
Đại học Nguyễn Tất Thành
45
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Vol 7, No 5
Phân lập và xác định đặc điểm các dòng nấm men từ men rượu
trên địa bàn thành phố Cần Thơ
Huỳnh Quốc Huy1*, Nguyễn Thị Mỹ Trinh1, Trần Thị Như Ngọc1, Lưu Minh Châu1,
Nguyễn Ngọc Thạnh1, Đoàn Thị Kiều Tiên2, Huỳnh Xuân Phong1,**
1Viện Công nghệ Sinh học và Thực phẩm, Trường Đại học Cần Thơ
2Khoa Công nghệ Sinh hóa - Thực phẩm, Trường Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Cần Thơ
*huym0522003@gstudent.ctu.edu.vn, **hxphong@ctu.edu.vn
Tóm tắt
Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân lập các dòng nấm men từ các mẫu men rượu
trên địa bàn thành phố Cần Thơ và xác định một số đặc điểm của các dòng nấm men
được phân lập như khả năng chịu cồn, khả năng chịu nhiệt, khả năng kết lắng và khả
năng sinh H2S. Từ đó có thể lưu trữ được nguồn nấm men thuần dòng để ứng dụng vào
quá trình lên men rượu gạo tại địa phương. Kết quả nghiên cứu đã phân lập được 12
dòng nấm men từ 5 mẫu men rượu. Khi đánh giá hoạt tính chịu cồn, các dòng nấm men
này đều chịu được nồng độ cồn ở mức 8 % v/v, trong đó có 10 dòng chịu được nồng độ
cồn ở mức 12 % v/v. Tất cả dòng nấm men phân lập được đều có khả năng phát triển ở
nhiệt độ 30 oC và 37 oC, 8 dòng có khả năng phát triển ở nhiệt độ 40 oC và 3 dòng có
khả năng phát triển ở nhiệt độ 45 oC. Ngoài ra, 12 dòng nấm men phân lập được đều
không sinh H2S và có khả năng kết lắng tốt.
® 2024 Journal of Science and Technology - NTTU
Nhận 04/09/2024
Được duyệt 12/11/2024
Công bố 28/12/2024
Từ khóa
chịu cồn, chịu nhiệt,
lên men ethanol,
men rượu, nấm men
1 Đặt vấn đề
Rượu được sử dụng như là một nét văn hóa của người
Việt đã có từ lâu đời, mang đậm dấu ấn truyền thống,
gắn với những tập tục sinh hoạt của cộng đồng. Mỗi
vùng miền, tộc người có cách lên men rượu khác nhau,
mang bản sắc riêng của từng dân tộc, trong đó phổ biến
nhất có thể kể đến đó là rượu gạo. Từ xưa, quá trình sản
xuất rượu thường dựa vào hệ vi sinh vật bên ngoài môi
trường để ủ và cho lên men tự nhiên. Tuy nhiên,
phương pháp này thường cho kết quả không ổn định.
Bằng nhiều kinh nghiệm, người ta đã chọn khối ủ tốt
nhất và giữ lại một phần để sản xuất cho mẻ sau. Mặc
dù phương pháp này ổn định hơn so với việc phụ thuộc
vào hệ vi sinh vật tự nhiên, nguồn giống không thể bảo
quản được lâu. Do đó, bánh men đã được tạo ra từ
những khối ủ tốt nhất, bằng cách tạo hình chúng với cơ
chất, sấy khô và bảo quản để sử dụng dần. Bánh men
rượu thường chứa các vi sinh vật như nấm men, nấm
mốc và các vi khuẩn khác, có khả năng chuyển hóa
đường thành cồn và các sản phẩm phụ khác.
Quá trình sản xuất rượu gạo có thể được thực hiện bằng
cách nghiền bánh men thành bột và được trộn vào gạo
nấu chín, ủ hiếu khí (1-2) ngày. Sau đó, thêm nước vào
và thực hiện quá trình lên men kỵ khí khoảng (3-4)
ngày. Sau khi kết thúc quá trình lên men, toàn bộ
nguyên liệu lên men được chưng cất để thu sản phẩm.
Chất lượng bánh men rượu là một trong những yếu tố
quyết định đến sản lượng, chất lượng cũng như đặc
https://doi.org/10.55401/je7tmb84

Đại học Nguyễn Tất Thành
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Vol 7, No 5
46
trưng của sản phẩm rượu. Do đó, việc sử dụng nguồn
giống vi sinh vật thuần dòng có hoạt tính cao và có tính
ổn định trong quá trình lên men rượu là rất cần thiết [1].
Chính vì tầm quan trọng của bánh men trong quy trình
sản xuất rượu, một số nghiên cứu đã được thực hiện để
nâng cao chất lượng của bánh men cũng như chất lượng
của rượu làng nghề. Kết quả nghiên cứu quy trình sản
xuất men riềng tại phường Quảng Long, thị xã Ba Đồn
tỉnh Quảng Bình và kết quả cho thấy rượu thành phẩm
có chất lượng tốt hơn so với men truyền thống tại thị
trấn Quán Hàu [2]. Trong nghiên cứu phân lập và đánh
giá hoạt tính của các dòng nấm men, nấm mốc trong
các loại bánh men của các làng nghề sản xuất rượu tại
các huyện Hoàng Su Phì và Quản Bạ (tỉnh Hà Giang)
đã tuyển chọn được nấm mốc Aspergillus niger
NLN.218 và nấm men Saccharomyces cerevisiae
RLN.168 có hiệu suất lên men đạt 93,07 % ở nồng độ
đường 18,14 %, độ cồn đạt 11,2 % v/v. Kết quả đánh
giá cảm quan cho thấy, tất cả các mẫu thử nghiệm có
điểm cảm quan thị hiếu cao hơn mẫu đối chứng được
sản xuất từ loại bánh men truyền thống [3].
Nấm men là vi sinh vật điển hình trong việc lên men
chuyển hóa đường thành rượu. Bên cạnh khả năng này,
trong sản xuất rượu, người ta còn quan tâm đến một số
hoạt tính khác của nấm men như khả năng chịu nhiệt,
cồn, khả năng kết lắng và sinh H2S. Hiện nay, hiệu ứng
nhà kính đang làm cho trái đất ấm dần lên và nhiệt độ
vẫn tiếp tục tăng dần trong tương lai. Việt Nam có khí
hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ tăng khá cao vào mùa
khô, càng gây khó khăn trong việc sản xuất ethanol
bằng nấm men do quá trình lên men thường diễn ra tốt
trong khoảng (28-33) °C. Việc sử dụng nấm men chịu
nhiệt độ cao có thể giúp cho quá trình lên men diễn ra
nhanh, nguy cơ nhiễm vi sinh vật giảm, giảm nồng độ
oxy, chất khí khác,..., [4] và giảm được chi phí đầu tư
cho thiết bị làm mát, mang lại lợi ích kinh tế [5]. Ngoài
ra, nồng độ cồn trong môi trường cũng tác động đáng
kể đến hoạt động của nấm men, nấm men không chịu
được nồng độ cồn cao sẽ dễ bị ức chế trong quá trình
lên men dẫn đến hiệu quả lên men không cao. Hơn nữa,
nấm men có khả năng kết lắng sẽ là một lợi thế trong
quá trình sản xuất rượu, giúp làm trong sản phẩm và
nâng cao chất lượng sản phẩm cuối cùng. Cuối cùng,
cần kiểm tra đặc tính sinh H2S của nấm men để tránh
gây mùi không mong muốn trong rượu.
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm phân lập và tuyển chọn
nấm men từ men rượu có khả năng chịu nhiệt, chịu cồn,
lắng tốt và không sinh H2S để ứng dụng trong lên men
và sản xuất rượu nhằm tăng hiệu suất lên men, nâng cao
chất lượng sản phẩm, cũng như lưu trữ nguồn gen tốt
của bản địa, góp phần làm phong phú thêm sự hiểu biết
về đa dạng sinh học.
2 Phương pháp nghiên cứu
2.1 Vật liệu và hóa chất
Năm mẫu men rượu được thu thập tại các cơ sở sản xuất
rượu tại huyện Phong Điền và quận Ninh Kiều (thành
phố Cần Thơ). Các cơ sở thu mẫu bao gồm: cơ sở cô
Màng (CM, khu dân cư 91B, phường Xuân Khánh,
quận Ninh Kiều); cơ sở Mười Lực (ML, ấp Thới Giai,
xã Giai Xuân, huyện Phong Điền); cơ sở Út Bình (UB,
ấp Thới Giai, xã Giai Xuân, huyện Phong Điền); cơ sở
Tư Vũ (TV, ấp Tân Long B, huyện Phong Điền); cơ sở
cô Ba (CB, đường Nguyễn Văn Cừ, phường Cái Khế,
quận Ninh Kiều).
Hóa chất: môi trường sử dụng trong nghiên cứu bao
gồm: môi trường YPD (yeast extract 0,5 % - peptone
0,5 % - D-glucose 2 %), môi trường Sabouraud, môi
trường LA (lead acetate 0,1%, ammonium sulfate 0,02
%, yeast extract 0,5 %, peptone 0,3 %, glucose 4 %).
Các hóa chất sử dụng trong nghiên cứu được cung cấp
từ công ty Himedia (India) và Xilong Scientific
(China).
2.2 Phương pháp
2.2.1 Phân lập và xác định hình thái của các dòng nấm
men từ men rượu
Cho 5 g mẫu men rượu vào bình tam giác có chứa
95 mL môi trường YPD. Ủ lắc ở nhiệt độ phòng (28-
32) ℃ trong (24-48) giờ. Dịch tăng sinh được pha
loãng đến nồng độ thích hợp. Sau đó, 0,1 mL dịch pha
loãng được trải trên môi trường thạch YPD và ủ ở
30 °C trong (24-48) giờ. Thực hiện cấy chuyển nhiều
lần đến khi thu được các dòng nấm men thuần. Ghi
nhận đặc điểm khuẩn lạc và tế bào của các dòng nấm
men được phân lập.
2.2.2 Khảo sát khả năng chịu cồn của nấm men

Đại học Nguyễn Tất Thành
47
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Vol 7, No 5
Các dòng nấm men được phân lập sẽ được nuôi cấy
trong 10 mL môi trường YPD có chứa (8, 12, 16, và
20) % v/v ethanol tinh khiết và ủ ở 30 °C trong (48-72)
giờ. Sau đó cấy lên môi trường YPD agar và ủ ở nhiệt
độ 30 °C trong (48-72) giờ. Nếu nấm men phát triển
trên môi trường YPD agar chứng tỏ có khả năng chịu
được nồng độ cồn thử nghiệm [6].
2.2.3 Khảo sát khả năng chịu nhiệt của nấm men
Các dòng nấm men được phân lập sẽ được cấy trên môi
trường YPD agar và ủ ở các nhiệt độ khác nhau gồm
(30, 37, 40 và 45) °C. Quan sát sự phát triển của nấm
men từ 24 giờ đến 96 giờ. Nếu nấm men phát triển trên
môi trường YPD agar chứng tỏ có khả năng phát triển
ở nhiệt độ thử nghiệm [7].
2.2.4 Khảo sát khả năng kết lắng của nấm men
Các dòng nấm men được phân lập sẽ được nuôi cấy
trong 10 mL môi trường Sabouraud được điều chỉnh 18
oBx bằng đường saccharose và ủ ở 30 °C trong 72 giờ.
Sau đó, ống nghiệm lấy ra được lắc đều, rồi bắt đầu đo
chiều cao đoạn lắng trong ở các ống nghiệm mỗi ngày.
Nếu nấm men có khả năng lắng tốt thì trong 7 ngày sau
khi lên men, chiều dài đoạn dịch trong > 75 % chiều
cao của khối môi trường lên men. Nấm men có khả
năng lắng trung bình, chiều dài đoạn dung dịch trong
chiếm (50-75) % chiều cao của khối môi trường lên
men. Nấm men có khả năng lắng yếu, chiều dài đoạn
dịch trong chiếm (25-50) % chiều cao của khối môi
trường lên men, nếu chiều dài đoạn dịch trong nhỏ 25
% chiều cao của khối môi trường lên men, thì nấm men
không lắng [8].
2.2.5 Khảo sát khả năng sinh hydrogen sulfide (H2S)
của nấm men
Các dòng nấm men được phân lập sẽ được cấy trên môi
trường LA agar và ủ ở 30 °C trong 10 ngày. Nếu nấm
men không sinh H2S thì khuẩn lạc phát triển không biến
đổi màu, nấm men sinh H2S ít thì rìa của khuẩn lạc có
màu nâu nhạt hoặc màu nâu đen, nấm men sinh nhiều
H2S toàn bộ khuẩn lạc sẽ có màu đen [8].
2.2.6 Phương pháp phân tích và xử lí số liệu
Kết quả được xử lý và vẽ biểu đồ bằng phần mềm
Microsoft Excel 2013 (Microsoft Corporation, USA).
Số liệu được xử lý và phân tích thống kê bằng phần
mềm thống kê Statgraphics Centurion XV (Statpoint
Technologies Inc., USA), khác biệt có ý nghĩa tại giá
trị p < 0,05.
3 Kết quả và thảo luận
3.1 Kết quả phân lập và xác định hình thái của các dòng
nấm men từ men rượu
Trong nghiên cứu này, từ 5 mẫu men rượu khác nhau
được thu thập tại 5 cơ sở trên địa bàn thành phố Cần
Thơ, tổng cộng 12 chủng nấm men đã được phân lập và
kết quả một số đặc điểm hình thái được thể hiện trong
Bảng 1. Kết quả cho thấy 12 chủng nấm men thuần đã
được phân lập và chia thành 4 nhóm hình dạng tế bào
khác nhau, bao gồm hình cầu lớn, cầu nhỏ, oval lớn và
oval nhỏ. Tế bào nấm men có các hình dạng phổ biến
như hình cầu, hình oval, hình elip, hình trụ và đôi khi
kéo dài thành hình sợi. Nấm men có thể thay đổi hình
dạng và kích thước tùy thuộc vào giai đoạn phát triển
và điều kiện môi trường. Điều này cho thấy sự đa dạng
về hình dạng tế bào của các dòng nấm men phân lập từ
men rượu. Khi phân lập trên môi trường YPD, khuẩn
lạc nấm men đều có hình tròn đều, bề mặt trơn láng
hoặc xù xì, bìa nguyên hoặc bìa răng cưa, với màu sắc
chủ yếu là trắng sữa hoặc trắng trong. Quan sát dưới
kính hiển vi cho thấy tất cả các dòng nấm men này đều
nảy chồi theo một hướng.
Nghiên cứu trước đây đã tiến hành phân lập các chủng
nấm men từ 12 mẫu bánh men và kết quả đã xác định
được các loài như S. cerevisiae, Hyphopichia burtonii,
Saccharomycopsis fibuligera, Pichia anomala và
Candida sp. dựa vào đặc tính hình thái và sinh lý [9].
Đến năm 2007, trong một nghiên cứu về các loại bánh
men ở Việt Nam đã phân lập 119 chủng vi sinh vật từ
29 mẫu bánh men của Việt Nam, bao gồm 53 chủng
nấm mốc, 51 chủng nấm men và 15 chủng vi khuẩn.
Nghiên cứu đã xác định các dòng này bằng cách giải
trình tự, cụ thể gồm Amylomyces rouxii,
Amylomyces aff. rouxii, Rhizopus oligosporus, R.
oryzae, S. cerevisiae, C. glabrata và P. anomala [10].
Bên cạnh đó, các dòng nấm men cũng được tìm thấy
trong loog-pang-lao (men rượu có nguồn gốc từ Thái
Lan) như P. anomala, P. burtonii, P. fabianii, P. heimii,
S. cerevisiae, S. fibuligera, C. rhagii, C. glabrata,
Torulaspora globosa, T. delbrueckii, Trichosporon
asahii, Issatchenkia orientalis, Rhodotorula philyla

Đại học Nguyễn Tất Thành
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Vol 7, No 5
48
[11]. Các chủng nấm men được xác định hiện diện
trong “hamei”, một loại men khởi động thực hiện quá
trình lên men rượu từ gạo nếp của các gia đình tại các
làng bộ lạc của Manipur (Ấn Độ) bao gồm S.
cerevisiae, P. anomala, Trichosporon sp., C. tropicalis,
P. guilliermondi, C. parapsilosis, T. delbrueckii, P.
fabianii và C. montana [12]. Một loại men rượu khác
của Ấn Độ dùng trong lên men, được gọi là “xaj-pitha”,
đã cho thấy sự đa dạng vi sinh vật của cộng đồng vi
sinh vật thông qua phương pháp metagenomics đã tìm
thấy sự tồn tại nhóm sản xuất ethanol gồm Meyerozyma
guilliermondii, Wickerhamomyces ciferrii, S.
cerevisiae, C. glabrata, Debaryomyces hansenii,
Ogataea parapolymorpha và Dekkera bruxellensis
[13].
Nhìn chung, từ kết quả của nghiên cứu này và các
nghiên cứu trước đây cho thấy sự đạng về vi sinh vật
hiện diện trong các “men khởi động” nói chung và bánh
men nói riêng. Tuy nhiên, để lưu trữ các nguồn gen có
các đặc tính tốt thì việc phân lập là điều cần thiết và tạo
tiền đề trong việc chọn lọc những dòng vi sinh nhằm
định hướng ứng dụng cho hiệu quả sản xuất cao.
Bảng 1 Đặc điểm của các chủng nấm men được phân lập từ men rượu
Mẫu men
rượu
Chủng
nấm
men
Đặc điểm khuẩn lạc
Đặc điểm tế bào
Hình ảnh tế bào nấm men
(ở vật kính 40×)
Cô Màng
CM1
Tròn, màu trắng sữa, bề mặt
khô, bìa nguyên
Cầu lớn,
nảy chồi một hướng
CM2
Tròn, nhô, màu trắng sữa, bề
mặt khô, bìa nguyên
Oval lớn,
nảy chồi một hướng
Mười
Lực
ML1
Tròn, màu trắng đục, bề mặt ướt
trơn láng, bìa nguyên
Cầu lớn,
nảy chồi một hướng
ML2
Tròn, màu trắng trong, bề mặt
khô, bìa nguyên
Oval nhỏ,
nảy chồi một hướng
Út Bình
UB1
Tròn, màu trắng trong, bề mặt
xù xì, bìa nguyên
Cầu nhỏ,
nảy chồi một hướng
UB2
Tròn, màu trắng sữa, bề mặt
khô, bìa nguyên
Oval lớn,
nảy chồi một hướng
UB3
Tròn, màu trắng đục, bề mặt
trơn láng, bìa nguyên
Oval nhỏ,
nảy chồi một hướng
Tư
Vũ
TV1
Tròn, màu trắng sữa, bề mặt
trơn láng, bìa nguyên
Cầu lớn,
nảy chồi một hướng
TV2
Tròn, màu trắng đục , bề mặt xù
xì, bìa nguyên
Oval lớn,
nảy chồi một hướng

Đại học Nguyễn Tất Thành
49
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Vol 7, No 5
TV3
Tròn, màu trắng trong, bề mặt
khô, bìa nguyên
Oval nhỏ,
nảy chồi một hướng
Cô
Ba
CB1
Tròn, màu trắng trong, bề mặt
trơn láng, bìa nguyên
Cầu lớn,
nảy chồi một hướng
CB2
Tròn, màu trắng đục, bề mặt
khô, bìa nguyên
Oval lớn,
nảy chồi một hướng
3.2 Kết quả đánh giá khả năng chịu cồn của các dòng nấm men phân lập từ men rượu
Khả năng chịu cồn của nấm men quyết định xem chúng có thể tiếp tục phát triển và lên men hiệu quả khi nồng độ
cồn trong môi trường tăng cao. Nếu nấm men không chịu được nồng độ cồn cao, quá trình lên men có thể bị dừng
lại trước khi hoàn tất, dẫn đến sản phẩm không đạt được nồng độ cồn mong muốn. Chính vì vậy, trong thí nghiệm
này tiến hành khảo sát khả năng chịu cồn của 12 dòng nấm men đã phân lập và kết quả được trình bày ở Bảng 2.
Bảng 2 Khả năng chịu ethanol (% v/v) của các dòng nấm men phân lập
Chú thích: Sinh trưởng rất nhiều: ++++, Sinh trưởng nhiều: +++, Sinh trưởng ít: ++, Có sinh trưởng: +, Không sinh trưởng: -
Một trong các phương pháp xác định khả năng chịu cồn
của nấm men là theo dõi sự phát triển của nấm men
trong môi trường có chứa các nồng độ cồn khác nhau.
Nấm men chịu được cồn ở một nồng độ nào đó có nghĩa
là nó có thể duy trì hoạt động trao đổi chất trong môi
trường lên men và chịu được tới nồng độ cồn đó trong
giai đoạn lên men. Kết quả thí nghiệm cho thấy, ở độ
cồn 8 % v/v, tất cả các dòng nấm men đều sinh trưởng
và phát triển bình thường. Ở nồng độ cồn cao hơn thì
các dòng nấm men bắt đầu có sự phân hóa về khả năng
chịu cồn, theo đó ở nồng độ cồn 12 % thì có 10 dòng
sinh trưởng được ở nồng độ này. Không có dòng nấm
men nào sinh trưởng được ở mức nồng độ cồn (16 và
20) % v/v.
Hình 1 Chủng nấm men chịu cồn CM1 phát triển trên môi
trường thạch YPD
Tên cơ sở
Dòng nấm men
Hàm lượng ethanol (% v/v)
Đặc điểm tế bào
8
12
16
20
Cô Màng
CM1
++++
+++
-
-
Hình cầu lớn
CM2
++++
+++
-
-
Hình oval lớn
Mười Lực
ML1
++++
-
-
-
Hình cầu lớn
ML2
++++
+++
-
-
Hình oval nhỏ
Út Bình
UB1
++++
+++
-
-
Hình oval lớn
UB2
++++
+++
-
-
Hình cầu nhỏ
UB3
++++
+++
-
-
Hình oval nhỏ
Tư Vũ
TV1
++++
+++
-
-
Hình oval nhỏ
TV2
++++
+++
-
-
Hình oval lớn
TV3
++++
-
-
-
Hình cầu lớn
Cô Ba
CB1
++++
++
-
-
Hình cầu lớn
CB2
++++
+++
-
-
Hình oval lớn