Nhiệt độ, độ ẩm tương đối, ánh sáng và chất lượng không khí: chỉ dẫn cơ bản

cho công tác bảo quản

Sherelin Ocđen - Trưởng ban bảo quản, Hiệp hội lịch sử Minesota

Điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm tương đối rất quan trọng trong công tác bảo

quản thư viện và các nơi lưu trữ vì khi nhiệt độ và độ ẩm không đảm bảo sẽ

góp phần đáng kể làm hỏng các tư liệu lưu trữ. Nhiệt độ cao cũng làm gia

tăng mức độ hư hỏng: hầu hết các phản ứng hoá học gây hỏng tư liệu có tỷ lệ

tăng gần gấp đôi mỗi khi nhiệt độ tăng 18 độ F (khoảng 10 độ C). Độ ẩm

tương đối cao tạo ra độ ẩm cần thiết, xúc tiến các phản ứng hóa học có hại

đối với tư liệu, và khi kết hợp với nhiệt độ cao gây ra sự phát triển của nấm

cũng như các loại côn trùng. Độ ẩm tương đối đặc biệt thấp, thường xuất hiện

vào mùa đông ở những nơi sử dụng hệ thống điều hoà trung tâm, có thể làm

cho một số loại tư liệu lưu trữ trở nên khô và giòn.

Sự dao động về nhiệt độ và độ ẩm tương đối cũng gây tác hại. Các tư liệu lưu

trữ thường có tính hút ẩm, rất dễ hút và nhả hơi nước. Sự thay đổi về nhiệt độ

và độ ẩm tương đối hàng ngày và theo mùa có thể làm các tư liệu lưu trữ nở

ra hoặc co lại. Những thay đổi nghiêm trọng gia tăng mức độ hư hỏng, dẫn

tới những thiệt hại thấy được như quăn giấy, bong mực, cong vênh bìa sách,

và rạn bong ảnh. Tuy nhiên, ở một số cơ sở thư viện, các tư liệu lưu trữ có thể

được bảo vệ trước các dao động ở mức độ vừa phải. Một số loại chất liệu

đóng gói kèm theo hoặc sách báo đóng gói sát nhau có thể gây ra các thay đổi

nhỏ về nhiệt độ và độ ẩm.

Lắp đặt đầy đủ và vận hành các thiết bị điều chỉnh khí hậu để duy trì tiêu

chuẩn bảo quản sẽ làm chậm tiến trình hư hỏng các tư liệu lưu trữ một cách

đáng kể. Thiết bị điều chỉnh khí hậu được xếp theo độ phức tạp: từ máy điều

hoà, máy tạo độ ẩm và / hoặc máy hút ẩm từng phòng đơn giản đến hệ thống

điều hoà trung tâm cho cả toà nhà để có thể lọc, làm mát, sưởi, tạo ẩm và hút

ẩm không khí. Cần tìm kiếm sự trợ giúp của các kỹ sư có kinh nghiệm về lĩnh

vực điều chỉnh khí hậu để có thể chọn và lắp đặt thiết bị. Cần có thêm các

biện pháp để điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm tương đối. Toàn bộ toà nhà cũng

cần được bảo dưỡng tốt, cần phải hàn gắn các vết rạn nứt ngay khi mới xuất

hiện. Cửa đi và cửa sổ bên ngoài phải bịt các khe gió và phải đóng kín để

tránh lưu thông với không khí ngoài trời. Tại những vùng có mùa đông lạnh,

phía trong cửa sổ phải được bít kín bằng các tấm dính hoặc bằng băng dính.

Tại các khu vực lưu trữ có thể bịt các cửa sổ bằng các tấm ván lát tường hoặc

bằng băng dính.

Các nhà chuyên môn thường bất đồng về nhiệt độ và độ ẩm tương đối tối ưu

cho các tư liệu lưu trữ. Thông thường họ cho rằng nhiệt độ ổn định không cao

hơn 70 độ F, còn độ ẩm tương đối ổn định dao động trong khoảng tối thiểu là

30% và tối đa là 50%. Qua nghiên cứu cho thấy độ ẩm tương đối dao động ở

mức thấp thì tốt hơn vì khi đó tiến trình xuống cấp của tư liệu diễn ra ở tốc độ

chậm hơn. Nói chung, nhiệt độ càng thấp càng tốt. Nhiệt độ trong các khu

vực chỉ dành riêng cho lưu trữ nên thấp hơn nhiều so với nhiệt độ ở các khu

vực vừa dùng để lưu trữ vừa dùng để tra cứu.

Đôi khi nên lưu trữ các tư liệu ít sử dụng ở nhiệt độ lạnh có sử dụng thiết bị

điều chỉnh độ ẩm. Tuy nhiên khi lấy các tư liệu ra khỏi khu vực lưu trữ ở

nhiệt độ lạnh thì sự thay đổi nhiệt độ nhanh có thể làm cho các tư liệu đó bị

ngưng tụ hơi nước . Trong trường hợp như vậy cần phải có sự thay đổi nhiệt

độ dần dần để dễ thích nghi.Duy trì các điều kiện ổn định rất quan trọng. Thư

viện hay các cơ sở lưu trữ cần chọn lựa nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong

khoảng tối ưu, duy trì trong suốt 24 tiếng một ngày trong suốt 365 ngày trong

năm. Không bao giờ được tắt hệ thống điều chỉnh khí hậu cũng như không

đặt chế độ thấp hơn về đêm, vào cuối tuần hoặc vào bất cứ thời gian nào mà

thư viện và các nơi lưu trữ đóng cửa. Chi phí phát sinh do vận hành liên tục

hệ thống này sẽ ít hơn nhiều so với chi phí khắc phục bảo quản trong tương

lai để phục chế các hư hỏng do điều kiện khí hậu không đảm bảo.

Mặc dù nhiều thư viện và các nơi lưu trữ thấy thực hiện việc này rất tốn kém

và ngoài khả năng, nhưng qua thực tiễn và qua kiểm nghiệm cho thấy thời

hạn sử dụng của các tư liệu tăng đáng kể nhờ duy trì ổn định nhiệt độ và độ

ẩm tương đối. Tại những nơi không đủ điều kiện kinh tế hoặc thiếu hệ thống

máy móc để có thể duy trì các điều kiện tối ưu quanh năm thì có thể chọn tiêu

chuẩn ít nghiêm ngặt hơn trong mùa hè và mùa đông sao cho nhiệt độ và độ

ẩm tương đối sẽ thay đổi dần dần trong khoảng cho phép giữa hai mùa. Tiêu

chuẩn về nhiệt độ và độ ẩm tương đối theo mùa càng gần mức tối ưu càng

tốt. Đáng chú ý là các tư liệu không bằng chất liệu giấy có thể đòi hỏi nhiệt

độ và độ ẩm tương đối khác với các tư liệu bằng chất liệu giấy. Ngoài ra, việc

duy trì nhiệt độ và độ ẩm tương đối ở mức tối ưu có thể gây hư hại đến kết

cấu của toà nhà dùng để lưu trữ tư liệu, vì vậy không tránh khỏi những lựa

chọn mang tính thoả hiệp giữa các quyết định trên.

Cần đo và ghi lại nhiệt độ và độ ẩm tương đối một cách có hệ thống. Điều

này rất quan trọng vì các số liệu đó 1) nêu lên điều kiện môi trường mà các tư

liệu lưu trữ tư liệu; 2) làm cơ sở để yêu cầu lắp đặt hệ thống điều chỉnh môi

trường; và 3) chỉ ra liệu thiết bị điều chỉnh khí hậu đang sử dụng có hoạt

động hiệu quả và tạo ra một môi trường đủ tiêu chuẩn hay không. Nên nhớ

rằng một yếu tố thay đổi có thể làm các yếu tố khác thay đổi theo. Nếu đưa ra

các biện pháp không coi trọng đến tổng thể môi trường thì có thể sẽ làm tình

hình xấu đi chứ không cải thiện gì thêm. Cần phải biết ( thông qua các số liệu

đo được) thực trạng điều kiện môi trường như thế nào và phải xin ý kiến của

các kỹ sư có kinh nghiệm trong lĩnh vực điều chỉnh khí hậu trước khi đưa ra

các thay đổi lớn. Không nên quá nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tiếp

tục giám sát sau khi có các thay đổi.

Ánh sáng.

Ánh sáng cũng góp phần làm hỏng các tư liệu lưu trữ. Anh sáng có thể làm

suy yếu và làm giòn các sợi giấy và có thể làm giấy ngả màu vàng hoặc sẫm

lại. Ánh sáng cũng gây ra lớp trung gian, làm bạc màu hoặc đổi màu giấy,

làm cho giấy không đọc được và / hoặc thay đổi lớp ngoài của tài liệu, giấy

ảnh, các tác phẩm nghệ thuật. Bất cứ sự tiếp xúc nào với ánh sáng, cho dù chỉ

trong thời gian ngắn, đều gây hại, và tác hại đó bị tích lại và không thể thay

đổi được.

Ánh sáng bình thường được đo bằng độ lux (độ lumen trên một đơn vị mét

vuông) hoặc bằng độ phút nến. Một phút nến tương đương với 11 lux. Trước

đây, người ta định ra độ sáng cho các loại vật liệu nhậy sáng, trong đó có

giấy, là 55 lux (5 phút nến), và cho các vật liệu kém nhậy sáng với mức tối đa

là 165 lux (15 phút nến). Gần đây, các tiêu chuẩn trên đang gây ra tranh cãi

với lí do mỹ học và mức độ bạc màu khác nhau đối với các lớp trung gian

khác nhau.

Mặc dù tất cả các bước sóng ánh sáng đều có hại, nhưng tia cực tím (UV) là

có hại nhất đối với các tư liệu lưu trữ vì cường độ năng lượng cao của nó.

Tiêu chuẩn cho phép của tia cực tím là 75cmW/l. Ánh sáng mặt trời và ánh

sáng vonpham - halogien hoặc đèn thạch anh, đèn sạc sử dụng kim loại halide

hoặc thuỷ ngân với cường độ cao, và đèn huỳnh quang là một số nguồn sáng

gây hại nhất vì chúng sản ra một lượng lớn tia cực tím.

Vì toàn bộ tổn hại là sự kết hợp giữa thời lượng và cường độ của việc tiếp

xúc với ánh sáng, nên cần điều chỉnh ánh sáng ở mức thấp nhất ( phù hợp với

người sử dụng) và trong thời gian ngắn nhất cho phép. Tốt nhất là chỉ nên để

tư liệu tiếp xúc với ánh sáng khi có người sử dụng. Khi không có người sử

dụng, nên cất giữ tư liệu ở những thùng kín hoặc trong các phòng không có

cửa sổ và chỉ thắp sáng khi có người cần truy cập. Chỉ nên thắp sáng bằng

các bóng đèn ánh sáng nóng. Khi sử dụng tư liệu, nên thắp sáng bằng bóng

đèn có ánh sáng nóng. Cần chú ý rằng bóng đèn ánh sáng nóng sản sinh ra

nhiệt lượng và phải để xa khỏi tư liệu. Nên sử dụng đèn ở mức ánh sáng yếu,

và sử dụng càng ít càng tốt.

Nên che cửa sổ bằng rèm, các tấm bạt phủ hoặc các tấm ván sập để hoàn toàn

chặn ánh sáng mặt trời. Thực hiện việc này cũng giúp điều chỉnh nhiệt độ

bằng cách giảm thiểu năng lượng thất thoát và ngăn chặn sự sản nhiệt do ánh

sáng mặt trời vào ban ngày. Các toà nhà mái kính để ánh sáng mặt trời chiếu

thẳng vào tư liệu cần phải có biện pháp che phủ tránh ánh sáng mặt trời hoặc

sơn mái bằng titan đioxít hoặc bằng cách tráng kẽm trắng, nhờ đó có thể phản

xạ ánh sáng mặt trời và hấp thụ tia cực tím. Các tấm lọc làm bằng chất dẻo

đặc biệt cũng giúp hạn chế tia cực tím. Có thể sử dụng các tấm phim chất dẻo

hoặc các tấm kính chất dẻo lọc tia cực tím che cửa sổ để giảm lượng tia cực

tím chiếu qua. Tuy nhiên, các tấm lọc này không đảm bảo ngăn chặn hoàn

toàn tác hại do ánh sáng gây ra. Nên dùng các loại rèm, mành, vải che và cửa

sập có thể chặn hoàn toàn ánh sáng. Nên bọc các bóng đèn huỳnh quang bằng

các túi lọc tia cực tím ở những nơi phải chiếu sáng tư liệu. Để thay thế có thể

sử dụng loại bóng đèn huỳnh quang đặc biệt có lượng tia cực tím thấp. Nên

sử dụng các công tắc đèn hẹn giờ ở các khu lưu trữ để hạn chế thời lượng tư

liệu phải tiếp xúc với ánh sáng.

Nên tránh trưng bày tư liệu thường xuyên vì tư liệu chỉ cần tiếp xúc ít với ánh

sáng cũng có hại, nên trưng bày thường xuyên là hỏng hoàn toàn. Nếu bắt

buộc phải trưng bày tư liệu, thì nên trưng bày trong thời gian ngắn nhất và

dưới ánh sáng yếu nhất, nên sử dụng ánh sáng nóng. Không bao giờ được

trưng bày tư liệu ở những nơi có ánh sáng mặt trời chiếu thẳng, ngay cả khi

chỉ trong thời gian ngắn và khi đã che cửa sổ bằng các tấm lọc tia cực tím.

Chất lượng không khí

Các chất ô nhiễm cũng góp phần đáng kể làm hỏng các tư liệu lưu trữ. Hai

dạng ô nhiễm chính là dạng khí và dạng bụi. Các loại khí gây ô nhiễm chủ

yếu là khí đi-ô-xít sul-phua, khí ô-xít ni-tơ, khí pê-rô-xít, và khí ô-zôn, các

chất khí này xúc tiến các phản ứng hoá học có hại dẫn đến việc hình thành a-

xít trong các tư liệu lưu trữ. Đây là một vấn đề nghiêm trọng đối với các chất

liệu giấy và da, những chất liệu này đặc biệt dễ bị hỏng khi nhiễm a-xít. Giấy

sẽ bị mất màu và giòn, còn da sẽ nhũn và bị tơi ra thành bột. Các chất ô

nhiễm dạng bụi chủ yếu bao gồm bồ hóng, muội than, các chất bụi mài mòn,

bụi đất và các loạI vật liệu bị biến dạng.

Kiểm soát chất lượng không khí rất khó khăn và phức tạp và còn phụ thuộc

vào rất nhiều các yếu tố liên quan. Người ta đưa ra nhiều tiêu chuẩn khác

nhau về chất lượng không khí. Tuy nhiên, cho đến giờ thì biện pháp hữu hiệu

nhất vẫn là hạn chế các chất ô nhiễm ở mức thấp nhất.

Có thể khử các chất khí ô nhiễm bằng các thiết bị hoá lọc, các tháp đốt khí

hoặc dùng cả hai biện pháp trên. Các chất ô nhiễm dạng bụi có thể qua lọc

máy. Không nên sử dụng các thiết bị kết tủa tĩnh điện vì chúng sản sinh ra

khí ô-zôn. Các thiết bị rất khác nhau về kích cỡ và độ phức tạp: từ máy lọc

riêng lẻ gắn vào lỗ thông hơi, ống khói đến hệ thống các máy lọc không khí

cho cả toà nhà.

Các thiết bị cũng rất khác nhau về tính hiệu quả. Cần lưu ý rằng chọn các

thiết bị phải phù hợp với nhu cầu của các cơ sở thư viện và phù hợp với mức

độ ô nhiễm trong khu vực. Cần tuân theo lịch trình bảo dưỡng đều đặn, và

nên tham khảo ý kiến của các kỹ sư môi trường có kinh nghiệm.

Ngoài ra còn có nhiều biện pháp kiểm soát chất lượng không khí. Một biện

pháp là tạo ra không khí sạch đối lưu ở những khu vực lưu trữ, không khí đối

lưu càng sạch càng tốt. Cần chú ý đảm bảo không đặt các quạt thông gió ở

gần các nguồn gây ô nhiễm như gần các bãi đỗ xe tải. Một biện pháp khác là

đóng các cửa sổ thông ra bên ngoài. Biện pháp nữa là lưu trữ các tư liệu trong

bao bì đảm bảo chất lượng lưu trữ, nhờ đó ngăn chặn ảnh hưởng ô nhiễm đến

các tư liệu. Các loại bao bì mới hiện nay sử dụng các lớp gom phân tử như

than hoạt tính hoặc zê-ô-lít để chặn các chất ô nhiễm đã chứng tỏ là biện pháp

đặc biệt hữu hiệu. Biện pháp cuối cùng là phải loại bỏ càng nhiều càng tốt

các nguồn gây ô nhiễm. Có lẽ sẽ khó kiểm soát những nguồn gây ô nhiễm

chính như động cơ ôtô và máy móc công nghiệp. Tuy nhiên, có thể hạn chế

các nguồn ô nhiễm khác như khói thuốc lá, máy phôtô, một số loại vật liệu

xây dựng, sơn, vật liệu trám, đồ lưu trữ hoặc đồ trưng bàybằng gỗ, các thiết

bị làm sạch, đồ gỗ và thảm.

Nhiệt độ, độ ẩm tương đối, ánh sáng và chất lượng không khí, tất cả đều ảnh

hưởng đến tuổi thọ của các tư liệu lưu trữ. Nếu tuân thủ các hướng dẫn nêu

trên, chúng ta có thể kéo dài tuổi thọ của các tư liệu đó.