
VĂN MẪU LỚP 11
BÌNH GIẢNG VỀ NGƯỜI NGHĨA SĨ NÔNG DÂN TRONG BÀI VĂN
TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
BÀI MẪU SỐ 1:
Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít
nhất cũng trên mười mấy thế kỷ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nông dân ấy
chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX với bài văn “ Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của
Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật đầu tiên về người nông dân –
nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng, bi thương
mà hào hung như cuộc chiến đấu bi tráng mà nhân dân Việt Nam đã tiến hành suốt nửa
sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lý, rất sâu sắc khi mở đầu khúc bi ca văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc của mình:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền: lòng dân trời tỏ.
Quả là, qua cuộc đấu tranh này, qua cái thử thách khắc nghiệt này, bản chất tốt
đẹp, tấm lòng yêu nước của những nông dân bình thường này, vẻ đẹp thực sự của tâm
hồn họ được bộc lộ một cách trọn vẹn. Họ vẫn có đấy, vẫn sống đấy, nhưng sống trong
thầm lặng của sự quên lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự cảm thông cao độ, nhận ra rằng
cuộc sống của họ đã từng vất vả xiết bao:
Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó.
Bao nhiêu lượng thông tin chứa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với
chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân Cần Giuộc, người nông dân lục tỉnh,
cũng là người nông dân Việt Nam ngày đó. Bóng dáng của họ, nhỏ bé và cô đơn trong
cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tai họa trong thiên nhiên, từ xã hội, như hiện lên rõ
mồn một qua từng chữ. Tưởng như, chỉ chừng ấy lo toan vất vả cũng quá đủ đối với họ,
tưởng như họ, những người nông dân vất vả ấy, chẳng còn có thể nghĩ gì thêm, lo toan gì
thêm ngoài những “ toan lo nghèo khó” vốn đã quá lớn lao ấy.
Thế mà không, quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, đã đến tận xóm làng, đã
đến tận ngôi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy
vươn vai, và họ chợt trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng mấy nghìn năm
xưa khi chợt nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng có một điều cơ bản rất khác xưa là tiếng
rao truyền cứu nước không phải phát đi từ cung điện nhà vua mà đã được phát đi từ chính

trái tim của những người nông dân Cần Giuộc. Nó chính là lòng căm thù sôi sục vì hành
động cướp nước:
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp: muốn tới ăn gan: ngày xem ống khói chạy đen
sì, muốn ra cắn cổ.
Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ đã làm nảy sinh một
khát vọng cao độ: khát vọng đánh giặc. Đó là ước muốn hoàn toàn tự nhiên và hoàn toàn
tự nguyện:
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc rat ay bộ hộ.
Người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác hoàn toàn với người nông
dân chỉ trước đó không bao lâu.” Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” khi phải
sung làm lính đi biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua. Tự nguyện chiến
đấu, ấy là nét bản chất nhất trong hành động của người nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là
sự tiếp tục giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc đánh ngoại xâm với chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên
đánh cướp mà động cơ duy nhất:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Trong việc nghĩa, không có việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc nghĩa thì
phải làm, làm một cách vô tư, không vụ lợi, không chần chừ, không cần đợi có đủ điều
kiện mới làm. Đó là chỗ bi kịch của người nông dân Cần Giuộc, đó cũng là chỗ hùng ca
của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bi kịch vì:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin qua như trời hạn trông
mưa.
Họ bắt đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân của
họ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu ấy từ lâu nhưng lại “ án binh bất động” một cách khó
hiểu. Bi kịch còn cho họ là những người:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm: tập khiên, tập súng, tập
mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Bước vào chỗ sống chết của chiến trường mà những con người ấy chỉ mang theo
những trang thiết bị chỉ đủ để làm những người cày ruộng.
Trước giặc dữ là những tên lính nhà nghề có đủ “ tàu sắt tàu đồng”, đạn to, đạn
nhỏ, họ chỉ là những người nông dân không có kiến thức gì về trận mạc, chỉ có “ một
manh áo vải”, “ một ngọn tầm vông”, chỉ có “ lưỡi dao phay”. Cuộc chiến đấu mới chênh

lệch làm sao! Kết cục cuộc chiến đấu ấy như thế nào thì đã rõ rang rồi. Đó là tấn bi kịch
của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời
kỳ nghiệt ngã ấy, tấn bi kịch đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỷ.
Nhưng chính trong cái bi kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã cất lên. Hùng ca
trước hết là sự ngoan cường của những con người quyết chiến thắng, vượt lên trên nỗi lo
thất bại để chiến thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp hết mọi sự thiếu hụt,
chênh lệch của mình so với kẻ thù:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như
không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có,
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Thật là phấn chấn, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã chiến đấu như
những người lính tuyệt vời dũng cảm. Ở đây, sức mạnh tinh thần đã phát huy đến mức tối
đa và trong một chừng nào đó, đã tỏ rõ hiệu quả của nó trước sức mạnh của chiến thuật,
của vũ khí, trang bị:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia: gươm đeo dùng
bằng lưỡi dao phay, cũng chém rơi đầu quan hai nọ.
…Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh…
Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa hề có một
bức tranh hào hùng như thế về tư thế chiến đấu của người lính áo vải. Hình ảnh người
nông dân ở đây là sự kết tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là bản chất
của họ. Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người nông dân Cần Giuộc đã đi vào vĩnh
cửu.
Quả Nguyễn Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân –
nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là tượng đài của một người, mà của nhiều
người, của một tập thể anh hùng. Không có cái tập thể ấy, không làm sao có được sự hòa
hợp tuyệt đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp đảo cái chết, với những “
đạp rào lướt tới”, “ xô cửa xông vào”, với những “ kẻ đâm ngang người chém ngược”,
bọn hè trước, lũ ó sau như thế được.
Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung là “ nghĩa sĩ Cần
Giuộc”, còn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều vô danh. Họ không hề tìm cho mình một điều
gì riêng mình khi chiến đấu. Cái duy nhất họ gửi lại cho đời, điều mà Nguyễn Đình Chiểu
nêu lên như là một tiêu chí chung bên dưới bức tượng đài của họ, ấy là triết lý sống. Chết
vinh hơn sống nhục.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh: hơn còn mà chịu chữ
đầu Tây, ở với man di rất khổ.

Hoàn thành bức tượng của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để một phần cuối cho
những lời ca ngợi, thương tiếc và thắp những nén hương kính trọng:
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân: cây hương nghĩa
sĩ thấp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.

BÀI MẪU SỐ 2:
Cuộc tấn công của mấy chục nghĩa quân vào đồn Cần Giuộc của thực dân Pháp
năm 1863 là cuộc tấn công đầu tiên của quân dân Việt Nam mở đầu cho cuộc kháng
chiến chống Pháp. Số lượng thiệt hại mà quả thực họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho
lịch sử dân tộc, bằng lòng yêu nước thiết tha vô tư của họ, thì to lớn vô cùng. Họ sứng
đáng được tạc thành tượng đài để đi vào bất tử. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn
thành vẻ vang nhiệm vụ của người nghệ sĩ nhân dân tạc nên bức tượng đài ấy.
Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định, Pháp đánh úp Cần Giuộc, một thị trấn
cách Gia Định 23 km về phía Tây Nam. Ngày 16 tháng 12 năm 1861, nghĩa quân tập kích
đồn giặc, hy sinh vài mươi người. Nguyễn Đình Chiểu dùng ngòi bút của của mình truy
điệu những nghĩa quân hy sinh. Qua bài tế văn này, lần đầu tiên hình ảnh người nông dân
Việt Nam đi vào văn học thành văn với tất cả vẻ đẹp và tầm vóc lịch sử vốn có của mình.
Ta hãy cùng phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua bài Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – một hình tượng nông dân bình thường mà vĩ đại, vì
nước hy sinh, rực rỡ nét sử thi, làm rung động tâm hồn người đọc mọi thế hệ.
Những người nghĩa sĩ ấy xuất thân là nông dân nghèo khó. Câu văn mở đầu giới
thiệu cuộc đời họ là cui cút, khép lại là nghèo khó.
Cui cút làm ăn., toan lo nghèo khó.
Trọn vẹn trong đó là hình ảnh những người làm ăn cần mẫn với những lo toan
nhọc nhằn. Họ cũng chất phác, thật thà.
Chưa quen cùng ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trân, ở trong làng bộ.
Những con người ấy suốt cuộc đời tầm mắt chưa nhìn qua khỏi lũy tre làng, quanh
năm cặm cụi với ruộng đồng, con trâu lưỡi cày. Câu kế tiếp liệt kê những công viêc nặng
nhọc phủ vây con người lam lũ này:
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm:
Họ không biết chút gì về chiến trận:
Tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tuy nhiên, khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương Nam Bộ, những người nông dân
hiền lành, tăm tối ấy, dù hoàn toàn xa lạ với trận chiến binh đao, bỗng chốc trở thành
người chiến sĩ anh hùng đánh Tây. Đó là sự phi thường với bản thân họ, nhưng cũng là lẽ
bình thường khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.
Thực dân Pháp tiến công Nam Bộ đã hơn muoi tháng. Người dân mong chờ triều
đình đánh giặc, nhưng trông tin qua như trời hạn trông mưa. Lúc đầu nghe thấy kẻ thù hôi
tanh, mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, nên họ ghét thói xâm lăng mọi rợ đó như nhà
nông ghét cỏ, thấy cỏ ở ruộng lúa là phải nhổ cho sạch. Khi kẻ thù hiện hình cụ thể trước

