Từ Darwin đến H5N1
Virus bệnh cúm không ngừng biến hóa một cách khó hiểu được.
Về căn bản, bệnh cúm do virus Influenza gây ra, và gồm có 3 nhóm
chính: Influenza A, Influenza B và Influenza C.
Trong 3 nhóm này, chỉ có Influenza A là quan trọng nhất vì nó là
nguyên nhân của bệnh cúm ở các loài chim. Trong thực tế, virus Influenza A
rất phức tạp hơn người ta tưởng. Nó còn được chia ra làm rất nhiều nhóm
phụ (subtypes) bằng cách kết hợp 2 loại protein nằm ở mặt ngoài của virus.
Đó là protein H (Hemagglutinin) và protein N (Neuraminidase)...
H có dưới 16 dạng và được đánh số từ H1, H2…H16.
N có 9 dạng và được đánh số từ N1, N2…N9.
Virus gây bệnh cúm gia cầm Á châu H5N1 là virus có được qua sự
kết hợp giữa H5 với N1. Không những chỉ gây bệnh cho chim và gia cầm,
virus Influenza A còn có thể gây bệnh cúm cho người, và một vài loại động
vật như chó, heo, ngựa, hải cẩu và cá voi...
Các chủng virus mang chữ số H5, H7, H9 có thể lây nhiễm bệnh cúm
cho người.
Chủng H5N1 nguy hiểm nhất, gây dịch cúm gia cầm tại Á châu hiện
nay và đã lây lan sang Âu châu và Phi châu... Chủng H9N2 gây dịch cúm gia
cầm tại Hong Kong năm 1999... Chủng H7N7 gây dịch cúm gia cầm Hòa
Lan (2003)... Chủng H7N3 gây dịch cúm tại tỉnh bang British Columbia
Canada (2004). Từ 30 năm qua, H5 và H7 được ghi nhận là thường có khả
năng đột biến đặc biệt từ thể gây bệnh nhẹ (low pathogenic) sang thể rất độc
hại (very high pathogenic).
Đến giờ phút này thì chỉ có H5N1 là virus đáng sợ nhất, vì nó gây tử
vong hầu như 100% cho gia cầm và trên 50% cho người.
Trong số các loài thủy cầm, vịt trời là vật chứa tự nhiên (carrier) của
virus bệnh cúm. Cách sống thành từng đàn và sự di chuyển thường xuyên từ
nơi nầy đến nơi khác là những yếu tố thuận lợi để đem gieo rắc virus đến các
loài chim và gia cầm khác.
Tại Canada, các nhà khoa học đặc biệt quan tâm đến 2 chủng virus có
tầm tác hại cao, đó là H5 và H7. Để có một mô hình chung về các chủng
virus Influenza A mà loài thủy cầm có thể mang chứa, Canada mới đây đã
cho thực hiện một cuộc xét nghiệm (survey) rộng lớn ở 7 tỉnh bang. Có tất
cả 4.800 thủy cầm, mà đa số là các loài vịt trời khỏe mạnh đã được nghiên
cứu.
Người ta đã sử dụng que bông gòn (swab) để lấy mẩu phân trong hậu
môn của vịt trời và sau đó mẩu bệnh được gởi về phòng thí nghiệm để tìm
sự hiện diện của virus Influenza.
Sau nhiều tháng làm việc, ngày 31 tháng 10 năm 2005, kết quả sơ
khởi đã được đúc kết. Trong số 782 mẩu xét nghiệm của tỉnh bang Quebec,
có 28 mẩu biểu lộ phản ứng dương tính với H5. Riêng tỉnh bang Manitoba
có 5 mẩu dương tính với H5 trong tổng số 548 mẩu được xét nghiệm. Không
thấy có sự hiện diện của H7.
Cục Kiểm Tra Thực Phẩm Canada (CFIA) lập tức trấn an dư luận, và
tuyên bố một cách chắc chắn là những chủng virus H5 nói trên không nằm
cùng nhóm với chủng H5N1 Á châu. Được biết theo kết quả các xét nghiệm
có được từ trước tại Bắc Mỹ, trong điều kiện bình thường thì từ 0% đến
7,4% chim rừng đều có dương tính với H5 một cách tự nhiên.
Kết quả H5 tìm thấy tại Quebec theo ý nghĩa thống kê là 7% tức là
vẫn còn nằm trong giới hạn bình thường mà thôi.
Vịt trời là loài chim thường mang trong mình virus Influenza A mà
không hề bị bệnh. Trong cơ thể loài vịt, nhờ tác dụng của một loại enzyme
đặc biệt nên virus mới có thể định vị được trong thành ruột. Tuy virus có phá
hại thành ruột, nhưng nhờ vận tốc tái tạo của tế bào ruột nhanh hơn vận tốc
phá hại cho nên con vật không hề hấn gì. Đến một lúc nào đó, vì một lẽ bí
hiểm của tạo hóa, virus tự nhiên thay đổi cơ cấu, khoa học gọi là đột biến
(mutation), và trở thành một dạng virus khác độc hại hơn nên có thể đi xâm
lấn các cơ phận khác của con vịt và giết chết nó.
Hiện tượng đột biến đã tạo điều kiện cho virus thích nghi dễ dàng vào
môi trường mới, đồng thời cũng giúp nó cơ hội để bành trướng thêm lên
mãi...
Phải chăng virus H5N1 đã theo đúng con đường của thuyết tiến hóa
và chọn lọc tự nhiên mà nhà bác học Darwin đã đề xướng cách nay gần 200
năm?
Các nhà khoa học trên thế giới đều không còn nghi ngờ gì hết về sự
xuất hiện của một đại dịch toàn cầu, nhưng vấn đề ở đây là không
biết…chừng nào sẽ xảy ra mà thôi!
Nguyễn Thượng Chánh, DVM