VĂN MẪU LỚP 11
PHÂN TÍCH VÀ NÊU CẢM NGHĨ VỀ TRUYỆN NGƯỜI TRONG
BAO CỦA SÊ KHỐP
BÀI MẪU SỐ 1:
Sê-khốp (1860-1904) là một trong những cây đại thụ của rừng văn học Nga, đã để
lại nhiều kịch bản và hơn năm trăm truyện ngắn. Tác phẩm của Sê-khốp làm hiện lên
toàn cảnh xã hội nước Nga cuối thế kỉ XIX ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo
thủ nặng nề dưới thời Sa hoàng.
Truyện ngắn "Người trong bao" được Sê-khốp viết vào năm 1898. Qua nhân vật
Bê-li-cốp, tác giả châm biếm và đả kích người trí thức Nga sống tầm thường, hủ lậu, hèn
nhát và giáo điều, đê tiện và dung tục; đồng thời chỉ ra lối sống ấy đã để lại nhiều di hại
đầu độc tâm hồn người, đầu độc cuộc sống, gây ảnh hưởng và hậu quả nặng nề, dai dẳng
trong xã hội nước Nga. Cái bao mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã
hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát ra được, chết rồi cũng không thoát ra
được!
Cuộc đời của anh giáo chức tỉnh lẻ Bê-li-cốp là những trang hài, là một bức tranh
biếm hoạ cười ra nước mắt. Chả thế mà cô giáo Va-ren-ca đã "cười phá lên" khi Bê-li-
cốp bị xô ngã "lộn nhào" xuống chân cầu thang, và cô đã "oà lên khóc" khi hắn đã nằm
trong bao đi chầu âm phủ !
Bê-li-cốp, giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp cổ. Hắn quen sống trong tù túng,
nô lệ. Với hắn thì "nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hắn sống vì
quá khứ, như một kẻ mang bệnh tâm thần, lúc nào cũng sống trong tâm trạng "sợ hãi", "lo
âu", "nhút nhát" . Hắn chỉ có một chút niềm vui do bệnh nghề nghiệp sinh ra. Hắn nói
"ngọt ngào”: "Ôi, tiếng Hi Lạp nghe thật tuyệt vời êm tai", rồi "nheo mắt lại", "giơ một
ngón tay lên" và thốt ra tiếng: "An-thro-pos”. Phải chăng lúc đó gã Bê-li-cốp hạnh phúc
nhất. Chắc lúc ấy hắn đã thò đầu ra khỏi cái bao trong khoảnh khắc!
Bê-li-cốp sống một cách kì quặc, vừa lập dị vừa lẩm cẩm. Con người hắn cuộc đời
hắn, từ cử chỉ, hành động đến ngôn ngữ sinh hoạt. Hắn như đã bị cầm tù, đã bị nhốt vào
bao. Quanh năm suốt tháng, nắng mưa, ngay cả mùa hạ hắn vẫn khoác áo bành tô ấm cốt
bông! Lúc nào chân cũng đi giày cao su. Chiếc ô, đồng hồ quả quýt, con dao nhỏ để gọt
bút chì... tất cả đều đút trong bao. Ngồi xe ngựa, hắn bắt phải hạ mui xe. Bộ mặt hắn cũng
được giấu kín trong bao, đó là cái cổ áo bành tô cổ bẻ. Lỗ tai hắn cũng nhét bông. Mọi ý
nghĩ, hắn "cũng giấu vào bao". Với hắn thì cái bao là một thứ vỏ bọc để "ngăn cách, bảo
vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài". Nhưng thật hài hước, đầu óc hắn cũng chỉ là
một cái bao cổ hủ để bọc lấy những chỉ thị, thông tư, những bài báo quy định cấm đoán
điều này điều nọ mà hắn cho là "rõ ràng". Hắn vừa hèn vừa đáng thương! Hắn thật tội
nghiệp!
Qua các chi tiết nói về cái bao, Sê-khốp châm biếm một loại "linh hồn chết" trong
xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, đó là loại trí thức sống lạc hậu, cổ hủ, nô lệ, mù quáng, sống
cuộc đời chật hẹp, quẩn quanh tù túng.
Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất kì lạ. Hắn có một thói quen "kì quặc". Hắn
thường đến các nhà giáo viên, như hắn nói đến để "duy trì những mối quan hệ tốt với bạn
bè". Nhưng hắn đến mà "chẳng nói chẳng rằng", cứ “ngồi im như phổng", mắt thì nhìn
quanh "như tìm kiếm vật gì", độ một giờ sau thì cáo từ. Tính hắn hâm hay hắn là một mật
vụ lân la dò xét? Vì thế, giáo viên nào trong trường cũng sợ hắn. Cả hiệu trưởng, oai
quyền thế cũng sợ hắn. Cả thành phố đều sợ hắn. Các bà, các cô không dám diễn kịch vào
tối thứ bẩy vì sợ rằng "nhỡ hắn biết thì lại phiền". Giới tu hành không dám ăn thịt và
đánh bài khi có mặt hắn. Bê-li-cốp như một bóng ma, một hung thần gieo rắc sợ hãi, làm
cho dân chúng trong thành phố suốt một thời gian dài mười lăm năm trời “sợ nói to, sợ
gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, sợ giúp đỡ người nghèo, sợ dạy học chữ...".
Sê-khốp đã chỉ ra và cho thấy loại người trong bao, lối sống trong bao thật vô cùng
đáng sợ. Loại người ấy, lối sống ấy đã toả chiết tâm hồn người, bao phủ lên khắp mọi nơi
một bóng đen đáng sợ.
Vì quanh năm suốt tháng tự nhốt mình trong bao nên Bê-li-cốp sống như một
người bệnh tưởng, trầm cảm. Hắn sợ ánh sáng, sợ bóng tối, sợ trộm vào nhà, sợ lão nấu
bếp cắt cổ hắn. Nhà lúc nào cũng đóng chặt cửa, cài then, chăn trùm đầu kín mít lúc ngủ,
ở nhà mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào hắn cũng mặc áo khoác ngoài. Suốt đêm, "hắn
toàn mơ những điều khủng khiếp" vì thế buổi sáng đến trường, mặt hắn "tái nhợt, rầu rĩ"
một cách thảm hại! Lối sống đó là sống khổ, sống mà như chết. Bê-li-cốp đã tự cầm tù
mình, đày đoạ mình, gây đau khổ cho thân mình. Hắn thật đáng thương hại.
Hóm hỉnh và ý vị biết bao khi Sê-khốp nói về bi kịch ái tình của người trong bao.
Cô giáo Va-ren-ca khoảng ba mươi tuổi mới về trường, thế là nữ thần ái tình đến gõ trái
tim Bê-li-cốp. Trên bàn trong ngôi nhà "chật như cái hộp", hắn trân trọng đặt tấm ảnh
người đẹp. Ý định lấy vợ choán ngợp tâm hồn hắn, nhưng vì quen sống trong bao nên hắn
cứ lần lữa đắn đo, suy tính, lúc nào mặt mày cũng nhợt nhại đáng thương. Hắn bị gán
ghép, rồi hắn có vẻ thích Va-ren- ca... Thế là bức tranh biếm hoạ "An-thro-pos si tình"
(kẻ si tình) được gửi đến tất cả các giáo viên ở hai trường nam nữ, giáo viên chủng viện,
các viên chức và cả Bê-li-cốp nữa. Bức biếm hoạ mới gợi tình làm sao: hình ảnh "Bê-li-
cốp đang đi, chân xỏ trong giày mưa, quần túm ống, tay cầm ô, tay khoác tay Va-ren-ca".
Chà! Người trong bao lãng mạn và đa tình quá! Nhưng Bê-li-cốp lại bị sốc, bị bức tranh
châm biếm gây cho hắn "một ấn tượng nặng nề".
Sê-khốp đã tạo nên những chi tiết điển hình, những tình huống điển hình để khắc
hoạ tính cách của Bê-li-cốp người trong bao . Dư vị chua cay, hài hước của câu chuyện
càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn.
Bê-li-cốp chẳng gặp "hên" một chút nào! Ngày chủ nhật, mồng một tháng năm
hôm ấy, thầy trò cả trường trung học tổ chức cùng đi ra ngoài thành phố vào rừng chơi.
Nhưng anh chàng Bê-li-cốp đã bỏ về giữa chừng. Giữa đường hắn bất ngờ thấy hai chị
em Va-ren-ca cưỡi xe đạp phóng qua. Cô chị "mặt mày ửng đỏ... vui vẻ, hớn hở" gào to:
"Trời hôm nay đẹp thật, đẹp tuyệt, đẹp ghê gớm!". Bê-li-cốp "ngẩn người ra", như bị
choáng, bị ma ám: "Mặt mày đang từ xanh mét chuyển sang trắng bệch". Người trong
bao phàn nàn, trách cứ: "Chẳng lẽ giáo viên và đàn bà, con gái lại có thể cưỡi xe đẹp, làm
như thế coi sao tiện?".
Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ đáng cười? Phải chăng hắn là một nhà mô phạm
đang bảo vệ nên đạo đức chính thống?
Suối ngày hôm sau, người trong bao đau khổ dằn vặt, bực dọc, toàn thân run lên",
thậm chí hắn bỏ cả buổi lên lớp, bỏ cả cơm trưa. Tối hôm đó, dù đang tiết mùa hạ, nhà
đạo đức bèn "mặc áo ấm" lần mò đến nhà hai chị em Va-ren- ca. Cô chị đi vắng, hắn chỉ
gặp được người em. Hắn thật thà thanh minh về bức tranh châm biếm. Hắn khẳng định
nhân cách "tử tế, đứng đắn" của mình. Lấy tư cách là "bạn đồng nghiệp đi trước", hắn
nhắc nhở kẻ "mới bắt đầu đi làm" đôi điều. Hắn chê trách việc đi xe đạp của hai chị em
Va-ren-ca "hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên". Hắn cảnh
cáo việc đi xe đạp ấy là thiếu gương mẫu, là trái pháp luật, trái nội quy vì "chưa có chỉ thị
nào cho phép thì không được làm". Hắn bày tỏ thái độ nào là "phát kinh lên", nào là mắt
hoa lên" khi nhìn thấy cảnh đàn bà, con gái đi xe đạp! Hắn khuyên nhủ Cô- va-len-cô
phải xử sự "thận trọng", không được buông thả quá chừng như mặc áo thêu ra đường,
trong tay còn cầm sách này nọ, lại còn cưỡi xe đạp nữa. Hắn nhắc nhở nếu chuyện ấy đến
tai ông hiệu trưởng, ông thanh tra thì "còn ra cái thể thống gì”.
Khi bị Cô-va-len-cô cự lại, hắn răn dạy: "Anh cần phải có thái độ kính trọng đối
với chính quyền". Hắn doạ "sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng nội dung câu chuyện" đã xảy
ra mà hắn đã nói với Cô-va-len-cô.
Cuộc đôi co diễn ra. Cô-va-len-cô “thô bạo" chỉ vào mặt Bê-li-cốp và bảo hắn là
"tên mách lẻo”, rồi túm lấy cổ áo hắn, tống cổ ra khỏi nhà. Người trong bao "lộn nhào
xuống chân cầu thang”. Sự việc diễn ra đầy kịch tính. Khi Bê-li- cốp "sờ lên mũi xem cặp
kính có còn nguyên vẹn không", thì hai người đàn bà và Va-ren-ca bỗng từ đâu xuất hiện,
nhìn thấy. Bê-li-cốp đau khổ cảm thấy thà "tự vặt cổ” còn hơn là biến thành trò cười cho
thiên hạ. Hắn vô cùng lo sợ câu chuyện sẽ đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra. Người
ta sẽ vẽ tranh châm biếm hắn, sẽ ép hắn về hưu...
Có bao chi tiết bi hài. Nhất là khi Va-ren-ca "cười phá lên vang khắp khu nhà".
Tiếng cười "ha-ha-ha!" lảnh lót, âm vang ấy "đã chấm dứt tất cả”: "chấm dứt chuyện cưới
xin, chấm dứt cả cuộc đời của Bê-li-cốp". Cái ngã của Bê-li-cốp xuống chân cầu thang,
điệu cười "lảnh lót" của Va-ren-ca có giá trị và ý nghĩa phê phán một cách chua cay lối
sống giáo điều, dung tục của hạng người trong bao. Kẻ hủ lậu lên mặt đạo đức giả, dạy
đời bằng bài học luân lí cổ lỗ đã bị Sê- khốp châm biếm qua một tình huống bi hài.
Chỉ một tháng sau bị xô ngã, Bê-li-cốp chết. Trước khi đi chầu Diêm Vương, hắn
không quên cất tấm ảnh Va-ren-ca để trên bàn đi. Hắn nằm trong quan tài với vẻ mặt
"hiền lành, dễ chịu, tươi tỉnh". Phải chăng hắn "mừng" vì được "chui vào cái bao" vĩnh
viễn. Đám ma hắn được cử hành trong một buổi , trời mưu dầm âm u". Lúc hạ huyệt, Va-
ren-ca "bỗng oà lên khóc". Nàng khóc vì thương tiếc một thiên tình sử chăng? Nàng khóc
vì thương hại một con người bảo thủ, cổ hủ từng làm trò cười cho thiên hạ chăng?
Sau khi Bê-li-cốp chết, lúc đầu ai cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng rồi
chưa đầy một tuần sau, ai cũng cảm thấy "nặng nề, mệt nhọc, vô vị" vì cuộc sống đã lại
diễn ra như cũ, "chẳng tốt đẹp gì hơn trước". Một Bê-li-cốp chết, một người trong bao đã
về chầu âm phủ nhưng còn lại bao nhiêu người trong bao, và "trong tương lai cũng sẽ còn
bao nhiêu người như thế nữa!". Sê- khốp đã chỉ rõ: lối sống tầm thường, hủ lậu, giáo
điều, dung tục đã đầu độc con người, đầu độc cuộc sống, sẽ gây bao hậu quả nặng nề, sẽ
tồn tại dai dẳng trong xã hội Nga những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Mọi quái thai, mọi ung nhọt trong xã hội xưa nay đâu dễ một sớm một chiều mà
tiệt nọc, mà bị quét sạch! Một Bê-li-cốp chết đi nhưng sẽ còn lại bao nhiều Bê-li-cốp nữa.
Chí Phèo đã ngoẻo nhưng Thị Nở vẫn còn, và cái lò gạch cũ vẫn còn đó. Cái loại người
"mũ nỉ che tai", “vòi rụt cổ", "hủ lậu mà tinh tưởng" thời nào, xã hội nào chẳng có!
Phải biết coi khinh lối sống cổ hủ, coi khinh tính cách bọn người trong bao. Phải
biết sống và dám sống với tinh thần tự chủ, sống có trí tuệ và đạo đức của con người mới.
Đọc truyện "Người trong bao", ta tự hỏi bản thân mình phải sống như thế nào cho đáng
sống:
Sê-khốp đã có một lối viết khá hấp dẫn. Diễn biến câu chuyện được kể một cách
tự nhiên, chân thực và sinh động. Nhân vật Bê-li-cốp từ vật dụng, cử chỉ, hành động, ý
nghĩ đến lối sống được thể hiện bằng nhiều chi tiết rất điển hình. Hắn là sản phẩm tất yếu
của một xã hội tù túng, trì trệ.
Nhân vật Va-ren-ca là một nét vẽ tương phản đầy ấn tượng. Nàng yêu đời, sống
hồn nhiên, hay hát, hay cười, động một tí là cười phá lên. Cuộc sống tự do, phóng túng
của hai chị em Va-ren-ca đã làm xao động cái không khí buồn thảm nơi tỉnh lẻ và đã làm
"rách nát" cái bao của Bê-li-cốp, đẩy hắn ta xuống nằm yên trong quan tài - cái bao nơi
âm phủ. Bức tranh biếm hoạ, cái ngã cầu thang, cái chết lặng lẽ và đám ma của Bê-li-cốp
có giá trị và ý nghĩa phê phán, châm biếm sâu cay.
"Người trong bao" là một truyện ngắn đầy dư vị đưa độc giả "tự đi tìm bóng mình
và soi vào bóng người" để mà sống có ý nghĩa hơn như văn hào Lỗ Tấn đã nói.
BÀI MẪU SỐ 2:
Sê Khốp là nhà văn Nga xuất sắc sinh ra và lớn lên trọng một thị trấn nghèo,
nhưng ông có được sự hiểu biết to lớn về văn học, và thấu hiểu cuộc đời của những con
người trong thời đại mà ông đang sống, chính vì vậy để phản ánh được cuộc sống của
những con người đó ông đã viết lên truyện Người Trong Bao để có thể phản ánh về một
tầng lớp người trong xã hội Nga cũ.
Truyện đã phản ánh được mạnh mẽ con người Nga lúc bấy giờ, với hình ảnh độc
đáo và chi tiết Sê Khốp đã phản ánh được một tầng lớp đáng bị lên án và chê trách mạnh
mẽ, những giá trị to lớn mà tác phẩm này để lại đó là dùng lối ẩn dụ và dùng cái riêng để
nói về cái chung của cả một thời đại họ đang sống, trong khung cảnh của nước Nga lúc
bấy giờ xuất hiện những con người luôn mang trong mình những nỗi khiếp sợ về thế giới
bên ngoài, như nhân vật Bê –li- cốp trong truyện đã diễn tả sâu sắc được điều đó. Câu
chuyên xoay quanh vấn đề của ông Bê li cốp với một cách sinh hoạt kì quái, tất cả mọi
thứ ông đều cất giữ trong bao, ví dụ như ô hắn để trong bao, chiêc đồng hồ quả quýt cũng
để trong bao, đặc biệt cái khuôn mặt của hắn cũng như lúc nào cũng để trong bao vì lúc
nào hắn cũng giấu mặt qua chiếc áo bành tô…Mọi thứ của ông đều được gói trong bao,
với kiểu cách sinh hoạt kì lạ làm cho người xem có nhiều hứng thú khi quan sát diễn biến
của câu chuyện này.
Những tình tiết ly kì của câu chuyện nó xen vào những yếu tố kì lạ của nhân vật
làm nên những cảm xúc đặc biệt của người xem, ở đây mọi điều như đang cuốn vào
những vóng xoáy của chiếc bao, không thoát khỏi không gian chặt hẹp của nó.. một con
người kì lạ đã làm cho người đọc hiểu được một điều rằng con người này chỉ suốt bó
mình trong những điều nhỏ nhất của chiếc bao, không dám đi ra thế giới bên ngoài, cuộc
sống bó hẹp trong những không gian nhỏ bé và hạn hẹp nhất.
Mọi hành động của ông thật quái dị khiến cho người xem có cảm giác như đang đi
sâu vào thế giới của người trong bao với những tình huống làm nên tiếng cười sâu sắc và
mạnh mẽ nhất, những nỗi lo sợ và hạn hẹp của ông giáo viên này để lại cho người đọc
một cái nhìn sâu sắc nhất của con người tư sản của nước Nga thời bấy giờ. Những điều
đó đã phản ánh được lối sống thừa thải của một tầng lớp trí thức lúc bấy giờ. Những cách
sinh hoạt quái gở đã làm nên một con người trong bao với những diện mạo khiến người
xem cảm thấy lực cười, khi sống trong một khoảng không gian bị bó hẹp của những cái
bao. Cuộc sống của người giáo viên này dường như không có ý nghĩa, khi kiểu cách sinh
hoạt đó làm hạn chế đi những điều tốt đẹp của giới trí thức.
Tất cả mọi điều con người này làm đều mang những tư tưởng sợ hãi, và hàng loạt
những chi tiết thể hiện mạnh mẽ được điều đó như trong căn buồng ngủ của ông cũng
ngột ngạt và bó hẹp, khi đi ngủ dù trời lạnh hay nóng ông vẫn đắp chăn kín đầu, tất cả
mọi thứ đều được bó hẹp trong cảm giác của ông, nó mang cho ông những nỗi sợ hãi, và
con người này đã được miêu tả với những chi tiết rất sâu sắc và lột tả mạnh mẽ được lối
sống của cả một tầng lớp tri thức Nga lúc bấy giờ, mọi cảm xúc được lan tỏa và thể hiện
một cách rõ ràng và chi tiết nhất.
Nhân vật Bê li cốp đã là một đối tượng để nhà văn sử dụng để có thể lột tả chi tiết
về xã hội Nga lúc bấy giờ những cảm xúc sâu sắc nhất đã được thể hiện ở đó. Cách sống
của ông không chỉ ảnh hưởng đến tầng lớp tri thức mà ông hay tiếp cận mà nó còn ảnh
hưởng đến cả một thành phố lớn như Nga, tư tưởng sống bị bó hẹp, với cuộc sống chật
vật và gian nan đã mang đậm giá trị cốt lõi là phản ánh đối tượng của tác phẩm là một
tầng lớp tri thức bảo thủ ích kỉ, có lối sống hẹp hòi…
Tất cả mọi người khi nhìn thấy con người này chắc hẳn ai cũng đều có cảm xúc
riêng và đặc biệt có thể có thái độ khinh bỉ đối với một lối sống lực cười, với kiểu cách
khác lạ đã mang đậm giá trị tố cáo phản ánh mạnh mẽ những tầng lớp to lớn của xã hội
Nga khi đó, những con người mang trong mình những tri thức nhưng lại hành động một
cách bảo thủ và không có lợi ích gì cho xã hội này. Những hình ảnh về mối tình của ông
với cô gái Cô-va len cô, nhưng cô ta đã xin Bê li Cốp để cho cô yên, cô đã đẩy ông ta ngã
cầu thang, nhưng trong cái vỏ bọc của chính mình, ông đã bình yên vô sự như không có
điều gì xảy ra. Nhưng rồi những giọng điệu chê bai đã thể hiện một cách mạnh mẽ và chi
tiết nhất đã được thể hiện với những câu cười haha ha tất cả đã mang đậm giá trị và ý
nghĩa sâu sắc nhất về con người.
Những tiếng cười đó mang những lời chế diễu sâu sắc nhất đối với chính tác giả,
những cảm xúc và sự chấm dứt về cưới xin rồi thì rất nhiều những điều mà trong câu
chuyện đang đề cập đến thì chúng ta thấy cuộc sống của nhân vật này đáng để cho con
người chê trách và khinh bỉ. Sau vụ đẩy lộn ở trường, hắn trở về nhà với cái bao của
chính mình, và sau một tháng hắn chết… trong những chi tiết được miêu tả trong bài là
hắn đang im lặng trong chiếc quân tài và đây có lẽ là điều mà cuộc sống của hắn muốn.
Tất cả mọi điều đã để lại những cảm xúc sâu sắc nhất trong cái nhìn của mỗi người về
cuộc sống nhỏ hẹp của nhân vật. Có lẽ cái chết đó đã mang lại một sự giải thoát mạnh mẽ
về tư tưởng của nước Nga lúc bấy giờ tránh khỏi một tư tưởng nhỏ hẹp để ảnh hưởng đến
cả một thế hệ lớn. Và cần phải giải thoát nước Nga khỏi tư tưởng và xóa bỏ đi những tầng
lớp tri thức bảo thù, ích kỉ này… Tất cả những điều đó ảnh hưởng xấu đến cuộc sống và
con người của cả một dân tộc nước Nga.
Tác phẩm đã để lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc nhất về toàn bộ nước Nga
thời bấy giờ những cảm xúc đó đã mang đậm những nét đặc trưng và phản ánh sâu sắc về
những con người không có chút tư tưởng tiến bộ, cần xóa bỏ đi những con người đó tại
xã hội này. Những hoàn cảnh của xã hội cũng được biểu lộ một cách da diết và có ý
nghĩa nhất trong cuộc đời của mỗi con người nó đều ngập tràn những cảm xúc và nảy
sinh trên đó là biết bao nhiêu bài học quý giá về cuộc đời và ý nghĩa của con người. Một
bộ mặt của nước Nga đang dần đang hé mở và biểu lộ một cách có ý nghĩa nhất, chúng ta
đang được chứng kiến những khoảng khắc tuyệt vời và mang đậm sự tố cáo, khi tác giả
đã vẽ ra một nền xã hội chân thực, với những con người tri thức nhưng mang tầm trưởng
giả lớn, điều đó nó làm cho con người của chúng ta đang được biểu lộ một cách có ý
nghĩa và chi tiết nhất cho cuộc đời của mỗi con người.
Ở đây những chi tiết đã biểu lộ và thể hiện một cái nhìn đầy màu sắc, trong tâm
hồn của con người, họ được sống và rung động trong những khoảng khắc đang nhớ và da
diết nhất về cuộc đời của chính mình, biết bao nhiêu cảm xúc và những nỗi nhớ dạt dào
khi xã hội đang lâm vào con đường với những lối sống bị bó hẹp mạnh mẽ, và nó thể hiện
những nỗi nhớ da diết và trầm lặng trong chính tâm hồn của con người, mỗi chúng ta đều
có thể thấy được điều đó, qua những cảm xúc riêng và những nét vẽ tiêu biểu đậm giá trị
tố cáo, và phản ánh về xã hội này, mỗi người chúng ta cần phải biết và thấu hiểu nó một
cách sâu sắc và có ý nghĩa nhất về cuộc đời và giá trị của mỗi người, khi sống trong xã
hội lúc bấy giờ.
Những hình thức xã hội cũ kĩ đã được thay bỏ và nồng ghép vào đó là sự xây dựng
nhân vật một cách chi tiết và giàu có về ý nghĩa nhất, nó tố cáo mạnh mẽ tầng lớp và sự
thống khổ trong mọi tầng lớp của con người, chúng ta cần phải biết sống và tạo nên được
điều đáng quý và hiểu được xã hội đang cần gì, đó là điều tốt nhất.
BÀI MẪU SỐ 3:
A.P Sê-khốp (1860-1904) là nhà văn hiện thực vĩ đại không chỉ của Nga, của châu
Âu mà còn của cả thế giới với khối tác phẩm đồ sộ, đặc biệt là truyện ngắn. Trong vòng
24 năm lao động cần mẫn, Sê-khốp để lại cho nhân loại khoảng 500 tác phẩm truyện
ngắn. Các tác phẩm truyện ngắn của Sê-khốp lột tả cuộc sống, tư tưởng tình cảm của mọi
tầng lớp nhân dân Nga “trong buổi hoàng hôn” cuối những năm 70 của thể kỉ XIX mà
chủ yếu là những những cuộc sống ti tiện, nhàm chán và nhỏ nhen với những thói hư, tật
xấu của con người Nga đang u mê, lạc lối.Từ những câu chuyện tủn mủn, những tiểu tiết
nhỏ nhặt ấy Sê-khốp đã khái quát hóa những mảnh đời thành một thế giới thu nhỏ với
đầy đủ những thối nát trong xã hội_con đẻ của chế độ Nga hoàng bấy giờ. Trên hết đó là
tư tưởng nhân văn, lòng nhân đạo sâu sắc với khát khao giải “chắt lọc loại bỏ từng giọt
nô lệ ra khỏi con người”, thức tỉnh ý thức con người về sự vô nghĩa của cuộc sống hiện
tại, đồng thời khát vọng hướng tới tương lai. “Người trong bao” là một trong những tác
phẩm như vậy: phê phán lối sống bảo thủ, thu mình trong bao, sợ sệt, yên phận, không
chịu thức tỉnh, không dám xé vỏ của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỉ XIX và thức
tỉnh mọi người “Không thể sống như thế mãi được”.
Nhân vật chính của truyện là Bê-li-cốp, một thầy giáo dạy tiếng Hi Lạp. Chân
dung của Bê-li-cốp, qua góc nhìn của người kể chuyện Bu-rơ-kin, là bức chân dung dị
thường. Con người này lúc nào cũng vậy, luôn đi giày cao su, cầm ô, mặc áo bành tô ấm
cốt bông, giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên, đeo kính râm, lỗ tai nhét bông,
luôn kéo mui khi ngồi xe ngựa, khi ngủ thì kéo chăn trùm đầu kín mít… Cái bộ dạng này
dường như ngay lập tức khiến độc giả cảm thấy hài hước bởi sự phi lí quá đáng đến ngạt
thở này. Dưởng như cả bộ mặt của hắn “cũng để ở trong bao”. Cả ý nghĩ của mình, Bê-
li-cốp cũng cố giấu vào bao. Hắn không nói những điều mình nghĩ, hắn nói theo thông tư,
chỉ thị, những lời nói rao giảng, giáo điều. Sự khô khan cứng nhắc của Bê-li-cốp được tái
hiện trong từng lời kể tỉ mỉ của Bu-rơ-kin như một thước phim quay chậm chạp, dần dần
để lộ từng chút từng chút một cái bao cùng hội chứng chạy trốn, chui tọt vào bao trong
mọi trường hợp của hắn. Để trốn tránh thực tại, Bê-li-cốp lúc nào cũng ngợi ca, tôn sùng
quá khứ, muốn trở về những cái không có thật. Sẽ là tuyệt biết bao nếu xã hội có những
người hướng tới chân-thiện-mĩ hoặc khiêm tốn, cư xử chừng mực, vì mọi người…nhưng
Bê-li-cốp không phải kiểu người tốt đẹp ấy. Hắn chỉ biết đến bản thân, một lối sống ích
kỉ; không chỉ có vậy, hắn áp đặt mọi người, mọi chuyện xung quanh mình theo suy nghĩ
cực đoan, thiển cận của hắn khiến cho mọi người cũng phát sợ theo: “sợ nói to, sợ gửi
thư, sợ làm quen, sợ đọc sách…”
Nỗi sợ là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng “bế quan tỏa cảng” toàn bản thân
của Bê-li-cốp. Nỗi sợ luôn tồn tại trong hắn một cách vô thức, nó vô hình nhưng luôn ẩn
hiện trong hai con mắt hắn khiến cho mọi vật xung quanh đều gây cho hắn một nỗi bất an
khôn lường. Thảm họa ở chỗ, chính vì sự hoảng loạn thái quá của bản thân, Bê-li-cốp đã
tự khóa mình trong cái bao mà hắn đã tự tạo, không phải giam lỏng mà là tự thân khóa
trái cánh cửa cuộc đời tươi đẹp để rồi chui vào và hít hà cái ngột ngạt trong bao. Nỗi sợ
kia, nỗi hoang mang vô độ kia của Bê-li-cốp phải chăng cũng chính là nỗi sợ của một bộ
phận không nhỏ người dân đương thời? Sợ phải chuyển mình, sợ phải làm mới mình, sợ
phải đấu tranh thay đổi, chấp nhận tồn tại trong một xã hội u tối, què quặt về mọi mặt…
Thật thú vị là hai nhà văn hiện thực vĩ đại của nhân loại là Lỗ Tấn và Sê-khốp lại có
nhiều điểm tương đồng đến như vậy. Lỗ Tấn và Sê-khốp cùng sống trong thời đại lịch sử
mà xã hội trượt dốc không phanh, người dân sống mà không tự suy nghĩ hay hướng đến
tương lai, những mảnh đời nheo nhóc cứ tuần tự tiếp diễn… Cả hai ông đều từ bỏ nghề y
để chuyển sang chữa bệnh cho nhân dân của mình bằng thứ thuốc thanh lọc tâm hồn,
thức tỉnh họ khỏi những u mê , ung nhọt bấy lâu.
Trở lại với Bê-li-cốp, chúng ta có chút thương cảm đối với hắn. Lẽ ra hắn cũng có
thể lấy vợ, cô Va-ren-ca, chị gái của đồng nghiệp. Nhưng Sê-khốp không ru ngủ độc giả
bằng kết thúc lãng mạn nên thơ. Việc gì đến rồi cũng sẽ phải đến, làm sao một người
cứng nhắc, khô khốc đến đáng sợ như Bê-li-cốp có thể chấp nhận việc hai chị em Va-ren-
ca và Cô-va-len-cô vô tư đạp xe mà cười nói trên phố như vậy được bởi việc đi xe đạp là
“hoàn toàn không phù hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên” Đối với Bê-li-cốp
mà nói thì hành động ấy là quá thể đáng, là không thể chấp nhận được. Các chị, các bà
phụ nữ cười nói vô tư như vậy là làm loạn xã hội, hủy hoại xã hội?!? Tình tiết đối thoại
giữa Bê-li-cốp và Cô-va-len-cô càng làm bộc lộ rõ sự trong bao của Bê-li-cốp, sự bảo thủ
của hắn khiến người đọc cảm thấy hả hê khi hắn bị Cô-va-len-cô đẩy ngã. Thương hắn
nhưng trách hắn nhiều hơn. Khi bị ngã nhào mà hắn không hề quan tâm mình có bị
thương không mà chỉ chăm chăm vào việc sợ bị người khác nhìn thấy, sợ làm trò cười
cho thiên hạ. Tiếng cười của Va-ren-ca là một chi tiết rất đắt. Có người đã khẳng định
chính tiếng cười vang ấy của cô là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Bê-li-cốp sau này.
Song dù là vì lí do gì thì dường như, cái chết đối với Bê-li-cốp lại là sự giải thoát hoàn
hảo nhất cho chính hắn và mọi người. Hắn được chui vào yên ngủ mãi mãi trong cái bao
hoàn hảo, tuyệt vời nhất với hắn; không còn phải thấp thỏm “nhỡ có chuyện gì thì sao”
khi ngủ trong phong hộp như trước nữa.
Tuy vậy, sự chấm dứt cuộc đời của một kẻ quái thái trong xã hội vẫn không thể
diệt tận gốc mọi mầm mống của ung nhọt như Bê-li-cốp được. Một kẻ dị thường đã ra đi
nhưng trong xã hội vẫn tồn tại bao nhiêu cái bao nữa, vẫn còn bao nhiêu kẻ sống mà như
chết rồi nữa? Câu hỏi được người kể chuyện bỏ ngỏ càng làm tăng thêm sự ám ảnh về
một tương lai mù mịt của những sự đời ảm đạm, nhỏ nhặt, tầm thường. Trong truyện, Sê-
khốp đã sử dụng mười hai lần từ chỉ cái bao để miêu tả nhân vật chính. Chi tiết cái bao là
một chi tiết nghệ thuật đặc sắc và sáng tạo với tầng lớp biểu ý sâu sắc mang nhiều giá trị
xã hội.
Ý nghĩa “Người trong bao” không chỉ dừng lại ở nước Nga, xã hội dưới chế độ
Nga hoàng mà còn vươn xa hơn thế. Nó mang tầm vóc thời đại lịch sử, phản ánh, phê
phán, thức tỉnh con người và cả xã hội sống có ý nghĩa hơn, hướng về tương lai phía
trước. Ngoài những triết lí sống sâu sắc được thể hiện trong truyện, phải kể tới lối viết
châm biếm nhẹ nhàng cùng chút hóm hỉnh gây cười, đặc biệt là hình tượng nhân vật Bê-
li-cốp cùng cái bao người ám ảnh đã góp phần để tác phẩm trở nên bất hủ. Đó là bài học
về cách sống, còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay với một số bộ phận thanh niên nước
ta, hãy đừng thờ ơ, vô cảm, và thụ động, thu mình như người trong bao để rồi cuộc đời bị
bóp nghẹt trong cái bao của chính mình.
BÀI MẪU SỐ 4:
An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp là nhà văn nổi tiếng của văn học Nga thế kỉ XIX.
Ông là đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga. Vốn là một
bác sĩ, ông đã viết văn để chỉ ra những căn bệnh tinh thần của thời đại ông. Tác phẩm
Người trong bao kể về một viên chức có cách sống của một kẻ thích "trong bao". Thực
chất, đó là một cách sống trốn tránh, hèn nhát, xu phụ, luôn sống trong sơ hãi. Và chính
cách sống đó cũng gây nên một hoàn cảnh đen tối, sự ngột ngạt, khó thở cho chính những
người xung quanh.
Tâm lí nô lệ, hèn đớn, bạc nhược, tự ti là hình ảnh của cuộc sống công chức Nga
cuối thế kỉ XIX, một lối sống thảm hại, bạc nhược khiếp sợ trước cường quyền. Lối sống
đó phản ánh bầu không khí ngột ngạt, nặng nề thời chuyên chế bao trùm xã hội.
1. Người trong bao - chân dung mang tính biếm hoạ Người trong bao là biệt hiệu
người ta gọi Bê-li-cốp - một giáo viên trung học. Bỡi lẽ, hắn có một nếp sống lạ kì: chỉ
thích chui vào những cái bao. Qua lời Bu-rkin, một đồng nghiệp : ô hắn để trong bao ;
chiếc đồng hổ quả quýt cũng để trong bao ; dao cũng đặt ở trong bao ; bộ mặt dường như
cũng ở trong bao ; xe ngựa cũng cho kéo mui lên ; phòng ngủ của hắn cũng chật như một
cái hộp ; dù nóng bức, hắn cũng trùm chăn kín đầu ; cả ý nghĩ của mình, hắn cũng cố
giấu vào bao. Nói tóm lại, con người này có khát vọng mãnh liệt thu mình vào trong một
cái vỏ, tạo cho mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hẳn khỏi những ảnh hưởng
bên ngoài. Hơn thế nữa, trong cách sống, hắn còn tự tạo nên những cái bao vô hình khác,
rất an toàn : lúc nào cũng ngợi ca quá khứ ; ca ngợi chữ Hi Lạp, một thứ từ ngữ ; ngợi ca
những gì không bao giờ có thật; che giấu cả ý nghĩ. Với những chi tiết được miêu tả rõ
ràng như vậy, chân dung kì quặc của người trong bao đã hiện lên thật sinh động.
Bên cạnh đó, hắn còn được đặc tả : lúc nào cũng kè kè giày cao su và cái ô. Chi
tiết này nhắc lại nhiều lần làm hoàn chỉnh bức chân dung đầy tính biếm hoạ : người
"trong bao" ! Vì sao vậy ? Vì sao hắn luôn muốn trốn trong những cái bao như vậy ? Con
người đó sợ cái gì ? Hoá ra, hắn sợ tất cả. Hắn sợ cuộc sống hiện thực với tất cả những
cái bề bộn, vừa vui thú, vừa tẻ nhạt, vừa vô nghĩa nhưng cũng có nhiều vẻ đẹp tinh thần,
vừa ích kỉ song cũng có cái cao thượng : lấy vợ gả chồng, đọc sách, biết những tư tưởng
dân chủ của Tuốc-ghê-nhép, Sê-đrin với những ầm ĩ (tụ tập, tổ chức diễn kịch tại nhà),
những việc có vẻ phạm pháp (giới tu hành mà ăn thịt, đánh bài),... Hắn sợ cả những cái
vớ vẩn : kẻ trộm chui vào nhà, sợ bị chế giễu, sợ nhìn thấy những cái nghịch mắt. Hắn
trốn tránh cuộc sống hiện thực, bởi cuộc sống đó làm cho hắn khó chịu, ghê tởm, và luôn
sợ hãi. Hắn luôn sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì. Ý nghĩ này được nhắc đến năm lần trong
câu chuyện, như một nỗi ám ảnh khủng khiếp, khiến hắn không dám nghĩ, dám làm bất
cứ điều gì. Ban ngày thì chui vào mọi thứ bao, ban đêm chui vào trong chăn. Và vì sợ hãi
quá, nên trốn trong một cái bao là an toàn nhất.
Đó là hình ảnh con người luôn muốn trốn tránh, không dám đối đầii với hiện thực.
Vì vậy, khi gặp liển một lúc nhiều phức tạp, biến động, những điều "khủng khiếp" : bị
đồng nghiệp trêu chọc về tình cảm của hắn với một cô gái, bị phản đối thô bạo vì những
lời dạy dỗ của mình, bị chứng kiến đồng nghiệp tỏ ra không sợ gì cấp trên, bị gọi đúng
tên là kẻ mách lẻo, bị cười nhạo vì ngã, sợ ông hiệu trưởng, ông thanh tra biết, sẽ bị chế
giễu, bị ép về hưu..., tất cả đã khiến con người luồn sợ có cái gì xảy ra đã không thể chịu
đựng được, và hắn đã chết. Cái chết này cũng là một sự biếm hoạ. Làm sao mà một người
bình thường có thể chất và tâm hồn lành mạnh lại có thể chết vì những chuyên vớ vẩn
như thế được. Kể cả một kẻ bạc nhược vể mặt tinh thần cũng không dễ chết như vậy.
Ngay cả khi chết, dáng vẻ của hắn cũng mang vẻ "trong bao". Hắn có vẻ thanh thản vì đã
đạt được mục đích cuộc đời : Không có cái gì xảy ra nữa, hắn đã được chui vào một cái
bao vĩnh cửu !
2. Người trong bao - ẩn dụ về tâm lí nô lệ, cuộc sống hèn nhát, nặng nề, ngột ngạt,
vô vị. Tại sao Bê-li-cốp lại sợ tất cả mọi thứ trên đời này như vậy ? Tại sao hắn chọn cho
mình lối sống nặng nề, bạc nhược như vậy ? Nhà văn đã chỉ rất rõ : đó là do tâm lí hèn
nhát, nô lệ của chính hắn. Tâm lí đó khiến hắn sợ bất cứ cái gì phiền nhiều của cuộc sống.
Thứ nhất, hắn hèn nhát đến nỗi sợ tất cả những điều khác lạ, sợ cái gì tân tiến, sợ trở
thành trò cười cho thiên hạ. Hắn cũng muốn kết giao bè bạn, nhưng chỉ làm người khác
sợ hãi vì không biết được những suy nghĩ thật của hắn. Hắn cũng muốn kết hôn, nhưng
chỉ cần gặp một trở ngại nhỏ là hắn đã không thể vượt qua : bị chế giễu, bị đối diện với
phong cách mới mẻ của cô gái. Bị chế giễu vì chuyện tình cảm, hắn rất buồn bực bởi thấy
mình chẳng làm điều gì sơ suất đáng để bị giễu cợt như vậy. Thấy cô gái Va-ren-ca đi xe
đạp - thời đó, đi xe đạp là chuyện lạ, nhất là đối với phụ nữ - hắn đã ngạc nhiên đến
hoảng hốt, sợ phút kinh lên. Đấy là giọt nước tràn li, hắn không chịu nổi điều đó.
Qua cuộc cãi cọ với Kô-va-len-cô, những ý nghĩ của hắn mới dần bộc lộ rõ. Theo
hắn, cần phải cư xử cho thận trọng. Đi xe đạp, mặc áo thêu ra đường, tay cầm sách là
những việc buông thả, còn phụ nữ đi xe đạp là chuyện kinh khủng, chẳng ra cái thế thống
gì nữa. Nghĩa là, hắn luôn trong trạng thái bảo thủ và luôn sống rất mẫu mực, lúc nào
cũng xử sự như một người tử tế, đứng đắn.
Thực ra, có lẽ, hắn là một công chức mẫu mực. Nhưng tâm lí luôn sợ những cái
vượt ra ngoài chuẩn mực ấy đã khiến con người hắn trở nên bé nhỏ, tầm thường, vô vị và
hèn nhát.
Thứ hai, đó là tâm lí đớn hèn, luôn sợ cấp trên. Nô lệ vào cấp trên đến nỗi không
dám có ý nghĩ riêng của mình. Đối với hắn, chỉ có những thông tư, chỉ thị mới là cái rõ
ràng. Ngợi ca quá khứ, dạy chữ cổ, ngợi ca những cái không có thật, là an toàn. Và an
toàn nhất là không làm gì cả, chỉ làm những điều cấp trên cho phép ! Hắn còn giải thích
rõ vì sao, cái nguyên nhân sâu xa khiến mọi người không được lùm bất cứ việc gì : nếu
không có chỉ thị nào cho phép. Cấp trên ở đây chính là ông hiệu trưởng, ông thanh tra !
Hắn thấy rằng phải luôn luôn kính trọng cấp trên, và đề nghị mọi người "khi có mặt tôi,
đừng bao giờ ăn nói như thế vé cấp trên. Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính
quyền"!
Vì thế, vừa sợ bị cấp trên hiểu lầm, vừa thấy thái độ không kính trọng cấp trên của
đồng nghiệp, hắn đã định mang cuộc cãi cọ của minh với Kô-va-len-cô đi mách với ông
hiệu trưởng. Ở đây lại xuất hiện một đặc tính của hắn : luôn xu phụ cấp trên, chỉ điểm,
chụp mũ đồng nghiệp (nói những điều không đúng, quy kết sang thái độ chính trị, đạo
đức của ai đó). Suy cho cùng, các nét hành động này chính là hệ quả của cách sống hèn
nhát : bảo vệ mình bằng cách bôi xấu kẻ khác. Còn đối với mọi người, tại sao, một giáo
viên quèn, dạy môn tiếng Hi Lạp vớ vẩn, lại có thể làm cho mọi người không chỉ quanh
hắn, mà cả thành phố sợ hãi ? Nguồn gốc của tất cả nỗi khiếp sợ ấy, khiến nó có cơ sở để
lây lan, chính là tâm lí nô lệ, hèn nhát phổ biến của tất cả mọi người, không chỉ Bê-li-cốp
: sợ cấp trên, sợ cường quyền, sợ dư luận, sợ các vãn bản, thống trị, chỉ thị,...
Qua phản ứng dữ dội của Kô-va-len-cô, hoá ra mọi người đều sợ bị chụp mũ (tức
là bị buộc những tội không phải mình làm) và rất sợ bị chỉ điểm, mách lẻo, bị đưa chuyện
với cấp trên. Điều này hình như trong tâm lí, mọi con người đều sợ, như là một thứ sợ
bản năng. Vì nó, người ta phải dẹp bớt các nhu cầu, kể cả những nhu cầu chính đáng của
mình, và đâm ra nghi ngờ, dò xét lẫn nhau. Tâm lí sợ hãi ấy như một bệnh dịch, cũng hay
lây lan. Bê-li-cốp đến chơi nhà mọi người, chỉ ngồi lì một chỗ, chẳng nói chẳng rằng.
Cũng vì chẳng hiểu hắn nghĩ gì, muốn gì, bởi đến cả ý nghĩ, hắn cũng cố giấu, nên rốt
cuộc mọi người đâm ra sợ hắn. Chắc là họ sợ hắn sẽ tố cáo họ với cấp trên, sợ hắn như sợ
một con chó săn ngồi canh cửa cho chính quyền. Và rồi họ cũng chẳng dám làm gì nữa,
kể cả những việc bình thường như diễn kịch, những việc sai phạm nhỏ nhặt như nhà tu
đánh hài, ăn thịt, thậm chí cả những việc tốt mang tính tiến bộ, dân chủ như gửi thư, làm
quen, đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ,...
Tâm lí sợ hãi ấy chính là cái bao vô hình bao phủ thường trực cuộc sống của tất cả
mọi người. Cái bao đó không chỉ bao bọc Bê-li-cốp mà còn bao phủ một bức màn u ám
lên cuộc sống của con người trong thị trấn suốt mười lăm năm. Mười lăm năm, thật là
một cuộc sống khủng khiếp, không ra cuộc sống con người. Nhưng mười lăm năm ngột
ngạt, không dám làm gì ấy, theo người kể chuyện, cứ tướng là do sự hiện diện của "kẻ
trong bao". Nhưng không ngờ, kẻ trong bao dù đã chết rồi, không khí ngột ngạt, bức bối
vẫn bao trùm cuộc sống của người dân thành phố. Hoá ra, cái không khí ngột ngạt ấy là
do chính cách sống của mọi người tạo nên.
Điều dó đã được chính bác sĩ I-van tổng kết : "chúng ta viết những giấy tờ vô
dụng, đánh bài đánh bạc..., sống cả đời bên những kẻ vô công rồi nghề" (kẻ đã châm
biếm tình cảm của Bê-li-cốp), "những kẻ xui nguyên giục bị" (Bê-li-cốp định mách lẻo
với cấp trên), "những mụ đàn bà nhàn rỗi ngu si" (tiếng cười ha ha vô duyên của Va-ren-
ca khi nhìn người khác bị ngã là ví dụ), "chúng ta nói và nghe đủú thứ chuyện nhảm nhí,
vô nghĩa". Tất cả đó là những cái bao, làm không khí ngột ngạt, u ám, tối tăm.
Như vậy, lỗi cũng chẳng phải là do lối sống của kẻ trong bao, mà là lỗi của chính
cuộc sống thị dân tăm tối, vô nghĩa. Cái u ám của cuộc sống bị bóp nghẹt tự do, dân chủ,
dưới sự độc đoán, tàn bạo, luôn có nhà tù, xích xiềng kề bên, cuộc sống tăm tối đó của
nước Nga dưới chế độ chuyên chế đã ánh chiếu vào trong đời sống của những kẻ thị dân
này. Và cần phải có một cuộc sống khác ! Không thể sống mãi như thế được ! Đó là lời
cảnh báo và cũng là lời phê phán mạnh mẽ lối sống tiêu cực đó của nhà văn Sê-khốp.
Bức chân dung mang tính biếm hoạ người trong bao đã cho thấy một thực trạng
đang phổ biến ở nước Nga thời bấy giờ : sự bạc nhược, ốm yếu về tinh thần với tâm lí nô
lệ, hèn nhát là một trạng thái thường trực của thời đại, hệ quả của sự bóp nghẹt dân chủ
và tự do. Muốn vượt qua được tâm lí đó, cần có một lối sống khác và những điều kiện xã
hội dân chủ cởi mở hơn. Điều ấy, phải do chính những con người dám dũng cảm cải tạo
căn bệnh tinh thần của thế hộ mình và phải cùng nhau xây dựng một chế độ tốt đẹp, để có
thể giải phóng chính mình, giải phóng con người khỏi những xích xiềng tinh thần vô
nghĩa.
BÀI MẪU SỐ 5:
1. An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp (1860 - 1904) xuất thân trong một gia đình lao
động bình dân ở tỉnh Ta-gan-rốc. Ông là nhà văn Nga kiệt xuất trong lĩnh vực truyện
ngắn và kịch.
Sê-khốp, nhà văn Nga. Sinh tại tỉnh Ta-gan-rốc, miền Nam nước Nga, trong một
gia đình lao động bình thường. Là cháu một nông nô, con một người làm công cho một
hiệu buôn, Sê-khốp đã phải phấn đấu gian khổ từ nhỏ để kiếm sống, giúp đỡ mẹ và các
em, tìm cho mình một nghề nghiệp, đồng thời phát triển tài năng. Trong cuộc sống nghèo
hèn ấy, Sê-khốp không ngừng vươn lên "vắt kiệt dòng máu nô lệ" để làm một con người
chân chính, một nhà văn chân chính. 1884, Sê-khốp tốt nghiệp Bác sĩ y khoa. Công việc
của người thầy thuốc nông thôn giúp cho nhà văn tiếp xúc với nhiều tầng lớp, hiểu biết
sâu sắc tâm lí con người để sáng tạo nên một thế giới nhân vật đông đảo, đủ màu, đủ sắc,
đồng thời cũng giúp nhà văn rèn luyện một lối viết sắc sảo, chính xác, gọn chắc. Sê-khốp
là nhà hoạt động văn hoá xã hội ; tham gia nhiều đợt chống dịch bệnh, chống nạn đói ;
mở nhiều trường học, phòng phát thuốc, phòng đọc sách, trạm cứu hoả… ; sống nhiều
năm ở nông thôn, trồng cây, làm vườn, gần gũi, chăm lo sức khoẻ cho nông dân quanh
vùng. Những người lao động bình thường : nông dân, người đánh xe, diễn viên, thầy
thuốc nông thôn, thầy giáo, sinh viên, người làm công… là nhân vật trung tâm trong
nhiều tác phẩm của nhà văn. 1890, Sê-khốp đã đi hơn bốn ngàn cây số bằng những
phương tiện thô sơ đến đảo Xa-kha-lin để điều tra nghiên cứu thực tế. Đảo này là nơi
giam giữ đày ải dã man các tù nhân, nhân dân địa phương sống rất khổ cực. Sê-khốp đã
làm việc liên tục suốt ba tháng, ghi chép khoảng 9.000 phiếu về khoảng 9.000 trường hợp
nạn nhân của chế độ độc đoán của Nga hoàng. Ông đi thăm mọi nhà, trò chuyện với mọi
người, chứng kiến đủ các hình thức nhục mạ và huỷ diệt con người. Ông viết những tác
phẩm tố cáo chế độ tù ngục, gây một tiếng vang lớn trong xã hội. 1900, Sê-khốp được
bầu làm Viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Nga, nhưng năm 1902 ông tuyên bố khước từ
danh hiệu này để phản đối Nga hoàng không chấp nhận việc bầu Go-rơ-ki vào Viện Hàn
lâm. Sê-khốp nổi tiếng là một người khiêm tốn, tế nhị, yêu thương giúp đỡ mọi người.
Ông qua đời trong khi đang điều dưỡng bệnh phổi tại một tỉnh ở Đức, bên cạnh người vợ
thân yêu Ôn-ga Kơ-ni-pe, nữ nghệ sĩ của Nhà hát nghệ thuật Mát-xcơ-va. Thi hài của nhà
văn được đưa về Mát-xcơ-va. (Đỗ Hồng Chung, Từ điển văn học, Sđd)
2. Truyện ngắn Người trong bao (1898) đây là một phát hiện đặc sắc có tính triết
lí và khái quát nghệ thuật cao của nhà văn.
Được Sê-khốp viết trong bối cảnh cả xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không
khí chuyên chế bảo thủ nặng nề cuối thế kỉ XIX. Câu chuyện nói về một người điển hình
về chứng bệnh sợ hãi, bạc nhược
3.Đọc hiểu
Lịch sử xã hội Nga thế kỉ XIX là lịch sử một thế kỉ không ngừng đấu tranh chống
ách nông nô chuyên chế. Văn học hiện thực Nga thế kỉ XIX ra đời, phát triển trở thành
một trong những nền văn học tiên tiến nhất của nhân loại. Các nhà văn Nga đã trưởng
thành và cống hiến cho nhân loại những giá trị văn hoá tinh thần cao quý. A. Sê-khốp
được coi là người đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỉ XIX.
Trong lĩnh vực truyện ngắn, ông là nhà cách tân nghệ thuật thiên tài. Truyện của ông
thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội và nhân bản sâu xa.
Viết trong bối cảnh xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế
nông nô bảo thủ nặng nề thế kỉ XIX, truyện ngắn Người trong bao đã phản ánh một cách
chân thực sinh động bộ mặt xã hội và hình ảnh con người. Tập trung vào chủ đề “con
người bé nhỏ”, Sê-khốp bên cạnh sự cảm thông sâu sắc với nỗi khổ của con người, còn
phê phán nghiêm khắc những tật xấu của họ. Đặc biệt, môi trường xã hội bảo thủ nặng nề
đã đẻ ra những thứ sản phẩm người “quái thai”, “kì dị” rất đáng phê phán và loại bỏ.
Hình tượng “người trong bao” là một phát hiện nghệ thuật của nhà văn. Hình ảnh con
người mắc chứng bệnh sợ hãi, bạc nhược đến nỗi sống và chết một cách thảm hại đã khái
quát một triết lí sâu sắc tiếp nối chủ đề “con người thừa” trong văn học Nga suốt thế kỉ
XIX.
Nhân vật Bê-li-cốp – "người trong bao", được nhà văn xây dựng bằng những thủ
pháp nghệ thuật phong phú. Nhà văn vừa miêu tả chân dung thói quen sinh hoạt của nhân
vật, vừa sử dụng lời đối thoại trực tiếp của nhân vật đi kèm với lời người kể chuyện tạo
cho người đọc có cái nhìn toàn diện về nhân vật.
Cách miêu tả chân dung thói quen sinh hoạt của nhân vật Bê-li-cốp khá đặc biệt
thể hiện một sự quan sát chi tiết, kĩ lưỡng. Lúc nào cũng vậy, Bê-li-cốp đều đi giày cao
su, cầm ô và nhất thiết mặc áo bành tô ấm cốt bông. Ông ở trong bao, chiếc đồng hồ quả
quýt để trong bao và chiếc dao nhỏ gọt bút chì cũng ở trong bao. Bê-li-cốp với mắt đeo
kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông, ngồi xe ngựa thì thu mình lại. Có vẻ như
một bộ dạng hài hước đến phi lí nhưng ngay cả bộ mặt của hắn “dường như cũng ở trong
bao”. Hình ảnh cái bao như một ám ảnh đối với người kể chuyện khi tả lại chân dung Bê-
li-cốp. Tưởng như cái bao đó là một tấm vỏ đáng sợ gói chặt hắn đến ngạt thở, làm tấm
ngăn cách hắn với cuộc sống bên ngoài. Người kể chuyện vẫn còn kể thêm chi tiết “Cả ý
nghĩ của mình, Bê-li-cốp cũng cố giấu vào bao”. Tưởng như thâm hiểm, thần bí lắm
nhưng thực chất đó là một kiểu người kì quặc đến quái dị. Ngay cả “thói quen” của hắn
cũng rất lạ. Việc đi hết nhà này đến nhà khác không nói không rằng, mắt nhìn xung
quanh như kiếm vật gì rồi lại cáo từ làm người ta hoảng sợ. Hắn cho đó là cách duy trì
mối quan hệ tốt đẹp. Sự im lặng – “trong bao” ấy như hàm chứa trong đó một sự bảo thủ
trì trệ, ngu dốt, bạc nhược đến thảm hại.
Tự giam mình trong bao, hắn sống cũng rất “thảm hại”. Buồng ngủ “chật như cái
hộp”, cửa sổ đóng kín mít, khi ngủ “kéo chăn trùm đầu kín mít”... Nhưng Bê-li-cốp nằm
trong chăn rồi vẫn thấy sợ. Một nỗi sợ vô hình bao trùm hắn. Thức, hắn sợ. Mơ, hắn cũng
sợ. Những giấc mơ khủng khiếp để lại cho hắn nét mặt tái nhợt, rầu rĩ. Tâm lí sợ hãi
giống như một bóng ma vây lấy hắn, nhưng kì lạ là các nhân vật khác cũng hoảng sợ “sợ
nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách…”. Một sự mê muội hoang tưởng của những
kẻ hèn yếu. Những kẻ tự giam mình trong vỏ ốc cá nhân ích kỉ bạc nhược, những kẻ
không dám đấu tranh vượt lên chính mình. Hình ảnh dân chúng trong vòng mươi, mười
lăm năm trở lại đây đâm ra sợ hãi khiến người đọc có những liên tưởng thú vị. Đây phải
chăng là diện mạo chung cho cả xã hội nông nô chuyên chế Nga hoàng bảo thủ khắc
nghiệt. Một bầu không khí u ám đến ngạt thở mà tất cả đều tự nhốt mình trong bao. Cả xã
hội – ở mức độ này hay mức độ khác, đều là người trong bao.
Cách đối thoại trực tiếp của Bê-li-cốp với Cô-va-len-cô càng bộc lộ rõ hơn tính
cách “người trong bao”. Lại là một chuyện phi lí khi Bê-li-cốp cho rằng đi xe đạp “hoàn
toàn không phù hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Vẫn là một sự nhận thức
mê muội, nhảm nhí, một sự bảo thủ đến ngu dốt, nhưng khi hắn “tái mặt”, khi động đến
chuyện “cấp trên”, “chính quyền” thì tính cách của Bê-li-cốp lại có một biểu hiện khác.
Hắn chính là một kẻ bạc nhược, một sản phẩm dị hợm của xã hội bảo thủ. Những con
người như Bê-li-cốp là những công cụ đắc lực của xã hội nông nô chuyên chế Nga hoàng,
những kẻ ngu dốt lại có tài bợ đỡ, luồn cúi. Hình ảnh “cấp trên”, “chính quyền” chính là
bóng ma của “quyền lực” bao phủ câu chuyện.
Cái ngã lộn nhào và cái chết của Bê-li-cốp được tác giả thuật lại bằng giọng điệu
hài hước. Mọi việc diễn ra “như không”. Bê-li-cốp không quan tâm tới việc ngã có đau
không, có xây xước gì không mà điều đầu tiên xem “cặp kính có còn nguyên vẹn không”.
Hắn không quan tâm đến việc ngã như thế nào mà chỉ sợ ai đó đã trông thấy lúc hắn ngã
thì thật là “kinh khủng”. Hắn sợ mình là trò cười nhưng nỗi “sợ” của hắn đã biến hắn
thành một tên hề đáng cười nhất. Hắn run rẩy trong nỗi sợ mù quáng và cũng chết trong
sự mù quáng ấy. Quả thực, tiếng cười của Va-ren-ca đã chấm dứt cuộc đời Bê-li-cốp. Va-
ren-ca cười khi cái bao che phủ con người Bê-li-cốp bị rách toạc, hình ảnh người trong
bao lộ mặt. Mọi sợ hãi của Bê-li-cốp đã thành sự thực. Không phải chết do cú ngã, hắn
lên giường và không dậy nữa. Hắn chỉ đáp “không” hoặc “có” rồi đến im lặng vĩnh viễn.
Cái chết của Bê-li-cốp là tất yếu, chấm dứt cuộc đời của một kẻ quái thai trong xã
hội. Đây cũng là điều khiến mọi người thấy “nhẹ nhàng, thoải mái”. Nhưng bi kịch chính
ở chỗ hắn chết trong sự thảm hại mà vẫn “tươi tỉnh lắm”, mừng như “được chui vào trong
cái bao”. Cái nhìn hiện thực sắc sảo của tác giả đã khai thác rất sâu tính bi kịch của câu
chuyện. Một kẻ ngu dốt hoang tưởng, bạc nhược hèn yếu nhưng lại không nhận ra được
chính mình. Một kẻ bị ru ngủ trong sự bảo thủ trì trệ.
Ở cuối truyện, lời người kể chuyện mang đầy sắc thái chiêm nghiệm : “Trên thực
tế, Bê-li-cốp đã chầu âm phủ nhưng hiện còn bao nhiêu là người trong bao, trong tương
lai cũng sẽ còn bao nhiêu kẻ như thế nữa”. Hình ảnh người trong bao không chỉ có một
mà là số đông, là cả một xã hội bạc nhược, nhát sợ. Cái xã hội mà bóng ma chuyên chế
nông nô bao phủ lấn át. Sự xuất hiện của những con người kiểu Bê-li-cốp đã kìm hãm sự
phát triển phồn thịnh của đất nước, đẩy nước Nga chìm đắm trong màn đêm đen tối lạc
hậu. Lời của bác sĩ I-van có ý nghĩa thức tỉnh sâu xa. Ý thức được bản thân mình là kiểu
“người trong bao” để rồi quyết tâm phá bỏ nó là cả một quá trình nhận thức tiến bộ.
“Không thể sống mãi như thế được” – câu nói của I-van đã thắp sáng niềm tin tươi sáng
vào sự phát triển của dân tộc. Trong ánh hoàng hôn ảm đạm của nước Nga nông nô
chuyên chế, sự dũng cảm loại bỏ cái xấu xa hèn kém của chế độ Nga hoàng đã khẳng
định tầm nhìn vĩ đại của Sê-khốp, khẳng định ông là một bậc thầy của cách mạng hiện
thực Nga cuối thế kỉ XIX.