Những sự kiện nóng
trong phê bình văn học
Trung Quốc 2006
Từ số 2 năm 2005, Văn nghệ tranh minh bắt đầu liên tiếp triển khai
cuộc thảo luận liên quan tới văn học “thế k mới”, thu hút các học giả
Trương Quýnh, Trn Hiểu Minh, Trương Di Vũ, Trình Quang Vĩ, Mạnh Phồn
Hoa, HThiệu Tuấn tham gia viết bài. Năm 2006, “văn học thế k mới”
trong sxây dựng và tranh lun, tiếp tục được đẩy tới, trước sau có đến
hơn mười nhà nghiên cứu triển khai thảo luận văn học thế k mới từ
nhiều khía cạnh. Bài n học thế kỷ mới: khái niệm sinh ra, tính liên quan
và đặc trưng thẩm mỹcủa Lôi Đạt và Nhậm Đông Hoa là mt bài viết có ý
đồ xây dựng tính hợp pháp cho khái niệm “văn học thế kỷ mới” sau
bài Bước đầu bàn về văn học thế kỷ mới - hướng đi của văn học thế kỷ
mới năm 2005. Bài viết liệt kê đủ mọi cố gắng để trù hoạch văn học trong
buổi giao thời giữa hai thế k của giới lý luận văn học kể từ những năm 90
tới nay, thừa nhn thực tiễn “văn học thế kỷ mới” chưa được hoàn thành
cần phải trình bày từ nhiều bình diện nữa để bổ sung cho khái niệm.
Những bài thảo luận Về văn học thế kỷ mới của nhóm Trương Di Vũ đã
chỉnh lý nhiều sự khác nhau về khái niệm thời k mới, hậu thời k mi và
văn học thế k mới, định ra nhiều biểu trưng của văn học thế kỷ mới... Một
thời gian, “văn học thời k mới” sau khi kết thúc nghi thức chính danh
ngắn ngủi tạm bợ đã được khuếch trương trên các phương diện, từ việc
qui hoch mạch lạc của lịch sử phát triển đương đại của văn học tới sự
qui nạp tình hình mới của lý luận văn học, từ phác thảo trạng thái chỉnh
thể của văn học đến miêu tả tỉ mỉ tình hình loi biệt văn học, thế là “văn
học thế kỷ mới” bắt đầu được xây dựng trên mọi phương diện lý luận rất
sinh động.
Theo chúng tôi, việc đặt tên “văn học thế kỷ mới” có mang theo ý vị
tiên nghiệm rất rõ ràng. Thực tế sáng tác của văn học có lẽ không thấu
triệt rõ rệt và lc quan với hiệu quả cao như quan niệm tiên nghiệm của
các nhà lý luận phê bình. Có l đây cũng là duyên cớ khiến việc đặt tên
văn học thế kỷ mới” bị một bộ phận học giả phê bình. Tng Nhất Vĩ đề
nghị, khi chúng ta dùng “văn học mới” để nhận định hoặc đặt tên cho văn
học, thì nên suy ngẫm lại với tinh thần phê phán tính tiền đề đối với ki
niệm thời gian lịch sử là “thế k mới”, chẳng nên hiểu giản đơn “tân thế
k mới” là mt khái niệm thời gian vật lý khách quan. Bản thân việc đặt
tên có tính thời gian này tỏ rõ chúng ta vn ngừng trệ ở vô vàn ảo tượng
thần thoại của tính hiện đại, nó dễ khiến chúng ta bị che lấp hoặc quên
lãng ý thức nguy cơ về tính hiện đại trong văn học thế kXX. Trần Tư
Quảng cho rằng, tuy về mặt thời gian mà nói, “thế kỷ mới” quả thực đã bắt
đầu và không ngừng hoà vào lch sử, nhưng văn học lại chưa cùng bước
vào “thế kỷ mới”. “Văn học thế k mới” chỉ là tâm nguyện và ý tưởng tốt
đẹp khi người ta xây dựng mạch phát triển văn học đầu thế kỷ chứ chưa
phải là sự trình diện khách quan của chính bản thân sự phát triển văn học.
Nếu so với năm 90, văn học đầu thế kỷ thực chẳng có bước tiến đột xuất
nào về chất. Những phân tích toàn diện hơn đến từ bài Văn học thế kỷ mới
trong lời thoại phê bình của thế kỷ mới - lấy việc xây dựng văn học thế kỷ
mới trên Văn nghệ tranh minh làm ví dụ của Lưu Vệ Đông. Sau khi so sánh
với Tân văn học đại hệ do Triệu Gia Bích tổ chức biên soạn đầu thế k XX,
bài viết chỉ ra “văn học thế k mới thiếu những thành qutương tự như
văn học mới, những người tham dự cũng thiếu tự tin đối với những thành
quả ấy, hơn nữa phần lớn học giả khi luận chứng tính hp pháp của “văn
học thế kỷ mới” cũng thiếu xem xét tính hợp pháp của ngôn luận “tự
thân”.
Trong tương lai có thể dự kiến, “văn học thế kỷ mới” vẫn là một
điểm nóng để thảo luận, nhưng, nếu “văn học thế kỷ mới” không cách gì
hình thành scắt đứt với văn học thời kỳ mới, nhất là với văn học những
năm 90, không cách gì tìm thy sự thiết lập nội tại từ tự thân thì sng
cạn và tản mạn về khái niệm e rằng khó tránh khỏi.
5. Tranh luận về lập trường viết về tầng đáy xã hội(*)
Cuộc thảo luận về tầng đáy xã hội trực tiếp bắt đầu từ một cuộc
tranh luận và đường mạch của cuộc tranh luận ấy năm 2005, kéo dài cho
tới năm 2006. Nam Phàm trong bài Độty quanh co – trình bày kinh
nghiệm về tầng đáy xã hội cho rằng: kinh nghiệm về tầng đáy xã hi thuần
tuý chỉ là một ảo giác của chủ nghĩa bản chất, những biểu đạt thành công
kinh nghiệm về tầng lớp mới thường đến từ cuộc đối thoại của các trí
thức với tầng đáy xã hội. Không tính trước mà lại trùng hợp là Vương
Hiểu Hoa trong bài n học đương đại làm thế nào để mô tả tầng đáy xã
hội - t cuộc tranh luận về lập trường viết về tầng đáy xã hội mà nói đã
nêu ra tính hư ảo của việc “văn học hướng về tầng đáy xã hội”, “văn học
vì tầng đáy xã hội”. Nam Phàm cho rằng, đối thoại là một hình thức giúp
ích cho vic ức chế chủ nghĩa chuyên chế và ý thức áp bức, tái hiện mối
quan hệ đối thoại giữa trí thức với tầng đáy xã hi, hơn nữa trong cuộc
đối thoại trên mạng có thể phân biệt, đúc rút và đọc hiểu yêu cầu muốn
y tỏ của tầng đáy xã hội, tưởng tượng ra số phận chân thực của nhân
vật ở tầng đáy xã hội. Còn theo Vương Hiểu Hoa tư thái y vẫn không
thoát khỏi khuôn mẫu của việc nói thay cho tầng đáy xã hội. Sự khác biệt
giữa “vì nói thay cho tầng đáy xã hội” với “tầng đáy xã hội tự nói” ở chỗ
lý giải khác nhau về danh từ quần thể là “tầng đáy xã hội” với cụm khái
niệm liên quan như nhân dân, công dân, v.v... Cũng theo Vương Hiểu Hoa,
cá thể tuyệt đối không phải là đối tượng của sự thương cảm, sự đồng tình
và quan tâm, mà chính là chủ thể quyền lợi – công nhân. Với tư cách công
dân, h bình đẳng như trời vốn sinh ra với nhà văn học, nhà văn học
không hề có quyền trời cho nào để nói thay cho công dân khác.
6. Tranh luận giữa Hàn Hàn và Bạch Việp
Hiện trạng và tương lai của lớp sau 8X vốn là bài viết của Bạch Việp
đăng trên tạp c Trường thành số 6 năm 2005. Bài viết cho rằng: “Từ góc
độ của văn học mà nói, sáng tác của lứa sau 8X về chỉnh thể không đáng
gọi là sáng tác văn học, nhiều nhất chỉ có thể gọi là sáng tác văn học
nghiệp dư. Trước đây tôi đã nói lứa tác giả “sau 8X” và tác phẩm của họ
bước vào được thị trường nhưng chưa vào nổi văn đàn; Đó là do cảm xúc
về việc rất ít “tác giả ngôi sao” trong số họ có mặt trên nhng tạp chí văn
học. Văn đàn ch biết tên mà không biết con người và văn chương của họ.
Còn hhình như đã tho mãn với thành công ca mình nhưng chưa có ý
hướng ra khỏi thị trường để đến với văn đàn”. Ngày 24/2/2006, Bạch Việp
đưa bài y lên blog của mình. Ngày 2/3/2006, Hàn Hàn cũng đáp lại trên
blog ca mình dẫn tới một trận chiến nước bọt giữa nhà văn lứa sau 8X và
nhà phê bình.
Cuộc tranh luận giữa Hàn Hàn và Bạch Việp khiến tôi nghĩ đến một
chuyện tiếu lâm kinh điển về cuộc xung đột giữa Palestin và Israel: “Một
con bcạp nhờ một con chẫu chàng cõng qua sông. Chẫu chàng không
đồng ý, nói nhỡ đến giữa sông anh cắn một phát thì tôi chết mất. Bò cạp
nói điều đó không thể có, nếu tôi cắn thì anh rõ ràng trúng độc mà chết
nhưng tôi lại không biết bơi, cho nên cũng chết đuối theo. Chẫu chàng
nghe có lý bèn đồng ý. Đến giữa sông, chẫu chàng qunhiên bị bọ cạp
cắn. Trước lúc chết, chẫu chàng đau đớn hỏi bọ cạp sao làm vy. Bọ cạp
đáp: Vì đây là đất Palestin”.
Nếu bối cảnh của câu chuyện này đổi lại là văn đàn Trung Quốc thì
cũng giống ý như vậy. Bạch Việp có thể cũng có nỗi nghi hoặc như vậy:
Hàn Hàn sao lại cạn tàu ráo máng đến thế? Câu trả lời của Hàn Hàn s
giống như của bọ cạp: vì đây là website liên kết. Mà tôn ch chủ nghĩa liên
kết là lật ngược và phản bác. Đương nhiên quan hệ tượng trưng của câu