
256
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3
NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH VAY VỐN
NGÂN HÀNG ĐỂ TRANG TRẢI CHI PHÍ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
Nguyễn Thị Minh Hạnh, Nguyễn Thị Ngọc Bích,
Bùi Thị Hương, Hoàng Diệu Linh, Trần Thị Phương Anh
Trường Đại học Thương Mại
Email: ngocbich1412hd@gmail.com
Tóm tt: Nghiên cứu này thực hiện nhằm tập trung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng
đến ý định vay vốn Ngân hàng để trang trải chi phí học tập của sinh viên các trường đại học
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Khung nghiên cứu được hình thành trên sở sở lý thuyết tổng
hợp từ các nghiên cứu có liên quan đến đề tài. Thông qua bộ dữ liệu thu thập từ 361 sinh viên
các trường đại học tại Hà Nội, nghiên cứu kiểm định những giả thuyết thể hiện sự đóng góp của
từng nhân tố đối với ý định vay vốn ngân hàng của sinh viên. Kết quả nghiên cứu cho thấy có
6 yếu tố ảnh hưởng đến ý định vay vốn Ngân hàng để trang trải chi phí học tập của sinh viên
đại học tại Hà Nội, gồm: (i) Chi phí học tập; (ii) Chi phí sinh hoạt; (iii) Đặc điểm tính cách; (iv)
Khả năng tài chính; (v) Nhận thức về sự hữu ích của vay vốn sinh viên; (vi) Sự phổ biến của
tín dụng sinh viên. Trong đó, nhân tố “Khả năng tài chính của sinh viên” có ảnh hưởng nhiều
nhất tới kết quả. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao tỷ lệ cơ hội
được tiếp xúc với giáo dục đại học của sinh viên.
Từ khóa: chi phí học tập, sinh viên đại học, tín dụng, ý định vay vốn ngân hàng
1. Giới thiệu
1.1. Sự cần thiết của nghiên cứu
Giáo dục đại học không chỉ là bước tiến quan trọng trong cuộc sống học thuật, mà còn là
chìa khóa mở cánh cửa cho sự thành công và phát triển cá nhân. Nó không chỉ trang bị cho sinh
viên những kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực họ lựa chọn, mà còn là nơi hình thành kỹ năng
sống và tư duy logic. Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, giáo dục đại học như
một điều kiện tiên quyết trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sinh viên đại học đã và
đang phải đối mặt với hai áp lực lớn nhất: một là trang trải chi phí học tập và thứ hai là thách
thức liên quan đến việc tìm kiếm cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp. Đặc biệt, chi phí học tập
ngày càng tăng cao là rào cản lớn ảnh hưởng đến nhu cầu học tập, đặt ra thách thức về khả năng
tài chính của sinh viên. Trong bối cảnh này, việc vay vốn từ các nguồn tài chính như Ngân hàng
trở thành một giải pháp để giúp sinh viên giảm bớt gánh nặng về tài chính.
Theo báo cáo từ Ngân hàng Chính sách xã hội, tính đến cuối năm 2021 tổng số sinh viên
được vay vốn nhằm trang trải chi phí học tập là 3,6 triệu, tính đến thời điểm ngày 4/9/2022,
Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân cho vay với dư nợ đạt 745 tỷ đồng, hơn 70.000 sinh
viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để mua máy tính, thiết bị điện tử qua đó hỗ trợ sinh
viên có đủ điều kiện học tập trực tuyến trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Điều này không chỉ
tạo động lực cho thế hệ trẻ cố gắng học tập mà còn giúp cho đất nước ngày càng phát triển nhân
lực.

257
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3
Tuy nhiên, mặc dù trong bối cảnh đại dịch Covid-19 khó khăn kinh tế ngày một tặng
nhưng lượng sinh viên vay vốn lại giảm, điều đó cho thấy thực trạng vay vốn của sinh viên còn
nhiều hạn chế. Quy mô tín dụng chưa tương xứng với nhu cầu vì nguồn vốn thực tế của các
chương trình cho vay còn gặp nhiều khó khăn và cơ cấu tín dụng còn chưa có tính bền vững,
thậm chí thụ động; thu nhập bình quân hàng tháng của sinh viên sau khi ra trường tìm được
việc làm chưa ổn định, mức thu nhập bình quân 5,6 triệu đồng/tháng làm cho tỷ lệ nợ quá hạn
tăng cao; mức cho vay chưa sát với nhu cầu thực tế của sinh viên, cao nhất là 4 triệu đồng/tháng,
chưa thể đáp ứng nhu cầu trang trải chi phí học tập cho sinh viên; sự phối hợp giữa nhà trường,
ngân hàng, chính quyền và gia đình còn nhiều bất cập; thủ tục vay vốn cho sinh viên còn phức
tạp, yêu cầu nhiều giấy tờ; sinh viên không được cung cấp đủ thông tin về các lựa chọn vay vốn
khác nhau, điều kiện vay, hoặc không biết cách so sánh lựa chọn để tìm ra phương án tốt nhất
cho mình.
Đặc biệt, ý định vay vốn Ngân hàng không chỉ đơn giản là một quá trình tài chính mà còn
phản ánh nhiều nhân tố ảnh hưởng từ môi trường xã hội, tâm lý và nhận thức của sinh viên. Do
đó, việc nghiên cứu khoa học và phân tích đánh giá về thực trạng hoạt động của tín dụng sinh
viên là vô cùng cấp thiết.
Với mục tiêu đặt ra là “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định vay vốn Ngân hàng
để trang trải chi phí học tập của sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội”, nghiên cứu
này không chỉ hướng tới việc hiểu rõ hơn về hành vi vay vốn cá nhân của sinh viên đại học ở
các Ngân hàng, mà còn đặt ra câu hỏi về quá trình đưa ra ý định vay vốn và những nhân tố tác
động đến quá trình này. Thông qua việc phân tích sâu rộng các khía cạnh, nghiên cứu này mong
muốn đóng góp thông tin đề xuất khuyến nghị cải thiện chính sách hỗ trợ tài chính trong giáo
dục, từ đó hỗ trợ sinh viên trong việc đạt được mục tiêu học tập một cách hiệu quả và bền vững.
1.2. Tổng quan nghiên cứu
Tại Việt Nam có khá nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về ý định vay vốn của người
tiêu dùng, cụ thể là sinh viên. Trong đó phải kể đến nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến
nhu cầu vay vốn của sinh viên thành phố Cần Thơ, tác giả (Nguyễn Quốc Nghi, 2010) đã chỉ
ra 5 nhân ảnh hưởng, lần lượt là: (1) thu nhập của gia đình; (2) thu nhập của sinh viên; (3) số
người phụ thuộc trong gia đình; (4) năm đang học và (5) việc làm thêm. Kết quả phân tích cho
thấy 2 biến trong 5 biến tác động ngược chiều với biến phụ thuộc là Thu nhập của sinh viên và
Thu nhập của gia đình sinh viên; đặc biệt, biến Thu nhập của sinh viên có hệ số tương quan lớn
nhất. Theo (Nguyễn Phương Mai và cộng sự, 2019), có 5 nhân tố ảnh hưởng đến ý định vay
vốn của sinh viên trên địa bàn Hà Nội, trong đó có đến 4 nhân tố đến từ sự nhận thức và thái độ
của sinh viên, nhân tố còn lại do người thân ủng hộ vay tiêu dùng. Một nghiên cứu khác của
(Nguyễn Mai Hương, 2019) sử dụng kết hợp phương pháp phân tích EFA và hồi quy tuyến tính
đã đánh giá tác động của 5 biến độc lập là: (1) khả năng tài chính của sinh viên; (2) cảm nhận
về lợi ích; (3) sự phù hợp của chính sách tín dụng; (4) chính sách hỗ trợ người vay trả nợ; (5)
sự phổ biến của tín dụng sinh viên. Kết quả chỉ ra rằng các chính sách lợi ích kèm theo đóng
vai trò quan trọng trong việc quyết định có vay vốn hay không và sự phổ biến của chương trình
tín dụng đóng vai trò thứ yếu trong việc hình thành ý định vay vốn của sinh viên. Nghiên cứu
của (Huỳnh Thanh Nhã, 2015) và (Phạm Trần Bảo Hòa, 2022) đều xác định 6 yếu tố ảnh hưởng
đến nhu cầu tín dụng của sinh viên: (1) chi phí học tập, (2) chi phí sinh hoạt, (3) thu nhập của
sinh viên, (4) đối tượng hộ gia đình, (5) nơi cư trú, (6) số lượng thành viên trong gia đình đang

258
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3
đi học. Tác giả Phạm Bảo Hòa dự đoán nhu cầu vay vốn của sinh viên sẽ tăng lên trong thời
gian tới bởi các trường đại học dần tự chủ tài chính sẽ tăng học phí.
Bên cạnh đó, công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài như nghiên cứu của
(Adrian Ziderman, 2004) đã đưa ra những đánh giá so sánh 5 nghiên cứu điển hình được thực
hiện ở châu Á, bao gồm Trung Quốc, Đặc khu hành chính Hồng Kông, Hàn Quốc, Phi-líp-pin
và Thái Lan. Các chương trình chủ yếu nhằm vào những đối tượng sinh viên có hoàn cảnh khó
khăn, chi phí học tập và sinh hoạt là hai yếu tố chính tác động đến nhu cầu vay vốn của sinh
viên. Bằng cách tổng kết thực tiễn, (Susan Dynarski và Judith Scott-Clayton, 2013) cho thấy
các chương trình hỗ trợ tài chính đã thúc đẩy giáo dục đại học, viện trợ không chỉ còn dành
riêng cho sinh viên có thu nhập thấp mà còn dành cho tất cả các đối tượng sinh viên khác có
nhu cầu dưới các hình thức trợ cấp hoặc cho vay. Nghiên cứu khác của (Kathleen K. Menges
và Christoph Leonhard, 2016) qua việc khảo sát ba trường Cao đẳng Cộng đồng ở Trung Tây
chỉ ra rằng thực trạng vay vốn ở sinh viên đã tăng lên. Tác giả đã tiến hành phân tích phương
sai một chiều để làm rõ hơn mức độ ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, quan điểm về thời gian, thái
độ đối với việc vay mượn và kiến thức tài chính đến việc sinh viên sẵn sàng vay vốn. Ngoại trừ
mức độ hiểu biết về tài chính, không có biến số nào khác biệt đáng kể giữa những sinh viên có
nguồn gốc khác nhau.
Qua các công trình nghiên cứu đã đề cập, vẫn còn khá nhiều khoảng trống cần được lấp
đầy. Về không gian nghiên cứu, các nghiên cứu trong nước chủ yếu được tiến hành tại Hà Nội,
Cần Thơ và TP Hồ Chí Minh cần có thêm nhiều nghiên cứu tại thành phố khác về giáo dục đại
học để thấy được sự bao quát về ý định vay vốn của sinh viên trên khắp cả nước. Về nội dung
và kết quả nghiên cứu, nếu như hầu hết các công trình nước ngoài tập trung nhiều vào những
lợi ích mà chính sách vay vốn mang lại cho sinh viên, thì các nghiên cứu trong nước lại tập
trung chủ yếu vào việc phân tích nêu lên những nhân tố tác động đến nhu cầu tín dụng của sinh
viên. Tuy nhiên, các thang đo cần được bổ sung thêm bởi các nghiên cứu trước vẫn còn hạn
chế. Có 5 nhân tố được đưa ra trong nghiên cứu của (Nguyễn Quốc Nghi, 2010), so với thời
điểm hiện tại đã có nhiều sự khác biệt về lãi suất cho vay, số tiền cho vay, mức học phí, tiêu
chí xét hộ nghèo,…Trên cơ sở kế thừa, các nghiên cứu tiếp theo cần bổ sung thang đo sao cho
phù hợp với điều kiện hiện nay. Bài nghiên cứu của (Huỳnh Thanh Nhã, 2015) mới chỉ giải
thích được 74,4% sự biến thiên nhu cầu vay vốn của sinh viên trường cao đẳng, vậy nên cần
xem xét thêm các biến độc lập như mở rộng vùng nghiên cứu, mở rộng bậc đào tạo để tăng khả
năng giải thích của mô hình nghiên cứu và hoàn chỉnh lại bộ thang đo. Với tỷ lệ sinh viên đi
làm thêm ngày càng tăng thì khả năng tài chính cũng là yếu tố cần xem xét trong nghiên cứu
của (Nguyễn Phương Mai và cộng sự, 2019). Hai tác giả (Nguyễn Mai Hương, 2019) và (Phạm
Trần Bảo Hòa, 2022) đã đưa ra các yếu tố cả khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến ý định
vay vốn của sinh viên, nhưng cũng nên xem xét đến yếu tố về đặc điểm tính cách của sinh viên
trong bối cảnh hiện nay, bởi tính tự chủ ngày càng cao, họ không muốn phụ thuộc và có xu
huớng dám thử thách bản thân.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Lý thuyết về hành vi và ý định hành vi
Theo (B.F. Skinner, 1938; John B. Watson, 1913), lý thuyết về hành vi con người là một
lý thuyết tâm lý học tập trung vào việc giải thích cách thức và lý do con người hành động theo

259
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3
cách họ làm. Lý thuyết này dựa trên ý tưởng rằng hành vi được điều khiển bởi những kích thích
và phản ứng.
Đã có rất nhiều công trình của các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về khía cạnh
khác nhau của ý định của hành vi. Tiêu biểu phải nhắc đến đóng góp của (Ajzen và Fishbein,
1975) cho hướng nghiên cứu này với Thuyết hành động hợp lý (TRA), khẳng định ý định thực
hiện hành vi là yếu tố quan trọng quyết định về việc họ có thực hiện hành vi đó hay không và
nó bị ảnh hưởng bởi 2 yếu tố: thái độ của một con người về hành vi và chuẩn chủ quan dẫn đến
hành vi. Tuy nhiên, thuyết hành động hợp lý TRA bị giới hạn khi dự đoán việc thực hiện các
hành vi của cá nhân trong trường hợp mà họ không thể kiểm soát được bởi vì mô hình này bỏ
qua tầm quan trọng của các yếu tố xã hội có thể là yếu tố quyết định hành vi cá nhân trong thực
tế (Grandon & Peter P. Mykytyn 2004; Werner 2004).
Sau đó, Thuyết hành vi hoạch định (TPB) được (Ajzen, 1991) phát triển dựa trên lý thuyết
hành động hợp lý TRA để cải thiện các yếu điểm của TRA bằng cách đề xuất thêm một yếu tố
bổ sung trong việc xác định hành vi cá nhân trong TPB, đó là “nhận thức kiểm soát hành vi”.
Theo TPB, ý định hành vi là một hàm của ba nhân tố: “thái độ”, “chuẩn mực chủ quan” và
“nhận thức kiểm soát hành vi”. Mô hình TPB giả định rằng ý định thực hiện một hành vi cụ thể
là yếu tố quan trọng nhất để dự đoán hành vi thực tế. Đây cũng là mô hình được coi là phổ biến
nhất và có sức ảnh hưởng lớn trong việc giải thích và dự đoán hành vi cá nhân.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về ý định vay vốn nói chung, lý thuyết về hành vi hoạch định
(TPB) là một trong những lý thuyết giải thích về niềm tin của sinh viên về các chương trình vay
vốn cũng như khả năng trả nợ khoản vay, quan điểm về việc sự dụng vay vốn và ý định vay
vốn có thể ảnh hưởng đến quyết định của họ. TPB cung cấp một cấu trúc lý thuyết để nghiên
cứu các yếu tố tâm lý và hành vi của sinh viên liên quan đến việc vay vốn để trang trải chi phí
học tập.
2.2. Lý thuyết về hành vi vay vốn của sinh viên
Lý thuyết về hành vi vay vốn của sinh viên là một lý thuyết tâm lý xã hội được sử dụng
để giải thích lý do tại sao sinh viên quyết định vay vốn để trả cho học phí đại học. Lý thuyết
này dựa trên lý thuyết ý định hành vi (TPB) và cho rằng ý định vay vốn của sinh viên được xác
định bởi ba yếu tố:
Thái độ đối với vay vốn: Trong nghiên cứu của Smith & Jones (2008), Johnson & Brown
(2012) về thái độ tích cực về vay vốn, thì thái độ là niềm tin của một người về những hậu quả
tích cực và tiêu cực của một hành vi. Một thái độ tích cực đối với vay vốn sẽ dẫn đến ý định
vay vốn cao hơn. Thái độ đối với vay vốn của sinh viên có thể được hình thành bởi nhiều yếu
tố, bao gồm:
- Thông tin về lợi ích của vay vốn: sinh viên dễ dàng tìm kiến thông tin về các chương
trình vay vốn và lợi ích việc vay vốn mang lại. Họ tin rằng vay vốn sẽ giúp giảm thiểu gánh
nặng tài chính và có cơ hội học tập tốt hơn.
- Nhận thức về rủi ro: Sinh viên có thể nhận thức được rủi ro tài chính liên quan đến vay
vốn, chẳng hạn như nợ nần và lãi suất. Nếu sinh viên nhận thức rủi ro này cao thì họ có thể có
thái độ tiêu cực đối với vay vốn.
Chuẩn chủ quan: Chuẩn chủ quan là niềm tin của một người về những gì những người
quan trọng đối với họ, mong đợi họ làm. Chuẩn chủ quan cao đối với vay vốn sẽ dẫn đến ý định

260
PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3
vay vốn cao hơn. Theo Chen & Fang (2014), điều này có thể được hình thành bởi nhiều yếu tố,
bao gồm sự ảnh hưởng của gia đình, bạn bè và môi trường văn hóa đối với ý định của sinh viên
về việc vay vốn. Còn Williams & Johnson (2010) đã đưa ra rằng người thân, bạn bè của họ đã
từng tham gia vay vốn sinh viên và ủng hộ sinh viên vay vốn.
Nhận thức kiểm soát hành vi: Nhận thức kiểm soát hành vi là niềm tin của một người
về khả năng của họ để thực hiện một hành vi. Nhận thức kiểm soát hành vi cao đối với vay vốn
sẽ dẫn đến ý định vay vốn cao hơn. Nhận thức kiểm soát hành vi của sinh viên đối với vay vốn
có thể được hình thành bởi yếu tố:
- Khả năng tài chính của bản thân: Taylor & Brown (2011) đã đưa ra rằng sinh viên có
công việc hoặc các nguồn thu nhập khác, thì họ có thể cảm thấy có khả năng hơn để trả nợ vay,
từ đó họ sẽ cảm thấy tự tin hơn trong quyết định vay vốn.
- Hỗ trợ từ gia đình và bạn bè: Nghiên cứu của Lee & Kim (2015) chỉ ra nếu gia đình và
bạn bè của sinh viên sẵn sàng giúp đỡ họ trả nợ vay, thì sinh viên có thể cảm thấy có khả năng
hơn để vay vốn.
Từ đó, lý thuyết về hành vi vay vốn của sinh viên có thể được sử dụng để phát triển các
chiến lược hiệu quả hơn để giúp sinh viên đưa ra quyết định về vay vốn. Các nhà hoạch định
tài chính có thể sử dụng lý thuyết này để giúp sinh viên hiểu rõ hơn về chi phí và lợi ích của
vay vốn, hoặc các nhà tâm lý học có thể sử dụng lý thuyết này để giúp sinh viên phát triển thái
độ tích cực hơn đối với vay vốn.
2.3. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Khả năng tài chính của sinh viên (KT): Khả năng tài chính bao gồm thu nhập của sinh
viên và khả năng chu cấp của gia đình. Theo (Nghi, 2010), (Brown et al., 2012) đều chỉ ra rằng
khả năng tài chính của sinh viên là yếu tố quan trọng trong quyết định vay vốn. Tùy vào từng
hoàn cảnh gia đình của sinh viên nên nhu cầu vay vốn cũng khác nhau. Khi khả năng tài chính
của họ thấp thì sẽ thúc đẩy nhu cầu vay vốn của họ tăng cao hơn. Do đó, nhóm tác giả đề xuất
giả thuyết:
H1: “Khả năng tài chính của sinh viên” có tác động ngược chiều đến ý định vay vốn để
trang trải chi phí học tập của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Nhận thức về sự hữu ích (SHI): Sự hữu ích đã được đề cập trong khá nhiều nghiên cứu.
Trong nghiên cứu của Davis và cộng sự (1989), nhận thức sự hữu ích là “mức độ để một người
tin rằng sử dụng hệ thống đặc thù sẽ nâng cao kết quả công việc của chính họ”. Theo Pfeffer
(1982); Schein (1980) và Vroom (1964), sự hữu ích còn được hiểu theo một cách khác: có khả
năng được sử dụng thuận lợi. Như vậy, yếu tố này sẽ giúp sinh viên nhận thấy được các lợi ích
mình có được khi tham gia vay vốn tại các NHTM gồm có: lãi suất thấp, thời gian trả lâu, nguồn
vốn lớn.... để đưa ra quyết định vay vốn. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất giả thuyết:
H2: “Nhận thức về sự hữu ích của vay vốn” có tác động cùng chiều đến ý định vay vốn
của sinh viên để trang trải chi phí học tập trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đặc điểm tính cách của sinh viên (TC): Trong kết quả nghiên cứu của Kickul và Gundry
(2002), đặc điểm tính cách được đo lường bằng các biến quan sát liên quan đến sự đối mặt và
vượt qua thử thách cũng như sự chủ động cao, gan dạ, dám nghĩ dám làm, điều này sẽ thúc đẩy
nhu cầu vay vốn và giảm tỷ lệ nợ xấu cho các khoản vay. Theo (Suan & cộng sự, 2011),