Xích Qu- Việt - Sở, những nghi vấn nguồn gốc
3
iii) Ta cũng để ý đầu óc mấy ông Tàu cũng rất phức tạp và tinh vi chỗ hết dùng
phương hướng họ lại dùng đến màu sắc để phân biệt đám rợ này với nhóm rợ kia.
Y hệt như cái thuyết Ngũ Hành. Theo ngũ hành hKim Mộc Thủy Hỏa Thổ,
tương ứng với Tậy Đông Bắc Nam Trung, và với các màu Trắng Xanh Đen Đỏ
Vàng. Đủ kiểu dáng để tha hồ phân biệt. Đối với 'Xích Địch' họ gọi đó đám rợ da
màu thchu (đất đỏ) để phân biệt với các đám U Man (Wu man), tức rợ da màu
đen đen - lchỉ Thái đen, đám Bạch Man hay Bạch Di, tức rợ da hơi trắng.
Đám U man, có tài liệu [11] cho biết, cư ngụ tại địa bàn Nam Chiếu (Vân Nam) và
DLang (QChâu), cũng thuộc địa bàn chng Thái, chứ không phải chủng Lạc.
Đặc biệt nước rợ Việt của Câu Tiễn cũng từng được gọi U Việt, lẽ người 'Việt'
đó hồi xưa da ngâm ngâm đen, trnàng Tây Thi? Theo Lăng Thun Thanh,
thư tịch Trung Hoa cổ thời gọi hai khối Yi (Di) và Yueh (Việt), đám rợ đen (U
man) [12]. Rất lộn xộn, nhưng theo thiển ý, có vẻ cả hai khối Đông Yi miệt n
Đông và Bách Việt phía Nam sông Dương Tử đều có các nhóm da màu đen đen
(iv) Phân biệt 'U man', 'Xích địch' cũng là phân biệt với 'Bạch Man' hay 'Bạch Yi'.
một đám quỷ, đám rợ, da trăng trắng. Bạch Man lẽ được người Hoa dùng để
ch đám rợ Nguyệt Chi (còn gọi Nhục Chi) tức Turkistan hay Tokhares hoặc
Tocharians, ngày nay hưa gọi Tujia (Thgia) - gốc da trắng. Ngày xưa có
thhọ là chnhân nước Ba [15], nằm cạnh nước Thục. Đám Thổ gia (Tocharians)
chính đóng góp của chủng da trắng đối với chủng Tàu nguyên thủy [1]. Họ xuất
phát tTrung Á, và thiết lập nên nhiu tiểu quốc trên con đường Lụa (Silk
Road). Sau cùng một nhóm về định cư Trung Đông, trở thành nước Thổ Nhị
Kỳ (Turkey) ngày nay. Đây chỉ một trong nhiều giả thuyết.
(v) 'Xích Quỷ' mang nghĩa loài quda màu đỏ, và cuối 'quyển Mã Lai' [1],
tác giả có mô tả một loại người dân tộc (người Kha Lá Vàng ở biên giới Việt Lào)
nói thtiếng Việt rất cổ da màu đất đỏ, màu 'thchu'. Với hàm ý, rất thể
người Kha là hậu duệ của dân ‘Xích Quỷ’. một đoạn khác tác giả 'Mã Lai' cho
biết dân Khả Vàng rất nhiều đặc tính cổ thời của dân Việt, mà chúng tôi
mạo muội bắt đầu phác hoạ sphân biệt giữa chủng Thái-cvà Việt-cổ. Dân Kha
đủ thứ sắc thái của chủng Yueh-c: m mình, nhuộm răng, ăn trầu, điêu đề
(xâm trán), cũng như nói tiếng Việt rất cổ [13]. Tuy nhiên, tiếng Việt cổ của n
Kha gần với tiếng Mường n tiếng Việt. Điều này cho biết, theo với thuyết giải
đây, người Kha thuộc chủng Thái cổ chứ không phải Việt cổ. Thuộc đám
theo Âu Cơ, với chủng Âu (Thái-cổ).
(vi) 'Xích Quỷ' là một tên gọi thuần Hán. Do các c giả Việt thể thân-Mường,
hay thân-Thái-ctức nghiêng v'phe' của vua Lê Lợi (gốc Mường), đặt ra nhằm
đề cao vai trò lãnh đạo của chủng Thái-c trong cuộc di tản về Nam hay dựng
nước. Hoặc vinh danh chính triều đại nhà vào lúc các btruyện như 'Việt Điện
U Linh' hay 'Lĩnh Nam Chích Quái' ra đời. Nó đi đôi với tên xưng và địa danh của
toàn btruyền tích con rồng cháu tiên. Đặc biệt những chuyện tích thơm danh
chủng Việt như những cây gươm báu của Việt Vương Câu Tiễn, hai thanh kiếm
Mạc Da Can Tương nước Ngô (chủng Việt) [4], hoặc truyện tích Tây Thi gái
nước Việt, đã 'bị' hoàn toàn gạt ra khỏi các truyền ch nằm trong cổ sử Việt.
Chúng tôi hy vọng sẽ trở lại đề tài này trong một bài khác.
(vii) Tr lại với chuyện chủng Thái-cthể một số mang da màu thchu (đất
đỏ), nhiều tài liệu về việc khai quật các ngôi mộ cổ ở Bắc Bộ (thí dụ: xem [8]) cho
thấy người chết được chôn cất, co gấp hai tay hai chân trong thế bó gối, giống như
dân hải đảo Thái Bình Dương [14]. Ngoài ra chung quanh 'ngôi mộ còn thấy
dấu vết của thổ hoàng màu đnhư màu máu càng về sau, người ta thấy cùng
chôn với người chết còn những dụng cnrìu, nạo và sau cđồ gốm thì
người ta hiểu rằng có thể những người tối cổ đã tin tưởng là con người còn linh
hồn và khi chết thì linh hồn sẽ đi sang một thế giới khác để có một đời sống khác,..
[8]'.
(viii) Đọc lại sử sách hoặc địa lý Trung quốc (thí dụ [4]) chúng ta sẽ thấy vùng đất
ở khu vực Trùng Khánh TXuyên, tức nước Thục cổ a với chủng Thái chủ lực,
gồm toàn đất ... đỏ. Như vậy, khá rõ, chủng Hoa ngày xưa dùng chữ 'Xích địch' để
chỉ đám rợ có da màu thchu của đất đỏ.
Xin thghi lại các sự kiện liên quan đến 'Xích Quỷ' ở trên:
- Tác giả chính hay nguyên thủy của truyền thuyết người Việt chủng Thái-cổ;
- Xích Quỷ là quốc hiệu đầu tiên của truyền thuyết rồng tiên;
- Xích Qumang nghĩa chính: giống Rợ có da màu đỏ. Một thứ từ do Hoa chủng
đặt ra;
- Khối dân tộc chủ lực của Xích Quỷ chính là dân chủng Âu, tức Thái cổ;
- Người Kha Lá Vàng biên giới Việt-Lào có da màu thổ chu;
- Một số ngôi mộ của người Việt-cổ đã khai quật cho thấy dấu vết của đất đỏ;
- Nước Thục, chủng Thái, ở vùng Tứ Xuyên ngày nay, có rất nhiều đất đỏ;
- Thục bị Tần tiêu diệt vào khoảng năm 316 TCN;
- Dân Thục chủng Thái di tản sang Sở, và một số xuôi về Nam gia nhập cộng đồng
Tây Âu (tức Âu Việt), Điền Việt (Nam Chiếu) sau cùng, bình nguyên sông
Hồng.
Như vậy chúng ta thể tổng hợp lại như sau: Xích Quỷ chính là một 'nước' trong
trí tưởng tượng rất phong phú của các tác giả truyền thuyết - người Việt thuộc
chủng Thái-chay thân-Thái-cổ. Những người 'lãnh đạo' nước Xích Quđó bao
gồm những người di tản Việt chủng Thái, xuất phát từ một xứ nhiều đất đỏ
mang tên Thục. Nước Thục đã bị nước Tần tiêu diệt vào khoảng năm 316 TCN.
'Nước Xích Quỷ' do đó được đặt ra và nhét vào truyền thuyết con rồng cháu tiên,
để tự an ủi việc mất lãnh thvào tay Hoa chủng - lkhởi đầu bằng nước Thục
(316 TCN). Sau đó đến lượt nước Sở rồi Tây Âu. Cũng thể để ghi lại lịch
ban đầu cho thật rõ: dân Việt có nguồn gốc dân từ những nước đã bmất về tay
Hoa chủng. Đặc biệt Thục và Sở.
Câu chuyện di tản do chuyện mất nước kết thúc khi một người nước Thục mang
tên Phán (Thục Phán) lãnh đạo được đoàn người di tản - đa số xuất phát tnhững
nước đã mất về tay Hoa chủng - đến vùng bình nguyên sông Hồng và thiết lập nên
xÂu Lạc, bao gồm hai chng nòng cốt Âu và Lạc. Đó cũng lúc Âu thành
hôn với Lạc Long Quân.
KẾT
Qua loạt bài v giải mã truyền thuyết con rồng cháu tiên, đến đây chúng ta đã
thấy, mặc dù câu chuyện bắt đầu với Thần Nông, Đế Minh, Đế Nghi - nhưng
đến lúc Lộc Tục xuất hiện với danh xưng Kinh Dương Vương, câu chuyện đã b
'fast forward' theo kiểu bấm nút cho băng video quay nhanh sang đến thời Xuân
Thu Chiến Quốc bên Tàu với địa điểm xảy ra câu chuyện là nước Sở.
Nước Slà một nước được thành lập theo kiểu chư hầu phên dậu cho nhà Châu.
Thành phần dân chúng chủ lực của Sở chính là chủng Thái-cổ, thường gọi Âu vào
thời đó. Từ đó câu chuyện giới thiệu bà Âu Cơ, tiêu biểu cho chủng Âu, con gái
theo hmẹ y như hình mẫu hệ. Nhân vật Kinh Dương Vương cũng là một cái
đinh của câu chuyện, bởi Kinh Dương Vương biểu tượng cho những người dân
châu Kinh châu Dương. Cả hai đất Kinh Dương cũng đều thuộc nước S
vào thời cực thịnh trong thế kỷ thứ 4 trước ng Nguyên. Đất Kinh còn gọi Kinh
Cức hay Kinh Việt, hoặc Kinh Man. Kinh chnúi Kinh, và Cức là một loại cây có
gai vùng đó. Đất Kinh địa bàn ban đầu của Sở chứa đa số dân Việt thuộc
chủng Thái. Đất Dương nằm về phía Đông Nam của đất Kinh, ra tận tới biển, bao
gồm những vùng đất quân Sở đã thôn tính được từ đám dân Việt chủng Lạc hai
nước Ngô và Việt xa xưa.
Bởi trong tên Kinh Dương Vương ch'Dương', chỉ chủng Lạc tức Việt-cổ, con
của Kinh Dương Vương là Lạc Long Quân mới mang được huyết thống của chủng
Việt-c100%. Phối hợp với Âu , chủng Âu tức Thái-c 100%. Hôn nhân giữa
Âu và Lạc sinh ra 100 người con mang hai giòng máu Thái Việt. Cuộc hôn