
95
KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC - ĐẠO ĐỨC
NGHỀ NGHIỆP
MỤC TIÊU:
1. Trình bày được những khái niệm về đạo đức, đạo đức học và đạo đức y học.
2. Trình bày được những nguyên lý và quan niệm về đạo đức y học.
3. Trình bày được quy tắc về đạo đức và định hướng nghề điều dưỡng.
4. Ứng dụng những kiến thức đã học về đạo đức và đạo đức nghề nghiệp áp dụng
vào công tác chăm sóc sức khỏe người bệnh.
NỘI DUNG
1. Khái niệm đạo đức
1.1. Đạo đức
- Đạo: Đường đi, hướng đi, lối làm việc, ăn ở.
- Đức: Theo Khổng Tử, sống đúng luân thường là có Đức. Theo Đạo (Lão tử) tu
thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hoà với mọi người là có Đức.
- Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về
vấn đề tốt-xấu, hơn nữa xem như là đúng-sai, được sử dụng trong 3 phạm vi: Lương tâm
con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn được gọi giá trị đạo đức;
Nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của
một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này.
- Định nghĩa đạo đức (Từ điển Tiếng Việt) “Những phép tắc căn cứ vào chế độ
kinh tế và chế độ chính trị mà đặt ra để quy định quan hệ giữa người và người, giữa cá
nhân và xã hội cốt để bảo vệ chế độ kinh tế và chế độ xã hội”.
- Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin “Đạo đức là một trong những hình
thái ý thức xã hội, bao gồm những nguyên lý, những tiêu chuẩn, những khuôn phép,
những mẫu mực về hạnh kiểm, phong cách hay hành vi có liên quan đến bổn phận, đến
trách nhiệm của con người đó với xã hội, với bản thân mình”.
- Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã
hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. (Học viện chính
trị Quốc gia. Giáo trình đạo đức học. Hà Nội-nxb Chính trị Quốc gia, 2000, trang 816).
Theo quan niệm phương Đông, trong các học thuyết của Phật giáo, của Đạo giáo,
của Nhà giáo đều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và tự rèn luyện mình,
khuyên con người làm điều thiện, tránh điều ác. Các học thuyết ấy đề xuất các quy tắc,
các chuẩn mực, những ràng buộc trong các hoạt động sống của con người. Có thể nói,
khái niệm đạo đức ở phương Đông có nghĩa là đạo làm người, bao gồm rất nhiều chuẩn

96
mực về các mối quan hệ vua, tôi, cha con, chồng vợ, anh em, làng xóm, bạn bè, tu thân,
dưỡng tâm, rèn luyện khí tiết....theo những định hướng giá trị nhất định.
ở phương Tây, khái niệm đạo đức bắt nguồn từ chữ mos trong ngữ vựng Latinh,
có nghĩa là lề thói. Moralis có nghĩa là thói quen. Ngoài ra, trong tiếng Hy Lạp còn có
khái niệm ethicos có nghĩa là tập tục gắn với thói quen. Cả hai từ này đều chỉ đạo đức
của xã hội, tức là nói về tập quán, tập tục, lề thói trong các quan hệ giao tiếp giữa người
với người. Trong tác phẩm Nhà nước pháp quyền, Hêghen đã phân biệt hai khái niệm
moralis (luân lý) và ethicos (đạo đức) như sau: luân lý là đạo đức chủa quan, còn đạo
đức là luân lý khách quan.
Nội dung xã hội của đạo đức hay luân lý bắt nguồn từ quan niệm người này giúp
đỡ người khác một cách vô tư. Khái niệm quốc tế của đạo đức là moral. Tiếng Nga,
tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức đều dùng thuật ngữ moral để chỉ các quan hệ, các hành
vi, các phẩm giá về sự quan tâm của người này đối với người khác theo các chuẩn mực
về cái tốt trong một cộng đồng xã hội từ gia đình, nhà trường, xóm làng, phường phố
đến toàn xã hội.
Theo Martin Heigdergger thì: “Đạo đức là lĩnh vực của con người mà hành vi,
các mối quan tâm, những tình cảm được chia sẻ giữa người này và người khác theo
những mục tiêu và tiêu chí nhất định có liên quan đến tự do và trật tự phức tạp của cộng
đồng”2. Nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga là G.Bandzeladze đã viết:
“Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người
khác và xã hội... Nơi nào không có những hành động tự nguyên, tự giác của con người
thì nơi ấy không có nhân phẩm, không thể thực sự có đời sống xã hội. Đặc trưng của đời
sống con người, và của bản thân tính người (hoặc nhân phẩm) là ở đạo đức và nội dung
của đạo đức chính là năng lực phục vụ tự nguyện, tự giác lợi ích của người khác và của
toàn thể xã hội”1
Đạo đức là một quan hệ xã hội có quy tắc, có chuẩn mực, có đánh giá, có giá trị,
nhưng nó không ghi thành văn bản pháp quy, mà thông thường là nếp sống, phong tục,
tập quán do một công đồng nhất định tạo thành khi chung sống với nhau. Các quan hệ
đạo đức trong xã hội thường được điều chỉnh bởi các dư luận xã hội. Đó là những ý
kiến, các trạng thái tinh thần tán thưởng hoặc phê phán của số đông người trong xã hội
đối với một hành vi, một ý tưởng, một cảm xúc đạo đức của cá nhân hay của một nhóm
người nhất định trong xã hội. Dư luận xã hội cũng truyền bá, chấp nhận hoặc phủ định
các chuẩn mực, các giá trị nào đó trong một quan hệ xã hội nhất định.
Dư luận xã hội có ảnh hưởng đặc biệt trong các quan hệ đạo đức của xã hội. Nó
mang tính cổ vũ, định hướng, kìm trói rất rõ rệt. Nó có thể tạo nên giá trị hoặc phủ định.
Dư luận xã hội thông thường là một con dao hai lưỡi. Nếu dư luận xã hội tốt thì sự phát
triển đạo đức của xã hội lành mạnh. Nếu dư luận xã hội mang tính hạn chế chủ quan, thì
có thể không phản ánh đúng các quan hệ đạo đức xã hội.
Đạo đức chính là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này và người khác được
điều chỉnh bằng dư luận xã hội. Đạo đức luôn luôn là quan hệ điều chỉnh các hành vi

97
của con người trong sinh tồn và giao tiếp xã hội, là phương thức xác lập mối quan hệ
giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Một trong những yếu tố quan trọng của đạo đức là ý thức đạo đức. ý thức đạo
đức phản ánh những thói quen, các tục lệ, các hành vi ứng xử của người này với người
khác trong cộng đồng thông qua các chuẩn mực và quy tắc. Trong các hoạt động sống
của con người, ý thức đạo đức thể hiện rõ trên hai bình diện: xã hội và cá nhân. Nhờ hệ
thống các chuẩn mực, các quy tắc, đạo đức được điều chỉnh theo các thước đo nhất định
xoay quanh các phạm trù thiện, ác, lương tâm, vinh dự, trách nhiệm, nghĩa vụ và ý nghĩa
cuộc sống. Cá nhân tự giác chấp nhận các chuẩn mực xã hội và xã hội thông qua các
chuẩn mực đó mà gìn giữ sự phát triển và ổn định chung của xã hội.
Mọi ý thức đạo đức đều được thể hiện thông qua các hành vi đạo đức. Các hành
vi đạo đức vừa là biểu hiện của nhận thức và tình cảm đạo đức cá nhân, vừa bị chi phối
bởi các chuẩn mực và quy tắc của xã hội. Quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với
xã hội và đối với người khác là tiền đề của hành vi đạo đức cá nhân. Sự lựa chọn tự do
trong ứng xử giữa người này và người khác là do những tính cách quyết định.
Mỗi người có một tính cách mang bản chất cá nhân sâu sắc. Mỗi tính cách đều
bao hàm tính xác định của những nhu cầu, lợi ích, xu hướng nhất định thông qua các
hoạt động sống của cá nhân. Tính cách là sản phẩm của quá trình đối tượng hoá và chủ
thể hoá trong hoạt động thực tiễn của con người. Các hành vi đạo đức của con người
tích cực hay tiêu cực gắn với các phẩm chất cả về mặt chất và lượng của nhân cách, nó
vừa là hành vi tự điều chỉnh vừa là hành vi được điều chỉnh trong các mối quan hệ xã
hội.
Nếu ý thức đạo đức là sự ý thức về các tương quan lợi ích của cá nhân và cộng
đồng, thì hành vi đạo đức luôn phục tùng tự nguyện ý thức đó. Mỗi chủ thể đạo đức
không chỉ bao gồm mặt ý thức - mặt trí tuệ, mà còn bao gồm mặt tình cảm và mặt ý chí
nữa. Mỗi hành vi đạo đức được thực hiện do ý thức soi sáng, tình cảm mách bảo và nghị
lực được rèn luyện.
Các hành vi ứng xử đạo đức của cá nhân đều có khuynh hướng tự bảo tồn thành
nếp, tạo nên các tập quán. Tập quán đạo đức là nội dung xác định các hành vi đạo đức
giữa người này và người khác được lặp đi lặp lại trong một cộng đồng xã hội do các
điều kiện lao động, điều kiện sống, điều kiện giao tiếp tạo nên.
Các tập quán đạo đức thông thường gắn với quá trình phát triển tổng thể lâu dài
của các nhóm dân cứ có chung một lịch sử các quan hệ kinh tế và tâm lý. Tập quán đạo
đức thể hiện một thói quen ứng xử được quy định bởi các giá trị văn hoá. Tập quán giúp
đỡ nhau trong lúc khó khăn hoạn nạn, tập quán thăm hỏi nhau lúc ốm đau, trong các
ngày giỗ, tết mang nội dung đạo đức xác định của các vùng, các miền văn hóa.
Phong tục, tập quán là các hình thức biểu hiện ổn định của một nội dung đạo đức
nhất định, nó gìn giữ một cách lâu dài các giá trị của cộng đồng. Tuy nhiên, ở vào những
thời kỳ có biên chuyển xã hội lớn, các cuộc di cư, sự thay đổi các quan hệ văn hoá như
sự áp đặt văn hoá, các cuộc cách mạng văn hoá, các thay đổi phổ biến rộng khắp về công
nghệ, khoa học, kỹ thuật..thì nhiều tập quán đạo đức cũ sẽ biến đổi và tạo ra những tập

98
quán, phong tục mới và do đó xuất hiện hệ thống đánh giá đạo đức mới phù hợp với sự
biến đổi văn hoá.
Đánh giá đạo đức là hoạt động thẩm định các hành vi, các quan hệ ứmg xử đạo
đức phù hợp với các thước đo, các chuẩn mực, các quy phạm nhất định về mặt xã hội.
Giá trị xã hội không phải do đánh giá mà có, nhưng đánh giá sẽ xác định các ứng xử,
các quan hệ đạo đức nào được xã hội cho là đúng, là tốt, là đẹp. Hành vi đạo đức luôn
liên quan tới các lợi ích. Vì thế, các giá trị đạo đức có quan hệ với các cách thức đánh
giá khác nhau.
Trong đánh giá đạo đức về hành vi có đánh giá về mặt khách quan và đánh giá
về mặt chủ quan. Sự đánh giá mặt khách quan của hành vi tương đỗi dễ. Cái chuẩn chính
của nó là lợi ích chung của xã hội, tức là cái mà mọi người đều thấy đúng, thấy tốt và
thấy đẹp. Song, đằng sau mặt khách quan của hành vi. Có hành vi đạo đức, nhìn về mặt
khách quan là thiện, nhưng đằng sau đó, tính chất vụ lợi, tính chất ích kỷ lại là động cơ
thực sự. Vì vậy, sự đánh giá đạo đức trong các môi trường văn hoá đều có sự thống nhất
giữa mặt khách quan và mặt chủ quan. Mọi hành vi và hoạt động của con người nếu gắn
với nguyên lý “Không làm điều gì cho người khác cái mà mình không muốn” thì đều là
những hành vi có giá trị đạo đức. Có thể nói, về bản chất, giá trị đạo đức thống nhất với
cái có ích mang tính tự nguyên, tự giác của hành vi.
Tính chất vô tư của mọi hành vi được xem là bản chất của những giá trị đạo đức.
Hành vi đạo đức có cơ chế điều chỉnh là các tư tưởng đạo đức. Tư tưởng đạo đức là
những quan niệm có tính chất lý luận về các quan hệ đạo đức, về tương quan giữa các
lợi ích, về đánh giá và định hướng hành vi. Tư tưởng đạo đức là ý thức đạo đức ở trình
độ khái quát lý luận, chi phối các lợi ích, gắn bó chặt chẽ với hệ tư tưởng.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng
tầng, tư tưởng đạo đức vừa phản ánh tồn tại xã hội, vừa có mối quan hệ mật thiết với tư
tưởng của các hình thái ý thức xã hội khác. Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, tư tưởng đạo đức cũng như tư tưởng chính trị, tư tưởng pháp quyền, tư tưởng nghệ
thuật, đều là sự phản ánh một cơ sở kinh tế - xã hội nhất định, vừa có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Dưới các hình thức phản ánh khác nhau, các tư tưởng ấy đều biểu hiện các lợi
ích kinh tế, chính trị, pháp quyền, đạo đức của một dân tộc, một giai cấp, một thời đại
nhất định. Sự tương tác giữa tư tưởng chính trị, tư tưởng đạo đức, tư tưởng tưởng pháp
quyền, tư tưởng triết học, tư tưởng tôn giáo, tư tưởng khoa học tạo nên sự thống nhất
trong đa dạng của các hình thái ý thức xã hội.
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tư tưởng đạo đức có tính độc lập
tương đối so với cơ sở kinh tế và trong tương quan với tư tưởng của các hình thái ý thức
xã hội khác. Biểu hiện rõ rệt nhất của tính độc lập tương đối ấy là một số truyền thống,
ít nhiều phong tục, tập quán và thước đo giá trị đã mất đi. Nhiều quan hệ đạo đức vẫn còn
tác dụng giữ gìn sự phát triển của các mối quan hệ nhân bản giữa con người với con người,
khi điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội đã qua đi lâu rồi.
Có thể nói, khái niệm đạo đức mang một dung lượng rất rộng bao gồm các hành
vi đạo đức, tư tưởng đạo đức, giá trị đạo đức, lý tưởng đạo đức....

99
Sự biến đổi của các quan hệ đạo đức trong xã hội phụ thuộc vào phương thức sản
xuất của xã hội. Đạo đức phát sinh và phát triển do nhu cầu của xã hội, đặc biệt là các
nhu cầu về lao động, về sản xuất, về sinh tồn, về giao tiếp. Trong thời kỳ đầu của xã hội
loài người, dưới chế độ công xã nguyên thuỷ, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã tạo
ra các quan hệ đạo đức bình đẳng nguyên thuỷ. Lúc ấy, cá nhân con người hoà nhập với
cuộc sống của cộng đồng nguyên thuỷ. Chủ nghĩa tập thể nguyên thuỷ tạo ra các quan
hệ đạo đức gắn con người với tự nhiên và với cộng đồng của mình, cá nhân không tách
khỏi cộng đồng. A.Mac và Ph. Ăngghen thường nói đến đạo đức của các hình thái xã
hội cổ điển, ở đó con người vẫn gắn chặt với cuống rốn cộng đồng.
Trong hình thái xã hội chưa có sự phân chia giai cấp không có hiện tượng người
bóc lột người. Con người cùng nhau hái lượm, đánh bắt muông thú, chim cá và ăn ở tập
thể. Các phong tục, tập quán, uy tín, sự tôn kính nhau, sự giúp đỡ nhau tự nguyện là hiện
tượng đạo đức phổ biến trong xã hội nguyên thuỷ. Trong thị tộc nguyên thuỷ, các quan
hệ đạo đức bình đẳng, nhất trí, đoàn kết là nghĩa vụ. Nhiều nhà nghiên cứu đạo đức
nguyên thuỷ đều cùng có chung một nhận xét rằng: các quan hệ giữa người và người
trong các xã hội nguyên thuỷ rất thẳng thắn, trung thực, kiên cường, dũng cảm, theo
đúng nghĩa vụ.
Tất nhiên, bên cạnh những quan hệ đạo đức thuần phác, nguyên thuỷ, trong xã
hội thị tộc còn có tục lệ người ăn thịt người, con người đối xử với con người trong tình
trạng lạc hậu, dã man. Sự quần hôn, tạp hôn..phản ánh một xã hội chưa phát triển về các
tri thức khoa học.
Các quan hệ đạo đức trong xã hội có giai cấp gắn với phân công lao động, sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Xã hộ lô lệ đã tạo ra các quan hệ đạo đức: Chủ nô và
nô lệ, gia đình một vợ một chồng, hoặc là có vợ chồng riêng, không tạp hôn, đồng thời
sinh mệnh con người tuy là nô lệ nhưng không ăn thịt nhau.
Lao động kiểu nô lệ đã tạo nên quan hệ đạo đức chủ nô và nô lệ. Người nô lệ là
một vật mua bán, không có đạo đức, không có quyền bình đẳng. Phụ nữ cũng trong tình
trạng đó dưới xã hội nô lệ. Các quan hệ đạo đức trong xã hội nô lệ tạo ra sự bất bình
đẳng to lớn.
Phương thức sản xuất phong kiến đã tạo ra các quan hệ đạo đức phong kiến: địa
chủ và nông nô. Các quan hệ đạo đức dưới chế độ phong kiến cả ở phương Đông và
phương Tây đều có sự bất bình đẳng giới tính, bất bình đẳng giai cấp, bất bình đẳng dân
tộc. Xã hội phong kiến là một xã hội có sự thống trị của sự cưỡng bức siêu kinh tế. Bầy
tôi phải trung thành với vua, chư hầu phải trung thành với thiên tử, nông dân phải trung
thành với địa chủ. Trung thành là khái niệm đạo đức cơ bản gắn với những lợi ích siêu
kinh tế trong xã hội phong kiến.
Thiết chế đạo đức ở các xã hội phong kiến phương Đông như một gia đình mở
rộng. Vua là cha mẹ dân. Vua là thiên tử, là con trời. Vua cho sống thì được sống, vua
bắt chết phải chết. Chết cho vua, chết vì vua là một giá trị đạo đức được dư luận xã hội
đồng tình.