VĂN MẪU LỚP 11: VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
TỔNG HỢP 9 BÀI PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NI NGHĨA
SĨ NÔNG DÂN TRONG BÀIN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC
BÀI MẪU SỐ 1:
Dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn nghìn năm với bao biến cố thăng trầm của lịch
sử. Mỗi khi Tổ quốc bị m lăng, người nông dân cũng đứng lên chống giặc. Trong văn
học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu - một nhà nho yêu nước dùng con mắng
yêu thương kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa Cần Giuộcthì hình ảnh người
nông dân mới thực sxuất hiện. Đó hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực đầy chất bi
tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của
đấtnước.
Những nời nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê
Lợi, Quang Trung… Họ chỉ những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu
của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ
Họ đâu đã quen nghi tiếng súng. Âm thanh y đã phá tan cuộc sống bình lặng của
họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật
vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã m họ thật nhỏ suốt ngày cui cút làm
ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của
người dân Việt, người “dân ấp dân lânNam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn m ăn đ
cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những
“cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ “con trâu đầu nghiệp”.
Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ
lẫm.
Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân m lược đã xâm
chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruống, từng đám đất quê hương ruột
thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp
thỏm, lo âu:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông
mưa…”
Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên
mà đợi. Triều đình đã bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng n
ở họ. Bọn m lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu
nơi thôn quê, m sao không m cho được. Nỗi uất hận đển tột cùng ấy đã biến những
con ni nhỏ tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc
lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng m
thù giặc đến sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan.
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắng đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”
Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát ttrái tim đã khiên họ trở nên đẹp đẽ, lấp
lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước
mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát
vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”,
“bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ “một manh áo vải”. Các chàng
Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.
Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “mt ngọn tầm vông”, chỉ “lưỡi dao phay”, “rơm
con cúi”, liệu có thể thắng được tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của
nghĩa Cần Giuộc hay chăng tấn bi kịch của thời nghiệt ngã ấy. Họ nông dân
nhưng lạim kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất
lên trong tiếng nấc lòng. thtrận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng
tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lường, chênh lệch với kẻ thù
“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”
Hình tượng của người nghĩa áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy:
những âm thanh vang động ( trước, ó sau&hellip những động tác quyết liệt (đốt,
chém&hellip . Những người nghĩa áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời
đáng nhớ. Trong thế quật cường ấy , lấp lánh chân dung của những con người gánh
trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng
nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lí sống phù hợp đến muôn đời:
“Thà thác đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn c chịu
chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”
Tinh thần y, ý đồng chívẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để
chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân
tộc.
“Ôi thôi thôi!”
Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt
những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ nxuống
nới chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng
mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm
“Đau đơn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu
chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trứơc ngõ”
Người tử đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ…
Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa
sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”
Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy dựng
nên một tượng đài hoành tráng mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học
nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều
thì chưa một ai công khai vẽ lên ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua dân
ấp dân lân mến nghĩa m quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất
dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi
tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.
Cụ Đồ Chiểu chỉ nhà thơ mù - “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình nh
người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn v cả một thời đại. Tự hào
thay những con người nhỏ nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay
những nời dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ
sự toàn vẹn cho non sống. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.
BÀI MẪU SỐ 2:
Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít
nhất cũng trên mười mấy thế kỷ nay. Nhưng trong n học, hình ảnh người nông dân ấy
chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kXIX với bài văn Tế nghĩa Cần Giuộc” của
Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật đầu tiên vngười nông dân
nghĩa Việt Nam. Đó hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng, bi thương
hào hung như cuộc chiến đấu bi tráng nhân dân Việt Nam đã tiến hành suốt nửa
sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lý, rất sâu sắc khi mở đầu khúc bi ca của mình:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền: lòng dân trời tỏ.
Quả là, qua cuộc đấu tranh này, qua cái ththách khắc nghiệt này, bản chất tốt
đẹp, tấm lòng yêu nước của những nông dân bình thường này, vẻ đẹp thực sự của m
hồn họ được bộc lộ một cách trọn vẹn. Họ vn đấy, vẫn sống đấy, nhưng sống trong
thầm lặng của sự quên lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự cảm thông cao độ, nhận ra rằng
cuộc sống của họ đã từng vất vả xiết bao:
Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó.
Bao nhiêu lượng thông tin chứa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với
chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân Cần Giuộc, người nông dân lục tỉnh,
cũng người nông dân Việt Nam ngày đó. Bóng dáng của họ, nhỏ đơn trong
cuộc sống, sự khắc nghiệt những tai họa trong thiên nhiên, từ hội, như hiện lên
mồn một qua từng chữ. Tưởng như, chỉ chừng ấy lo toan vất vả cũng quá đủ đối với họ,
tưởng như họ, những người nông dân vất vả ấy, chẳng còn có thể nghĩ gì thêm, lo toan
thêm ngoài những “ toan lo nghèo khó” vốn đã quá lớn lao ấy.
Thế không, quân m lược đã m chiếm đất nước, đã đến tận m làng, đã
đến tận ngôi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy
vươn vai, họ chợt trở thành người khổng lồ như chú làng Gióng mấy nghìn m
xưa khi chợt nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng một điều bản rất khác xưa tiếng
rao truyền cứu nước không phải phát đi từ cung điện nhà vua mà đã được phát đi từ chính
trái tim của những người nông dân Cần Giuộc. chính lòng căm thù sôi sục vì hành
động cướp nước:
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp: muốn tới ăn gan: ngày xem ống khói chạy đen
sì, muốn ra cắn cổ.
Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ đã m nảy sinh một
khát vọng cao độ: khát vọng đánh giặc. Đó ước muốn hoàn toàn tự nhiên và hoàn toàn
tự nguyện:
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc rat ay bộ hộ.
Người nông n của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác hoàn toàn với người nông
dân chỉ trước đó không bao lâu.Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” khi phải
sung làm lính đi biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua. Tnguyện chiến
đấu, ấy làt bản chất nhất trong hành động của nời nghĩa thực sự. Phải chăng đó là
sự tiếp tục giữa nghĩa Cần Giuộc đánh ngoại xâm với chàng tráng Lục Vân Tiên
đánh cướp mà động cơ duy nhất:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Trong việc nghĩa, không việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc nghĩa thì
phải m, m một cách tư, không vụ lợi, không chần chừ, không cần đợi đủ điều
kiện mới m. Đó chỗ bi kịch của người nông dân Cần Giuộc, đó cũng chỗ ng ca
của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bi kịch vì:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin qua như trời hạn trông
mưa.
Họ bắt đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân của
họ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu ấy từ lâu nhưng lại “ án binh bất động” một cách khó
hiểu. Bi kịch còn cho họ là những người:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm: tập khiên, tập súng, tập
mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Bước vào chsống chết của chiến trường những con ni ấy chỉ mang theo
những trang thiết bị chỉ đủ để làm những người cày ruộng.
Trước giặc dữ những tên lính nhà nghề đủ tàu sắt tàu đồng”, đạn to, đạn
nhỏ, họ chỉ những người nông dân không kiến thức về trận mạc, chỉ một
manh áo vải”, một ngọn tầm vông”, chỉ lưỡi dao phay”. Cuộc chiến đấu mới chênh
lệch làm sao! Kết cục cuộc chiến đấu ấy như thế nào thì đã rang rồi. Đó tấn bi kịch
của những người nghĩa Cần Giuộc, cũng tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời
kỳ nghiệt ngã ấy, tấn bi kịch đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỷ.
Nhưng chính trong cái bi kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã cất lên. Hùng ca
trước hết sự ngoan cường của những con người quyết chiến thắng, vượt lên trên nỗi lo