Thăm dò tác dụng bổ huyết của nhung nai

(Kỳ 1)

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Từ ngàn xưa ông cha ta đã biết sử dụng nguồn dược liệu phong phú từ cây

cỏ, động vật để làm thuốc chữa bệnh và phòng bệnh cho mình. Song song với lịch

sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vốn kiến thức y học dân tộc nói chung và

kinh nghiệm trong việc sử dụng các vị thuốc nói riêng đã được tích lũy.

Nhung hươu nai được xem là một vị thuốc quý xếp thứ hai sau nhân sâm

trong tứ bảo của thuốc y học cổ truyền: Sâm Nhung Quế Phụ, có tác dụng tăng sức

cơ thể, giảm sự mệt mỏi, nâng cao sức làm việc.

Theo Đỗ Tất Lợi Nhung hưu có tác dụng sinh tinh bổ tủy ích huyết, có

người còn cho nhung nai tốt hơn “nhung hươu” (sạch “Thuốc và động vật làm

thuốc Việt Nam” NXV khoa học kỹ thuật, tập 1).

Trong đó tác dụng bổ máu tăng hồng cầu thường được nhấn mạnh trong

các tài liệu y học và cả trong y học dân gian mà cơ chế là Lộc Nhung có khả năng

kích thích tủy xương sản sinh hồng cầu rất mạnh ngay cả khi suy tủy xương mắc

phải do nhiễm độc, hóa chất… Nhân có 1 số bệnh nhân ung thư bị thiếu máu sau

hóa trị có yêu cầu y học cổ truyền điều trị hỗ trợ điều trị phục hồi sức khỏe và

Nhung nai là 1 trong các phương tiện phục vụ yêu cầu bổ máu, được đánh giá kết

quả qua đề tài “THĂM DÒ TÁC DỤNG BỔ HUYẾT CỦA NHUNG NAI

TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ”

2. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu tổng quát: Đánh giá tác dụng của nhung nai trong điều trị

chứng thiếu máu trên bệnh nhân ung thư sau hóa trị..

2. Mục tiêu chuyên biệt:

- Đánh giá tác dụng lâm sàng của bột nhung nai trên chứng thiếu máu của

bệnh nhân ung thư sau hóa trị.

- Đánh giá cận lâm sàng của bột nhung nai trên chứng thiếu máu của bệnh

nhân ung thư sau hóa trị.

3. TỔNG QUAN

Nhung nai:

Tên khoa học: Cornu cervi parvum

Mô tả: Nhung nai là sừng non mới mọc, ngắn từ 5 – 10 cm, mềm chưa

phân nhánh, mịn có lông tơ, bóng, màu vàng hồng hặoc nâu, chứa rất nhiều mạch

máu. Sừng non bắt đầu phân nhánh được gọi là nhung yên ngựa.

Thành phần hóa học: Nhung nai chứa 52,2% protide, 2,5% lipide, chất

keo gelatin, muối khoáng 34% (calcium, sắt, magnesium, v.v…), chất đạm, và 1

chất nội tiết gọi là lộc nhung tinh.

Tác dụng dược lý: Nhung nai có vị ngọt, mặn, tính ôn, không độc vào kinh

can thận tâm, có tác dụng bổ dưỡng, sinh tinh, ích huyết, làm mạnh gân xương,

làm giảm hiện tượng mệt mỏi lao lực.

Công dụng liều dùng: Nhung nai chữa suy nhược thần kinh hen suyễn, di

tinh, ù tai, đau gối, đau lưng, băng huyết, rong kinh, bạch đới, mọi trường hợp hư

tổn trong cơ thể. Thường dùng dưới dạng bột, viên hay ngâm rượu với liều dùng

uống 1-3g (dạng bột)/ngày chia 2-3 lần. Tinh chất nhung hưu được pha chế thành

rượu, hoặc viên gọi là Pantocrin, ngày dùng 2-4 viên/ngày trước khi ăn chia 2-3

lần, dùng trong 15-30 ngày. Tác dụng rõ rệt trên lâm sàng ngay sau dùng 7 ngày.

Người Nhật cũng dùng lộc nhung dưới dạng viên tên gọi Rulodin để điều trị rối

loạn về sinh lý ở nam giới. Người dùng nhung hươu nai thấy sảng khoái, khỏe

mạnh, ăn nhiều, ngủ tốt. Không được dùng hươu nai trong trường hợp cao huyết

áp, đái đường, sơ cứng mạch máu

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng không lô chứng (giai đoạn 1)

- Dân số nghiên cứu: Tất cả các bệnh nhân ung thư sau hay đang hóa trị có

thiếu máu (so sánh trước khi hóa trị)

- Mẫu nghiên cứu: 30 bệnh nhân

- Phương pháp chọn mẫu: Ngẫu nhiên đơn thuần 30 bệnh nhân ung thư

sau hóa trị đến khám có các triệu chứng thiếu máu – suy nhược cơ thể (so sánh

trước khi hóa trị, thể đương hư, huyết hư).

* Tiêu chuẩn chọn = : Bệnh nhân có các triệu chứng

+ Chứng dương hư

- Mệt mỏi

- Sợ lạnh

- Đau lưng

- Di tinh, liệt dương

Có ¾ triệu chứng trên sẽ được chọn

+ Chứng huyết hư (thiếu máu)

- Xanh xao

- Chóng mặt

- Hồi hộp

- Mạch nhanh

- Tiếng thổi tâm thu cơ năng ở mỏm tim

- Hemoglobin (Hb) < 12g/dl. Hematocrit (Hct) < 35%.

Hồng cầu ngoại biên (HC)< 3,8 triệu/mm3.

Nếu có 2/3 triệu chứng cận lâm sàng, hoặc có 1/3 triệu chứng cận lâm sàng

trên và 3/5 triệu chứng lâm sàng của huyết hư sẽ được chọn.

Bệnh nhân phải tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu, không dùng bất cứ

loại thuốc nào kèm theo (nhất là các thuốc bổ đông tây y khác như sâm… các loại

vitamin B12. Các thuốc kích thích tủy xương như EPREX…) mà không có sự

đồng ý của nhóm nghiên cứu.

* Tiêu chuẩn loại:

- Không tuân thủ chế độ điều trị, uống thuốc, bỏ ngang điều trị (dưới 7

ngày)

- Có triệu chứng âm hư.

- Hemoglobin < 7g/dl