
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức
của Việt Nam
Nguyễn Văn Tuấn
Năm 1996, Bộ Y tế ban hành 12 điều y đức, được lồng kính và trịnh trọng
treo ở các bệnh viện và trung tâm y tế. Nhưng ít người thuộc 12 điều này, và càng
ít hơn số người thực hiện theo 12 điều y đức đó. Theo ý kiến của người viết bài
này, 12 điều y đức Việt Nam cần phải sửa đổi, vì một số điều không thích hợp và
có những trùng lập cũng như mâu thuẫn.
Phần lớn các nguyên tắc y đức trên thế giới tập trung vào 4 khía cạnh
chính: chuyên môn, bệnh nhân, luật pháp, và cộng đồng. Nhưng đọc qua 12 điều
y đức của Việt Nam, tôi không thấy một bố cục logic như thế; thay vào đó là
những câu văn dài, lượm thượm, thiếu tính liên tục, và thiếu tính khúc chiết.
Chẳng hạn như Điều 1 viết “Chǎm sóc sức khoẻ cho mọi người là nghề cao quý.
Khi đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ y tế phải nghiêm túc thực hiện lời dạy của
Bác Hồ.” Thật ra, câu văn này không thể xem là qui ước, điều lệ, hay nguyên tắc y
đức, mà là phát biểu mang tính khẩu hiệu. Ngành nghề phục vụ nào cũng cao quí,
chứ chẳng riêng gì ngành y tế. Người phu quét đường hay người thợ hớt tóc cũng
là những nghề cao quí. Điều 1 còn nói đến “lời dạy của Bác Hồ” nhưng không
một chỗ nào trong 12 điều y đức nói đến những lời dạy đó là gì! Theo tôi, đoạn
này nên bỏ vì thừa và không cần thiết.
Điều 1 còn yêu cầu người thầy thuốc chẳng những không ngừng học tập mà
còn “tích cực nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn”. Thật ra,
điều lệ này giống như một tiêu chuẩn hơn là qui ước, và cũng rất khó thực hiện,
bởi vì không phải bác sĩ hay y sĩ nào cũng có điều kiện nghiên cứu khoa học.
Không một trường y hay bệnh viện nào ở nước ta có đủ sách vở và tập san y khoa

để sinh viên và thầy cô tham khảo, thì làm sao đòi hỏi người thầy thuốc học tập
liên tục được. Ở nước ngoài mà tôi biết (như Mĩ và Úc), không có qui ước này
trong các nguyên tắc y đức. Do đó, tôi đề nghị bỏ điều này và thay vào một điều
khác thực tế hơn, chẳng hạn như “Người thầy thuốc phải liên tục học hỏi và trao
dồi chuyên môn, và duy trì các chuẩn mực của chuyên ngành ở mức cao nhất”.
Điều 10 yêu cầu người thầy thuốc phải “Thật thà, đoàn kết tôn trọng đồng
nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn sàng truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh
nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau” tuy không có gì quá đáng, nhưng mang màu sắc thời
bao cấp. Truyền thống “tôn sư trọng đạo” đáng được duy trì, nhưng không ai có
thể kính trọng thầy cô làm sai hay thầy cô bất tài hay thiếu y đức. Do đó, khái
niệm “đoàn kết” ở đây có thể bị lạm dụng để bao che cho những đồng nghiệp và
bậc thầy thiếu tư cách và vô y đức. Thật ra, về mối quan hệ với đồng nghiệp, các
qui ước y đức quốc tế cho phép người thầy thuốc báo cáo cho nhà chức trách biết
những thầy thuốc thiếu tư cách, hay bất tài, hay liên đới đến những vụ lừa đảo.
Theo tôi, điều này cần phải sửa và viết lại theo các chuẩn mực quốc tế.
Tham khảo qui ước y đức của Hiệp hội Y khoa Thế giới và Mĩ, và so sánh
với 12 điều y đức của Việt Nam tôi thấy một số điều … không giống ai. Chẳng
hạn như Điều 5 viết “Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đoán, xử trí kịp thời
không được đùn đẩy người bệnh,” nhưng tôi không thấy trên thế giới có điều lệ y
đức này. Ngoài ra, Điều 7 (“Không được rời bỏ vị trí trong khi làm nhiệm vụ, theo
dõi và xử trí kịp thời các diễn biến của người bệnh”), Điều 8 (“Khi người bệnh ra
viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều trị, tự chǎm sóc và giữ gìn
sức khỏe”) và Điều 9 (“Khi người bệnh tử vong, phải thông cảm sâu sắc, chia
buồn và hướng dẫn, giúp đỡ gia đình họ làm các thủ tục cần thiết”) thật ra không
phải là qui ước đạo đức, mà thực chất là những thủ tục hành chính. Đành rằng,
chúng ta không bắt chước ai, nhưng vẫn có một số nguyên lí và nguyên tắc logic

cần phải tuân thủ, và như phân tích trên, những điều này không phải là qui ước y
đức, nên cần phải loại bỏ khỏi qui ước y đức.
Trong trường y, người ta thường nói “hoặc là anh có đạo đức, hoặc là
không”. Đạo đức, theo quan điểm này, là một tính bẩm sinh. Nhưng quan điểm
mới trong các trường y ngoài này là y đức cũng cần được dạy, chứ không để mặt
cho cảm tính chi phối (như thông cảm) được. Một nghiên cứu mới đây trên tập san
Academic Medicine cho thấy khi bác sĩ được cho cơ hội học tập và thảo luận về y
đức (bao gồm đạo đức, cách thể hiện cảm xúc với bệnh nhân, cách nói chuyện và
cầm tay bệnh nhân, v.v…) mỗi tuần, chỉ sau 6 tháng họ có cải tiến rõ rệt về y đức
so với nhóm bác sĩ không được dạy về y đức.
Nếu kinh nghiệm từ nước ngoài là một bài học, có lẽ một cách thực tế nhất
để nâng cao y đức là huấn luyện và thường xuyên thảo luận về qui ước y đức trong
các trường y và bệnh viện. Nhưng để thực hiện việc này, chúng ta cần một qui ước
hoàn chỉnh. Qui ước y đức nước ta đã trải qua 13 năm, và trong thời kì kinh tế
hiện nay cùng với sự hội nhập của đất nước, đã đến lúc các qui ước y đức Việt
Nam cần được xem xét hay soạn lại sao cho phù hợp với giá trị văn hóa Việt Nam
và chuẩn mực y đức thế giới.
Thật ra, đọc qua những điều lệ y đức của Việt Nam như trình bày trên, tôi
thấy ta chẳng giống ai. Chẳng hạn như Điều 5 viết “Khi cấp cứu phải khẩn trương
chẩn đoán, xử trí kịp thời không được đùn đẩy người bệnh,” nhưng tôi không thấy
trên thế giới có điều lệ y đức này. Ngoài ra, Điều 7 (“Không được rời bỏ vị trí
trong khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử trí kịp thời các diễn biến của người bệnh”),
Điều 8 (“Khi người bệnh ra viện phải dặn dò chu đáo, hướng dẫn họ tiếp tục điều
trị, tự chǎm sóc và giữ gìn sức khỏe”) và Điều 9 (“Khi người bệnh tử vong, phải
thông cảm sâu sắc, chia buồn và hướng dẫn, giúp đỡ gia đình họ làm các thủ tục
cần thiết”) thật ra không phải là qui ước đạo đức, mà thực chất là những thủ tục
hành chính. Đành rằng, chúng ta không bắt chước ai, nhưng vẫn có một số

nguyên lí và nguyên tắc logic cần phải tuân thủ, và như phân tích trên, những điều
này không phải là qui ước y đức, nên cần phải loại bỏ khỏi qui ước y đức.
So sánh qui ước y đức Việt Nam và Mĩ
12 điều y đức
(Tiêu chuẩn đạo đức của người làm
công tác y tế)
(Ban hành kèm theo quyết định số:
20881BYT-QĐ ngày 06 tháng
11nǎm 1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế)
1. Chǎm sóc sức khoẻ cho mọi
người là nghề cao quý. Khi đã tự
nguyện đứng trong hàng ngũ y tế
phải nghiêm túc thực hiện lời dạy
của Bác Hồ. Phải có lương tâm và
trách nhiệm cao, hết lòng yêu nghề,
luôn rèn luyện nâng cao phẩm chất
đạo đức của thầy thuốc. Không
ngừng học tập và tích cực nghiên
cứu khoa học để nâng cao trình độ
chuyên môn. Sẵn sàng vượt qua
mọi khó khǎn gian khổ vì sự nghiệp
chǎm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân.
Lời thề Hippocrate
Nguyên tắc đạo đức y khoa
(Hội Y học Mĩ)
1. Người thầy thuốc phải tận
tâm chăm sóc sức khỏe với
sự cảm thông và tôn trọng
danh dự và quyền con người.
2. Người thầy thuốc phải duy trì
các chuẩn mực của chuyên
ngành, thành thật trong tất cả
các giao tiếp chuyên môn, và
phấn đấu báo cáo nhà chức
trách những thầy thuốc thiếu
tư cách, hay bất tài, hay liên
đới đến những vụ lừa đảo.

2. Tôn trọng pháp luật và thực hiện
nghiêm túc các quy chế chuyên
môn. Không được sử dụng người
bệnh làm thực nghiệm cho những
phương pháp chẩn đoán, điều trị,
nghiên cứu khoa học khi chưa được
phép của Bộ Y tế và sự chấp nhận
của người bệnh.
3. Tôn trọng quyền được khám
bệnh, chữa bệnh của nhân dân. Tôn
trọng những bí mật riêng tư của
người bệnh; khi thǎm khám, chǎm
sóc cần bảo đảm kín đáo và lịch sự.
Quan tâm đến những người bệnh
trong diện chính sách ưu đãi xã hội.
Không được phân biệt đối xử với
người bệnh. Không được có thái độ
ban ơn, lạm dụng nghề nghiệp và
gây phiền hà cho người bệnh. Phải
trung thực khi thanh toán các chi phí
khám bệnh, chữa bệnh.
4. Khi tiếp xúc với người bệnh và
gia đình họ, luôn có thái độ niềm
nở, tận tình; trang phục phải chỉnh
tề, sạch sẽ để tạo niềm tin cho
3. Người thầy thuốc phải tôn
trọng luật pháp và nhận lãnh
trách nhiệm theo đuổi những
cải cách nhằm đem lại lợi ích
tốt nhất cho bệnh nhân.
4. Người thầy thuốc phải tôn
trọng quyền của bệnh nhân,
đồng nghiệp, và các nhân
viên y tế khác, và phải bảo vệ
sự riêng tư của bệnh nhân
trong phạm vi luật pháp cho
phép.
5. Người thầy thuốc phải liên tục
học hỏi, ứng dụng, và trao dồi
kiến thức khoa học; duy trì
học thuật y khoa; cung cấp
những thông tin liên quan đến
bệnh nhân, đồng nghiệp, và
công chúng; tư vấn và sử
dụng tài năng của các chuyên
gia khác khi cần thiết theo chỉ
định.