BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THU HÀ LUẬN VĂN THẠC SĨ
Đề tài:
NGUYỄN DU VÀ CON ĐƯỜNG HOẠN LỘ QUA THƠ CHỮ HÁN
Chuyên ngành: Lí luận và Phương pháp dạy học môn Văn
Thành phố Hồ Chí Minh- 2010
NGUYỄN DU VÀ CON ĐƯỜNG HOẠN LỘ
QUA THƠ CHỮ HÁN
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Nguyễn Du đã từng viết:
Bất thiệp Hồ Nam đạo,
An tri Tương Thủy thâm?
Bất độc Hoài sa phú
An thức Khuất Nguyên tâm?
Khuất Nguyên tâm, Tương Giang thủy,
Thiên thu vạn thu thanh kiến để.
(Biện Giả)
(Không đi qua Hồ Nam
Sao biết nước sông Tương sâu?
Không đọc bài phú Hoài Sa,
Sao biết được lòng Khuất Nguyên?
Lòng Khuất Nguyên và nước sông Tương
Nghìn năm vạn năm vẫn trong suốt thấy đáy.)
Lời thơ ấy, tứ thơ ấy dường như cũng vận vào rất đúng với lòng Nguyễn Du, thơ chữ Hán Nguyễn
Du. Chưa đi qua Hà Tĩnh, sao biết được nước sông Lam sâu. Không đọc thơ chữ Hán, sao hiểu lòng
Nguyễn Du. Lòng Nguyễn Du cũng như nước sông Lam, nghìn năm vạn năm vẫn sâu thăm thẳm. Tấc
lòng thăm thẳm ấy, Nguyễn Du gửi gắm thật nhiều trong thơ chữ Hán. Vì vậy, sẽ thật thiệt thòi cho
những ai chưa từng đọc và sống với những vần thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Và cũng sẽ thật thiếu sót
nếu chúng ta chỉ nói đến Truyện Kiều như một đỉnh cao chói lọi mà quên dành cho thơ chữ Hán sự
quan tâm và một vị trí xứng đáng! Thơ chữ Hán Nguyễn Du, theo giáo sư Mai Quốc Liên, là những
áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo
trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của
Trung Quốc nữa (Lời nói đầu, Nguyễn Du toàn tập, Tập 1, NXB Văn học, 1996). Tìm hiểu thơ chữ
Hán Nguyễn Du còn là tìm về với nguồn di sản quý báu của kho tàng văn học dân tộc.
1.2. Trong ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, phần lớn các bài thơ được sáng tác trong khoảng
thời gian nhà thơ làm quan dưới triều Nguyễn. Đọc những bài thơ ấy, ta hiểu hơn tâm sự, nỗi niềm,
những trăn trở, suy tư của Nguyễn Du trên con đường hoạn lộ. Điều quan trọng những tâm sự ấy không
chỉ là những nỗi niềm riêng tây mà nó là hơi thở của thời đại, của dân tộc, của số phận con người. Và
cho đến nay, gần ba trăm năm trải qua, nó vẫn là những bài học lớn về thế sự, nhân sinh cho hậu thế.
1.3. Cuối cùng, chúng tôi đến với đề tài này từ sự yêu thích của bản thân đối với thơ ca Nguyễn
Du và đặc biệt là ba tập thơ chữ Hán của thi nhân.
Trên đây là những lí do chúng tôi chọn đề tài Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích đầu tiên của luận văn là tìm hiểu khái quát về thời đại, cuộc đời và sự nghiệp sáng
tác của Nguyễn Du; từ đó có thể có được cái nhìn thấu đáo, toàn diện hơn về con người nhà thơ trên
con đường hoạn lộ.
2.2. Theo sử sách ghi lại, con đường hoạn lộ của Nguyễn Du tương đối bằng phẳng, hanh thông;
ông lại từng hai lần được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, hẳn là được triều đình tin dùng. Ra làm
quan cũng là cơ hội để ông thực hiện hùng tâm tráng chí từ thời trai trẻ của mình. Thế nhưng, qua
những bài thơ chữ Hán được sáng tác trong khoảng thời gian làm quan dưới triều Nguyễn, ta lại thấy
nhà thơ có nhiều trăn trở, ưu tư; hơn thế nữa là những nỗi niềm đến bạc tóc về nhân sinh, thế sự. Vì
vậy, mục đích chính của luận văn là tìm hiểu những tâm sự, qua đó phần nào hiểu được thế giới quan,
nhân sinh quan của nhà thơ Nguyễn Du trên con đường hoạn lộ thông qua ba tập thơ chữ Hán: Thanh
Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Qua những nỗi niềm riêng cũng như cách
Nguyễn Du đánh giá về cuộc đời, về con người, ta càng hiểu thêm thế giới tâm hồn sâu thẳm và tấm
lòng rộng lớn của thi nhân. Từ cõi sâu thẳm và rộng lớn ấy, hậu thế tìm được cho mình những bài học
về thế sự, nhân sinh thấm thía và quí giá.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI KHẢO SÁT
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là con đường hoạn lộ của nhà thơ Nguyễn Du qua ba tập thơ
chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục với những tâm sự, ưu tư; cách
đánh giá, nhìn nhận của ông về cuộc đời, con người; qua đó hiểu hơn về bức chân dung tinh thần của
nhà thơ.
3.2. Phạm vi tư liệu
Với trình độ và vốn chữ Hán có hạn, chúng tôi không có điều kiện để khảo sát nguyên văn của
văn bản, chủ yếu khảo sát văn bản trên phần dịch nghĩa.
Những tư liệu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du được chúng tôi trích từ tuyển tập Nguyễn Du toàn
tập, tập 1, NXB. Văn học, xuất bản năm 1996 do GS. Mai Quốc Liên chủ biên.
3.3. Phạm vi vấn đề
Luận văn không nghiên cứu toàn bộ nội dung thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Trên cơ sở đọc ba tập
thơ, chúng tôi khảo sát kĩ những bài Nguyễn Du sáng tác trong thời gian làm quan dưới triều Nguyễn,
cụ thể là một số bài thuộc Thanh Hiên thi tập và toàn bộ hai tập Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp
lục.
Luận văn cũng không đi vào phương diện thi pháp, nghệ thuật biểu hiện của ba tập thơ mà tập
trung tìm hiểu thế giới nội tâm, từ đó phần nào lí giải thế giới quan, nhân sinh quan của nhà thơ trên
con đường hoạn lộ trong một giai đoạn đầy phức tạp và biến động của lịch sử dân tộc.
4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
4.1. Khác với Truyện Kiều cho đến nay đã có cả một quá trình tiếp nhận, nghiên cứu phê bình trải
dài trên dưới hai trăm năm, thơ chữ Hán Nguyễn Du đến năm 1931 mới được ra mắt bạn đọc lần đầu
tiên trên tạp chí Nam Phong số 161 chỉ với 13 bài. Trước Cách mạng tháng tám, các nhà nghiên cứu
Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim đã từng có bài viết về thơ chữ Hán. Đến năm 1959 tập thơ chữ Hán
Nguyễn Du đầu tiên ra đời có tên Thơ chữ Hán Nguyễn Du do các ông Bùi Kỉ, Phan Võ, Nguyễn Khắc
Hanh sưu tầm biên soạn, in tại nhà in Hoàn Cầu, Hà Nội. Như vậy lịch sử nghiên cứu thơ chữ Hán
Nguyễn Du mới bắt đầu từ khoảng những năm ba mươi của thế kỉ XX, khá ngắn ngủi so với lịch sử
nghiên cứu Truyện Kiều.
4.2. Qua tìm hiểu tư liệu, chúng tôi nhận thấy:
Các bài viết, công trình nghiên cứu về thơ chữ Hán Nguyễn Du có thể chia thành ba dạng sau:
- Một là các tài liệu tìm hiểu một cách tổng quát về cả ba tập thơ chữ Hán trên các phương diện
nội dung hoặc nghệ thuật.
- Hai là các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về một vấn đề nổi bật của một hoặc hai tập thơ.
- Ba là các bài nghiên cứu phê bình về một hoặc một số bài thơ chữ Hán cụ thể có trong các tập
thơ.
Chúng tôi cũng nhận thấy rằng chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu về đề tài Nguyễn Du
và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán.
Tuy nhiên, vấn đề trên được đề cập đến trong một số tài liệu, công trình của các tác giả, nhà
nghiên cứu.
Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh trong Khảo luận về Kim Vân Kiều (Quan hải tùng thư, Huế, 1943)
cho rằng qua hai tập thơ có thể thấy lòng trung trinh là phần chủ yếu trong tâm tính Nguyễn Du… Cái
lòng ấy, đến lúc chết ông vẫn chung chú vào nhà Lê vua Lê… (tr.228). Thái độ bất đắc chí của nhà thơ
khi làm quan dưới triều Nguyễn cũng được ông giải thích là bởi nhà thơ luôn mang tâm sự day dứt của
kẻ bề tôi phải thờ hai chúa.
Nhà phê bình Hoài Thanh trong bài viết Tâm tình của Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán
đăng trên tạp chí Văn nghệ, tháng 3 năm 1960 cũng chú ý lí giải thái độ của Nguyễn Du đối với các
triều đại đương thời. Ông cũng cho rằng Nguyễn Du quả có nhớ tiếc nhà Lê nhưng nhà thơ nhận rõ vận
nhà Lê đã hết rồi cho nên thật thà đi theo nhà Nguyễn, theo nhà Nguyễn nhưng vẫn nhớ tiếc nhà Lê và
dường như có khi nhớ tiếc cả Tây Sơn nữa. Tóm lại, theo Hoài Thanh, thái độ của Nguyễn Du đối với
các triều đại là không rõ ràng nhưng điều rất rõ ràng là ông không bằng lòng với toàn bộ cuộc đời lúc
bấy giờ. Không bằng lòng cho nên nhà thơ khinh bỉ vô cùng những kẻ chỉ nuôi cái mộng làm quan và
thương vô cùng những cảnh đời cơ cực.
Năm 1965, cuốn Thơ chữ Hán Nguyễn Du (NXB Văn học) ra mắt, trong phần giới thiệu, nhà
nghiên cứu Trương Chính đã đưa ra những nhận định khác với nhà nghiên cứu Đào Duy Anh. Trương
Chính không phủ nhận thái độ trung với nhà Lê của Nguyễn Du song theo ông khi ra làm quan với nhà
Nguyễn, nhà thơ chỉ nhớ tiếc nhà Lê như một nỗi niềm hoài cổ chứ không phải ôm mối cô trung. Ông
cho rằng cái bất đắc chí của Nguyễn Du trong những năm làm quan là do hiện thực cuộc sống dưới
triều Nguyễn đem lại và tâm sự của Nguyễn Du trong hai tập thơ này không nằm ngoài nỗi nhớ nhà,
nhớ thú săn bắn, muốn về yên nghỉ, cho đời là một cuộc bể dâu, ca tụng lòng tiết nghĩa, mạt sát những
người hèn hạ cầu phú quý công danh…
Tháng 11 năm 1965, tác giả Đào Xuân Quý trong bài viết Nguyễn Du trong những bài thơ chữ
Hán đăng trên báo Văn nghệ cũng có ý kiến bàn về vấn đề này. Tác giả cho rằng vấn đề chính của
Nguyễn Du không phải là ở thái độ của nhà thơ đối với các triều đại mà chính là ở chỗ thái độ của
Nguyễn Du đối với toàn bộ cuộc sống đương thời; ở đâu cũng thấy Nguyễn Du không bằng lòng với
cuộc sống hiện tại, u uất với những nỗi băn khoăn lo lắng của chính mình. Tâm trạng ấy cho đến những
ngày nhà thơ đi sứ ở Trung Quốc mới thấy thay đổi; nhà thơ phát biểu về nhiều vấn đề, suy nghĩ tỏ ra
sắc sảo, sâu xa và nhiều khi táo bạo nữa.
Trong chuyên luận Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán (Tạp chí văn học,
tháng 11 năm 1966), nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi đã đưa ra những ý kiến khái quát và xác đáng:
Đằng sau hình ảnh Nguyễn Du với cõi lòng ủ ê tê tái, với cá tính rõ mồn một, một Nguyễn Du nghìn
lần hiện thực hơn cái con người chỉ biết vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện trước mặt Gia Long mà sử
sách từng ghi lại, ta thấy một điều gì lớn hơn nữa; ấy là những suy nghĩ nung đúc của nhà thơ về con
người, về xã hội, là cái nhìn phanh phui đến đáy những nhân cách lịch sử, cũng là sự chiêm nghiệm
sâu kín và đầy trắc ẩn về những ba động của thời cuộc diễn ra trước mắt ông. Ở những thi phẩm này,
Nguyễn Du đã đặt vấn đề trực tiếp về số phận mình, gắn liền với vận mệnh chúng sinh trong nhiều thời
đại, nhất là thời đại ông đang sống.
Giáo sư Nguyễn Lộc khi tìm hiểu Thơ chữ Hán Nguyễn Du và tâm sự của nhà thơ (Văn học Việt
nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX xuất bản lần đầu năm 1976) cũng cho rằng điều quan
trọng đối với Nguyễn Du không phải vấn đề triều đại này hay triều đại nọ, mà là vấn đề khác có ý
nghĩa xã hội rộng lớn hơn nhiều; chính vấn đề cuộc đời mới là trung tâm những day dứt, suy nghĩ của
nhà thơ. Nguyễn Du suy nghĩ nhiều và có xu hướng không dừng lại ở những hiện tượng cá biệt, lẻ tẻ
mà muốn đi đến cái khái quát, cái phổ biến cho những lời thơ của ông nhiều câu như châm ngôn, như
triết lí.
Tác giả Hà Minh Đức trong bài viết Nguyễn Du qua thơ chữ Hán (Đến với thơ chữ Hán Nguyễn
Du, NXB Thanh niên, 2000) về cơ bản cũng đưa ra quan điểm tương đồng với các tác giả như Hoài
Thanh, Trương Chính, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Lộc khi cho rằng điều quan trọng trong tâm hồn
Nguyễn Du, trong thơ chữ Hán của ông không nằm ở thái độ của Nguyễn Du đối với các triều đại lịch
sử mà ở tâm trạng, cái nhìn của ông đối với cuộc đời. Cho nên cái phần trong sáng và đáng trân trọng
nhất trong những bài thơ chữ Hán chính là những yêu ghét của nhà thơ – dấu hiệu riêng của những
nghệ sĩ lớn; bởi lẽ ở vào thời đại Nguyễn Du biết yêu ghét không phải là chuyện dễ.
Trong Lời nói đầu của bộ sách Nguyễn Du toàn tập (Trung tâm nghiên cứu Quốc học và NXB
Văn học ấn hành năm 1996), Giáo sư Mai Quốc Liên cũng nhận định nỗi buồn và sự thất vọng của
Nguyễn Du trong thơ chữ Hán không phải chỉ là cái buồn của thân thế, nó còn là cái buồn trước đất
nước và thời cuộc; ấy là cái buồn chứa đầy những ý tưởng lớn.
Trên đây là một số bài viết, công trình nghiên cứu về thơ chữ Hán Nguyễn Du có đề cập đến nội
dung của đề tài. Qua quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy các công trình, bài viết có liên quan đến đề
tài này phần lớn thống nhất với nhau ở những điểm sau:
- Trên con đường hoạn lộ, điều quan trọng đối với Nguyễn Du không phải là vấn đề triều đại này
hay triều đại nọ, ông cũng chẳng thiết tha với chốn quan trường. Nguyễn Du có những tâm sự riêng
nhưng bao trùm lên tất cả là một nỗi buồn lớn, những ý tưởng lớn về thời thế, về nhân sinh.
- Vượt ra khỏi giới hạn bản thân, giới hạn của một triều đại, giới hạn của một thời đại trong suy
nghĩ và đánh giá cuộc sống, ấy là chỗ vĩ đại của Nguyễn Du và cũng là giá trị sáng ngời của thơ chữ
Hán nói chung, những bài thơ được viết trong thời gian tác giả làm quan nói riêng.
Những công trình trên, nhìn chung, do phạm vi đề tài quá rộng lớn hoặc dung lượng còn hạn hẹp
nên chưa đi vào khảo sát một cách đầy đủ, chi tiết và hệ thống về đề tài Nguyễn Du và con đường hoạn
lộ qua thơ chữ Hán mà chỉ đưa ra một số nhận định có tính chất khái quát. Tuy chỉ là những phác họa
còn sơ lược về đề tài này, song những nhận định, đánh giá trên đã gợi mở cho chúng tôi nhiều hướng
tiếp cận. Chúng tôi xin trân trọng lĩnh hội và vận dụng vào đề tài của mình.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Để thực hiện đề tài này, chúng tôi phối hợp vận dụng nhiều phương pháp:
Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu bối cảnh thời đại, cuộc đời – những yếu tố chi phối
sáng tác của Nguyễn Du, từ đó hiểu thêm về nội dung tác phẩm.
Phương pháp so sánh được dùng để làm rõ bản chất của đối tượng trong mối tương quan với một
số hiện tượng văn học khác như: thơ Nguyễn Trãi, thơ đi sứ của một số nhà thơ trung đại Việt Nam,
thơ Nguyễn Công Trứ.
Phương pháp thống kê được sử dụng như một phương pháp phụ trợ để làm tăng sức thuyết phục
cho những kết luận rút ra từ luận văn.
Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng với tư cách là phương pháp chủ đạo để tìm hiểu
đặc điểm của đối tượng.
5.2. Trong khi vận dụng các phương pháp trên, chúng tôi đồng thời thực hiện yêu cầu về nghiên
cứu tổng hợp và liên ngành.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của luận văn được triển khai thành bốn chương
như sau:
- Chương 1: Thời đại, cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du
Trong chương này, luận văn giới thiệu những yếu tố về thời đại, cuộc đời nhà thơ có ảnh hưởng
đến sáng tác của ông, đặc biệt là những sự kiện xáy ra trong thời gian Nguyễn Du làm quan dưới triều
Nguyễn.
- Chương 2: Con đường hoạn lộ với những nỗi niềm riêng
Trong chương này, luận văn tìm hiểu những nỗi niềm riêng của nhà thơ trên con đường hoạn lộ.
Đó là nỗi buồn, cô đơn, nhớ nhà; là nỗi chán ngán lợi danh và thất vọng trước hiện thực nhiễu nhương
chốn quan trường; là nỗi giằng xé giữa ước nguyện được trở về với cuộc sống an nhàn với chí nguyện
dấn thân. Vượt lên trên những nỗi niềm u uẩn ấy, vị quan đưa ra những lí lẽ tự khuyên mình cố gắng
- Chương 3: Con đường hoạn lộ với nỗi băn khoăn về số phận con người
làm tròn chức phận mà không phạm vào cái tính tự nhiên của bản thân.
Trên con đường hoạn lộ, điều Nguyễn Du quan tâm không phải là những vấn đề của triều đại này
hay triều đại nọ. Điều khiến ông trăn trở không yên là số phận của con người: người nghèo khổ, người
tài hoa bạc mệnh và cả những kẻ bất nghĩa, xấu xa. Mỗi số phận, mỗi cuộc đời ẩn chứa một câu hỏi lớn
về thời thế, nhân sinh.
- Chương 4: Con đường hoạn lộ và những triết luận về cuộc đời
Từ những băn khoăn về số phận con người, Nguyễn Du có những nhận xét khái quát mang tính
chân lí, thấu triệt bản chất của xã hội và cuộc đời. Ở chương này luận văn tìm hiểu những nhận xét
mang tính khái quát ấy của nhà thơ.
7. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán Nguyễn Du đã được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ
thông. Đây là lĩnh vực còn mới mẻ, khó khăn đối với không ít giáo viên và học sinh. Vì vậy, việc thực
hiện đề tài này sẽ giúp chúng tôi phục vụ tốt hơn công tác giảng dạy thơ chữ Hán Nguyễn Du ở nhà
trường phổ thông sau này.
Chúng tôi cũng hi vọng đề tài này có thể góp thêm một nét nhỏ bé vào bức chân dung tinh thần to
lớn của đại thi hào dân tộc mà rất nhiều bạn đọc, nhà nghiên cứu phê bình đã xúc động và say mê tìm
hiểu từ trước đến nay.
Lắng nghe thơ chữ Hán Nguyễn Du là lắng nghe một nỗi niềm tâm sự lớn, lắng nghe hơi thở của
một thời đại bể dâu. Từ những nỗi niềm dâu bể ấy, ta lại thấy toả ra thứ ánh sáng đẹp đẽ của một chủ
nghĩa nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Vì vậy, cũng như Truyện Kiều, thơ chữ Hán Nguyễn Du mãi mãi
thanh lọc tâm hồn con người, đưa con người về gần với giá trị nhân bản của mình hơn.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
THỜI ĐẠI, CUỘC ĐỜI, SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN DU
1.1. THỜI ĐẠI
Nguyễn Du sống trong một thời đại lịch sử đầy biến động:nửa cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
với những cuộc bể dâu, những cuộc thay đổi sơn hà. Đặc điểm nổi bật của lịch sử xã hội nước ta thời
kỳ này là chế độ phong kiến bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, không có lối thoát. Những
mâu thuẫn chất chứa trong lòng xã hội phong kiến đến giai đoạn này bộc lộ gay gắt và bùng nổ thành
những cuộc đấu tranh xã hội quyết liệt.
1.1.1. Chế độ phong kiến khủng hoảng trầm trọng
Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Đàng Ngoài rồi lan rộng ra cả nước. Chiến tranh phong kiến kéo dài
khiến cho nông nghiep đình đốn, ruộng đất phần lớn tập trung trong tay bọn quan lại địa chủ. Tô thuế
rất nặng nề, mất mùa, đói kém xảy ra liên tiếp. Nhu cầu chi tiêu tăng lên, nhân dân không thể nộp thuế,
đành phải bỏ làng đi phiêu tán. Làng xóm trở nên điêu tàn, sức sản xuất bị tàn phá. Người nông dân tha
phương cầu thực khắp nơi, nhiều người chết đói, chết bệnh trên đường.
Ở Đàng Ngoài, hình thành chế độ “vua Lê chúa Trịnh”, vua Lê chỉ ngồi làm vì, tất cả quyền hành
tập trung vào phủ chúa, chuyên quyền, độc đoán. Các chúa Trịnh thường lo việc ăn chơi và xây dựng
chùa chiền nhiều hơn là lo việc trị nước. Nhu cầu chi tiêu trong phủ chúa tăng lên, trong khi đó nhân
dân không có khả năng nộp thuế; nhà nước đặt lệ mua quan bán chức để thu thóc, tiền. Sự suy đồi của
khoa cử đẻ ra hàng loạt quan lại tham nhũng, dốt nát. Có thể nói, chính quyền phong kiến giai đoạn này
từ trung ương đến địa phuơng đều thối nát, tệ tham nhũng hối lộ ngày càng trầm trọng.
Ở Đàng Trong, những mâu thuẫn cố hữu của chế độ phong kiến dần trở nên gay gắt và từ giữa thế
kỉ XVIII, Đàng Trong bắt đầu rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc
Khoát xưng vương, xây dựng Phú Xuân thành kinh đô, tổ chức lại bộ máy nhà nước. Các gia đình quan
lại, quý tộc cũng đua nhau xây dựng dinh thự, đua nhau chơi bời xa xỉ. Phủ huyện, làng xã nằm trong
tay bọn quan lại cường hào tham nhũng. Chính trị thối nát, nhân dân lầm than. Họ là lớp người gánh
chịu mọi tai họa của tự nhiên, mọi thiệt thòi, bất công của xã hội, mọi thứ thuế má, sưu dịch của triều
đình.
Tình hình kinh tế, chính trị như thế đã đẩy nhân dân vào cuộc sống lầm than, không lối thoát. Căm
thù đối với chế độ phong kiến, nhân dân đã phẫn nộ nổi dậy đấu tranh.
1.1.2. Sự bùng nổ của phong trào nông dân khởi nghĩa
Ở Đàng Ngoài, từ cuối thế kỉ XVII- đầu thế kỉ XVIII, nông dân nhiều nơi đã nổi dậy cướp phá các
nhà giàu, nhưng phong trào chỉ bùng lên từ cuối những năm 30, do hậu quả của những nạn đói liên
tiếp. Có thể kể các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu Cầu,
Hoàng Công Chất và cuoc nổi dậy của Lê Duy Mật… Cuộc chiến đấu quyết liệt của những người nông
dân tuy chưa giành được thắng lợi nhưng đã là hồi chuông báo động cuộc khủng hoảng của chế độ
phong kiến Đàng Ngoài, là những biểu hiện nổi bật, toàn diện của cuộc khủng hoảng đó.
Ở Đàng Trong, như sử sách đã ghi: trăm họ cơ cực, trộm cướp nổi lên bốn phương, trong cõi từ
đó có nhiều việc [31, tr.114]. Chế độ phong kiến Đàng Trong bước vào giai đoạn suy tàn, chuẩn bị cho
một cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại làm rung chuyển cả đất nuớc. Cuộc khởi nghĩa bùng lên từ đất
Tây Sơn, do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Và sau hơn mười lăm năm
khởi nghĩa (1771-1787), quân Tây Sơn đã hoàn thành một sự nghiệp to lớn: đánh đổ ba tập đoàn phong
kiến thống trị Lê, Trịnh, Nguyễn, làm chủ đất nước, đánh tan tác năm vạn quân xâm lược Xiêm rồi hai
mươi vạn quân xâm lược Mãn Thanh trong chớp nhoáng, bảo vệ độc lập cho dân tộc, thực hiện sứ
mệnh thống nhất đất nước.
Triều đại Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh xây dựng triều Nguyễn. Dưới thời thống trị của nhà
Nguyễn, khởi nghĩa nông dân cũng xảy ra liên tục. Theo tính toán của các nhà nghiên cứu, thời Nguyễn
có đến 500 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ các loại, riêng thời Gia Long có khoảng 90 cuộc [31].
Phong trào nông dân khởi nghĩa giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX không những đã
làm cho giai cấp thống trị kinh hồn bạt vía mà còn làm cho hệ tư tưởng chính thống của giai cấp phong
kiến bị khủng hoảng và sụp đổ.
Tóm lại, đặc điểm cơ bản của tình hình xã hội nước ta giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVII - nửa đầu
thế kỉ XIX là sự khủng hoảng, bế tắc của nhà nước phong kiến, sự sụp đổ của ý thức hệ phong kiến và
sự vùng dậy của quần chúng nông dân bị áp bức.
1.2. CUỘC ĐỜI
1.2.1. Truyền thống gia đình
Quê hương Tiên Điền của Nguyễn Du một thời nổi tiếng vì ở đây có nhiều người đỗ đạt cao,
làm quan to. Nghệ Tĩnh có câu phương ngôn Quan Tiên Điền, tiền Hội Thống nói lên quá khứ giàu
sang của làng này. Nhưng ở đây họ Nguyễn Tiên Điền có thể coi là dòng họ vinh hiển nhất. Có rất
nhiều người đỗ đại khoa và làm quan to. Đến đời Lê - Trịnh, trong một nhà có đến ba người đỗ Hoàng
giáp: tiến sỹ Nguyễn Nghiễm thân sinh Nguyễn Du, đỗ Hoàng giáp khoa Tân Hợi (1731); Nguyễn Huệ,
bác Nguyễn Du, đỗ tiến sỹ năm Quý Sửu (1733); rồi Nguyễn Khản anh ruột nhà thơ, khác mẹ cũng lại
đỗ tiến sỹ khoa Canh Thìn (1760). Những người đỗ cử nhân, tú tài thì không kể. Làm quan, vinh hiển
nhất là cha con Nguyễn Nghiễm làm đến chức Đại tư đồ, tước Xuân Quận Công.
Lúc bấy giờ dinh thự của Xuân Quận Công tọa lạc ở phía nam hoàng thành Thăng Long, ven
dòng Bích Câu trong vắt chảy ra hồ Kim Âu, mùa hè ngát hương sen. Tòa nhà ở giữa một khu vườn
rộng, toàn những cây cao bóng mát. Cảnh ở đây có lẽ đẹp nhất đế đô thời ấy. Trước dinh thự Nguyễn
Nghiễm có đề hai chữ phú đức, ý nói nhà này được hưởng mọi thứ phú quý vinh hoa không ai bằng.
Quả vậy ông đỗ tiến sĩ năm 24 tuổi rồi lập được nhiều công trạng, năm 1761 được thăng Đô ngự sử,
sau đó thăng thượng thư bộ công, giữ chức thị tham tụng ở phủ chúa, tương đương với chức tể tướng,
nắm tất cả chính quyền. Bấy giờ mới 54 tuổi. Năm 1764 ông được thăng hàm thiếu phó. Năm 1767,
Trịnh Sâm lên cầm quyền, ông được thăng làm Thái tử thiếu bảo tước Xuân Quận Công [2].
Con trai đầu của ông là Nguyễn Khản đỗ tiến sỹ năm 27 tuổi, được làm Đốc đông xứ Sơn Tây.
Năm Trịnh Sâm nối ngôi, ông giữ chức Tri binh phiên ở phủ chúa, lại có công dạy chúa lúc còn là thế
tử nên được thăng Đông các đại học sỹ, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm ấy trong hồ Kim Âu nhà
Xuân Quận Công có một giò sen nở hai hoa. Trịnh Sâm và các quan triều đình làm thơ khen mừng, có
bài như sau:
Phụ đăng khoa, tử kế đăng khoa
Thế chưởng quân hành Nguyễn tướng gia
Bất tín thả khan trì thượng thụy
Đình đình tranh xuất tịnh đầu hoa
(Cha đậu cao, con cũng đậu cao
Hai đời giữ chức trọng yếu, chỉ có nhà quan tướng công họ Nguyễn mới được như
vậy
Không tin hãy xem điềm tốt kia hiện ra trên mặt hồ
Rành rành là một chồi nở những hai đóa hoa).
Chủ nhân của tòa nhà này là tâm phúc của vua Lê chúa Trịnh. Trịnh Sâm lại xem Nguyễn Khản
như người bạn thân thiết nhất của mình: Khản có thể mặc quần áo thường ra vào trong cung, còn chúa
thì mỗi khi ngự chơi chùa lại đến thăm nhà Khản. Chúa cùng Đặng Thị Huệ ngồi thuyền dạo chơi trên
hồ, Khản ngồi hầu ngang trước mặt, cười nói như người nhà. Chúa thưởng ca cũng có Khản ngồi cạnh
cầm chầu điểm hát, chính chúa đã viết bốn chữ “tâm phúc hòa trung” ban cho Khản. Hai bên gắn bó
với nhau như thế [14, tr.191].
Nguyễn Du cất tiếng chào đời giữa hội này. Cảnh nhà đang hết sức thịnh vượng, giàu sang tột
bậc. Năm ấy Nguyễn Nghiễm đang làm tể tướng trong chính phủ, hai năm sau (1768) được thăng Thái
tử thiếu bảo. Ân điển tới tấp, do đó mới lên ba, Nguyễn Du đã được tập ấm là Hoằng tín đại phu, trung
thành môn vệ úy, tước thu nhạc bá. Trong ký ức của cậu Chiêu Bảy còn lưu lại ấn tượng sâu sắc về sự
kiện cụ thân sinh vinh quy về làng. Năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nghiễm 64 tuổi, xin về hưu. Chúa
đặc cách thăng chức Đại tư đồ và chuẩn cho vinh quy về làng. Cả nhà cùng về theo, được dự một cuộc
tiếp rước long trọng từ bến Giang Đình về đến dinh thự ở Tiên Điền. Sau này, trải qua hơn hai mươi
năm lưu lạc, trở về dưới chân núi Hồng, nhà thơ không khỏi nhớ lại cảnh huy hoàng ngày ấy, ghi lại
trong bài thơ Giang đình hữu cảm:
Ức tích ngô ông tạ lão thì,
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi.
Tiên chu kích thủy thần long đấu,
Bảo cái phù không thụy hạc phi.
Nhất thự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiểu thương tâm sự
Cận nhật Trường An đại dĩ phi.
(Nhớ xưa cha ta cáo lão về hưu
Xe bồ ngựa tứ về bến sông này, oai vệ làm sao!
Đoàn thuyền tiên xô nước như rồng thần đấu nhau.
Những chiếc tàn quý phấp phới trên không như hạc báo điềm lành.
Từ khi bóng xiêm không thấy đâu nữa
Trông làn khói trên ngọn cỏ ở hai bên sông mà khôn xiết bùi ngùi.
Cuộc đời trăm năm có biết bao chuyện thương tâm.
Gần đây Trường An đã đổi khác lắm rồi!)
Đó là bài thơ ghi lại dấu ấn một thời vang bóng, một quá khứ vàng son của gia đình đã để lại ấn
tượng sâu đậm trong kí ức của nhà thơ. Giọng điệu ông không sao giấu được nỗi chua xót, ngậm ngùi,
hẳn là tiếc nhớ.
Nguyễn Du được sinh ra trong một gia đình đại quý tộc triều Lê - Trịnh danh giá bậc nhất đương
thời, lại là gia đình tâm phúc của nhà chúa, được hưởng ân nặng phúc dày khác hẳn người thường.
Điều đó lý giải vì sao Nguyễn Du lập thân bằng việc ra làm quan cho triều Lê và luôn nặng nợ trung
quân với triều Lê cho đến mãi về sau này.
1.2.2. Lập thân dưới triều Lê
Kỳ thi Hương năm Quý Mão (1723), Nguyễn Du cùng các anh em lều chõng đi thi. Khoa ấy,
các anh em của Nguyễn Du là Nguyễn Nễ, Nguyễn Nhưng cùng người cháu của ông là Nguyễn Thiện
đỗ tứ trường (cử nhân), còn Nguyễn Du chỉ đậu tam trường (hay nho sinh, tức tú tài). Ông có tài văn
chương, kiến thức rộng nhưng có lẽ không chuyên về lối học khoa bảng nên lần đầu tiên bước chân vào
đời đã nếm mùi thất bại. Đời Lê khoa thi ấy chưa phải là khoa thi cuối cùng, còn có khoa Bính Ngọ
(1726) nhưng ông không dự.
Khoa bảng không thành, Nguyễn Du khát vọng lập thân cùng thanh trường kiếm. Đó là thanh
bảo kiếm ông được quận công Hoàng Ngũ Phúc ban cho từ khi còn nhỏ vì có tướng mạo khôi ngô khác
thường. Với thanh bảo kiếm, chàng trai trẻ Nguyễn Du từng mang khát vọng to lớn, chí nguyện dấn
thân:
Tằng lăng trường kiếm ý thanh thiên
(Khất thực)
(Tựa kiếm dài, ngạo nghễ nhìn trời xanh)
Cái nhìn ngạo nghễ của trang nam tử mới lẫm liệt làm sao, như thu cả vũ trụ vào trong tầm mắt.
Cùng với thanh bảo kiếm ấy, Nguyễn Du bước vào đời. Lúc bấy giờ người cha nuôi họ Hà - nguyên là
một vị võ quan trong triều - mất, Nguyễn Du được tập ấm chức Chánh thủ hiệu đội quân hùng hậu hiệu
ở tỉnh Thái Nguyên. Cùng lúc đó, các anh em của ông đến tuổi trưởng thành đều được người anh cả là
Nguyễn Khản xin Chúa cho mỗi người một chức vị: Nguyễn Quýnh giữ chức Quản trấn tả đội, Nguyễn
Trừ làm tri phủ Tam Đới, Nguyễn Nễ học giỏi được vào Thị nội văn chức, giữ việc thường trực tại nhà
học của con Chúa [2].
Nguyễn Du vào đời lúc vua Lê chúa Trịnh đã đến bước suy tàn. Gia đình ông gắn bó với vua Lê
chúa Trịnh cũng đang suy tàn theo.
Năm Giáp Thìn 1784 xảy ra nạn kiêu binh làm lung lay cả phủ chúa và ảnh hưởng trực tiếp đến
gia đình Nguyễn Du. Kiêu binh nguyên là lính người Thanh Nghệ, lập được nhiều công trạng cho triều
đình. Triều đình có lệ ưu đãi họ hơn lính người nơi khác và gọi họ là ưu binh. Sự ưu đãi đó trải qua
nhiều đời làm họ trở nên kiêu căng, có những hành vi phóng túng. Đã nhiều lần họ đốt nhà tham tụng,
bồi tụng mà chúa không dám làm gì, như các năm 1674, 1741. Năm 1782 Trịnh Sâm chết, Trịnh Cán
lên ngôi chúa, Hoàng Tố Lý phụ chính. Được một tháng kiêu binh nổi dậy, phế Trịnh Cán lập Trịnh
Tông (sau đổi là Trịnh Khải), giết Hoàng Tố Lý, giáng Đặng Thị Huệ - mẹ ruột Trịnh Cán làm thứ
nhân. Trịnh Khải lên ngôi, Nguyễn Khản vì là quốc sư, được nhắc lên làm Thượng thư Bộ lại và tham
tụng, ban tước Toản quận công. Em là Nguyễn Điều được giữ chức Đô đốc phủ sứ, ban tước Điều nhạc
hầu. Hai anh em cùng ở trong chính phủ. Kiêu binh lại không phục, họ nổi lên làm loạn, đòi hỏi đặc ân.
Không ai kiềm chế nổi họ. Các quan đại thần trong chính phủ, như Nguyễn Khản, Dương Khuông (cậu
ruột chúa) định làm mạnh tay để ngăn chặn ưu binh và củng cố uy tín cho triều đình nên quyết định xử
tử bảy người trong bọn họ. Việc đó làm cho họ tức giận, chẳng còn biết sợ hãi, kéo nhau đến phá nhà
Dương Khuông, phá nhà Nguyễn Khản. Nguyễn Khản có một người thủ hạ giỏi kiếm thuật ra cửa
chống cự, còn ông cải trang trốn lên Sơn Tây tìm em là Nguyễn Điều, bàn nhau liên lạc với chúa Trịnh
Khải, ước hẹn các trấn cùng kéo quân về dẹp kiêu binh. Kiêu binh biết được, ngày đêm canh giữ vương
phủ. Chúa phải ngầm cho người đi bảo các trấn hãy thôi việc đó. Anh em Nguyễn Khản phải bỏ về quê
ở Nghi Xuân. Lúc này, Nguyễn Du vừa đúng mười tám tuổi. Ông chứng kiến tất cả những việc đó,
không khỏi lo âu cho gia đình và bản thân.
Thêm nữa, tình hình trong triều đình cũng như bên phủ chúa vô cùng rối rắm. Từ lâu, vua Lê chỉ
làm vì, không có thực quyền. Chúa Trịnh nắm lấy tất cả mọi quyền hành. Ai trung thành với nhà Lê thì
trước hết phải trung thành với chúa Trịnh. Cha và anh Nguyễn Du – Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Khản
đều như thế. Cũng như ở phủ chúa, nội bộ bên vua Lê cũng thường xảy ra chuyện tranh giành ngôi,
khiến anh em chú cháu ghét nhau, làm liên lụy đến nhiều người.
Mặt khác, ở Đàng Trong lúc này không phải chỉ có chúa Nguyễn đối địch với tập đoàn Lê -
Trịnh mà có cả lực lượng Tây Sơn. Anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dựng cờ khởi
nghĩa, năm 1771 hạ thành Quy Nhơn, tiến ra chiếm Quảng Ngãi, Phú Yên rồi đem quân vào Gia Định,
đánh bật quân chúa Nguyễn ra khỏi đất liền. Chúa Nguyễn phải trốn tránh vào các hải đảo, cuối cùng
sống lưu vong bên đất Xiêm. Chúa Nguyễn lại cầu cứu quân xâm lược Xiêm, Tây Sơn cũng đánh cho
tan tác (1785). Sau đó quân Tây Sơn đánh ra Đàng ngoài, quân Trịnh thua to. Tây Sơn tiếp tục tiến
quân ra Bắc Hà. Ở Bắc Hà tướng thì lười, quân thì kiêu, triều đình không có kỷ cương, bị đánh tất thua.
Khi Nguyễn Du lập thân bằng chức quan võ dưới triều Lê - Trịnh thì thời cuộc như vậy, như một ván
cờ sắp tàn.
Năm Bính Ngọ 1786, Nguyễn Huệ chỉ huy đội quân thủy chiến tiến đến sông Vị Hoàng (Nam
Định). Thế quân Tây Sơn lúc này là thế chẻ tre. Không đầy một tháng, họ chiếm Thuận Hóa cho đến Vị
Hoàng rồi tiến thẳng ra Thăng Long giương cờ phù Lê diệt Trịnh. Khi nghe tin quân Tây Sơn Bắc tiến,
Nguyễn Khản bèn tính mọi công việc với em là Nguyễn Điều, rồi đi mành vượt bể ra trước. Đến cửa
Thần Phù (Ninh Bình) được tin báo quân Tây Sơn đã đến bến Vị Doanh, ông ta liền đi bộ thẳng ra
Thăng Long, gặp Trịnh Khải dâng kế. Kế của ông ta là để tướng ở lại giữ kinh thành, rước vua Lê lên
Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên là nơi ông ta có nhiều tay chân, sẽ chiêu mộ nghĩa sĩ. Kế hoạch ấy bị
bọn kiêu binh phá. Họ nghe bàn nói Nguyễn Khản sẽ chiêu mộ nghĩa sĩ thì sợ Nguyễn Khản trả thù và
họ sẽ chết trước. Cho nên họ tụ tập lại, mưu giết ông làm ông phải bỏ chạy lên Sơn Tây.
Quân Tây Sơn tiến đến huyện Thanh Trì (ngoại thành Hà Nội ngày nay), chúa Trịnh Khải phải
đích thân đốc suất quân đánh ở bến Tây Luông, nay là bờ sông Hồng thuộc đầu phố Hàng Than. Quân
của chúa thua, chúa vội cởi áo bào, chạy ra cửa Yên Hoa. Nguyễn Huệ vào thành đóng quân ở phủ
chúa. Chỉ trong vòng một tháng, quân Tây Sơn đã lật nhào nền thống trị xây dựng gần ba trăm năm của
chúa Trịnh (1570 – 1786).
Lúc bấy giờ, Nguyễn Khản trốn ở Sơn Tây cho đến khi Nguyễn Huệ rút về nam (tháng 8 năm
1786). Vua Lê Chiêu Thống ra lệnh triệu ông về kinh, lại sai tri phủ Nguyễn Trừ, em ông, đi đón. Về
đến kinh, ông cảm bệnh và mất ngày 19 tháng 9 năm ấy. Nguyễn Điều ở nhà đợi tin của anh và xem xét
tình thế trong hạt. Đến sông Thanh Giang, thuộc huyện Thanh Chương, nghe kinh thành thất thủ, đau
xót, cũng cảm bệnh, mất trước đó ít lâu vào ngày bảy tháng bảy năm Bính Ngọ [2, tr.37].
Sau đó thời cuộc tiếp tục biến chuyển một cách khó lường. Quân Tây Sơn đột ngột rút về Nam
bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh một mình ở đất Bắc (đêm mười bảy tháng tám năm Bính Ngọ 1786). Trịnh Lệ,
em ruột Trịnh Sâm đem quân về đòi lại ngôi báu của cha, của anh khi trước. Trịnh Bồng, con Trịnh
Giang, cũng dâng biểu xin vào chầu vua Lê. Hai con hổ đấu nhau. Trịnh Lệ thua, Trịnh Bồng được, nhà
vua đành phải trả chính quyền lẫn binh quyền cho Trịnh Bồng theo đúng mẫu mực từ hai trăm năm
trước. Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân từ Nghệ An ra đánh bại Trịnh Bồng, được vua Chiêu Thống cho
chức Bình chương quân quốc trọng sự đại tư đồ, tước Bằng trung công, vào mùa thu năm Đinh mùi
(1787). Rồi Nguyễn Hữu Chỉnh lại chuyên quyền ở Bắc Hà y như chúa Trịnh ngày trước, cũng tự giải
quyết mọi công việc không hỏi gì đến vua Lê, thu phục lòng người bằng cách mở chế khoa, chọn lấy
mười lăm tiến sỹ - cũng là khoa thi cuối cùng của triều Lê (Đinh Mùi 1787). Quân Tây Sơn lại đưa
quân ra, diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, lấy đất Bắc Hà vào tháng mười một năm Đinh Mùi (1787).
Khi Vũ Văn Nhậm phá quân Nguyễn Hữu Chỉnh ở sông Thanh Quyết rồi đuổi ra đến Thăng
Long, Nguyễn Hữu Chỉnh bảo vua Lê Chiêu Thống phải chạy sang Kinh Bắc để lánh nạn. Nhà vua vội
vàng sai lấy đòn võng tre cáng thái hậu và nguyên tử đi, tôn thất và phi tần đều phải đi bộ hết. Đồ đạc
chỉ khênh đi được bốn hòm, còn bao nhiêu để lại trong cung điện. Cha con Nguyễn Hữu Chỉnh chạy
theo sau. Dọc đường quân lính bỏ trốn quá nửa. Đến bờ sông Như Nguyệt chỉ còn hơn bốn trăm người.
Cha con Chỉnh bèn sang sông trước đem quân đi về phía bắc. Nhà vua và tuỳ tùng phải đợi có đủ
thuyền. Sang sông nhà vua bảo bọn Lê Quýnh đưa thái hậu và nguyên tử về phía Cao Bằng, từ đó tìm
đường sang Quảng Tây xin vua Thanh đưa viện binh sang cứu. Còn nhà vua cùng các quan văn
Nguyễn Đình Giản, Chu Doãn Lê, Vũ Trinh (anh rể Nguyễn Du) dựa vào thổ hào để mưu đồ việc phục
hưng.
Hồi đó, anh em Nguyễn Du cũng chạy loạn, họ cũng định chạy theo vua Chiêu Thống nhưng
không kịp. Nguyễn Nễ tạm về quê ngoại ở Hoa Thiều, Nguyễn Du về quê vợ ở Hải An, Nguyễn Ức về
quê vợ ở Phù Đổng. Họ chia nhau mỗi người đi mỗi ngả, chờ xem tình hình biến chuyển ra sao. Không
bao lâu đã có tin cha con Nguyễn Hữu Chỉnh về đóng ở núi Tam Tầng (thuộc huyện Việt Yên, Bắc
Giang cũ). Quân Tây Sơn đuổi kịp, hai bên giao chiến, quân Nguyễn Hữu Chỉnh tan vỡ [2, tr.44].
Nguyễn Du về quê vợ ở Thái Bình là để chạy loạn, không định ở lâu. Nhưng các sự việc cứ dồn
dập đến. Bấy giờ ông mới 22 tuổi, không có nhiều kinh nghiệm, lại ở đất lạ, không quen biết ai, cho
nên chỉ biết nhìn thanh bảo kiếm than vắn thở dài:
Thư kiếm vô thành sinh kế xúc
(Nghề văn nghề võ đều không thành, sinh kế quẫn bách)
(Tự thán II)
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm
(Trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn)
(Lưu biệt Nguyễn đại lang)
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm
(Tráng tâm tịch mịch phụ cả cây đoản kiếm)
(Tạp ngâm)
Sau đó, Nguyễn Huệ ra Bắc hà lần thứ hai (Mậu Thân 1788). Ông chỉ giết Vũ Văn Nhậm là con
rể Nguyễn Nhạc, cậy tài kiêu ngạo chứ không nghĩ đến chuyện lên ngôi vua. Ông cải tổ bộ máy chính
trị Bắc hà, giao cho người của mình giữ các trấn rồi lại trở về Nam. Rõ ràng Tây Sơn phù Lê diệt Trịnh
thực sự. Ngôi vàng còn vắng thì đặt Lê Duy Cận làm giám quốc giữ việc thờ cúng nhà Lê. Cho nên
người Bắc hà xưa nay một lòng theo nhà Lê cũng không có cớ mà chống lại Tây Sơn.
Nhưng một sự kiện trọng đại đã xoay chuyển hẳn chiều hướng. Quân Thanh mượn tiếng sang
cứu nhà Lê, chia hai mươi vạn quân thành ba đạo tiến vào nước ta. Nguyễn Huệ lại ra Bắc hà lần thứ ba
để cứu nước. Mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 quân Tây Sơn giành thắng lợi lừng lẫy. Quân xâm lược
Thanh đại bại. Công của quân Tây Sơn đối với giang sơn tổ quốc không thua gì công của Lê Lợi ba
trăm năm trước.
Vua Chiêu Thống theo tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị cùng với hoàng thái hậu và mấy vị cận
thần chạy sang Trung Quốc. Chuỵên xảy ra đột ngột quá, không mấy ai theo kịp. Nguyễn Du lúc bấy
giờ đang nương náu ở Thái Bình, đành phải ở lại đó một thời gian nữa.
Như vậy ván cờ thời cuộc đã ngã ngũ. Tập đoàn Lê - Trịnh bị diệt vong. Nguyễn Du vừa bước
vào đời, bắt đầu lập thân dưới triều Lê thì thời vận đã lỡ làng, công danh đã dang dở như thế.
1.2.3. Bất hợp tác cùng Tây Sơn
Khi Tây Sơn thay nhà Lê, các nhà nho Bắc hà băn khoăn giữa lẽ xuất - xử, hành - tàng. Nhiều
người không ngần ngại noi gương Đào Tiềm trở về với cỏ cây, đồng ruộng, giữ lấy chí cao. Quyết liệt
hơn có người noi gương Bá Di, Thúc Tề tìm đến cái chết, cự tuyệt với triều đại mới.
Nguyễn Du cũng có sự lựa chọn của riêng mình, ông không hợp tác cùng Tây Sơn. Ông không
làm gì để chống lại, trong thơ văn cũng không thấy có thái độ thù hằn nhà Tây Sơn nhưng để nhận một
chức vụ nào trong triều thì Nguyễn Du nhất định không làm. Điều đó trái với lương tâm, trái với đạo
thánh hiền:
Đản đắc Kỳ Sơn thánh nhân xuất
Bá Di tuy tử bất thần Chu.
(Dù ở đất Kỳ Sơn có thánh nhân ra đời đi chăng nữa
Thì Bá Di chết thì chết chứ chẳng chịu làm tôi nhà Chu.)
Đó là hai câu thơ được ghi lại trong Thế phả, có lẽ nói lên thái độ bất hợp tác với Tây Sơn của
Nguyễn Du lúc bấy giờ [2, tr.46].
Vua Quang Trung khi thiết lập triều đại mới đã ra tờ Chiếu cầu hiền hiểu dụ các văn võ quan
triều cũ. Tờ chiếu này do Ngô Thì Nhậm thảo với những lời lẽ đầy tâm huyết, có lý có tình:
Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi nhưng những người học rộng tài cao
chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể
ra phụng sự vương hầu chăng?
Kìa như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đang ở buổi đầu của nền đại định,
công việc vừa mới mở ra. Kỷ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên
cương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hoá của trẫm chưa kịp thấm nhuần khắp
nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh. Nghĩ cho kỹ thì thấy rằng: một cái
cột thì không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu đồ một người không thể dựng nghịêp trị binh. Suy đi
tính lại trong vòm trời này, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa. Huống nay
dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp
cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao? [28, tr.216-217].
Sau tờ chiếu này thì hai người anh thân thiết của Nguyễn Du đã ra làm quan cho nhà Tây Sơn.
Đó là Nguyễn Nễ - anh ruột Nguyễn Du và Đoàn Nguyễn Tuấn - anh vợ Nguyễn Du. Nhưng Nguyễn
Du thì không lay chuyển. Hai ông anh sau khi đã cạn lời khuyên, đành từ biệt Nguyễn Du mà trở lên
Thăng Long nhận chức của triều đình mới. Ấy là vào năm đầu Quang Trung (Canh Tuất 1790).
Đoàn Nguyễn Tuấn đỗ Hương cống đời Lê, được sung ngay vào sứ bộ, có mặt trong đoàn đưa
Phạm Công Trị đóng giả Quang Trung sang Trung Quốc mừng thọ vua Càn Long. Vinh dự đó ông còn
ghi lại trong bài tựa tập Tình sà kỷ hành của Phan Huy Ích:
Chuyến đi này được nhà vua (Thanh) đặc cách cho quan tổng đốc (Thanh) đi bạn tống. Thuyền,
xe, cờ, quạt quáng cả mắt. Đi đến đâu, quan lại phải lăng xăng đón tiếp đến đó. Mùa thu (năm Canh
Tuất 1790) đến hành cung Nhiệt Hà lại theo xa giá về Yên Kinh, đi Tây Uyển. Luôn luôn tiệc yến hàng
tuần, được ơn trời âu yếm, ưu đãi, khác thường. Trước nay, người mình đi sứ Tàu chả có lần nào lạ
lùng và vẻ vang như vậy [2, tr.52].
Nguyễn Nễ thì được bổ chức Hàn lâm viện thị thư, sung phó sứ tuế cống ngay năm đó. Năm sau
cùng đoàn tuế cống đến Yên Kinh, được dự yến, làm thơ chúc mừng, được vua Càn Long khen và ban
thưởng. Về nước ông liền được thăng Đông các đại học sĩ gia tàng thái sử, thử tả thị lang, Nghi thành
hầu. Nghĩ đến em trai đang giấu kín tung tích ở Thái Bình, ông làm một bài thơ gửi cho em và nhắn lên
chơi:
Tố Như hà xứ trú,
Linh lạc lối kham ai.
Tự hữu lăng vân chí,
Hoàn vô hiệp thế tài.
Đào tình thời sách bút,
Thác tích nhật hàm bôi.
Giãi ngã tương tư khổ
Từ huề ấu tử lai.
(Hoài Tố Như đệ)
(Tố Như ở nơi nào?
Lưu lạc thật đáng thương
Người vốn có chí cưỡi mây
Nhưng lại không có tài giao thiệp với đời
Dùng bút để rèn luyện tính tình
Giấu kín tung tích, ngày nâng chén làm khuây
Nên hiểu nỗi lòng ta mong nhớ,
Thong thả bế con lên chơi)
Mà tình cảnh của Nguyễn Du ở Thái Bình lúc này cũng thật đáng thương. Những bài thơ trong
Thanh Hiên thi tập nói rõ điều đó:
Nguyệt dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên.
Cùng đo lân nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên khai tam thập niên.
(Quỳnh Hải Nguyên Tiêu)
(Đêm rằm tháng giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời
Vầng trăng vẫn đẹp như xưa, không hề thay đổi.
Chẳng biết nhà ai được hưởng thú vui xuân đêm nay
Ở đất Quỳnh Châu ngoài muôn dặm này!
Còn ta ở quê hương Hồng Lĩnh, chẳng còn nhà cửa, anh em tan tác cả.
Đầu đã bạc, càng giận cho ngày tháng trôi mau
Lúc đường cùng thương ta cùng trăng nhìn nhau từ xa
Ba mươi năm nơi chân trời góc bể.)
Bài thơ tám câu nói lên thấm thía tình cảnh Nguyễn Du lúc bấy giờ. Không nhà, gia đình ly tán,
bản thân lại phải lưu lạc nơi chân trời góc bể. Nhưng trăng thì vẫn thế, không hề thay đổi vẻ đẹp. Và
vẫn sáng, càng sáng càng thấu tỏ nỗi niềm, càng làm cho người tha hương thêm cô độc nơi đất khách.
Ở một bài thơ khác, Nguyễn Du nói mình đang ở một nơi u tịch, phải làm người khách trọ lâu
ngày:
Trệ khách yêm lưu nam hải trung,
Tịch liêu lương dạ dữ thuỳ đồng.
Qui hồng bi động thiên hà thuỷ,
Thú cổ hàn xâm hạ dạ phong.
Nhân đáo cùng đờ vô hải mộng,
Thiên hồi khô hải xúc phù tung.
Phong trần đội lý lưu bì cốt,
Khách chẩm tiêu tiêu lưỡng mãn bồng.
(Trệ khách)
(Người khách ở lỳ chốn Nam Hải,
Đêm đẹp và vắng lặng biết cùng ai tâm sự?
Tiếng kêu bi thương của chim Hồng bay về làm xao động nước sông Ngân
Cái lạnh của tiếng trống đồn canh xâm nhập vào luồng gió đêm hè
Người đã đến bước đường cùng không mộng đẹp
Trời đưa lại bể khổ để thúc giục bước chân phiêu bồng
Gối khách buồn thiu hai mái tóc rối bù.)
Người khách trọ đã đến bước cùng đường, không còn giấc mộng đẹp, thân còn lại da bọc xương,
lòng bi thương, quạnh vắng, không có người để bày tỏ tấc lòng.
Những bài thơ viết trong mười năm gió bụi ở Thái Bình đều rặt một giọng buồn thương như thế.
Thời cuộc đảo điên, gia đình tan tác, bản thân ông vừa bước vào đời thì thời vận đã lỡ làng, cả hùng
tâm lẫn sinh kế đều không thành, phải lưu lạc tha hương. Đã thế còn bệnh tật không có thuốc uống,
phải nhờ lòng thương của người. Ông nhiều lần nói mình đã đến bước đường cùng, thân như ngọn cỏ
bồng đứt gốc mặc cho gió bụi cuộc đời đưa đẩy, mái tóc đã bạc phơ trong gió thu dù lúc này mới ngoài
ba mươi tuổi. Những hình ảnh con đường cùng, tóc bạc, ngọn cỏ bồng đứt gốc cứ trở đi trở lại trong
thơ như một điệp khúc buồn, một nỗi ám ảnh da diết khiến người lưu lạc không ít lần phải thốt lên:
Nhất sinh u tứ vị tằng khai
(Thu chí)
(Suốt đời ôm mối u sầu chưa từng gỡ ra được)
Tình cảnh bi đát như thế nhưng Nguyễn Du vẫn quay lưng với triều đại mới, không ra làm quan
cho Tây Sơn.
Năm Giáp Dần 1794 tình hình có nhiều chuyển biến sau khi vua Quang Trung mất đột ngột.
Năm ấy Nguyễn Du quyết định vào tận Phú Xuân nơi Nguyễn Nễ đang làm quan để thăm anh.
Lúc này ở Phú Xuân, tình hình Tây Sơn đang rất gay go. Vua Quang Trung mất, triều thần lúc
bấy giờ là Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng lập thái tử là Nguyễn Quang Toản lên
ngôi, rồi sai sứ sang Trung Quốc báo tang và cầu phong. Vua Thanh phong Nguyễn Quang Toản làm
An Nam quốc vương. Vua Cảnh Thịnh còn nhỏ, mọi việc đều do thái sư Bùi Đắc Tuyên quyết đoán.
Các quan văn và quan võ nhiều người không quy phục, trong triều đình chia ra các bè đảng. Ở phía
Nam thì chúa Nguyễn đã đem quân tiến đánh. Năm 1788, chúa Nguyễn lấy được thành Gia Định, thế
lực ngày một mạnh. Họ tiếp tục tiến ra, hạ thành Bình Thuận, đánh lấy các phủ Diên Khánh, Bình
Khang, Phú Yên, được thể tiến đánh thành Quy Nhơn. Người giữ thành Quy Nhơn lúc bấy giờ là
Nguyễn Nhạc, sai người ra Phú Xuân cầu cứu. Vua Cảnh Thịnh cho quan thái úy Phạm Công Hưng và
một số tướng vào cứu Quy Nhơn. Cứu được thành các ông lại chiếm lấy thành, tịch biên tất cả các kho
tàng. Nguyễn Nhạc tức giận, thổ huyết mà chết.
Thăm anh xong, Nguyễn Du lại trở ra Bắc. Cuối mùa đông năm ấy (Giáp Dần 1794), vợ Nguyễn
Du bị ốm rồi mất. Ăn nhờ ở đậu nơi đất khách quê người đã khổ, nay lại chịu cảnh gà trống nuôi con,
nhà lại nghèo, xung quanh không có ruột thịt, Nguyễn Du cảm thấy mình đang lâm vào cảnh cùng cực
nhất. Ông quyết định trở về quê hương Tiên Điền. Từ ngày chạy loạn về Thái Bình, tưởng là ở tạm,
tính đến lúc trở về quê hương là mười năm (1786-1796).
Mười năm gió bụi, trải qua mấy phen dâu bể, nghĩ đến thân thế, quê hương, làng xóm, lòng nhà
thơ ngổn ngang trăm mối. Bài thơ Bát muộn gói gọn tâm sự ấy của ông:
Thập tải trần ai ám ngọc trừ,
Bách niên thành phủ bán hoang khư.
Yêu ma trùng điểu cao phi tận,
Trỉ uế càn khôn huyết chiến dư.
Tang tử binh tiền thiên lý lệ,
Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư.
Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ,
Bách chủng u hoài vị nhất sư.
(Bụi trần mười năm nay che tối thềm ngọc,
Thành phủ trăm năm một nửa thành gò hoang
Những côn trùng chim chóc nhỏ bé đều bay đi hết,
Đất trời nhơ nhớp sau cuộc huyết chiến
Giọt lệ nơi nghìn dặm khóc cho cuộc binh đao ở quê hương.
Bà con bạn bè chỉ còn biêt qua mấy vần thơ dưới đèn
Cá rồng lặng lẽ đêm thu vắng,
Trăm nỗi u buồn chưa một lần được giải thoát.)
Mười năm đi giữa gió mưa li loạn của cuộc đời. Thành phủ đã hóa gò hoang. Đất trời nhơ nhớp
sau cuộc huyết chiến. Dâu bể cuộc đời xô đẩy con người. Thân phận con người cũng bé nhỏ nào khác
gì con sâu cái kiến. Trên bước đường tha hương, dễ hiểu vì sao người thơ không ngăn được giọt lệ,
không sao giải thoát được trăm nỗi u buồn trong lòng.
Nguyễn Du trở về quê nhà, dưới chân núi Hồng năm Ất Mão (1795) đầu năm Bính Thìn (1796).
Từ khi ông vào Phú Xuân thăm anh (1794), thời cuộc biến chuyển nhanh chóng, nhà Tây Sơn đã
suy yếu lắm. Ở Phú Xuân, các quan đại thần giết hại lẫn nhau, thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền,
các quan nhiều người oán giận.
Mùa đông năm 1796, Nguyễn Du toan vượt biển vào Gia Định giúp Nguyễn Ánh, bị bắt giam ở
nhà lao trấn Nghệ An. Ở tù, ông làm bài thơ My trung mạn hứng [2, tr.58]:
Chung Tử viện cầm tháo Nam âm,
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm.
Tứ hải phong trần gia quốc lệ,
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm.
Bình Chương di hận hà thì liễu?
Cô Trúc cao phong bất khả tầm.
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ
Hồng Sơn giang hạ Quế giang thâm.
(Chung Tử ôm đàn gảy khúc Nam,
Trang Tích trong lúc ốm đau vẫn ngâm tiếng Việt
Bốn bể gió bụi, lệ rơi vì tình nhà nợ nước,
Mười tuần trong ngục, lòng nghĩ đến chuyện sống chết
Mối hận để lại của Bình Chương bao giờ hết?
Sự cao thượng của Bá Di, Thúc Tề nước Cô Trúc không thể tìm
Ta có tấc lòng không biết nói cùng ai,
Dưới chân núi Hồng sông Quế sâu.)
Những điển tích trong bài thơ ông dùng đều ca ngợi những người không vong bản, đến chết vẫn
giữ lòng trung với triều cũ. Chung Nghi, người nước Sở, bị nước Tấn bắt. Người ta đưa đàn cho ông
gảy, ông chỉ gảy những bài hát phương Nam (nước Sở). Trang Tích, người nước Việt, làm quan nước
Sở. Khi ông ốm, Sở vương hỏi mọi người: Tích là kẻ tầm thường ở đất Việt, nay làm quan nước Sở,
được phú quý rồi thì còn nhớ nước Việt nữa không?. Viên thị ngự đáp: Phàm người ta có nhớ nước cũ
hay không, thường tỏ ra lúc ốm đau. Nếu lúc này ông ta nói tiếng Việt thì tức là nhớ nước Việt, bằng
không thì nói tiếng nước Sở. Sở vương sai người thân tín nghe thì thấy Trang Tích nói tiếng Việt. Còn
Bình Chương, tức núi Bình Chương, ý nói đến chuyện Trương Thế Kiệt, một tướng giỏi đời Tống, phò
Đế Bính chống quân Nguyên, mong khôi phục lại nhà Tống. Sau thua, lên thuyền chạy đến núi Bình
Chương, gặp bão, thuyền đắm. Thế Kiệt chết, nhà Tống mất. Người nước Cô Trúc chỉ Bá Di, Thúc Tề,
con vua Cô Trúc, đời nhà Ân. Khi Ân bị nhà Chu lấy, hai ông không phục nhà Chu, lên ở ẩn ở núi Thú
Dương rồi nhịn đói mà chết chứ không thèm ăn thóc nhà Chu. Nguyễn Du muốn nói mình một mực
trung thành với nhà Lê chúa Trịnh, không chịu làm tôi Tây Sơn.
Nguyễn Du bị giam trong tù khoảng ba tháng rồi được thả nhờ quan trấn thủ Nghệ An là
Nguyễn Thận vị nể Nguyễn Nễ - anh trai ông. Ra tù, Nguyễn Du tiếp tục cuộc sống bế tắc dưới chân
núi Hồng, tâm trạng bất đắc chí có phần sâu sắc hơn. Ông cảm thấy không gian như bao phủ con người,
như muốn lấy cái vô tận của nó để làm tiêu ma ý chí con người. Thời gian không dừng lại, lao nhanh
vun vút như thách thức cái hữu hạn của kiếp người. Ý thức được bước đi của thời gian, sự mênh mông
của không gian, con người thất chí kia cũng muốn lao vào hưởng lạc, muốn tìm quên qua men say.
Cũng có lúc cao hứng, con người còn cất lên bài ca hành lạc (Hành lạc từ). Cũng có lúc ông muốn tìm
đến một sự giải thoát, tìm đến một cuộc sống an nhàn, vô lo. Và trở đi trở lại trong thơ là ước mơ về
chốn cửa huyền, được làm người ẩn dật, về chuyện học đạo thần tiên, về chiếc xe gió một ngày đi vạn
dặm, về đàn âu tự do theo dòng nước mà trôi đi, về vầng trăng sáng… Con người muốn thoát khỏi
vòng trần tục nhưng vòng trần tục lại càng xiết chặt nên đành trở lại đối diện với nỗi day dứt của chính
mình. Chứng kiến bao phen thay đổi sơn hà, đối với Nguyễn Du, cuộc đời đầy những đổi thay đến
chóng mặt. Chuyện đổi thay trước mắt là thực tại, con người bị cuốn vào thực tại ấy không cưỡng lại
được cho nên chỉ thấy cuộc đời này là đáng buồn, đáng thương:
Thế sự phù vân chân khả ai
(Đối tửu)
(Việc đời như mây nổi thật đáng thương)
Đằng sau những câu thơ mang tính chất khái quát, triết lý về cuộc đời kia là mái tóc bạc đi trong
gió thu hiu hắt, là giọt lệ lặng lẽ dưới đèn khuya, là ánh mắt bi thương ngước nhìn trời. Đi giữa gió mưa
li loạn của cuộc đời, Nguyễn Du càng hiểu rõ nỗi khổ của nhân dân, càng đau đớn trước sự suy tàn của
thời cuộc. Luôn hoang mang giữa các ngả đường để rồi cuối cùng ông vẫn bế tắc không thể chọn cho
mình một hướng đi. Nhưng, vượt lên trên tất cả vẫn là tấm lòng sáng tỏ như vầng trăng, vẫn là nỗi ưu
ái dành cho cuộc đời và con người thẳm sâu như nước dòng sông Lam dưới chân ngọn núi Hồng.
Trong sáu năm Nguyễn Du ở dưới chân núi Hồng này, thời cuộc cũng biến đổi rất nhanh. Nội
tình Tây Sơn ngày càng suy đốn. Nhà vua nhu nhược, chỉ hay nghe lời dèm nịnh; triều thần và tướng tá
thì chỉ tìm cách hại nhau. Năm 1798, tướng Nguyễn Bảo ở Quy Nhơn có ý đầu hàng Nguyễn Ánh.
Triều đình sai bắt về giết. Tướng Lê Trung trấn thủ Quy Nhơn cũng bị giết. Thấy tình cảnh như thế,
tướng sĩ rất ngã lòng, nhiều người bỏ theo nhà Nguyễn.
Trong khi triều đình suy đốn thì bọn quan lại ở ngoài đua nhau mà bóc lột đục khoét nhân dân.
Họ lại thường lấy cớ đàn áp cựu đảng họ Nguyễn (ở Đàng trong) và họ Lê (ở Đàng ngoài) mà thẳng tay
hà hiếp, có khi tàn phá cả làng. Quân lính Tây Sơn bấy giờ không còn kỷ luật như ở đời Quang Trung
nữa, thường nhũng nhiễu dân chúng. Đối với triều Tây Sơn bây giờ, nhân dân mỗi ngày một thêm chán
ghét.
Nguyễn Ánh thấy thế Tây Sơn suy đốn, một mặt vẫn cố thủ, một mặt sai người ngầm ra miền
Quy Nhơn và Thuận Hóa để vận động dân chúng. Đến tháng tư năm 1799, Nguyễn Ánh đại tiến công
Quy Nhơn, chiếm được thành này và đổi tên là Bình Định. Sau đó, quân Nguyễn Ánh tiến đại binh ra
Phú Xuân. Vua Quang Toản phải bỏ thành chạy. Bấy giờ là tháng sáu năm 1801.
Vua Quang Toản ra Bắc Hà truyền lệnh đi các trấn lấy viện binh, cả thảy được ba vạn người,
đem chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ. Quân chúa Nguyễn đánh cửa Nhật Lệ, phá tan quân Tây Sơn.
Một số tướng tá Tây Sơn đầu hàng, tàn quân chạy ra phía Bắc. Bấy giờ, Nguyễn Ánh đã khôi phục
được đất cũ của các chúa Nguyễn từ sông Gianh trở vào. Tháng sáu năm 1802, ông lập đàn tế cáo trời
đất lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Gia Long, rồi sai sứ thần sang cầu phong với nhà Thanh.
Sau khi đã chuẩn bị chu đáo, Nguyễn Ánh cử đại binh ra Bắc Hà. Quân Nguyễn đi đến đâu thì
quân Tây Sơn tan rã đến đó, chỉ trong một tháng là đến Thăng Long. Nhà Tây Sơn mất.
Sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đặt cuộc thống nhất trên một lãnh thổ rộng rãi hơn ở thời Tây
Sơn. Nhưng nó lại khôi phục sự thống trị của một tập đoàn phong kiến phản động hơn và xóa bỏ những
cải cách tương đối tiến bộ mà nhà Tây Sơn đã mang lại cho nhân dân.
Trong thời gian Nguyễn Du ở quê nhà thì lại có một phen thay đổi sơn hà long trời lở đất như
thế. Triều Tây Sơn sụp đổ, cũng là kết thúc giai đoạn ẩn nhẫn dưới chân núi Hồng của Nguyễn Du.
Cuộc đời nhà thơ lại có bước ngoặt mới.
1.2.4. Ra làm quan triều Nguyễn
Tháng bảy năm Nhâm Tuất (1802) Gia Long ở thành Thăng Long, ra dụ cho cựu thần nhà Lê,
các vị hương cống và học trò hiệp ý bày mưu giúp nền chính đạo. Nhiều người ra hưởng ứng, trong đó
có những người khi Tây Sơn lên không ra nhưng bây giờ lại ra như Phạm Quý Thích, Phạm Đình Hổ.
Nguyễn Du cũng ra khá sớm. Thế phả chép: Khi nhà vua đến Nghệ An, ông đón xe yết kiến và
được đem thủ hạ đi theo ra Bắc. Đại nam chính biên liệt truyện lại chép: Đến khi có lệnh gọi, không
thể từ chối, ông bất đắc dĩ phải ra. Các nhà nghiên cứu đều theo thuyết sau. Ông Trần Trọng Kim nói:
Tiên sinh phải triệu ra làm quan, hai ba lần từ chối không được. Ông Đào Duy Anh cũng nói: Triều
đình vẫn cố nài ép, sau ông thấy không thể trốn được, nếu cứ khăng khăng cố chấp thì e không khỏi lụy
mình [2, tr.63]. Điều chắc là tháng tám năm ấy, ông được bổ tri huyện Phù Dung thuộc Khoái Châu,
trấn Sơn Nam. Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).
Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau:
Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.
Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.
Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.
Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.
Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.
Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh
sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm
chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9
năm 1820.
Trong những năm ở dưới chân núi Hồng, Nguyễn Du đã nguyện làm bạn với cây tùng tảng đá,
chán ngán vòng lợi danh, nguội lạnh tâm sự anh hùng. Lòng ông đối với triều Lê cũng chỉ còn là nỗi
hoài niệm về một thời vàng son quá vãng. Những tưởng lẽ xuất - xử đã phân minh thì giờ đây ông lại ra
làm quan cho triều Nguyễn. Không thể khẳng định chắc chắn những lí do vì sao Nguyễn Du về với
triều Nguyễn nhưng một điều có thể thấy rõ là Nguyễn Du bước chân vào con đường hoạn lộ lúc này
không phải để lập công danh.
Hơn nữa, Nguyễn Du cũng như nhiều cựu thần khác của nhà Lê, không hợp tác với Tây Sơn
nhưng lại ra làm quan cho Nguyễn Ánh, một phần bởi lẽ, nhà Nguyễn không phải là lực lượng đối đầu
trực tiếp với nhà Lê, về với triều Nguyễn âu cũng không đi ngược với lẽ cương thường đầy ràng buộc
của Nho giáo.
Nguyễn Ánh đóng đô ở Phú Xuân, đặt quốc hiệu là Việt Nam, năm 1804 được nhà Thanh thừa
nhận và tấn phong, năm 1806 xưng đế hiệu. Vì cuộc thống nhất mới thành, cơ sở chính trị chưa ổn định
nên nhà vua chưa đặt chính quyền tập trung hoàn toàn, mà tách hai miền Nam - Bắc, đặt Gia Định
thành và Bắc Thành, giao cho hai người công thần tin cậy phụ trách. Phần giữa thì trực thuộc triều
đình, gồm các trấn và dinh từ Thanh Hoá đến Bình Thuận.
Nhà Nguyễn dụng ý khôi phục và phát triển nhà nước phong kiến trung ương tập quyền với hình
thức quân chủ chuyên chế. Để củng cố tuyệt đối quyền lực cá nhân, Nguyễn Ánh cũng tìm cớ trị tội các
công thần có uy tín, tài năng. Nguyễn Văn Thành là đệ nhất công thần, được Nguyễn Ánh giao phó làm
Tổng trấn Bắc Thành, thế mà chỉ vì một bài thơ có ý ngông của người con trai mà Nguyễn Văn Thành
bị vu là mưu phản, bị hạ ngục, đến phải tự tử.
Hành động đáng phê phán của nhà Nguyễn là sự trả thù tàn bạo nhà Tây Sơn. Trước khi hành
hình Nguyễn Quang Toản, Gia Long đã bắt ông phải xem quân lính đào mộ Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ cùng vợ chính, lấy hài cốt giã nhỏ bỏ vào một cái bồ lớn, xương đầu thì bỏ vào ngục tối, giam lâu
dài. Quang Toản bị voi xé xác, chặt làm năm khúc, bêu ở năm chợ. Các em của ông đều bị voi giày.
Tướng Trần Quang Diệu bị chém làm trăm mảnh, vợ là Bùi Thị Xuân cùng con gái cũng bị voi giày.
Bọn lính lại chia nhau ăn tim gan của họ.
Để đề cao hơn nữa uy quyền của nhà vua, Gia Long còn đặt ra lệ tứ bất (nhưng không ghi thành
văn bản): không đặt tể tướng, không lập hoàng hậu, không lấy trạng nguyên trong thi cử, không phong
tước vương cho người ngoài họ vua.
Nhà Nguyễn dụng tâm chấn hưng chế độ phong kiến suy vi ở thời Lê mạt nhưng vẫn dựa trên
giai cấp quý tộc địa chủ cũ là một giai cấp đã hết sinh khí, không còn năng lực thúc đẩy sự tiến triển
của xã hội nữa.
Cũng như các triều đại trước, dưới thời Nguyễn, xã hội Việt Nam chia thành hai giai cấp lớn:
thống trị và bị trị.
Giai cấp thống trị bao gồm vua, quan lại, thơ lại trong hệ thống chính quyền và giai cấp địa chủ.
Vua và hoàng tộc (với cách gọi chung là Tôn thất) giờ đây đã trở thành một lớp người đông đảo, có đặc
quyền, nhất là con cháu gần gũi của nhà vua. Họ có dinh thự, ruộng vườn rộng rãi và được một hệ
thống cơ quan, đứng đầu là phủ tôn nhân, chăm lo bảo vệ. Các quan chức xuất thân từ nhiều tầng lớp
xã hội khác nhau nhưng do vị thế của mình trở thành lớp người đối lập với nhân dân, luôn hạch sách,
bóc lột nhân dân.
Giai cấp bị trị bao gồm toàn bộ nông dân, thợ thủ công, thương nhân, một số dân nghèo thành
thị. Lớp người bị lưu đày, nô tì cùng gia quyến sống ở các đồn điền cũng tăng lên đáng kể. Tuyệt đại đa
số cư dân là nông dân, dân bản mường ở vùng dân tộc ít người. Họ là lớp người gánh chịu mọi tai hoạ
của tự nhiên, mọi thiệt thòi bất công của xã hội. Thiên tai, mất mùa thường xuyên đe dọa cuộc sống của
dân nghèo. Sau mỗi lần vỡ đê, lụt lội lớn, mùa màng hư hại, nhân dân lại bỏ làng đi phiêu tán kiếm ăn.
Rồi lại khốn khổ vì dịch bệnh hoành hành. Ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ thời bấy giờ xuất hiện bài vè
nói lên tình cảnh thê thảm của người dân:
Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không…
… Quạ kêu vang bốn phía
Xác đầy nghĩa địa
Thây thối bên cầu
Trời ảm đạm u sầu
Cảnh hoang tàn đói rét…
Biết bao người dân không tìm ra lối thoát trong cuộc sống, chất chứa căm thù vua quan nhà
Nguyễn và bọn địa chủ tàn ác, họ đã nổi dậy chống triều đình. Theo tính toán của các nhà nghiên cứu,
dưới thời Nguyễn có đến năm trăm cuộc khởi nghĩa các loại, riêng thời Gia Long có khoảng chín mươi
cuộc. Đói khổ, dịch bệnh lại chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân càng thêm cực khổ. Tất cả như
một cái vòng luẩn quẩn khiến đất nước trì trệ.
Như vậy, Gia Long Nguyễn Ánh tiếp tục xây dựng và củng cố nền thống trị, bảo vệ chế độ
phong kiến trong bối cảnh khủng hoảng, suy vong. Trong hơn nửa thế kỷ tồn tại dưới triều Nguyễn, xã
hội Việt Nam hầu như không phát triển lên được theo chiều hướng tiến bộ của thời đại, mâu thuẫn xã
hội ngày càng sâu sắc làm bùng lên hàng loạt cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân và cuối cùng đất nước
trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Ấy cũng là bối cảnh chung của triều đại mới mà Nguyễn Du ra làm quan. Thời cuộc như thế,
cộng với tâm sự riêng của bản thân ông, ta hiểu được vì sao con đường hoạn lộ khá hanh thông nhưng
Nguyễn Du luôn muốn ca khúc quy khứ lai từ và trên thực tế, trong thời gian làm quan triều Nguyễn,
1.3. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
đã có hơn ba lần ông xin cáo quan về quê, khi thì lấy cớ dưỡng bệnh, lúc lại bận việc nhà...
Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề
cao tình. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con
người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh. Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là
tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình
yêu lứa đôi.
Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của
Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành… nên ở thể thơ nào, ông
cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện
Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại
truyện thơ.
Về chữ Hán, Nguyễn Du có ba tập thơ:
Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài thơ, được sáng tác từ năm Tây Sơn kéo quân ra Bắc (1786) cho
đến những năm kết thúc giai đoạn Nguyễn Du làm quan ở Bắc Hà (1804). Tập thơ ghi lại tâm sự của
một thời thanh niên đầy hùng tâm tráng chí nhưng thời vận lỡ làng, số phận long đong, đành ôm trong
lòng mối u uất không cách gì giải tỏa được.
Nam trung tạp ngâm gồm gần bốn mươi bài thơ được sáng tác trong giai đoạn từ lúc nhà thơ được
thăng hàm Đông các điện học sĩ vào làm quan ở kinh đô Phú Xuân đến hết thời kỳ làm Cai bạ dinh
Quảng Bình (từ năm 1805 đến 1812). Ở tập Nam trung là tâm sự của nhà thơ trên con đường làm quan
lắm gian nan rối rắm. Xưa nay quan trường vẫn là nơi hung hiểm, lòng người khúc khuỷu khó lường.
Thi nhân luôn phải cẩn thận giữ mình, luôn phải thủ thế chỗ này chỗ kia, cuộc sống không thể tránh
khỏi những tiếng thở dài ngao ngán.
Bắc hành tạp lục gồm 132 bài thơ, được sáng tác trong thời gian Nguyễn Du được nhà Nguyễn
cử làm chánh sứ sang Trung Quốc tuế cống (từ 1813 đến 1814). Đây là tập thơ được sáng tác trong thời
gian ngắn nhất song lại có số lượng nhiều nhất, đó là điều đáng lưu tâm. Có lẽ đúng như giáo sư
Nguyễn Lộc nhận xét : Khi có dịp đi sứ Trung Quốc, nhà thơ tìm thấy một nguồn đề tài vô tận để nói
những điều mình muốn nói (…) mỗi một cảnh, mỗi một di tích, mỗi một con người của quá khứ và hiện
tại trên đất nước Trung Hoa như xác nhận thêm một lần nữa những điều nhà thơ từng nghiền ngẫm,
nung nấu [24, tr.417]. Cái tâm sự sâu thẳm như nước sông Lam dưới chân núi Hồng mà khi còn ở nhà,
thi nhân không thể bộc bạch, không thể giải tỏa thì nay được giãi bày tự nhiên, chân thật trên trang
giấy. Những điều tai nghe mắt thấy trên đường đi sứ đã thấm nhuần trong bề rộng cảm xúc và chiều sâu
chiêm nghiệm, được thể hiện bằng ngòi bút trác tuyệt của bậc đại thi hào cho nên Bắc hành tạp lục
vượt lên trên những tập thơ đi sứ khác về độ chín của cảm xúc và sự tài hoa.
Về chữ Nôm, sáng tác của Nguyễn Du gồm có:
Đoạn trường tân thanh gồm 3254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác
phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Đây là đỉnh cao trong sáng tác
Nguyễn Du đồng thời là kiệt tác của văn học Việt Nam.
Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Tác phẩm được
làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Nguyễn Du viết bài thơ chiêu hồn cho nhiều
hạng người khác nhau, kể cả những người thuộc tầng lớp phong kiến quý tộc. Song tấm lòng nhân ái
của nhà thơ vẫn hướng về những thân phận nhỏ bé, dưới đáy xã hội… Do giá trị nhân đạo sâu sắc mà
Văn Chiêu hồn đã được phổ biến rộng rãi, kể cả trong phạm vi nhà chùa.
Ngoài ra Nguyễn Du còn là tác giả của các tác phẩm: Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết
bằng thể lục bát; Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế. Hai bài này được sáng tác
khoảng thời gian Nguyễn Du về sống ở Nghệ An, sau bị quân Tây Sơn bắt giữ rồi thả.
*
* *
Sống giữa một thời kì đầy những phong ba bão táp lịch sử, Nguyễn Du mãi băn khoăn trong lẽ
xuất xử, hành tàng. Hơn nữa hoàn cảnh xuất thân cũng khiến ông không dễ sớm nhận ra chân lí của
thời đại. Ông mang chí lớn bước vào đời khi vận nhà Lê đã hết; ông không hợp tác với Tây Sơn trong
khi đó là lực lượng tiến bộ của thời đại và cuối cùng, ra lại phải ra làm quan cho triều Nguyễn khi trong
lòng đã hoàn toàn nguội lạnh giấc mộng công danh, không còn nghĩ đến chuyện rong ruổi. Cuộc đời
Nguyễn Du là một chuỗi bi kịch như thế.
Nhưng xét cho cùng, vấn đề quan trọng ở Nguyễn Du không phải là thái độ của ông đối với triều
đại này hay triều đại nọ mà ở chỗ ông đã yêu ghét, trăn trở, suy tư như thế nào trước cuộc đời. Nguyễn
Du có thể lầm lạc trong lẽ xuất - xử song ông lại yêu - ghét rất đúng, rất phân minh. Vì vậy, tìm hiểu
con đường hoạn lộ của ông không phải để tổng kết những công trạng của ông đối với triều đại mà để
hiểu được khi đứng giữa thời cuộc, Nguyễn Du nhìn người, nhìn đời, nhìn thời đại mình như thế nào.
Cách nhìn ấy hẳn cho ta nhiều chiêm nghiệm sâu sắc, quý giá.
CHƯƠNG 2
CON ĐƯỜNG HOẠN LỘ VỚI NHỮNG NỖI NIỀM RIÊNG
2.1. NỖI BUỒN VÀ SỰ CÔ ĐƠN
Sử sách chép lại, Nguyễn Du ra làm quan triều Nguyễn khá sớm. Ông cũng được thăng tiến
nhanh. Tháng 8 niên hiệu Gia Long thứ nhất, ông được bổ tri huyện Phù Dung thuộc Khoái Châu, trấn
Sơn Nam. Chỉ trong ba tháng được thăng tri phủ Thường Tín, ở chức vụ này đúng hai năm. Tháng
giêng năm Giáp Tí (1804), ông được cử lên trấn Nam Quan nghênh tiếp sứ thần Thanh là Tề Bội Sâm
sang phong vương. Khi sứ thần về nước, thơ tống tiễn đều do Nguyễn Du thảo cả.
Có thể nói, ở triều đại mới, con đường công danh của Nguyễn Du hết sức thuận lợi. Nhà thơ mới
chỉ đỗ tam trường (tú tài) đã được cất nhắc làm quan, sau hai tháng lại được thăng tri phủ. Lại được hân
hạnh đi đón tiếp sứ thần, làm thơ xướng họa, rõ ràng là đặc cách lắm.
Vậy mà, đọc những bài thơ Nguyễn Du viết trong chặng đường làm quan đầu tiên này, chỉ thấy
rặt một giọng chán chường:
Thiên lí quan sơn vô cải sắc,
Nhất đình sương lộ cộng sầu miên.
Bồi hồi chính ức Hồng Sơn dạ,
Khước tại La Phù giang thủy biên.
(Sơ nguyệt)
(Nghìn dặm quan sơn cảnh sắc không thay đổi,
Đầy sân sương móc giục giấc ngủ buồn
Chính lúc bồi hồi nhớ đến đêm nao ở chốn non Hồng
Thì mình lại đang ở bến sông La Phù.)
Nỗi buồn hiện diện trong thơ như một nỗi niềm thường trực:
Đông phong trú dạ động giang thành
Nhân tự bi thê thảo tự thanh.
(Thanh minh ngẫu hứng)
(Gió đông thổi qua toà thành bên đông suốt ngày đêm
Người buồn thì cứ buồn, cỏ xanh thì cứ xanh.)
Nỗi buồn làm lòng người bồi hồi, đếm nhịp thời gian mà thao thức suốt đêm trường:
Sơ canh cổ giác ngũ canh kê,
Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê.
Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố,
Tây phong xuy ngã chính thê thê.
(Ngẫu hứng I)
(Canh một, nghe tiếng trống, tiếng tù và, canh năm, nghe tiếng gà gáy
Suốt đêm bồi hồi, nghĩ quẩn nghĩ quanh,
Làm sao trăng sáng đầy trời thế mãi?
Gió tây thổi, ta thấy lạnh buốt.)
Trăng sáng có thể làm thi vị trời đêm, làm mơ mộng lòng người nhưng ở đây trăng sáng càng soi
tỏ lòng buồn, càng làm cho không gian thêm lạnh lẽo và thời gian thêm chậm chạp. Đêm thao thức vì
thế như dài ra, lòng buồn bã trở nên tê tái.
Cũng vẫn nỗi buồn tê tái ấy có lúc nhuộm cả trời thu, nước thu:
Đồng Lung giang thủy khứ du du
Kim cổ nhàn sầu bất trú lưu.
Sa chủy tàn lô phi bạch lộ,
Lũng đầu lạc nguyệt ngọa hàn ngưu.
Loạn sơn thúy tiếp cô thành mộ,
Thủy trúc hàn sinh tiểu điếm thu.
Tiễn nhĩ dã âu tùy thủy khứ,
Phù sinh lao lục kỷ thời hưu.
(Đồng Lung giang)
(Nước sông Đồng Lung chảy xa thăm thẳm
Mối sầu kim cổ cũng trôi theo dòng nước không ngừng.
Đàn cò trắng bay trên đám lau tàn cuối bãi cát
Con trâu nằm đầu ghềnh dưới bóng trăng tà lạnh lẽo
Buổi chiều, những ngọn núi xanh tiếp liền với toà thành trơ trọi
Đương tiết thu, mấy khóm tre nước toả hơi lạnh quanh túp lều nhỏ
Thấy bầy chim âu dập dềnh trôi theo mặt nước mà thèm!
Cuộc sống vất vả của ta bao giờ mới thôi?)
Một dòng nước chảy trôi thăm thẳm, một đám lau tàn, một toà thành trơ trọi, mấy khóm tre toả
hơi lạnh, tất cả làm cho mùa thu thêm tiêu sơ. Nỗi buồn thương chất chứa trong lòng trở thành dòng
sầu chảy trôi mãi không ngừng.
Mùa thu, người buồn trước cảnh tiêu điều. Đã đành là vậy. Đến mùa xuân tươi đẹp, lòng người
vẫn buồn, buồn đến nước mắt thấm khăn:
Nhân tự tiêu điều, xuân tự hảo
Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.
(Xuân tiêu lữ thứ)
(Người thì tiều tụy, nhưng xuân vẫn cứ tươi đẹp
Đứng dưới Đoàn thành, nước mắt đẫm khăn.)
Xuân vẫn tươi đẹp, không chút đồng điệu với lòng người tiều tụy. Lời thơ bật lên chua xót.
Giọng chán chường đã thành giọng bi thương. Nỗi bi thương ấy, ta hiểu, một phần vì lòng nhớ gởi về
chốn quê nhà có núi Hồng biết bao gắn bó:
Trần thế bách niên khai nhãn mộng,
Hồng Sơn thiên lí ỷ lan tâm.
Bồi hồi đối cảnh độc vô ngữ,
Bạch phát sổ hành thùy ngã khâm.
(La Phù giang thuỷ các độc tọa)
(Cuộc trần thế trăm năm chỉ là giấc mộng khi mắt mở
Tựa lan can, lòng nhớ núi Hồng nơi ngàn dặm.
Một mình bồi hồi ngắm bóng, chẳng nói năng gì
Mấy sợi tóc bạc phất phơ rủ xuống tà áo.)
Ở chốn quan trường, vị quan thường dõi mắt tìm kiếm hình bóng cố hương:
Lục xích câu mi trường dịch dịch
Tứ thời phao trịch thái thông thông.
Chinh hồng ảnh lí gia hà tại?
Ẩn ẩn quỳnh vân tam lưỡng phong.
(Ngẫu hứng II)
(Tấm thân sáu thước bị câu thúc, cứ vất vả mãi
Bốn mùa đi qua đi lại tựa thoi đưa, sao chóng thế!
Trong bóng chim hồng bay đằng kia, nhà mình ở đâu?
Chỉ thấy thấp thoáng vài ba ngọn núi trong đám mây ngọc.)
Hay:
Mang mang viễn thủy tam xuân thụ,
Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên.
Cự mục hương quan tại hà xứ?
Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên.
(Thanh Quyết giang vãn diểu)
(Phía xa, nước sông mờ mịt lẫn bóng cây mùa xuân
Khói bay từ mấy nóc nhà lác đác hai bên bờ sông
Cố ráng mắt nhìn xem quê hương mình ở chỗ nào?
Chỉ thấy vài con chim hồng như vài nét chấm bên đám mây trắng.)
Ánh mắt nhìn diệu vợi sao mà thiết tha, khắc khoải. Lòng nhớ núi, nhớ quê không chỉ đơn thuần
là tình cảm dành cho quê hương, dành cho miền gắn bó mà núi Hồng quê hương còn là nơi chốn an
nhàn, tự tại, khác xa chốn tường mận vườn đào lắm nhiễu nhương. Ra làm quan từ buổi đầu của triều
đại mới, hoạn lộ lại hanh thông nhưng vị quan họ Nguyễn chỉ thấy chán chường, một mực nhớ tiếc núi
Hồng quê cũ là bởi:
Anh hùng tâm sự hoang trì sính
Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần.
(Xuân tiêu lữ thứ)
(Tâm sự người anh hùng không còn nghĩ đến chuyện ruổi rong.
Đường danh lợi làm lụy đến sự khóc cười.)
Hùng tâm tráng chí thời trai trẻ đã tiêu ma theo những thăng trầm của thời cuộc. Kiếm dài
không còn ngạo nghễ tựa trời xanh. Dâu bể cuộc đời làm lòng người lắng lại, nhận ra công danh phú
quý chỉ như giấc mộng hư vô:
Phù thế công danh khan điểu quá
Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên.
Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại,
Thiên tuế trường ưu vị tử tiền.
(Mộ xuân mạn hứng)
(Công danh ở đời khác nào cánh chim bay vút
Trước sân vắng, thời tiết cũng theo chim oanh mà thay đổi
Tấm thân không thể thoát khỏi vòng hữu hình,
Chưa chết, cứ lo mãi chuyện ngàn năm.)
Cánh chim bay vút chỉ trong chớp mắt. Danh lợi đúng là phù phiếm hão huyền. Vậy mà tấm
thân không sao thoát khỏi vòng luẩn quẩn ấy. Cho nên, mình lại càng thương mình:
Nhất lệ thiên nhai sái đoạn bồng
La Phù giang thượng khởi thu phong.
(Ngẫu hứng II)
(Ở nơi chân trời, thương mình như ngọn cỏ bồng lìa gốc mà rơi lệ
Gió thu đã nổi dậy trên sông La Phù.)
Rồi tự hỏi:
Tiễn nhĩ dã âu tùy thủy khứ,
Phù sinh lao lục kỷ thời hưu?
(Đồng Lung giang)
(Thấy bầy chim âu dập dềnh trôi theo mặt nước mà thèm!
Cuộc sống vất vả của ta bao giờ mới thôi?)
Ngọn cỏ bồng còn mãi lưu lạc trên con đường bụi hồng, chỉ sợ:
Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ,
Viên hạc hà tòng nhận cựu lân.
(Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn)
(Chiếc áo xanh đi khắp đường bụi hồng
Con vượn con hạc làm sao mà nhận ra người láng giềng cũ.)
Lại lo:
Thương tàn vật tính bi phù hĩnh,
Khắc lạc thiên chân thất mã đề.
Nhược ngộ sơn trung mi lộc hữu,
Yên hà cựu thoại bất kham đề.
(Ngẫu hứng I)
(Làm hại tính vật, thương cho chân con vịt nước,
Xuyên lạc thiên chân, mà mất đạo lý mã đề,
Nếu gặp bạn hươu nai trong núi
Khó mà nói chuyện mây khói ngày trước nữa!)
Và ước mơ:
Vạn mộc sơn tiền khả bốc cư
Bạch vân tại tụ thủy thông cừ.
Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng
Mục thụ kị ngưu nhất bất như.
Ảnh lí tu mi khan lão hỉ,
Mộng tủng tùng cúc ức quy dư.
Tọa gia thôn tẩu đa nhàn sự,
Chỉ vì bình sinh bất độc thư.
(Lạng Sơn đạo trung)
(Có thể dựng ngôi nhà trước rừng cây kia mà ở
Trên núi có mây trắng, lại có khe nước chảy ra.
Nhà sư và khóm trúc, cả hai đều vô sự
Chẳng ai bằng em bé cưỡi trâu ung dung kia!
Soi gương, nhìn mày râu, biết mình già rồi,
Trong mộng thấy tùng cúc lại nhớ đến chuyện muốn về vườn.
Ông già thôn quê ngồi trong nhà nhàn rỗi quá
Được như thế, chỉ vì bình sinh không đọc sách!)
Bốn câu đầu bài thơ tràn ngập ý vị thiền. Mây trôi, nước chảy vô ý, vô tâm. Nhà sư và khóm
trúc, cả hai đều vô sự. Cứ ngỡ người ngắm cảnh là một thiền sư. Nhưng không, bốn câu sau thấy rõ cái
ưu tư, bất đắc ý. Cảnh vô tâm càng làm người làm quan thêm chán tình thế hiện tại, muốn về làm bạn
với tùng cúc. Mới độ tuổi trung niên mà đã thấy mình già, chẳng qua vì quá thiết tha với cây tùng áng
trúc.
Nỗi niềm ấy càng bộc lộ rõ hơn qua những vần thơ gửi bạn:
Hữu sinh bất đái công hầu cốt,
Vô tử chung tầm thỉ lộc minh.
Tiển sát bắc song cao ngọa giả,
Bình cư vô sự đáo hư linh.
(Ký hữu)
(Lúc sinh ra không mang cốt cách vương hầu
Chưa chết thì rốt cuộc cũng đi tìm lợn hươu làm bạn.
Thèm chết đi được như người nằm khểnh bên song cửa sổ phía bắc,
Thường ngày không có gì bận đến tâm tình trong sáng.)
Ngay từ buổi đầu ra làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du đã chán ngán vòng lợi danh như thế.
Trăm mối ưu phiền, lòng nhớ quê và niềm ước ao về một cuộc sống thanh nhàn tự tại luôn thường trực.
Chừng ấy tâm sự quẩn quanh khiến lòng ông không lúc nào thôi u uẩn.
Cuộc đời Nguyễn Du kéo dài những ngày không như ý. Quãng thời gian ông ra làm quan cho
triều Nguyễn cũng là những ngày dài bất đắc chí. Nguyễn Du không tìm được sự tự tại trong tâm hồn
như Nguyễn Trãi, không thể an nhiên chọn lối sống nhàn như Nguyễn Bỉnh Khiêm, càng không đắc ý
với con đường hoạn lộ như Nguyễn Công Trứ. Vị quan Nguyễn Du luôn có những tâm sự u uất trong
lòng. Ở những bài thơ chữ Hán làm trên con đường hoạn lộ của Nguyễn Du vẫn hiện lên dáng nét của
con người nhà nho, tuy nhiên, đã bộc lộ những chuyển động khác thường về tư tưởng, đã biểu hiện sắc
vóc, thần khí của một con người cá nhân, luôn dằn vặt trong mâu thuẫn, đau đớn trong bi kịch, nhiều
phen đối lập với vũ trụ… Trên con đường hoạn lộ hiện lên hình ảnh một vị quan – một con người hiện
đại, con người có ý thức cá nhân, trong lòng chế độ phong kiến đang hồi rạn vỡ:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Độc Tiểu Thanh ký)
Đó là những vần thơ tột cùng cô đơn của Nguyễn Du. Nó vút lên, như lời tiên cảm của con người
luôn sợ mình phải làm kẻ lữ hành cô độc trên cõi nhân gian. Nhưng lời tiên cảm ấy đã thành sự thật.
Ngay từ thời trai trẻ, Nguyễn Du đã nhắc nhiều đến nỗi cô độc của bản thân mình. Đó là nỗi niềm
tâm sự của một con người cô đơn, mệt mỏi u sầu, mất đi niềm tin vào cuộc sống. Sinh ra trong cảnh
loạn ly, chứng kiến bao nhiêu bi hoan, tan hợp, Nguyễn Du chán ngán thế sự, âu lo về con đường tương
lai, không biết ngỏ cùng ai những ước nguyện hùng tâm tráng chí. Một mình một bóng với bao cảnh
thế sự thăng trầm, nhiễu nhương, đen bạc, với năm tàn tháng tận, với tuổi già bóng xế, với mái tóc bạc
trên đầu. Dễ thấy trong những vần thơ chữ Hán của ông hình ảnh một con người lặng im, "vô ngôn", cô
độc, tự vùi chôn tâm sự vào tận đáy lòng mình. Hiếm khi Nguyễn Du tâm sự với một ai, chỉ thấy những
tấc lòng cô đơn không dễ gì lí giải:
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ
(My trung mạn hứng)
(Ta có tấc lòng không biết nói cùng ai)
Nhất sinh u tứ vị tằng khai
(Thu chí)
(Suốt đời ôm mối u sầu chưa từng gỡ ra được)
Tâm sự của nguyễn Du không thoát được ra ngoài, không gửi vào được thiên nhiên, không hoà
điệu được cùng gió trăng mây nước mà cơ hồ đã thấm vào máu thịt của người. Thi nhân chỉ còn biết
đối diện với bốn mùa:
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm
(Thu dạ 2)
(Mây khói bốn mùa một mình trầm ngâm)
Với bóng đêm:
Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê
(Ngẫu hứng I)
(Suốt đêm bồi hồi, nghĩ ngợi miên man)
Với bóng mình:
Bồi hồi đối ảnh độc vô ngữ
(La Phù Giang thuỷ các độc toạ)
(Bồi hồi trước bóng một mình yên lặng)
Với ngọn đèn:
Cô đăng tương đối đáo thiên minh
(Mạc phủ tức sự)
(Ngọn đèn cô đơn đối diện với mình cho đến sáng)
Với cây trúc trước sân:
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc
(Ký hữu)
(Riêng mình lẳng lặng trước cây trúc ngoài sân)
Rồi gặm nhấm cô đơn và nghẹn ngào rơi lệ:
Ky lữ đa niên đăng hạ lệ
(Xuân dạ)
(Lâu năm làm khách xa nhà, lệ rơi dưới đèn)
Có lắm lúc, vị quan Nguyễn Du còn bế môn, tạ từ không tiếp bạn thân - chủ động tạo ra một
không gian cá nhân, một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn, trong lòng đại vũ trụ mênh mông.
Xuất hiện nhiều lần trên con đường hoạn lộ là hình ảnh con người tóc bạc độc bộ dưới bóng trăng
tàn lạnh lẽo:
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân
(Dạ hành)
(Gió lạnh trên con đường xưa dồn cả vào một người).
Và cái bóng cô đơn in trên cát lúc chiều tàn:
Bình sa nhân ảnh tại tà dương
(Giang đầu tản bộ II)
(Bóng người trên bãi cát phẳng lúc chiều tà)
Đó là hình bóng cái tôi cô đơn, bế tắc, tuyệt vọng của một con người mang nhiều bi kịch cá
nhân ở thời trai trẻ, đến cái tôi cô đơn của một vị quan không - thể - hòa - nhập với cuộc sống đầy rẫy
những thủ đoạn, thị phi, đoạt lợi tranh quyền trong chốn triều đình.
Có lẽ vì vậy mà chỉ làm quan hai năm, mùa thu năm Giáp Tí (1804), Nguyễn Du đã xin từ chức
về quê, lấy cớ là bị bệnh, giữa lúc con đường công danh đang hết sức thuận lợi.
2.2. NỖI THẤT VỌNG VỀ CHỐN QUAN TRƯỜNG
Ai cũng tưởng năm 1804, lấy lý do ốm yếu mà cáo quan, Nguyễn Du sẽ ở mãi với núi Hồng mà
làm bạn với hươu nai như ước nguyện của ông. Nào ngờ mới được một tháng, có chỉ nhà vua triệu vào
kinh giữ chức Đông các điện học sỹ, đành phải đi.
Cùng với chức Đông các đại học sĩ, Nguyễn Du được phong tước Du tước hầu. Mùa thu năm
Đinh Mão (1807) ông được chỉ định làm giám khảo trường thi hương Hải Dương. Một năm sau (1808),
ông lại xin về tạm nghỉ ở quê nhà, được nhà vua ban cho một trăm quan tiền và một trăm vuông gạo.
Gần bốn năm làm việc ở Đông các có thể nói là không có gì đáng phàn nàn. Nhưng lòng ông vẫn
không vui. Xét kỹ thì lúc này quả ông có gặp nhiều điều không được như ý. Trước hết là cái chết của
người anh cùng mẹ là Nguyễn Nễ. Nguyễn Nễ vốn là triều thần của nhà Tây Sơn. Khi Gia Long lên
ngôi, ông soạn một bài quốc âm và làm một tờ biểu dâng lên trần tình, được nhà vua hết sức khen ngợi,
ban thưởng tiền và áo mão. Đầu năm Nhâm Tuất (1802) ông theo vua Gia Long ra Bắc Hà. Ở Bắc
Thành, ông Nễ bị nhiều người gièm pha nên nhà vua sai ở lại làm việc dưới quyền của viên tổng trấn.
Năm Giáp Tý (1804) mới được gọi vào kinh. Nhưng sang năm Ất Sửu thì có việc lôi thôi ở làng, không
rõ việc gì, bị tri phủ là Nguyễn Văn Châu truy bức nên buồn rầu mà chết, chỉ mấy tháng sau khi
Nguyễn Du lên đường vào nhận chức. Hơn nữa trong những năm này, trấn Nghệ An đói, tin nhà cho
biết ở quê đàn con nheo nhóc khiến ông lo lắng không yên. Tình cảnh làm quan của ông cũng không
khá giả gì, nếu không muốn nói là nghèo. Dưới triều Nguyễn, quan lại chỉ được hưởng lương theo
phẩm hàm, không có ruộng lộc mà chủ yếu nhận tiền và gạo. Tình hình đất nước cũng có phần rối ren,
nhân dân khắp nơi đói khổ, bỏ làng đi phiêu tán. Năm 1806, theo báo cáo của quan lại Bắc Thành có
đến hơn ba trăm thôn xã người dân bỏ làng đi phiêu tán.
Nguyễn Du làm quan đến tháng tám năm 1808 lại treo mũ ra về. Về quê nhà được gần một năm,
đến tháng tư năm Kỷ Tị (1809) lại có chỉ bổ Nguyễn Du làm cai bạ doanh Quảng Bình. Ông giữ chức
bốn năm từ tháng tư năm 1808 đến tháng chín năm 1812. Phàm những việc trong hạt, như lính tráng,
dân sự kiện thưa, tiền nong lương thực và các hạng thuế, ông đều bàn bạc với các quan lưu thủ, ký lục
để thi hành. Chính sự giản dị, không cầu tiếng tăm, nên được sỹ phu và nhân dân quý mến. Thế phả
chép như vậy [2, tr.46]. Có thể nói ông là một trong những vị quan thanh liêm, tận tuỵ với chức trách,
biết giữ phận mình và cố tránh cho dân những điều phiền hà. Mặc dù như thế, ông thường bị quan trên
quở trách nên lấy làm bực chí (Liệt truyện). Thế rồi tháng chín năm Nhâm Thân (1812), ông lại xin về
nghỉ, nói là để xây mộ ông Quế Hiên (tức Nguyễn Nễ).
Những tâm sự trong quãng thời gian làm quan lắm gian nan rối rắm này được Nguyễn Du ghi lại
trong tập thơ Nam trung tạp ngâm, tất cả có bốn mươi bài.
Xưa nay quan trường vẫn là nơi hung hiểm, lòng người khúc khuỷu khó lường. Thi nhân luôn
phải cẩn thận giữ mình, luôn phải thủ thế chỗ này chỗ kia, cuộc sống không thể tránh khỏi những tiếng
thở dài ngao ngán. Nghe nhà thơ bộc bạch về cuộc sống chốn tường mận vườn đào ta có thể hiểu được
phần nào:
Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc
(Tống nhân)
(Những con oanh đẹp trong vườn thượng uyển ghen nhau vì sắc đẹp).
Quan trường như vườn thượng uyển nhiều hoa sắc mà những con oanh ghen nhau sắc đẹp. Ở đó,
nhà thơ không có ai làm bầu bạn. Ông lại luôn phải tự dặn mình:
Đào hoa mạc trượng đông quân ý
Bàng hữu phong di tính tối toan.
(Ngẫu thư công quán bích II)
(Hoa đào chớ cậy chúa xuân yêu,
Bên cạnh có dì gió tính rất chua ngoa.)
Số là các quan đứng đầu các dinh trấn lúc đó có quan Kí lục, quan Cai bạ, quan Lưu thủ. Họ
chia làm hai phe: phe gồm những người từng theo Gia Long từ hồi còn ở trong Nam và phe những
người từng làm quan thời Lê Trịnh. Giữa hai phe thường hiềm nghi, chèn ép nhau. Hơn nữa, Nguyễn
Du là con cháu một vọng tộc thời Lê, từng nuôi chí phò Lê phục quốc cuối cùng ra làm quan triều
Nguyễn thì càng không tránh khỏi bị người này, người kia gièm pha, xét nét. Cho nên có lúc ông than
thở:
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt,
Thù phương độc thác hữu quan thân.
Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã,
Lão khứ văn chương diệc tị nhân.
(Ngẫu đắc)
(Trên đồng ruộng khắp nơi vùi xương vô chủ,
Phương xa một mình gửi cái thân làm quan.
Khi gặp việc bọn đầy tớ lính hầu đều lên mặt với ta,
Già đến rồi, văn chương cũng xa lánh người.)
Rồi lại e dè, sợ sệt:
Vô lụy vị ưng chiêu quỷ trách,
Bất tài đa khủng tốc quan phi.
(Giang đầu tản bộ I)
(Không lụy nên chưa chuốc lấy sự trách móc của quỷ,
Bất tài nên hay sợ rước lấy sai lầm trong việc quan.)
Với tình cảnh ấy, cuộc sống ấy, ta cũng dễ hiểu vì sao nhà thơ cất lên những câu ai oán:
Phàm sinh phụ kỳ khí,
Thiên địa phi sở dung.
(Điệu khuyển)
(Phàm sinh ra mang khí phách khác thường,
Thì trời đất không có chỗ dung.)
Rồi lại tự mỉa mai mình:
Hữu hình đồ dịch dịch
Vô bệnh cố câu câu.
(Thu chí)
(Có thân hình chỉ vất vả
Không bệnh mà lưng khom khom.)
Có khi bực chí đến mức nghĩ đến cái chết:
Quyên ai mạc báo sinh hà bổ,
Nhi nữ thành quần tử bất phương.
(Giang đầu tản bộ II)
(Ơn trên chưa báo được mảy may, sống có ích gì,
Trai gái hàng đàn, chết cũng được.)
Không phải tự nhiên mà Nguyễn Du có suy nghĩ tiêu cực như vậy. Trước đây, một người thân
của ông đã phải chịu tai vạ từ triều đình. Đó là trường hợp người anh ruột thân thiết của ông - Nguyễn
Nễ.
Tâm sự của Nguyễn Du trong những năm tháng làm quan ở phương Nam lắm gian nan rối rắm
này làm ta nhớ đến tình cảnh bi đát của Nguyễn Trãi trong triều đình khi xưa. Nếu trong chiến tranh,
ông dâng Bình Ngô sách, được Lê Lợi tin dùng, đối đãi vào hàng quân sư, cùng bàn bạc việc quân cơ.
Nhờ tài thao lược, chiến lược Tâm công cùng tài ngoại giao, tài viết thư thảo hịch, Nguyễn Trãi đã
dùng ngòi bút của mình để dụ hàng quân giặc. Kháng chiến thành công, khi triều đình định công ban
thưởng, dù công lao vào bậc nhất, nhưng ông chỉ được ban quốc tính (họ Lê), phong tước Quan phục
hầu, chức Thượng thư Bộ Lại, kiêm Nhập nội Hành khiển và trông coi Môn hạ sảnh, tức những chức
quan đối nội, lo việc triều đình, ở bậc hai, bậc ba trong hàng ngũ quan chức đời Lê.
Sau thắng lợi một năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn, một tướng giỏi vốn
là dòng dõi nhà Trần định mưu phản, nên sai người đi bắt hỏi tội. Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông
tự vẫn. Vì Nguyên Hãn là anh em họ của Nguyễn Trãi nên ông cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên
quan tới tội mưu phản. Sau đó vì không có chứng cứ buộc tội, vua Lê lại thả ông ra. Tuy nhiên cũng từ
đó ông không còn được trọng dụng như trước nữa.
Thực chất, cuộc thanh trừng công thần của Lê Thái Tổ có động cơ từ việc muốn thiên hạ hết
mong nhớ nhà Trần; đồng thời cũng là cuộc tranh chấp quyền lực thời bình giữa các tướng có xuất thân
họ hàng hoặc cùng quê với vua Lê - do Lê Sát đứng đầu - và các tướng xuất thân vùng khác, tiêu biểu
là Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo. Hơn nữa đó lại còn là cuộc tranh chấp ngôi thái tử giữa con cả
của vua là Lê Tư Tề (người từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và được Nguyên Hãn ủng hộ) với con
thứ Lê Nguyên Long (được Lê Sát ủng hộ).
Bị oan khuất, sau khi ra khỏi ngục, Nguyễn Trãi làm bài Oan thán bày tỏ nỗi bi phẫn, trong đó có
câu:
Hư danh thực họa thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
(Danh hư thực họa nên cười quá,
Bao kẻ dèm pha xót người trung.)
Nguyễn Trãi cũng thấm thía cái hiểm hóc, quanh co của chốn quan trường:
Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc
Cho hay đường lợi cực quanh co.
(Ngôn chí 19)
Lúc khác ông thốt lời mỉa mai chua chát:
Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh tựa nước non quanh.
(Bảo kính cảnh giới 9)
Đáng sợ thay miệng thế, lòng người! Và đáng buồn thay cho cuộc đời, bởi chim phượng thì
không được bay cao còn loài ác điểu thì tha hồ bay liệng:
Phượng những tiếc cao, diều hãy liệng
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi.
(Tự thuật 9)
Tâm sự của Nguyễn Du, của Nguyễn Trãi đều là những triết lí thế sự giản dị mà sâu sắc, được
đúc kết từ những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời.
Nhưng không phải chỉ vì những chuyện riêng mà Nguyễn Du uất ức. Trong khoảng thời gian
ông ra làm quan, triều đình đã xảy ra nhiều chuyện nhiễu nhương khiến ông không thể không phiền
lòng. Năm Gia Long thứ 10 (1811), phát giác ra chuyện Đặng Trần Thường, Nguyễn Gia Cát, Vũ Quý
Đĩnh làm sắc giả bán lấy tiền, hoặc phong cho ông cha, bố mẹ vợ mình làm phúc thần. Đặng Trần
Thường lúc đó là thượng thư bộ Binh, Nguyễn Gia Cát là tham tri bộ Lễ, Vũ Quý Đĩnh là Thiêm sư bộ
Lễ. Làm cả thảy hơn năm trăm sáu mươi đạo sắc giả, trong đó có cả đạo sắc phong cho Hoàng Ngũ
Phúc, tướng nhà Trịnh – kẻ thù của nhà Nguyễn – chức Thanh danh văn võ thánh thần đại vương.
Những chuyện hiềm khích rồi hãm hại nhau thì nhiều vô kể. Hơn nữa lúc bấy giờ, tệ quan lại tham
nhũng, đục khoét dân lành là vấn đề nổi cộm của triều đình. Trong dân gian còn lưu truyền câu ca nói
lên sự căm ghét của dân chúng đối với quan lại:
Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan.
Trong khi đó, dù được vào kinh đô nhận chức, rồi thăng chức nhiều lần nhưng cuộc sống riêng
của vị quan Nguyễn Du vẫn rất đạm bạc. Một mình ông làm quan ở phương Nam còn vợ con vẫn ở lại
quê nhà. Nhà thơ luôn phải đau lòng vì mười miệng trẻ đói mặt càng xanh như rau, lo lắng đến thắt
ruột vì quê hương nắng hạn lâu ngày, trong khi mình thì một thân nằm bệnh ở thành phía đông:
Cố hương cang hạn cửu phương nông,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng.
(Ngẫu hứng IV)
(Quê hương nắng hạn lâu ngày làm hại việc nông,
Mười miệng trẻ đói mặt cùng xanh như rau.)
Thập khẩu đề cơ Hoành lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông.
(Ngẫu đề)
(Mười miệng kêu đói ở phía Bắc Hoành Sơn,
Một thân nằm bệnh ở phía đông Hoàng thành.)
Có khi ông chạnh lòng trước cảnh:
Hữu nhất nhân yên lương khả ai,
Phá y tàn lạp sắc như khôi.
Tự nhân đãn mịch đạo bàng tẩu,
Tri thị Thăng Long thành lí lai.
(Ngẫu hứng V)
(Có một người kia thật đáng thương,
Áo rách nón xơ sắc mặt xám như tro.
Tránh người chỉ tìm ven đường mà bước,
Biết là người trong thành Thăng Long đến.)
Đó là hình ảnh của một trong rất nhiều những người dân đói khổ phải rời bỏ làng mạc quê
hương đi phiêu tán, sống dật dờ qua ngày. Dù là thuở còn lưu lạc trên những nẻo đường gió bụi hay khi
đã là một vị đại quan, Nguyễn Du không thể không đau lòng trước những hiện thực ấy.
Hơn nữa, thân làm quan nhưng nhà thơ sớm nhận ra sự vinh hoa, hư ảo của vòng danh lợi; tỏ ra
không một chút thiết tha, cầu vị. Xuyên suốt hai tập thơ đầu tiên, nhiều lần ông đề cập đến điều đó. Lúc
thì ông cho rằng cái giàu sang tự nghìn xưa chỉ để cung cấp cho sự tranh đoạt; rồi thấm thía mọi mưu
đồ bá chủ trên đời này rốt cuộc cũng đều bị nước chảy mây trôi cuốn sạch. Lúc khác lại than thở rằng
vinh hoa chỉ như người mặc áo gấm đi đêm, danh lợi như mây buổi sớm:
Dạ tú vinh hoa thân ngoại huyễn,
Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi.
(Đại tác cửu thú tư quy)
(Vinh hoa như mặc áo gấm đi đêm, chỉ là ảo mộng ngoài thân
Danh lợi như mây buổi sớm, đổi khác trước mặt.)
*
* *
Trong thời gian làm quan ở phía Nam, nhà thơ không còn chìm trong bế tắc, tuyệt vọng như trước.
Song tác giả cũng chưa từng có được sự thanh thản khi bước chân vào chốn quan trường. Có đến 20 lần
ông bày tỏ ước nguyện qui cố hương [23, tr.71]. Điều đó chứng tỏ Nguyễn Du luôn cảm thấy day dứt,
ân hận, luôn bị giằng xé trong nhiều mâu thuẫn nội tâm. Dường như ông thấy mình đã chọn lầm đường
- con đường mà càng dấn thân vào, con người càng mất dần đi thiên tính tốt đẹp:
Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ,
Viên hạc hà tòng nhận cựu lân.
(Đồng Lư lộ thượng dao kiến Sài Sơn)
(Chiếc áo xanh đi khắp đường bụi hồng
Con vượn, con hạc làm sao nhận ra được láng giềng cũ.)
Điểm nhìn Nam trung tạp ngâm vẫn mang tính hướng nội song cảm nhận của vị quan về bản thân
đã có nhiều đổi khác. Ông không còn phải khóc thương cho sự cùng đường, bế tắc của một con người
lỡ thời, thất thế nhưng lại phải đau xót, tủi thẹn vì nguy cơ đánh mất mình. Thơ Nguyễn Du thời kỳ này
chất chứa những mệt mỏi, chán chường, thất vọng. Ông thất vọng về mình - vì đã không giữ vẹn được
tấm tình thủy chung với non xanh, với tùng cúc, hươu nai. Ông thất vọng về chốn quan trường - vì
những tưởng khi nhập thế sẽ làm nên sự nghiệp, sẽ giúp ích cho đời nhưng cuối cùng cũng chỉ là kẻ bị
trói buộc bởi năm đấu gạo. Ông giống như một người không muốn trôi theo dòng chảy kia nhưng
chẳng thể nào thoát khỏi được vòng xoáy dữ dội của nó nên đành chấp nhận. Điều đau xót nhất là, khi
bước chân vào nẻo thanh vân cũng là khi hoài bão, ước mơ dần nguội tắt.
Nhưng trong chính khoảng thời gian này, vị quan họ Nguyễn bắt đầu có những nhận thức sâu sắc
về bản chất xã hội đương thời. Đó không phải là nơi cho những con người có hùng tâm, tráng chí cất
cánh bay cao. Người nghệ sĩ trong ông khi nhìn lại những biến động của thời đại đã không thể không
đau đớn cho cuộc đời trong cảnh loạn lạc bể dâu:
Tạc giả đại khuy sinh vật đức
(Pháo đài)
(Trước kia đã thương tổn rất nhiều đến cái đức hiếu sinh của tạo hóa)
Tam quân cựu bích phi hoàng diệp
Bách chiến tàn hài ngọa lục vu
(Độ Linh giang)
(Trên lũy cũ ba quân lá vàng bay lả tả
Xương tàn trăm trận đánh vẫn nằm trong bãi cỏ xanh.)
Khoáng dã biến mai vô chủ cốt.
(Ngẫu đắc)
(Trên đồng ruộng khắp nơi vùi thân vô chủ)
Phong xuy cổ trủng phù vinh tận
Nhật lạc bình sa cốt chiến cao.
(Ngẫu thư công quán bích)
(Gió thổi vào nấm mồ xưa, vinh hoa hư ảo tan hết
Mặt trời tà trên bãi cát, đống xương chiến trận đã cao.)
Tâm sự của Nguyễn Du trong Nam trung tạp ngâm đã không còn giới hạn trong những bất hạnh,
đổ vỡ riêng tư mà phản chiếu cách nhìn nhận, đánh giá về bản chất của một xã hội trong chiều đi
xuống.
Nguyễn Du phải ra nơi tường mận vườn đào khi trong lòng đã hoàn toàn nguội lạnh giấc mộng
gác vàng, lại gặp những nhiễu nhương của chốn quan trường, cộng với những điều trông thấy mà đau
đớn lòng hằng ngày cho nên chẳng bao giờ thấy ông nhẹ nhõm, thảnh thơi, lòng lúc nào cũng trĩu nặng
ưu tư.
2.3. NIỀM ƯỚC AO VỀ MỘT CUỘC SỐNG THANH NHÀN
Một mình nơi chân trời, thân bị một chức quan cột chặt, chốn quan trường lắm nhiễu nhương,
hiện thực đầy những cảnh đau lòng, chừng ấy tâm sự ngổn ngang khiến nhà thơ không lúc nào vui.
Giữa chốn quan trường hiện lên hình ảnh của một vị quan thâm trầm, lặng lẽ, ôm mối cô độc, u uất
trong lòng mơ ước có được cuộc sống tự do tự tại chốn quê nhà.
Nỗi buồn và sự cô độc đã xuất hiện từ những ngày đầu làm quan nay tràn ngập ở tập Nam trung:
ông đóng cửa phòng văn, tạ từ không tiếp bạn thân; đêm nằm lắng tiếng mưa rơi, lấy nỗi buồn mà
chống chọi với cái rét đêm xuân. Bài thơ Ngẫu thư công quán bích nói lên tình cảnh thật đáng thương:
Xuân tòng giang thượng lai hà xứ,
Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan.
Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ,
Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn.
(Ngẫu thư công quán bích II)
(Xuân theo dòng sông đến nơi nào
Người nương thân chốn chân trời, một chức quan cột chặt
Đêm nghe tiếng mưa sầm sập khắp mặt đất
Trên một chiếc giường, nỗi buồn cô đơn chọi lại cái rét đêm xuân.)
Hình ảnh nhà thơ trong đêm khuya cô tịch buồn rầu một mình đối bóng cứ trở đi trở lại như một
ám ảnh:
Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh,
Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh.
(Tống nhân)
(Trong đêm khuya cô tịch buồn rầu một mình đối bóng,
Nghe mưa dầm đầy giường không sao chịu nổi.)
Đêm khuya. Mà lại là một đêm mưa. Khung cảnh tự nó đã khơi gợi bao nỗi niềm. Tiếng mưa
dầm làm người không ngủ được, một mình đối bóng để tự lắng nghe những thác lũ của cõi lòng.
Cũng đã từng có một đêm mưa nhiều tâm tư như thế:
Thu khí hòa đăng thất thự minh,
Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh.
Tự tri tam thập niên tiền thác,
Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh.
(Hơi thu hòa vào ngọn đèn làm mờ đi ánh sáng ban mai,
Giọt mưa trên tàu chuối xanh ngoài cửa sổ tiễn canh tàn.
Tự biết sai lầm của mình ba mươi năm trước,
Đành ôm nỗi sầu ngồi nghe mưa rơi.)
Đó là đêm mưa đầy ám ảnh trong bài thơ Dạ vũ của nhà vua Trần Minh Tông. Người ngồi đó,
gần trọn đêm mưa mà nghĩ về những sai lầm của mình ba mươi năm trước! Nhịp mưa rơi làm cho lòng
người thêm dằn vặt; nhịp mưa và nhịp buồn bã, hối hận của lòng người, cả hai có sự hòa điệu. Nó làm
cho bài thơ mang một âm điệu trầm, thấm thía; hé mở cho mọi người thấy được chiều sâu tâm hồn và
vẻ đẹp nhân cách của một vị vua.
Hai đêm mưa, mỗi người một nỗi niềm, song đó đều là những con người thao thức trước cuộc
đời. Nỗi niềm thao thức ấy khiến họ trở thành những nhân cách lớn.
Nguyên nhân nỗi u hoài không cách gì gỡ ra được của nhà thơ không phải chỉ do sự bất đắc chí
đối với chốn quan trường. Nó là hệ quả của những dư chấn không dứt từ những dâu bể cuộc đời cứ liên
tiếp ập đến tâm hồn cả nghĩ Nguyễn Du. Chốn quan trường nhiễu nhương, những dâu bể của cuộc đời
dồn dập, vòng lợi danh chật chội, cho nên cũng dễ hiểu vì sao vị quan họ Nguyễn luôn thiết tha mong
được trở về quê nhà.
Nỗi nhớ nhà là một tình cảm thường trực bởi một mình Nguyễn Du phải vào phương Nam làm
quan, vợ con và gia đình vẫn ở lại quê hương:
Lô hoa sơ bạch cúc sơ hoàng,
Thiên lí hương tâm dạ cộng trường.
Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt
Lục âm trùng điệp bất di quang.
(Ngẫu hứng II)
(Hoa lau vừa bạc hoa cúc vừa vàng
Lòng nhớ quê nơi ngàn dặm xa cùng dài với đêm dài,
Gượng dậy đẩy song cửa ngắm trăng sáng
Bóng cây xanh trùng điệp làm ánh trăng không lọt qua được.)
Một đêm thu dài, người ngắm trăng sáng mà lòng nhớ quê ở nơi ngàn dặm xa. Trăng sáng làm
người thêm nhớ quê hay chính bởi lòng nhớ quê mà người mới biết đêm dài, trăng sáng. Nỗi niềm của
Tố Như làm ta nhớ đến nỗi niềm của Lí Bạch cũng trong một đêm trăng sáng:
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
(Tĩnh dạ tư)
(Đầu giường trải đầy ánh trăng bạc
Mà ta ngỡ là sương thu buông.
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng,
Cúi đầu nhớ tới quê nhà.)
Đêm thanh tĩnh, nhà thơ không ngủ được, có biết bao nhiêu nỗi niềm hoài cảm đến với ông. Vầng
trăng sáng khơi gợi tình quê, khiến lòng người vấn vương, dào dạt. Tố Như hay Lí Bạch cũng vậy,
vầng trăng đẹp phương xa không thể làm nhạt nhòa tình quê sâu nặng trong tâm hồn.
Không chỉ trong một đêm trăng đẹp, dù đang ở đâu, Tố Như cũng luôn ngoảnh về phía quê nhà
với ánh nhìn tha thiết:
Đông vọng giang đầu vọng cố giao,
Phù vân vô định thủy thao thao.
(Ngẫu thư công quán bích III)
(Hướng về bến sông ở phía đông trông về quê cũ,
Mây nổi trôi vô định nước chảy cuồn cuộn.)
Giang thành nhất ngọa duyệt tam chu,
Bắc vọng gia hương thiên tận đầu.
(Tân thu ngẫu hứng)
(Nằm ở thành bên sông chốc đã ba năm,
Trông về bắc quê nhà ở tận cuối trời.)
Hồi thủ cố hương thu sắc viễn,
Hoành Sơn vân thụ chính thương thương.
(Giang đầu tản bộ II)
(Ngoảnh đầu nhìn quê nhà, màu thu xa
Khói mây cây cối trên Hoành Sơn đương một màu xanh xanh.)
Vọng ngoại Hồng Sơn tam bách lí
Tương tòng hà xứ vấn tiền lân.
(Ngẫu đắc)
(Trông ra Hồng Sơn cách ngoài ba trăm dặm
Biết chốn nào hỏi thăm láng giềng cũ.)
Cố quốc hà sơn khan lạc nhật,
Tha hương thân thế thác phù vân.
(Thu nhật kí hứng)
(Sông núi quê nhà nhìn trong cảnh mặt trời lặn,
Thân thế nơi đất khách gửi đám mây nổi.)
Thiên Nhẫn Hoành Sơn nhất đái hà,
Bạch vân hồi thủ cách thiên nha.
(Đại tác cửu thú tư qui)
(Hoành Sơn và Thiên Nhẫn cùng trên một dải sông,
Ngoảnh nhìn mây trắng xa cách tận bên trời.)
Có lúc nỗi nhớ làm không gian như thêm xa thăm thẳm:
Vọng vọng gia hương tự nhật biên,
Hoành sơn chỉ cách nhất sơn điên.
(Nễ Giang khẩu hương vọng)
(Trông ngóng về quê nhà xa tựa như ở bên mặt trời
Nhưng chỉ cách một ngọn núi trong dãy Hoành sơn.)
Chỉ cách một dãy núi mà xa tựa như ở bên mặt trời! Không gian lúc này đâu còn là không gian
địa lý mà đã trở thành không gian tâm tưởng! Người càng trông ngóng thì đường càng xa diệu vợi. Cố
hương ở đây đâu chỉ đơn thuần là nơi quê cũ. Mà đó là hình ảnh về một thế giới khác hẳn với thế giới
nhà thơ đang hiện diện; đó là nơi nhà thơ có những ngày bay nhảy tự do cùng sông Lam núi Hồng,
cùng rau thuần cá vược, cùng đàn âu trắng, cùng cây tùng tảng đá… Lòng nhớ quê lồng trong tấm lòng
tiếc nuối về một cuộc sống giản dị, đạm bạc đã qua cho nên càng ám ảnh, da diết!
Nỗi nhớ nhà, nhớ quê của Nguyễn Du không đơn thuần chỉ là tình cảm gia đình, quê hương. Tình
cảm ấy gắn liền với mong muốn được sớm rời xa chốn tường mận vườn đào mà trở về với cuộc sống tự
do tự tại nơi quê nhà. Nỗi mong muốn ấy trở thành một niềm ao ước thường trực và khắc khoải trong
những ngày tháng làm quan:
Kim cổ nhàn sầu lai túy hậu
Thuần lô hương tứ tại thu tiên.
(Dạ tọa)
(Nỗi buồn man mác về xưa nay, lại đến sau khi say
Nhớ đến hương vị rau thuần cá vược ở quê nhà lúc đầu thu.)
Hương vị rau thuần cá vược là hương vị của cuộc sống đạm bạc, an nhàn ở quê nhà. Nhớ hương
vị ấy cũng là nhớ tiếc cuộc sống giản dị mà tự do tự tại ngày nào.
Đã có lúc niềm nhớ tiếc dâng lên dồn dập thành ước muốn được treo mũ từ quan mà ra đi, được
làm bạn cùng hươu nai dưới mây xuân, được hưởng thọ vui với đàn với rượu:
Xuân vân mãn kính quần mi lộc,
Thu đạo đăng trường đốc tử tôn.
Ngã dục quải quan tòng thử thệ,
Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn.
(Tặng nhân)
(Mây xuân đầy đường nhỏ làm bạn cùng hươu nai
Mùa thu gặt lúa, ra đốc thúc con cháu.
Ta cũng muốn từ đây treo mũ áo từ quan mà ra đi,
Cùng ông hưởng thọ vui với đàn với rượu.)
Nhưng cuộc sống an nhàn, ấm áp ấy dường như không phải dành cho Nguyễn Du. Cho nên mơ
ước vẫn chỉ là mơ ước. Hiện thực khô khan chặt đứt giấc mộng phiêu bồng. Chuyện đời đã cột chặt mái
đầu bạc nơi đất khách. Vị quan tự cảm thấy hổ thẹn vì mình đã phụ làn mây núi Hồng (Giản Công bộ
thiêm sự Trần), đành nhờ hoa cúc vàng, chim âu trắng gửi lời từ tạ:
Tha hương bạch phát lão bất tử,
Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh.
Vị ngã Hồng Sơn tạ tùng thạch,
Tái vô diện mục kiến đồng minh.
(Tạp ngâm)
(Bạc đầu nơi đất khách, già nhưng chưa chết
Cúc vàng năm ngoái năm nay lại nở.
Vì ta hãy tạ từ với cây tùng tảng đá ở Hồng Sơn,
Ta không còn mặt mũi nào trông thấy các bạn đồng minh nữa.)
Thẹn rồi cũng chỉ biết tự trách mình, tự cười mình. Ông trách mình phụ lòng đàn âu trắng, cười
mình lỗi hẹn thanh nhàn nhưng cũng phân trần rất thành thật rằng mình luôn canh cánh bên lòng lời thề
với cây tùng tảng đá ở Hồng Sơn và cũng không bao giờ có thể quên mùi vị của rau thuần cá vược của
sông Lam.
Như vậy, có thể nói, trong quãng thời gian làm quan ở phía Nam, Nguyễn Du không hề có một
phút giây thanh thản. Nguyễn Du từng mang chí lăng vân để bước vào đời, khát khao được dấn thân,
được cống hiến; song, nhìn hiện thực nhiễu nhương chốn quan trường, ông ngao ngán ngoảnh đầu về
phía cố hương. Muốn ca khúc quy khứ lai từ nhưng tiếng kêu khóc vì đói của mười miệng trẻ lại vang
lên, hình ảnh những người hành khất đến từ thành Thăng Long áo rách nón xơ sắc mặt xám như tro
(Ngẫu hứng V), cảnh tượng xương tàn trăm trận đánh nằm trong bãi cỏ xanh (Độ Linh Giang) lại
khiến nhà thơ không thể yên tâm mà vui với đàn với rượu. Trong những năm tháng làm quan này,
Nguyễn Du luôn trĩu nặng ưu tư vì bất đắc ý. Ông chán ngán vòng lợi danh, ao ước có được cuộc sống
thanh nhàn nhưng lại không yên tâm làm một Hồng Sơn liệp hộ chốn quê nhà, gạt bỏ sau lưng mọi ba
động của cuộc đời. Cho nên, vị đại quan vẫn đứng đấy, giữa những nhiễu nhương, giữa sóng gió cuộc
đời để mà ưu tư, để mà đau khổ, để lo mãi chuyện nghìn năm. Nguyễn Du bị giới hạn bởi thời đại
nhưng lại vượt xa hơn thời đại, chính là ở nỗi đau khổ lớn ấy!
2.4. NHỮNG LÍ LẼ TỰ KHUYÊN MÌNH
Vượt lên tất cả những nỗi niềm u uẩn của bản thân, Nguyến Du luôn có những lí lẽ tự răn mình,
để có thể hoàn thành chức phận mà không phạm đến cái tính tự nhiên của bản thân. Ở nơi quan trường,
ông luôn dặn mình không nên tham tiến thủ trên con đường công danh, kẻo rồi chỉ chuốc lấy kết cục bi
đát:
Tuấn mã bất lão tử
Liệt nữ vô thiện chung.
Phàm sinh phụ kì khí,
Thiên địa phi sở dung.
Niệm nhĩ thuộc thổ súc,
Dữ nhan mao cốt đông.
Tham tiến bất tri chỉ,
Vẫn thân hàn sơn trung.
Vẫn thân vật thán uyển
Sổ thí vô toàn công.
(Điệu khuyển)
(Ngựa hay không chết già
Gái trinh liệt không chết được yên lành.
Phàm sinh ra mang khí phách khác thường
Thì trời đất không có chỗ dung.
Nghĩ mày thuộc giống gia súc
Lông xương cũng giống như người.
Ham tiến không biết dừng
Bỏ mình trong núi lạnh.
Bỏ mình chớ oán than,
Bao lần thử sức mà không thành công.)
Nguyễn Du làm bài thơ thương con chó bị chết. Đây có lẽ là con chó săn quí của ông ở Hồng
Lĩnh. Qua hình ảnh con chó quí chết vì ham tiến, Nguyễn Du muốn gợi lên triết lí về nhân thế: tri túc
tri chỉ (biết đủ biết dừng); ý muốn tự răn mình không nên ham tiến thủ trên đường công danh.
Ở một bài thơ khác, Nguyễn Du viết về con ngựa thải dưới chân thành, cũng là để nói ý mình:
Thùy gia lão mã khí thành âm?
Mao ám bì can sấu bất câm.
Thạch lũy thu hàn kinh thảo đoản
Sa trường nhật mộ trận vân thâm.
Cơ lai bất tác cầu nhân thái,
Lão khứ chung hoài báo quốc tâm.
Nạ đắc phong sương toàn nhĩ tính
Mạc giao ki trấp tái tương xâm.
(Thành hạ khí mã)
(Con ngựa già nhà ai thải bỏ ở chân thành?
Lông sạm da khô gầy quá thể,
Trên lũy đá hơi thu lạnh cỏ ở đường ngắn,
Chốn bãi cát trời chiều mây kéo dày đặc.
Bụng đói nhưng không tỏ ý cầu xin người,
Già rồi vẫn ôm tấm lòng báo nước.
Chịu được gió sương giữ trọn tính tự nhiên của mày,
Chớ để cho dàm và bịt móng lại phạm vào thân.)
Con ngựa già bị thải bỏ ở chân thành trông thật đáng thương: lông sạm da khô, đứng trong hơi
thu lạnh, lúc trời chiều mây kéo dày đặc. Thế nhưng nó cũng thật đáng quí: bụng đói nhưng không tỏ ý
cầu xin người khác. Nhà thơ mong nó cố gắng chịu đựng gió sương để giữ trọn tính tự nhiên, không để
cho dàm và bịt móng lại chế ngự. Ấy phải chăng cũng là lời ông tự nhủ với mình: cố gắng giữ trọn tấm
lòng trong sạch dù phải chịu đựng khó khăn, thiếu thốn.
Ở một bài thơ khác, Nguyễn Du bộc bạch:
Vô lụy vị ưng chiêu quỷ trách,
Bất tài đa khủng tốc quan phi.
(Giang đầu tản bộ)
(Không lụy nên chưa chuốc lấy sự trách móc của quỷ,
Bất tài nên hay sợ rước lấy sai lầm trong việc quan.)
Nhà thơ chỉ sợ mắc sai lầm trong việc quan chứ không sợ sự trách móc của ma quỷ bởi lẽ danh
lợi không phải là điều mà ông mưu cầu. Như vậy, làm quan, với Nguyễn Du không phải để mưu cầu
danh lợi, và ông luôn có ý thức giữ mình để không lụy vào vòng lợi danh.
Cảm động hơn, trên trang thơ, sau những ba động dữ dội của cuộc đời, vẫn là tấm lòng canh cánh
mong được báo quốc. Có lúc ông tự trách mình ơn nước chưa báo được, sống chẳng ích gì:
Quyên ai mạc báo sinh hà bổ
Nhi nữ thành quần tử bất phương.
(Giang đầu tản bộ II)
(Ơn nước chưa báo được mảy may, sống ích gì,
Con trai con gái hàng đàn, chết cũng không hại gì.)
Lúc khác ông ví mình như con ngựa thải dưới chân thành, lông sạm da khô, bụng đói nhưng
không cầu xin người khác, già rồi vẫn ôm tấm lòng báo nước:
(Thành hạ khí mã)
Lão khứ chung hoài báo quốc tâm.
(Già rồi vẫn ôm tấm lòng báo nước.)
Hình ảnh con ngựa già bị thải vẫn còn ôm tấm lòng báo quốc khiến ta cảm động nhớ đến những
câu trong Biểu tạ ơn của Nguyễn Trãi năm nào:
Thương thần như ngựa đến tuổi già, còn kham rong ruổi,
Cho thần như thông qua năm rét, càng dạn tuyết sương.
Quần môn mặc kệ dèm pha,
Thánh ý cứ bền tín nhiệm.
(Biểu tạ ơn)
Bị cô lập ở triều đình, chán nản đến thất vọng, Nguyễn Trãi phải từ quan về sống ẩn dật tại Côn
Sơn, giữa núi non hùng vĩ của đất trời với biết bao kỷ niệm của thời thơ ấu, nơi náu mình trên đường
cứu nước thời Minh thuộc. Nguyễn Trãi cố gắng vui với thơ ca, với non nước, với cuộc sống thanh
bạch, an nhàn. Nhưng với một con người nặng lòng yêu nước thương dân tha thiết, nuôi lý tưởng đuổi
giặc cứu nước để xây dựng một quốc gia độc lập và giàu mạnh, để thực thi tư tưởng nhân nghĩa đưa lại
thanh bình và yên vui cho mọi người, một con người giàu nghị lực và ý chí như Nguyễn Trãi thì ẩn dật
không phải lẽ sống của ông. Vì vậy khi nhà vua Lê Thái Tông trưởng thành, bắt đầu nắm triều chính,
trừng phạt một số quyền thần, năm 1439 mời Nguyễn Trãi trở lại giữ chức vụ trong triều; lúc bấy giờ
tuy đã tuổi 60, ông vẫn hăm hở đem tài sức ra cống hiến cho đất nước với niềm hi vọng lớn lao.
Hai tác phẩm, hai hoàn cảnh khác nhau nhưng đều toát lên tấm lòng đáng qúy của hai bậc đại
quan với dân với nước. Hình ảnh con ngựa già nhưng vẫn chưa muốn nghỉ ngơi, sức tàn nhưng vẫn ôm
lòng báo quốc mãi về sau còn làm xúc động lòng người.
Ở một bài thơ khác, thay lời người đi lính thú lâu năm, vị quan cũng bày tỏ tấc lòng:
Thiên địa nhất thân trung dịch hiếu,
Phong trần vạn lí quốc vong gia.
Nguyệt trung hoành địch thái vô lại,
Bán dạ giang thành xuy “Lạc hoa”.
(Đại tác cửu thú tư quy II)
(Một thân trong trời đất lấy trung đổi hiếu,
Muôn dặm gió bụi vì nước quên nhà.
Cầm ngay chiếc sáo thổi dưới trăng, buồn thiu,
Nửa đêm bên giang thành, thổi khúc hoa mai rụng.)
Cũng giống như người xưa đi lính thú lâu năm, vị quan thấy mình đành phải lấy trung đổi hiếu, vì
nước quên nhà, chỉ biết mượn khúc Mai hoa lạc để giải tỏa bớt nỗi sầu cảm nhớ quê hương.
Như vậy, dù không thiết tha với lợi danh, bất đắc chí với chốn quan trường, u uẩn trước cuộc đời
nhưng Nguyễn Du vẫn luôn cố gắng giữ tấm lòng trong sạch, giữ trọn tâm hồn trong sáng như vầng
trăng. Ông luôn cố gắng hoàn thành mọi chức phận, không cầu tiếng tăm, sống giản dị, thanh bần, được
nhân dân và sĩ phu yêu mến.
CHƯƠNG 3:
CON ĐƯỜNG HOẠN LỘ VỚI NỖI BĂN KHOĂN
VỀ SỐ PHẬN CON NGƯỜI
Đang làm cai bạ doanh Quảng Bình, tháng 9 năm 1812 Nguyễn Du lại xin về nghỉ. Nhưng vừa
được hai tháng thì lại có chỉ triệu vào Kinh để sửa soạn đi sứ Thanh.
Sau chuyến đi này, ông mang về một tập thơ: Bắc hành tạp lục. Đó là những bài thơ ông làm khi
ngồi thuyền, ngồi xe, cốt để cho qua thì giờ. Điều đặc biệt là trong tập thơ này không có bài nào là thơ
xướng họa, thù tạc; cũng không có những bài in dấu ấn những cảnh sắc thiên nhiên diễm lệ, hùng tráng
của đất nước Trung Hoa như trong thơ đi sứ của các vị sứ thần khác.
Bắc hành tạp lục gồm 132 bài thơ, được sáng tác trong hành trình đi sứ của Nguyễn Du (từ 1813
đến 1814). Đây là tập thơ được sáng tác trong thời gian ngắn nhất song lại có số lượng nhiều nhất, đó là
điều đáng lưu tâm. Có lẽ đúng như giáo sư Nguyễn Lộc nhận xét : Khi có dịp đi sứ Trung Quốc, nhà
thơ tìm thấy một nguồn đề tài vô tận để nói những điều mình muốn nói (…) mỗi một cảnh, mỗi một di
tích, mỗi một con người của quá khứ và hiện tại trên đất nước Trung Hoa như xác nhận thêm một lần
nữa những điều nhà thơ từng nghiền ngẫm, nung nấu [24, tr.315]. Cái tâm sự sâu thẳm như nước sông
Lam dưới chân núi Hồng mà khi còn ở nhà, Nguyễn Du không thể bộc bạch, không thể giải tỏa thì nay
được giãi bày tự nhiên, chân thật trên trang giấy. Những điều tai nghe mắt thấy trên đường đi sứ đã
thấm nhuần trong bề rộng cảm xúc và chiều sâu chiêm nghiệm, được thể hiện bằng ngòi bút trác tuyệt
của vị quan - bậc đại thi hào cho nên Bắc hành tạp lục vượt lên trên những tập thơ đi sứ khác về độ
chín của cảm xúc và sự tài hoa.
Trên con đường đi sứ, tâm sự của Nguyễn Du trước hết là nỗi nhớ nước, nhớ nhà, nhớ núi Hồng
Lĩnh; là tư tưởng muốn về ở ẩn, nhớ chuyện đi săn hươu nai. Càng xa nước, càng vất vả, càng nhiều
tuổi thì tư tưởng ấy càng đậm nét, hơn cả thời kì mười năm gió bụi hay thời kì làm quan ở đất Bắc Hà,
ở Phú Xuân, Quảng Bình.
Cho nên, trên con đường Bắc hành, ta thường bắt gặp cái ngoảnh nhìn, ngoảnh trông, ngoảnh lại
đầy lưu luyến của vị chánh sứ:
Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu,
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm.
(Trấn Nam Quan)
(Quay đầu nhìn về cửa khuyết ở ngoài mây biếc,
Bên tai còn nghe văng vẳng tiếng nhạc quân thiều.)
Giang thủy trứu hề giang nguyệt hàn
Thùy gia hoành địch bằng lan can.
Nhị thập thất nhân cộng hồi thủ
Cố hương dĩ cánh vạn trùng san.
(Thái Bình thành hạ văn xuy địch)
(Nước sông gợn sóng trăng sông lạnh,
Nhà ai có người tựa lan can thổi sáo?
Cả hai mươi bảy người trên thuyền đều quay đầu nhìn lại,
Quê nhà đã cách muôn trùng núi.)
Biệt phố phân tân sắc,
Dao không thất cố hương.
Hạc lai nhân bất kiến,
Vãn thu uất thương thương.
(Tương giang dạ bạc)
(Bến biệt nhau đã chia màu sắc mới,
Vời trông phía trời xa chẳng thấy quê hương.
Hạc đến, người không thấy đến,
Cây trong chiều hôm cứ xanh ngăn ngắt.)
Thu phong lạc nhật giai hương vọng,
Lưu thủy phù vân thất bá đồ.
(Sở vọng)
(Gió thu bóng xế là lúc ngóng trông về quê nhà,
Nước chảy mây trôi cuốn sạch mọi mưu đồ bá chủ.)
Vạn lí hương tâm hồi thủ xứ
Bạch vân nam hạ bất thăng đa!
(Ngẫu hứng)
(Lòng nhớ quê nhà cách xa vạn dặm, quay đầu nhìn lại,
Phía nam mây trắng nhiều không kể xiết.)
Trong cái ngoảnh đầu nhìn lại đó có tình dân tộc, tình quê hương, tình nhà nhưng ẩn sâu bên
trong cũng vẫn là niềm ao ước được quay trở về với cuộc sống thanh thản chốn núi Hồng:
Hồng Lĩnh mộng trung hoang xạ liệp
Bạch đầu túc tích biến sơn xuyên.
(Hàm Đan tức sự)
(Trong mơ núi Hồng vắng những cuộc đi săn,
Đầu bạc rồi mà dấu chân còn in khắp núi sông.)
Và cũng trên con đường đi sứ này, tận mắt chứng kiến nhiều sự việc, ôn lại nhiều tấm gương lịch
sử, Nguyễn Du càng thấm thía cái phù hoa hư ảo của lợi danh – những điều ông đã sớm nhận ra từ
những ngày còn làm một Hồng Sơn liệp hộ ở quê nhà. Vì vậy, mong muốn được trở về bên cây tùng
tảng đá ở núi Hồng, bên đàn chim âu trắng ở sông Lam càng tha thiết, trở thành một âm điệu xuyên
suốt toàn bộ tập thơ.
Thế nhưng, đặc biệt, ở chặng đường làm quan này, không có bài nào vị quan Nguyễn Du chỉ viết
riêng về mình. Các hình ảnh thơ phản chiếu bi kịch trong tâm hồn ông cũng giảm đi đáng kể so với hai
tập thơ đầu. Còn lại, hầu hết là các bài thơ viết về con người và cuộc sống bên ngoài - tái hiện và bình
luận vạn sự cổ kim. Tâm hồn Nguyễn Du giờ đây đã rộng mở để đón nhận những vang động của cuộc
đời. Hiện lên trên con đường hoạn lộ vẫn là hình ảnh người lữ khách mang nặng mối sầu tha hương
song không nhuốm tủi hờn, đau đớn như ở Thanh Hiên thi tập mà nghiêng về nỗi nhớ nhung da diết...
Nhưng hành trình đi sứ ấy còn mang đến cho Nguyễn Du một cơ hội quí giá để mở rộng tầm nhìn. Bao
nhiêu kiến thức thu nhận từ sách vở và những số phận con người từng ám ảnh tâm hồn nhà thơ - giờ
đây đang hiện lên ngay trước mắt:
Du du trần tích thiên niên thượng
Lịch lịch quần thư nhất vọng gian
(Thương Ngô tức sự)
(Dấu cũ từ nghìn năm trước xa xôi
Điều sách chép rành rành nay hiện rõ trước mắt.)
Cũng trên con đường đi sứ, Nguyễn Du đã phát hiện nhiều điều mới mẻ về thiên nhiên, con người
và cuộc sống trên đất nước Trung Hoa. Có lúc nhà thơ không khỏi bàng hoàng trước cảnh sóng thác
gầm thét dữ dội:
Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình
Trung Hoa đạo trung phù như thị
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý
(Ninh Minh giang chu hành)
(Mọi người đều nói đường trên đất Trung Hoa bằng phẳng
Hóa ra đường Trung Hoa lại thế này
Sâu hiểm quanh co giống lòng người
Nguy vong nghiêng đổ đều do ý trời.)
Có lúc, ông thảng thốt trước những điều trông thấy hoàn toàn tương phản với những gì mình hằng
nghe nói:
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân
(Thái Bình mại ca giả)
(Thường chỉ nghe ở Trung Nguyên ai cũng no ấm
Ngờ đâu Trung Nguyên cũng có người như thế này.)
Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa,
Như hà hương hỏa thái thê lương.
(Quế Lâm Cù các bộ)
(Ai cũng bảo nước Trung Hoa trọng tiết nghĩa
Sao ở đây hương khói lạnh lẽo thế này?)
Đặc biệt, Nguyễn Du đã tìm thấy trên những nẻo đường đầy cố cảnh, cựu tích kia lời giải đáp cho
nhiều câu hỏi lớn về cuộc đời, về thân phận con người từng khiến ông day dứt... Ông không ngợp mắt
trước phồn hoa, không đắm mình vào cảnh đào hồng, liễu lục nơi xứ lạ mà thường kiếm tìm dấu cũ, bia
xưa... của những con người có phẩm cách phi thường, có số phận bất hạnh. Dường như với Nguyễn
Du, Trung Hoa trước hết là đất nước của những Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Dự Nhượng, Nhạc Phi... Cho
nên, cái nhìn của ông đã xuyên qua lớp vỏ của thực tại kia để thấu suốt bản chất của hiện thực - một
hiện thực được phản chiếu rõ nét qua từng dấu tích đau thương, oan trái từ quá khứ. Để rồi từ đó, vị
quan cất lên tiếng nói cảm thương, đau đớn, phẫn uất cho thân phận con người trên suốt dòng thời gian
kim cổ. Cái tôi trữ tình Nguyễn Du luôn xuất hiện với trái tim mang nhiều cung bậc của niềm thương
cảm: liên, sầu, bi, cảm, ai, thán, trướng, bồi hồi, thương tâm, kham ai... Vì vậy, khả năng khái quát
hiện thực của Bắc hành tạp lục là rất to lớn - vượt xa tất cả các tập thơ đi sứ thời trung đại. Đồng thời,
tập thơ này còn thể hiện cảm hứng nhân đạo độc đáo, cao cả của vị quan chánh sứ. Nguyễn Du đã đi từ
cõi lòng ngổn ngang những thất vọng, khổ đau của riêng mình để đến với bao nhiêu khắc khoải của
nhân sinh và cõi người. Trong đó, cung bậc buồn thương, đau đớn nhất chính là nỗi tiếc hận muôn đời
trước số phận của những kiếp tài hoa, trung nghĩa. Bên cạnh đó là nỗi xót lòng trước những mảnh đời
cơ cực, phiêu giạt giữa gió bụi cuộc đời để tìm kế sinh nhai. Song song với âm hưởng đau đớn, xót xa
ấy là nỗi căm phẫn, khinh bỉ đối với những kẻ độc ác, bất nghĩa, xấu xa chỉ biết mưu cầu danh lợi phú
quý cho bản thân, chà đạp lên tài hoa, nhân cách của con người một cách tàn bạo, phũ phàng.
Có thể nói, các bài thơ chữ Hán đã lưu giữ lại cho chúng ta diện mạo tâm hồn của chính Nguyễn
Du. Ông đã tự họa chân dung của chính mình như một con người lẻ loi, nếm trải nhiều cay đắng, thất
vọng song cũng thật cứng cỏi, kiêu hãnh khi gìn giữ sự trong sạch, thanh cao của lòng mình. Và giữa
bao nhiêu ngổn ngang, bế tắc vẫn thấy ngời lên ánh sáng của một trái tim chưa bao giờ nhầm lẫn trong
yêu thương, đau đớn, phẫn nộ... Hình tượng con người tự họa của Nguyễn Du không chỉ thể hiện thế
giới tâm hồn phong phú, phức tạp của một tâm hồn lớn mà còn có khả năng phản ánh và khái quát hiện
thực sâu sắc. Bởi vì, ông đã không hề tách rời cuộc đời mình khỏi số phận của một lớp người, một thời
đại. Trái lại, mọi đau buồn, phẫn uất mà Nguyễn Du bộc lộ đều gắn liền với những nỗi đau thương bao
trùm lên thân phận con người lúc bấy giờ. Chúng bắt nguồn từ bao nhiêu biến cố của lịch sử. Trong
những giọt lệ âm thầm thấm trên trang thơ chữ Hán có nước mắt Nguyễn Du khóc cho Tố Như, có
nước mắt Tố Như khóc cho con người, cho cuộc đời trong cơn hưng phế.
3.1. SỐ PHẬN NHỮNG CON NGƯỜI NGHÈO KHỔ
Theo chân vị đại quan trong hành trình của sứ bộ, ta khắc khoải nghe thấy tiếng sáo não nề vang
vọng trên thành Thái Bình, bâng khuâng trước một nhánh tường vi nhỏ báo tin xuân về, man mác nhìn
áng mây hồng u hoài trên bầu trời Hoàng Hạc. Ta cũng xúc động trước tấm lòng vượt vạn trùng san để
hướng về cố quốc của vị sứ quan và tự hào biết bao khi nghe những lời khẳng định biên giới nước nhà,
lời ngợi ca bậc thánh nhân đất Việt! Nhưng thơ đi sứ của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở đó. Nó giàu
chất trữ tình đồng thời cũng giàu tính hiện thực. Nó toát lên những âm điệu xốn xang, chua xót đến
thấm thía về thân phận con người:
Hà Nam thu bát nguyệt
Tàn thử vị tiêu dung
Lộ xuất lương phong ngoại
Nhân hành liệt nhật trung
Đồ trường tê quyện mã Mục đoạn diệt quy hồng
Hà xứ thôi xa hán?
Tương khan lục lục đồng.
(Hà Nam đạo trung khốc thử)
(Tiết thu, tháng tám ở Hà Nam
Khí nóng tàn vẫn chưa tan hết
Chỗ đường ra không có gió mát
Người đi giữa nắng gay gắt
Đường dài, ngựa mệt hí vang
Mỏi mắt trông bóng chim hồng bay mất
Quê ở đâu hả anh đẩy xe?
Nhìn nhau thấy vất vả như nhau.)
Qua vùng Hà Nam, gặp ngày nắng dữ, Nguyễn Du đã viết nên bài thơ này. Một vị chánh sứ. Một
anh chàng đẩy xe. Tình người đã xóa nhòa khoảng ngăn dân tộc, giai cấp. Điều còn lại là những nỗi
niềm đồng cảm sâu xa! Nhìn nhau thấy vất vả như nhau – lời thơ nghe nhẹ mà tình ý sâu nặng biết
nhường nào! Nếu không có tấm lòng yêu thương mở rộng đến sáu cõi thì làm sao một vị quan chánh sứ
có thể thấy mình và người phu xe là “như nhau” cho được!
Đọc thơ đi sứ Nguyễn Du không thấy có những bài xướng họa ngâm vịnh với những bậc tao nhân
mặc khách xứ Trung Hoa. Ẩn hiện trên trang viết là những sắc mặt ốm đói xanh xao, là cảnh loạn lạc
của nhân dân cùng khổ:
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành
Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ
Tự xuân tồ thu điền bất canh
Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc
Khang tì vi thực lê vi canh
Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo
Hoài trung táo tử thân biên khuynh Không ốc bích thượng hữu "tra" tự
Sổ bách dư hộ giai cơ linh
Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ
Cầu đồ bão úc thân vi khinh.
(Trở binh hành)
(Ta nghe dân trong vùng nhiều năm khổ đại hạn
Chỉ có cầy cấy mà không có thu hoạch
Hồ Nam, Hà Nam đã lâu không mưa
Từ xuân tới thu ruộng bỏ không cày
Trai lớn gái nhỏ vẻ ốm đói
Tấm cám làm cơm, rau lê làm canh
Tận mắt thấy người đói chết trên đường
Hột táo trong bọc lăn bên mình
Nhà bỏ không, có chữ "tra" (xét) trên vách
Mấy trăm nhà đều trôi giạt vì đói
Dân mọn không kham nổi đã lạnh lại đói
Chỉ sao lo được no ấm mà coi nhẹ tấm thân.)
Trên con đường Bắc hành, gặp việc binh biến làm nghẽn đường, vị quan chánh sứ không khỏi
thương cảm cho số phận của nhân dân trong vùng. Ông quan tâm, hiểu rõ tình cảnh của họ: đã mấy
năm qua thời tiết hạn hán, nhân dân ra sức cày cấy mà không có thu hoạch cho nên ai nấy đều mang
sắc mặt ốm đói, chỉ biết lấy tấm cám, rau lê thay cơm canh. Đau xót hơn, ông tận mắt thấy người chết
đói bên đường, hột táo trong bọc còn lăn bên mình! Hình ảnh một người dân chết đói bên vệ đường, có
lẽ không có gì đáng lưu tâm đối với bọn quan quân triều đình, và cũng không có gì là lạ đối với những
người trong sứ bộ bởi lẽ cả mấy trăm nhà dân trong vùng đều trôi giạt vì đói. Nhưng với vị quan chánh
sứ thì khác, hình ảnh ấy hiện lên đầy ám ảnh. Ông không chỉ thấy người chết nằm đó, mà còn thấy
những hột táo rơi ra từ trong túi của họ - thấy được nỗi đói khát, khổ sở, tội nghiệp của họ trước khi
chết. Cái nhìn ấy, rõ ràng không phải cái nhìn thương hại của một vị quan, cái nhìn hời hợt của một
người khách qua đường mà là cái nhìn xuất phát từ một tấm lòng trắc ẩn mênh mông đối với mọi kiếp
người. Nếu không có tấm lòng trắc ẩn mênh mông ấy, mấy cái hột táo nhỏ nhoi nằm lăn lóc bên vệ
đường kia hẳn không hiện diện trên trang thơ! Và cũng chính qua mấy cái hột táo nhỏ nhoi ấy, vị chánh
sứ nhìn ngay ra căn nguyên của việc binh biến, chẳng qua tại:
Dân mọn không kham nổi đã lạnh lại đói
Chỉ sao lo được no ấm mà coi nhẹ tấm thân.
Từ đó ông cất lời mỉa mai lũ quan binh:
Dân tử tại tuế bất tại ngã.
(Dân chết vì gặp năm hạn, đâu phải tại ta.)
Điển trên lấy trong sách Mạnh Tử. Đó là câu nói của bọn quan lại, vua chúa ngày trước, thấy
dân đói thì đổ tội cho trời làm mà chẳng chịu nhận là mình không mang lại hạnh phúc cho dân. Những
lời lẽ ấy khiến vị quan chánh sứ không khỏi phẫn nộ, buông lời vạch tội:
Vật đắc khi tâm tế thánh minh.
(Chớ nên dối lòng mà che mắt vua thánh.)
Con đường đi sứ của Nguyễn Du là thế, không có những bức tranh xa hoa tráng lệ; không có
khoảng cách địa vị, dân tộc giữa ông với những người dân nghèo Trung Quốc. Vị đại quan đã dụng
công vẽ nên những bức tranh tả thực đầy xúc động về tình cảnh những người dân nghèo trên bước
đường tha phương.
Trong mỗi bức tranh tả thực, vị quan chánh sứ lại dựng lên hai cảnh đối lập nhau gay gắt. Bức
tranh thứ nhất là bức tranh về ông cháu người hát rong mù ở thành Thái Bình. Và đây là hoàn cảnh tội
nghiệp của họ:
Thái Bình cổ sư thô bố y Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi Vân thị thành ngoại lão khất tử Mại ca khất tiền cung thần xuy.
(Thái Bình mại ca giả)
(Ở phủ Thái Bình có người mù mặc áo vải thô,
Có em bé dắt ra bến sông.
Bảo rằng đó là ông già ăn xin ở ngoài thành,
Hát rong xin tiền để kiếm cơm.)
Chỉ vài dòng giới thiệu ngắn ngủi nhưng cũng thấy được cái tâm lớn lao của người làm thơ. Vì
nếu không quan tâm, tìm hiểu về hoàn cảnh của họ, thì một sứ giả phương Nam đến Bắc quốc như ông
làm sao biết được những điều tưởng chừng nhỏ nhoi đó. Bắt gặp một cảnh đời đáng thương nào ông
cũng dừng lại, cố công tìm hiểu về hoàn cảnh của họ, và mau chóng thấu hiểu được hoàn cảnh đó.
Không chỉ biết họ, ông còn để tâm quan sát họ, lắng nghe họ. Cho nên bài thơ đậm đà tính chất tự sự,
đã thuật lại đầy đủ, chi tiết về một màn biểu diễn của ông cháu người hát rong mù. Bất đầu từ khi họ
xuất hiện:
Lân chu thời hữu hiếu âm giả
Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ.
(Thuyền bên cạnh lúc đó có người thích nghe hát,
Dắt tay ông già xuống thuyền, đến bên cửa sổ.)
Cảnh trong thuyền:
Thử thời thuyền trung ám vô đăng
Khí phạn bát thủy thù lang tạ.
(Lúc này trong thuyền tối không có đèn,
Cơm thừa canh cặn đổ rất bừa bãi.)
Những động tác đầu tiên của ông lão:
Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung
Tái tam cử thủ xưng đa tạ.
(Ông già sờ soạng đến ngồi vào một góc,
Hai ba lần giơ tay lên thi lễ tạ ơn.)
Và rồi ông chính thức bắt đầu màn biểu diễn:
Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh
Thả đàn thả ca vô tạm đình.
(Tay nắn dây đàn, miệng cất tiếng hát,
Vừa múa vừa hát không ngừng nghỉ.)
Tiếng hát của ông khiến cho:
Quan giả thập số tịnh vô ngữ,
Ðãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh.
(Hơn chục người xem đều im lặng lắng nghe,
Chỉ thấy gió trên sông vi vu và trăng trên sông vằng vặc.)
Như vậy, trình tự, diễn biến những hoạt động của ông cháu người hát rong mù đã được vị sứ
thần miêu tả, kể lại một cách tỉ mỉ. Điều đáng nói là họ xuất hiện ở thuyền bên cạnh, chứ không phải
trực tiếp xuống thuyền quan sứ. Thuyền bên lại tối tăm không có đèn. Cho nên có thể thấy ánh mắt,
tâm hồn vị quan không đặt ở nơi ông đang ngồi nữa mà luôn dõi theo ông cháu người hát rong tội
nghiệp. Và vì luôn dõi theo đau đáu như thế nên mới thấy được:
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc,
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc.
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh,
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục.
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai,
Do thả hồi cố đảo đa phúc.
(Miệng sùi bọt, tay rã rời,
Ngồi yên, cất đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong.
Dốc hết tâm lực gần một trống canh,
Mà chỉ được năm sáu đồng tiền.
Đứa bé dẫn được ra khỏi thuyền,
Còn quay đầu lại chúc “đa phúc”.)
Hình ảnh ông cháu người hát rong mù làm ta nhớ đến hình ảnh cảm động về hai ông cháu ăn xin:
lão Arkhip và bé Lionka trong truyện ngắn của văn hào Nga M.Gorki. Thời đại nào cũng vậy, những
tâm hồn lớn thường gặp nhau ở điểm nhìn. Người già và em nhỏ - đối tượng của sự nâng niu, trìu mến
và trân trọng. Vậy mà ở đây, họ bị xô đẩy vào những ngõ hẻm lầy lội của cuộc đời. Hình ảnh ông lão
“miệng sùi bọt, tay rã rời” mà cuối cùng “chỉ được năm sáu đồng tiền” mãi ám ảnh tâm trí người đọc.
Vậy mà sau khi ra khỏi thuyền còn quay lại chúc “đa phúc”. Có cái gì đó tội nghiệp, tội nghiệp đến
chua xót. Ông lão chúc “đa phúc” cho người đời, liệu ông có được chút phúc phần nào từ người đời
chăng? Lẽ thường người có áo cừu chăn bông làm sao biết lạnh! Lão Arkhip và bé Lionka bị xua đuổi
đã chết tức tưởi trong một đêm mưa lạnh ghê người. Vậy thì đâu là kết cục của ông cháu người hát
rong mù?
Không ai có thể trả lời câu hỏi ấy, chỉ biết đây là tâm trạng của nhà thơ:
Ngã sạ kiến chi, bi thả tân
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần.
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân.
(Ta chợt thấy vậy vừa buồn đau vừa chua xót,
Phàm người ta thà muốn chết, không ai muốn nghèo.
Thường chỉ nghe ở Trung Nguyên ai cũng no ấm,
Ngờ đâu Trung Nguyên cũng có người như thế này.)
Buồn, đau, xót cho thân phận con người! Ở Trung Nguyên to lớn này cũng có người đói khổ như
vậy. Thì ra ở nơi đâu cũng có người đói khổ, đáng thương. Lời thơ giản dị, nhưng lại chứa đựng một
phát hiện mang tính bản chất của cuộc sống, xã hội đương thời. Những phát hiện mang tính quy luật
như thế, nếu không có con mắt trông khắp sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến nghìn đời thì sao có được!
Một bức tranh hiện thực có sức khái quát cao nữa là bức tranh về mấy mẹ con người ăn xin bên
đường:
Hữu phụ huề tam nhi,
Tương tương tọa đạo bàng.
Tiểu giả tại hoài trung,
Ðại giả trì trúc khuông.
Khuông trung hà sở thịnh?
Lê hoắc tạp tì khang.
Nhật án bất đắc thực,
Y quần hà khuông nhương!
(Có người đàn bà dắt ba đứa con,
Cùng nhau ngồi ở bên đường,
Ðứa bé thì ẵm trong lòng,
Ðứa lớn xách giỏ tre.
Trong giỏ đựng những gì?
Rau hoắc, rau lê lẫn với cám.
Quá trưa rồi vẫn chưa có gì ăn,
Áo quần sao mà rách rưới quá!)
Những hình ảnh về mấy mẹ con ăn xin tội nghiệp lần lượt hiện lên như trong một đoạn phim
quay chậm: hình ảnh người đàn ba dắt ba đứa con, họ ngồi xuống bên đường, đứa bé còn phải ẵm ngửa,
đứa lớn xách cái giỏ tre, nhìn vào giỏ tre không thấy có cơm, chỉ có rau lê, rau hoắc lẫn tấm cám; áo
quần của họ thì vô cùng rách rưới. Những hình ảnh chân thực, kĩ lưỡng ấy là kết quả của một quá trình
để tâm quan sát. Điều đáng nói, vị chánh sứ ở đây không chỉ quan sát, như một kẻ bề trên rủ lòng
thương hại những kẻ bần cùng dưới đáy xã hội, mà đó là cái nhìn đầy thương cảm: quá trưa rồi vẫn
chưa có gì ăn. Hơn thế nữa, là cái nhìn đồng cảm, nhập thân:
Kiến nhân bất ngưỡng thị,
Lệ lưu khâm lang lang.
Quần nhi thả hỉ tiếu,
Bất tri mẫu tâm thương.
(Sở kiến hành)
(Thấy người không dám ngước nhìn lên,
Nước mắt chảy ròng ròng trên vạt áo.
Bầy con vẫn cười vui,
Không biết lòng mẹ đau.)
Người mẹ đói rách khổ sở cùng ba đứa con lê la khắp đầu đường xó chợ. Khổ sở hơn khi thấy
người mà chẳng dám ngước nhìn lên. Không dám ngước mắt vì biết mình đói, mình rách, mình hèn
kém. Thân phận kẻ nghèo, Nguyễn Du từng thốt lên chua chát: “Phàm người ta thà muốn chết, không
ai muốn nghèo”. Không muốn nhưng vẫn phải chịu. Vì vậy mà tủi, mà nghẹn ngào nước mắt rơi ướt
vạt áo. Bên cạnh nước mắt đắng cay của người mẹ, bầy con vẫn hồn nhiên cười vui. Nụ cười trẻ nhỏ
thơ ngây, trong sáng quá đỗi nhưng không khỏi làm người ta thắt lòng. Trẻ thơ như lá biếc chồi non,
vậy mà chưa kịp hưởng mùa xuân cuộc đời, mẹ của các em đã nhìn thấy trước mắt cái lúc bỏ xác bên
ngòi rảnh, máu thịt nuôi sài lang. “Thân mẹ”chết cũng không đáng tiếc. Tấm lòng người mẹ, từ ngàn
xưa vẫn là biển cả. Nhưng còn các con, những nụ cười hồn nhiên kia đâu có tội tình gì? Lại là một câu
hỏi lớn về số phận con người. Ai là người có thể trả lời? Chỉ biết rằng, ở phía tây, “mặt trời cũng vì
người mà vàng úa”.
Nếu ở “Thanh Hiên thi tập” và “Nam trung tạp ngâm”, Nguyễn Du còn hoang mang giữa lẽ đổi
thay chóng vánh của cuộc đời thì ở “Bắc hành tạp lục”, vị quan băn khoăn về số phận của con người.
Phải chăng số mệnh tại trời? Nhà thơ không trả lời nhưng tự thân hiện thực trong tác phẩm có thể cất
lên tiếng nói. Bên cạnh hai ông cháu hát rong đáng thương là cảnh:
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ.
Hành nhân bão thực tiện khí dư,
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.
(Thái Bình mại giả ca)
(Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt.
Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa thì vứt,
Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống đáy sông.)
Bên cạnh bốn mẹ con đói rách phiêu giạt là cảnh:
Tạc tiêu Tây Hà dịch,
Cung cụ hà trương hoàng!
Lộc cân tạp ngư xí,
Mãn trác trần trư dương.
Trưởng quan bất hạ trợ,
Tiểu môn chỉ lược thường.
Bát khí vô cố tích,
Lân cẩu yếm cao lương.
(Sở kiến hành)
(Ðêm qua ở trạm Tây Hà
Mâm cỗ cung đốn sao mà linh đình!
Nào là gân hươu, vây cá,
Ðầy bàn thịt lợn, thịt dê.
Quan lớn không chọc đũa,
Người tùy tùng chỉ nếm qua.)
Đồ bỏ không hề tiếc,
Chó hàng xóm cũng chán thức ngon.)
Nguyễn Du không bình luận gì cả. Chỉ cần hạ một câu: “chó hàng xóm cũng chán cao lương” đã
đủ thấy một sự đối lập đến gay gắt. Sự đối lập ấy bộc lộ hết cái chua xót của kiếp người và cái bất công
của lẽ đời. Một chút phẫn nộ, một chút châm biếm sâu cay ẩn đằng sau những câu thơ:
Thuỳ nhân tả thử đồ
Trì dĩ phụng quân vương?
(Sở kiến hành)
(Ai vẽ bức tranh này,
Đem dâng lên nhà vua!)
Lại một câu hỏi lớn được ném vào giữa cuộc đời. Ai là người có thể trả lời? Sẽ chẳng là ai giữa xã
hội này – xã hội phong kiến Trung Hoa vốn “ăn thịt người’ ngọt ngon, vốn coi người “tỉnh” là điên. Xã
hội ấy có gì khác với xã hội Việt Nam thời Nguyễn Du đâu. Dân nghèo thì vẫn bỏ cửa nhà quê hương
dắt díu nhau đi phiêu bạt. Vua chúa thì vẫn đắm chìm trong tửu sắc, trong việc xây dựng cung điện đền
đài. Có lẽ chưa bao giờ như bây giờ, Nguyễn Du hiểu rõ nhân tình thế thái đến vậy! Ở đâu thì người
dân lao động cũng cùng cực và họ dù là dân Trung Quốc hay dân Việt Nam cũng đều đáng thương như
nhau! Và Nguyễn Du đã nắm bắt được hiện tượng rất đắt, rất tiêu biểu ấy, để dựng lên thành công một
bức tranh điển hình. Chắc hẳn nếu không từng chứng kiến rất nhiều cảnh đời cay đắng ngay trên đất
nước mình, nhà thơ – vị quan khó lòng tạo được một kiệt tác như vậy.
Có thể thấy mối quan tâm lớn của vị quan Nguyễn Du trên con đường đi sứ chính là số phận
những người dân nghèo khổ. Chỉ gặp gỡ thoáng qua, ông đã thấu hiểu được tình cảnh của họ, dõi cặp
mắt đau đáu theo họ, đau lòng vì nỗi khổ của họ. Điều gì khiến một vị quan chánh sứ nước ngoài chỉ
nhìn thoáng qua đã thấu triệt căn nguyên nỗi khổ của dân lành trong khi bọn quan quân triều đình vô
cảm? Điều gì khiến vị quan chánh sứ đang ở thuyền bên này lại đặt hết ánh mắt, suy nghĩ vào hình ảnh
hai ông cháu người hát rong ở thuyền bên? Điều gì khiến vị quan đắng lòng khi người ta dọn ra nào là
vây cá, gân hươu, rượu quý để thiết đãi sứ đoàn? Nguyễn Du không thuộc về thế giới ấy! Nguyễn Du
thuộc về nhân dân! Cái nhìn, thái độ của Nguyễn Du dành cho những người dân nghèo khổ, ở Trung
Quốc hay ở Việt Nam cũng thế mà thôi, không bao giờ là cái nhìn ban phát, bố thí, thái độ thương hại
của kẻ bề trên. Cái nhìn của ông, tấm lòng của ông xuất phát từ tư thế của một người đứng ngang bằng,
đặt mình vào trong hoàn cảnh của họ mà đồng điệu, mà đau khổ mặc dù khi ấy họ và ông không đồng
cảnh ngộ với nhau, thậm chí còn có một khoảng cách khá xa. Nỗi niềm của vị quan chánh sứ, vì thế,
không phải nỗi lo đời, mà là nỗi đau đời!
Nếu ở hai chặng làm quan đầu tiên, Nguyễn Du rơi vào trạng thái u uất triền miên đến nỗi có lúc
muốn quay lưng với thực tại để tìm tới chốn “cửa huyền” thanh nhàn thì trong quãng thời gian đi sứ, ta
đã thấy một vị quan gắn bó với cuộc đời, con người bằng một thái độ yêu ghét rõ ràng, bằng cái nhìn
đầy lòng trắc ẩn. Cái nhìn của ông trên con đường Bắc hành thấm đượm chất trữ tình mà cũng sắc bén
tính hiện thực là vì thế.
3.2. SỐ PHẬN NHỮNG BẬC HIỀN TÀI, BẠC MỆNH
3.2.1. Những bậc hiền tài
Bên cạnh những bài thơ viết về số phận những con người nghèo khổ nhà thơ bắt gặp trên bước
đường hoạn lộ, vị quan Nguyễn Du còn có một số lượng lớn thi phẩm viết về các nhân vật lịch sử
Trung Quốc – những người hiền tài phải chịu những nỗi oan khuất trong cuộc đời và những con người
tài hoa bạc mệnh.
Nếu trong quãng đời gió bụi, ta thấy Nguyễn Du ôm mối u sầu vì những bi kịch của bản thân:
công danh dang dở, hùng tâm tráng chí không thành, con đường tương lai mờ mịt thì trên con đường
hoạn lộ, mối quan tâm của ông rộng lớn hơn nhiều. Trên con đường hoạn lộ, đặc biệt trong thời gian
được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du có cơ hội đi nhiều, thấy nhiều đồng thời được
sống lại với nền văn hóa vốn đã thấm sâu trong tâm hồn, đi qua những địa danh nổi tiếng, gặp lại
những nhân vật lừng danh mà ông hằng ngưỡng mộ qua sách vở. Và mỗi cảnh đời, mỗi số phận, mỗi
cuộc hội ngộ được ghi dấu ấn bằng một bài thơ.
In dấu ấn trong trang thơ Nguyễn Du là hình bóng của bao danh nhân tài tử. Có bóng dáng uy
nghiêm của các bậc thánh nhân như Đế Nghiêu, Mạnh Tử, Phật Vô Lượng, lại cũng có bóng dáng nhỏ
bé của một người mót lúa, người kéo xe. Có bóng dáng của những nhà thơ nổi tiếng như Lí Bạch, Âu
Dương Văn Trung, lại có bóng dáng của người tráng sĩ, của các bậc trung thần thà chết để giữ trọn
cương thường: Kinh Kha, Văn Thiên Tường, Kê Thiệu, Dự Nhượng, Tỷ Can, Bùi Tấn Công. Có những
bậc đại thần làm nên sự nghiệp lớn như Lạn Tương Như, Quản Trọng, Liễu Hạ Huệ và cả những người
sớm rời bỏ “con đường mây xanh” để giữ trọn khí tiết như hai ông họ Sơ. Không chỉ có những trang
nam tử, những đấng trượng phu, trong khu vườn danh nhân của Nguyễn Du nổi lên sừng sững bức
tượng đài về những người phụ nữ thủy chung, tiết liệt: vợ vua Ngu Thuấn,ba người phụ nữ họ Lưu. Có
thể nói, đó là cả một khu đài tưởng niệm trang nghiêm mà ở trước mỗi bức tượng đài, Nguyễn Du đều
đốt lên một nén tâm hương đầy thành kính.
Đi qua đền thờ vua Nghiêu, Nguyễn Du hết lời ca ngợi:
Thái hư nhất điểm đại quan chi,
Thiên địa vô công vạn vật ty
(Đế Nghiêu miếu)
(Một điểm trong thái hư xem ra rất lớn,
Như trời đất không mất công sức gì mà muôn vật được trông nhờ.)
Vua Nghiêu, vua Thuấn là biểu tượng của các đấng minh quân theo quan niệm của chế độ phong
kiến. Nguyễn Du ca ngợi Đế Nghiêu là ông vua thánh, như trời đất không cần làm gì mà muôn dân vẫn
được nhờ. Uy danh ấy, công đức ấy nghìn thuở sẽ vững bền sánh ngang ngọn Cửu Nghi. Ca ngợi công
đức của một vị vua thời cổ đại mà ở cuối bài thơ, thi nhân lại đặt ra câu hỏi lớn cho người hôm nay:
Tằng hướng Hứa Do nhượng thiên hạ,
Thánh nhân danh thực hữu thùy tri?
(Đế Nghiêu miếu)
(Từng muốn nhường ngôi báu cho Hứa Do,
Cái danh và cái thực của bậc thánh nhân, ai kẻ biết?)
Thơ viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Du khác thơ vịnh sử thông thường, là ở những câu hỏi lớn
như vậy. Không chỉ đơn giản là viết lại một điển tích, ca tụng một bậc thánh nhân mà bao giờ ẩn sau
những câu chữ cũng là mối băn khoăn, trăn trở không yên về thời thế, về nhân sinh. Nhà thơ hỏi ai và
ai sẽ là người trả lời? Có lẽ đó là câu hỏi dành cho mỗi người tự vấn, cũng là câu hỏi dành cho cả thời
đại tự vấn. Trung Hoa hay Việt Nam, đường đi ở đâu cũng có lắm đoạn gập ghềnh hiểm trở như nhau
mà thôi. Đem cái lẽ vô vi nhi trị của bậc thánh nhân xưa mà so với chính sách cai trị chuyên chế đến hà
khắc của triều Gia Long bấy giờ, ta mới hiểu vì sao câu hỏi ở cuối bài thơ dường như bâng quơ mà
nghe thiết tha, đau đớn đến vậy.
Những câu nghi vấn như thế xuất hiện không ít trong thơ Nguyễn Du. Thơ chữ Hán của ông, hình
thức gói gọn trong khuôn khổ một bài Đường luật nhưng nội dung của nó vượt ra xa cái khuôn khổ ấy.
Có thể gọi là bình cũ rượu mới vậy. Không còn hơi thơ lâng lâng men say có thể đưa con người lên tận
trời xanh, không còn hương đắm say của con người giao hòa với phong, hoa, tuyết, nguyệt, cũng không
còn dư vị thanh tao thoát tục của con người thanh nhàn đã vững chãi trong lòng lẽ xoay vần của tạo
hoá. Thời thế bây giờ đã khác. Xã hội đảo điên tựa hồ muốn hất tung con người ra khỏi guồng quay của
nó. Mọi giá trị, chuẩn mực đạo đức cũng lung lay đến tận gốc rễ. Vì thế trong thơ Nguyễn Du ít vị ngọt
ngào mà nhiều men cay đắng, cay đắng đến xót lòng. Hình tượng thơ cũng không đơn giản, một chiều
mà luôn được đặt trong sự suy ngẫm, đối sánh:
Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt,
Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn.
Địa hạ tương khan vô quý sắc,
Giang biên hà xứ điếu trinh hồn?
Thanh thời đa thiểu tu như kích,
Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn.
(Tam liệt miếu)
(Bia kệ ngàn năm làm rạng danh ba người đàn bà tiết liệt
Cương thường một thuở thuộc về một nhà.
Dưới đất nhìn nhau, không chút hổ thẹn trên nét mặt
Trên bến sông này đâu là nơi viếng hồn trinh?
Thời bình biết bao kẻ râu vểnh lên như ngọn kích,
Nói hiếu, bàn trung, ai cũng tự suy tôn mình.)
“Tam liệt miếu” là miếu thờ ba người đàn bà tiết liệt họ Lưu. Khoảng niên hiệu Chính Đức nhà
Minh, Lưu Thời Cử đi nhậm chức, giữa đường gặp cướp, bị giết. Vợ là Trương thị, thiếp là Quách thị,
con gái là Lưu thị không chịu nhục nhảy xuống sông chết. Khoảng năm Gia Tĩnh họ được biểu dương
và lập miếu thờ.
Xưa nay, miếu Tam liệt và câu chuyện cảm động về ba người đàn bà trung trinh ấy đã khơi nguồn
thi hứng cho bao người. Trước Nguyễn Du, sứ giả Việt Nam triều Lê - Nguyễn Tông Khuê đã từng
cảm tác:
Biển đề ba chữ vàng còn thắm,
Bia tạc ngàn thu đá chửa mòn.
Trong kẻ nữ nhi so có mấy!
Ai chăng ngâm ngợi tấc lòng son?
(Viếng miếu Lưu Tam liệt)
Sau Nguyễn Du, sứ thần Phạm Chi Hương cũng ghi lại cảm xúc của mình:
Khả liên phủ ngưỡng không trần tích,
Suy thảo, hàn yên, nhất thạch bi!
(Quá Tam liệt bi)
(Đáng thương thay ngước lên, cúi xuống chỉ trơ dấu cũ
Một tấm bia đã trong làm cỏ áy, khói lạnh.)
Người liệt nữ, lẽ dĩ nhiên sẽ trở thành tấm gương sáng cho giới nữ soi chung về đạo “tứ đức tam
tòng”. Nhưng tầm nhìn của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở cái lẽ dĩ nhiên ấy:
Thanh thời đa thiểu tu như kích
Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn.
(Tam liệt miếu)
(Thời bình biết bao kẻ râu vểnh lên như ngọn kích
Nói hiếu, bàn trung, ai cũng tự suy tôn mình.)
Ba trang liệt nữ được đặt trong cái nhìn đối sánh với những đấng tu mi nam tử râu vểnh lên nhưng
chỉ biết tự suy tôn mình. Chỉ với cái nhìn đối sánh ấy cũng đủ tỏ rõ tấm lòng ưu ái, trân trọng của nhà
thơ dành cho người phụ nữ – những người vốn không có địa vị và tiếng nói trong xã hội xưa.
Đối với người phụ nữ, nhà thơ đề cao phẩm hạnh, đức trung trinh. Còn đối với kẻ bề tôi, nhà thơ
đề cao tấm lòng trung nghĩa. Muôn thuở tấm lòng trung nghĩa của con người vằng vặc tỏa sáng cùng
nhật nguyệt. Trong “Bài hành về chiếc gươm ngắn của Dự Nhượng”, nhà thơ nhắc đi nhắc lại nghĩa
quân thần lưu truyền thiên cổ ấy:
Tái hoạch tái xả tâm bất di,
Lâm tử do năng tam kích y.
Lăng lăng kỳ khí thiên tiêu thượng,
Tự thử kiều danh canh Dự Nhượng.
Quân thần đại nghĩa tối phân minh
Quốc sĩ chúng nhân các dị thượng.
Quí sát nhân thần hoài nhị tâm
Thiên cổ văn chi sắc trù trướng.
(Dự Nhượng chủy thủ hành)
(Bị bắt được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần liền, lòng vẫn không dời,
Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử.
Khí lạ cao ngất nghìn tầng mây,
Từ đó tên cầu đổi là Dự Nhượng.
Nghĩa lớn vua tôi cực rõ ràng,
Người quốc sĩ và người thường có cách ứng xử khác nhau.
Kẻ làm bề tôi mà hai lòng thật đáng hổ thẹn đến chết
Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi.)
Dự Nhượng người nước Tấn, làm bề tôi cho họ Phạm và họ Trung Hàng, sau làm bề tôi Trí Bá,
được Trí Bá yêu quí, tôn trọng. Khi Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết, lấy xương sọ làm chậu tiểu, Dự
Nhượng căm giận bừng bừng, tự gánh lấy việc trả thù cho Trí Bá. Dự Nhượng sơn mình, cạo râu làm
người hủi, cắp dao găm nấp dưới cầu đợi kẻ thù, sát khí đằng đằng. Việc không thành, Dự Nhượng bị
Tương Tử bắt hai lần nhưng đều tha cho vì Tương Tử cảm phục lòng trung của Dự Nhượng. Lần thứ ba
bắt được Dự Nhượng, Tương Tử không tha nữa. Nhượng xin được đâm ba nhát vào áo của Tương Tử
rồi tự đâm cổ chết. Nguyễn Du hết lòng cảm phục Dự Nhượng, ca ngợi Dự Nhượng là con người có “
khí lạ cao ngất nghìn tầng mây”.
Không chỉ ca ngợi lòng trung của Dự Nhượng, nhà thơ còn biểu dương cách ứng xử rất minh bạch
của người quốc sĩ ấy. Khi bị Tương Tử bắt, Dự Nhượng đã nói với Tương Tử: Tôi đã làm tôi cho họ
Phạm và họ Trung Hàng, họ Phạm và họ Trung Hàng đãi tôi như người thường nên tôi muốn báo đáp
theo lối người thường. Đến như Trí Bá thì đãi tôi như quốc sĩ cho nên tôi báo đáp theo lối quốc sĩ [44,
tr.49]. Cốt cách của Dự Nhượng toả ra một ánh sáng vằng vặc khiến những kẻ bề tôi hai lòng phải cúi
mặt hổ thẹn đến chết. Chiếc gươm báo thù của Dự Nhượng chỉ ngắn bảy tấc nhưng hào quang của nó
dài vạn trượng và sẽ soi rọi suốt cổ kim!
Nhìn vào lịch sử, Nguyễn Du bao giờ cũng nhìn thấy những bài học lớn cho hậu thế. Nhưng
những bài học ấy không áp đặt, khô cứng như những lời giáo huấn mà nó được lồng cài khéo léo trong
hình tượng thơ:
Đại dũng bất dĩ lực,
Cận hữu Lạn Tương Như.
Kiểu hãnh năng hoàn bích,
Bồi hồi thiện tị xa.
Phong bi lưu tính tự
Toàn Triệu miễn khưu khư.
Tàm quý lực ách hổ,
Bình sinh vô khả thư.
(Lạn Tương Như cố lý)
(Bậc đại dũng không cần đến sức mạnh,
Chỉ có Lạn Tương Như.
Cầu may đòi lại được ngọc bích,
Đi vòng đường khéo tránh xe.
Bia lớn ghi tên họ,
Bảo toàn cho nước Triệu không bị trở thành gò đống.
Thẹn thay kẻ có sức bắt được cọp,
Mà trọn đời chẳng có gì đáng ghi.)
Lạn Tương Như là bậc lương tướng của nước Triệu. Ông là người đã giúp Huệ Văn Vương giữ
được ngọc báu họ Hoà mà vẫn tránh được nạn đao binh với nước Tần. Huệ Vương cho Tương Như là
quan đại phu giỏi, phong Tương Như làm Thượng đại phu rồi sau phong Thượng Khanh, trên cả địa vị
đại tướng Liêm Pha. Liêm Pha giận muốn làm nhục Tương Như nhưng Tương Như luôn tránh gặp
Liêm Pha. Kẻ dưới trách Lạn sao quá sợ hãi như vậy, Lạn nói: Sở dĩ Tần không dám đánh Triệu vì
Triệu có Liêm Pha và Lạn Tương Như. Nay hai hổ chọi nhau thì một sống, một chết cho nên ta phải
làm thế vì nghĩ đến việc cấp bách của nước nhà [44, tr.108]. Liêm Pha nghe được lời ấy bèn cởi trần,
mang roi đến nhà Lạn tạ tội rồi cùng kết bạn sống chết có nhau.
Nguyễn Du khâm phục Lạn Tương Như vì Lạn Tương Như không cần dùng đến sức mạnh mà vẫn
đường đường là một bậc đại dũng. Cái đại dũng ấy xuất phát từ cái đại trí, đại nhân vậy. Người như
Lạn xưa nay dễ có mấy ai!
Bài thơ ngũ ngôn có kết cấu hai phần rõ ràng. Sáu câu đầu ngợi ca sức mạnh trí dũng của người
xưa. Hai câu cuối nhà thơ không dành để khẳng định sự trường tồn của bậc danh tướng, cũng không
trực tiếp nói lên tình cảm của mình mà chỉ hạ bút rất nhanh gọn:
Tàm quý lực ách hổ,
Bình sinh vô khả thư.
(Lạn Tương Như cố lý)
(Thẹn thay kẻ có sức bắt được cọp
Mà trọn đời chẳng có gì đáng ghi.)
Nhưng đó là nét bút sắc bén, phủ định một loại người hữu dũng mà vô mưu, vô dụng trong xã hội.
Vị quan không lên tiếng phê phán, răn dạy người đời mà tự thân hình tượng thơ đã nói lên rất rõ.
Có thể nói, viết về số phận của những nhân vật lịch sử, Nguyễn Du bao giờ cũng lồng vào đó
những chiêm nghiệm của bản thân. Ông không chỉ dựng cảnh, dựng người mà còn bàn, luận, đưa ra
những kiến giải về những vấn đề đã xảy ra. Những kiến giải ấy chỉ là một vài nét phác họa nhưng đôi
khi cũng hé mở cho ta hiểu thêm về con người vị quan chánh sứ. Dù viết về một vị đế vương, một triều
đại, một trung thần hay một triết lý Phật giáo thì ông đều có chung một điểm tựa cốt lõi đó là nỗi trăn
trở về thời thế, nhân sinh. Nhờ những trải nghiệm sâu sắc của bản thân cùng với cách nhìn thâm trầm
về cuộc đời, đã có lúc Nguyễn Du dường như tiếp cận tới chân lý của thời đại:
Nhất triêu uổng sát tam liệt sĩ,
Hàm Dương thiên tử chung nguy nguy.
(Kinh Kha cố lý)
(Một sớm ba liệt sĩ chết oan
Mà ngôi thiên tử ở Hàm Dương vẫn cao ngất ngưởng.)
Kinh Kha – kiếm khách nổi tiếng người nước Vệ – người đã nhận trọng trách sang đất Tần thích
Tần vương. Đại sự không thành, người tráng sĩ một đi không trở lại. Xưa nay hình ảnh Kinh Kha đã trở
thành biểu tượng bi tráng của những người vì nghĩa lớn quên thân.
Qua làng cũ của Kinh Kha, vị chánh sứ không khỏi nghiêng mình trước chí khí của người tráng sĩ.
Tiếng ca khẳng khái thuở nào cùng với tiếng thép rít, tiếng sóng lạnh lùng của dòng sông Dịch cùng ùa
về, dội vào lòng ông. “Một sớm ba liệt sĩ chết oan mà ngôi thiên tử vẫn ngất ngưởng ở Hàm Dương!”.
Lời thơ đầy bi phẫn. Đó không chỉ là nỗi oan khuất của ba số mệnh mà còn là nỗi bi thương về sự mất
mát của nhân loại trong cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, bảo vệ lý tưởng nhân văn. Cuộc đấu
tranh ấy, hôm qua, hôm nay có thể thất bại.
Song ngày mai thì:
Mạc đạo chủy thủ cánh vô tế,
Yết can trảm mộc vi tiên thanh.
(Kinh Kha cố lý)
(Chớ bảo rằng mũi dao nhọn kia chẳng có ích gì,
Nó mở đầu cho việc chặt cây làm giáo, làm cán cờ khởi nghĩa.)
Cái nhìn của vị quan về lịch sử trở nên mạnh mẽ và chứa đầy những ý tưởng lớn. Một mũi dao
nhọn hôm nay có thể thành cuồng phong bão táp ngày mai. Phải chăng âm vang của thời đại nông dân
khởi nghĩa, âm vang của vó ngựa Tây Sơn đã thổi vào ngòi bút Nguyễn Du luồng sinh khí khỏe khoắn
ấy?
Những vấn đề lịch sử Nguyễn Du nêu lên không chỉ nằm trong khuôn khổ một thời đại mà thực sự
trở thành vấn đề của mọi thời, mọi người:
Tàn Minh miếu xã đa thu thảo,
Toàn Việt sơn hà tận tịch dương.
Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa,
Như hà hương hỏa thái thê lương?
(Quế Lâm Cù Các Bộ)
(Tông miếu xã tắc nhà Minh suy tàn đầy cỏ thu,
Non sông toàn đất Việt đều nhuốm bóng chiều.
Ai cũng bảo nước Trung Hoa trọng tiết nghĩa,
Sao ở đây hương khói lạnh lẽo thế này? )
Tên tuổi Cù Thức Trĩ là biểu tượng của tấm lòng trung hiếu. Ông làm tuần phủ Quảng Tây, khi
người Mãn Thanh chiếm Trung Quốc, ông tuẫn tiết, không chịu hàng phục, mái tóc vẫn dài.
Nguyễn Du ca ngợi tấm lòng trung liệt của ông Các Bộ họ Cù và kết thúc bài thơ bằng hình ảnh
tông miếu suy tàn ngập trong cỏ thu. Bóng chiều từ bài thơ len lỏi vào lòng người đọc, không khỏi để
lại dư vị tê tái. “Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa; như hà hương hỏa thái thê lương?”. Lại một
câu hỏi nữa bật ra đau đáu, thiết tha. Xã tắc liệu có còn không, giềng mối nước nhà có vững bền được
không khi mà con người lãnh đạm, thờ ơ với những giá trị nhân văn?
Viết về những tấm gương trung liệt, tiết nghĩa, Nguyễn Du hết lòng ngợi ca, tôn kính. Nhà thơ rót
rượu viếng họ, rơi lệ khi tận mắt nhìn thấy nấm mồ của họ, bước xuống xe để tỏ lòng kính trọng họ.
Nghĩ về họ, Nguyễn Du như nghĩ về những người bạn, người thầy. Nguyễn Du khẳng định tấm lòng cô
trung, tiết nghĩa của họ sẽ sống mãi nghìn thu. Song song với cảm hứng khẳng định, ngợi ca ấy, nhà
thơ luôn có ý thức phủ định, phê phán đối với lớp người hậu thế đi ngược lại với giá trị, vẻ đẹp nhân
văn của con người.
*
* *
Nguyễn Du từng nói:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Khắc với “chữ mệnh” cho nên “chữ tài liền với chữ tai một vần”, tài tình lắm chỉ khiến cho trời
đất ghen. Chủ nghĩa định mệnh ấy ẩn hiện, len lỏi trong ngòi bút Nguyễn Du, phủ lên trang thơ ông cái
màu xam xám, bàng bạc, buồn buồn của cỏ lau chiều tà. Cô Cầm, Thúy Kiều, Đạm Tiên hay Ngu Cơ,
Tiểu Thanh, Dương Phi; Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Liễu Tông Nguyên hay Liêm Pha, Nhạc Phi, Hàn
Tín; dù là các bậc võ tướng hay khách văn chương, người quân tử hay trang tuyệt sắc; dù người
phương Bắc hay người phương Nam; dù người nay hay hồn xưa, cuộc đời họ, số phận họ đều nhuốm
một màu định mệnh bi thương. Họ tài hoa, tài tình nhưng “trời ban cho tài lạ mà không có chỗ dùng”
để rồi cuối cùng phải kết thúc bằng cái chết oan khuất, u uẩn. Họ là những bi kịch không lối thoát của
thời đại. Nghĩ về họ, Nguyễn Du không chỉ có yêu mến, xót thương mà thực sự đồng cảm. Nguyễn Du
đau nỗi đau của lịch sử, của người xưa như nỗi đau của chính mình, của thời đại mình. Vị quan tự xem
mình là người cùng hội cùng thuyền, tự ngồi vào con thuyền số mạng chòng chành của những nhân vật
sống cách ông hàng ngàn năm [55, tr.87]. Có lẽ vì thế cái chao đảo của kiếp người trước sóng gió cuộc
đời được ông nói lên sâu sắc, thấm thía đến vậy!
Trung Nguyên bách chiến xuất anh hùng,
Trượng bát thần thương lục thạch cung.
Tướng phủ dĩ thành tam tự ngục,
Quân môn do tích thập niên công.
Giang hồ xứ xứ không Nam quốc,
Tùng bách tranh tranh ngạo Bắc phong.
Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu,
Thê Hà sơn tại mộ yên trung.
(Nhạc Vũ Mục mộ)
(Anh hùng xuất hiện trong trăm trận đánh ở Trung Nguyên,
Thương thần dài trượng tám, cung nặng sáu thạch.
Ở tướng phủ đã khép thành tội “ba chữ”,
Nơi quân còn tiếc công của ông trong mười năm trời.
Giang hồ nơi nơi còn đó, Nam quốc thấy không,
Cây tùng cây bách vẫn hiên ngang ngạo nghễ lao vào trước gió bão.
Buồn trông về lăng miếu cũ ở Lâm An,
Núi Thê Hà chìm trong khói chiều.)
Nhạc Phi là biểu tượng của người anh hùng Trung Nguyên, là người đã tạo nên bao chiến công
vang dội. Đồng thời Nhạc Phi cũng là biểu tượng đau thương của một bi kịch không đạt chí. Cuộc đời
lẫy lừng của Nhạc Phi phải kết thúc bằng cái chết đầy oan ức do bị bọn gian tặc hãm hại. Chỉ ba chữ
“mạc tu hữu”, hàng trăm trận đánh, “ba ngàn quân kỵ” đầy uy danh chỉ còn lại đám mây chiều. Không
lẽ cái giá phải trả của người trung liệt lại thế này sao:
Huyết chiến thập niên thành để sự,
Phong Ba đình hạ tạ Kim nhân.
(Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ )
(Mười năm huyết chiến để làm nên cái việc,
Bị giết ở đình Phong Ba để triều đình tạ tội với người Kim.)
“Mười năm huyết chiến” để rồi cuối cùng “bị giết”. “Mười năm” – nếm trải sương gió dạn dày
biết bao nhiêu, máu huyết đổ ra đau đớn biết bao nhiêu! Để rồi cuối cùng “bị giết” – “phần thưởng” ấy
mới lạnh lùng, oan nghiệt, tàn nhẫn làm sao! Câu thơ khái quát được nghịch cảnh cả đời người, khái
quát được cái phi lý của cả xã hội. Lời thơ kín đáo, không bộc lộ cảm xúc nhưng ấy là cái kín đáo có
sức cứa vết vào lòng người!
Nguyễn Du tiếc thương những người anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Tín và đau lòng trước số phận
của những đấng tài hoa. Yêu thương, đối với ông dường như không bao giờ đủ, không có bất kỳ một
giới hạn nào. Tâm hồn ấy nhạy cảm như dây đàn, chỉ cần một chút lay động cũng đủ xao xuyến ngân
vang. Tấm lòng ấy thẳm sâu như biển khơi, ngàn năm sóng dâng vỗ về mọi kiếp người. Và trước số
phận của những khách văn chương, bể khơi ấy dường như xao động tận những con sóng ngầm. Nguyễn
Du nhớ Lý Bạch, Văn Thiên Tường, Liễu Tông Nguyên… Và ông thương Đỗ Phủ. Đỗ Phủ là nhà thơ
vĩ đại của nền văn học Trung Quốc: Trên làm nhạt Phong, Tao, dưới làm mờ Thẩm, Tống, lời thơ vượt
cả Tô, Lý, khí thơ át cả Tào, Lưu, che khuất Nhan, Tạ đỉnh cao, nhuộm đục Tử, Diễu dòng thắm, được
tất cả cái thể khí của cổ kim, được tất cả cái độc chuyên của từng thi sĩ, người làm thơ xưa nay chưa
từng có ai như Đỗ Tử Mỹ [13, tr.16]. Nguyễn Du cũng suốt đời khâm phục tài thơ Đỗ Phủ: “Văn
chương để lại muôn đời, bậc thầy của muôn đời”. Nhưng cái danh xưng bậc thầy thơ của muôn đời ấy
bình sinh không giúp được gì cho Đỗ Phủ, cũng không phải là điều khiến Nguyễn Du nhớ nhất, xúc
động nhất:
Thiên cổ văn chương thiên cổ sư,
Bình sinh bội phục vị thường ly. Lỗi Dương tùng bách bất tri xứ,
Thu phố ngư long hữu sở tư.
Dị đại tương liên không sái lệ,
Nhất cùng chí thử khởi công thi?
Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị?
Địa hạ vô linh quỷ bối xi.
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I)
(Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời
Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt
Cây tùng cây bá ở Lỗi Dương, không biết ở nơi nào?
Cá rồng trong bến thu, còn có chỗ để tưởng nhớ
Ở hai thời đại khác nhau, thương nhau, luống lơi lệ
Cùng khổ đến thế há phải bởi tại thơ hay?
Chứng bệnh lắc đầu ngày trước, bây giờ đã khỏi chưa?
Dưới địa phủ đừng để cho lũ quỷ cười.)
Nguyễn Du thương Đỗ Phủ đến rơi nước mắt vì Đỗ Phủ “giỏi làm thơ” mà cuộc đời Đỗ Phủ
“cùng quẫn”. Giỏi đến thế mà sao cùng quẫn đến thế? Câu hỏi cứ đau đáu xoáy vào lòng Nguyễn Du.
Văn chương và số mệnh, vấn đề ấy ám ảnh Nguyễn Du rất nhiều. Ông đã từng thốt lên:
Bản vô văn tự năng tăng mệnh,
Hà sự kiền khôn thác đố nhân?
(Tự thán II)
(Vốn chẳng có văn chương có thể ghét số mệnh,
Thì sao trời đất lại ghét lầm người?)
Cái bi kịch áo cơm, khách văn chương, từ xưa đến nay không ai là không thấm thía:
Cuộc đời cay cực giơ nanh vuốt,
Cơm áo không đùa với khách thơ.
(Xuân Diệu)
Và Nguyễn Du lại càng thấm thía. Càng thấm thía Nguyễn Du càng thương Đỗ Phủ hơn. Cuộc đời
Đỗ Phủ như một bản đàn ngậm ngùi, dang dở. Công danh không thành, tài trí để thẹn với non sông.
Nếu Nguyễn Du phải trải qua mười năm gió bụi cơ hàn thì Đỗ Phủ cũng phải lưu lạc giữa gió mưa li
loạn của cuộc đời. Nếu Nguyễn Du từng phải chống kiếm đi khất thực, ở nhờ nhà người, vợ con thiếu
ăn mặt xanh như rau thì Đỗ Phủ có những tháng năm ăn đường, ở chợ, chạy theo gót ngựa, con cái chết
đói ở góc thành. Vậy mà Nguyễn Du, ra làm quan vẫn sống thanh bạch như một học trò nghèo, giữ tấm
lòng trong sáng như gương. Vậy mà Đỗ Phủ, khi bị cơn gió lốc mùa thu lật mất mái nhà thì chỉ mơ ước
“có ngôi nhà lớn muôn gian để che chở kẻ nghèo khắp thiên hạ”. Hai tâm hồn lớn, hai tấm lòng lớn. Có
lẽ vì vậy mà dễ dàng hoà nhập với nhau, đồng điệu với nhau như tri kỷ:
Mỗi độc nho quan đa ngộ thân
Thiên niên nhất khốc Đỗ Lăng nhân
Văn chương quang diệm thành hà dụng
Nam nữ thân ngâmbất khả văn.
Cộng tiễn thi danh sư bách thế
Độc bi dị vực ký cô phần.
Biên chu giang thượng đa thu tứ
Trướng vọng Lỗi Dương nhật mộ vân.
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ II)
(Mỗi lần đọc câu mũ áo nhà nho thường làm lụy thân mình,
Lại một lần khóc thương người đất Đỗ Lăng sống nghìn năm trước.
Văn chương ngời sáng dùng được việc gì?
Trai gái rên khóc chẳng đành lòng nghe.
Ai cũng khen tài thơ đáng bậc thầy muôn thuở,
Riêng ta buồn thương cho ông phải gửi nấm mồ cô đơn nới đất khách.
Ta thả chiếc thuyền con trên sông, tứ thu dào dạt,
Buồn trông đám mây chiều trên đất Lỗi Dương.)
Danh vọng xưa nay vẫn là miếng mồi của sự tranh đoạt. Hơn một nghìn năm, có ai hiểu và thương
Đỗ Phủ hơn Nguyễn Du? Điều họ nhớ là cái danh “sư bách thế”, điều họ thèm là cái tiếng “thiên cổ
văn chương”. Nguyễn Du thì không. “Cộng tiễn”- ai cũng khen nhưng “độc bi” - chỉ một mình ta buồn
thương. Nguyễn Du là thế, thường có cái nhìn khác người đời:
Cộng tri liên liên hoa,
Thuỳ giả liên liên cán.
(Mộng đắc thái liên IV)
(Mọi người đều biết yêu thích hoa sen
Nhưng ai là kẻ biết yêu thân cây sen?)
Người đời ai cũng yêu hoa sen, sắc hoa đằm thắm, hương hoa thanh tao. Mấy ai nghĩ đến thân cây
sen. Chỉ người tri kỷ mới biết trong thân cây sen có những sợi tơ vương vấn hoài không dứt. Tơ lòng
Đỗ Phủ, từ ngàn năm trước đến nay còn vương vấn lòng Tố Như:
Độc bi dị vực ký cô phần
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ II)
Chữ “độc” của Nguyễn Du, đối lại chứa chan tình ý với chữ “độc” của Đỗ Phủ khi xưa:
Bách niên đa bệnh độc đăng đài
(Đăng Cao)
Gửi gắm trong chữ “độc” ấy là biết bao nỗi niềm. Trong câu thơ bảy chữ, Đỗ Phủ gói gọn tâm sự
một đời. Thời gian “bách niên” như kéo câu thơ dài ra đằng đẵng, cũng là cái đằng đẵng khổ đau của
một kiếp người. Không gian “đăng đài” đẩy con người ra đối diện với cái bao la của vũ trụ, đối diện
với già nua, bệnh tật. Tuổi già, bệnh tật, hai điều ấy đáng sợ biết bao! Nhưng tất cả không đáng sợ bằng
nỗi niềm cô quạnh. Chữ “độc” hạ xuống câu thơ như kéo chùng cả không gian, thời gian, kéo chùng cả
lòng người. Xưa, trên đài cao, một mình Đỗ Phủ mang mối sầu thiên cổ. Nay, trông mây chiều, một
mình Nguyễn Du khóc thương cho bậc tài hoa. “Sư bách thế” chỉ là cái danh hư ảo, như người mặc áo
gấm đi đêm. Còn “ký cô phần” mới là hiện thực cuộc sống mà nhà thơ phải gánh chịu. Lưu lạc một đời,
cô độc tuổi già và kết thúc bằng nấm mồ cô đơn nương gửi nơi đất khách. Người ta “sống gửi thác về”.
Đỗ Phủ sống đã gửi mà thác cũng không được về. Xót xa biết nhường nào! Lòng người tê tái! Tứ thu
dào dạt. Mây chiều Lỗi Dương quên bay. Đỗ Phủ cô độc. Nguyễn Du lẻ loi. Sự sống dật dờ. Nấm mồ
lạnh lẽo. Tất cả như một vòng xoáy ác nghiệt đày đọa, vùi dập không thương tiếc những đời tài hoa.
Nguyễn Du nói nhiều đến các nhân vật văn hoá, và bao giờ cũng đặt mình chung nỗi đau, chung
số phận với các tài tử trong thiên hạ. Nguyễn Du làm thơ về nhiều nhân vật văn hoá và cũng làm nhiều
bài thơ về một nhân vật. Đó là trường hợp Khuất Nguyên. Đối với Nguyễn Du, Khuất Nguyên quá lớn
lao, bi kịch của Khuyết Nguyên quá đau đớn. Vì vậy chừng như trong khuôn khổ một bài thơ, nỗi trầm
uất không thể thoát ra hết được. Nguyễn Du viết liền sáu bài thơ về Khuất Nguyên! Như vậy mới có
thể phần nào giải toả được nỗi lòng. Nghĩ về Khuất Nguyên, Nguyễn Du luôn tỏ lòng kính mộ. Ông
kính cái tài, cái khí tiết, yêu mến tấm lòng thanh khiết như hoa lan, hoa chỉ của Khuất Nguyên. Ông
bênh vực cho tất cả mọi hành động, suy nghĩ của Khuất Nguyên: “Không đọc bài phú Hoài Sa, sao biết
được nỗi lòng Khuất Nguyên?”.
Bất độc Hoài Sa phú,
An thức Khuất Nguyên tâm?
(Biện Giả)
(Không đọc bài phú Hoài Sa
Sao biết được nỗi lòng Khuất nguyên?)
Cuộc đời Khuất Nguyên là một bi kịch lớn. Ông là nhà yêu nước vĩ đại, nhà thơ tài hoa, nhà văn
hoá lỗi lạc. Thế nhưng, con người ấy, đến chết cũng không được dung nạp. Điểm đến cuối cùng của
Khuất Nguyên, chỉ có thể là dòng Mịch La cuộn sóng: “Khuất Nguyên đến bờ sông, xoã tóc đi, ngâm
nga trên bờ đầm, sắc mặt tiều tụy, hình dung khô héo”. Chỉ dòng Mịch La mới có thể giúp Khuất
Nguyên rũ sạch đám bụi trần, chẳng để cho đời làm dơ bẩn. “Tất cả đời đều nhơ đục, chỉ một mình ta
trong, tất cả mọi người đều say, riêng một mình ta tỉnh” [44, tr.299]. Cả cuộc đời rộng lớn ngoài kia,
không một chỗ nào Khuất Nguyên có thể dừng chân, bởi lẽ:
Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh,
Tứ phương hà xứ thác cô trung?
(Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu II)
(Nghìn xưa, có ai thương người một mình tỉnh táo,
Bốn phương có chốn nào gửi được tấm lòng cô trung?)
Con người “suốt đời một mình tỉnh táo” ấy là nhân chứng đau thương nhất cho chế độ xã hội khắc
bạc với người tài. Trong tâm trí Nguyễn Du luôn có một sự đối lập ghê gớm giữa vầng trăng sáng
Khuất Nguyên với bọn người xấu xa, đê hèn. Viết về Khuất Nguyên, Nguyễn Du liên tục đặt ra các câu
hỏi, liên tục hướng cái nhìn sâu sắc về người đời, những kẻ sống vênh vang:
Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục,
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.
(Tương Đàm điếu Tam lư đại phu II)
(Gần đây, mỗi khi người ta thích trang phục lạ,
Thì thứ hoa tiêu, hoa lan họ đeo chẳng giống ông chút nào.)
Ngày nay người ta hay thích đeo hoa tiêu, hoa lan nhưng hoa ấy đâu còn cái hương thanh tao như
hoa của Khuất Nguyên. Hình thức bề ngoài ấy làm sao qua mặt được Nguyễn Du!
Hằng năm người ta lại đua thuyền vào ngày Khuất Nguyên mất để tượng trưng cho việc tìm thi
thể nhà thơ. Người đã không còn thì bày ra hội đua thuyền để mà làm gì? Hàng năm chiêng trống
chẳng qua chỉ để vui chơi nô đùa, làm cho lòng người thêm đau thương oán hận mà thôi. Hồn nếu trở
về thì tìm đâu ra chốn tựa nương giữa cõi đời này:
Hồn nhược quy lai dã vô thác,
Long xà quỷ vực biến nhân gian.
(Ngũ nguyệt quan cạnh độ)
(Hồn ví có về thì cũng không chốn nương tựa,
Rắn rồng, quỷ quái khắp nhân gian.)
Khắp nhân gian đều là lũ rắn rồng quỷ quái! Đầy chua xót và oán hận! Từ nỗi chua xót, oán hận
ấy, Nguyễn Du phát triển lên thành bài: “Phản chiêu hồn” – một tứ thơ “kỳ lạ đến choáng ngợp!” [21].
Tống Ngọc thương Khuất Nguyên hồn phách sắp tiêu tan, làm bài “Chiêu hồn” để gọi hồn Khuất
Nguyên về. Nhưng Nguyễn Du phản bác lý lẽ ấy, một mực khuyên hồn đừng trở về. Vì sao lại như
vậy? Vì cuộc đời là thế này đây:
Thành quách do thị, nhân dân phi
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa,
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quì.
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di.
(Phản chiêu hồn)
(Thành quách vẫn như cũ, song nhân dân đã khác rồi,
Bụi cuốn mù mịt bẩn cả quần áo.
Khi đi ra đường thì rong ruổi xe, khi ở nhà thì ngồi vênh váo,
Họ đứng ngồi bàn tán như ông Cao, ông Qùi.
Họ che giấu nanh vuốt và nọc độc,
Nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường.)
Bộ mặt một xã hội ăn thịt người. Thời Khuất Nguyên hay thời Nguyễn Du thì cũng vậy thôi, giai
cấp thống trị vênh váo, miệng nói những lời đạo nghĩa mà che giấu nanh vuốt, nọc độc bên trong. Thế
thì còn khuyên hồn trở về làm gì?
Hồn hề! Hồn hề! Suất thử đạo,
Tam Hoàng chi hậu phi kỳ thì.
(Phản chiêu hồn)
(Hồn ơi, nếu cứ theo đường ấy,
Sau Tam Hoàng, thôi chẳng hợp thời.)
Sau Tam Hoàng thì không còn thời nào mà hồn có thể bình yên dung thân được nữa. Chỉ bằng
một nhát bút, Nguyễn Du dường như đã phủ định cái xã hội phong kiến Trung Hoa mấy nghìn năm sau
đời Tam Hoàng. Và cũng chỉ bằng một nhát bút, Nguyễn Du khái quát nên một cách đầy bi phẫn bản
chất xã hội ấy:
Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan,
Đại địa xứ xứ giai Mịch La.
(Phản chiêu hồn)
(Đời sau người đều là Thượng Quan,
Mặt đất này đâu đâu cũng là sông Mịch La.)
“Nhân nhân giai – xứ xứ giai”, cấu trúc trùng điệp gợi nên cảm giác có một mạng lưới ác độc bủa
vây khắp mọi nẻo đường, xiết chặt lấy những tấm lòng cô trung, độc tỉnh, khiến họ không thể vùng vẫy
mà thoát ra được. Ngột ngạt quá, đau đớn quá, chỉ còn biết ôm đá mà trẫm mình xuống lòng sông.
Nghìn thu dòng nước Mịch La kia biết có rửa sạch mọi nhơ đục của cuộc đời, biết có cuốn trôi mọi nỗi
oan khiên, trầm uất của lòng người? Đây là nơi đâu mà con người không thể sống, không thể tồn tại?
Tiếng kêu xé lòng của Nguyễn Du về thân phận con người từ mấy trăm năm đến nay còn thấu động
tâm can người đọc.
Nguyễn Du hết lòng yêu mến, ngợi ca các danh nhân văn hoá. Đối với những bậc tài tình mà
phải chịu một nỗi oan khuất lạ lùng, nhà thơ càng xót thương, nhất là với những kiếp hồng nhan bạc
mệnh. Viết về họ tay bút của ông chừng như uyển chuyển hơn, nhẹ nhàng hơn. Hình ảnh người phụ nữ
hiện lên trong thơ Nguyễn Du đẹp đẽ, thuần khiết như làn mây, điểm tuyết, như hoa mai trắng nở trên
đỉnh núi cao. Một Tiểu Thanh nhan sắc “có thần”, một nàng Cầm “báu vật chốn kinh thành” với ngón
đàn tuyệt kĩ, một Thuý Kiều tài sắc đến hoa ghen, liễu hờn và một Dương Phi nghiêng nước, nghiêng
thành. Vậy mà cuộc đời họ thế nào? Cuộc đời họ là cả một bể khơi nước mắt oán sầu, là cả một đại
dương mênh mông, dồn dập những cơn sóng khổ đau bão tố. Thuý Kiều mười lăm năm lưu lạc nơi góc
bể chân trời, chữ hiếu, chữ tình dày vò khôn xiết. Tiểu Thanh như hoa xuân lìa đời khi vừa chớm nở,
vừa bén hương đời. Và cô gái gảy đàn ở thành Thăng Long lộng lẫy ngày nào nay chỉ còn lại:
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang.
(Long Thành cầm giả ca)
(Nét mặt võ vàng thần sắc khô khan, thân hình hơi nhỏ,
Đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm.)
Người ca nữ Long Thành trở thành hình ảnh tiêu biểu cho số phận bi kịch của người phụ nữ trong
xã hội xưa. Viết về chủ đề “kỹ nữ”, Nguyễn Du có lẽ cũng đã tiếp nhận những âm vang trong “Tì bà
hành” của Bạch Cư Dị song nhà thơ đã đem lại cho “Long thành cầm giả ca” một âm điệu khác. Số
phận của người ca nữ được lồng trong số phận của thời đại. Trống trận Tây Sơn mạnh mẽ dữ dội thế,
các quan Tây Sơn kiêu bạc, hào hoa là thế, vậy mà cuối cùng cũng tiêu vong:
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca nữ không di nhất nhân tại.
(Long Thành cầm giả ca)
(Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết cả rồi
Chỉ còn sót lại một người ca múa!)
Trăm năm như chớp mắt. Ruộng dâu hoá biển xanh. Giai nhân có tiếng đàn kỳ diệu bậc nhất kinh
thành đã tiều tụy, vàng võ, nhà thơ cũng đã bạc đầu vì mãi than thở trong gió thu. Triều Lê đã suy
vong, Tây Sơn cũng sụp đổ. Tạo hoá chóng đổi dời, để lại cho lòng người nỗi buồn thương vô hạn! Ấy
là nỗi buồn không chỉ dành cho một con người, một số phận, mà còn là nỗi khắc khoải hướng về thời
đại, hướng về nhân loại đau khổ.
Văn học trung đại Việt Nam, khó có ai viết hay và thấm thía về người phụ nữ như Nguyễn Du. Dù
là người đã từng có duyên gặp gỡ hay chỉ là người chưa một lần thấy mặt, nhà thơ đều có những rung
cảm, nỗi niềm:
Sơn vân tước lược ngan hoa minh,
Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh.
Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.
Tiêu tiêu Nam Nội bồng cao biến,
Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình.
Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ,
Đông phong thành hạ bất thăng tình.
(Dương Phi cố lý)
(Mây núi thưa thớt, hoa bên bờ sông sáng rõ,
Nghe nói Dương Phi sinh ở đất này.
Từ đấy cả triều đều là người đứng như phỗng,
Mà nghìn năm còn đổ tội oan cho người đẹp khuynh thành.
Cung Nam Nội hiu hắt, cỏ bồng mọc cao khắp,
Đồng Tây Giao yên lặng, gò đống san bằng.
Cánh hồng tàn rơi tơi tả biết tìm thấy ở đâu,
Dưới thành gió đông thổi khiến lòng ngậm ngùi không kể xiết.)
Dương Phi, thiếp yêu của Đường Minh Hoàng, người đẹp khuynh thành của đất nước Trung Hoa.
Người cũ giờ đây đã không còn. Bàng bạc, mênh mang trong bài thơ là cảnh thực tại. Nỗi buồn len lỏi
qua từng địa danh. Nam Nội, Tây Giao, nơi hạnh phúc, nơi bi kịch giờ chỉ còn lại gò đống san bằng, cỏ
bồng mọc khắp. Phảng phất trong gió lạnh hiu hắt hình ảnh người con gái phải thắt cổ chết bên đèo Mã
Ngôi. Số phận Dương Quý Phi làm ta liên tưởng đến số phận nàng Đexđêmôna trong bi kịch Sếch-
xpia. Dương Phi vô tội, Đexđêmôna trong trắng nhưng cuối cùng đều phải nhận một kết thúc đau lòng.
Cái đẹp làm người yêu quý và khiến người ngậm ngùi không sao kể xiết khi nó bị chà đạp, dập vùi.
Sếch-xpia hay Nguyễn Du cũng đều vì lý tưởng nhân văn cao cả ấy mà lên tiếng!
Nguyễn Du trân trọng người phụ nữ. Ông thương cảm cho từng giọt nước mắt của hai bà phi tìm
chồng, thổn thức cùng tiếng hát và màu cỏ Ngu Cơ. Nhưng với Dương Phi, Nguyễn Du đã khẳng khái
lên tiếng bênh vực nàng. Đexđêmôna cũng phải chết nhưng sau đó được rửa nỗi oan. Còn Dương Phi,
nghìn năm dưới đất lạnh vẫn ôm mối hờn. Sắc đẹp của người con gái ấy đã không có chốn dung thân
một cách bình yên giữa cuộc đời. Dương Quý Phi, Đắc Kỷ, Tây Thi hay Điêu Thuyền cả hàng nghìn
năm vẫn bị coi là mầm họa khuynh quốc, khuynh thành, là nguyên nhân gây nên sự suy vong của triều
đại. Nguyễn Du đi ngược lại với cách nhìn, cách nghĩ ấy. Sắc đẹp nào có tội tình! Loạn lạc, chiến tranh
là do đâu, nếu không phải vì triều đình chỉ biết “đứng như phỗng”? Xã hội phong kiến, xã hội nam
quyền rẻ rúng người phụ nữ, đẩy họ xuống tận dưới đáy cuộc đời. Vậy mà khi triều cương thối nát, thế
sự đảo điên thì lại đổ vấy mọi tội lỗi cho họ. Chỉ một mình Dương Phi phải gánh lấy trách nhiệm từ sự
vô dụng, mục nát của cả triều đình! Nỗi oan ấy của khách giai nhân, chỉ cặp mắt yêu thương sâu sắc
của Nguyễn Du mới thấu tỏ. Linh hồn người đẹp từ nghìn năm có lẽ cũng đã bớt phần lạnh lẽo, u
uất.
Thương xót, bênh vực – như thế vẫn chưa đủ, vị quan dường như còn muốn giành lấy quyền sống,
giành lấy niềm hạnh phúc lứa đôi cho người phụ nữ từ xã hội nam quyền. Ở “Thanh Hiên thi tập”, nhà
thơ đã từng mạnh mẽ lên tiếng:
Thạch gia, nhân gia, bỉ hà nhân?
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân.
Vạn kiếp yểu vô vân vũ mộng
Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân.
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ
Đài triện trường minh nhất đoạn văn.
Tứ vọng liên sơn diểu vô tế,
Độc giao nhi nữ thiện vô luân.
(Vọng phu thạch)
(Đá chăng, người chăng, đấy là người nào?
Đứng một mình nơi đầu núi nghìn trăm năm.
Muôn kiếp không hề có giấc mộng mây mưa
Một chữ trinh lưu lại chữ trinh cho muôn thuở.
Ngấn lệ không ngừng rơi như mưa ba tháng thu
Dấu rêu nét chữ triện như một đoạn văn được khắc lại mãi mãi.
Nhìn bốn phía núi liền nhau mênh mông,
Riêng để người nữ nhi giữ đạo luân thường.)
Đá vọng phu, tấm gương kiên trinh đứng sừng sững giữa trời đất tự bao đời. Hết ngày này sang
tháng khác, mặc cho mưa gió dập vùi, tượng vẫn đứng trơ, mắt hướng về phía phương trời xa, mòn mỏi
chờ đợi một bóng hình. Tuyết sạch giá trong, nàng vọng phu đạp dưới chân giấc mộng mây mưa, đội
trên đầu biết bao đạo lý cao đẹp của cuộc đời.
Vậy mà tượng vọng phu ấy bước vào trang thơ Nguyễn Du thì có gì như khắc khoải, có gì như
đau đớn. Nhà thơ dồn dập đặt câu hỏi, là đá hay là người? Mà người thì là ai? Ai mà một mình phải
đứng nơi đầu núi hàng nghìn trăm năm như vậy? Ai mà muôn kiếp không hề có giấc mộng mây mưa?
Ai mà ngấn lệ không ngừng rơi như mưa ba tháng thu thế kia? Để có “một chữ trinh” mà phải “lưu lại
tấm thân cho thiên cổ” vậy sao? Chao ôi, vì một chữ trinh mà cái thân người bất hạnh phải treo đó,
phải chịu vùi dập ở đó suốt kiếp! Không phải suốt kiếp người. Không chỉ suốt kiếp người. Là suốt kiếp
đời. Là suốt kiếp nhân gian. Hàng ngàn đời, hàng ngàn thế hệ, người phụ nữ vẫn phải đem tấm thân
mình ra mà đoạ đày, mà làm cho khô héo để đổi lấy “một chữ trinh” ! Vì sao lại phải như thế? Nguyễn
Du phẫn nộ đi tìm câu trả lời. Nhìn bốn phía chỉ thấy núi mênh mông, nhìn cuộc đời chỉ thấy “riêng để
người nhi nữ giữ đạo luân thường”. Dường như bao ngang trái, bất công giữa cuộc sống này đều “dành
riêng” cho người phụ nữ! Cám cảnh biết mấy, đau thương biết mấy, oán giận biết mấy! Vị quan như
muốn xô ngã bức tượng vọng phu, xô ngã cái cảnh tượng đau lòng ấy đi mà cũng là muốn xô ngã cả
thành trì ác nghiệt của luân lý, đạo đức phong kiến. Xô ngã đi để cho người phụ nữ thấy được ánh sáng
mùa xuân, thấy được một con đường hạnh phúc!
Tấm lòng yêu thương của Nguyễn Du là thế, sâu sắc nhất, chạm đến những vấn đề nhân bản nhất
cũng vì vậy mà dễ lay động lòng người nhất.
*
* *
Nguyễn Du, thấm thía bi kịch đời mình, thời đại mình và xúc động sâu xa trước bi kịch của những
linh hồn nghìn xưa tiết nghĩa. Một mặt, những bi kịch ấy xảy ra là do đâu, ông không thể giải thích nổi.
Ông hoang mang đi tìm câu trả lời ở tận trời cao, băn khoăn về chữ mệnh, chữ tài. Mặt khác, những
năm tháng lăn lóc giữa bùn lầy, tiếp xúc với nhiều hạng người khác nhau, Nguyễn Du nhận ra trong xã
hội luôn luôn tồn tại sự đối nghịch: giàu sang – cơ hàn; phú quý – nghèo hèn, với hai lực lượng đối lập
nhau: một bên là những người đói rách không có áo mặc, không có cơm ăn, tài không được trọng dụng,
sắc không được nâng niu và một bên là những kẻ thừa mứa vây cá gân hươu, xênh xang áo gấm ngựa
xe, mọi quyền thế nắm trong tay. Nguyễn Du khi viết về những con người bất hạnh, rất tự nhiên, luôn
nối một sợi dây liên tưởng với những kẻ đứng ở thế đối lập. Điều đó giúp người đọc khái quát được
bản chất của cuộc sống trong xã hội cũ: sự giàu sang, vinh hiển, quyền quý của lớp người này bao giờ
cũng là nguyên nhân của sự nghèo túng, cơ cực, khổ đau của lớp người khác. Hạnh phúc bao giờ cũng
chỉ là tấm chăn hẹp, người này tham lam kéo quá mạnh tay thì tất người khác phải chịu cảnh lạnh giá.
Câu hỏi về lẽ đời, về số mệnh mà Nguyễn Du cả đời vẫn khắc khoải đi tìm đã được trả lời thấm thía
bằng chính những hình tượng thơ. Mặc dù chưa thể tìm thấy câu trả lời nhưng chỉ như thế, tầm nhìn
của nhà thơ cũng đã vượt ra rất xa khuôn khổ thời đại mình.
3.3. NHỮNG KẺ BẤT NGHĨA, GIAN ÁC, XẤU XA
Lịch sử nhân loại cũng là lịch sử của cuộc đấu tranh bi tráng của con người để bảo vệ lý tưởng
nhân văn cao cả. Trong cuộc đấu tranh ấy con người đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt, bằng
máu huyết, bằng những bi kịch đau lòng. Nguyễn Du, với cảm hứng trung thực của một nhà thơ lớn, từ
chỗ thương khóc cho sự oan uổng của những kiếp tài hoa đã tiến đến chỗ vạch ra được một cách không
tự giác, bản chất của xã hội phong kiến thời suy tàn: đó là sự chà đạp lên quyền sống và nhân phẩm con
người, là sự tan vỡ không thể cứu vãn của mọi giá trị đạo đức đẹp đẽ nhất.
Như vậy, trong “Bắc hành tạp lục”, bên cạnh hình ảnh những linh hồn tài hoa, tiết liệt ta còn thấy
hiện lên chân dung của những kẻ gian ác, xấu xa. Nguyễn Du viết không nhiều về các nhân vật gian ác.
Chỉ vài bài, vài nét phác họa nhưng đó là những bức vẽ không thể lẫn lộn vào đâu và không dễ gì quên
được.
Đứng trước bức tượng tạc hình vợ chồng Tần Cối – Vương Thị, Nguyễn Du làm liền bốn bài thơ,
lời lẽ đanh thép, sắc sảo:
Như thử tranh tranh chân thiết hán
Nại hà mĩ mĩ sự Kim nhân?
Thuỳ vân ư thế vô công liệt?
Vạn cổ do năng cụ loạn thần.
(Tần Cối tượng I)
(Trông vẻ cứng cáp như thế kia rõ là một con người sắt thép,
Mà sao lại khúm núm thờ lũ người Kim?
Ai bảo nó không có công trạng gì góp cho đời?
Nó vẫn làm gương cho bọn loạn thần muôn đời sau phải e sợ.)
Tần Cối là Ngự sử trung thừa đời Tống Khâm Tông. Khi hai cha con nhà vua bị người Kim bắt,
Tần Cối đi theo, sau được người Kim thả về Nam Tống, làm chức tể tướng. Cối chủ trương đầu hàng
Kim, lập mưu giết Nhạc Phi và nhiều trung thần nghĩa sĩ khác. Người đời sau dựng tượng Tần Cối quì
chịu tội ở chân miếu Nhạc Phi, thường lấy gậy đánh vào đầu vào mặt tượng. Tần Cối trở thành hiện
thân của lũ người phản trắc, bán nước cầu vinh, hãm hại bậc trung thần.
Nguyễn Du luôn nhắc đến những linh hồn cô trung, tiết nghĩa với nỗi tiếc thương vô hạn. Bởi lẽ
sự hiểm hóc chốn quan trường, Nguyễn Du đã thấm thía. Triều Tống hay triều Nguyễn, ở đâu cũng có
những “con oanh ghen nhau sắc đẹp”, có những “dì gió vốn tính chua ngoa. Và cái lẽ:
Thời lai đồ điếu thành công dị, Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
(Đặng Dung, Cảm hoài)
(Gặp thời thì anh hàng thịt, người câu cá cũng dễ làm nên công lớn
Vận đã hết thì anh hùng cũng chỉ uống hận mà thôi.)
thì Nguyễn Du càng thấm thía. Uống nỗi hận đắng cay của đời mình, Nguyễn Du thương xót mối hận
của người anh hùng Nhạc Phi. Thương xót Nhạc Phi bao nhiêu lại căm giận Tần Cối bấy nhiêu. Nói
đến Tần Cối mà cũng là nói đến lũ gian thần cả đời buôn công danh bổng lộc trên máu xương và sự đau
thương của người khác. Nguyễn Du buông lời mỉa mai: “Ai bảo nó không có công trạng gì góp cho
đời”, nó cũng có công lớn ấy là làm tấm gương răn đe bọn loạn thần đời sau.
Tiếp tục cảm hứng ở bài thơ thứ nhất nói về Tần Cối, ở bài thứ hai lời lẽ của Nguyễn Du sắc sảo
lạ thường:
Nhất thế tử tâm hoài đại độc,
Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan.
(Tần Cối tượng II)
(Suốt đời trái tim chết chứa đầy nọc độc,
Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ.)
Viết về lịch sử, không bao giờ Nguyễn Du nhìn bằng con mắt lãnh đạm, thờ ơ. Mỗi nhân vật lịch
sử hiện lên trong trang thơ đều mang theo tâm huyết, sự trăn trở, chiêm nghiệm của thi nhân. Đọc thơ
Nguyễn Du, ta không khỏi bất ngờ trước những nhận xét rất mới có khi là táo bạo của nhà thơ. Thăm
mộ Lưu Linh, Nguyễn Du phê phán Lưu Linh chủ trương theo thuyết “tự nhiên” sao còn tiếc chi xác
phàm của mình. Nguyễn Du cũng nhìn thấy trong chiếc gươm ngắn của Kinh Kha hôm nay là gậy gộc,
bão táp nổi lên giữa thời đại ngày mai. Và nhìn tượng Tần Cối, nhà thơ không nhắc đến nỗi oan khiên
của Nhạc Phi mà lại thương cho cục sắt người đời dùng tạc tượng Tần Cối nghìn năm phải mang nỗi
oan kỳ lạ. Đối với Nguyễn Du, Nhạc Phi và Tần Cối hai con người ấy là hai thái cực đối lập rõ ràng;
một bên là anh hùng, là dũng liệt còn bên kia là phản bội, là đê hèn. Đê hèn đến mức tên của Tần Cối
không xứng đáng được nhắc đến cùng với tên tuổi Nhạc Phi:
Đắc dữ trung thần đồng bất hủ,
Tề thiên kỳ phúc thái vô đoan.
(Tần Cối tượng II)
( Được cùng với bậc trung thần cùng bất hủ,
Cái phúc lạ tày trời của nó thật quá vô lý!)
Từ việc nhìn thấy nỗi oan của tượng sắt, Nguyễn Du phát hiện ra sự vô lý ở việc tên gian thần
được bất hủ cùng bậc trung thần. Sự vô lý ấy xuất phát từ một sự tồn tại của xã hội: khi nào còn cái
xấu, cái ác trên đời thì người ta vẫn còn phải nhắc đến tên tuổi của những kẻ xấu, kẻ ác để răn mình,
răn người. Và những phi lý ấy chỉ chấm dứt khi nào xã hội này không còn cái xấu, cái ác hoành hành.
Cuộc sống của con người xưa nay vẫn là cuộc đấu tranh bảo vệ những lý tưởng và phẩm chất người
cao đẹp.
Nguyễn Du, trong chừng mực nào đó có thể chưa giải thích thật đúng bản chất của cuộc sống.
Song vị quan yêu ghét không hề lẫn lộn, trái lại rất phân minh, rạch ròi. Viết về phụ nữ có ai mềm mại,
uyển chuyển, đầy xúc cảm, đầy thương yêu như Nguyễn Du? Người phụ nữ, trong con mắt Nguyễn
Du, là tài, là tình, là những gì đẹp đẽ, tinh tuý nhất mà cũng là khổ đau nhất của cuộc đời. Chợt nhớ đến
lời nhân vật Giả Bảo Ngọc trong “Hồng Lâu Mộng”: xương thịt, linh hồn con gái là do nước kết thành
cho nên họ luôn mềm mại, đẹp đẽ, trong trắng. Hướng về người phụ nữ, Nguyễn Du cũng hoàn toàn
trân trọng, nâng niu như thế. Vậy mà khi nói đến Vương Thị, vợ Tần Cối, giọng điệu của ông lại khác
hẳn:
Thiệt trường tam xích cánh hà vi?
Hảo dữ quyền gian bị xướng tùy.
(Vương Thị tượng I)
(Lưỡi dài ba tấc để làm gì?
Khéo cùng với tên quyền thần gian ác kết làm vợ chồng.)
Nguyễn Du mỉa mai Vương Thị “lưỡi dài ba tấc”, khéo chọn được phu quân là tên quyền thần
gian ác. Sau đó nhà thơ tỏ rõ thái độ lạnh lùng, khinh miệt:
Nhất sinh tâm tích đồng phu tế,
Thiên cổ hình hài nhục nữ nhi.
(Vương Thị tượng I)
(Bụng dạ một đời giống hệt như chồng,
Hình hài nghìn năm làm nhục cho phụ nữ.)
Đó là lời phán xét nghiêm khắc dành cho người đàn bà xấu xa. Nguyễn Du dường như muốn loại
trừ, dường như không hề muốn Vương Thị tồn tại trong thế giới thuần khiết của những người phụ nữ.
Người phụ nữ trong con mắt Nguyễn Du, là khổ đau, là đáng thương chứ không phải là kẻ gieo đau
khổ, tai họa cho người khác. Vì vậy, hình hài kia nghìn năm chỉ làm nhục cho người phụ nữ mà thôi!
Cũng như khi viet về Tần Cối, Nguyễn Du viết liền hai bài thơ nói về Vương Thị. Có lẽ nếu chỉ
trong một bài, thi nhân không thể giải tỏa hết nỗi u uất, oán giận trong lòng mình. Những lời lẽ khinh
miệt chưa bao giờ dùng để nói về người phụ nữ, Nguyễn Du đều “dành” cho Vương Thị, nào là: mưu
tính sâu kín, nào là bậc nhất trong loại “gà mái gáy sáng”, nào là sinh ra đã có sẵn ba tấc lưỡi “bất hủ”,
nào là “trọn đạo xướng tùy”. Có lẽ đây là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất Nguyễn Du tỏ ra khinh bỉ,
phẫn nộ trước người phụ nữ như vậy:
Mạc đạo nữ nhi vô lực lượng,
Dã tang hám phá Nhạc gia quân!
(Vương Thị tượng II)
(Chớ bảo đàn bà không có sức mạnh,
Chính thị đã từng phá tan quân của họ Nhạc.)
Trong những bài thơ Nguyễn Du viết về lịch sử, phần đầu bao giờ cũng là hình ảnh, hiện thực lịch
sử nhưng phần cuối là chính Nguyễn Du, là hiện thực thời đại Nguyễn Du! Vị quan như đang trừng mắt
điểm mặt gọi tên Vương Thị, thẳng tay kết tội: “chính thị đã từng phá tan quân của họ Nhạc!”. Cả đời
thương xót, bênh vực cho người phụ nữ, giờ ông phải thốt lên chua chát: “Chớ bảo đàn bà không có
sức mạnh”.
Nguyễn Du ít viết về nhân vật gian ác. Nhưng bài nào, nhân vật nào, vị quan cũng tỏ rõ thái độ,
cách đánh giá của mình. Đó là thái độ phủ nhận, phê phán; là cách đánh giá sắc sảo và khách quan.
*
* *
Bên cạnh những nhân vật gian ác, xấu xa, Nguyễn Du tỏ rõ lập trường và cái nhìn tỉnh táo của
mình khi hướng đến những nhân vật từng nắm giữ quyền thế lừng lẫy một thời nhưng chỉ biết mưu cầu
danh lợi cho bản thân. Họ không hẳn là kẻ ác nhưng họ là kẻ xấu, gian tham, ti tiện, đê hèn.
Nguyễn Du, hồi còn trẻ từng chống kiếm tựa mây xanh, tự ý thức mình là kẻ có tài. Nhưng rồi khi
con đường công danh mở rộng ra trước mắt thì vị quan lại ngao ngán hơn bao giờ hết. Sóng gió cuộc
đời và tầm nhìn rộng mở nhờ chuyến đi sứ làm cho ông càng thấm thía lẽ nhân sinh. Cái gì là có thực,
là bất biến à vĩnh hằng? Cái gì chỉ là hư vô, thoáng qua rồi bị cát bụi thời gian vùi lấp? Tên tuổi con
người lưu danh hậu thế nhờ đâu? Có phải nhờ công danh, quyền lực?
Trong “Thanh Hiên thi tập”, Nguyễn Du từng bộc bạch:
Phù thế công danh khan điểu quá.
(Mộ xuân mạn hứng)
(Công danh trên phù thế xem như chim bay qua.)
Ở “Nam trung tạp ngâm” thì:
Phong xuy cổ trủng phù vinh tận
Nhật lạc bình sa chiến cốt cao.
(Ngẫu thư công quán bích III)
(Gió thổi vào nấm mồ xưa, vinh hoa hư ảo tan hết,
Mặt trời tà trên bãi cát, đống xương chiến trận đã cao.)
Đến “Bắc hành tạp lục”, đi qua các nẻo đường của đất nước Trung Hoa, tổng kết, chiêm nghiệm
những tấm gương tốt, xấu, Nguyễn Du càng thêm sang tỏ chân lý cuộc đời. Quyền lực, nếu chỉ để mưu
cầu danh lợi cho riêng bản thân, đi ngược lại với vòng quay của lịch sử thì rốt cuộc chỉ còn lại những
đống xương chiến trận chất cao, chỉ còn mặt trời và gió lạnh thổi vào những nấm mồ đổ nát. Nhưng
nếu quyền lực đưng về phía nhân dân, phục vụ cho nhân dân thì nó là đáng nhớ, đáng trọng, đáng biết
ơn. Vì thế Nguyễn Du đã hết lời biểu dương những nhân vật quyền lực biết vì nhân dân, vì con người:
Bạo Sở cường Tần tương kế tru,
Ung dung ấp tốn bá nam tu.
Tự ngu tận khả xưng hoàng đế,
Lạc thiện hoàn năng khuất thụ nhu.
(Triệu Vũ Đế cố cảnh)
(Nước Sơ, nước Tần là hai nước cường bạo đã nối nhau diệt vong,
Ông cứ ung dung nhún nhường nhận ngôi làm bá chủ phương Nam.
Tuỳ thích có thể xưng hoàng đế,
Vui điều thiện còn có thể chịu khuất với anh nhà nho ngu dốt.)
Nguyễn Du ca ngợi Triệu Vũ Đế là người thức thời, uyển chuyển trong xử thế. Vẻ ung dung nhún
nhường của Triệu Vũ Đế đối lập hẳn với “bạo Sở” và “cường Tần”. Nhờ “ung dung” thế mà Triệu Đà
có thể tuỳ thích xưng hoàng đế và cũng vì “cường”, vì “bạo” mà Sở và Tần nối nhau diệt vong. Nhờ
“nhún nhường” thế nên bờ cõi Nam Việt tránh được nạn núi xương sông máu. Cái “ung dung, nhún
nhường” ấy của Triệu Vương, các bậc đế vương đời này sang đời khác dễ gì có được?
Viết về các nhân vật quyền lực, bao giờ Nguyễn Du cũng tỏ ra tỉnh táo, sắc sảo. Biểu dương Triệu
Đà, nhà thơ không khỏi mỉa mai, phê phán khi nhắc đến những nhân vật cũng một thời xưng hùng,
xưng bá:
Lục thập lão nhân cân lực suy,
Cứ an bị giáp tật như phi.
Điện đình chỉ bác quân vương tiếu,
Hương lý ninh tri huynh đệ bi.
Đồng trụ cận năng khi Việt nữ,
Do hướng Nam trung sách tuế thì.
(Giáp thành Mã Phục Ba miếu)
(Người già sáu mươi thì gân sức suy,
Mà ông mặc áo giáp nhảy lên nhanh như bay.
Chỉ chuốc được nụ cười nhà vua ở sân điện,
Đâu biết nỗi buồn của anh chị em ở xóm làng.
Cột đồng trụ chỉ có thể lừa đàn bà đất Việt,
Xe ngọc châu rốt cuộc làm lụy con cái trong nhà.)
Viết về Mã Viện, Nguyễn Du không giấu được nụ cười mai mỉa. Người già sáu mươi thì có thể
suy gân sức chứ lòng ham danh vọng không giảm đi chút nào! Mã Viện nhảy lên lưng ngựa nhanh như
bay đâu chỉ nhờ sức mạnh gân cốt mà còn do sức mạnh của lòng tham thúc đẩy vậy. Bạc đầu rồi mà
vẫn còn làm trò xu nịnh nực cười, đổi nỗi buồn của anh em ở xóm làng để lấy nụ cười quân vương ở
sân điện. Cái danh “quắc thước tai thị ông” nghe mỉa mai thay!
Đối với những nhân vật “công danh che trùm đời, được ghi sổ sách” giống như Mã Viện, Nguyễn
Du luôn có cách đánh giá riêng:
Hợp tung bất tại khước cường Tần,
Đãn hướng sở thân kiêu phú quý.
Thích cổ nguyên vị quyền lợi mưu,
Ta hồ, thử nhân tiểu tai khí!
(Tô Tần đình II)
(Kế hợp tung chẳng nhằm chống nước Tần hùng mạnh,
Mà nhằm để kiêu căng khoe giàu sang với người thân!
Dùi đâm vế vốn là để mưu quyền lợi,
Than ôi! Người ấy khí độ nhỏ mọn thay!)
Trong mắt Nguyễn Du, Tô Tần chỉ là kẻ nhỏ mọn, hèn hạ, không đáng mặt bậc đại trượng phu.
Lấy dùi đâm vào vế đâu phải là hành động vì nghĩa lớn, chẳng qua là để được mot ngày có thể khoe
sang giàu với người thân. Tâm địa chỉ biết mưu cầu danh lợi cho nên cuối cùng:
Thư trung bão văn Tô Tần danh,
Đạo trung khước quá Tô Tần đình.
Xa mã kim ngọc dĩ vô tích,
Đình tiền chi thảo không thanh thanh.
Thế nhân đa độc Tô Tần truyện,
Do vi vị thế phú quý thương kỳ sinh.
(Tô Tần đình II)
(Trong sách, nghe danh Tô Tần đã lắm,
Nay trên đường đi lại qua đình Tô Tần.
Ngựa xe vàng ngọc không còn dấu vết,
Trước đình chỉ thấy cỏ mọc xanh tươi.
Người đời lắm kẻ đọc truyện Tô Tần,
Thế mà còn để địa vị, giàu sang làm hại đời mình!)
Ngựa xe, vàng ngọc cuối cùng chỉ còn lại cỏ mọc xanh tươi trước đình mà thôi. Thế mà người đời
sao vẫn mê mải chạy theo giàu sang, địa vị. Nói thế, nhưng Nguyễn Du vẫn biết rằng:
Kim cổ thùy năng phá thử mê.
(Tô Tần đình)
(Xưa nay, ai có thể phá được cái mê muội ấy!)
Đến như Tào Tháo, một đời tự phụ mình cơ trí hơn người. Nhưng rồi Tào Tháo đã làm được gì,
nếu không phải chỉ mãi luẩn quẩn trong vòng tranh quyền đoạt lợi đầy u mê?
Tư nhân thịnh thời thuỳ cảm đương?
Diểu thị hoàng đế, lăng hầu vương.
Chỉ hận tằng đài không luật ngột,
Tiểu Kiều chung lão giá Chu Lang.
(Đồng Tước đài)
(Người lúc ấy thịnh, nào ai dám chống lại?
Xem thường nhà vua, lấn lướt các vương hầu.
Chỉ hận mấy tầng đài xây cao sừng sững,
Mà nàng Tiểu Kiều đến già vẫn là vợ của Chu Lang!)
Tào Tháo là một nhân vật độc đáo và phức tạp của lịch sử Trung Hoa và cũng là nhân vật được
Nguyễn Du suy tưởng nhiều. Người Trung Hoa không ai không biết đến tài năng lỗi lạc của Tao Tháo.
Thế nhưng, tài năng ấy đã không được dùng đúng chỗ:
Uổng dụng nhất nhân vô hạn trí,
Không lưu vạn cổ hứa đa nghi.
(Thất thập nhị nghi trủng).
(Dùng mưu trí vô hạn của một người một cách uổng phí,
Chỉ để lại bao nỗi ngờ cho muôn đời sau.)
Tào Tháo mưu trí vô hạn nhưng mưu trí ấy lại bị dùng một cách uổng phí. Nếu xuất phát từ lập
trường nhân dân, lợi ích nhân dân, thì với tài trí ấy có lẽ tiếng thơm Tào Tháo đã lưu truyền muôn thuở
chứ đâu đến nỗi chỉ để lại bao nỗi ngờ cho người đời sau!
Xú danh mãn quách tàng hà dụng,
Tặc cốt thiên niên mạ bất tri.
(Thất thập nhị nghi trủng)
(Tiếng xấu đầy thành quách thì còn chôn dấu kỹ để làm gì?
Nắm xương tên giặc nghìn đời, bị chưi bới cũng chẳng hay biết.)
Tào Tháo, khi tranh hùng xưng bá, với tính cách gian hùng đa nghi, đã kết thù chuốc oán với biết
bao người. Sợ đời sau phạm đến mộ của mình, hắn đắp bảy mươi hai ngôi mộ giả để không ai biết mộ
thực của mình ở đâu. Hơn nữa, lúc sắp chết còn dặn bọn nàng hầu phải hàng ngày cơm nước, đàn địch
phục dịch như bình thường. Trong mắt Nguyễn Du, hành động ấy không phải là hành động của bậc
trượng phu lỗi lạc. Ngược lại, đó là hành động của tên giặc ngàn đời, làm đau lòng nước sông Chương
ngàn thuở.
Nghĩ đến người xưa, Nguyễn Du “xót nỗi mình” và thương cho kiếp phù sinh:
Như thư anh hùng thả như thử,
Huống hồ thốn công dữ bạc danh.
(Đồng Tước đài)
(Anh hùng đến như thế mà như thế
Huống nữa là kẻ chỉ có chút công nhỏ mọn và cái danh mỏng manh.)
Một đời tài trí, một đời xưng hùng như Tào Tháo vậy mà đến lúc chết chỉ để lại lời chửi bới trong
thiên hạ hàng nghìn năm. Huống chi những kẻ kém tài mỏng đức? Chỉ một câu thơ, một sợi dây liên
tưởng dang dở, Nguyễn Du kéo Tào Tháo, bài học của cuộc đời Tào Tháo về thời đại mình, thành bài
học thời đại mình. Lẽ thế thái nhân tình, một lẫn nữa Nguyễn Du lắc đầu ngao ngán:
Nhân gian huân nghiệp nhược trường lai,
Thử địa cao đài ưng vị khuynh.
(Đồng Tước đài)
(Nghiệp lớn ở đời nếu còn mãi được,
Thì toà đài cao ở khoảng đất này chắc chưa bị đổ!)
Đài Đồng Tước tráng lệ nguy nga xưa, nay chỉ còn lại “nền đài nghiêng lở”, “cỏ thu tàn úa”, “gió
lạnh gào giận dữ”. Hình ảnh ngôi đài sụp đổ cũng chính là biểu tượng của sự tan vỡ, suy vong không
thể cứu vãn nỗi của quyền lực, của những con người một đời chạy theo quyền lực!
Nguyễn Du từ chỗ phê phán đi đến phủ nhận giá trị của quyền lực, đưa ra bài học thấm thía cho
những kẻ vẫn còn thiết tha với giấc mộng tranh quyền đoạt lợi. Bên cạnh Tào Tháo hùng trấn một thời
nhưng để lại “xú danh” muôn thuở, còn có hình ảnh ngậm ngùi của người anh hùng thất chí:
Bạt sơn giang đỉnh nại thiên hà?
Túc hận du du ký thiển sa.
Bá Thượng dĩ thành thiên tử khí,
Trướng trung không thính mỹ nhân ca.
(Sở Bá Vương mộ I)
(Có sức dời núi nhấc vạc nhưng làm gì được mệnh trời?
Mối hận cũ dằng dặc gửi dưới lớp cát mỏng.
Đất Bá Thượng đã hiện ra khí thiên tử,
Trong màn luống nghe tiếng hát của người đẹp.)
Hạng Vũ khởi binh cùng Lưu Bang tranh đoạt thiên hạ, cuối cùng bị thua phải chạy đến Ô Giang
rồi tự vẫn. Nhận xét về Hạng Vũ, Tư Mã Thiên viết: Hạng Vũ trong tay không có quyền bính gì, thừa
kế nổi lên nơi thảo dã, trong ba năm liền đem năm nước chư hầu, ban ra chính lệnh và tự xưng là bá
vương, địa vị tuy không trọn vẹn nhưng từ cổ đến nay chưa hề có người nào như thế! [44, tr.377].
Nguyễn Du dường như không mấy để tâm đến điều ấy. Ông thổn thức cùng tiếng hát bi thiết của mỹ
nhân, đau lòng trước nước mắt anh hùng lau chẳng ráo:
Cập thức bại vong phi chiến tội
Không lao trí lực dữ thiên tranh.
(Sở Bá Vương mộ II)
(Đến khi biết bại vong không phải do tội đánh trận kém,
Mới hay đem trí lực tranh với trời chỉ uổng công.)
Quyền lực đâu thể trường tồn cùng trời cao. Vậy thì đem trí lực của bản thân ra tranh đoạt mà làm
gì, để ngàn năm còn chưa lau khô giọt lệ? Xưa nay anh hùng không đạt được sở nguyện đều tự cho
rằng trời chẳng chiều lòng người. Chu Công Cẩn cũng từng thầm oán giận: “Trời đã sinh Du sao còn
sinh ra Lượng?”. Ấy là nỗi lòng của kẻ không chấp nhận người khác hơn mình. Sở Vương, Chu Du cho
đến lúc chết còn mang mối hận ấy!
Tào Tháo gian hùng, Mã Viện tham danh, Tô Tần ti tiện. Trong con mắt của Nguyễn Du, tất cả
chỉ còn lại hoang tàn, đổ nát. Hình ảnh cỏ thu, gió lạnh, chiều tà, thành nghiêng, quách lở cứ láy đi láy
lại trong những trang thơ tựa một điệp khúc não nề. Tất cả như muốn nói với hậu thế về sự hư ảo, phù
phiếm của vinh hoa, danh lợi.
Như vậy, trong thế giới nhân vật lịch sử mà Nguyễn Du xây dựng nên, luôn tồn tại hai kiểu nhân
vật đối lập: những người tài tình, tài hoa mà cuộc đời hẩm hiu và những kẻ gian ác, phản bội, xu thời,
vô dụng. Không phải ngẫu nhiên mà hai hình tượng nhân vật ấy song song tồn tại trong cùng một bài
thơ, cùng một tập thơ. Có thể thấy, từ cảm hứng ca ngợi, yêu thương, Nguyễn Du đã tiến dần đến cảm
hứng hiện thực. Vạch ra được hình ảnh của một loại người gian tà trong cuộc sống, cũng tức là đã cụ
thể hoá được “số mệnh” bằng một lực lượng xã hội nhất định. Nguyễn Du vừa là hiện thân của thời đại
vừa đi xa hơn, đi trước thời đại chính là ở đó.
Nguyễn Du bị ám ảnh với chữ “tài” và chữ “mệnh”. Cuộc đời ông u uất, day dứt về những câu hỏi
tự mình không thể trả lời mà cũng chẳng thể hỏi ai. Tuy nhiên, nếu những mặt bế tắc trong tư tưởng
muốn dắt Nguyễn Du đến chỗ buông xuôi theo định mệnh thì hiện thực cuộc sống lại giúp Nguyễn Du
phát hiện ra vẻ đẹp của cuộc đời, làm cho vị quan thao thức không nguôi trước số phận con người, căm
giận bừng bừng trước những thế lực đen tối, gian ác chà đạp quyền sống và mọi gia trị đẹp đẽ. Ông đau
xót, u uất khi viết về những linh hồn tài hoa bạc mệnh đồng thời đanh thép, sắc sảo khi viết về những
con người xấu xa. Người đọc tự giác nhận ra rằng thế lực xấu xa ấy đã chà đạp tài hoa, vùi dập nhân
phẩm, đem đến đau khổ, tan vỡ, bất hạnh cho con người. Đó mới thực là logic của cuộc sống, là căn
nguyên của mọi vấn đề. Nguyễn Du, trong tầm hạn chế của thời đại, chưa thể nhận ra điều đó song
hình tượng thơ, tự thân nó có thể cất lên tiếng nói. Hiện thực sắc nét trong tác phẩm đã bác bỏ quan
niệm tài mệnh tương đố ám ảnh Nguyễn Du.
*
* *
Theo quan niệm của người xưa, lương y và lương tướng cũng chỉ là một, chỉ khác ở chỗ một bên
chữa bệnh cho người, một bên chữa bệnh cho nước. Nguyễn Du không chỉ chữa bệnh cho nước, ông
muốn chữa bệnh cho cả xã hội, cả cuộc đời này cho nên suốt quãng đường làm quan, ông không trăn
trở vì những chức phận lớn nhỏ, vì bổng lộc công danh mà mải miết suy tư tìm lời giải đáp cho những
vấn đề mình quan tâm, nung nấu. Hiện lên trong thơ chữ Hán không chỉ là hình ảnh một vị quan triều
Nguyễn mà là tầm vóc của một nhà tư tưởng.
Tư tưởng của Nguyễn Du trước hết là tư tưởng nhân đạo. Tấm lòng nhân đạo là dấu ấn lớn nhất,
sâu đậm nhất của Nguyễn Du và thơ Nguyễn Du: Lòng thương người bao la của Nguyễn Du giống như
tấm áo cà sa của nhà sư trong một câu chuyện cổ tích phật giáo đã bao trùm lên tất cả [24, tr.357].
Phải, trước hết và trên hết, tấm lòng yêu thương con người của nhà thơ rộng mở đến vô cùng. Không
một đối tượng nào gặp bất hạnh, thiệt thòi mà không được Nguyễn Du đồng cảm, thương xót. Cũng
không một ranh giới lãnh thổ, thời gian nào ngăn cản được giọt lệ ấm áp tình người của nhà thơ. Trên
những nẻo đường Trung Hoa, vị quan chánh sứ của Việt Nam ít có dịp thảnh thơi thả hồn theo những
phong cảnh diễm lệ, tuyệt mĩ; cũng ít để tâm đến việc gặp gỡ, thù tiếp với các bậc tao nhân mặc khách
xứ người. Điều làm cho nhà thơ không thể rời mắt, không thể điềm nhiên là cảnh nhân dân đói khổ,
phiêu tán, nằm chết bên vệ đường, những chiếc hột táo trong túi rơi ra. Là cảnh hai ông cháu người hát
rong mù nhẫn nhục đến tội nghiệp, chua xót. Là cảnh bốn mẹ con người hành khất lấm lem bên cong
rãnh, con thơ ngây ngô mỉm cười mà mẹ nước mắt nghẹn ngào, không dám ngước mặt lên nhìn người
qua lại. Trái tim Nguyễn Du bồi hồi khắc khoải trước hiện thực rướm máu ấy. Giọt lệ thương cảm rơi
xuống làm mặn chát, đắng nghét cả những thức sơn hào hải vị người ta bày la liệt để đón tiếp sứ thần.
Nguyễn Du là vậy, như một cây đại thụ luôn mở lòng lắng nghe âm vang của từng chiếc lá rơi
khẽ dưới chân mình và lắng nghe cả âm vang của những thanh âm từ quá khứ vọng về. Bao nhiêu bài
thơ viết về những linh hồn nghìn xưa tiết nghĩa là bấy nhiêu lần vị quan thổn thức khóc thương cho họ.
Những bậc thánh nhân để lại đức trọng muôn đời, những bậc trung thần, nghĩa sĩ danh thơm lưu truyền,
những tấm lòng cô trung phải nhận cái chết thảm khốc, những người phụ nữ tài sắc nghiêng thành bị xô
đẩy, vùi dập. Chỉ riêng trong những vần thơ Nguyễn Du viết về người phụ nữ cũng đủ thấy tấm lòng
yêu thương của nhà thơ thẳm sâu đến nhường nào. Hình tượng người phụ nữ ngời sáng trong thơ
Nguyễn Du, lấp lánh muôn sắc hương diệu kì. Nguyễn Du gọi họ là “báu vật kinh thành”, là hoa, là
ngọc. Họ bất hạnh, họ khổ đau nhưng tâm hồn họ vẫn toát lên vẻ đẹp trong sạch, thuần khiết. Nguyễn
Du thương xót họ, đồng thời ngưỡng mộ, kính trọng họ. Ông bồi hồi khi gặp lại người ca nữ đánh đàn
Cầm ở thành Thăng Long, nghiêng mình rót rượu viếng hai bà phi khóc hết nước mắt tìm chồng và
không ngần ngại lên tiếng bênh vực cho Dương Quý Phi – mầm họa khuynh thành của triều đại vua
Đường. Cuộc đời của cô Cầm, Dương Phi trong “Bắc hành tạp lục” đã khơi dậy ngọn nguồn yêu
thương trong tâm hồn Nguyễn Du để dâng trào thành những con sóng yêu thương dạt dào vỗ theo bước
chân nàng Kiều suốt mười lăm năm lưu lạc sau này.
Vượt lên trên sự thương yêu, đồng cảm là sự nhập thân. Nguyễn Du nhập thân mình vào người để
thấy hết nỗi bi thương mà người phải gánh chịu. Nguyễn Du nhắc nhiều đến hình ảnh các nhà thơ
Trung Quốc: Liễu Tông Nguyên, Văn Thiên Tường, Khuất Nguyên và cảm động nhất là hình ảnh Đỗ
Phủ. Đỗ Phủ một đời tài hoa không ai sánh bằng mà cùng quẫn cũng không ai bằng Đỗ Phủ. Suốt cả
ngàn năm, người ta chỉ ca ngợi Đỗ Phủ, khao khát cái danh “thầy thơ muôn đời” của Đỗ Phủ chứ có ai
hiểu Đỗ Phủ, xem Đỗ Phủ là tri kỉ như Nguyễn Du. Xưa Đỗ Phủ từng “độc đăng đài”, nay Nguyễn Du
“độc bi”. Đó là sự cộng hưởng lớn lao giữa hai tâm hồn lớn, sự giao hoà của hai bản nhạc lòng uất
nghẹn, bi thương. Đọc thơ Nguyễn Du ta thương Đỗ Phủ. Thương Đỗ Phủ lại càng thương Nguyễn Du!
Xuất phát từ tình thương bao la với mọi kiếp người, Nguyễn Du thường lớn tiếng phê phán kẻ ác,
kẻ xấu. Nguyễn Du thấy được nguyên nhân vì đâu những bậc trung thần phải ôm mối hận nghìn năm,
vì đâu những đấng tài hoa bị mai một cuộc đời. Vì đâu, nếu không phải do bọn tham quan ô lại tàn
nhẫn, nếu không phải do một hệ tư tưởng cay nghiệt ràng buộc con người. Tuy Nguyễn Du chưa nêu
bật được thành hệ thống song người đọc có thể nhận ra tư duy ấy thể hiện qua cảm hứng phê phán của
ông. Có lúc sự phê phán được biểu hiện qua nụ cười mai mỉa. Có lúc nó bật lên thành câu hỏi đau đáu
xót xa. Có lúc cảm hứng phê phán bộc lộ một cách sâu sắc, mãnh liệt. vị quan Nguyễn Du đã lên tiếng
phê phán người đời và phê phán cả chế độ xã hội nhẫn tâm vùi dập những giá trị tinh thần đẹp đẽ của
cuộc đời.
Lập trường phê phán của vị quan không phải là lập trường đạo đức phong kiến mà là lập trường
nhân sinh. Nguyễn Du đứng ở tầm cao thời đại để lên án những hành động, những tư tưởng, những thế
lực đi ngược lại với quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Vừa dạt dào yêu thương vừa bừng
bừng căm giận, tấm lòng nhân đạo của vị quan Nguyễn Du khong chỉ có nước mắt nghẹn ngào mà có
sự đấu tranh mạnh mẽ với cái xấu cái ác. Tấm lòng nhân đạo ấy vì thế không chỉ an ủi, vỗ về mà còn
lay động và có cả sự thức tỉnh.
Yêu thương hay phê phán, thương cảm hay uất giận, tất cả đều là hai mặt của một bản thể thống
nhất : Nguyễn Du – nhà nhân đạo từ trong cốt tủy – vị quan hết lòng vì con người.
CHƯƠNG 4:
CON ĐƯỜNG HOẠN LỘ
VÀ NHỮNG TRIẾT LUẬN VỀ THẾ SỰ NHÂN SINH
Hình ảnh Nguyễn Du trên con đường hoạn lộ là một vị quan không tơ hào danh lợi, chán ngán
chốn quan trường nhưng muốn thực hiện lí tưởng của cuộc đời, yêu ghét phân minh, ôm trong mình
mối ưu tư không gỡ ra được - mối ưu tư lớn về cuộc đời. Bóng dáng một vị đại quan với những công
việc triều chính hiện lên mờ nhạt trong thơ ca và hiện lên sắc nét là hình ảnh một vị quan không nguôi
xúc cảm về cuộc đời. Không dừng lại ở những xúc cảm thông thường, không bằng lòng với những gì
tai nghe mắt thấy, vị quan Nguyễn Du luôn có xu hướng muốn nắm bắt, đúc kết, lí giải những quy luật
nhân sinh, thế sự. Đó là hình ảnh của một vị quan – nhà tư tưởng.
4.1. CÁI NHÌN MANG TÍNH PHẨN VỀ LỊCH SỬ
Từ việc gặp gỡ những cảnh đời, những số phận cụ thể trên con đường hoạn lộ, Nguyễn Du luôn
có cái nhìn phản tỉnh vô cùng sắc bén về lịch sử. Cái nhìn ấy mới lạ và độc đáo so với thơ vịnh sử, thơ
đi sứ của các vị sứ quan Việt Nam trước đó, mà cũng là mới lạ so với cách nhìn nhận, đánh giá của
người Trung Quốc.
Từ xưa đến nay, người Trung Quốc vẫn xem vợ chồng Tần Cối là kẻ bán nước hại dân, là quân
gian tặc, hãm hại trung thần. Vì thế, họ dựng tượng Tần Cối quì chịu tội dưới chân miếu Nhạc Phi,
thường lấy gậy đánh đập, phỉ nhổ vào đầu, vào mặt tượng. Cách làm này đã tồn tại gần một ngàn năm
qua. Đứng trước tượng vợ chồng Tần Cối, Nguyễn Du cũng căm giận những tên bán nước cầu vinh
nhưng nhà thơ lại không đồng tình với cách làm ấy:
Đả mạ hà thương nhất giả nhân.
(Tần Cối tượng I)
(Đánh mắng có làm đau đớn gì cái thân giả ấy?)
Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan.
(Tần Cối tượng II)
(Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ.)
Ai cũng nghĩ phỉ nhổ, đánh đập vào tượng là có thể trừng phạt Tần Cối, Vương Thị. Trong con
mắt nhà thơ, tượng chỉ là đống sắt thép, vôi vữa, chúng chỉ mang dáng hình của kẻ bán nước, chúng
nào có tội tình gì! Bậc hiền tài như Nhạc Phi bất tử là tất yếu, cớ sao những kẻ gian ác cũng được
trường tồn? Dáng hình của chúng không xứng được đứng cạnh danh nhân! Cách nhìn, cách nghĩ ấy của
nhà thơ là cả một sự biến đổi tư duy lớn lao mà không phải ai cũng làm được.
Ở những bài thơ viết về Khuất Nguyên, Nguyễn Du cũng thể hiện rất nhiều suy nghĩ sắc sảo như
thế. Để tưởng nhớ Khuất Nguyên, hàng năm cứ đến ngày mùng 5 tháng 5, người Trung Quốc lại tổ
chức đua thuyền tượng trưng cho việc tìm thi thể của nhà thơ. Nguyễn Du đứng trên bờ xem đua
thuyền chỉ thấy đó là trò đua tranh vô nghĩa lý. Trông khói sóng mênh mang, nghe trống chiêng rộn rã,
lòng Tố Như càng thêm đau thương oán giận. Khi Tống Ngọc viết bài “Chiêu hồn” để viếng Khuất
Nguyên, gọi hồn Khuất Nguyên về, Nguyễn Du lại làm bài “Phản chiêu hồn”, phản bác ý của Tống
Ngọc. Đó là một việc làm rất kỳ lạ! Xưa nay người ta chiêu hồn chứ có ai phản chiêu hồn như Nguyễn
Du! Bằng việc làm lạ lùng ấy, Nguyễn Du đã đặt ra những vấn đề về văn hóa, về con người, về thời
đại, về cuộc đời như cách Shakespeare đặt vấn đề To be or not to be trong Hamlet.
Thái tử Hamlet là một chàng trai đang độ hoa niên, là một chàng trai hoạt bát vui vẻ đang háo
hức, say sưa với cuộc sống và tình yêu thì bỗng nhiên bị gọi về quê nhà để chịu tang vua cha. Khi trở
về Đan mạch, chàng phải đối diện với những sự thật cay đắng làm cho cuộc đời chàng mang một màu
tang u uất. Bao nhiêu giá trị tốt đẹp mà bấy lâu chàng tôn thờ bỗng chốc bị sụp đổ. Trước hết đó là
niềm tin vào người mẹ của mình, một người mẹ mà bấy lâu nay chàng thương yêu quý trọng bỗng
nhiên đột ngột lấy người chú, em chồng của mình, kém xa đức vua chồng cũ của bà ta về cả ngoại hình
lẫn đức độ. Sự đổ vỡ trong tình mẫu tử đã làm chàng nghi ngờ phụ nữ nói riêng và nghi ngờ vào con
người nói chung, chàng nhận ra bi kịch lãng quên của người đời: nếu một đức vua mà mới hai tháng đã
quên rồi thì một danh nhân chắc là được năm tháng. Phần cuối vở kịch, thông qua câu chuyện đầy khôi
hài nhưng chua chát của hai tên phu đào huyệt chúng ta càng thấy rõ tâm trạng đỗ vỡ của Hamlet đối
với sự lãng quên, sự phũ phàng của người đời. Trước ông chú tham lam, phạm những tội ác trầm trọng
mà vẫn nhởn nhơ, Hamlet thất vọng một cách sâu sắc về quan hệ giữa con người với con người, quan
hệ họ hàng thân thích. Những giá trị tốt đẹp mà chàng tôn thờ bị chính những người thân yêu nhất của
chàng chà đạp, dày xéo không thương tiếc.
Bi kịch của Hamlet ban đầu chỉ là bi kịch của một gia đình, là sự đỗ vỡ trong quan hệ vợ chồng,
quan hệ anh em, quan hệ mẹ con. Nhưng gia đình Hamlet lại là một vương triều nên bi kịch gia đình
trở thành bi kịch của một dân tộc thậm chí của cả nhân loại. Hamlet nhận ra bản chất của bọn vua chúa,
bản chất của những tên quan gian ác, lọc lừa như Polonius cho nên chàng đã thốt lên chua chát: thế
gian là một ngục thất mà Đan Mạch là một ngục thất ghê tởm nhất. Đó là một thời đại đảo điên, tan
tác. Hamlet bị cô lập giữa những con người và xã hội xấu xa, thối nát quanh chàng. Hamlet hoàn toàn
cô đơn trong thời đại của chàng.
Từ sự đổ vỡ các giá trị, từ bi kịch cô đơn của chính mình trước thực trạng đảo điên của xã hội,
Hamlet không ngừng suy tư. Với chàng, sống là phải sống sao cho ra Con Người, và chết cũng phải
chết cách nào đó để không hổ danh là Con Người. Vậy sống hay là không sống, tồn tại hay không tồn
tại. Sống mà cam chịu thì chẳng khác nào chết, theo chàng sống là phải chiến đấu để tiêu diệt khổ đau
và cái ác, phải khôi phục lại trật tự, làm cho cái thời đại đảo điên, tan tác của chàng trở nên ngay ngắn
vững vàng. Cuối cùng, Hamlet đã quyết định vung gươm.
Nếu Shakespeare phát hiện ra bi kịch thời đại ông qua bi kịch của Hamlet thì Nguyễn Du phát
hiện ra bi kịch thời đại mình qua bi kịch của Khuất Nguyên. Nếu Hamlet sụp đổ niềm tin, hoang mang
về cuộc đời, rơi vào nỗi cô đơn cùng cực; thì Khuất Nguyên bị cái xấu, cái ác ghen ghét, vùi dập, cô
lập, dồn vào bước đường cùng. Cũng như Hamlet, Khuất Nguyên là người cô tỉnh giữa thời đại tan tác
đảo điên. Và cũng như Hamlet, Khuất Nguyên bị đặt trong sự lựa chọn gay gắt: sống hay không sống,
tồn tại hay không tồn tại. Hamlet cuối cùng cũng phải ngã quỵ, Khuất Nguyên cuối cùng phải ôm đá
mà trầm mình dưới dòng Mịch La lạnh lẽo. Khi sống không ra sống, không được sống đúng với giá trị
và bản chất người, người ta thà chết! Vì vậy mà Nguyễn Du đã lớn tiếng phản chiêu hồn, một mực
khuyên hồn Khuất Nguyên đừng về cõi trần nữa, vì xã hội đầy những kẻ ăn thịt người ngọt xớt như
đường, vì cuộc đời đầy đau thương oán giận, chỉ trừ thời Tam Hoàng mà thôi. Thật đau đớn khi con
người phải từ bỏ sự sống! Nhưng thật đau đớn, thật dữ dội và cũng thật quyết liệt khi Nguyễn Du
khuyên con người đừng trở về tìm lại sự sống! Trở về mà làm gì để rồi tiếp tục lại phải từ bỏ nó một
cách đầy tủi hận, oan khiên? Chi bằng dùng chính kết cục bi đát của mình làm tấm gương phản tỉnh
cho toàn nhân loại. Không tồn tại mà vẫn tồn tại là ở lẽ ấy! Tầm nhìn, tầm tư tưởng của Nguyễn Du
vượt ra khỏi khuôn khổ một thời đại, một dân tộc cũng chính ở lẽ ấy. Đó là cái nhìn có tính phản đề
đầy sắc sảo của Nguyễn Du - cái nhìn mấy trăm năm sau còn khiến người đời kinh ngạc vì sự nhạy
bén, mới mẻ của nó!
Trong “Bắc hành tạp lục” có thể bắt gặp rất nhiều cái nhìn có tính phản đề như thế. Xưa nay sách
vở thánh hiền thường nêu gương Tô Tần, ca ngợi việc Tô Tần lấy dùi đâm vào vế đùi để thức đọc sách.
Nhưng Nguyễn Du nhìn nhận Tô Tần là con người có khí độ nhỏ mọn, “dùi đâm vế” chẳng qua là để
mưu cầu quyền lợi, để khoe sang giàu với người thân mà thôi! Về nhân vật Hàn Tín, người đời sau
thường ca ngợi công trạng bậc nhất của ông đối với nhà Hán, ca tụng ông là một trong “Tam kiệt” thời
bấy giờ. Nguyễn Du khi viết về Hàn Tín dường như không mấy để tâm đến những điều ấy. Nhà thơ
cảm phục Hàn Tín là cảm phục con người tình nghĩa sâu sắc, ăn một bữa cơm Phiếu Mẫu mà đền đáp
ngàn vàng!
Nói về Hoàng sào, lãnh tụ của phong trào nông dân khởi nghĩa, người vốn bị triều đình phong
kiến xem là giặc cỏ, là quân phản nghịch, Nguyễn Du không hề có giọng phê phán, chê bai. Ngược lại,
nhà thơ khẳng định đó là con người “có thể làm biến đổi gió mây”:
Cùng thời tự khả biến phong vân.
(Hoàng sào binh mã)
(Người ta đến lúc cùng có thể làm biến đổi gió mây.)
Và nhà thơ cung nhìn thấy rất rõ mầm mống của sự loạn lạc, căn nguyên sự nghiêng đổ của các
triều đại:
Ngộ quốc mỗi nhân câu hạn lượng.
(Hoàng Sào binh mã)
(Lầm lỡ việc nước chỉ vì câu nệ hẹp hòi.)
Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.
(Dương Phi cố lý)
(Từ đấy cả triều đều là người đứng như phỗng,
Mà nghìn năm còn đổ tội oan cho người đẹp khuynh thành.)
Căn nguyên của việc Hoàng Sào khởi binh đâu phải vì muốn làm loạn. Nguyễn Du bao giờ cũng
nhìn thấy căn nguyên của sự biến xuất phát từ chính sách cai trị hà khắc của giai cấp phong kiến. Trong
bài “Trở binh hành”, nhà thơ đã từng bày tỏ chính kiến về vấn đề này khi buông lời mỉa mai:
Dân tử tại tuế bất tại ngã.
Vật đắc khi tâm tế thánh minh.
(Trở binh hành)
(Dân chết vì gặp năm hạn, đâu phải tại ta?
Chớ nên dối lòng mà che mắt vua thánh.)
Nguyễn Du nhìn thấu tận cốt tủy bọn tham quan vô lại. Chúng vơ vét của dân, đẩy dân vào cảnh
khốn cùng; đến khi nhân dân đói khổ không chịu nổi, “chỉ vì miếng ăn mà coi nhẹ thân mình” thì
chúng lại đổ ngay là do thiên tai, hạn hán. Việc binh đao Nguyễn Du tận mắt chứng kiến trên đường đi
và việc binh đao của Hoàng Sào khi xưa nào có khác nhau là mấy? Nếu triều đình biết an dân, biết
trọng dụng hiền tài, không câu nệ hẹp hòi ở tướng mạo thì đâu xảy ra sự biến!
Mầm loạn, không phải nảy sinh từ dân nghèo, cũng chẳng phải do má phấn giai nhân mà do triều
đình bất tài vô dụng, chỉ biết câu nệ hẹp hòi! Khi viết những câu thơ này, Nguyễn Du đã đứng ở tầm
cao thời đại, nhân danh lý tưởng nhân văn cao đẹp về con người mà phán xét lịch sử.
Sinh thời Nguyễn Du có thể hoang mang dao động chưa thể đứng vào hàng ngũ của lực lượng xã
hội tiến bộ. Song, âm vang của một thời đại đầy bão táp, của một cuộc đời đầy sóng gió đã giúp nhà
thơ nhận ra rành rẽ đâu là điều cần khẳng định, bảo vệ, đâu là điều phải phủ nhận, lên án. Vì thế cái
nhìn của vị quan trên con đường hoạn lộ dù vẫn thấp thoáng ánh buồn đau nhưng, so với trước, đã khỏe
khoắn hơn và chứa đầy ý tưởng lớn:
Mạc đạo chủy thủ cánh vô tế,
Yết can trảm mộc vi tiên thanh.
(Kinh Kha cố lý)
(Chớ bảo rằng mũi dao nhọn kia chẳng ích gì,
Nó mở đầu cho việc chặt cây làm giáo, làm cán cờ khởi nghĩa.)
Đó là cái nhìn khái quát sự vận động tất yếu của lịch sử đồng thời cũng là lời nhắc nhở, cảnh báo
dành cho các bậc đế vương. Xưa nay nếu người trị nước nào cũng nhìn rõ cái lẽ tất yếu ấy thì đã không
có cảnh vua quan thừa mứa, hoang dâm vô độ, chèn ép trọng thần, vơ vét của dân; cũng không có thảm
cảnh đau lòng dân nghèo dắt díu nhau đi tha phương cầu thực chết đói phơi xương đầy đường chợ!
Một điều đáng lưu ý nữa là khi viết về lịch sử Trung Hoa, Nguyễn Du luôn có ý thức nối kết lịch
sử – hiện tại, Trung Quốc – Việt Nam. Đó là ý thức thường xuyên và nhất quán, thể hiện cái nhìn sâu
sắc và hiệu quả của nhà thơ đối với việc nhận thức bản chất xã hội. Từ sự liên kết có quy luật này,
Nguyễn Du đã vạch ra một cách tự phát đặc trưng của nền chính trị “ ăn thịt người” tồn tại ở Trung
Hoa mà cũng là ở Việt Nam mấy nghìn năm qua.
Hiện thực thường xuyên được nhắc đến ở cuối mỗi bài thơ viết về nhân vật lịch sử. Hiện thực hiện
lên trong trang thơ có thể là không gian hoang vu, là thời gian úa tàn. Hiện thực còn hiện lên qua hình
ảnh những con người “thời bình”, “thời nay”. Ở những bài thơ này, cái nhìn đối sánh của nhà thơ thể
hiện rõ nét nhất, từ đó cái nhìn phản tỉnh cũng được bộc lộ một cách sắc sảo:
Thanh thời đa thiểu tu như kích,
Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn.
(Tam liệt miếu)
(Thời bình biết bao kẻ râu vểnh lên như ngọn kích,
Nói hiếu, bàn trung, ai cũng tự suy tôn mình.)
Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục,
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.
(Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu II)
(Gần đây mỗi khi người ta thích trang phục lạ,
Thì thứ hoa tiêu, hoa lan họ đeo chẳng giống ông chút nào.)
Thanh bình thời tiết vô chiến tranh,
Nhất khẩu hùng đàm bất sổ Liêm Pha dữ Lí Mục.
(Liêm Pha bi)
(Gặp thời thanh bình không có chiến tranh,
Đều nhất loạt nói hăng, chẳng kể Liêm Pha, Lí Mục.)
Có thể thấy cảm quan hiện thực thấm đượm trong những bài thơ viết về đề tài lịch sử của Nguyễn
Du. Làm những bài thơ này, Nguyễn Du đã mượn xưa bàn nay, mượn những sự tích, những nhân vật
của quá khứ để phát biểu về cuộc sống theo như nhà thơ nhìn thấy và cảm nhận. Bản chất xã hội phong
kiến Trung Quốc trong quá khứ hay thực tại cũng giống xã hội phong kiến Việt Nam mà thôi. Ở đó,
tinh hoa dân tộc bị rẻ rúng, ruồng rẫy, bị bức đến đường cùng. Ở đó, nhân dân lao động bị đói rét cùng
cực đến chết. Ở đó, danh lợi, quyền lực là miếng mồi ngon khiến người đời cấu xé, thậm chí giẫm đạp
lên nhau để giành lấy. Ở đó, những kẻ hèn nhát, xu thời hay gian ác xấu xa mà vẫn chức cao vọng
trọng, vinh hoa phú quý. Viết về quá khứ, Nguyễn Du đau nỗi đau của người xưa. Nỗi đau ấy nhân lên
gấp bội khi nhà thơ nhìn vào hiện thực, thấy những bậc hiền tài, tiết nghĩa chỉ còn lại những nấm mồ
hoang, mọc đầy cỏ dại còn bọn “ăn thịt người” thì vẫn vênh váo, vẫn đi lại xênh xang. Bi phẫn tột độ
khi thi nhân nhận ra đời sau người người đều là Thượng Quan hiểm ác, nơi nơi đều là dòng chảy Mịch
La oan nghiệt. Một thái độ phủ nhận rõ ràng! Không chỉ phủ nhận xã hội sau thời Tam Hoàng mà còn
phủ nhận chính cuộc sống thực tại, phủ nhận cả một nền chính trị “chuyên ăn thịt người”! Điều gì còn
tồn tại được nếu con người, xã hội đi ngược lại với lí tưởng nhân văn?
Bằng cái nhìn nối kết quá khứ – hiện tại, Trung Quốc – Việt Nam, cái nhìn của vị quan Nguyễn
Du chứa đựng những bài học lớn về thời thế, nhân sinh. Danh lợi phú quý chỉ là thứ phù phiếm, nếu chỉ
biết đuổi theo những điều phù phiếm ấy, con người sẽ phải ôm hận vì không đạt được sở nguyện hoặc
đạt được sở nguyện nhưng chỉ để lại tiếng xấu đến muôn đời sau như Tào Tháo, như Chu Du. Những
giá trị được trân trọng và trường tồn cùng hậu thế đó là lòng trung trực, tiết nghĩa, tài hoa của con
người.
Những bài học ấy nhẹ nhàng đi vào lòng người với sức sống mãnh liệt, không hề có tính chất răn
đe, áp đặt. Khi nào xã hội này vẫn còn những Tần Cối, Vương Thị, Tào Tháo, Mã Viện, Tô Tần… thì
khi ấy những bài học nhân sinh của Nguyễn Du vẫn còn nguyên tầm giá trị lớn lao của nó!
4.2. NỖI ÁM ẢNH VỀ SỰ TÀN PHAI CỦA CUỘC ĐỜI
Trong những năm tháng lưu lạc giữa gió bụi trần gian, Nguyễn Du từng băn khoăn về lẽ đổi thay
của cuộc đời, về số mệnh và văn chương. Trên con đường hoạn lộ, điều mà ông quan tâm không chỉ là
những vấn đề của một triều đại, không chỉ là những chức phận ông được triều đình giao phó; điều ông
quan tâm rộng lớn hơn rất nhiều, đó là cả cuộc đời này. Tại sao có những đống xương tàn của trăm trận
đánh? Tại sao có những người phải lê la đầu đường xó chợ kiếm miếng ăn và biết bao người bỏ mạng
bên ngòi rãnh vì đói trong khi có những người khác vây cá gân hươu cũng không thèm đụng đũa? Tại
sao người hồng nhan, bậc tài hoa thường hay bạc mệnh vắn số? Và tại sao biển đời này không ngừng
dồn dập những cơn sóng dâu bể, tang thương? Tất cả những câu hỏi ấy luôn thôi thúc trong lòng, khiến
vị đại quan họ Nguyễn luôn thao thức, băn khoăn, khiến ông không bao giờ cảm thấy vui vẻ, thanh
thản. Trên con đường đi sứ, những điều mắt thấy, tai nghe, cộng với những điều từ lâu trăn trở, ấp ủ
trong lòng làm dấy lên trong lòng vị đại quan một nỗi trăn trở lớn, tạo thành một cảm hứng bi thiết về
sự mong manh của cuộc đời và số phận con người.
Trước hết, sự đổi dời không ngừng nghỉ của tạo hóa, sự biến động khôn lường của cuộc đời tạo
một mối u hoài lớn trong lòng nhà thơ. Nó không phải là nỗi bi cảm nhẹ nhàng, kín đáo như trong thơ
Haikư Nhật Bản:
Chim đỗ quyên hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô.
(Ba-sô)
Ba Tiêu thi sĩ ở cố đo Ki-ô-tô từ thời còn trẻ, sau đó chuyển lên Ê-đô. Hai mươi năm sau, vào lúc
cuối đời, ông trở lại, nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà viết nên bài thơ. Ở Nhật Bản, chim đỗ quyên là
loài chim rất nổi tiếng trong thơ ca. Nó thường kêu vào mùa hè, không hót khi trời đẹp mà thường hót
vào xẩm tối, vào đêm trăng, sau khi trời mưa… tiếng kêu rất thê thiết. Vì thế tiếng chim thường được
dùng với nghĩa thương tiếc thời gian, thể hiện nỗi buồn và sự vô thường. Trong bài thơ, chủ thể đã bị
xóa nhòa, chỉ còn tiếng chim kêu khắc khoải và nỗi hoài niệm. Ở kinh đô nhưng vẫn nhớ đến kinh đô,
đó là kinh đô của ngày xưa, một kinh đô đầy kỉ niệm, một kinh đô đã vĩnh viễn qua rồi.
Thơ Nguyễn Du cũng không có được sự tự tại vững vàng trước dòng chảy thời gian, sự trôi chảy
của cuộc đời như trong thơ Thiền thời Lí Trần:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Mãn Giác, Cáo tật thị chúng)
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu, già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.)
Bài thơ mở đầu bằng quy luật muôn đời của tạo hóa như một vòng quay bất tận “xuân khứ bách
hoa lạc – xuân đáo bách hoa khai”. Gắn với lạc – khai là xuân khứ - xuân đáo mang ý nghĩa khái quát
về cái mất đi – cái đang đến trong ý thức của chúng sinh đang đắm chìm giữa vòng vây luân hồi. Ngụ ý
của Mãn Giác đại sư khi chọn hai thời điểm mùa Xuân trong mối liên hệ đời hoa dường như cũng để
khai nhãn cho chúng sinh đừng ảo tưởng về một mùa xuân bất biến, con người vẫn phải chấp nhận lẽ
vô thường, hư huyễn của tự nhiên mà thôi!
Hai câu thơ tiếp theo thể hiện nhận thức của thiền sư trước quy luật sinh, lão, bệnh, tử của đời
người. Năm tháng qua đi, việc đời cứ thế tiếp diễn. Con người cũng theo đó mà biến đổi dần đi trước
cuộc đời dâu bể. Vũ trụ thì chảy trôi bất tận trong khi đó con người và cuộc đời thì hữu hạn.
Hai câu kết của bài thơ đã diễn giải một cách hết sức giản đơn nhưng thâm thúy giáo lý của Thiền
tông - thuộc Phật giáo Đại thừa. Điều mà Thiền học muốn hướng con người đến không phải là trông
chờ vào một cõi tồn tại khác sau cái chết, cũng không phải là tìm cách thay đổi thực tại mà là thay đổi
thái độ với chính hiện thực ấy. Cái vòng sinh, lão, bệnh, tử sẽ vẫn luôn còn đấy như mùa hạ và mùa
đông vẫn sẽ đến rồi đi nằm ngoài nhân ý của con người. Nếu như ở bốn câu đầu ngắn và đều đặn với
nhịp thơ 2/3 diễn tả sự tuần hoàn chảy trôi của thời gian và thoáng gợn chút thảng thốt, lo âu thì hai câu
kết kéo dài hơn với nhịp thơ 2/2/3, vững vàng, trang trọng, đĩnh đạc thể hiện sự ung dung, bình tĩnh, tự
tại của nhà thơ trước cuộc đời mang những biến đổi không ngừng. Hai chữ “mạc vị” thể hiện sự khẳng
định mạnh mẽ, “đối thoại với thiên nhiên, con người. Xuân tàn nhưng hoa không rụng hết. Cái nồng
ấm, tươi đẹp của mùa xuân đã đi qua nhưng vẫn còn đó một cành mai rung rinh trước sân. Sự sống tươi
đẹp vẫn đang tồn tại ngay trong chính sự héo úa, tàn phai bất chấp gánh nặng thời gian đang đè nặng.
Nổi bật trong hai câu kết, và trong cả bài thơ, là hình ảnh nhành mai thanh thản rung rinh trước
gió. Mai là một trong tứ quý của người xưa. Mai thể hiện sức sống mãnh liệt, thể hiện sự cao quý và
thanh khiết. Trong bài kệ này, cành mai là biểu hiện cho cái chân tâm của người đạt đạo, an nhiên tự tại
vượt lên trên sinh diệt, là niềm tin vào sự sống vẫn không ngừng sinh sôi nảy nở đến bất tận dù cuộc
sống thì có hạn định, có thời gian, là biểu tượng cho những giá trị đẹp đẽ tồn tại vĩnh hằng mãi mãi.
“Nhất chi mai” thể hiện sự bất diệt và vẻ đẹp tâm linh theo quan niệm Phật giáo. Vượt trên mọi bể dâu,
biến đổi của cuộc đời cành mai kia vẫn kiêu hãnh tươi thắm. Hai câu thơ bảy chữ như một bước rẽ
ngoặt bứt khỏi nhịp đều đặn tuần hoàn của bốn câu thơ năm chữ, toát lên sự tự do tuyệt đỉnh, tự do với
chính cả cái chết của con người đã giác ngộ được quy luật cuộc sống và hiểu rõ giá trị đời sống.
Nhưng thơ Nguyễn Du không có được cái an nhiên tự tại ấy. Nó chứa đựng sự nuối tiếc, đôi khi
là nỗi lo sợ và niềm chua xót trước bước đi nghiệt ngã của thời gian:
Tản lĩnh Lô giang tuế tuế đồng
Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất kiến cô thành một cố cung
Tương thức mỹ nhân khan bảo tử
Đổng du hiệp thiếu tẫn thành ông
Quan tâm nhất dạ khổ vô thuỵ
(Thăng Long I)
Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung.
(Núi Tản sông Lô bao nhiêu năm vẫn thế
Đầu đã bạc rồi mà lại thấy Thăng Long
Những ngôi nhà xưa nay đã thành đường cái quan.
Dãi thành mới làm mất cung điện xưa
Các mỹ nhân ngày trước giờ đã có con bồng
Các bạn hào hiệp thuở xưa giờ đã thành ông
Suốt đêm nghĩ ngơi, thao thức không ngủ
Văng vẳng nghe tiếng sáo trong ánh trăng.)
Bài thơ được làm trên đường Nguyễn Du đi sứ qua Thăng Long năm 1813. Nguyễn Du chỉ xa
Thăng Long khoảng mười năm trời, nhưng ông thấy dường như tất cả đều đã biến đổi, tất cả đều tàn lụi
và buồn. Chỉ có một niềm vui chua chát: Bạc đầu còn được thấy Thăng Long! Cho nên trong đêm trùng
phùng đất cũ, người thơ suốt đêm dài thao thức. Lặng nghe tiếng sáo hoà lẫn ánh trăng man mác một
nỗi u hoài. Thân thì tĩnh mà lòng dấy động phong ba!
Lúc khác, lẽ thương hải tang điền của cuộc đời khiến nhà thơ đau lòng mà rơi lệ:
Thuấn tức bách niên năng kỉ thì,
Thương tâm vãng sự lệ triêm y.
(Long Thành cầm giả ca)
(Trăm năm như chớp mắt có là bao,
Đau lòng việc cũ lệ thấm áo.)
Trải qua nhiều biến cố dồn dập của cuộc sống, cuộc đời trôi dạt nhiều nơi, tận mắt chứng kiến
những sự kiện vật đổi sao dời, những cảnh đời thương tâm, ngang trái… Nguyễn Du thấm thía triết lý
của đạo Phật coi cuộc đời là vô thường. Ông nhìn cuộc đời bằng con mắt của một nhà nhân đạo chủ
nghĩa, yêu thương, xót xa cho thân phận con người: Cuộc đời trăm năm biết bao nhiêu chuyện thương
tâm (Giang Đình Hữu Cảm). Câu thơ nặng trĩu nỗi niềm xúc cảm của Nguyễn Du. Xúc cảm ấy trong
mạch văn ấy biểu lộ nỗi đau đời khôn nguôi, nỗi thương đời vô hạn do chính cảm nhận chân thực của
ông về cuộc đời, nên có sức mạnh truyền cảm, lan toả đến muôn đời sau. Hơn nữa, câu thơ của Nguyễn
Du còn cho thấy tâm thế khái quát sự vật, khái quát cuộc đời của ông. Ông không phải là người ngoài
cuộc trong cuộc đời đầy rẫy những bi ai này. Những nỗi đau đời của người khác cũng là nỗi đau đời
của chính Nguyễn Du. Ông là người quan sát, người đồng cảm, người cùng chia sẻ, người trong cuộc.
Cái tâm thương cảm, đồng cảm, chia sẻ của Nguyễn Du đã khiến cho triết lý cuộc đời của ông tràn đầy
chủ nghĩa nhân văn.
Sự trôi chảy nhanh chóng của tuổi trẻ, nhan sắc, sự nổi chìm lạ kì của số phận con người theo
dòng thời gian và dòng đời cũng tạo mối thương tâm, trăn trở lớn trong lòng Nguyễn Du. Trong bài
Long thành cầm giả ca, Nguyễn Du đã kể lại hai lần gặp gỡ một cô đào hát tên Cầm. Ở lần gặp thứ
nhất, hiện lên trong trang thơ là hình ảnh cô gái tươi đẹp như hoa mùa xuân:
Kì thì tam thất chính phương niên
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến.
(Long thành cầm giả ca)
(Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi,
Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương,
Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu.)
Hai mươi năm sau gặp lại, cũng là người con gái ấy, nhưng hình ảnh đã hoàn toàn khác xưa:
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu.
(Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm,
Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ,
Đôi mày phờ phạc không điểm tô,
Ai biết đó là người tài danh bậc nhất của kinh thành xưa).
Và trước cái biến đổi “nhãn tiền” của nàng Cầm, nước mắt nhà thơ đã ướt đẫm vạt áo. Những giọt
nước mắt kia, ngoài việc dành cho sự biến đổi chóng vánh của cuộc đời; sâu hơn, nó còn dành cho nỗi
buồn đau về những gì càng tài năng, càng thanh sắc thì càng bị hủy diệt nhanh chóng. Quy luật nghiệt
ngã ấy, Nguyễn Du từng nhiều lần đau đớn thốt lên: chữ tài liền với chữ tai một vần; tài tình chi lắm
cho trời đất ghen (Truyện Kiều) hay:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Độc Tiểu Thanh kí)
Nguyễn Du cũng không khỏi đau lòng, ngao ngán khi phát hiện ra ngay cả những giá trị tinh thần
đẹp đẽ nhất của cuộc đời, của văn hóa nhân loại cũng bị thời gian tàn phá, không thoát được dòng chảy
nghiệt ngã của thời gian. Thành quách, công danh tan theo bèo nước đã đành; đền đài, bia miếu vốn là
không gian linh thiêng nơi người sống thể hiện lòng thương xót, lưu luyến, kính trọng đối với những
bậc hiền tài, danh nhân vậy mà, bày ra trước mắt Nguyễn Du là hình ảnh bia tàn, chữ mất, là miếu mồ
trở thành hang chuột cáo. Có sự đau đớn trước bước đi lạnh lùng của thời gian. Và có nỗi xót xa trước
sự hững hờ của hậu thế đối với những linh hồn nghìn xưa tiết nghĩa.
Trên con đường hoạn lộ, Nguyễn Du bị ám ảnh một khung cảnh rất hay xuất hiện gợi lên bao nỗi
u hoài: đó là không gian hoang tàn đổ nát của đền đài, mồ mả, gò đống, lồng trong thời gian của những
buổi chiều thu tê tái gió thổi hiu hắt. Theo tác giả Lê Thu Yến, Nguyễn Du đã 84 lần nhắc đến hình ảnh
đền đài, mồ mả, gò miếu trong thơ chữ Hán [55].
Hình ảnh đền đài, gò miếu, mồ mả trong “Bắc hành tạp lục” xuất hiện với tần số cao ở những bài
thơ viết về hai kiểu nhân vật: những bậc hiền, tài bạc mệnh và những nhân vật quyền thế một thời.
Chúng tôi cũng nhận thấy dụng ý nghệ thuật, cảm xúc Nguyễn Du khi sử dụng những hình ảnh đền đài,
miếu mộ gắn liền với hai kiểu nhân vật trên là khác nhau.
Các nhân vật quyền thế xuất hiện trong bài thơ với những nét phác họa về một thời lừng lẫy tranh
hùng xưng bá thiên hạ. Nhưng rồi, ở cuối bài thơ luôn là hiện thực điêu tàn:
Đài cỏ tuy tại, dĩ khuynh dĩ
Âm phong nộ hào thu thảo mĩ.
(Đồng Tước đài)
(Nền đài tuy còn nhưng đã nghiêng lở
Gió lạnh réo gào giận dữ, cỏ thu tàn úa.)
Ngõa lịch Ngô cung hoang đế nghiệp,
Kinh trăn cổ mộ thượng hùng danh.
(Chu Lang mộ)
(Cung Ngô thành đống gạch vụn, nghiệp đế tan tành,
Ngôi mộ cổ gai góc mọc đầy còn nức tiếng anh hùng.)
Công danh, quyền lực tất cả đều thuộc về dĩ vãng. Tướng soái, đế vương cuối cùng cũng chỉ còn
lại nấm mồ đầy cỏ dại. Vậy thì tại sao con người lại phải thù hằn chém giết nhau để tranh giành ngôi vị,
đất đai? Há chẳng phải cát bụi lại trở về với cát bụi đó ư?
Nhân gian huân nghiệp nhược trường tai,
Thử địa cao đài ưng vị khuynh.
(Đồng Tước đài)
(Nghiệp lớn ở đời nếu còn mãi được,
Thì tòa đài cao ở khoảng đất này chắc chưa bị đổ.)
Nguyễn Du đưa ra một lập luận rất chặt chẽ. Nghiệp lớn trên đời nếu trường tồn thì tòa đài cao kia
cũng phải đứng nguy nga cho đến hôm nay. Nay trước mắt đài đã tan hoang, vậy thì nghiệp lớn cũng
chỉ là mây khói. Đó là bài học, là lời nhắc nhở thấm thía đối với những ai nuôi giấc mộng tranh đoạt
công danh.
Khác với thông điệp ấy, hình ảnh đền đài, gò miếu, mồ mả xuất hiện trong những bài thơ viết về
các nhân vật danh nhân văn hóa mang một ý nghĩa khác. Nguyễn Du đã 27 lần sử dụng các hình ảnh ấy
trong 48 bài thơ viết về các bậc hiền tài, tiết nghĩa. Công danh, quyền lực tan biến theo bèo nước đã
đành, tại sao những giá trị đẹp đẽ nhất của con người cũng bị thời gian tàn phá?
Tự cổ chí kim, người nghệ sĩ hơn ai hết luôn nhận ra rất rõ bước đi khắc nghiệt của thời gian.
Người xưa từng u hoài:
Xử thế nhược đại mộng
(Lý Bạch )
Người nay cũng khắc khoải:
Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỉ niệm trong tôi
Rơi
Như tiếng sỏi
Trong lòng giếng cạn.
(Văn Cao)
Nhưng nhận ra rồi bàng hoàng, rồi thảng thốt, rồi trở thành một nỗi ám ảnh khôn nguôi thì có lẽ
chỉ riêng Tố Như:
Thu thảo nhất khâu tàng thử hạc,
Danh gia bát đại thiện văn chương.
(Âu Dương Văn Trung mộ)
(Một gò cỏ thu trở thành nơi chứa chuột chồn,
Đứng tromg hàng tám văn hào lớn lừng tiếng văn chương.)
Bi tàn một tự mai hoang thảo,
Thiên cố văn phong nhất há xa.
(Liễu Hạ Huệ mộ)
(Bia tàn chữ mất chôn vùi trong cỏ hoang,
Nghìn năm sau, nghe danh tiếng ông, tôi xuống xe để tỏ lòng kính trọng.)
Đền đài, bia miếu vốn là không gian linh thiêng của những người đã ra đi khỏi thế giới. Đó cũng
là nơi người sống thể hiện lòng thương xót, lưu luyến, kính trọng đối với những bậc hiền tài, danh
nhân. Vậy mà, ngày nay, bày ra trước mắt Nguyễn Du là hình ảnh bia tàn, chữ mất, là miếu mồ trở
thành hang chuột cáo. Có sự đau đớn trước bước đi lạnh lùng của thời gian. Và có nỗi xót xa trước sự
hững hờ của hậu thế đối với những linh hồn nghìn xưa tiết nghĩa:
Ai cũng bảo nước Trung Hoa trọng tiết nghĩa,
Sao ở đây hương khói lạnh lẽo thế này ?
Dưới ánh mắt Nguyễn Du, qua sự tàn phá của thời gian, không một thứ gì còn lại nguyên vẹn.
Thành quách nghiêng lở, đình miếu hương lạnh, khói tàn, bia mộ vùi lấp trong cỏ áy chiều tà, dung
nhan yêu kiều chỉ còn lại vẻ mặt bơ phờ, tiều tuỵ. Ta hiểu được vì sao Nguyễn Du lại nhạy cảm đến thế
trước sự tàn phai của tạo vật, đời người. Sống giữa một thời đại lịch sử đầy biến động dữ dội, trải qua
những cơn gia biến lưu lạc, chứng kiến bao phen thay đổi sơn hà, cảm nhận rõ ràng sự suy tàn của một
đế chế, Nguyễn Du không khỏi thảng thốt, bàng hoàng. Ông không thể yên tâm chọn cho mình một
hướng đi nhất định, làm thế nào cũng thấy không thỏa lòng. Con người ấy đã cô độc, day dứt đi giữa
cõi phù sinh, giữa gió mưa li loạn của thời đại để đi tìm câu trả lời cho cuộc đời, cho số phận con
người. Và càng đi tìm thì càng không thấy cho nên tất cả những băn khoăn, yêu ghét cứ quấn quyện lại
với nhau, dội ngược trở lại vào lòng, làm thành một mối bi thiết không cách gì gỡ ra được và dường
như bản thân ông cũng không muốn, không nỡ gỡ ra!
Những cảm xúc bi thương ấy dâng tràn theo mỗi bước chân ông và trở thành nỗi ám ảnh trong
tâm hồn vị quan suốt cả cuộc hành trình dài: NỖI – ÁM – ẢNH – VỀ – SỰ – TÀN – PHAI.
Đó không chỉ là nỗi ám ảnh về sự phai tàn của tuổi trẻ, của giấc mộng gác vàng. Cũng không phải
là sự tàn phai của một kiếp người, một triều đại. Mà đó là nỗi ngậm ngùi của một bậc thánh nhân trước
sự phai tàn của mọi vẻ đẹp trong cuộc đời này! Nguyễn Du xem nhẹ, phủ nhận quyền lực, vinh hoa.
Nhưng Nguyễn Du trân trọng, khẳng định con người và những giá trị tốt đẹp thuộc về bản chất người.
Không chỉ đề cao, nhà thơ khao khát lưu giữ bảo vệ những giá trị đẹp đẽ ấy. Vì vậy trong nỗi ám ảnh
về sự tàn phai, nhà thơ dường như muốn lên tiếng nhắc nhở hậu thế về lẽ tiết nghĩa trên đời. Nếu thế hệ
hôm nay không gìn giữ truyền thống văn hóa thì thế hệ mai sau làm sao biết đến một nền văn hóa
truyền thống đẹp đẽ, ngời sáng giá trị nhân văn mà tiền nhân đã phải đánh đổi bằng máu xương để tôn
tạo. Nhân loại sẽ đi về đâu nếu con người quay lưng lại với những giá trị nhân bản, nhân văn của chính
mình?
KẾT LUẬN
1. Lịch sử văn học dân tộc tự hào có những vị đại quan đồng thời là những nhà thơ tài hoa.
Nguyễn Du cũng là một trong số đó. Con đường hoạn lộ của Nguyễn Du khá bằng phẳng, hanh thông;
ông làm việc được sĩ phu và nhân dân yêu mến. Song có một con đường hoạn lộ khác hiện diện trong
thơ ca, không hề bằng phẳng, hanh thông và đơn giản. Ấy là con đường mà vị đại quan – nhà thơ đã
trải qua trong tư tưởng của mình.
2. Trên con đường ấy, Nguyễn Du gửi gắm những tâm sự riêng tư, ghi lại những điều tai nghe
mắt thấy, bày tỏ thái độ của mình đối với việc nguời, cảnh đời… Trước hết, có thể thấy trong thời gian
làm quan, nhà thơ luôn rơi vào một tâm trạng u uất, bất đắc chí. Ông chán ngán chốn quan trường
nhiễu nhương, thờ ơ với vòng danh lợi, tha thiết muốn trở về với cuộc sống thanh sơ đạm bạc chốn quê
nhà nhưng lại không thể quay lưng với cuộc đời dâu bể.
Không chỉ có những tâm sự riêng, nhà thơ, với những điều mắt thấy tai nghe, với những gì từ lâu
nung nấu trong lòng đã thẳng thắn bày tỏ thái độ của mình đối với thời thế, nhân sinh. Ông ca tụng,
trân trọng những giá trị tinh thần đẹp đẽ của con người: khí tiết, lòng trung nghĩa, tài hoa; đồng thời
khinh bỉ, căm ghét những kẻ xấu xa, gian ác, ti tiện, cả một đời chỉ biết chạy theo phú quý công danh
để mong vinh thân phì gia. Và thi nhân thương cảm, xót xa vô hạn trước nỗi đau khổ và những bi kịch
của con người.
Vượt lên trên tâm trạng riêng và thái độ đối với mỗi việc, mỗi cảnh đời cụ thể, ở vị quan Nguyễn
Du còn là một nỗi băn khoăn, thao thức lớn về số phận của con người và cuộc đời. Băn khoăn nhưng
không thể lí giải cho nên nhà thơ mang trong lòng một nỗi trăn trở lớn, một cảm hứng bi thiết về sự
mong manh của cuộc đời và số phận con người.
3. Trong quãng đời làm quan của mình, Nguyễn Du ghi lại dấu ấn đẹp đẽ của một vị quan thanh
liêm, luôn cố gắng làm tròn chức phận, không một chút thiết tha cầu vị với danh lợi phú quý. Hiện lên
trong thơ ca còn là hình ảnh một vị quan cả cuộc đời bất đắc chí, ôm mối ưu tư và nỗi cô đơn không
cách gì giải tỏa được. Song quan trọng hơn, đến với những bài thơ chữ Hán Nguyễn Du làm trên con
đường hoạn lộ, có thể thấy, rõ ràng việc ra làm quan hay vấn đề các triều đại không phải là mối quan
tâm lớn nhất của ông. Mối quan tâm lớn của Nguyễn Du chính là cuộc đời và số phận con người. Vì
vậy hình ảnh Nguyễn Du hiện lên trong những bài thơ sáng tác trên con đường hoạn lộ là hình ảnh của
một vị quan ưa triết luận, suy tư. Những triết luận, suy tư chứa đựng tư tưởng nhân đạo, nhân văn là
những giá trị ngời sáng của tâm hồn Nguyễn Du và thơ ca Nguyễn Du. Không dừng lại ở đó, những
vấn đề Nguyễn Du nung nấu còn là những vấn đề sinh tồn mang tính bản thể luận. Nó đưa nhà thơ vượt
ra khuôn khổ của thời đại và dân tộc, khiến ông bất tử và thuộc về nhân loại.
4. Sống giữa một thời đại đầy biến động bể dâu, mang trong mình những ý tưởng lớn của cuộc
sống, Nguyễn Du rơi vào một nỗi cô đơn mênh mang sâu thẳm giữa cõi đời:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Câu hỏi lớn, đau đáu, thiết tha thể hiện niềm hi vọng, mong chờ vào hậu thế, vào sự hồi sinh đẹp
đẽ của cuộc đời.
Đến nay, từ điểm nhìn hai trăm năm, cả dân tộc vẫn hướng về ông để cùng chia sẻ những yêu
thương, căm giận, để ngưỡng mộ ông về sự mẫu mực tuyệt vời của một nhân cách và tầm tư tưởng đạt
đến đỉnh cao chói lọi trong nền thơ ca mà chưa ai sánh ngang bằng.
Hôm nay đây, đọc lại Nguyễn Du đã hai thế kỷ mà vẫn như đang gợi mở cho ta biết bao câu hỏi
lớn về thời cuộc, bao vấn đề lớn đang đặt ra cho sự nghiệp giải phóng nhân loại; xây dựng một cuộc
sống thật sự dân chủ, bình đẳng, tự do, ấm no và hạnh phúc cho con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhật Chiêu (2003), Văn học Nhật Bản, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh.
2. Trương Chính - Nguyễn Thạch Giang (2001), Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, Tái bản có bổ sung và sửa chữa, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
4. Xuân Diệu (2000), Ba thi hào dân tộc, NXB Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
5. Ngô Viết Dinh (2000), Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
6. Trần Hữu Duy - Nguyễn Phong Nam (1997), Những vấn đề lịch sử và văn chương triều Nguyễn,
NXB Giáo dục.
7. Lê Anh Dũng (1994), Con đường tam giáo Việt Nam, NXB TP HCM.
8. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.
9. Trần Xuân Đề (2003), Tác giả tác phẩm Văn học phương Đông (Trung Quốc), NXB Giáo dục,
TP. Hồ Chí Minh.
10. Trịnh Bá Đĩnh (1999), Nguyễn Du về tác gia tác phẩm, NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.
11. Nhiều tác giả (1971), Thơ văn Lý Trần, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, HN.
12. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, NXB Thuận Hóa.
13. Hồ Sĩ Hiệp (1998), Đỗ Phủ, NXB Thanh niên, TP. Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm nhìn từ góc độ thi pháp học, NXB Giáo dục
Hà Nội.
15. Đinh Gia Khánh (2005), Điển cố văn học, NXB Văn học, Hà Nội.
16. Vũ Ngọc Khánh (1992), Giai thoại văn học Trung Quốc, NXB Văn học, TP. Hồ Chí Minh.
17. Lê Đình Kỵ (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
18. Nguyễn Lai (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, NXB KHXH Hà Nội.
19. Mai Quốc Liên (1992), Trước đèn, NXB Văn nghệ TP HCM.
20. Mai Quốc Liên (1996), Nguyễn Du toàn tập, NXB Văn học, TP. Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Thế Long (2001), Chuyện đi sứ - tiếp sứ thời xưa, NXB Văn hóa thông tin, TP. Hồ Chí
Minh.
22. Nguyễn Lộc (1990), Nguyễn Du con người và cuộc đời, NXB Đà Nẵng.
23. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX, NXB Giáo dục,
TP. Hồ Chí Minh.
24. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lí luận văn học, Tái bản lần thứ ba, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Tái bản lần thứ 1,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ, NXB Trẻ.
27. Ngô Thì Nhậm (2004), Ngô Thì Nhậm toàn tập, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức (1969), Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca
trong văn học Việt Nam, NXB KHXH Hà Nội.
29. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái
nhìn so sánh, NXB Giáo dục, Hà Nội.
30. Vũ Tiến Quỳnh (1991), Nguyễn Du (Tuyển chọn những bài bình luận), Khánh Hòa.
31. Trương Hữu Quýnh (2005), Đại cương lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh.
32. Trần Trọng San (1990), Kim Thánh Thán phê bình thơ Đường, NXB ĐH Tổng hợp TP HCM.
33. Đặng Đức Siêu (1999), Ngữ liệu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
34. Nguyễn Hữu Sơn - Trần Đình Sử… (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
35. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, NXB TP HCM.
36. Trần Đình Sử (1996), Lí luận phê bình văn học, NXB Hội nhà văn Hà Nội.
37. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
38. Trần Đình Sử (2007), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội.
39. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - tác gia - tác phẩm văn học trung đại Việt
Nam, Tập 2, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
40. Bùi Duy Tân (chủ biên) (2007), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (Thế kỷ X – XIX), 2 tập,
Tái bản lần 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Quách Tấn (1998), Thi pháp thơ Đường, NXB Trẻ TP Hồ Chí Minh.
42. Nguyễn Bá Thành (2005), Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, NXBĐHQG Hà Nội.
43. Tư Mã Thiên (1988), Sử Kí, Nhữ Thành dịch, NXB Văn học, TP. Hồ Chí Minh.
44. Phạm Thiều - Đào Phương Bình (1993), Thơ đi sứ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam: dưới góc nhìn văn hóa, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
46. Lương Duy Thứ (2000), Đại cương văn hóa phương Đông, NXB Giáo dục.
47. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và Văn học, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
48. Lê Ngọc Trà (1994), Mỹ học đại cương, NXB Văn hóa thông tin.
49. Đỗ Minh Tuấn (1995), Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Văn hóa
thông tin Hà Nội.
50. Phan Thị Bích Vân (2003), Hình tượng nghệ thuật về con người trong “Bắc hành tạp lục” của
Nguyễn Du, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
51. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh,
TP Hồ Chí Minh.
52. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
53. Trần Ngọc Vương (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX, những vấn đề lý luận và lịch sử,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
54. Lê Thu Yến (1995), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Thanh Niên, TP. Hồ
Chí Minh.
55. Lê Thu Yến (2003), Văn học trung đại những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục, TP. Hồ
Chí Minh.