PHÂN LOẠI CƠN ĐỘNG KINH TRẺ EM
TÓM TẮT
Mục đích: Phân loại n theo Hiệp Hội Chống Động Kinh Thế Giới 1981
(ICES) trên bệnh nhi động kinh mới được chẩn đoán hoặc chưa điều trị.
Phương pháp: Nghiên cứu tả hàng loạt ca trên bệnh nhi động kinh
(ĐK) tại Bệnh Viện Nhi Đồng I TP Hồ Chí Minh (BVNĐI) ttháng 4/2006 đến
tháng 3/2007.
Kết quả: 99 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, gồm 53 nam và 46 nữ, tỷ
lnam nữ 1,15:1. Đến từ c tỉnh là 77 ca (78%). Chúng tôi ghi nhận 47 ca
(47,5%) có cơn cục bộ, trong đó cơn cục bộ đơn giản là 10 ca (10,1%), cơn cục bộ
phức tạp 4 ca (4%), n cục bộ toàn thhóa là 33 ca (33,3%). 38 ca
cơn toàn thể, chiếm tỷ lệ 38,4%. Cơn không phân loại được là 14 ca (14,1%).
33 ca (33,3%) là ĐK triệu chứng. Theo dõi t3 tháng trở lên có 86 ca (86,9%), b
trị 13 ca (13,1%). Đáp ứng sớm có 63/86 ca (73,3%).
Kết Luận: Kết quả phân loại được chiếm tỉ lkhá cao bằng phân loại cơn
động kinh theo ILAE 1981. Đây là cách phân loại đơn giản, dễ thực hiện và phù
hợp với hoàn cảnh của các nước đang phát triến như nước ta, khi các phương
tiện hỗ trợ chẩn đoán còn hạn chế. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy,
cần các chương trình giáo dục trong cộng đồng để nâng cao hiểu biết về bệnh
động kinh.
ABSTRACT
CLASSIFICATION OF PEDIATRIC EPILEPTIC SEIZURES IN
CHILDREN HOSPITAL No1
AT HO CHI MINH CITY
To Hong Duc, Nguyen Quang Vinh, Tran Diep Tuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - No 3 2008: 172 - 177
Objectives: To classify epileptic seizures based on the 1981 International
Classification of Epileptic Seizures (ICES) for children with newly diagnosed or
untreated epilepsy.
Methods: A case-series study of 99 epileptic children at Children Hospital
No1 HCMC from 4/2006 to 3/2007.
Results: Ninety-nine patients were enrolled in this study with 53 boys and
46 girls (male to female ratio is 1.15:1). There were 77 cases (78%) came from
provinces. Out of 99 patients, 47 (47.5%) were classified as partial seizures,
including simple partial seizures in 10 cases (10.1%), complex partial seizures in 4
cases (4%), and 33 cases (33.3%) with secondarily generalized seizures. Thirty-
eight patients (38.4%) were classified as generalized seizures. Unclassified
seizures comprised of 14 cases (14.1%). Thirty-three out of 99 patients were
symptomatic epilepsy. Eighty-six cases (86.9%) were followed up for more than 3
months, and early responding to antiepileptic drug was found in 63 out of 86
patients (73.3%).
Conclusions: Based on the 1981 ICES, the frequency of patients with
classifiable seizures were high in this study. This classification is rather simple
and suitable for developing countries such as Vietnam, where diagnostic facilities
are limited. Furthermore, the results also suggest that health education is necessary
to improve the awareness of epilepsy in the publics.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, động kinh (ĐK) chiếm từ 0,5-1% dân s(14).
c ớc đang phát trin tỷ lệ này cao hơn gấp 2-5 ln, trong đó trước 6 tuổi chiếm
60%(4). Bnh ĐK tại c nước đang phát triển chưa thật sự được ngành y tế quan
tâm mặc dù đây là một bệnh có thchữa khỏi được(14). Tỷ lệ người bị ĐK được điều
trchchiếm 50%, trẻ nhtỷ lệ này còn thấp hơn(4). Phn lớn bệnh nhân c nước
đang phát triển không được điều trị bằng thuốc chống động kinh. Ước tính vào
khong 85% bệnh nhân này hoặc không được điều trhoặc được điều trkhông
thích hp (Meinardi và cs 2001). Mt trong những trngại chính đó là vấn đề chẩn
đoán bệnh ĐK.
Hiệp Hội Chống Động Kinh Thế Giới (International League Against Epilepsy:
ILAE) đã đưa ra hệ thống phân loại cơn ĐK (1981), phân loại ĐK và hội chứng ĐK
(1989) nhằm giúp thống nhất trong báo o, nghiên cu và thc hành lâm ng. Tuy
nhn, tại Thành PhHồ Chí Minh (TPHCM) chưa có nghiên cứu nào thật sự sử dụng
h thống phân loại này trong ĐK trẻ em. Những năm gần đây, tuy những hệ thống
phân loi khác đã được đề nghị, nhưng chưa được chấp nhận. Do đó, phân loại của
ILAE phân loại được chấp nhận và s dụng rộng rãi nhất hiện nay. Hệ thống phân
loại cơn ĐK của ILAE 1981 tuy đã s dụng đến các phương pháp kch quan như đo
EEG lâu i ghi hình video, vẫn còn đơn giản hơn nhiều so với phân loại ĐK
và hi chứng ĐK của ILAE 1989. Phân loại ILAE 1989 đòi hi phải phân định được
hi chứng ĐK toàn thhay cục bộ và bệnh sinh của ĐK. Phân loại cơn ĐK theo
ILAE 1981 đơn giản, chỉ dựa trên 3 yếu tố: (1) biểu hiện lâm sàng của cơn động kinh,
(2) biểu hiện của điện não đồ (EEG) trong cơn, và (3) biểu hiện của EEG ngoài cơn.
Tuy không giúp c định được bệnh lý ĐK và hi chứng ĐK cụ thể, nhưng dựa trên
bnh sử đáng tin cậy và EEG, các thầy thuốc thường thphân loại được cơn ĐK,
c lập chẩn đoán và lên kế hoạch điều trị thích hợp.
Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài này để khảo sát khả ng áp dụng phân loại
n ĐK theo ILAE 1981 cho trẻ từ 1 tháng đến 15 tuổi tại Bệnh viện Nhi đồng 1.
Đồng thời khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả điều trị, và c yếu tố
liên quan đến đáp ng sớm và btrị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành phân loi cơn ĐK theo hệ thống phân loại ILAE 1981 cho
99 trtừ 1 tháng tới 15 tuổi mới được chẩn đoán ĐK (chưa được chẩn đoán và điều
trị trước đó) ti khoa Nhiễm – Thần Kinh BVNĐI từ tháng 4/2006 đến tháng 3/2007.
Trđược chẩn đoán ĐK khi ít nhất 2 cơn kịch phát (xuất hiện đột ngột, thời gian
ngắn, phục hồi nhanh, có tính định hình, ln quan đến vận động, cảm giác, giác quan,
ý thức và tâm thn) mà kng yếu tố kích gợi (yếu tố kích gợi là c yếu tố như
st, nhiễm trùng h thần kinh trung ương, chấn thương, xuất huyết não, rối loạn điện
giải…). Hai n kịch phát phải cách nhau ít nhất là 24 giờ. Cơn ĐK của trẻ được
phân loại theo bảmg phân loại ILAE 1981, tuy nhiên, do chúng i không đủ điều
kiện để thực hiện các EEG theo dõi liên tc, EEG kèm ghi hình vidéo, EEG nội sọ
n phân loại của chúng tôi chyếu dựa vào (1) khai thác bệnh sử cẩn thận và t
m và (2) EEG trong 20 phút theo qui cách đang thực hiện tại BVNĐI (đặt điện cực
theo hthống 10-20, bao gồm 2-3 nghiệm pháp ng thông khí và kích thích ánh
ng). Chyếu là các EEG được thực hiện ngoài n. Ban đầu chúng tôi ghi nhận có
129 bnh nhi có thể đưa vào nhóm nghiên cứu, nhưng sau khi khai thác bệnh sử cẩn
thận và thc hiện EEG, thì 30 bnh nhi bị loại khỏi lô nghiên cu do hoặc là cơn kịch
phát ca trẻ không phải ĐK, hoặc nguyên nhân kích gợi, hoặc đã được điều trị
trước đó, hoặc theo dõi không đầy đủ và khai thác được bệnh s không đáng tin cậy.