đó là điềm

gở được báo trước. Trong tác phẩm, ta còn thấy có nhiều đoạn nói về những

điềm báo của thiên nhiên rất kì lạ, cụ thể như vào năm Ất Mão 1615, “Tháng

ba ngày mùng mười có nhật thực, đến ngày hai mươi tám ở xã Hoằng Liệt,

huyện Thanh Trì vào khoảng giờ Thân nước sông Cái bỗng dưng cạn hết,

trong khoảng hơn năm khắc, cá tôm đều phơi ra giữa dòng, người dân bắt

được nhiều vô kể”[8, 794]. Điềm lạ đến như vậy không ai giải thích được

nguyên nhân nhưng đến tháng tám nhuận của năm ấy thì Kinh thành cháy to,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn80

thiệt hại khá lớn về người và của.

Header Page 81 of 112.

75

Rồi một loạt sự kiện nữa xảy ra như vào ngày mười một tháng mười năm

1636, có động đất ở Nghệ An hơn nửa tiếng đồng hồ hay là vào tháng sáu năm

1611 ở “núi Tản Viên ở Đàng Ngoài lở dài hơn hai mươi trượng, sâu ba, bốn

thước”[8, 789] hay vào “năm Bính Thìn, niên hiệu Hoằng Định thứ mười bảy

(1616), mùa xuân, ngày mười sáu tháng giêng, nguyệt thực. Mặt trăng bị che

khuất khoảng một phần mười, lại có sao Khách chạm vào quầng mặt trời, hơn

mười ngày mới hết”[8, 95] và sau khi hiện tượng đó xảy ra thì cung phi họ Tô

của Bình An vương ốm chết… Nói chung, trong tác phẩm rất nhiều lần tác giả

đã đề cập đến những hiện tượng thiên nhiên kì lạ và có lẽ đó là một cách giải

thích của tác giả về những chuyện xảy ra sau đó ứng với những điềm báo của

tự nhiên như một lời giải thích hợp lý với tư tưởng tâm linh của người Việt ở

thời kì này.

Có thể nói, yếu tố kì ảo đã được Nguyễn Khoa Chiêm đan cài vào hoàn

cảnh và cuộc đời nhân vật, tạo nên một mạch tự sự khác thường, tăng tính

chất huyền bí. Đây không phải là điều mới lạ trong các tác phẩm tiểu thuyết

lịch sử, các nhà văn Trung Quốc đã sử dụng như một biện pháp nghệ thuật

truyền thống. Tuy nhiên, Nguyễn Khoa Chiêm vẫn tìm được cách kể riêng,

tạo ra sự đan xen thú vị trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tăng thêm tính

hấp dẫn cho tác phẩm.

2.3.2. Chiều sâu tâm linh và đạo lý

Người Việt ta từ xưa đến nay vốn tôn sùng đạo Phật và có đời sống tâm

linh rất phong phú. Người ta thường tin vào các hiện tượng thần bí, duy tâm.

Có lẽ cũng bởi nguyên nhân ấy mà chính tác giả cũng chịu ảnh hưởng của cái

nhìn huyền học tôn giáo. Trong truyện, ta thấy sự kiện nào trùng với một hiện

tượng thiên nhiên thích hợp cũng đều được xem là điềm ứng của thiên mệnh.

Đôi khi với lối quan niệm này mà nhân dân đôi khi bị bức màn thần bí che

phủ và lừa bịp. Đây cũng là điểm hạn chế do nhận thức của người Việt ta ở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn81

thời kì này.

Header Page 82 of 112.

76

Như mọi nơi trên thế giới, từ thuở xa xưa các dân tộc Việt Nam đã thờ rất

nhiều thần linh. Họ thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà thực chất là

các hiện tượng thiên nhiên và xã hội chưa thể giải thích được. Ngày nay, nhờ

những nghiên cứu, những lễ hội, những phong tục hiện hữu chúng ta biết

nhiều hơn về cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của các dân tộc Việt Nam

cổ nói chung và tín ngưỡng của họ nói riêng.

Người xưa tin rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên người ta thường

thờ rất nhiều vị thần như thần Mặt Trời, Mặt Trăng, thờ Thần Sông, Thần Núi,

thờ Thổ Công, Hoàng làng… Và họ tin rằng khi có lòng tôn sùng thờ cúng các

vị thần ấy chu đáo, họ sẽ được các vị thần ban phúc lộc cho mình…

Bởi thế, trong tác phẩm ta thấy tác giả đã nhiều lần nói đến sự xuất hiện

của các vị thần trong các giấc mơ của các nhà lãnh đạo nhằm báo trước một sự

việc gì sắp diễn ra hoặc trợ giúp họ hoàn thành công việc như sự việc Nguyễn

Hoàng được thần linh miếu Trảo Trảo giúp đỡ dẹp quân Mạc, hay công tử

Hiệp Đức được các vị thiền sư cho bài kệ báo trước số mệnh của ông….

Ngày nay, thuật chiêm tinh không còn xa lạ với người hiện đại nữa và

trong thực tế người ta đã có nhiều lý giải về những hiện tượng khoa học này

nhưng ở thời trung đại, khi khoa học chưa phát triển thì chuyện xem thiên văn

địa lý để đoán biết sự việc là chuyện bình thường. Thậm chí ở trong triều

đình, bao giờ cũng có một vị quan chuyên về mảng xem thiên văn, để trả lời

cho vua biết ý nghĩa các hiện tượng thiên nhiên. Những bậc học hành đỗ đạt

cao hoặc có trình độ học vấn uyên thâm đều là những người giỏi về thuật

chiêm tinh, độn số. Một trong số những người đó có Nguyễn Khoa Chiêm,

ông không chỉ đưa ra những hiện tượng tự nhiên đặc biệt để giải thích các

hiện tượng xã hội, ông còn dựa trên những lời sấm truyền, ngạn ngữ trong dân

gian để mở đường cho sự xuất hiện của nhân vật hoặc sự kiện và coi đó như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn82

một lẽ tất nhiên.

Header Page 83 of 112.

77

Mặc dù là một tác phẩm văn học mang tính lịch sử khá rõ nét nhưng

Nguyễn Khoa Chiêm đã đưa thêm yếu tố hoang đường vào tác phẩm nhằm

làm cho tác phẩm có tính chất tiểu thuyết hơn một tác phẩm lịch sử, mặt khác

cũng là phản ánh sinh động đời sống tâm linh của người Việt thời kì này. Vì

thế tác phẩm không chỉ đơn thuần cung cấp cho độc giả những kiến thức cơ

bản về lịch sử nước nhà còn làm cho độc giả bị say mê, cuốn hút bởi nội dung

cũng như cách thức viết truyện có kèm theo yếu tố kì ảo hoang đường của tác

giả. Mặt khác, Nam triều công nghiệp diễn chí là tác phẩm mà tác giả viết về

những triều đại phong kiến, về các vị chúa, các ông vua. Mà xã hội phong

kiến lại có quan điểm vua, chúa là thiên tử, là người được trời cao phái xuống

trị vì thiên hạ, giúp dân an bang lập nghiệp, thường được thần, Phật phù trợ,

hiển linh báo trước cho một số sự kiện nên trong tác phẩm cũng không thể

thiếu các yếu tố siêu nhiên, thần kỳ được. Một vấn đề nữa là các yếu tố này

xuất hiện trong tác phẩm thường xuyên sẽ tạo cho tác phẩm có được nét dân

gian hóa và trở nên gần gũi lôi cuốn hơn.

Nói tóm lại, có thể khẳng định rằng bằng cách viết riêng của mình

Nguyễn Khoa Chiêm đã thành công trong việc viết một truyện sử bằng văn.

Một thành công rất đáng ca ngợi.

2.4. Tự sự bằng thơ

2.4.1. Truyện giới thiệu về thơ

Như chúng ta đã biết, tiểu thuyết chương hồi có những đặc trưng riêng

của mình như mở đầu mỗi hồi thường có hai câu thơ hoặc câu văn biền ngẫu

nêu tóm tắt diễn biến chính trong hồi; cuối mỗi hồi thường có một bài thơ

ngắn để đánh giá sự kiện hoặc nhân vật trong hồi và sau đó kết thúc bằng câu

đại loại như: Muốn biết sự việc thế nào xem hồi sau sẽ rõ. Và khi sang hồi

mới sẽ lại tiếp tục triển khai với một nhan đề mới. Đó là cấu trúc riêng của thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn83

loại văn học này. Nam triều công nghiệp diễn chí cũng không nằm ngoài

Header Page 84 of 112.

78

phạm vi cấu trúc ấy. Tuy nhiên, khi tìm hiểu sâu về tác phẩm, ta sẽ thấy

Nguyễn Khoa Chiêm đã vận dụng rất linh hoạt việc đưa các bài thơ vào trong

tác phẩm mình nhằm tăng tính trữ tình cho thể loại văn vốn bị coi là khô khan

này. Ngoài ra, ta còn thấy dường như Nguyễn Khoa Chiêm cố tình đưa thơ

vào truyện để giới thiệu câu chuyện dưới hình thức một bài thơ nhằm làm cho

người đọc dễ thuộc dễ nhớ các sự kiện trong tác phẩm và làm như vậy sẽ

khiến tác phẩm gần gũi với mọi người hơn.

Ở đầu mỗi quyển, tương đương với mỗi hồi Nguyễn Khoa Chiêm thường

đưa vào đó một bài thơ nêu tóm tắt nội dung nổi bật của hồi đó. Ví dụ như ở

quyển thứ nhất là bài thơ:

Thơ rằng:

Ngày bụi phất đêm dặc dài

Kể chuyện rồng rên hổ rống

Khoe tài côn nhảy bằng bay

Đến đầu chẳng biết trời đất rộng

Đưa mắt mới hay núi song dài

Ngoài cuộc chán xem tranh thắng bại

Trong lòng những muốn giữ đất đai

Đó thịnh kia suy, triều đại hưng vong chẳng đổi

Đông chinh, Tây chiến, trời ngừng ứng thuận chẳng hề sai.

[8, 27]

Bằng một bài thơ ngắn gọn, đầy tính triết lý, tác giả đã khái quát qua nội

dung trong hồi về những cuộc chiến của những triều đại, những âm mưu tranh

giành đất đai mà khi đọc tác phẩm bạn đọc sẽ thấy rõ.

Hay ở đầu quyển ba có bài thơ rằng:

Ngời ngời tinh đẩu sáng bầu trời,

Chỉ thấy Đào Từ gắng giúp đời.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn84

Tráng sĩ cần vương mong giúp rập,

Header Page 85 of 112.

79

Lòng son báo nước nắm cơ thời.

Quyết tìm mưu lược yên bờ cõi,

Hiển đạt thanh danh khắp mọi nơi.

Mong chúa phương Nam mau thống nhất,

Thăng Long về lại khỏi chê cười!

[7, 165]

Thì nội dung ở quyển này chủ yếu nói về nhân vật Đào Duy Từ, một vị

nhân sĩ tài giỏi, lập công lón cho chúa Nguyễn.

Hay ở quyển thứ năm có bài thơ như sau:

Thơ rằng:

Anh hùng lừng lẫy khắp Trung châu,

Xã tắc oai linh hộ nguyện cầu.

Bái ấp điềm thiêng rồng đến hiện,

Gia hương linh ứng phượng về chầu.

Thành trì bền chắc muôn thuở vững,

Kẻ sĩ theo về chật trước sau.

Khai sáng cơ đồ nên thánh chúa,

Tía hồng mây rạng tỏa kim âu.

[7, 347]

Bài thơ ngắn gọn, súc tích, câu thơ đầy tính triết lý, hàm ẩn khiến cho

người đọc cảm thấy tò mò về nội dung trong hồi nên càng cuốn hút họ phải

đọc. Với bài thơ này, Nguyễn Khoa Chiêm muốn nói đến sự việc cha con Ký

Lục hồ, Tú Phượng nghe tin chúa Nam trọng người tài bèn tìm đến mong giúp

rập. Từ đó, chúa Nam có thêm vây cánh ở Đàng Ngoài nên càng cố gắng hết

sức chuẩn bị đánh ra Trung đô. Rồi lại có các viên tướng bên Trịnh là Đoàn

Hiển Bá, Cổn Lương tử, Đoán Chân tử, cống sĩ Canh, cống sĩ Vương Điền,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn85

cống sĩ Ban, vệ sĩ hộ binh Tộ cùng nhau vào hàng chúa Nam. Như vậy là, với

Header Page 86 of 112.

80

tài đức của mình, chúa Nam đã thu hút được đông đảo người tài theo về, đúng

như trong bài thơ đã nói:

Kẻ sĩ theo về chật trước sau.

Trong tiểu thuyết chương hồi thì hầu như ở đầu mỗi hồi đều có một bài

thơ ngắn hoặc một câu văn biền ngẫu nêu tóm tắt nội dung của hồi. Trong

Nam triều công nghiệp diễn chí thì hầu như ở đầu mỗi quyển đều có một bài

thơ nêu tóm tắt nội dung của quyển ấy, nhưng cũng có quyển khuyết đi bài

thơ này như ở quyển hai, quyển bảy. Điều này không hề ảnh hưởng đến chất

lượng của tác phẩm mà lại gây hiệu ứng ngược, khiến độc giả phải tiếp tục tìm

hiểu về nội dung của cuốn sách.

Trong Hoàng Lê nhất thống chí thì Ngô gia văn phái lại dùng hai câu

biền ngẫu tám chữ hoặc mười chữ để nói trước mỗi hồi. Còn trong Tam quốc

diễn nghĩa trước mỗi chương cũng dùng hai câu thơ thất ngôn để nói. Như

vậy, rõ ràng Nguyễn Khoa Chiêm đã có sáng tạo riêng của ông khi dùng

những bài thơ bảy chữ để tóm lược nội dung của mỗi hồi, mỗi quyển.

Trong tiểu thuyết chương hồi, khi kết thúc mỗi hồi thông thường sẽ có

một bài thơ ngắn để tổng kết đánh giá sự kiện diễn ra trong hồi đó và câu thơ

cuối hồi này có mối quan hệ nhân quả với hai câu đề ở đầu mỗi hồi. Như

trong Hoàng Lê nhất thống chí, cuối mỗi hồi thường có hai câu thơ thất ngôn

để đánh giá sự kiện trong hồi như khi kết thúc hồi thứ nhất tác giả đã đưa ra

hai câu:

Thật là:

Ái ân, cô gái không e sợ

Hoan hỉ, chàng trai lại dở dang

[43, 23]

Trong khi đó câu thơ mở đầu hồi là:

Đặng Tuyên Phi được yêu dấu, đứng đầu hậu cung

Vương thế tử bị truất ngôi, ra ở nhà kín

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn86

[43, 7]

Header Page 87 of 112.

81

Hay ở hồi thứ ba mở đầu bằng hai câu

Dương nguyên cữu bàn chém kiêu binh

Nguyễn Quốc sư mưu trừ nội loạn

[43, 52]

Và kết thúc bằng hai câu:

Thật là :

Áo cá hớ hênh nên chẳng quyết

Lòng hồ cố chấp hóa ngờ nhau.

[43, 80]

Nhìn chung, ở Hoàng Lê nhất thống chí, các câu thơ kết thúc mỗi hồi có

nội dung khá trừu tượng, người đọc phải suy nghĩ để thấy được thâm ý sâu xa

trong đó. Điều này khác hẳn với Nam triều công nghiệp diễn chí, Nguyễn Khoa

Chiêm đã có những cách tân để cho tác phẩm của mình không bị đi vào khuôn

mẫu một cách cứng nhắc, ví dụ như khi hết quyển ông thường không có thơ

đánh giá chung về nội dung của quyển đó mà chỉ là một bài thơ kết luận về một

sự kiện nổi bật trong tác phẩm và cũng có những quyển khi kết thúc, tác giả

không đưa thơ vào như để tạo dấu ấn riêng cho mình.

Ví dụ như khi kết thúc quyển một, ông đã đánh giá sự kiện Trịnh Tùng

giết vua Lê Kính Tông bằng một bài thơ:

Thương xót Lê hoàng phận bĩ là!

Rồng thần thất thế gặp yêu xà.

Anh hùng ít kẻ giúp triều chính,

Tiếm loạn nhiều tay rắp gian tà.

Trịnh Xuân ví thử mưu chắc thắng,

Định Đế nào đâu phải khóc la.

Kìa xen bố con tru diệt lẫn,

Mới biết long trời bỏ Trịnh gia.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn87

[8, 105]

Header Page 88 of 112.

82

Bài thơ trên Nguyễn Khoa Chiêm đã gán cho tác giả là người đương thời

để có thể bộc bạch hết những suy nghĩ, đánh giá của mình về sự kiện này.

Trong bài thơ, tác giả sử dụng nhiều từ cảm thán để nói lên sự thương xót đối

với vua Lê Kính Tông, một ông vua duy nhất của nhà Lê dám đứng lên đương

đầu với nhà Trịnh và đồng thời cũng phê phán Trịnh Tùng vì tội dám giết vua

là tội không thể tha. Cũng trong bài thơ, Nguyễn Khoa Chiêm còn tỏ thái độ

chê trách gia đình Trịnh Tùng đã không biết đường ăn ở để đến nỗi con phải

lập mưu giết cha.

Ngoài ra, đọc tác phẩm và so sánh với các tác phẩm khác như Hoàng Lê

nhất thống chí, Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử.. chúng ta nhận thấy rằng tác

phẩm Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm có nhiều thơ

hơn các tác phẩm khác. Ngoài các bài thơ bình luận về các sự kiện nổi bật ở

trong hồi, còn có những bài kệ, những bài thơ sấm… mà cần phải thông hiểu

thơ ca, có kiến thức văn chương sâu sắc mới giải nghĩa được. Hay trong trận

chiến 1655 – 1660, sau khi kết thúc trận chiến, tác giả cũng đưa vào tác phẩm

những bài văn tế quân sĩ cả hai Đàng và còn có cả một bài phú dài về trận

Trấn Ninh. Rõ ràng, tác giả đã có những chọn lọc tuyệt vời khi đem thơ vào

trong tác phẩm. Điều đó chứng tỏ tác giả có biệt tài trong cả sáng tác thơ và

văn, đặc biệt là có kiến thức uyên thâm, thông thạo nhiều lĩnh vực.

Nhìn chung, Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm đã

rất thành công trong việc kết hợp giữa ba chất liệu văn xuôi, lịch sử, và thơ.

Ba chất liệu này đã tạo nên một tiểu thuyết lịch sử chương hồi độc đáo, đặc

biệt và có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử văn học trung đại nói riêng, văn học

Việt Nam nói chung.

2.4.2. Lời bình bằng thơ trong truyện.

Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, độc giả luôn bị cuốn hút bởi nghệ

thuật kể chuyện của Nguyễn Khoa Chiêm. Ông đã sử dụng lối kể chuyện chân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn88

xác, sinh động, tự nhiên, giản dị và hấp dẫn để miêu tả nhiều sự kiện chính trị

Header Page 89 of 112.

83

ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài như các cuộc chiến, các âm mưu phế lập,

biến loạn, nhiều trận đánh lớn…Cách viết của ông thường chú trọng vấn đề kể

hơn là tả, câu văn của ông không quá nặng nề vào công thức, giúp độc giả dễ

dàng tiếp nhận. Tuy nhiên, đôi khi cách hành văn của ông lại rơi vào nhược

điểm là lược thuật dài dòng, ngôn ngữ chưa được chau truốt khiến nhiều đoạn

trở nên khô khan, khó hiểu. Và dường như để khắc phục nhược điểm đó,

Nguyễn Khoa Chiêm đã cài vào Nam triều công nghiệp diễn chí của mình

những bài thơ để cho tác phẩm bớt đi sự khô khan cứng nhắc trở nên mềm

mại hơn.

Sau khi kết thúc một sự kiện có ý nghĩa, Nguyễn Khoa Chiêm thường ghi

lại một bài thơ có thể là thất ngôn bát cú, hoặc ngũ ngôn bát cú để bày tỏ ý

kiến đánh giá của mình về sự kiện ấy đồng thời làm tăng tính trữ tình cho tác

phẩm. Thường thì tác giả không bao giờ nhận bài thơ đó là của mình mà

mượn tên tác giả dân gian vô danh như: Người đương thời có thơ rằng để nói

lên tính khách quan của sự kiện. Đó thường là những lời bình bằng thơ hết sức

cô đọng, súc tích và ý nghĩa.

Ví dụ khi chúa Nam cho Lộc Tiên đến chiêu dụ Hàn Tiến về với mình

mà Hàn Tiến không đồng ý, Nguyễn Khoa Chiêm viết rằng:

Người đương thời biết chuyện có làm bài thơ luật như sau:

Ngoài cõi cầm quân chốn chiến trường,

Cửu trùng ơn nặng há xem thường.

Trung thần quyết chẳng thờ hai chúa,

Liệt nữ ai người chịu đổi chồng.

Chớ bảo Từ công không chịu khát,

Hãy rằng Ngu thị sử nêu gương.

Quan nhân tự thuở Há Đường ấy,

Yêm hoạn như ông thật ít dường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn89

[8, 257]

Header Page 90 of 112.

84

Bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngắn gọn, súc tích, nội dung chủ yếu

là ca ngợi tinh thần trung quân của Hàn Tiến đối với chúa Trịnh. Mặc dù chỉ

có tám câu thơ nhưng Nguyễn Khoa Chiêm đã làm nổi bật nhận xét của mình

về Hàn Tiến qua hai điển tích là Từ Thứ dù phải về với Tào Tháo nhưng vẫn

giữ lòng trung với Lưu Bị, và điển tích thứ hai về Ngu Cơ, người tì thiếp của

Hạng Vũ, khi Hạng Vũ qua đời nàng cũng tự sát theo chồng luôn. Việc sử

dụng hai điển tích đó, làm nổi bật giá trị của Hàn Tiến, thể hiện thái độ của

Nguyễn Khoa Chiêm khi đánh giá về nhân vật này.

Hay sau khi Hàn Tiến tự tử, ông có viết như sau:

Người đương thời có thơ rằng:

Trung nghĩa lòng son chí chẳng dời;

Nào hay tâm sự chẳng theo thời.

Núi vô trúng đạn người khôn đoái,

Nhà trạm canh khuya luống ngậm cười.

Năm trước xót ông buồn chưa dứt,

Ngày rày tưởng nhớ lệ khôn rơi.

Mới hay phú quý là giấc mộng,

Chẳng quản nên chăng chuyện ở đời.

[8, 265]

Bài thơ chứa đầy những từ ngữ nhớ, ngậm cười, xót, buồn, lệ khôn rơi,

tưởng nhớ để nói lên sự thương tiếc với một con người có tài năng, trung

thành với chủ lại bị hại đến mức phải tự tử nên tác giả rất xót thương. Đó cũng

bởi tác giả rất khâm phục những con người tài giỏi, trung thành như Hàn Tiến.

Hay khi nói về đội quân của công tử Hiệp Đức đi đánh chặn đội quân của

Hào Man Lê Thì Hiến năm 1661. Đội quân này rất hùng dũng lại được chỉ huy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn90

là người tài đức vẹn toàn nên khi xuất quân khí thế rất mạnh,tác giả đã viết rằng:

Header Page 91 of 112.

85

Chỉ thấy:

Quân uy nghiêm túc, kiếm bích buốt rừng,

Chiêng trống động trời xanh, tinh kỳ che đất biếc,

Người người dương oai đoạt mạnh,

Ai nấy ra sức tranh hung.

Mới hay Đàng Trong khỏe vững,

Chẳng ai không một thắng trăm.

[8, 482]

Đó quả thật là một lời khen rất chính xác thông qua bài thơ mang tính

chất bình luận của tác giả.

Trong trận chiến giành, giữ thành Trấn Ninh, để bộc lộ sự thương xót của

mình với các quân sĩ tử nạn, lại thêm căm hờn sự tham lam, ích kỉ, độc ác của

các đấng vua chúa đã bắt buộc người trong một nước phải giết hại lẫn nhau,

Nguyễn Khoa Chiêm có thơ rằng:

Chiến khí xung thiên sang vọng lâu.

Nước trời lấp loáng ánh đêm thâu.

Rồng cuộn đêm ngày giơ nanh vuốt,

Hổ dữ ngày tranh vểnh ngược râu.

Trước lũy quân say liền đánh trận,

Trong thành quyết chí lập công đầu.

Địch quân lạ có ai kêu bảo,

Mới biết lòng trời muốn giúp lâu.

[8, 545]

Hay sau trận nội chiến 1655-1660, sau khi quân Nam rút về Đàng Trong,

ông có thơ bình rằng:

Người đương thời có thơ rằng:

Anh hùng trời trao mệnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn91

Trí giỏi lại thông minh

Header Page 92 of 112.

86

Đức dầy yên bờ cõi

Tài cao quân giặc lánh

Mưu lược biết thế vận

Ơn trị thấu dân tình

Mây tạnh trời lại sáng

Nghìn thu hưởng thái bình.

[7,478]

Nhìn chung, trước mỗi sự kiện quan trọng, tác giả đều có cái nhìn rất

khách quan để từ đó đưa ra những đánh giá, bình luận rất chính xác, không

thiên lệch.

Ngoài ra, trong truyện tác giả còn rất nhiều lần đưa ra những lời bình

luận bằng thơ vô cùng sắc đáng về các sự kiện quan trọng, nổi bật. Những bài

thơ ấy đã giúp tác giả rất nhiều khi muốn đưa nhận xét của mình mà không

ảnh hưởng đến ai, ông mượn lời người đương thời vô danh để viết nên không

sợ phạm húy hay mắc tội với triều đình nào cả. Đó quả là một sự lựa chọn rất

thông minh và sáng suốt của tác giả.

Nhìn chung, trước mỗi sự kiện quan trọng, tác giả đều có cái nhìn khá

khách quan để từ đó đưa ra những đánh giá, bình luận chính xác, không thiên

lệch, thể hiện cái nhìn bao quát và có thái độ đánh giá riêng trước mỗi sự kiện.

Tóm lại, trong Nam triều công nghiệp diễn chí, thơ đã đóng một phần

quan trọng trong thành công của nghệ thuật kể chuyện và sự thành công ấy

một lần nữa khẳng định lại rằng thơ là một phần không thể thiếu trong tiểu

thuyết chương hồi và đặc biệt là trong Nam triều công nghiệp diễn chí của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn92

Nguyễn Khoa Chiêm.

Header Page 93 of 112.

87

Chương 3

HÌNH THỨC TỰ SỰ CỦA NAM TRIỀU

CÔNG NGHIỆP DIỄN CHÍ

3.1. Vai trò của người kể chuyện trong Nam triều công nghiệp diễn chí

3.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ ba khách quan

Trong tác phẩm tự sự, ngôi kể đóng vai trò rất quan trọng. Ngôi kể chính

là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng khi kể chuyện. Khi người kể xưng “tôi”

thì đó là kể theo ngôi thứ nhất còn khi người kể giấu mình, gọi sự vật bằng cái

tên của chúng, như “người ta kể” thì đó gọi là kể theo ngôi thứ ba. Mỗi một

ngôi kể có lợi thế riêng của nó. Ngôi kể thứ nhất thì chỉ được kể theo những gì

mình được biết, được chứng kiến, được trải qua, có thể nói ra cảm tưởng của

mình một cách trực tiếp và mang tính chủ quan. Ngôi kể này thường áp dụng

trong các tác phẩm tự thuật hoặc hồi ức, chủ thể tự kể về mình, hoặc trong các

tác phẩm mà chủ thể hóa thân vào nhân vật để đảm bảo sự thật cho câu

chuyện. Kể theo ngôi thứ ba thì người kể giấu mình, độc giả không biết người

kể là ai. Người kể có mặt ở khắp nơi, biết mọi chuyện và kể như người ta kể.

Kể ở ngôi thứ ba thường mang tính khách quan, nhòe mờ tính chủ quan cho

nên lời kể thường rất tự nhiên, hoạt bát, có thể di chuyển điểm nhìn đến khắp

mọi nơi.

Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tác giả chọn ngôi kể thứ ba, nhà

văn ẩn mình và không ai biết người kể. Chính vì thế, tác giả có thể kể mọi

chuyện và kể ở khắp nơi trên mọi miền đất nước. Cách kể ấy tạo ra tính xác

thực không thiên lệch, khiến cho câu chuyện hiển hiện với sự hấp dẫn thú vị.

Mặc dù trong tác phẩm tác giả không lộ diện mình là ai, thuộc phe nào,

nhưng những sự kiện tác giả đề cập lại rất chính xác, đặc biệt những nhận

định của ông khá chuẩn mực, không thiên lệch. Mặc dù đọc tác phẩm ta thấy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn93

Nguyễn Khoa Chiêm có nhiều ưu ái khi kể về các chúa Nam triều, song khách

Header Page 94 of 112.

88

quan mà nói thì những lời kể của tác giả cũng không hoàn toàn phiến diện.

Khi các chúa Nam triều có những khuyết điểm gì, ông cũng đều mạnh dạn chỉ

rõ chứ không bao che, lấp liếm. Điều đó lại càng tăng thêm tính khách quan

cho tác phẩm. Ví dụ như tác giả đã phê phán chúa Nguyễn Phúc Lan cũng có

thời kì ăn chơi, hưởng lạc, sa vào sắc dục để ảnh hưởng đến triều chính, hay là

chuyện con trai của chúa tranh giành ngôi vị, giết hại lẫn nhau. Cụ thể là

chuyện chúa Thượng sau khi lên ngôi chúa đã bị Dương Nghĩa hầu ghen tị

quyết chí làm phản, Tường Quận công phải đi bắt về xử tội. Hoặc việc Thụy

Quận công Nguyễn Phúc Nguyên được lên nối ngôi chúa thì hai người em là

Văn Nham và Thạch Xuyên vốn là anh em cùng cha khác mẹ sinh lòng ghen

ghét và có mưu đồ tranh giành ngôi chúa. Hai người này lên kế hoạch liên kết

với quân Trịnh để lật đổ chúa Sãi, nhưng kế hoạch bị bại lộ và bị Tuyên Lộc

theo mệnh chúa bắt đem về giam tại nhà rồi sau này xấu hổ quá mà chết. Có

đoạn ông còn nói đến việc thiếu quyết đoán, chần chừ của chúa Nguyễn trong

chính trị như sự việc của Hiền vương Nguyễn Phúc Tần, người đã để lỡ mất

cơ hội thu phục Trung đô, thống nhất giang sơn mặc dù thế trận đã nghiêng

hẳn về phía Nam triều, để rồi khi mất Ký Lục hồ, chúa cũng phải hối tiếc rằng

không có cơ hội thứ hai như vậy nữa….Hay sự việc các tướng lĩnh của chúa

Nam Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật và Thuận Nghĩa Nguyễn Hữu Tiến lục đục

với nhau gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến kết quả trận chiến cũng

được Nguyễn Khoa Chiêm thẳng thắn chỉ ra.

Còn về phía quân Bắc triều, tác giả cũng không ngại ngùng khi chỉ rõ bộ

mặt đớn hèn của các vua Lê chỉ biết ăn chơi hưởng lạc không có chính kiến

riêng, không có tài cán gì để nhà Trịnh thâu tóm quyền hành, lấn lướt vua,

hành hạ nhân dân, khiến nhân dân rơi vào tình cảnh một cổ hai tròng. Ngoài

ra, ông còn chỉ rõ sự ích kỷ của các đời vua Lê khi mặc sức cho chúa Trịnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn94

hoành hành trong thiên hạ, còn bản than mình lo hưởng thụ và thi nhau tranh

Header Page 95 of 112.

89

chấp ngôi báu…Qua việc chỉ trích các đời vua Lê, ta thấy Nguyễn Khoa

Chiêm đã rất khôn khéo khi mượn điểm nhìn nghệ thuật từ bên ngoài để nhìn

vào sự thật đồng thời dùng ngôi kể ẩn mình để nói lên tất cả những suy nghĩ

chân thật về hiện thực xã hội mà không ai có thể trách cứ hay bắt lỗi được.

Cũng với cái nhìn toàn cảnh và không thiên lệch ấy, Nguyễn Khoa

Chiêm đã cho bạn đọc thấy rõ bộ mặt xấu xa, tàn ác của các đời chúa Trịnh.

Hầu hết các đời chúa hiện lên trong tác phẩm đều là những ông chúa tàn bạo,

độc ác, trên khinh mạn thiên tử, dưới coi thường muôn dân, lấn lướt quyền

hành của vua, giết vua hại trung thần.. tội nào cũng có. Đó là những lần lấn

quyền vua tự quyết định việc của quốc gia, hay là việc giết vua cũ thay vua

mới mà không cần ý kiến ai. Nhìn chung, dưới con mắt của Nguyễn Khoa

Chiêm thì các đời chúa Trịnh hiện lên đều là những ông chúa đáng ghét hơn

đáng kính. Những điều này cho thấy tác giả có cái nhìn chuẩn xác và đầy bản

lĩnh mới dám viết lên thành một câu chuyện hay như vậy. Thông qua câu

chuyện, tác giả muốn lên án cuộc nội chiến kéo dài hơn một trăm năm giữa

Đàng Trong và Đàng Ngoài, làm cho người chịu khổ nhất không ai khác chính

là người dân. Còn các vị vua chúa tham gia cuộc nội chiến này không có mục

đích nào khác ngoài mục đích tranh giành quyền lực, địa vị, không hề quan

tâm đến cuộc sống của bá tính, muôn dân lầm than mất mát ra sao họ không

thèm đếm xỉa đến.

Bên cạnh việc phê phán mặt sai lầm của các phe phái, tác giả cũng nói

lên những mặt tốt, những yếu tố tích cực mà các ông vua, vị chúa đã làm

được. Đó là lời khen cho các đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, họ là những

ông chúa biết yêu thương dân chúng, biết trọng đãi kẻ hiền. Đọc tác phẩm, ta

thấy được từ đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng đến đời chúa Sãi vương Nguyễn

Phúc Trăn, các vị chúa này đều có những chính sách khuyến khích nông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn95

nghiệp phát triển, có nhiều lần miễn thuế cho dân khi gặp thiên tai, biết bảo vệ

Header Page 96 of 112.

90

dân, phát lương cho dân khi đói kém…. Nhìn chung, họ yêu dân như con và

có ý thức xây dựng đất nước thịnh vượng cho muôn dân. Các vị chúa Trịnh

cũng được ông nhắc đến công lao phò giúp vua Lê xây dựng đất nước. Còn

các vua Lê thì phần nào cũng có mặt tốt riêng, cũng có ông vua muốn giành lại

thực quyền đã lên kế hoạch đánh đổ Trịnh Tùng nhưng rồi bị phát hiện nên phải

chết một cách đau xót.

Từ ngôi kể thứ ba, Nguyễn Khoa Chiêm đã làm được một công việc vô

cùng nặng nhọc đó là ghi lại toàn bộ diễn tiến của lịch sử nước ta trong suốt

một chặng đường dài với cái nhìn toàn cảnh và nội dung phản ánh khá khách

quan. Điều đó đã tạo cho Nam triều công nghiệp diễn chí một sức hấp dẫn

riêng đối với bạn đọc nhiều thế hệ. Đây chính là một nét đặc sắc trong nghệ

thuật kể chuyện của Nguyễn Khoa Chiêm.

3.1.2. Điểm nhìn nghệ thuật từ bên ngoài

Trong tác phẩm tự sự, ngôi kể chiếm phần quan trọng nhưng nếu chỉ quan

tâm đến ngôi kể thì sẽ không thấy được nội hàm của tác phẩm một cách toàn diện.

Điểm nhìn nghệ thuật là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu. Điểm nhìn là

vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật, hiện tượng trong tác phẩm.

Có nhiều loại điểm nhìn như điểm nhìn của người trần thuật, tác giả hay

của nhân vật trữ tình và của nhân vật trong tác phẩm tự sự, điểm nhìn không

gian và điểm nhìn thời gian. Ngoài ra, còn có điểm nhìn bên trong và điểm

nhìn bên ngoài, điểm nhìn đánh giá tư tưởng cảm xúc, điểm nhìn ngôn từ,

quán ngữ…

Trong tác phẩm tự sự, không nhất thiết người viết phải giữ một điểm nhìn

cố định cho toàn bộ tác phẩm của mình mà có thể có sự dịch chuyển, thay đổi

điểm nhìn để phù hợp với từng hoàn cảnh, khung cảnh diễn ra trong tác phẩm.

Mặt khác, sự dịch chuyển điểm nhìn sẽ giúp cho lời trần thuật của tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn96

được phong phú hơn, do đó tránh được sự nhàm chán cho người đọc. Trong

Header Page 97 of 112.

91

nhiều trường hợp thì dịch chuyển từ điểm nhìn bên ngoài tới điểm nhìn bên

trong sẽ giúp cho tác giả dễ dàng bộc lộ được nội tâm, suy nghĩ của nhân vật

một cách khách quan nhất.

Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, điểm nhìn trần thuật chính là

điểm nhìn bên ngoài, tác giả đã quan sát tất cả các sự kiện từ bên ngoài, như

một người ngoài cuộc theo dõi thật chi tiết toàn bộ các sự kiện diễn ra để rồi

ghi lại một cách cụ thể, rõ ràng và khách quan nhất.

Từ bên ngoài nhìn vào hiện thực lịch sử, Nguyễn Khoa Chiêm đã thấy

được toàn cảnh tối tăm của triều đình phong kiến Việt Nam thế kỷ XVI –

XVII và phản ánh hiện thực ấy một cách rõ nét, sinh động, chân thực trong

Nam triều công nghiệp diễn chí.

Chỉ có sử dụng điểm nhìn bên ngoài, Nguyễn Khoa Chiêm mới có thể

miêu tả đầy đủ và trọn vẹn những gì đang diễn ra, từ hình dáng, tính cách các

nhân vật, đến toàn cảnh các trận chiến. Với chiều dài lịch sử hàng trăm năm,

với vài trăm nhân vật lịch sử,chỉ có đứng ở ngoài nhìn vào thì mới có thể có

cái nhìn bao quát rộng lớn đến vậy.

Ví dụ như ở trận đánh giữ thành Trấn Ninh năm 1655 – 1660 tác giả có

miêu tả khí thế trận đánh của cả hai bên như sau:

“Ngày hai mươi lăm, vào giờ Thìn, quân Bắc tiến thẳng đến dưới thành

Trấn Ninh, tiếng hò reo vang dậy, tiếng chiêng trống vang trời. Quân hai bên

đánh lớn, tiếng súng nổ ầm ầm. Quân Nam bám vào mặt thành mà đánh.

Quân Bắc đi dưới đường đánh gấp vào thành, đôi bên giành giật nhau từ sáng

đến tối không phân thắng bại”. [8, 543]

Ngày hai mươi sáu, quân Bắc cho người “bám tường leo lên mặt thành,

quân nấp dưới hầm thì bắn sung trợ chiến. Khi thấy quân Bắc trèo lên lũy

quân Nam cầm giáo nhọn mà đâm xuống, quân trèo thành chết lăn rất nhiều,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn97

xác chết đầy hào rãnh. Quân Bắc chồng các xác chết làm thang mà trèo lên,

Header Page 98 of 112.

92

quân giữ thành ra sức mà đâm giết, thây chất thành từng đống cao. Quân sĩ

đâm mỏi tay thì đẩy súng lớn ra bắn. Quân Bắc dùng dây thừng buộc thòng

lọng quăng vào nòng súng mà kéo xuống rồi tống đất đá, rơm cỏ vào làm tắc

nòng không bắn được. Quân Nam lại dung thương dài mà đâm, quân Bắc

cũng đâm trả. Quân đôi bên cứ thế hỗn chiến kéo dài” [8, 544]

Ngoài ra, tác giả còn miêu tả quân Bắc còn “dùng sào dẫn hóa chất mồi

lửa vào đốt mái đài, ngọn lửa bốc cháy rừng rực ngút trời”, lại “ném cả trái

phá vào thành”.[8, 545]

Rất nhiều các trận đánh, các sự kiện quan trọng được miêu tả một cách kĩ

lưỡng và tổng thể, điều đó càng chứng tỏ rằng tác giả có cái nhìn rất rộng và

đa chiều. Điểm nhìn từ bên ngoài đã bao trùm cả tác phẩm và tạo nên sự thành

công về nghệ thuật tự sự mà hiếm tác phẩm nào ở thời kì này có được.

3.2. Nghệ thuật kể chuyện trong Nam triều công nghiệp diễn chí

3.2.1. Cách mở đầu trực tiếp

Nói về nghệ thuật kể chuyện, mỗi nhà văn có một cách riêng, một trình

độ kể khác nhau. Cùng một cốt truyện ấy nhưng có người kể hay, có người kể

không hay, có người khi vừa vào truyện đã lôi cuốn người nghe muốn nghe

mãi đến hết chuyện, nhưng cũng có người khi vừa bắt đầu câu chuyện đã thấy

nhạt và không ai muốn nghe tiếp mặc dù cốt truyện rất hay. Trong sáng tác

văn học cũng vậy, không phải bất cứ nhà văn nào cũng viết hay, viết tốt, biết

cách đưa bạn đọc đến với tác phẩm của mình. Thực tế cho thấy không hiếm

nhà văn mặc dù cốt truyện hay nhưng cách viết lại nhạt nhẽo và không gây

được sự chú ý của bạn đọc.

Nghệ thuật kể chuyện đạt tới tầm cao là phải hấp dẫn được người nghe,

người đọc ngay từ cách mở đầu câu chuyện. Mở đầu phải hay, linh hoạt, lôi

cuốn thì người đọc người nghe mới say mê, có tâm thế theo dõi cả câu chuyện.

Trong Nam triều công nghiệp diễn chí, tác giả đã rất thành công khi gây

sự chú ý với độc giả ngay ở cách mở đầu trực tiếp giới thiệu thẳng vào cốt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn98

truyện. Cách mở đầu này tạo ra sự chú ý cho độc giả.

Header Page 99 of 112.

93

Ngay từ những dòng đầu tiên, Nguyễn Khoa Chiêm đã đưa vào một bài

thơ rất hay, tạo sự tò mò cho độc giả. Bài thơ dường như đã nói lên ý đồ của

tác giả khi xây dựng tác phẩm, mở ra những phán đoán, suy tư cho độc giả.

Những bài thơ ấy thường ngầm thông báo về lẽ thịnh suy của thời cuộc, đánh

giá khái quát những sự kiện, những nhân vật lịch sử. Ví dụ như:

Thơ rằng:

Ngày bụi phất đêm dặc dài

Kể chuyện rồng lên hổ rống

Khoe tài côn nhảy bằng bay

Đến đầu chẳng biết trời đất rộng

Đưa mắt mới hay núi sông dài

Ngoài cuộc chán xem tranh thắng bại

Trong vòng những muốn giữ đất đai

Đó thịnh suy, triều đại hưng vong chăng đổi

Đông chinh Tây chiến, trời người ứng thuận chẳng hề sai.

[8, 21]

Tiếp đó, tác giả đưa bạn đọc đến với những khái quát về lịch sử nước nhà

từ thời “Hùng Vương, Triệu Vương đến Đinh, Lý, Trần, Lê, sáu triều đại hưng

phế tiếp nhau” [8, 22] để giới thiệu tiếp sự ra đời và tồn tại của triều Lê, rồi

sau đó mới nhắc đến việc các đời vua Lê lên ngôi thay vua Trần ra sao, các

vua Lê cai trị đất nước như thế nào khiến cho cường thần Mạc Đăng Dung

cướp ngôi; rồi hoàng tử Lê Ninh phải chạy sang Ai Lao trốn như thế nào. Tất

cả đều được Nguyên Khoa Chiêm miêu tả ngắn gọn và súc tích để bạn đọc

nhanh chóng nắm được vấn đề. Sau khi nói qua về lịch sử hình thành triều Lê

và nguyên nhân nhà Lê bị mất ngôi bởi nhà Mạc,tác giả mới chính thức đi vào

câu chuyện của mình.

Với cách vào chuyện thông minh, tác giả vừa kể, vừa nhắc bạn đọc có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn99

một chút liên hệ với lịch sử nước nhà để từ đó dẫn dắt vào câu chuyện một

Header Page 100 of 112.

94

cách tự nhiên. Nguyễn Khoa Chiêm đã tạo cho Nam triều công nghiệp diễn

chí có một màn mở đầu đầy ấn tượng và hấp dẫn khi kết hợp giữa thơ và văn

để tạo ra sự linh hoạt và lôi cuốn. Điều này đã khiến cho tác phẩm có sự thành

công rất sớm, khiến độc giả bị hút theo cốt truyện mà tác giả kể sau đó. Đấy

chính là thành công đầu tiên của Nguyễn Khoa Chiêm khi viết Nam triều công

nghiệp diễn chí, để rồi, tiếp nối thành công ấy, tác giả cứ lôi cuốn người đọc

đi hết sự kiện này đến sự kiện kia, hồi này đến hồi khác cho đến cuối truyện.

Nguyễn Khoa Chiêm đã biết vận dụng điều đó và làm cho tác phẩm của

ông hấp dẫn ngay từ phút đầu tiên mở truyện. Đó là thành công của ông trong

sáng tác văn chương mà ở thời kỳ ông không phải ai cũng làm được.

3.2.2. Cách dẫn dắt chuyện lôgic

Sau cách mở đầu câu chuyên linh hoạt và lôi cuốn, tác giả còn có một

nhiệm vụ quan trọng là phải làm sao triển khai toàn bộ nội dung, cốt truyện

mà mình đã ấp ủ để cho bạn đọc hiểu, yêu thích nội dung đó và tiếp tục khám

phá cái hay, cái mới trong tác phẩm. Điều này một phần dựa vào yếu tố cốt

truyện và phần quan trọng không kém là ở khả năng dẫn chuyện của tác giả.

Cách dẫn chuyện rất quan trọng trong tác phẩm, bởi nếu không dẫn

chuyện hay và lôgic, nhà văn sẽ khiến cho tác phẩm rời rạc, khô khan và thiếu

hấp dẫn, từ đó sẽ dẫn đến tâm lý chán đọc hoặc đọc không nhiệt tình, không

muốn khám phá tiếp về tác phẩm. Điều này sẽ gây bất lợi cho tác giả và sẽ là

một trong những nguyên nhân khiến tác phẩm thất bại.

Có lẽ nắm được rất rõ điều đó cho nên Nguyễn Khoa Chiêm đã rất chú ý

tới việc triển khai cốt truyện và cách dẫn chuyện để cho độc giả chú ý vào câu

chuyện. Đọc Nam triều công nghiệp diễn chí, độc giả sẽ cảm nhận được nhiệt

huyết của nhà văn khi cố công xây dựng một câu chuyện lịch sử nhưng lại

mang đậm tính văn học, và câu chuyện đó được tác giả kể với một thái độ rất

say sưa, rất cuốn hút bởi một lối dẫn chuyện thông minh và logic.

Sự khéo léo của tác giả khi dẫn người nghe vào câu chuyện của mình là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn100

khi kể tác giả thường có những chú thích rất rõ ràng cho những sự kiện đã xảy

Header Page 101 of 112.

95

ra trước đó để nhắc độc giả nhớ lại và tưởng tượng tốt hơn về quá khứ, từ đó

dẫn đến hiện thực câu chuyện mà tác giả đang kể. Những tình tiết trong tác

phẩm thường được Nguyễn Khoa Chiêm viết khá cụ thể, chi tiết để người đọc

nắm bắt kĩ hơn. Rồi các sự kiện nối tiếp nhau liên tục bởi những từ nối như:

bỗng, lại nói, từ đó… được tác giả sử dụng với cường độ cao nhằm kết nối

các sự kiện lại với nhau. Ngoài ra, khi kể chuyện, tác giả rất chú ý đến yếu tố

thời gian, điều này sẽ khiến cho tác phẩm mang đậm tính chân thực, làm cho

người đọc cảm thấy thú vị và tin tưởng hơn. Một yếu tố nữa khiến cho cách

dẫn chuyện của tác giả trở nên hay và hấp dẫn là việc kết hợp, đan xen giữa

ba yếu tố văn – sử - thơ trong mạch tự sự khiến cho tác phẩm có tiết tấu nhẹ

nhàng, mềm mại, giúp độc giả không cảm thấy nhàm bởi tính chất của những

sự kiện lịch sử khô khan. Trong truyện, ta thấy tác giả còn có kiến thức rất

uyên thâm về nhiều lĩnh vực như: chính trị, văn học, xã hội… thể hiện qua

việc đưa ra những bình luận xác đáng. Hơn nữa, ông còn thể hiện tầm học vấn

của mình qua hệ thống điển tích, điển cố đã đề cập đến khá nhiều trong tác

phẩm. Hầu như ở mỗi sự kiện quan trọng, khi đưa ra những lời bình, tác giả

không bao giờ quên đưa vào đó những điển tích, điển cố phù hợp để làm sinh

động, hấp dẫn hơn cho câu chuyện. Ví dụ khi Nguyễn Hoàng diệt được tướng

Mạc là Lập Bạo, Nguyễn Khoa Chiêm có thơ rằng:

Người đương thời bấy giờ có thơ chê cười Lập Bạo rằng:

Giúp rập thưa tài chốn dậu li,

Nhờ mưu nữ sắc thắng binh uy.

Tình xưa người cũ nay đành dứt,

Duyên mới hồn bay vẽ nét mày.

Trác gặp Thuyền Quyên, thân chẳng vẹn.

Tiễn mừng Tây Tử nước qua nguy.

Ai rằng Lập Bạo phường khinh suất,

Thủa trước hùng anh có khác gì?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn101

[8, 32]

Header Page 102 of 112.

96

Có một sự kiện lớn mà chỉ bằng hai câu thơ, tác giả đã giới thiệu cho bạn

đọc thấy hai điển tích của nước Trung Hoa là điển tích về việc Vương Doãn

gả Điêu Thuyền cho cả Đổng Trác và Lã Bố. Cả hai đều say đắm sắc đẹp của

trang tuyệt sắc này và kết cục cuối cùng mà Vương Doãn mong muốn cũng

xảy ra, Lã Bố giết chết Đổng Trác nhằm chiếm người đẹp cho riêng mình; và

điển tích về Việt vương Câu Tiễn dùng Tây Thi dâng cho Ngô vương Phù Sai

với mục đích chính trị…

Ngoài ra, trong tác phẩm còn rất nhiều lần tác giả đưa vào những điển

tích, điển cố khác nhau mang tính thần bí để làm tăng sự hấp dẫn cho tác

phẩm. Trong văn học trung đại, việc sử dụng hệ thống các điển tích, điển cố là

điều thường thấy, giúp tác phẩm trở nên sâu sắc hơn, giàu liên tưởng hơn.

Cùng với việc sử dụng điển tích, tác giả còn đưa vào truyện những yếu tố kì

ảo để làm cho tác phẩm thêm sinh động. Việc thần thánh hóa các sự kiện là

một nét văn hóa không thể thiếu của người Việt thời kì này. Do đó, tác phẩm

đón nhận được sự quan tâm của độc giả là điều dễ hiểu. Yếu tố kì ảo hòa

quyện vào những nhân vật có thực trong lịch sử cũng là một yếu tố giúp tác

phẩm có sức hút đối với độc giả.

Tóm lại, nghệ thuật kể chuyện trong Nam triều công nghiệp diễn chí là sự

kết hợp tuyệt vời giữa nhiều yếu tố nhưng đặc biệt quan trọng là cách dẫn

chuyện vô cùng hấp dẫn cộng với cốt truyện chọn lọc,hay và giàu ý nghĩa, đã

khiến cho Nam triều công nghiệp diễn chí trở thành tác phẩm đặc sắc cả về tính

chất văn học và tính chất sử học.

3.2.3. Kết thúc chuyện khép kín

Trọn vẹn ba mươi chương của Nam triều công nghiệp diễn chí là sự tái

hiện đời sống xã hội trong hơn một trăm ba mươi năm lịch sử nước nhà với

cuộc nội chiến tàn khốc nhất trong thời kỳ trung đại cuộc nội chiến Lê – Mạc

và đặc biệt là cuộc nội chiến giữa nhà Trịnh với nhà Nguyễn. Cuộc chiến đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn102

gây bao nhiêu đau thương chết chóc cho toàn dân tộc, với tổng cộng bảy trận

Header Page 103 of 112.

97

giao tranh lớn, trận cuối cùng vào năm 1672, khép lại thời kì Trịnh – Nguyễn

phân tranh.

Câu chuyện dừng ở chỗ hai bên ngừng giao chiến chứ không phải là sự

khép lại của lịch sử. Gần kết truyện thì những nhân vật anh hùng tiêu biểu của

cả hai triều phần lớn đã qua đời. Ở bên Nam triều, Chiêu Vũ Nguyễn Hữu Dật

mất năm 1681, đến năm 1684, con trưởng của chúa Hiền là Phúc Mỹ hầu

Nguyễn Phúc Diễn mất, đến năm 1685, công tử thứ tư của chúa là Cương

Lĩnh hầu cũng mất và đến năm 1687 chúa Hiền cũng qua đời, con trai thứ ba

là Nguyễn Phúc Trăn nối ngôi cha. Còn ở Bắc triều, năm 1684, Tây Định

vương mất, Phú Quận công Trịnh Tạc lên nối ngôi lúc bị ốm nên phải nằm

ngự triều mà chấp chính.

Tác phẩm kết thúc ở đoạn hai bên đã ngưng chiến, quay về chăm lo củng

cố phát triển vương triều và ổn định xã hội. Nói là kết thúc ở đây nhưng kì

thực là kết thúc cuộc giao tranh giữa hai Đàng, còn lịch sử thì vẫn tiếp diễn

theo hành trình lâu dài của nó. Và ngay sau thời điểm kết thúc, một thời kì

lịch sử nữa đầy biến động sẽ lại bắt đầu với cuộc nổi dậy của nhân dân cả hai

Đàng, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.

Chính cuộc khởi nghĩa này đã đập tan ý đồ tấn công lẫn nhau của cả hai

vương triều, mở ra triều đại Tây Sơn vào năm 1789.

Tóm lại, với cách mở đầu, dẫn chuyện và kết thúc đặc sắc ấy, tác giả

Nguyễn Khoa Chiêm đã tạo được ấn tượng đặc biệt đối với độc giả về một

cuốn tiểu thuyết được mệnh danh là khai sinh ra nền tiểu thuyết lịch sử chương

hồi Việt Nam. Tác phẩm đã thực sự khẳng định được vai trò tiên phong của

mình trong việc phát triển nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi của nước ta khi

mà sau Nguyễn Khoa Chiêm còn có rất nhiều tác giả nữa viết theo thể loại này.

Hệ thống tác phẩm tiểu thuyết lịch sử chương hồi đã góp phần làm cho nền văn

học trung đại nói riêng, văn học Việt Nam nói chung thêm phong phú, có sức

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn103

sống lâu bền với thời gian.

Header Page 104 of 112.

98

PHẦN KẾT LUẬN

Nam triều công nghiệp diễn chí là một tác phẩm có ý nghĩa trong nền văn

học Việt Nam. Đây là tác phẩm mở đầu nền tiểu thuyết lịch sử chương hồi của

nước ta. Mặc dù có vị trí quan trọng như vậy song các nghiên cứu về tác phẩm

chưa nhiều. Trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu của các nhà

nghiên cứu đi trước, luận văn của chúng tôi cũng đã cố gắng đi sâu tìm hiểu,

nghiên cứu về tác phẩm. Nhưng trong phạm vị giới hạn của luận văn, người

viết chỉ tập trung tìm hiểu về nghệ thuật tự sự của tác phẩm. Qua quá trình

nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận chính như sau:

1. Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm là cuốn tiểu

thuyết lịch sử chương hồi đầu tiên của Việt Nam ta được viết bằng chữ Hán,

dày sáu trăm ba mươi hai trang, chia làm tám quyển, tương đương với tám

hồi. Trải qua một thời gian dài, tác phẩm đến nay không còn giữ nguyên vẹn

được như lúc đầu, có những phần bị cắt xén, có những phần được thêm vào,

thậm chí ngay cả tên gọi của tác phẩm cũng bị thay đổi nhưng cuối cùng tác

phẩm vẫn lấy lại được cái tên ban đầu là Nam triều công nghiệp diễn chí.

2. Về mặt cấu trúc tự sự, chúng tôi nhận thấy từ nội dung truyện, những

yếu tố kì ảo trong truyện, những nhân vật, những sự kiện có thật trong lịch sử

đã được tác giả đưa vào tiểu thuyết khiến cho tác phẩm có giá trị lớn về mặt

lịch sử. Ngoài ra, tác phẩm còn có những lời bình, lời giới thiệu bằng thơ làm

tăng thêm tính trữ tình và chất văn chương cho tác phẩm. Cấu trúc tự sự này

khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Khoa Chiêm trong tiến trình văn

xuôi dân tộc.

3. Về mặt hình thức tự sự của tác phẩm, có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng

ngôi kể thứ ba để tạo nên một cái nhìn toàn diện, đa chiều và khách quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn104

nhằm tăng tính chân thực cho tác phẩm. Ngoài ra, điểm nhìn từ bên ngoài

Header Page 105 of 112.

99

cũng giúp nhà văn có cái nhìn toàn cảnh, rộng lớn hơn để có thể cập nhật toàn

bộ những thông tin vào trong các chương hồi.

4. Về nghệ thuật kể chuyện, tác giả đã rất thành công trong việc kể

chuyện, đặc biệt là trong cách mở đầu tác phẩm rất linh hoạt và lôi cuốn. Điều

này khiến cho tác phẩm có được thành công ngay từ bước đầu. Tiếp đó là cách

triển khai nội dung, cốt truyện một cách hài hòa cộng với lối dẫn chuyện hấp

dẫn đã giúp cho người đọc có hứng thú để đi theo hết toàn bộ tác phẩm. Ngoài

ra, sự đan xen giữa những nhân vật có thực, sự kiện có thực với những tình

tiết mang tính kì ảo đã khiến cho Nam triều công nghiệp diễn chí vừa đậm

chất sử vừa đậm chất văn, làm nên sự đặc sắc của tác phẩm.

Kết thúc truyện khép kín, không tạo thêm một luồng ý kiến nào xung

quanh việc cả hai bên ngừng giao chiến sau bảy cuộc đại chiến kéo dài gây

tổn lớn. Khép lại câu chuyện cũng chính là khép lại màn kịch đầy bi thương

của đất nước trong cuộc chiến nồi da xáo thịt. Cách kết thúc này tạo ra sự

hoàn chỉnh của một tác phẩm lịch sử chương hồi trong một sinh thể nghệ thuật

thống nhất cũng góp thêm vào thành công của Nam triều công nghiệp diễn chí.

Được viết bởi một vị quan triều Nguyễn, cho nên ngòi bút dù cố gắng tạo

cái nhìn khách quan nhưng cũng không giấu nổi việc tác giả ca ngợi công lao

của triều Nguyễn trong việc mở mang bờ cõi phía Nam đất nước ta. Thực tế

cho thấy tác giả cũng không tỏ rõ ý kiến phê phán cuộc chiến tranh này trong

tác phẩm mà tự bản thân tác phẩm nói lên điều đó. Với ý nghĩa khách quan

của mình, tác phẩm đã lên án, tố cáo mạnh mẽ cuộc chiến tranh phi nghĩa,

cuộc chiến của lòng tham, tính ích kỉ, hiếu thắng của các thế lực vua chúa thời

kì này. Và đây là giá trị tư tưởng đặc sắc mà Nam triều công nghiệp diễn chí

đã đem đến cho các thế hệ bạn đọc.

Gần ba thế kỷ đã trôi qua kể từ khi tác phẩm ra đời, song Nam triều công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn105

nghiệp diễn chí hầu như vẫn giữ nguyên được những giá trị vốn có của nó.

Header Page 106 of 112.

100

Một trong những giá trị nổi bật của cuốn sách này là nghệ thuật tự sự đặc sắc

của Nguyễn Khoa Chiêm – một tài năng văn học độc đáo của đất nước –

người đã có công đầu trong việc khai sinh thể loại tiểu thuyết lịch sử chương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn106

hồi Việt Nam.

Header Page 107 of 112.

101

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1996), “Loại hình tác giả văn học và vấn đề phương

pháp luận nghiên cứu”, Tạp chí Văn học, số 2.

2. Lại Nguyên Ân – Bùi Văn Trọng Cường (2001), Từ điển văn học Việt

Nam- từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

4. Trần Lê Bảo (1991), “Cái “kỳ” trong tổ chức nghệ thuật Tam Quốc chí

diễn nghĩa của La Quán Trung”, Tạp chí Văn học, số 3.

5. Phạm Tú Châu (1997), “Tiểu thuyết Minh Thanh và diễn tiến tiểu thuyết

Hán Nôm ở nước ta”, sách: Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

6. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Mấy đặc trưng loại đặc biệt của nền văn học

Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX”, Tạp chí văn học, số 4.

7. Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu tá (2005), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb

Thế giới, Hà Nội.

8. Nguyễn Khoa Chiêm (1994), Nam triều công nghiệp diễn chí (Ngô Đức

Thọ - Nguyễn Thúy Nga giới thiệu, dịch và chú thích), Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nội.

9. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng (2001), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

12. Trần Xuân Đề (2001), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn107

Hà Nội.

Header Page 108 of 112.

102

13. Trần Xuân Đề (2003), Tác giả, tác phẩm văn học phương Đông (Trung

Quốc), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Hà Minh Đức (Chủ biên) (2001), Những vấn đề lý luận và lịch sử nghiên

cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Hà Minh Đức (2007), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Trần Văn Giáp (2003), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tập 1, tập 2 (Tác

phẩm được tặng Giải thưởng Hồ chí Minh) Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Vũ Thanh Hà (2005), “Hoàng Lê nhất thống chí và thể loại tiểu thuyết

chương hồi trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí văn học, số 6

18. Dương Quảng Hàm(2005), Việt Nam văn học sử yếu (Tái bản), Nxb Trẻ,

Tp. Hồ Chí Minh.

19. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (Đồng

chủ biên) (2004), Từ điển văn học, Bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.

20. Nguyễn Xuân Hòa (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung

Quốc đến tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thanh Hóa.

21. Nguyễn Văn Hoàn (1973), “Phong trào khởi nghĩa nông dân và văn học

Việt Nam thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX”, Tạp chí Văn học, số 4.

22. Nguyễn Văn Huân, Bùi Huy Tuấn (2008), Thành ngữ và điển cố Trung

Hoa, Nxb Hải Phòng.

23. Lại Văn Hùng (2002), “Bộ ba tác phẩm Truyện ngắn - Ký - Tiểu thuyết

chương hồi”, Tạp chí Hán Nôm, số 3.

24. Lại Văn Hùng (2002), “Bộ ba tác phẩm Truyện ngắn - Ký - Tiểu thuyết

chương hồi”, Tạp chí Hán Nôm, số 3.

25. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

26. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn108

Nxb Văn học, Hà Nội.

Header Page 109 of 112.

103

27. Đặng Thanh Lê (1992), “Nghiên cứu văn hoc cổ trung đại Việt Nam

trong mối quan hệ với khu vực”, Tạp chí Văn học, số 1.

28. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn thư , Tập 1 (Cao Huy Giu dịch),

(tái bản), Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội.

29. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2 (Cao Huy Giu dịch),

(tái bản), Nxb Văn hóa – thông tin, Hà Nội.

30. Nguyễn Lộc (1997), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế

kỷ XIX), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31. Bùi Văn Lợi (1999), “Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu

nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Tạp chí

Văn học, số 9.

32. Phương Lựu (2002), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học Việt

Nam trung đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

33. Phương Lựu (2005), Lí luận văn học cổ điển phương Đông, Tập 1, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

34. Đặng Thai Mai (1961), “Mối quan hệ lâu đời và mật thiết giữa văn học

Việt Nam và Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7.

35. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tập 3,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

36. Nguyễn Phong Nam (Chủ biên), Trần Hữu Duy, Huỳnh Kim Thành, Trần

Đại Vinh (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

37. Bùi Văn Nguyên (1987), Lịch sử Văn học Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

38. Bùi Văn Nguyên (1978), Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam (Từ thế kỉ

XI đến giữ thế kỉ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam - Danh mục và phân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn109

loại”, Tạp chí Hán Nôm, số 3.

Header Page 110 of 112.

104

40. Trần Nghĩa (1997), “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dung và nghệ

thuật”, Tạp chí Hán Nôm, số 4.

41. Trần Nghĩa (Chủ biên) (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam,

Tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.

42. Vương Trí Nhàn (Sưu tầm, biên soạn), (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb

Hội nhà văn, Hà Nội.

43. Ngô gia văn phái (2002), Hoàng Lê nhất thống chí (Nguyễn Đức Vân- Kiều

Thu Hoạch dịch, chú thích, Trần Nghĩa giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội.

44. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và Văn

học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

45. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Nguyễn Giang, Trần Ngọc Vương,

Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Vân Thu (1998), Về con người cá nhân trong

văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục.

46. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam – Quan niệm con

người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

47. Nguyễn Hữu Sơn (1998), “Đặc điểm văn học Việt Nam thế kỷ XVI – các

bước nối tiếp và phát triển”, tạp chí văn học, số 5.

48. Nguyễn Hữu Sơn (1990), “Khảo sát cái nhìn đạo lý trong văn học cổ

điển dân tộc”, Tạp chí Văn học, số 6.

49. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung

đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số7.

50. Trần Đình Sử (2005), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007) Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch

sử, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

53. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn110

Quốc gia, Hà Nội.

Header Page 111 of 112.

105

54. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại- tác gia- tác phẩm văn

học trung đại Việt Nam, tập 2, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

55. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

56. Bùi Duy Tân (2006), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X-

XIX), tập 1, Nxb Đại học Giáo dục, Hà Nội.

57. Trần Thị Băng Thanh - Lại Văn Hùng (Chủ biên) (2005), Tìm hiểu quan

niệm và sự hình thành dòng văn trong văn học Việt Nam (Thế kỷ XVIII -

nửa đầu thế kỉ XIX), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

58. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

59. Nguyễn Quyết Thắng - Nguyễn Bá Thế (2006), Từ điển nhân vật lịch sử

Việt Nam, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.

60. Chương Thâu - Trần Ngọc Vương (Chủ biên) (2003), Phan Bội Châu -

về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.

61. Trần Nho Thìn (2003) Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

62. Ngô Đức Thọ (1994) “Lời giới thiệu” sách Nam triều công nghiệp diễn

chí, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

63. Lương Duy Thứ (2000), Để hiểu 8 bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

64. La Quán Trung (2007), Tam quốc diễn nghĩa (Phan kế Bính dịch), Nxb

Văn học,Hà Nội.

65. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

66. Trần Ngọc Vương (Chủ biên), Văn học Việt Nam thế kỉ X-XIX (những vấn

đề lí luận và lịch sử), Nxb Giáo dục, 2007.

67. Trần Ngọc Vương (2003), “Một số vấn đề liên quan đến tính đặc thù của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn111

văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 5.

Header Page 112 of 112.

Bìa cuốn Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm (xuất bản 2003)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn112