VĂN MẪU LỚP 11
BÀI HỌC NHÂN SINH RÚT RA TỪ BÀI THỜ BÀI CA NGẤT
NGƯỠNG CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ VÀ BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI
CÁT CỦA CAO BÁ QUÁT
Văn học trung đại Việt Nam để lại dấu ấn khó quên trong lòng bạn đọc với những
tinh hoa của thời đại như danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi, đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du...Và có lẽ chúng ta sẽ thiếu sót nếu không nhắc đến cụ Trứ tài danh và Thánh Quát
nổi tiếng một thuở đăng đàn.
Ông Hi Văn và bậc Cúc Đường là những nhà thơ tài năng và bản lĩnh. Tác phẩm
mà những nhà nho để lại cho đời khá lớn, nhưng nổi tiếng nhất có lẽ là Bài ca ngất
ngưởng và Bài ca ngắn đi trên bãi cát ( Sa hành đoản ca). Hai tác phẩm là sự nổi dậy của
cái tôi hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam. Cái tôi đó chính là bản ngã của mỗi
con người.
Trong văn học cái tôi tạo nên cá tính riêng, nét độc đáo và mới lạ trong mỗi một
tác phẩm. Văn học trung đại chịu sự chi phối của những quan niệm “ văn dĩ tải đạo”, “ thi
dĩ ngôn chí”, những đề tài cao cả trang trọng, nên bóng dáng cái tôi nằm khuất trong hai
chữ “phi ngã”. Bởi lẽ, xã hội phong kiến với quan niệm “ khắc kỉ phục lễ” – cộng đồng,
tập thể được đề cao, con người phải che dấu những cảm xúc riêng tư, nhường lại cho
cộng đồng phát triển.
Thế nhưng, Bài ca ngất ngưởng ( Nguyễn Công Trứ ) và Bài ca ngắn đi trên bãi
cát ( Cao Bá Quát) lại đi ngược “ phong thái” chung của xã hội – dám đề cao cái tôi riêng
tư. Hướng đi đó đã tạo nên một bước đột phá mới cho thời kì văn học trung đại.
Đi ngược tinh thần chung, không có nghĩa hai nhà nho đã khiến mình trở nên biệt lập, lạc
lỏng, bởi. Bài ca ngất ngưởng được Nguyễn Công Trứ sáng tác sau gần 30 năm làm quan
( 1819 – 1848) dưới triều Nguyễn. Bài ca ngắn đi trên bãi cát ra đời khi Cao Bá Quát
đang trên đường vào Huế dự thi. Hai bài thơ tuy ra đời trong hoàn cảnh khác nhau, nhưng
hai hồn thơ riêng biệt lại gặp nhau cùng một suy nghĩ, đó chính là vai trò, trách nhiệm
của kẻ làm trai đối với đất nước.
Trong Bài ca ngất ngưởng Nguyễn Công Trứ khẳng định “ Vũ trụ nội mạc phi
phận sự” ( mọi việc trong trời đất đều là của ta). Đó như một lời tuyên ngôn trang trọng,
hào hùng của đấng trai tài về trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc “phò vua giúp
đời”. Cao Bá Quát lại khẳng định trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát “ Mặt trời đã lặn chưa
dừng được”. Đó cũng là tuyên ngôn của kẻ hiền sĩ trên con đường khoa cử dù gian khó
nhưng nhất quyết không chịu bỏ cuộc, luôn cố gắng bước tiếp để hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình. Như vậy, xét về phương diện này chúng ta thấy “cái tôi” Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát đã thực sự hòa vào dòng chảy của thời đại, sống “ trung quân ái quốc”,
sống với phẩm chất anh hùng đại trượng phu
“ Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
( Nguyễn Công Trứ)
“ Nhất sinh đệ thủ bái hoa mai”
( Một đời chỉ cúi lạy trước hoa mai)
( Cao Bá Quát)
Và trong dòng sông chung đó, hai trí sĩ đã chọn cho mình một bến đỗ, rất riêng, rất
độc đáo, và mới lạ trước cuộc đời và thế sự.
Trong Bài ca ngất ngưởng cái tôi Nguyễn Công Trứ đang tự thuật, tự hào về thực
tài, thực danh, thực cách của mình. Mấy ai làm thơ, viết văn ca ngợi về mình, đặc biệt đối
với những nhà nho quá thấm nhuần lễ giáo phong kiến. Thế nhưng cái “ngất ngưởng” lại
in bóng suốt cuộc đời của một chàng trai, một ông quan to, một vị tướng tài, một cụ già
“giải tổ”. Vậy, vì sao Nguyễn Công Trứ có thể sống “ ngất ngưởng” – sống khác đời,
khác người như thế? Bởi lẽ, khi thi cử ông đã đỗ “ thủ khoa”, khi làm quan ông đã từng “
Tham tán”, “ Tổng đốc Đông”, rồi “ thao lược” lúc “ Bình Tây đại tướng”. Và thật hài
hước, dí dỏm với một ông già
“ Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”
“ Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”
bởi
“ Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phới phới ngọn đông phong”.
Thật đáng khâm phục một cái tôi tài năng, khẳng khái và bản lĩnh. Làm quan là “
vào lồng” nhưng vẫn dọc ngang vẫy vùng và tận hiến công sức cho đời. Miệng lưỡi thế
gian cay nghiệt là thế, được mất khen chê vốn lẽ ở đời vẫn vậy, nhưng biết vượt qua nó,
sống thực với cái tâm của mình mới là điều đáng quý. Như vậy, cái tôi Nguyễn Công Trứ
là một cái tôi đi trước thời đại. Cốt cách, bản lĩnh của kẻ sĩ đã tạo nên một con người giàu
năng lực, bỏ qua lễ giáo phong kiến dám sống cho mình, theo đuổi “cái tôi” – cái tâm tự
nhiên
Với Cao Bá Quát, trong “ Bài ca ngắn đi trên bãi cát” chúng ta lại thấy một “ cái
tôi” loay hoay mãi với con đường công danh. Xã hội phong kiến vốn coi trọng khoa cử,
công danh. Nhưng Cao Bá Quát lại có cái nhìn khá mới mẻ về con đường công danh,
hoạn lộ:
“ Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời
Đầu gió hơi thơm men quán rượu
Người say vô số tỉnh bao người”
Hóa ra con đường công danh vinh quang, bổng lộc cũng lắm mà bon chen, đố kị
cũng nhiều. Dù con đường đó lắm cơ mưu sát phạt nhưng nó lại như một thứ rượu ngon
làm cho con người mê muội, càng lúc càng sa lầy. Cao Bá Quát cũng thuộc vào “người
say vô số”. Tuy nhiên ông lại ý thức được điều đó – ý thức rõ vòng xoáy danh lợi, thì
chưa hẳn đã là say. Say hóa ra lại là tỉnh, Cao Bá Quát đã vượt lên trên lối suy nghĩ thông
thường, nhận ra sự trì trệ của những nề nếp đã trở nên cũ kĩ, lạc hậu. Dẫu biết rằng trong
xã hội đương thời, đó vẫn là nhận thức suy nghĩ của một cá nhân, nhưng lại đặt ra vấn đề
to lớn của xã hội đó là đổi mới tư duy.
Như vậy cái tôi của Cao Bá Quát không còn mang tính cá nhân nữa, mà nó mang
tầm cao mới của thời đại, nói cái việc chưa ai từng nói, nghĩ cái việc chưa ai từng nghĩ.
Một cái tôi quyết liệt, hiên ngang và thật kì vĩ .
Thật vậy, Bài ca ngất ngưỡng và Bài ca ngắn đi trên bãi cát của hai bậc tài nhân là
những “đóa sen nở rộ” trong lịch sử văn học bởi tính sáng tạo, mới mẻ rất con người, rất
đời thường và cũng rất đẹp đẽ, thanh cao. Ý thức về nhân cách con người đã giúp hai nhà
nho vượt lên trên tất cả thói thường – những suy nghĩ nề nếp, bảo thủ để vươn lên tầm
cao mới, có thể dự báo trước tương lai mai sau “ Văn học là nhân học”, xã hội hôm nay
đã đổi mới nhưng ý nghĩa của những “Bài ca” vẫn giữ nguyên chân giá trị. Thời thế đã
đổi thay, hôm nay những “ cái tôi” đã được bộc lộ tự do hơn, cụ thể hơn, sinh động hơn.
Con người ta có thể tự do hành động, tự chủ hơn trong bước đường tương lai của mình.
Nhưng, có phải ai cũng đủ tỉnh táo để đừng bị cuốn hút theo vòng xoáy của danh
lợi? Có phải ai cũng sống hòa mình nhưng vẫn giữ nguyên cái “ bản ngã” của riêng ta?
Có phải ai cũng mạnh mẽ, tự tin để đổi mới tư duy trước những nề nếp lỗi thời? Có phải
ai cũng ý thức “ sống là hành động”, nỗ lực phấn đấu cống hiến hết mình cho quê hương,
đất nước mà không tính toán thiệt hơn? Vậy làm thế nào để không hối tiếc? Làm thế nào
để không hổ thẹn trước các bậc tiền bối lừng danh? Chúng ta, những thế hệ hậu sinh hãy
rèn luyện, phấn đấu, cống hiến hết mình, hãy sống có ích, sống trách nhiệm trước bản
thân và trước cuộc đời.