VĂN MẪU LỚP 11 9 BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH BÀI VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC

CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU”

BÀI MẪU SỐ 1:

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho yêu nước cuối thế kỉ XIX. Cuộc đời của ông đầy những bất hạnh. Nhưng bằng nghị lực phi thường, ông trở thành tấm gương sáng về nhiều mặt... "Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên bức tượng đài bi tráng về người nông dân nghĩa sĩ đánh Pháp cuối thế kỉ XIX. Lời đánh giá trên rất xứng đáng với thành công của tác phẩm. Hơn một thế kỉ qua, đọc lại bài văn tế ấy, ai không dạt dào xúc động, bởi “nước mắt anh hùng” có bao giờ ráo khô?

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã cất lên tiếng than:

Hỡi ôi! Súng giặc đất rèn; lòng dân trời tỏ!

Đây chính là hoàn cảnh, là cái nền mà trên đó, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bức tượng đài bất hủ. Đất nước bị xâm lăng. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Kẻ thù hung hãn đã tới. Xã tắc chao đảo trước “tàu sắt, tàu đồng, súng nổ”. Phải chăng, đây là lúc:

Bến Nghé của tiền tan bọt nước

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây

Cũng chính là lúc:

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

Mất ổ bầy chim dáo dát bay

(Chạy Tây - Nguyễn Đình Chiểu)

Từ hoàn canh khốc liệt, tan tác, đau thương này, tấm lòng của người dân đã rực

sáng giữa trời xanh!

Họ là ai?

Họ không phải là những sĩ phu, những chí sĩ, cũng không phải những đại gia từng

được ơn vua lộc nước hậu hình. Họ chỉ là những người:

Côi cút làm ăn, lo toan nghèo khó...

... Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;

Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó

Họ hoàn toàn là nông dân, nông dân 100% những con người quanh năm chưa từng bước ra khỏi lũy tre làng! Hơn thế, họ còn là những nông dân nghèo, nghèo lắm. Hai chữ

“côi cút” của cụ Đồ mới xót xa làm sao! Có nghĩa là ngày thường, những tháng năm dài dặc lúa, họ chẳng được “chăn dắt” như mạo nhận của bọn vua quan. Một đời, nhiều đời thui thủi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Thế nhưng, chính những con người bị bỏ rơi ấy lại là những người đầu tiên đúng lên, cho dù chẳng phải quân cơ, quân vệ. Họ chỉ vì nghĩa lớn mà tập hợp dưới cờ.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu

Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Với hai câu văn trên, cụ Nguyễn Đình Chiểu dã cho ta thấy họ quả là những nghĩa sĩ, những con người có trách nhiệm lớn với non sông, những con người mang trong mình dòng máu bất khuất. Cho nên, chính họ đã quyết “Phen này xin ra sức đoạn kình... Chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

Đó chính là tư tưởng của những Triệu Thị Trinh, Bố cái Đại vương Phùng Hưng

từng chém cá kình ở biển Đông, bắt hổ dữ ở rừng sâu trong lịch sử dân tộc.

Nhưng Cụ Đồ Bến Tre vẫn không quên chính họ là những người chán đất có tấm

lòng căm thù giặc tới tận xương tủy:

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan

Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ!

Chính sự căm thù này khiến họ vượt qua khó khăn thiếu thốn, không đợi trang bị vũ khí, ăn mặc, không đợi luyện tập quân sự, không sợ kẻ địch mạnh, có vũ khí tối tân, có lính đánh thuê hung hãn, có bọn Việt gian thâm hiểm... nhất quyết ngay một lúc vào trận với những vũ khí tự tạo thô sơ: “Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi/ Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay", nghĩa là có gì đánh nấy, miễn là giết được giặc! Nếu không có tấm lòng vì nghĩa lớn, làm sao có được cái gan ấy?

Và, khi vào trận, họ quả là phi thường:

Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như

không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh; bọn hè trước,

lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.

Quả là một trận chiến dũng mãnh, quyết liệt đến liều mạng của lòng căm thù! Các động từ mạnh như “đạp - lướt - xô - xông - đâm ngang - chém ngược...” khiến cho người đọc hàng trăm năm sau còn như thấy trước mắt khí thế vũ bão ào ào của nghĩa quân. Trong ánh lửa bập bùng, loang loáng những bắp tay trần, loang loáng ánh thép dao phay, rầm rập những bước chân, ầm ầm tiếng thét giết tươi kẻ thù…

Trong văn học Việt Nam đến thời điểm ấy, hiếm có một bức tranh công đồn nào hiện thực sinh động như thế! Không một chút ướt lệ, ngòi bút, kí sự, đặc tả của nhà Nho

mới quý giá biết bao! Vì sao một người “quanh mình chỉ có bóng đêm” mà lại nhìn sáng tỏ đến như thế? Tài năng hay tấm lòng? Có lẽ là tất cả!

Chính tinh thần quyết chiến ấy của người nghĩa sĩ đã làm nên những chiến công rất đáng ca ngợi. Họ đã tiêu diệt được tên chỉ huy ác ôn, đã đốt cháy ổ gián điệp, tức là kẻ thù nổi, kẻ thù chìm, kẻ thù bằng xương bằng thịt, kẻ thù tư tưởng (nhà dạy đạo)... Càng có ý nghĩa lớn khi những chiến công ấy được lập lên từ những vũ khí rất thô sơ! Bức tượng đài hoành tráng ấy càng lẫm liệt.

Xót xa thay! Họ đã ngã xuống! Sự hi sinh anh dùng của họ đã làm đau xót cả đất

trời Nam Bộ:

Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;

Nhìn chợ Trưởng Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

Đất trời mờ mịt! Người người khóc thương! Nỗi sầu thảm này biết mây xót xa!

Đằng sau cái chết của người anh hùng sẽ là:

Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng

thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã hòa máu và nước mắt để viết nên những câu

văn não lòng như thế!

Mặc dù Nguyễn Đình Chiểu đã gạt lệ để ngợi ca tấm gương hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ với tấm lòng son vằng vặc ánh trăng rằm, “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ linh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia”, nghĩa là những con người ấy chết mà vẫn sống! Nhưng lòng chúng ta vẫn không sao ngăn được ngậm ngùi xót thương đau đớn!

Bức tượng đài bi tráng mà Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bằng ngòi bút cùa mình sẽ mãi mãi tồn tại cùng non sông đất Việt! Đây là bức tượng đài đầu tiên về người nông dân đánh giặc! Chúng ta đều biết, người Việt ta từ khi biết dùng cành cây chọc lỗ gieo hạt cũng là lúc biết vót nhọn ngọn tầm vông, nhọn mũi chông tre để chống lại mọi kẻ thù bốn chân và kẻ thù hai chân! Họ thực là chủ nhân của đất nước. Nhưng trong văn học chính thống trước thời Nguyễn Đình Chiểu, họ chưa một lần trở thành nhân vật trung tâm! Nay Nguyễn Đình Chiểu đã trả lại địa vị chính đáng cho những người chân lấm tay bùn này. Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nước ta cuối thế kỉ XIX có phần đóng góp xứng đáng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ! “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” mãi mãi là “bài ca về những người anh hùng thất thế'’ (Phạm Văn Đồng).

Xin được thắp một nén tâm hương tưởng nhớ, hai lần tưởng nhớ, tưởng nhớ người

anh hùng liệt sĩ, tưởng nhớ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.

BÀI MẪU SỐ 2:

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều bi kịch đau khổ và bất hạnh. Có lẽ vì vậy mà hơn ai hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mớ rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.

Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ...

Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Chính từ sự gian nguy, đau thương đó, tình yêu đất nước của những người nông dân bình thường mới được thể hiện, vẻ dẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bày tỏ cùng trời đất.

Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện một cách rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục dùng biện pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.

Nhớ lính xưa:

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;

Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;

Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó...

Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi lo toan “miếng cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nhà nông: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết đến “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa

quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc.

Khi mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ ngóng trông mệnh lệnh

của triều đình: "trông tin quan như trời hạn trông mưa”.

Thì ra cái bi kịch xót xa là ở chỗ này: triều đinh nhu nhược, không hiểu được lòng

dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm chế:

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

... Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy

đen xì, muốn ra cắn cổ.

Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu đất nước tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh.

Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính từ lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.

Nào đợi ai đòi, ai bất, phen này xin ra sức đoạn kinh:

Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân khi phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên chiến đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, ấy là nét đẹp bản chất nhất trong hành động của người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đến đây không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chông giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào dại mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với kẻ thù lớn mạnh với “đạn nhỏ, đạn to”, “tàu thiếc, tàu đồng” với đội quán xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là “một manh áo vải", “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay” và chỉ là nhừng “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. Thử hòi rằng đem những thứ đó ra đối chọi với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thật phũ

phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn bi kịch này đã đưa đến cái họa mất nước kéo dái cả thế kỉ.

Nhưng cũng chính từ cái tấn bi kịch này mà đà làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã cất lên dược bản anh hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh chiến đấu, họ vẫn quyết chiến và quyết thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với kẻ thù. Hoàn cảnh chiến đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến đâu bằng chinh tinh thần sự quyết chiến không sợ hi sinh nên hiệu quả chiến đấu lại vô cùng lớn.

Chỉ với những vũ khí thô sơ như:

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,

Gươm đeo dùng bằng lười dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh..

Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tốì của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.

Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tôi của dân tộc ta - thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ cần Giuộc — họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.

BÀI MẪU SỐ 3:

Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một gia đình nhà nho.Năm 1846 ông về Gia Định mở trường dạy học bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân và làm thơ.Khi giặc Pháp dụ dỗ ông vẫn giữ trọn lòng mình thủy chung son sắc với đất nước và nhân dân.Thơ văn của ông thấm nhuần lý tưởng đạo đức cao đẹp nhân nghĩa với những con người sống cao đẹp nhân hậu thủy chung biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng cao cả dám đấu tranh và có đẻ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn cứu nhân dộ thế.Bài thơ “văn tế nghĩa sĩ cần giuộc là một tác phẩm như thế.Bài văn là tiếng khóc từ đát lòng của tác giả và tiếng khóc lớn của nhân dân trước sự hi sinh của những anh hùng.

Văn tế là một loại văn thường dùng trong khi đọ tế cúng người chết nó có hình thức tế-tưởng.Bài văn tế có các phần Lung khởi là cảm hứng khái quát về người chết và thích thực hồi tưởng về công dức của người chết phần Ai vãn than tiếc người chết và phần kết nêu ý nghĩa và lời mời của người cúng tế đối với kinh hồn người chết.Bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc có đủ bốn phần như vậy.

Mỏ đầu bài thơ là một lời than: “Hỡi ôi!súng giặc đất rền lòng dân trời tỏ”Tiếng than vang lên mà nghe sau đau thương đến thế.Tiếng than ấy cho ta một ý nghĩ về một cảnh tan thương chết chóc là cảnh chiến tranh tan khốc với những người đã bị tử trận trên chiên trường.Ông trời có thấu hiểu lòng người có thấu hiểu được nỗi tan thương đau xót trong lòng những người thân nhân của những người dân đã tử trận.Tiếng khóc bi tráng của tác giả xuất phát từ rất nhiều nguồn cảm xúc. Đó là thái độ cảm phục và niềm thương xót vô hạn của tác giả đối với người nông dân nghĩa sĩ. Các chi tiết” xác phàm vội bỏ”; “nào đợi gươm hùm treo mộ”;” tất đất ngọn rau ơn Chúa”, “tài bồi cho nước nhà ta”; “ quan quân khó nhọc”,” ăn tuyết nằm sương”; “ đòn lũy tan tành”thể hiện niềm thương cảm và xót thương ấy một lần nữa khẳng định nghĩa binh chỉ là những người dân thường, nhưng sẵn sàng dấy binh vì một lòng yêu nước.

Bên cạnh đó tác giả miêu tả hình tượng người chiến sĩ với vẻ đẹp của hình thức bên ngoài “chẳng qua là dân ấp dân lâm” “ngoài cật có một manh áo vải” “trong tay cầm một ngọn cầm vông”. Đó là những hình ảnh của những người dân chân lấm tay bùn cơm không đủ no áo không đủ ấm .Còn cuộc sống hàng ngày của họ thì được tác giả miêu tả bằng những câu văn mộc mạc dễ hiểu không mấy cầu kì về câu chữ ,họ hiện lên là những người “cui cút làm ăn toan lo nghèo khó” “chưa quen cung nong toàn bộ” “việc cuốc việc cày việc bừa việc cấy tay vốn quen làm;tập khiên tập súng tập mác tập cờ mắt chưa từng ngó” Từ đó cho ta một cái nhìn toàn diện đầy đủ nhất về người nông dân.Họ vốn là những người dân lao động bình thường và họ cực kì lương thiện không bao giờ muốn xảy ra chiến tranh,họ không đi cướp bóc không muốn đi xâm chiếm nước khác để làm giàu cho mình mà họ mãn nguyện về cuộc sống khốn khó nhưng hòa bình của mình.Có chăng ước mơ to lớn nhất của họ chính là đủ cơm ăn áo mặc.Thế nhưng khi tổ quốc lâm nguy

súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương sứ xở thì họ lạ có một tinh thần kháng chiến sục sôi . “súng rền”cho thấy bọn giặc đã sử dụng những vũ khí rất tối tân chứ không phải là gậy guộc là khiên là mác nữa cho thấy ở đây có một khoảng cách xa về vũ trang của cả hai bên.Nhà văn đã miêu tả được vẻ đẹp của người dân yêu nước sao mà giản dị đến thế “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng trông tin quan trường như trời hạn trông mưa mùi chinh chiến vấy vá đã ba năm ghét thói mọi như nhà hồn ghét cỏ” “Bữa thấy bòng bong che chắn lốp muốn tới ăn van ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.Chính vì thế mặc dù dân ấp dân lâm người cật có một manh áo vải trong tay cầm một ngọn cầm vông nhưng họ vẫn sẵn sàng tự nguyện xả thân vì nghĩa lớn “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai họ” “chi dọc quan quản gióng trống kì trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ đạn ta xô cửa xông vào liều mình như chẳng có” và thế là “kẻ đâm ngang người chém ngược làm cho tà mã ma ní hồn kinh bon hè trước lũ ó sâu trỗi kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.

Nhà văn đã thành công trong khi khắc họa hình tượng nghĩa quân Cần Giuộc .Các từ miêu tả nguồn gốc xuất thân ngoại hình và hành động của người nghĩa sĩ nông dân cho thấy họ chỉ là những đan bình thường chất phác chăm chỉ nhưng khi nước nhà có giặc họ tự nhận về mình trách nhiệm phải bảo vệ đất nước sẵn sàng hi sinh và nước.Cách thể hiện hình tượng người nghệ sĩ rất tỉ mỉ từ trang bị thô sơ hành động dũng cảm nguyện xả than mình để bảo vệ đất nước.

Việc miêu tả nghĩa sĩ cần giuộc cũng đạt đến đỉnh cao trong việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật. Đó là việc sắc sảo trong miêu tả xây dưng nhân vật qua ngoại hình xuất thân và cả những hành động những việc làm khi họ chống giặc qua đó thể hiện niềm xót thương của tác giả đối với sự hi sinh cao cả của họ. Tác giả còn sẻ chia nỗi đau sâu sắc ấy đối với thân nhân những người đã hi sinh “đau đớn mà mẹ già ngồi khóc trên ngon đèn khuya leo lét trong lều “Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng ,cơn bóng bề dật dờ trước ngõ”. Sự kết hợp giữa nhiều nguồn cảm xúc ấy khiến cho tiếng khóc đau thương nhưng lại không bi lụy .Tiếc thương và ngưỡng mộ ông đã để các nghĩa sĩ ra đi không chết.Ông đã đụng đến cả tiềm thức và tâm tình để sáng tạo nên những hình tượng có giá trị siêu hình về cái vĩnh hằng bất tử của những người nghĩa sĩ.

Ngữ điệu bài văn đọc lên nghe như có tiếng khoác nức nở nghẹn ngào .Cảm giác như có nước mắt cứ chảy chảy hoài tiếc thương cho người anh hùng đã hi sinh cho đất nước không tiếc thân mình mà những người nông dân ấy chỉ biết hi sinh thân xá của mình để bảo vệ cho đất nước.

Bài văn tế đã làm hiện lên người nha hùng nông dân chân lấm tay bùn làm nên lịch sử.Một mặt họ rất lam lũ cui cút làm ăn nhưng khi có chiến tranh khi đát nước gặp nguy nan thì họ lại là những người nha hùng không tiếc máu sương của mình để bảo vệ đất

nước.Tượng đài nghệ thuật về người chiến sĩ được hiên lên bằng máu sương mồ hôi và nước mắt của hàng triệu người anh hùng và tất cả nhân dân dân tộc ta.

BÀI MẪU SỐ 4:

Năm 1859, để gỡ thế bí phải giam chân lâu ngày ở Đà Năng, thực dân Pháp rút quân đánh vào Sài Gòn. Dựa vào sức mạnh của đội quân nhà nghề trang bị tối tân lại lợi dụng tình thế bất ngờ, chúng tấn công ào ạt. Quân dân ta chống cự mãnh liệt nhưng tất cả những sự do dự cầu an vô trách nhiệm của triều đình Huế trong vai trò lãnh đạo của mình đã gây ra rất nhiều trở ngại. Dần dần ta phải rút ra khỏi Sài Gòn để củng cố đồn Kỳ Hòa. Thực dân Pháp lại tiến đánh Kỳ Hòa và ngày 14 - 12 - 1861 (tháng 11 năm Tân Dậu) chúng đánh úp ba xứ Cần Giuộc, Tân An, Gò Công. Hai hôm sau nhân đêm rằm, nghĩa quân của ba xứ nổi dậy đột kích quân Pháp đóng ở Cần Giuộc, nghĩa binh phá đồn giặc, đốt nhà lao, giết chết tên quan hai Pháp và một số lính, mã tà người Mã Lai và Phi Luật Tân, nghĩa binh hi sinh khoảng mười tám người. Sau thắng lợi này, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, bạn của Nguyễn Đình Chiểu có nhờ ông làm bài văn tế những nghĩa binh tử trận. Cuộc điếu tế làm ở Cần Giuộc với bài văn có tên là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nghĩa binh phần lớn là nông dân ở các đồn điền do nhà Nguyễn lập ra để khai thác sáu tỉnh Nam Bộ. Vì thế người ta thường gọi là “dân mộ nghĩa” hoặc “dân đồn điền” để phân biệt với quân chính quy của triều đình. Và bài văn tế còn có tên là Văn tế vong hồn dân mộ nghĩa.

Bài văn thuộc giai đoạn thứ hai cuộc đời sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu nhưng xét trong bộ phận văn thơ yêu nước của tác giả thì đây là một trong những sáng tác đầu tiên, đồng thời có giá trị mở đầu cho cả dòng văn học yêu nước chống Pháp băng chữ Nôm nửa sau thế kỉ XIX. Tình hình chung thời kì này, trong khi nhân dân Nam Bộ tiếp tục vùng lên chống xâm lược thì quân đội của triều đình bị thua nhiều trận, rút lui dần. Vua chúa nhà Nguyễn tuy chưa đầu hàng nhưng càng bạc nhược, lúng túng. Xuất phát từ lòng yêu nước thương, dân tha thiết, Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ nỗi tiếc thương vô hạn đối với những nghĩa sĩ nông dân đã bỏ mình vì nước, đề cao tấm gương hi sinh chiến đấu anh dũng của họ để động viên lòng yêu nước căm thù giặc, ý chí kiên quyết chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta thời đó.

Toàn bài có 30 câu làm theo lối Đường phú độc vận với kết cấu thông thường của

văn tế, gồm bốn phần:

1) Lung khởi (câu 1 - 2). Nêu rõ chủ đề: Sự hi sinh vẻ vang của những người nông

dân vì đại nghĩa mà chống giặc.

2) Thích thực (câu 3 - 15). Giới thiệu những người nông dân mộ nghĩa với cuộc

đời lao động nghèo khổ, tinh thần anh dũng cứu nước và thành tích giết giặc của họ.

3) Ai vãn (câu 16 - 28). Bày tỏ lòng tiếc thương của tác giả và của nhân dân đối

với liệt sĩ.

4) Kết (câu 29 - 30). Ca ngợi linh hồn bất diệt của các liệt sĩ.

Phân tích chi tiết bài văn:

1. Lung khởi: Bài văn mở đầu bằng hai câu tứ tự (bốn từ):

Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ.

Với hình thức ngắn gọn, câu văn mang một nội dung hàm súc vì đã dựng nên được khung cảnh bão táp của thời đại, khái quát đầy đủ hai mặt của biến cố chính trị lớn lao: một bên là cuộc xâm lăng ào ạt, tàn bạo của kẻ thù với vũ khí tối tân (tiêu biểu là thứ súng nạp hậu, tiếng nổ và sức công phá dữ dội hơn hẳn thứ súng cổ lỗ của phong kiến); một bên là vai trò và ý chí chống xâm lăng của nhân dân khi bình thời vốn tiềm ẩn thầm lặng nay bỗng hiện lên sáng ngời rực rờ. Hai mặt đó trong thực tế lịch sử đã xung đột mãnh liệt, chi phối toàn bộ thời cuộc cho nên không phải là ngẫu nhiên mà tác giả đã dùng những yếu tố không gian rộng lớn “đất”, “trời”, kèm theo hai động từ “rền”, “tỏ” làm thành một hình ảnh thống nhất nhưng lại mang mâu thuẫn nội tại gay gắt, nêu bật được tính chất nghiêm trọng và quyết liệt của tình thế. Bằng cách đối chọi “súng giặc” với “lòng dân” tác giả đồng thời biểu hiện một quan điểm nhìn nhận thời cuộc khá sâu sắc và tiến bộ.

Tiếp theo, tác giả giới thiệu khái quát về người nông dân trong sản xuất và trong chiến dấu. “Mười năm công vỡ ruộng chưa át còn, danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất, tiếng vang như mõ” Bằng hình ảnh này, tác giả đồng thời nói lên chủ đề của bài văn: Người nghĩa sĩ nông dân tuy đã hi sinh nhưng danh tiếng còn vang dội. Đặt vào hoàn cảnh lúc đó, khi Đại đồn đã thất thủ và quân tướng triều đình đang hoang mang, dao động trước những tổn thất, thương vong thì việc ca ngợi cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ phải coi là một thái độ cứng cỏi, có tính chiến đấu mạnh mẽ. Mặt khác, mối quan hệ tương phản giữa hai vế, nhất là sự tương phản giữa “mười năm công vỡ ruộng” và “một trận nghĩa đánh Tây” đã phản ánh chân thực sự chuyển biến đột xuất, sức vùng lên mau lẹ của những người nông dân yêu nước giống như cái vươn vai thần kì của Thánh Gióng. “Người chiến sĩ của nghĩa quân vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước” (Phạm Văn Đồng) Hai câu lung khởi ngắn gọn đã làm đủ chức năng của nó: một mặt khái quát được bối cảnh lịch sử với hình tượng trung tâm của thời đại, một mặt nêu rõ chủ đề tư tưởng, đó là thái độ ca ngợi cái chết vẻ vang, tinh thần bất diệt của những người nông dân yêu nước đã hi sinh trong trận Cần Giuộc.

2. Thích thực: Trong phần này, bằng một bút pháp cụ thể và sinh động Nguyễn Đình Chiểu tập trung mô tả hình tượng người nghĩa quân trong cả một quá trình đi từ cuộc đời lao động âm thầm cực khổ đến cuộc đời chiến đấu anh dũng vẻ vang. Mở đầu đoạn văn cũng lại là hai câu tứ tự: Nhớ linh xưa: Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó. Hai vế sóng đôi chính là hai nét hiện thực căn bản theo nhau như bóng với hình trong cuộc

sống của người nông dân xưa kia: làm ăn vất vả quanh năm mà nghèo khó lo toan suốt đời. Chỉ dùng tám chữ nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã chứa đựng trong đó bao nhiêu kiếp sống nặng nề và cả tấm lòng bùi ngùi mến thương vô hạn. Hoài Thanh có lời bình: “Biết bao nhiêu yêu thương trong một chữ côi cút”.

Chuyển đến những câu sau (câu 4 - 9), không dùng cách khái quát cô đọng như trên mà bằng những chi tiết cụ thể, mộc mạc nhưng rất chọn lọc, tiêu biểu, tác giả đã giới thiệu quá trình người nông dân tự giác đứng lên vì nghĩa lớn. Người hông dân nghèo khổ vốn rất xa lạ với việc binh đao, một sự xa lạ bắt nguồn từ nề nếp sinh hoạt và lao động: Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung Chỉ biết ruộng trâu, ở theo làng bộ Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó. Có thể thấy trong cách diễn tả ở đây, tác giả đã dùng nhiều thủ pháp kết hợp: những chi tiết chân thực, cách dối ý chặt chẽ giữa hai vế trong câu văn biền ngẫu và đặc biệt là một số từ hình thái tương phản mạnh mẽ như “chưa quen” đối với “chỉ biết”, “vốn quen” đôi với “chưa quen” đã biểu hiện sâu sắc bản chất hòa bình của cuộc sống lao động, của người nông dân lao động. Do đó khi xảy ra chiến sự, họ đã trải qua một tâm trạng lo âu, hồi hộp kéo dài. Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười thảng. (Chữ phập phồng dùng khá chính xác vì đây không phải là tâm lí khiếp sợ). Là người dân dưới chế độ phong kiến, họ buộc phải trông chờ ở quan trường triều đình, bồn chồn như mong mỏi một vị phúc tinh “Trông tin quan như trời hạn trông mưa”.

Dĩ nhiên không thể coi đó là một thái độ tiêu cực trước nguy cơ của đất nước vì thời này trách nhiệm lãnh đạo toàn dân vẫn thuộc về sứ mệnh của giai cấp phong kiến thống trị. Nhưng thực tế lịch sử ngày càng chứng tỏ vai trò bất lực, ươn hèn và thái độ vô trách nhiệm của giai cấp phong kiến đương thời mà tiêu biểu là triều đình nhà Nguyễn đối với vận mệnh của nhân dân, đất nước. Chúng ta còn nhớ, ngay sau tiếng súng đầu tiên của bọn Pháp xâm lược trên đất Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu đã từng phải thốt lên: Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng . Nỡ để dân đen mắc nạn này! Chạy giặc Cho nên không thể nào khác là người nông dân Cần Giuộc phải uổng công trông đợi và trạng thái thất vọng sẽ là một tiền đề tâm lí cho sự vùng dậy sau này. Trong khi đó, ách ngoại xâm cùng với biết bao hành động tội ác của nó ngày càng đè nặng lên cuộc sống như một thứ “Mùi tinh chiên”, như “thói mọi”. Chất chứa bao nhiêu căm ghét trong lòng người dân lương thiện: Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỗ. Ở đây cũng như ở vế trên của câu văn, có thể lưu ý đến thủ pháp so sánh giàu tính dân gian của Nguyễn Đình Chiểu để diễn tả cụ thể và sâu sắc những nét tâm lí vốn trừu tượng như “trông đợi”, “căm ghét”. Đồng thời kết hợp với yếu tố thời gian như “Hơn mười tháng”, “đã ba năm” câu văn còn biểu hiện được cả sự vận động tịnh tiến chân thực của tình cảm. Chính vì thế, đến câu tiếp theo, sự căm ghét đã được nâng lên thành một thái độ căm thù mãnh liệt sẵn sàng bùng nổ ra bằng hành động. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;

ngày xem ống khói chạy đen xỉ, muốn ra cắn cổ. Người nông dân vốn hiền lành trầm tĩnh đến đây đã có một bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng: không thể thụ dộng trông đợi triều đình mà phải kiên quyết tự mình đứng lên giết giặc cứu nước. Diễn tả được rạch ròi, tự nhiên và chân thực sự đột biến đó phải kể là một thành công nữa trong nghệ thuật của tác giả.

Quả thật không phải ngẫu nhiên mà những chi tiết miêu tả sự hoành hành ngang nhiên khiêu khích của quân thù đã được dùng với những màu sắc kích động “trắng lốp”, “đen xì” để đủ sức tạo nên những phản ứng tâm lí tự nhiên và quyết liệt “muốn tài ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Và cả câu văn là một chỉnh thể cân đối giữa các ý vừa biểu hiện, vừa lí giải được một trạng thái căm thù cháy bỏng, dữ dội một cách chính đáng và chân thực. Có thể so sánh với cách biểu hiện căm thù của một vài cây bút đương thời để rõ thêm đặc sắc của phong cách Nguyễn Đình Chiểu: Hoàng giáp Lê Khắc cẩn viết: Mí mắt rách toang, tóc đầu chỉ ngược Thề lột da giặc để làm áo nằm, Thề ăn thịt giặc thay cơm nước Bảng nhãn Phạm Thanh tả: Giặc kia, mắt ta chẳng thèm trông, khi giận đùng đùng xông lên mủ đội. Ở đây lối viết cầu kì kiểu cách đã hạn chế rất nhiều chất sinh động và chân thực của hình ảnh.

Trở lại với Nguyễn Đình Chiểu, có thể nói chỉ bằng hai câu 6 và 7, tác giả đã diễn tả một cách sâu sắc, thỏa đáng sự phát triển tất yếu của tính cách trong mối liên hệ tự nhiên và chặt chẽ với hoàn cảnh thông qua một hình thức nghệ thuật giản dị, cụ thể đậm đà tính cách dân gian. Câu sau tiếp tục nâng cao ý chí căm thù trong sự gắn bó sâu sắc với ý thức công dân về trách nhiệm bảo vệ giang sơn thống nhất của Tổ quốc: Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu: Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó. Đây là ý nghĩa cao quý về đại nghĩa nên tác giả đã dùng những hình ảnh kì vĩ “xa thư đồ sộ”, “nhật nguyệt chói lòa” lại thêm những hư từ “há để”, “đâu dung” làm cho câu văn đượm vẻ trang trọng như một lời tuyên ngôn chính trị. So với các giai đoạn văn học trước trong đó con người mới tự ý thức về cá nhân mình, ở đây con người tự ý thức về nghĩa vụ trực tiếp đối với đất nước, dân tộc như vậy, phải xem là một bước phát triển. Và càng có giá trị hơn nữa khi sự xuất hiện đầu tiên lại ở trong hình tượng người nông dân đánh giặc.

Rò ràng theo quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu, người nông dân Cần Giuộc đứng lên giết giặc cứu người với dầy đủ sự giác ngộ cần thiết mà thời đại cho phép. Quan niệm này được lịch sử hoàn toàn xác nhận giá trị chân thực qua việc nghĩa dân Gò Công - cũng dòng máu nông dân ấy - đã “chẳng nghe thiên tử chiếu đón ngăn mấy dặm mã tiền” trên đường đi nhậm chức của tướng quân Trương Định. Và sẽ càng thấy cách suy xét của nhiều tên Pháp xâm lược hồi đó cho rằng.nghĩa quân “can đảm một cách mù quáng” là hồ đồ, ngu ngốc biết bao! Xuất phát từ sự giác ngộ nói trên, tư thế của con người bước vào chiến đấu là một tư thế hiến ngang, hăm hở đầy tự tin: Nào đợi ai đòi, ai bát, phen này

xin ra sức đoạn kình: chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ. Điều đáng chú ý ở đây là thái độ của người nông dân đối với chiến tranh đã hoàn toàn thay đổi. Nếu như trước kia, trong chiến tranh của vua chúa họ đã tìm mọi cách lẩn trốn, có người thay cả họ tên, bỏ cả quê quán thì giờ đây họ lại hăng hái tham gia chiến đấu. Tình hình đó có nguyên nhân khách quan là tính chất cuộc chiến tranh đã khác trước nhưng xét về mặt chủ quan, rõ ràng họ có ý thức phân biệt chiến tranh phi nghĩa và chiến tranh chính nghĩa. Chán ghét chiến tranh phi nghĩa bao nhiêu họ lại tự giác xông vào chiến tranh chính nghĩa bấy nhiêu. Hơn thế, ở đây họ đã tự động tiến hành chiến tranh chính nghĩa để chống chọi với bạo lực phi nghĩa của kẻ thù. Câu văn giản dị đã bao hàm một chân lí lớn chẳng những có giá trị đối với đương thời mà cho đến nay vẫn còn giàu ý nghĩa vì vẫn chưa hết những quan niệm mơ hồ về chiến tranh và hòa bình. Lịch sử hàng nghìn năm đã chứng tỏ, ở thời đại nào cũng vậy, bọn hiếu chiến khát máu không ngoài nhũng giai cấp bóc lột. Còn quần chúng lao động chỉ cầm vũ khí trong trường hợp vạn bất đắc dĩ, nói như Nguyễn Đình Thi là: Đạp quân thù xuống đất đen, Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa. Người nông dân ở đây cũng vậy. Có điều khi họ đã nổi giận đứng lên thì kẻ thù không tránh khỏi những cơn sấm sét. Vốn suốt đời nghèo khổ nên họ cũng xuất hiện ở chiến trường với đủ thứ thiếu thốn dường như đó là một cái duyên nợ truyền kiếp. Chiếu rèn luyện võ nghệ, binh thư: Mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn: chín chục trận binh thư không chờ bày bố. Chiếu tập tành tối thiểu về cơ ngữ: Vốn chẳng phải quân ca, quân vệ theo vòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quăn chiêu mộ. Thiếu mọi thứ trang bị như “bao tấu bầu ngòi”, “Dao tu, nón gõ” đến đỗi chống với đạn lạc tên rơi mà “ngoài cật có một manh áo vải”.

Có thể nói họ bước vào chiến đấu với cả cuộc đời nghèo khổ trên lưng làm cho chúng ta khi đọc lại mấy câu văn mô tả của Nguyễn Đình Chiểu không khỏi ngậm ngùi thương cảm. Hình ảnh của họ dường như chưa phải là hình ảnh người chiến binh hoặc như ta thường nói “người nông dân mặc áo lính” mà vẫn là bóng dáng quen thuộc của họ trong gia đình, ngoài đồng ruộng với những dụng cụ thô sơ sẵn có: “một ngọn tầm vông”, “một lưỡi dao phay”, “một nắm rơm con cúi”.

Đọc kĩ đoạn văn, có thể khẳng định rằng tác giả nêu lên tình cảnh kê trên không phải với thái độ tủi cực tự ti mà chính là với một niềm tự hào sâu sắc phản ánh đúng tinh thần hăng hái bất chấp khó khăn thiếu thốn của nghĩa quân trong chiến đấu. Cách đối chọi chan chát các ý trong câu văn, cứ mỗi khó khăn là kèm theo những từ phủ định mạnh mẽ như “nào đợi”, “không chờ”, “chi nài”... Vượt qua mọi gian nguy, với tinh thần “mến nghĩa”, với khí thế hăng hái, tự hào, người nông dân Cần Giuộc đã xông lên mạnh như vũ bão “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xống vào”, hiên ngang tung hoành, hò reo náo động: Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh: bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.

Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu đến đây như bay nhảy lên vô cùng sảng khoái với hàng loạt động từ tràn đầy sinh lực và dũng khí: “đạp, lướt, xô, xông, đâm, chém, hè, ó” tiếp nối nhau theo một nhịp điệu, dồn dập sôi nổi. Tất nhiên trong một cuộc giao chiến quá chênh lệch về nhiều phương diện, nghĩa quân không tránh khỏi tổn thất hi sinh nhưng họ đã nêu tấm gương anh dũng tuyệt vời và đã viết nên những trang sử chống Pháp đầu tiên của dân tộc bằng ý thức tự giác và bằng máu thắm của mình. Ý nghĩa quan trọng của trận đánh không những ở chỗ họ đã lập được chiến công oanh liệt như tác giả mô tả chân thực “đốt xong nhà dạy đạo... chém rớt đậu quan hai” mà còn ở chỗ họ đã làm sáng tỏ một số chân lí của thời đại, của lịch sử. Đó là chân lí về tinh thần yêu nước và vai trò tự giác của nông dân trong thời kì cận đại, chân lí về khả năng chiến thắng của ý chí con người đối với vũ khí tối tân, chân lí về sức mạnh của chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích. Cho nên có thể nói là thắng lợi quân sự đồng thời là thắng lợi chính trị, chẳng những có tác dụng động viên chiến đấu ở đương thời mà còn là bài học đáng quý cho hậu thế. Nhìn chung lại, ở phần thích thực này, hầu như Nguyễn Đình Chiểu đã không dùng đến một hình thức mĩ từ pháp nào mà chỉ những chi tiết thực, tinh ròng chất sống, cùng với ngôn ngữ giản dị giàu chất dân gian và lối kết cấu tự nhiên hợp lí dựng nên hình ảnh quen thuộc nhưng thật là đột xuất, giàu chất anh hùng ca của người nông dân Cần Giuộc. Và đó cũng là hình tượng nông dân chân thực nhất, đặc sắc nhất trong văn học cổ điển, bao nhiêu năm sau chưa có cây bút nào vượt được.

3. Ai vãn: Phần này thường nhắm trực tiếp bộc lộ tình cảm đối với người đã khuất, ở đây là tình cảm của tác giả, của nhân dân và của gia đình đối với các nghĩa sĩ. Điểm khởi phát sự diễn biến tình cảm trong đoạn vàn là cảnh ngộ éo le mà tác giả đã dùng để chuyển tiếp: Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ. Tấm lòng vì nghĩa lớn lao đáng lẽ phải được phục vụ lâu dài cho đất nước, như ý nguyện chung, nhưng sinh mệnh con người lại chấm dứt một cách bất ngờ ngắn ngủi. Thực tế phũ phàng gây nên xúc động mạnh, ở đây lại càng mãnh liệt hơn vì không phải là sự xúc động của một tâm hồn bình thường trước cái chết thông thường mà là sự xúc động của con người nặng lòng yêu nước trước cái cao cả của những người anh hùng cứu nước. Tầm cỡ đặc biệt và tính nhân dân sâu sắc của tình cảm trong đoạn văn bắt nguồn từ đó. Tình cảm bao trùm là nuối tiếc thương các liệt sĩ. Như trên đã nói, nuối tiếc thường nảy sinh từ cảnh ngộ éo le; cuộc đời chiến đấu của nghĩa sĩ chưa thỏa chí bình sinh mà cái chết đã phũ phàng ập tới. Cảnh vật vốn vô tri từ “bóng trăng”, đến “dòng nước” dường như cũng cảm kích trước tấm lòng trung nghĩa. Càng tiếc thương hơn vì đó là những con người rất mực hiền lành, lương thiện mà quyền làm ăn sinh sống là hoàn toàn chính đáng. Tấc đất ngọn rau ân chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo nợ đời, mắc mớ chi ông cha nó. Cho nên mất họ, nhân dân ngậm ngùi thương nhớ. Mất họ, gia đình đau khổ bơ vơ. Mất họ, nạn dân ách nước càng thêm bối rối. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu ở

đây, quả thật đã nức nở trên từng trang giấy. Nỗi đau thương man mác bao trùm cảnh vật và thấm vào từng câu, từng chữ, trong giọt nước mắt của bà mẹ già bên ngọn đèn khuya, trong bước chân bơ vơ của người vợ yếu dưới bóng xế chiều. Từ những âm thanh sầu thảm vang vọng lên qua đoạn văn, chúng ta không phân biệt được đâu là tiếng khóc của tác giả, của nhân dân, gia đình mà như nghe thấy một tiếng khóc chung của đất nước.

Có thể nói Nguyễn Đình Chiểu đã rung động đến tận đáy lòng mình khi viết những câu văn trên do nhiều nguồn cảm thương hợp lại. Chúng ta không khỏi liên tưởng đến Hồ Chủ tịch khi điếu đồng chí Hồ Tùng Mậu, cũng chất chứa trong lòng bao nguồn thương tiếc: “Mất chú, đồng bào mất người lãnh đạo tận tụy, Chính phủ mất một cán bộ lão luyện. Đoàn thể mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc cộng vào trong một lòng tôi”. (Văn điếu cụ Hồ Tùng Mậu (1 -8-1951): Cụ Hồ Tùng Mậu hi sinh trên đường đi công tác vào khu IV khi đang làm nhiệm vụ Tổng thanh tra của Chính phủ.) Ở đây, nói về nghệ thuật, quả thật không phải chỉ là vấn đề bút pháp mà điều căn bản là cảm xúc chân thành và sâu nặng của tâm hôn, đó là gốc của nghệ thuật trữ tình. Sự thành công của Nguyễn Đình Chiểu trước hết do chỗ tình cảm của tác giả đã hòa chung với tình cảm của nhân dân, của thời đại.

Tác giả đã không sử dụng gì hơn là những chất liệu thường gặp trong văn chương cổ điển: một bóng trăng, một ngọn đèn khuya, một ánh trăng xế, một tiếng khóc... nhưng tất cả được kết hợp bằng một chất xúc cảm thân thiết, chân thực nên đã có sức rung động sâu sắc đối với người đọc. Tình cảm lớn thứ hai là lòng cảm phục cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ. Nguyễn Đình Chiểu đã đặc biệt đề cao cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ. Đó là cái chết để tỏ rõ ý chí căm thù, kế tục truyền thống bất khuất của dân tộc: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh”. Đó là cái chết tròn nợ với nước non, được nhân dân sáu tỉnh đều khen và “muôn đời ai cũng mộ”. Hình ảnh tập trung thái độ cảm phục và ca ngợi là ở câu tứ tự: Ôi! Một trận khói tan, ngàn năm tiết rỡ. Bằng cách diễn tả cô đọng, hàm súc, Nguyễn Đình Chiểu đã làm hiển hiện lên khí tiết cao quý của nghĩa sĩ như một vầng dương rực rỡ. Tất nhiên đây là một thủ pháp nghệ thuật nhưng vẫn có nội dung ý nghĩa chân thực vì lịch sử đã chứng tỏ rằng những cuộc chiến dù dữ dội đến đâu cũng không thể lưu lại đầy đủ chứng tích qua không gian và thời gian mà cái còn lại ngàn năm không phai mờ là tiếng thơm của người trung nghĩa, cái đó sống mãi trong lòng mến thương, cảm phục của nhân dân qua các thế hệ. Cùng với việc đề cao cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ, Nguyên Đình Chiểu đã không tiếc lời mạt sát cách sống nô lệ: Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vừa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; Sống làm chi ở lính mã tả, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ. Có lẽ không đáng gọi là “sống” vì con người ở đây phải lìa bỏ tín ngưỡng của cha ông chịu điều sỉ nhục về tinh thần, phải ăn uống đê tiện chịu nỗi cơ cực về vật chất. Khỏi phải nhắc lại cái tài chọn lọc chi tiết

chân thực và tiêu biểu, chỉ riêng việc dùng hai động từ “chia” và “gặm” đủ chứng tỏ khả năng biểu hiện chính xác và cách châm biếm sâu cay của Nguyên Đình Chiểu.

Mạnh hơn nữa, tác giả còn phủ định hoàn toàn cách sống nhục nhã nói trên bằng một câu giản dị, thâm trầm: Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. Trong tình thế rối ren lúc đó khi những tư tưởng cầu an đớn hèn đang trỗi dậy, vào hùa với bạo lực phi nghĩa của kẻ thù làm mờ ám lương tri con người, thái độ khẳng định cái chết vinh hơn cái sống nhục có một ý nghĩa chiến đấu trực tiếp, quyết liệt. Nó rất gần gũi với ý chí kiên quyết của Hồ Chủ tịch trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vừa tròn 85 năm sau: Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Ở đây không chỉ là lòng cảm phục và ca ngợi cái chết vẻ vang của nghĩa sĩ mà bề sâu của vấn đề là qua đó Nguyễn Đình Chiểu đã xác định

BÀI MẪU SỐ 5:

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, thể hiện cái tài và cái tâm của nhà thơ, nhà thơ đa tái hiện một thời kì lịch sử của dân tộc đầy đau thương nhưng vĩ đại. Bằng ngòi bút sắc sảo, văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã thể hiện tấm lòng yêu nước, sự chua xót trước vận mệnh của dân tộc. Giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đã góp vào kho tàng văn học dân tộc một tác phẩm xuất sắc, có ý nghĩa muôn đời.

Bài văn tế ra đời đã mở đầu cho dòng văn yêu nước chống Pháp nửa sau thế kỉ XIX. Bài văn được xây dựng trên cơ sở người thật, việc thật, cho nên ý nghĩa của nó càng trở nên sâu sắc... Nó đã thôi thúc, làm sôi sục ý chí đấu tranh của toàn dân tộc, góp phần vào thắng lợi sau này của dân tộc.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời và được người đời chấp nhận ngay bởi tiếng nói đầy thương cảm, bởi cái hay của văn chương bình dị, lời văn man mác, lắng động một nỗi đau vì dân vì nước. Mở đầu bài tế là lời than nghe thật chua xót:

Hỡi ơi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ

Với một câu văn ngắn ngủi, tác giả đã phác họa lên hoàn cảnh đau thương của nhân dân trong xã hội lúc bấy giờ. Kia là cuộc xâm lăng ào ạt, bạo tàn của kẻ thù và kia là bộn phận, ý chí chống quân bạo tàn đó của người nông dân. Nhân dân đau xót trước bao tang thương, áp bức nhưng ai có thể hiểu được lòng dân chứ. Họ chỉ tin có trời: "Lòng dân trời tỏ" vì chỉ có trời mới thấu hiểu được lòng dạ họ, chứ cái bọn vua tôi hèn hạ kia nào biết gì, họ chỉ biết tự xưng danh mà thôi. Những con người nông dân ngày đêm chỉ quen cuốc quen cày, họ có ngờ đâu những tai biến sẽ xảy ra.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao

Một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất tiếng vang như mõ

Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ...

Những người nông dân ấy đang có cuộc sống rất giản dị trong thôn xóm, lam lũ nghèo khó. Họ chỉ biết cui cút làm ăn và chỉ cần có miếng cơm anh áo. Họ chỉ biết có thế, việc gươm đao cung kiếm họ chưa từng biết. Thế mà họ vẫn giàu lòng yêu nước và căm thù giặc, họ căm thù đến mức cao độ "muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ". Điều này thể hiện rất rõ cá tình của người nông dân.

Điều đáng nói là, những người chiến sĩ ấy xuất thân từ những người nông dân nghèo khổ. Việc đánh giặc không phải là việc của họ, mà vì lòng yêu nước căm thù giặc, chờ đợi quân quan mãi nhưng nào thấy, đành làm những việc lớn, phải "chém rắn", "đuổi hươu"... Thực tế ta thấy được thái độ ươm hèn của triều đình nhà Nguyễn và càng đề cao hơn vai trò của người nông dân trước vũ đài lịch sử.

Những người nông dân chân đất ấy đã không làm sao chịu được cảnh quân giặc giày xéo lên mồ mả tổ tiên... và họ quyết định phải đứng lên đánh chúng, đánh bằng được bọn tàn ác đó.

Mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn

Chín chục trận binh thư chưa chờ bày bố

Ngoài cật có một mang áo vải,

Nào đợi mang bao tấu bầu ngòi,

Trong tay cầm một ngọn tầm vông,

Chi nài sắm dao tu, nón gõ.

Với lòng dũng cảm và tinh thần quyết tâm chiến đấu của mình, bây giờ họ không cần gì hết, cũng không cần đợi tập rèn, trong tay có gì đánh nấy. Từ những công cụ thô sơ cũng trở nên quan trọng, quý hiếm và có tác dụng đối với họ.

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi,

Cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,

Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay,

Cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Từng câu từng chữ trong bài văn thể hiện sự căm tức, oán trách bọn vô trách nhiệm. Phải chăng, ngòi bút của Nguyễn Đình Chiều đã diễn tả thật sinh động hình ảnh người nông dân đó chăng? Và chỉ vài câu văn cũng bật rõ phần nào lòng trung nghĩa của nhà thơ Đồ Chiểu.

Rồi cứ thế, người nghĩa quân nông dân tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu với khí

thế mạnh như vũ bão:

Kẻ đâm ngang, người chém dọc

Làm cho Mã tà, Ma ní hồn kinh....

Họ chiến đấu anh dũng với sức mạnh ý chí và lòng căm thù giặc. Họ liều mạng

chăng? Không! Bởi vì họ yêu nước. Đọc bài tế ở đoạn này nào là:

Chi nhọc quan quản trống kì trống giục.

Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không.

Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to...

Liều mình như chẳng có...

Nào là: Kẻ đâm ngang, người chém ngược....

Với ngòi bút sắc sảo của mình, Nguyễn Đình Chiểu giúp người đọc có liên tưởng như chính tác giả cũng đang tung hoành ngang dọc cùng với nghĩa quân trên chiến

trường. Giọng văn hào hùng sảng khoái, nhịp điệu dồn dập, sôi nổi thể hiện rõ khí thế của trận công đồn. Nào là tiếng hò, ó; tiếng đạn nổ cùng với ngọn lửa đốt đồn giặc cháy sáng rực giữa dòng sông Cần Giuộc... Những yếu tố này đã xây dựng thành công hình tượng của người nông dân cứu nước giết giặc. Đây là một hình tượng độc đáo trong văn học cổ điển Việt Nam. Và kia! Bên cạnh những hình ảnh đó là cảnh quan quân nhà Nguyễn nhỏ bé, thấp kém. Bây giờ họ không còn ra gì nữa. Thật: "Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu là tâm hồn của ông đã được diễn tả thật sinh động và não nùng cảm tình của dân tộc đối với đất nước. Ở đây Nguyễn Đình Chiểu là tâm hồn của ông đã đại diện, đã thay mặt cho dân tộc, cho tình cảm dân tộc đẻ viết ca ngợi về người chiến sĩ ấy. Nhưng mặt khác, nếu như cụ Đồ không có lòng trung nghĩa thì việc thay mặt cũng quả là khó. Thơ văn ông thường là hồn, là tâm của ông. Vì vậy, khi đối diện với những người nghệ sĩ, đối diện với tang thương thì làm sao nhà thơ không tuôn dòng lệ xót:

Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng,

Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai làng lụy nhỏ.

Cuộc chiến đấu đang diễn ra gay go ác liệt, thế mà bỗng nhiên như có gì hụt hẫng, khựng lại. Người nghĩa quân đang hăng say chiến đấu trên chiến trường không hề sợ cái chết những tưởng tấm lòng mến nghĩa sẽ lâu dài... thế nhưng sao tránh khỏi cảnh hi sinh...

Bằng lời văn của mình tác giả đã bày tỏ sự xót thương cho những người dân ấp dân lân chỉ biết cui cút làm ăn, nhưng khi giặc đến thì mặc dầu chỉ có những dụng cụ thô sơ mà dám liều mạng giết giặc. Nay họ đã ngã xuống trên chiến trường, thì tác giả lại càng thương tiếc gấp bội. Và dường như cả cỏ cây, trời đất cũng buồn bã, ảm đạm:

Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng,

Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai làng lụy nhỏ.

Dọc hai bờ sông Cần Giuộc cỏ cây ủ rũ một màu tang, chợ Trường Bình thì già trẻ tuôn hai hàng lụy nhỏ. Tất cả mọi người đều khóc thương những nghĩa quân đã bỏ mình vì nước. Không làm sao ngăn được dòng nước mắt khi đi đến đâu cũng lưu giữ hình bóng họ:

Chùa Tân Thạnh, năm canh ưng đóng lại

Tấm lòng son gởi lại bóng trăng rằm...

Nhìn lại những cảnh vật ngày xưa thì lòng tác giả dâng lên một niềm thương tiếc, căm giận. Căm bọn bất lương, loài ác quỷ bất nhân; thương tủi cho số phận ngắn ngủi, nhỏ nhoi của những nghĩa quân, của những người đứng lên vì đạo nghĩa. Họ đã mất đi là mất hết tất cả; Mất gia đình, người thương. Và gia đình họ mất đi một chỗ nương tựa:

Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ

Ngọn đèn khuya leo lét trong lều

Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng

Con bóng xế dật dờ trước ngõ

Thật là đau khổ biết dường nào khi người con và người chồng đã ra đi để lại sau lưng những tiếng kêu ré đau lòng thê lương, thảm thiết. Người vợ chạy tìm chồng trong không gian vô tận, trong cái dật dờ của nửa tỉnh nửa mê. Hình dáng mẹ già không còn nước mắt nhưng vẫn khóc, khóc những tiếng khóc đắng cay cõi lòng.

Cảm xúc chân thành, lớn lao của tác giả đã đem lại cho đoạn văn chất trữ tình đặc biệt, tác động mạnh vào tâm hồn người đọc. Nguyễn Đình Chiểu đặc biệt đề cao cái chết vẻ vang của người nghĩa quân. Chinh vì vậy mà ông khẳng định quan điểm sống của người nghĩa sĩ "chết vinh còn hơn sống nhục".

Thà thác mà đặng câu địch khái

Về theo tổ phụ cũng vinh,

Còn hơn mà chịu chữ đầu

Tây Ở với man di rất khổ

Chết như vậy mới thật sự là cái chết của người nghĩa quân, chết để được trả nợ với nước non, để đem lại danh thơm cho muôn thuở. Qua những cái chết đó, tác giả đã phê phán lối sống hèn hạ của bọn "tay sai bán nước bán dân".

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương

Vì ai xui đồn lũy tan tành xiêu mưa ngã gió

Sống làm chi theo quân tà đạo,

quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn

Sống làm chi ở lính mã tà,

chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm khổ...

Điệp từ "vì ai", "sống làm chi", như đè nén sự căm tức, như lên án kết tội, như giày vò lũ tay sai bán nước - chính là nguyên nhân của mọi đau thương, tang tóc... Càng phê phán lối sống tôi mọi của bọn thống trị bao nhiêu thì Nguyễn Đình Chiểu càng đề cao cái chết vinh quang của nghĩa quân bấy nhiêu. Đó là ý của Nguyễn Đình Chiều: Ông luôn muốn những người nghĩa sĩ đó sống mãi trong lòng dân tộc, đất nước. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu một lần nữa khẳng định quan niệm sống cao đẹp của người Việt Nam thông qua những tấm gương hi sinh sáng chói. Vì vậy nên đồng chí Phạm Văn Đồng đã nhận định một cách đúng đắn về cụ Đồ Chiểu: "Ngòi bút... Xưa kia chỉ quen cày cuốc bỗng chốc trở thành môt người anh hùng cứu nước..."

Kết thúc bài tế là những câu nghe như lời tâm huyết: Sống đánh giặc, thác cũng

đánh giặc

linh hồn theo giúp cơ binh

muôn kiếp nguyện trả thù kia...

Người đã chết đi nhưng lòng vẫn còn đó, ý chí đó vẫn còn. Phải chăng trong suy nghĩ của tác giả, linh hồn nghĩa sĩ vẫn núi chặt lấy cuộc sống để theo đuổi sự nghiệp đánh giặc cứu nước đến cùng. Có lẽ Nguyễn Đình Chiểu đã quan niệm rằng "những cái gì chính nghĩa thì không thể nào tiêu diệt được..."

Những chiến sĩ năm đó đã hi sinh, nhưng lòng yêu nước và ý chí căm thù giặc của những nghĩa sĩ đó không bao giờ phai mờ trong lòng mỗi người dân. Họ là những con người đáng khâm phục, đáng trân trọng, tinh thần chiến đấu đó trở thành biểu tượng vĩ đại của dân tộc, góp phần vào tháng lợi vẻ vang của dân tộc.

BÀI MẪU SỐ 6:

Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít nhất cũng trên mười thế kỷ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nông dân ấy chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX với bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. Có thể nói, với bài văn tế này, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật đầu tiên về người nông dân – nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là một hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng, bi thương mà hào hùng đúng như cuộc chiến đấu bi tráng mà nhân dân việt Nam đã tiến hành suốt nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.

Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lí, rất sâu sắc khi mở đầu khúc bi ca của mình:

“Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền: lòng dân trời tỏ”.

Quả là, qua cuộc chiến đấu này, qua cái thử thách khắc nghiệt ngày, bản chất tốt đẹp, tấm lòng yêu nước của những người nông dân bình thường này, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn họ được bộc lộ một cách trọn vẹn. Họ vẫn có đấy, vẫn sống đấy, nhưng sống trong thầm lặng của sự quên lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự cảm thông cao độ, nhận ra rằng cuộc sống của họ đã từng vất vả xiết bao:

“Nhớ linh xưa:

Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”.

Bao nhiêu lượng thông tin chứa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân Cần Giuộc, người nông dân lục tỉnh, cũng là người nông dân Việt Nam ngày đó. Bóng dáng của họ, nhỏ bé và cô đơn trong cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tài họa trong thiên nhiên, từ xã hội, như hiện lên rõ mồn một qua từng chữ. Tưởng như, chỉ chừng ấy lo toan vất vả cũng đã quá đủ đối với họ; tưởng như họ, những người nông dân vất vả ấy, chẳng còn có thể nghĩ gì thêm, lo toan gì thêm ngoài những “toan lo nghèo khó” vốn đã quá lớn lao ấy.

Thế mà không, quân xâm lược đã chiếm đất nước, đã đến tận xóm làng, đã đến tận ngôi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy, vươn vai, và họ chợt trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng mấy nghìn năm trước khi chợt nghe nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng có một điều cơ bản rất khác xưa là tiếng rao truyền cứu nước không phải phát đi từ cung điện nhà vua mà đã được phát đi từ chính trái tim của những người nông dân Cần Giuộc. Nó chính là lòng căm thù sục sôi vì hành động cướp nước:

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Bữa thấy bòng bong che trắng lốp; muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì muốn ra cắn cổ.

Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, long căm thù giặc cao độ đã làm nảy sinh một khát vọng cao độ; khát vọng đánh giặc. Đó là ước muốn hoàn toàn tự nhiên và cũng hoàn toàn tự nguyện:

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;

Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác hoàn toàn với người nông dân chỉ trước đó không bao lâu “Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa” khi phài sung làm lính đi biên thú phương xa bảo vệ cương thổ của nhà vua. Tự nguyện chiến đấu, ấy là nét bản chất nhất trong hành động của người nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là sự tiếp tục giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc đánh ngoại xâm với tráng sĩ Lục Vân Tiên đánh cướp mà động cơ duy nhất:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

Trong mọi việc nghĩa, không có việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc nghĩa thì phải làm, làm một cách vô tư, không vụ lợi, không chần chừ, không cần đợi, có đủ điều kiện mới làm. Đó là chỗ bi kịch của người nông dân Cần Giuộc, đó cũng là chỗ hùng ca của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bi kịch vì:

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng.

Trông tin quan như trời hạn trông mưa.

Họ bắt đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân của họ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu ấy tư lâu nhưng lại “án binh bất động” một cách khó hiểu. Bi kịch còn cho họ là những người:

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập

mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Bước vào chỗ sống chết của chiến trường mà những con người ấy chỉ mang theo

những trang bị chỉ đủ để làm những người cày ruộng.

Trước giặc dữ là những tên lính nhà nghề có đủ “tàu sắt tàu đồng”, “đạn nhỏ, đạn to”, họ chỉ là những người nông dân không có kiến thức gì về trận mạc, chỉ có “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”. Cuộc chiến đấu mới chênh lệch làm sao! Kết cục cuộc chiến đấu ấy như thế nào thì đã rõ ràng rồi. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy, tấn bi kịch đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỷ.

Nhưng chính trong cái bi kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã cất lên. Hùng ca trước hết là ở sự ngoan cường của những con người quyết chiến thắng, vượt lên trên nỗi

lo thất bại để chiến thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp hết mọi sự thiếu hụt, chênh lệch của mình so với kẻ thù:

Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rao lướt tới, coi giặc cũng như

không;

Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có

…; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.

Thật là phấn chấn, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã chiến đấu như những người lính tuyệt vời dũng cảm. Ở đây, sức mạnh tinh thần đã phát huy đến mức độ tối đa vaftrong một chừng mực nào đó, đã tỏ rõ hiệu quả của nó trước sức mạnh cùa chiến thuật, của vũ khí, trang bị:

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng

bằng lưỡi dao phay, cũng chém rơi đầu quan hai nọ.

…kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh….

Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa hề có một bức tranh hào hùng như thế về tư thế chiến đấu của người lính áo vải. Hình ảnh người nông dân ở đây là sự kết tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là bản chất của họ. Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người nông dân Cần Giuộc đã đi vào vĩnh cửu.

Quả Nguyễn Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể anh hùng. Không có cái tập thể ấy, không làm sao có được sự hòa hợp tuyệt đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp đảo cái chết, với những “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, với những “kẻ đâm ngang người chém ngược”, “bọn hè trước, lũ ó sau” như thế được.

Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung là “nghĩa sĩ Cần Giuộc”, còn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều vô danh. Họ không hề tìm một điều gì cho riêng mình khi chiến đấu. Cái điều duy nhất họ gửi lại cho đời, điều mà Nguyễn Đình Chiểu nêu lên như là một tiêu chí chung bên dưới bức tượng đài của họ, ấy là cái triết lí sống: Chết vinh còn hơn sống nhục.

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ

đầu Tây, ở với man di rất khổ.

Hoàn thành bức tượng của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để một phần cuối cho

những lời ca ngợi, thương tiếc và thắp những nén hương kính trọng:

Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa

sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.

Cuộc tấn công của mấy chục nghĩa quân vào đồn Cần Giuộc của thực dân Pháp năm 1863 là cuộc tấn công đầu tiên của quân dân Việt Nam mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Số lượng thiệt hại mà nghĩa quân đã gây cho giặc có lẽ cũng không là bao nhiêu. Song, hiệu quả thực sự mà họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho lịch sử dân tộc, bằng lòng yêu nước that thiết và vô tư của họ, bằng tinh thần sẵn sáng chiến đấu, sự cũng cảm vô điều kiện và tuyệt vời của họ, thì to lớn vô cùng. Họ xứng đáng được tạc thành tượng đài để đi vào bất tử. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ của người nghệ sĩ nhân dân khi tạc nên bức tượng đài ấy.

BÀI MẪU SỐ 7:

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của nên văn học Việt Nam. Song cuộc đời ông không hề êm đẹp, năm 1849 ông phải bỏ thi để về chịu tang mẹ. Trên đường đi ông bị đau mắt rồi bị mù, về sau ông ra dạy học và bốc thuốc cho dân, cuối cùng tham gia chống Pháp. Chắc bởi có nhiều thời gian ở gần người dân nói chung và nông dân nói riêng nên ông thấu hiểu sự khổ cực, vất vả nhưng lại mang vẻ đẹp bi tráng, sẵn sàng hi sinh vì dân tộc của nông dân Nam bộ mà ông đã viết nên một trang văn hào kiệt“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” theo yêu cầu của Đỗ Quang.

Bài tế gồm bốn phần: Lung khởi, thích thực, ai vãn và kết. Với bố cục như vậy, Nguyễn Đình Chiểu dựng lên trong mắt người đọc, người nghe một bức tượng đài bất tử về người nông dân.

Ở phần lung khởi, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu lên lí lẽ sống chết. Đó là đứng lên chống lại ngoại xâm bởi súng giặc làm đất rền,còn lòng dân thì trời sẽ tỏ. Bằng phép đối, ông đã nói lên sự căm phẫn của nhân dân trước việc nước nhà bị xâm lăng. Bên cạnh đó, ông còn so sánh cái danh về việc làm ruộng và đánh giặc việc bỏ sức mười năm dở công vỡ ruộng, đối với một trận đánh tây, và cái danh mang lại của mười năm chưa thể nào nối như phao của trận đánh tây đó, danh tiếng hào hùng vang xa như tiếng mõ vang. Hào hùng, khí thế.

Cũng bởi lẽ sống chết đó, cùng với lòng yêu nước và sự căm thù giặc, căm thù những thói mọi nó giống như kiểu nhà nông ghét cỏ và sự phẫn nộ đó tột độ đến mức muốn ăn gan, muốn cắn cổ bọn giặc ngoại và một nỗi thấu hiểu “nước mất, nhà tan” làm sục sôi và giai cấp nông dân đã đứng lên khởi nghĩa. Đó là những người nông dân côi cút làm ăn trước giờ chuyên cuốc,chuyên cày, bừa,còn việc quân sự như tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, họ chưa từng ngó lấy, chưa từng nhìn ấy thế mà nào phải đợi ai đến, ai bắt,họ đã tự xin ra sức đoạn kình đấu tranh tự nguyện ngay cả khi chưa trở thành người lính. Họ là những người nông dân dũng cảm, chiến đấu không màng sống chết với hình ảnh hùng dũng không ngại sắt thép đang chĩa ra mà đạp rào lướt tới, coi giặc như không hiện hữu; không biết sợ thằng Tây nào đang bắn những đạn nhỏ đạn to,mà xô cửa xông vào liều mình với tất cả nhưng như chẳng có. Mặc dù vũ khí của họ rất thô sơ chỉ là ngọn tầm vông, những chi nài, dao tu, nón gõ nhưng vẫn lao vào địch mà đâm ngang, chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kê tàu thiếc, tàu đồng súng nổ. Họ chiến đấu vì tổ quốc, vì dân tộc nên sẵn sàng bỏ lại gia đình của riêng. Đây chính là nội dung của phần thích thực.

Trong phần ai văn, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện lòng tiếc thương đối với những người nông dân mang vẻ đẹp bi tráng và lòng yêu nước bất khuất không sợ hi sinh, trong cuộc chiến Cần Giuộc. “Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;

trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mô” , bởi thế “già, trẻ hai hàng lụy nhỏ”, “mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn kia leo lét trong lều”, “vợ yêu chạy tìm chồng”. Đó là sự sót xa, đau khổ, thương tình đối với các chiến sĩ của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và toàn thể nhân dân Cần Giuộc nói chung.

Đối với phần kết, một lần nữa tác giả nhấn mạnh việc sống ở đời thì phải thờ vua, giặc đến thì phải ra sức bảo vệ nước nhà như những nghĩa sĩ Cần Giuộc. Những nghĩa sĩ dù đã hi sinh vẫn sẽ mãi tiếp bước cùng dân tộc trong công cuộc gìn giữ đất nước.

Tóm lại, văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng của một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tường đai bất tử về những người nông dân Cần Giuộc nói riêng và toàn thể người dân Nam Bộ nói chung đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì đất nước trong thời chiến. Bài văn cũng là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật tạo hình tượng nhân vật kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực; ngôn ngữ bình dị, trong sáng, và sinh động.

BÀI MẪU SỐ 8:

Nguyễn Đình Chiểu được coi là ngôi sao sáng của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những đóng góp lớn lao và tiêu biểu trong những bài đó là những bài thơ nói về hình tượng người nông dân Việt Nam đó là bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc.

Những hình tượng nổi bật của người nông dân Việt Nam trong cách mạng đã tạo nên những khởi đầu lớn lao và tạo nên những yếu tố quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thơ ca của ông, trong những sáng tác đó tiêu biểu là hàng loạt những hình tượng điển hình và tiêu biểu là nghệ thuật sáng tạo và những sáng tạo đó đã ghi lại dấu ấn cho chính bản thân mình, cuộc đời gắn bó với những khát khao và ước mơ là xây dựng và phục vụ cho nhân dân vì vậy những sáng tác của ông đã tràn ngập niềm tin về hình tượng người nông dân cách mạng, những người xuất thân từ những người yêu nước và có những ý chí riêng vì vậy họ luôn vững bước trên con đường của mình, nghệ thuật hình tượng tiêu biểu ở đây là cách xây dựng hình tượng, nghệ thuật thật bi tráng và nó mở ra một thời kì lịch sử to lớn và có sự ảnh hưởng mạnh mẽ tới người đọc hôm nay và mai sau.

Mỗi con người đều phấn đấu để đạt được những điều tưởng chừng như nhỏ bé nhưng nó lại vô cùng lớn lao, những niềm tin yêu về những người nông dân cách mạng, hình tượng người nông dân điển hình và tiêu biểu cho cả một sức mạnh to lớn đã góp phần mạnh mẽ tạo nên một niềm tin yêu nhẹ nhàng và sâu thẳm, hình ảnh người nông dân trong bài thơ này hiện lên thật hiên ngang nó mang một vẻ đẹp bình dị và có sức tạo hình gợi cảm mạnh mẽ mỗi con người đều rất anh hùng và tự hào về truyền thống quý giá của dân tộc, niềm tin yêu về một đất nước với muôn vàn khó khăn và thử thách nó gian lao, như vàng thử lửa vậy, nhưng điều đó không làm cho người nông dân nản bước vẫn vững tin trên con đường xưa và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới người đọc hôm nay và mai sau, hình tượng thơ tiêu biểu ở đây là những người nông dân học là những con người bình thường, nhưng khi đất nước bị xâm lược học lại trở thành những con người anh hùng và sẵn sàng hy sinh cho một tổ quốc mến thương cả cuộc đời của họ đều gắn bó và có những đóng góp lớn cho sự nghiệp phát triển của đất nước, nó là một điều cực kì có sự ảnh hưởng lớn tới người đọc.

Nghệ thuật xây dựng hình tượng của tác giả đã làm gia tăng lên mức độ biểu đạt nhân vật trong lòng tác giả, ở đây tác giả đã tạo nên những điều lớn lao và nó thu hút mạnh mẽ những ảnh hưởng và những thu hút đáng kể trong lòng người đọc, hình tượng thơ mạnh mẽ và có sức thu hút tuyệt diệu, nó không chỉ tạo nên niềm tin yêu cho con người mà đây là hình tượng thơ hấp dẫn và nó thu hút sự chú ý cũng như niềm tin cho cả thế hệ về một sự thật đó là dù có chiến tranh bom đạn dội xuống thì với niềm tin yêu với đất nước chúng ta vẫn có thể vượt qua kẻ thù nào chúng ta cũng có thể đánh thắng. Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc là bài thơ ngoài nêu lên hình tượng về một người anh hùng bi tráng

thì còn có hình tượng thơ tiêu biểu và đó là những hình ảnh mang dấu ấn mạnh mẽ và chi tiết đó là những lòng căm hận của nhân dân ta đối với kẻ thù xâm lược ngoài những sự chiến đấu kiên cường đó thì nhân dân ta cũng biết chiến đấu và hy sinh cho một tổ quốc mến yêu nó là nền tảng tinh thần và là sức mạnh to lớn đối với một dân tộc mến thương và cũng mang sức mạnh to lớn mạnh mẽ ảnh hưởng đến niềm tin yêu của con người.

Những người nông dân này xuất phát từ những người chiến sĩ cần giuộc là người chân lấm tay bùn không ai biết đến nhưng khi có kẻ thù xâm lược thì xuất hiện bao anh hùng cứu nước, nó đã tạo nên những ảnh hưởng và sức sống mạnh mẽ ảnh hưởng tới người đọc, mang trong mình những niềm tin yêu đó nhân dân ta vẫn luôn ủng hộ và kiên cường chống lại kẻ thù, bao năm công vỡ ruộng vất vả chưa thành danh nhưng chỉ cần một trận đánh tây cũng đủ để công danh ngàn đời được mọi người biết đến, những điều tưởng chừng như lạ lẫm như tay họ vẫn chỉ quen với việc cầm cầy cuốc thì nay họ phải tập quen với sung, với mác…Hình tượng người nông dân nổi lên thật mạnh mẽ và sâu sắc nó mang một âm hưởng nhẹ nhàng và có sự ảnh hưởng tới những hình tượng thơ khác, chỉ với manh áo vải che thân, và những công cụ đánh giặc là những ngọn tầm bông nhưng họ vẫn tạo nên bao công trạng vẻ vang và nó thu hút sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mọi người bởi sự gan dạ kiên trì vượt qua bao khó khăn gian nan vất vả.

Nơi chiến trường nguy hiểm, nó đã phản ánh được phần nào những nguy hiểm và gian nao trong con đường chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, niềm tin sẽ chiến thắng sẽ tạo nên một sức mạnh cực kì to lớn và quan trọng cho con người, niềm tin về nhân dân, những người chiến sĩ áo vải đã tạo nên những chiến thắng vẻ vang cho con người và niềm tin yêu về một đất nước hào hùng đã kiên trì vượt qua khó khăn để tạo nên niềm tin yêu vững chắc và vang vọng trong tim mỗi con người, ở đâty hình ảnh người chiến sĩ cần giuộc đã làm gia tăng lên tinh thần chiến đấu nhẹ nhàng và cũng đầy ác liệt của dân ta, bao khó khăn gian khổ cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng, với những niềm tin to lớn đó nhân dân ta có đủ sức mạnh và niềm tin để chiến đấu với kẻ thù xâm lược, sự chiến đấu đó đem lại sức mạnh và niềm tin vững chắc cho nhân dân, mỗi một dân tộc đều xuất hiện những người anh hùng kiên trì và bền bỉ này.

Tiếng khóc thương cho những người đã hy sinh trong chiến tranh bao nhiêu người chiến sĩ của ta đã phải chết trong bom đạn đó là điều làm cho nhân dân ta cực khổ, và nó đem lại niềm tin yêu vững chắc cho muôn đời, đó là niềm tin sẽ giành được độc lập tự do. Bài thơ này có sự khóc thương cho những người đã hy sinh cho cả dân tộc Việt Nam, sự khóc thương để lại nhiều đau đớn chứ không hề có sự bi lụy, hình tượng thơ điển hình và nó mang một sức mạnh to lớn cho dân tộc Việt Nam, hình ảnh thơ có những chút nhẹ nhàng và nó gợi hình gợi cảm cho người đọc. Những tiếng khóc thương đó thật bi tráng và không có chút bi lụy bởi những người chiến sĩ của ta là người kiên trì bền bỉ chứ không hề có sự bi lụy nào ở đây, hình tượng thơ mang một âm vang nhẹ nhàng và sâu sắc

trong lòng của tác giả, điều đó đã mang cho chúng ta những lời khóc thương nhưng nó không có bi lụy mà nó vô cùng tạo hình tượng và bi tráng trong hình ảnh con người.

Bài văn tế với việc áp dụng những hình thức nghệ thuật vào để tạo nên một hình tượng người nông dân Việt Nam đầy những chất bi tráng và vô cùng hùng vĩ nó tạo nên một hình tượng thơ hay và tiêu biểu đó là những hình ảnh bi tráng và những con người vệ quốc và đấu tranh cho một tổ quốc mến thương và cho một dân tộc hào hùng, những người chiến sĩ ca ngợi những người chiến sĩ sẵn sàng hi sinh vì tổ quốc và có nhiều những đóng góp lớn lao và nó ảnh hưởng đến hình tượng thơ và những hình tượng người nông dân nghĩa sĩ cần giuộc thể hiện trong tác phẩm này, những hình tượng đó tạo nên một sức mạnh, bài thơ đã nổi bật lên những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu và nó ảnh hưởng đến những biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm. Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc là một bức tranh bi tráng và nó ảnh hưởng lớn đến hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, mỗi tác phẩm là một lời ca về những làn điệu nhẹ nhàng, nghệ thuật xây dựng hình tượng đó đặc sắc và mang lại âm vang nhẹ nhàng và nó đã mang cho mỗi con người chúng ta hiểu được sâu sắc những hình tượng thơ đó, điều đó làm cho mỗi người chúng ta có được cảm xúc và hình tượng thơ đó đã làm cho mỗi con người nổi bật và tiêu biểu.

Tiếng khóc bi tráng của tác giả đã xuất phát từ hình tượng thơ và mang những cảm xúc đặc biệt xuất phát từ cảm hứng của nhà thơ, đây là tấm lòng yêu nước của tác giả về một thời kì lịch sử hào hùng, và những người lính áo vải đã quyết tâm và nó giúp cho người đọc hình dung ra những hình tượng thơ tiêu biểu và mang đậm cảm xúc nhẹ nhàng và mang một âm hưởng hào hùng, xuất phát trong tâm hồn mỗi người đọc, đều có những cảm xúc riêng và nó ảnh hưởng đến những điều rất quan trọng trong tâm trí của thầy, hình tượng thơ ở đây không phải là những điều xa vời với thực tế nó gắn chặt với lợi ích của con người nơi đây.

Với ngôn ngữ bình dị Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên một phong cách thơ đặc sắc và tiêu biểu cho những hình tượng thơ đó là cảm xúc cũng như hình tượng thơ sâu sắc được thể hiện và làm nổi bật lên những hình tượng người anh hùng dân tộc xuất phát từ những nông dân áo vải.

BÀI MẪU SỐ 9:

Cuộc xâm lược của thực dân Pháp lan ra sáu tỉnh Nam Bộ. Đến ngày 14-2-1861, bọn chúng chiếm được cả ba xứ cần Giuộc, Tân An và Gò Công. Hai ngày sau, quân ta đánh úp giặc ở cần Giuộc trên đất Gia Định (Long An ngày nay) đốt nhà đạo, giết chết tên quan hai Pháp và một số binh lính. Sau đó giặc phản công, nghĩa quân thất bại, hi sinh đến vài chục người. Lúc này, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang nhờ Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tê để truy điệu những nghĩa quân đà liều thân vì nước. Bài văn đã lan ra tận Huế, phô biến rất sâu rộng trong nhân dân, có tác dụng khơi dậy lòng căm thù giặc và tuyên truyền, động viên quần chúng giết giặc, đuổi giặc ra khỏi đất nước.

Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc từng được Tùng Thiện Vương Miên Thẩm sánh ngang với sách Quốc Ngữ của Tả Khâu Minh, thiên Quốc Thương (Sở từ) của Khuất Nguyên thời Đông Chu bên Trung Quốc. Gần đây,

nguyên thú tướng Phạm Văn Đồng cùng nhiều nhà nghiên cứu khác cũng đã xếp Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ngang với Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Bình Ngô dại cáo của Nguyễn Trãi,

Đây là một bài văn tế viết theo thế biền ngẫu có nhịp, có đôi, có vần. Văn tế là một thể văn thường dùng để bày tỏ lòng thương cảm với người đã khuất, có nội dung ca ngợi phẩm hạnh, công đức và giải bày sự tiếc thương đau xót đối với số phận của họ.

Kết câu của một bài văn tế thường có 4 phần:

– Lung khởi (mở đầu)

– Thích thực (giảng giải miêu tả lại)

– Ai điếu (than tiếc): giải bày nỗi niềm thương tiếc của những người còn sông.

– Ai vãn: giải bày tình cảm và lời hứa hẹn của người đứng tế.

Trong nhiều bài văn tế hai phần sau có khi được gộp chung lại.

Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ở đây cũng vậy, có thể chia ra làm 3 phần:

Phần 1: Câu 1 – câu 2: Tình thế hết sức căng thắng khi ấy và sự hi sinh cao quý

của người nghĩa sĩ.

Phần 2: Câu 3 – câu 15: Thân thế, công đức của người nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Phần 3: Còn lại: Niềm cảm phục và tiếc thương của người còn sông.

1. Tình thế căng thẳng và sự hi sinh cao quý chống giặc thù:

Mở đầu bài văn tế sau tiếng than ‘Hỡi ôi! ‘ quen thuộc là một tiếng khóc cất lớn lên giữa trời đất, thời thế, khóc trước linh hồn những người nghĩa sĩ nông dân sông anh dũng, chết vẻ vang:

Súng giặc đất rền: lòng dân trời tỏ (1)

Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao

Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang tợ mõ ‘. (2)

Câu 1 là một câu tứ tự tuy ngắn gọn nhưng khái quát được hai đặc điểm của hoàn cảnh lịch sử và thời thế lúc bấy giờ: Giặc xâm lược có vũ khí tối tân, sức công phá dữ dội, súng nổ rền vang mật đất. Còn ta quyết tâm giữ nước chỉ có tấm lòng nói cụ thể hơn là tấm lòng yêu nươc của nhân dân.

Câu 2 tiếp đó, nhà thơ đánh giá về người nghĩa si nông dân bàng cách so sánh hai đoạn đời, hai cách sống của họ cũng là câu tứ tự đỏi với nhau rất chỉnh: Mười năm í một trận, công (giá trị vật chất) nghĩa (giá tri tinh thần), vỡ ruộng i đánh Tây; chưa chắc còn danh nổi tợ phao / tuy là mất, tiếng vang như mõ như một khẳng định mạnh mẽ làm nền để tiếp đó người nông dân xuất hiện.

2. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân:

Đoạn văn chủ yếu này thể hiện hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân qua hồi ức của

nhà thơ. Trước hết, họ những người nông dân lam lũ:

Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó (3).

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ

(4).

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy… tay vốn làm quen, tập khiên, tập súng, tập

mác, tập cờ… mắt chưa từng ngó (5).

Đúng như Hoài Thanh nhận xét: ‘Biết bao yêu thương trong một chữ cui cút ‘. Câu (3) bộc lộ tình cảm thương mến của cụ Đồ Chiểu đối với những kiếp người nhỏ nhoi cùng khổ này. Họ làm ăn cần cù vất vả, lo toan khó nhọc nhưng vẫn đói nghèo.

Tiếp thoo là câu (4), với nhiều chi tiết, nhà thơ nhằm nêu bật một điều là họ thật là thuần phát, ngoài việc đồng áng, họ không còn biết thêm một việc gì khác, nghĩa là: ‘chí biết ruộng trâu ‘. Không gian và thế giới của họ hạn hẹp, quẩn quanh ‘ởtrong làng bộ ‘. Trong câu (5) liền đó, cụ Đồ đã liệt kê một loạt những công việc: việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy… công việc nhiều đến nỗi tưởng như ngập cổ, ngập đầu những người nông dân bó nhỏ đáng thương này.

Trong biết bao điều ‘chưa biết ‘ của họ, nhà thơ chỉ kể mỗi một điều:

‘Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung ‘, ‘Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ… mắt chưa từng ngó… ‘ để nhân mạnh là những người nông dân nghèo khổ này không hề biết việc quân, việc lính hay chiên trận binh đao cả.

Thê mà bỗng chốc họ trơ thành nghĩa sĩ, hơn nừa, lại là nghĩa sĩ anh hùng cứu nước. Quá trình phát triển này được nhà thơ thô hiện rất chân thực trong tình cảm và việc làm của người nghĩa sĩ đánh Tây:

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông

mưa; mùi tinh chiền vấy vá đã ba. năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cố (6).

Bữa thấy bòng bong che tráng lốp; muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen

si; muôn ra cắn cô (7).

Một môi xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói

lòa, dâu dung lũ treo dê, bán chó (8).

Nào đợi ai đòi, ai bát, phen này xin ra sức doạn kinh; chẳng thèm trốn ngược,

trốn xuôi, chuyến này dôc ra tay bộ hố (9).

Tiếng phong hạc là điển tích xưa thể hiện nỗi hồi Hộp, lo sợ. Thậm chí hoảng loạn trước sự tiến công của kẻ thù. Quán Pháp hung bạo, vũ khí chúng lại tôi tân. Đại đồn Chí Hòa đã bị vỡ. Vua quan và quân lính triều đình e sợ. Người nông dân nghèo khổ cũng thố, đâu thể khác hơn.

Họ chỉ biết ‘phập phổng ‘, ‘trông tin quan như trời hạn trông mưa ‘. Là con dân, họ chỉ biết trông chờ vào bậc phụ mẫu của mình (quan là dân chi phụ mẫu!). Thế đấy vừa phập phồng vừa trông đợi không chỉ đối ngày ba bữa mà đen những mươi tháng vời vợi mỏi mòn…

Và tất nhiên, không thể nào khác được, người nông dân căm thù bọn cướp nước, lòng căm thù này mang đậm tính quá trình. Lúc đầu, họ chí ghét chúng là loài dị độc tanh hôi ‘mùi tinh chiên vấy vá‘. Nhà thơ đã cụ thể hóa cái ghét ấy bằng hình ảnh so sánh: ‘ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ ‘ đúng với tâm lí của nông dân. Dẫu sao, cái ghét lúc này vẫn còn có mức độ. Nhưng rồi do bữa bữa, ngày ngày, giặc thù hiện ra ngang nhiên như gai đâm vào mắt với ‘bòng bong che ‘, ‘ổng khói chạy ‘. Vốn căm ghét bọn chúng nên người nông dân chỉ thấy một màu nhức nhôi, gay gắt ‘trắng lốp ‘, ‘đen sì ‘. Và trạng thái của sự căm ghét đến đây cũng đã chuyển sang căm thù mãnh liệt: ‘muốn tới ăn gan ‘, ‘muốn ra cắn cổ ‘. Tuy vậy, sự căm thù ở đây cũng mới chỉ là cái căm thù cảm tính. Phải đến câu sau:

Một mối xa thư đồ sộ, há dế ai chém rắn đuổi hươu.

Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lủ treo dê, bán chó.

Thì sự căm thù mới chính là sự căm thù lí tính. Hai vế câu 8 thật trang trọng với nhiều từ ngữ Hán Việt, điển tích, điển cố nhằm thể hiện một điều hết sức cao cả thiêng liêng đó là ý thức về sự thống nhất của TỔ quốc, về trách nhiệm trước công lí, lẽ phải. Đặc biệt với thành ngữ nôm na dân dã: ‘treo dê bán chó ‘, Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định sự sáng suốt, tinh tường của nhân dân nói chung và người nông dân nghèo khổ nói riêng. Cái mặt nạ ‘khai hóầ ‘, ‘truyền đạo ‘ của giặc Pháp đã bị phá vỡ, lôi ra trọn ven cái đã tâm xâm lược của bọn chúng.

Hiểu được điều đó, người nông dân dã tự nguyện ra đánh giặc. Họ trở thành nghĩa

sĩ:

Nào đợi ai đời, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình. Chẳng ai thèm trôn ngược,

trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Một loạt các động từ làm vị ngữ chỉ hành động: xin – ra sức – doạn, dốc ra tay –

bộ thể hiện khí thế hào sảng, hăm hở và tự tin của người dân binh mộ nghĩa.

Rủ bùn đứng dậy sáng lòa (Nguyễn Đình Thi), hình ảnh người chiên sĩ chiên đấu

trong trận công đồn được tái hiện tài tình trong các câu còn lại của đoạn 2:

Khá thương thay!

Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ theo vòng ở lính diễn binh.

Chẳng qua là dân ấp, dân lăn mến nghĩa làm quân chiêu mộ (10).

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư không chờ bày bổ

(11).

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một

ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ (12).

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy dạo kia, gươm deo dùng

bằng lưỡi dao phay, củng chém rớt đầu quan hai nọ (15).

Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bấn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có (14).

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước,

lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ (15).

Một lần nữa, Nguyễn Đình Chiểu nhắc lại nguồn gốc nông dân của người nghĩa sĩ, hơn nữa, họ là người nông dân nghèo khó, là ‘dân ấp dân lân ‘. Bởi vậy, đi vào chiến đâu, họ nào được chuẩn bị gì đâu. Không được chuẩn bị từ những hiểu biết tối thiểu về kỹ thuật tác chiến: ‘Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư không chờ bày bố ‘. Họ xa lạ với việc binh đao, chưa hề luyện tập về đội ngũ: ‘Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ theo vòng ở lính diễn binh ‘. Không phải là lính chính quy của triều đình nên họ không có cả những trang bị thô sơ nhất ‘bao tấu ‘, ‘bầu ngòi ‘, ‘dao tu ‘, ‘nón gõ ‘. Tuy thế, họ rất chủ động ‘không chờ ‘, ‘không đợi ‘ mà cũng ‘chẳng nài ‘ vì ‘bát cơm manh áo ‘ mà đánh giặc, người nghĩa sĩ tự trang bị thô sơ nhất cho mình: Áo mặc chỉ là một manh áo vải. Vũ khí là ngọn tầm vông, lưỡi dao phay và rơm con cúi. Thế mà họ đã dũng cảm xông vào chống lại mã tà, ma ní, thằng Tây với đạn nhỏ, dạn to, có tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.

Hai câu 14, 15 là bức tranh chân thực và sinh động đặc tả hình ảnh người dân binh

mộ nghĩa trong phút công dồn:

Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc củng như không; nào sợ thằng Tây bắn dạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ni hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu dồng súng nổ.

Hàng loạt các động từ, giới từ, hàng loạt yếu tố trùng lặp và câu văn như bị ngắt vụn ra đã tạo nên một không khí hết sức căng thẳng, quyết liệt nhể(t của trận đánh. Người đọc như hình dung được hình ảnh của người nghĩa sĩ trong tiếng súng rền vang của kẻ thù đã hăm hở xông lên nhưbão táp ‘xổ cửa xông vào ‘, ‘đạp rào lướt tới‘… họ chống đỡ, công thủ mọi nơi, mọi hướng ‘hè trước, ó sau ‘, ‘đâm ngang ‘, ‘chém ngược ‘. Xem thường súng, đạn tối tân của lũ giặc, họ xông xáo lập nên bao chiên công vang dội ‘đốt xong nhà dạy đạo kia ‘, ‘chém rớt đẩu quan hai nọ ‘,

Như vậy, bằng lốì dùng các từ ngữ diễn tả hoạt động nhanh, mạnh, dứt khoát, với một giọng văn hăm hớ, dồn dập và với các tình tièt chân thực, sinh động, Nguyễn Đình Chiểu dựng lên một hình tượng người nghĩa sĩ nông dân lam lũ mà cao đẹp, bình thường mà vĩ đại. Đây là hình tượng người nông dân vào loại đẹp nhất trong lịch sử văn học Việt Nam từ trước đến nay.

3. Tấm lòng của nhà thơ:

Đến đây, giọng văn hùng tráng chuyển sang xót xa, đau đớn, nhà thơ cảm thương

người nông dân nghĩa sĩ anh hùng đã hi sinh trong trận đánh ở Cần Giuộc.

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ. (16)

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thấy; trăm năm âm phủ

ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ. (17)

Sự hi sinh ở đây tuy là một bi kịch nhưng lại là một bi kịch cao cả, thiêng liêng được thế hiện bằng những hình ảnh trang trọng như da bọc thấy, gươm hùng treo mộ, xác phàm vội bỏ… Nỗi buồn thương về sự hi sinh ấy bao trùm cả không gian từ con người già trẻ đến cả cỏ cây trời đất:

‘Đoái sông Cần Giuộc, có cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ

hai hàng lụy nhỏ ‘.

Đúng như Hoài Thanh nhận xét: ‘Hàng trăm năm sau, chúng ta dọc Nguyễn Đình Chiểu, có lúc như vẫn còn thấy ngòi bút của nhà thơ nức nở trên từng trang giấy ‘. Lúc ấy chính là lúc này đây. Quá đau thương vì mất mát, có phút nhà thơ đã mềm lòng lấy làm tiếc cho sự ra đi kia, nhưng liền đó ỏng sực tỉnh và hiểu ra trách nhiệm về sự mất mát lớn lao phải trút vào giặc Pháp vào lũ vua quan hèn nhát và cả bọn việt gian bán nước cầu vinh:

Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở ainơi, mắc

mớ chi ông cha nó. (20)

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui dồn lũy tan tành,

xiêu mưa ngã gió? (21)

Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn dộc, thấy lại thêm buồn;

sổng làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ. (22)