VĂN MẪU LỚP 11: VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC –

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

TỔNG HỢP 9 BÀI PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NGHĨA

SĨ NÔNG DÂN TRONG BÀI VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC

BÀI MẪU SỐ 1:

Dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn nghìn năm với bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, người nông dân cũng đứng lên chống giặc. Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu - một nhà nho yêu nước dùng con mắng yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đấtnước.

Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:

Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ

Họ đâu đã quen nghi tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ lẫm.

Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruống, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:

“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông

mưa…”

Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đển tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan.

Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắng đuổi hươu

Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”

Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiên họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.

Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lường, chênh lệch với kẻ thù

“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”

Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động (hè trước, ó sau&hellip những động tác quyết liệt (đốt, chém&hellip . Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy , lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lí sống phù hợp đến muôn đời:

“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà c chịu

chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”

Tinh thần ấy, ý đồng chívẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.

“Ôi thôi thôi!”

Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nới chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm

“Đau đơn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu

chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trứơc ngõ”

Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ…

Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..

“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa

sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”

Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.

Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù - “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sống. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.

BÀI MẪU SỐ 2:

Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít nhất cũng trên mười mấy thế kỷ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nông dân ấy chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX với bài văn “ Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật đầu tiên về người nông dân – nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng, bi thương mà hào hung như cuộc chiến đấu bi tráng mà nhân dân Việt Nam đã tiến hành suốt nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.

Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lý, rất sâu sắc khi mở đầu khúc bi ca của mình:

Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền: lòng dân trời tỏ.

Quả là, qua cuộc đấu tranh này, qua cái thử thách khắc nghiệt này, bản chất tốt đẹp, tấm lòng yêu nước của những nông dân bình thường này, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn họ được bộc lộ một cách trọn vẹn. Họ vẫn có đấy, vẫn sống đấy, nhưng sống trong thầm lặng của sự quên lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự cảm thông cao độ, nhận ra rằng cuộc sống của họ đã từng vất vả xiết bao:

Nhớ linh xưa:

Côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó.

Bao nhiêu lượng thông tin chứa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân Cần Giuộc, người nông dân lục tỉnh, cũng là người nông dân Việt Nam ngày đó. Bóng dáng của họ, nhỏ bé và cô đơn trong cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tai họa trong thiên nhiên, từ xã hội, như hiện lên rõ mồn một qua từng chữ. Tưởng như, chỉ chừng ấy lo toan vất vả cũng quá đủ đối với họ, tưởng như họ, những người nông dân vất vả ấy, chẳng còn có thể nghĩ gì thêm, lo toan gì thêm ngoài những “ toan lo nghèo khó” vốn đã quá lớn lao ấy.

Thế mà không, quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, đã đến tận xóm làng, đã đến tận ngôi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy vươn vai, và họ chợt trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng mấy nghìn năm xưa khi chợt nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng có một điều cơ bản rất khác xưa là tiếng rao truyền cứu nước không phải phát đi từ cung điện nhà vua mà đã được phát đi từ chính trái tim của những người nông dân Cần Giuộc. Nó chính là lòng căm thù sôi sục vì hành động cướp nước:

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp: muốn tới ăn gan: ngày xem ống khói chạy đen

sì, muốn ra cắn cổ.

Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ đã làm nảy sinh một khát vọng cao độ: khát vọng đánh giặc. Đó là ước muốn hoàn toàn tự nhiên và hoàn toàn tự nguyện:

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:

Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc rat ay bộ hộ.

Người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác hoàn toàn với người nông dân chỉ trước đó không bao lâu.” Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” khi phải sung làm lính đi biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua. Tự nguyện chiến đấu, ấy là nét bản chất nhất trong hành động của người nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là sự tiếp tục giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc đánh ngoại xâm với chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên đánh cướp mà động cơ duy nhất:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

Trong việc nghĩa, không có việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc nghĩa thì phải làm, làm một cách vô tư, không vụ lợi, không chần chừ, không cần đợi có đủ điều kiện mới làm. Đó là chỗ bi kịch của người nông dân Cần Giuộc, đó cũng là chỗ hùng ca của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bi kịch vì:

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin qua như trời hạn trông

mưa.

Họ bắt đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân của họ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu ấy từ lâu nhưng lại “ án binh bất động” một cách khó hiểu. Bi kịch còn cho họ là những người:

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm: tập khiên, tập súng, tập

mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Bước vào chỗ sống chết của chiến trường mà những con người ấy chỉ mang theo

những trang thiết bị chỉ đủ để làm những người cày ruộng.

Trước giặc dữ là những tên lính nhà nghề có đủ “ tàu sắt tàu đồng”, đạn to, đạn nhỏ, họ chỉ là những người nông dân không có kiến thức gì về trận mạc, chỉ có “ một manh áo vải”, “ một ngọn tầm vông”, chỉ có “ lưỡi dao phay”. Cuộc chiến đấu mới chênh lệch làm sao! Kết cục cuộc chiến đấu ấy như thế nào thì đã rõ rang rồi. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kỳ nghiệt ngã ấy, tấn bi kịch đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỷ.

Nhưng chính trong cái bi kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã cất lên. Hùng ca trước hết là sự ngoan cường của những con người quyết chiến thắng, vượt lên trên nỗi lo

thất bại để chiến thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp hết mọi sự thiếu hụt, chênh lệch của mình so với kẻ thù:

Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như

không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có,

Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.

Thật là phấn chấn, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã chiến đấu như những người lính tuyệt vời dũng cảm. Ở đây, sức mạnh tinh thần đã phát huy đến mức tối đa và trong một chừng nào đó, đã tỏ rõ hiệu quả của nó trước sức mạnh của chiến thuật, của vũ khí, trang bị:

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia: gươm đeo dùng

bằng lưỡi dao phay, cũng chém rơi đầu quan hai nọ.

…Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh…

Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa hề có một bức tranh hào hùng như thế về tư thế chiến đấu của người lính áo vải. Hình ảnh người nông dân ở đây là sự kết tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là bản chất của họ. Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người nông dân Cần Giuộc đã đi vào vĩnh cửu.

Quả Nguyễn Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể anh hùng. Không có cái tập thể ấy, không làm sao có được sự hòa hợp tuyệt đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp đảo cái chết, với những “ đạp rào lướt tới”, “ xô cửa xông vào”, với những “ kẻ đâm ngang người chém ngược”, bọn hè trước, lũ ó sau như thế được.

Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung là “ nghĩa sĩ Cần Giuộc”, còn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều vô danh. Họ không hề tìm cho mình một điều gì riêng mình khi chiến đấu. Cái duy nhất họ gửi lại cho đời, điều mà Nguyễn Đình Chiểu nêu lên như là một tiêu chí chung bên dưới bức tượng đài của họ, ấy là triết lý sống. Chết vinh hơn sống nhục.

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh: hơn còn mà chịu chữ

đầu Tây, ở với man di rất khổ.

Hoàn thành bức tượng của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để một phần cuối cho

những lời ca ngợi, thương tiếc và thắp những nén hương kính trọng:

Nước mắt ahh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân: cây hương nghĩa

sĩ thấp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.

BÀI MẪU SỐ 3:

Cuộc tấn công của mấy chục nghĩa quân vào đồn Cần Giuộc của thực dân Pháp năm 1863 là cuộc tấn công đầu tiên của quân dân Việt Nam mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Số lượng thiệt hại mà quả thực họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho lịch sử dân tộc, bằng lòng yêu nước thiết tha vô tư của họ, thì to lớn vô cùng. Họ sứng đáng được tạc thành tượng đài để đi vào bất tử. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ của người nghệ sĩ nhân dân tạc nên bức tượng đài ấy.

Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định, Pháp đánh úp Cần Giuộc, một thị trấn cách Gia Định 23 km về phía Tây Nam. Ngày 16 tháng 12 năm 1861, nghĩa quân tập kích đồn giặc, hy sinh vài mươi người. Nguyễn Đình Chiểu dùng ngòi bút của của mình truy điệu những nghĩa quân hy sinh. Qua bài tế văn này, lần đầu tiên hình ảnh người nông dân Việt Nam đi vào văn học thành văn với tất cả vẻ đẹp và tầm vóc lịch sử vốn có của mình.

Ta hãy cùng phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu – một hình tượng nông dân bình thường mà vĩ đại, vì nước hy sinh, rực rỡ nét sử thi, làm rung động tâm hồn người đọc mọi thế hệ.

Những người nghĩa sĩ ấy xuất thân là nông dân nghèo khó. Câu văn mở đầu giới

thiệu cuộc đời họ là cui cút, khép lại là nghèo khó.

Cui cút làm ăn., toan lo nghèo khó.

Trọn vẹn trong đó là hình ảnh những người làm ăn cần mẫn với những lo toan

nhọc nhằn. Họ cũng chất phác, thật thà.

Chưa quen cùng ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trân, ở trong làng bộ.

Những con người ấy suốt cuộc đời tầm mắt chưa nhìn qua khỏi lũy tre làng, quanh năm cặm cụi với ruộng đồng, con trâu lưỡi cày. Câu kế tiếp liệt kê những công viêc nặng nhọc phủ vây con người lam lũ này:

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm:

Họ không biết chút gì về chiến trận:

Tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tuy nhiên, khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương Nam Bộ, những người nông dân hiền lành, tăm tối ấy, dù hoàn toàn xa lạ với trận chiến binh đao, bỗng chốc trở thành người chiến sĩ anh hùng đánh Tây. Đó là sự phi thường với bản thân họ, nhưng cũng là lẽ bình thường khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.

Thực dân Pháp tiến công Nam Bộ đã hơn muoi tháng. Người dân mong chờ triều đình đánh giặc, nhưng trông tin qua như trời hạn trông mưa. Lúc đầu nghe thấy kẻ thù hôi tanh, mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, nên họ ghét thói xâm lăng mọi rợ đó như nhà nông ghét cỏ, thấy cỏ ở ruộng lúa là phải nhổ cho sạch. Khi kẻ thù hiện hình cụ thể trước

mắt, toàn màu gay gắt, các lều trại của chúng che trắng lốp, những tàu thuyền của chúng nhả khói đen xì, lòng căm ghét chuyển thành căm thù, nên họ muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ. Những động từ mạnh mẽ “ muốn ăn” muốn cắn” diễn tả mức độ căm thù lên đến tột đỉnh.

Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ống khói chạy đen

sì, muốn ra cắn cổ, muốn tới ăn gan: ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Bên cạnh sự căm thù của tình cảm là sự căm thù của lý trí. Giặc Pháp lộ nguyên hình là những kẻ mượn chiêu bài truyền đạo, khai hóa ở nước ta nhưng thực chất là xâm lược, là một lũ dê bán chó. Đất nước văn hiến của ta không phải là vùng đất vô chủ mà chúng giành giật, mặc tình chém rắn đuổi hươu, cho nên dân ta há để chúng yên, thiên lý chói lòa đâu dung tha bọn xâm lược. Cả tình cảm lẫn lý trí đều nỗi giận, và do ý thức trách nhiệm, người nông dân tự nguyện đứng lên đánh giặc. Họ ra sức, ra tay với khí thế hào hùng, đoạn kinh, bộ hổ:

Trong trận tập kích đồn Cần Giuộc này, họ là những người dũng sĩ công đồn. Họ không đợi tập rèn mười tám ban võ nghệ, cũng không chờ bày bố chin chục trận binh thư. Những người nông dân ấy cũng không chuẩn bị quân trang, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi, chi nài sắm dao tu nón gõ. Vũ khí chỉ là ngọn tầm vông vạt nhọn, con cúi làm mồi lửa, lưỡi dao phay, vốn là những vật dụngntrong sinh hoạt hàng ngày: nhưng khi ở trong tay người chiến sĩ, tất cả đều trở thành vũ khí vô cùng lợi hại, đốt xong nhà dạy đạo kia, chem. Rơi đầu quan hai nọ. Biện pháp đối lập ( giặc thì đạn nhỏ, đạn to, tàu sắt, tàu đồng, còn ta thì ngọn tầm vông, lưỡi dao phay) đã cực tả quyết tâm chiến đấu của người nông dân nghĩa sĩ, dù kẻ thù có sức mạnh quan sự hơn ta gấp nhiều lần.

Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như

không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xôngvào liều như mình chẳng có .

Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm chi mã tà, ma ní kinh hồn, bọn hè trước, lũ

ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng sung nổ.

Nhiều cụm động từ diễn tả những động tác liên tục chống đỡ, công thủ mọi hướng, đạp rào lướt tới, xô của xông vào, đâm ngang, chém ngược, hè trước, ó sau. Từng vế câu đối nhau chan chat, quyết liệt. Hình ảnh những người nghĩa quân trong giờ phút căng thẳng cao độ của trận đánh được mô tả cực kỳ sinh động, thể hiện lòng dũng cảm tuyệt vời, sự hy sinh gan dạ của người nghĩa sĩ.

Sự hy sinh của họ là một bi kịch, và tác giả vô cùng cảm kích:

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng: đâu biết xác phàm vội bỏ!.

Nhưng đây là một bi kịch cao cả thiêng liêng của những người chiến sĩ da ngựa bọc thây, những anh hùng vô danh nào đợi gươm hùm treo mộ. Cái chết của nghĩa quân gieo khắp không gian một vẻ u sầu, nơi người người một nỗi tiếc thương đau xót. Biện

pháp ẩn dụ này cỏ ây mấy dặm sầu giăng và hình ảnh tả thực già trẻ hai hàng lụy nhỏ đã nói lên tình cảm bi thương đó. Càng thương hơn khi người ta hiểu được động cơ hy sinh vô cùng cao quý của nghĩa quân. Vì nghĩ tới tấc đất ngọn rau của quên hương, hạt cơm manh áo của nhân dân, không chịu làm nô lện, nên quyết tâm đánh giặc, dù phải hy sinh.

Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh.

Cũng cần phân tích rõ trách nhiệm về cái chết của nghĩa quân. Dĩ nhiên là do giặc xâm lược, mắc mớ chi ông cha nó, nhưng cũng do triều đình hèn nhát, do bọn người theo dân tả đạo, ở lính Mã tà…Người nghĩa sĩ hy sinh thì bớt được mối hờn được trả, tấm lòng son sang mãi như ánh trăng rằm và phận bạc của họ cũng sẽ phôi pha, trôi theo ding nước đổ. Nhà thơ còn nghĩ đến số phận của quê hương Nam Bộ mà nhỏ lệ đau thương.

Tiếng khóc của tác giả có bi thương nhưng không bi lụy.Đây là dòng nước mắt khóc người anh hùng như đang long lanh hình ảnh những con người nghìn năm tiết rỡ. Và sống đánh giặc thác cũng đánh giặc nên hồn thiêng nghĩa sĩ hay theo giúp cơ binh để đánh đuổi giặc thù ra khỏi bờ cõi. Lời khấn nguyện như đang thôi thúc những người đang sống hãy tiếp tục đứng lên chiến đấu diệt thù.

Binh tướng nó hãy đóng song Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen, ông cha ta

còn ở đất Đồng Nai, ai cứ đặng một phường con đỏ.

Tóm lại, qua bài văn tế này, người nông dân đã trở thành người anh hùng chân đất làm nên lịch sử. Một mặt họ vẫn lam lũ bé nhỏ, côi cút làm ăn, nhưng mặt khác, họ rất anh hùng. Anh hùng vì họ dám đánh giặc, dù chỉ với ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, manh áo vải. Họ còn anh hùng hơn nếu so với thái độ sợ giặc, hàng giặc của triều đình. Quả thật người nông dân nghĩa sĩ đã gánh trên vai cả gánh nặng lịch sử “ một thời khổ nhục nhưng vĩ đại”.

BÀI MẪU SỐ 4:

Sống trong cuộc đời tránh sao được cái quy luật sống và chết. Người ta vẫn thường nói chết là hết. Nhưng có những cái chết không một tiếng vang, lại có những cái chết để tiếng thơm muôn thuở. Những người nghĩa sĩ cần Giuộc năm xưa đứng dậy chống Pháp đã lựa chọn cái chết thật: Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đến sáu tỉnh chúng đều khen. Thác mà ưng đỉnh miếu để mà thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. Có thể nói toàn bộ bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang (Phạm Văn Đồng).

Đó là vào năm 1859, sau khi đánh chiếm Gia Định, thực dân Pháp mở rộng xâm lược ra ba tỉnh miền Đông Nam Bộ. Đến tháng 12/1861, Pháp đánh úp ba xứ Cần Giuộc, Tân An, Gò Cóng. Hai ngày sau, nghĩa quân ba xứ nhất tề nổi dậy, tập kích đồn quân Pháp, đốt nhà Dòng, nơi chúng đóng quân, giết chết một tên quan hai Pháp và một số lính thuộc địa. Nghĩa quân hi sinh khoảng 15 người. Trận thắng không lớn nhưng nó làm nức lòng những người dân yêu nước Việt Nam đang sôi sục ý chí báo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế để khóc thương và biểu dương tinh thần hi sinh vì nước của nghĩa quân Cần Giuộc. Áng văn làm rung động sâu sắc tám hồn những người dân yêu nước Việt Nam. Nhà thơ Mai Am từng có thơ đề cảm:

Điếu văn tam phục trụng đê hồi

Nghị phách từ phong tận khả ai.

Nghĩa là, đọc bài văn điếu ba lần trong dạ bồi hồi khôn xiết, nghĩa khí mạnh lời

văn hùng thật đáng xót thương.

Có thể thấy hình ảnh người nông dân Cần Giuộc là hình ảnh nổi cộm lên giữa những suy tư, suy ngẫm về cuộc chiến đấu của người nghĩa sĩ cần Giuộc. Đây cũng là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Nó đánh dấu vào lịch sử văn học dân tộc về một tượng đài bất hủ về hình ảnh người anh hùng áo vải giết giặc cứu nước.

Theo bố cục bài văn tế, chúng ta đi vào tìm hiểu và làm sáng tỏ những nét đẹp của

người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong cuộc chiến đấu chống Pháp.

Ở những câu đầu, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại lịch sử khốc liệt, hào hùng: một bên là cuộc xâm lược của thực dân Pháp với tất cả sức mạnh áp đảo về vũ khí (súng giặc đất rền), một bên là cuộc chiến đấu chống quân xâm lược của nhân dân ta với khí thế ngút trời (lòng dân trời tỏ). Người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn chỉ là những nông dân hiền lành, quanh năm: Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung. Ấy vậy mà khi giặc đến, họ liền trở thành những dũng sĩ, Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo nhấn mạnh đến tinh thần tự giác:

Nào dại ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược, trốn

xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Ở đây bút pháp hiện thực kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp trữ tình. Vừa tái hiện chân thực cuộc sống con người trong một thời điểm quan trọng nhất, lại vừa bộc lộ sâu sắc niềm trân trọng tự hào lẫn sự cảm phục của tác giả đối với người nghĩa sĩ cần Giuộc.

Hành động tự giác xung vào đội quân chiến đấu chống Pháp cho thấy thái độ vô tư trong suy nghĩ, trách nhiệm lớn lao đối với vận mệnh đất nước của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhớ lại những câu ca dao Lính thú đời xưa. Họ cũng là những nông dân nhưng bị bắt buộc phải phục vụ cho những cuộc chiến tranh phong kiên phi nghĩa, nên thái độ của họ thật khác xa:

Thùng thùng trống đánh ngủ liên

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

Còn ở đây, mặc dù đội nghĩa binh cần Giuộc mới được tập hợp trong vòng hai ngày trước trận tập kích đồn quan Pháp. Chỉ có hai ngày, trong hoàn cảnh phải hoàn toàn tự lực, không có sự giúp đỡ của quan quân triều đình nên họ thiếu thốn đủ thứ, vậy mà họ hăm hở biết bao:

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn, chín chục trận binh thư, không chờ bày

bố.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh; bọn hè trước,

lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.

Sức mạnh của những người nghĩa quân không gì khác ngoài sức mạnh tinh thần. Họ đã lấy gan vàng đọ với đạn sắt, lấy lòng căm hờn chống lại tàu sắt, tàu đồng. Chính lòng căm hờn đã đem đến cho họ sự dũng mãnh và sức mạnh phi thường kẻ đâm ngang người chém ngược họ tả xung hữu đột, tung hoành ngang dọc như chỗ không người: Đạp rào Lướt tới, coi giặc cũng như không, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có. Hai từ cũng được lặp lại ở câu mười ba (cũng đốt xong nhà dạy đạo kia, cùng chém rớt đầu quan hai nọ) vừa làm nổi bật thế tương phản của trận đánh, vừa vang lên như một tiếng reo vui đầy tự hào của những con người đầy lòng tự tin vào sức mạnh chính nghĩa của mình.

Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng thật chói lọi và những lời văn thật trang trọng đẹp đẽ, nhưng ông không che giấu sự thật đau lòng. Bài văn còn là lời ai điếu, là tiếng khóc của Đồ Chiểu trước sự thất thế và cái chết của người nghĩa quân Cần Giuộc. Cái chết của họ khiến cho đất trời, cỏ cây, con người đều động lòng.

Ôi thôi thôi!

Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang Sa một khác dặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ. Đau đớn bấy Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.

Cái bi tráng bao trùm lên cả đoạn thơ. Nhưng cái bi ở đây không phải là cái thảm mà là bi tráng. Đây là nỗi đau đớn vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đau mà không khiến người ta nản lòng, thối chí, khi mà giục giã mọi người đứng dậy hiên ngang. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại. Nhiều nghĩa quân đã phải ngã xuống, nhưng chết vinh còn hơn sống nhục: Thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. Chết như thế là để lại tấm gương chói lọi, có sức động viên lớn đối với cuộc chiến đấu sẽ còn tiếp tục.

Có thể nói, dù đã ngã xuống, nhưng hình ảnh người nông dân giết giặc vẫn mãi

ngời sáng. Đó chính là những trái tim ngời sáng trong cát, đế lại tiếng thơm muôn đời.

Cất lên những tiếng khóc này, Nguyễn Đình Chiểu muốn khẳng định đây là cái tang chung của mọi người, của dân tộc. Vì vậy có bi mà không có lụy. Cái bi thì thăm thẳm, nỗi đau đầy cảm hứng trữ tình lên đến tột đinh, tạo nên những câu văn vật vã: mẹ già ngồi khóc trẻ, vợ yếu chạy tìm chồng. Đây không còn là văn mà là lệ. Phải có tài, có tình và một tinh thần dân tộc, một nhận thức đúng đắn xem mũi tên lịch sử đang đi về đâu. Điều này Nguyễn Đình Chiểu hiểu rõ và rất tâm huyết.

Như vậy, viết về hình ảnh người nông dân đánh giặc, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa họ ở ba nét chủ yếu. Thứ nhất, hình ảnh người nông dân chân chất, hiền lành quanh năm chỉ biết sống và làm việc với cày cuốc, ruộng đồng. Thứ hai, đó là tinh thần yêu nước căm giặc sâu sắc đã thôi thúc họ trở thành những chiến binh dũng cảm, vô tận sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Thứ ba, mặc dù đã ngã xuống nhưng họ vẫn là những biểu tượng đẹp về hình ảnh những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang, sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc...

Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được xem là một áng văn chương xuất sắc không phải chỉ của riêng Nguyễn Đình Chiểu mà còn là của văn học Việt Nam thời Trung đại. Bằng một bút pháp trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp hiện thực, bằng ngôn ngữ bình dị mà gợi cảm, bài văn đã tái hiện chân thực sâu sắc và đầy xúc động cả một thời đau thương nhưng anh dũng của dân tộc, đồng thời xây dựng nên một tượng đài có một không hai trong lịch sử văn học thời trung đại về người nông dân nghĩa quân chống giặc ngoại xâm.

BÀI MẪU SỐ 5:

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và của văn học Việt Nam thời trung đại nói chung. Với tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu được xem là người đầu tiên đưa hình ảnh người nghĩa sĩ thành hình tượng trung tâm trong văn học viết của dân tộc. Bài văn tế được tác giả viết để tưởng nhớ những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh Pháp ở Cần Giuộc trên đất Gia Định.

Bài văn tế được viết theo thể phú Đường luật, bố cục gồm bốn phần: Lung khởi,

thích thực, ai vãn và kết:

Phần một: Lung khởi (từ đầu đến “tiếng vang như mõ”): Cảm tưởng khái quát về

những nghĩa sĩ nông dân hi sinh trong trận Cần Giuộc.

Phần hai: Thích thực (từ “Nhớ linh xưa” đến “tàu đồng súng nổ”): Hồi tưởng về

cuộc đời người nghĩa sĩ.

Phần ba: Ai vãn (từ “Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng” đến “dật dờ trước

ngõ”): Than tiếc các nghĩa sĩ

Phần bốn: Kết (phần còn lại): Tình cảm xót thương của người đứng tế với linh hồn

người chết.

Trong bài văn tế, chỉ cần câu mở đầu thôi “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ” đã thể hiện được tư tưởng của toàn bộ bài văn. Đáng lẽ ra, khi giặc nổ súng xâm lược nước ta thì phải có phản ứng của triều đình nhưng ở đây ta chỉ thấy “lòng dân” đương đầu với quân thù. Từ đó, cho ta thấy chủ đề khái quát của tác phẩm là sự ca ngợi tấm gương hi sinh tự nguyện của những nghĩa binh với tấm lòng yêu nước sâu sắc.

Trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ta thấy hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp bình dị. Họ chỉ là những người nông dân bình thường, chất phác: “chẳng qua là dân ấp, dân lân”, “ngoài cật có một manh áo vải”, “trong tay cầm một ngọn tầm vông”, “côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Việc nhấn mạnh cái gốc nông dân của người nghĩa sĩ được xem là một nét mới so với thời kì văn học trung đại, với điều này Nguyễn Đình Chiểu đã đưa được hình tượng người nông dân đánh giặc bước vào những trang văn của mình. Những người nông dân bình dị ấy, khi có thực dân Pháp xâm lược họ bỗng trở thành những người lính, vậy điều gì đã thôi thúc họ đó chính là ý thức dân tộc, tình cảm sâu nặng với quê hương đất nước. Qua những trang viết của Nguyễn Đình Chiểu, ta nhận thấy đang có một sự chuyển biến trong con người những nghĩa sĩ nông dân ấy. Từ những người nông dân hiền lành, chất phác “chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”, “việc cày, việc cuốc, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”, nhưng họ có một lòng yêu nước sâu sắc: “tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin

quan như trời hạn trông mưa, mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, “bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Tình yêu đối với quê hương đất nước là lớn lao như vậy, chính vì thế họ luôn sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Lối sống của người nông dân Nam Bộ thật đơn giản mà sâu sắc, quyết liệt, không có lòng yêu nước đến mức lớn lao như vậy thì Nguyễn Đình Chiểu làm sao có thể tìm thấy nét dũng cảm, kiên cường, dám xả thân vì nước của những người nông dân: “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”, “chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”, “kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Người đọc như tưởng tượng ra được một chiến trận với những âm thanh vang động, những động tác quyết liệt với một không khí gấp gáp, khẩn trương. Qua đây, ta thấy được tấm lòng của tác giả được dồn hết vào những trang văn bởi với một nhà thơ mù để viết được những trang viết giàu tính hiện thực như thế thì cần cả một tấm lòng cao cả.

Về nghệ thuật khắc họa hình tượng nghĩa sĩ Cần Giuộc trong tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu sử dụng những hình ảnh và ngôn từ hết sức bình dị, không hề tô vẽ hay dùng các phép tu từ, chính vì thế mà hình tượng người nghĩa sĩ vì thế rất chân thật và có sức lay động sâu sắc, họ được Nguyễn Đình Chiểu miêu tả là “một đám đông lam lũ, rách rưới, tay dao, tay gậy ào ào xông vào đồn giặc”. Ngoài ra, nhà thơ cũng đã sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật để làm nổi bật vẻ đẹp về phẩm chất và khí phách của người nghĩa sĩ nông dân: thủ pháp so sánh “trông tịn quan như trời hạn trông mưa”, “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”; thủ pháp đặc tả: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”; thủ pháp đối lập: chưa quen cung ngựa – chỉ biết ruộng trâu, tay vốn quen làm – mắt chưa từng ngó, nào đợi – chẳng thèm, mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn – chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.

Qua bài văn tế, tác giả bộc lộ niềm tự hào về tinh thần yêu nước cũng như khí phách của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc, đồng thời bày tỏ niềm cảm phục và xót thương đối với họ. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Đình Chiểu, một khúc ca bi tráng về những người anh hùng tuy thất trận nhưng vẫn chiến thắng trong lòng mọi người và chính bản thân họ.

BÀI MẪU SỐ 6:

Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định. Mấy năm sau, Pháp đánh úp cần Giuộc, một thị trấn cách Gia Định 23km về phía tây nam. Ngày 16 - 12 - 1861, nghĩa quân tậpkích đồn giặc, hi sinh vài mươi người. Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để truy điệu những nghĩa quân đã hi sinh. Qua bài văn tế này, lần đầu tiên người nông dân Việt Nam đi vào văn học thành văn với tất cả vẻ đẹp và tầm vóc lịch sử có thực của mình.

Ta hãy phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, một hình tượng người nông dân bình thường mà vĩ đại, vì nước hi sinh, rực rỡ nét sử thi, làm rung động tâm hồn người đọc mọi thế hệ.

Người nghĩa sĩ ấy xuất thân là người nông dân nghèo khó: mở đầu cuộc đời là cui

cút, khép lại là nghèo khó:

Cui cút làm ăn;

Toan lo nghèo khó.

Gói vào trong đó là những làm ăn cần mẫn, những lo toan nhọc nhằn. Họ cũng rất

chất phác, thật thà:

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;

Chí biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Chỉ biết ruộng trâunghĩa là ngoài việc đồng áng ra, họ không còn biết gì cả. Ở trong làng bộ ngụ ý toàn bộ thế giới đối với họ thu lại chỉ trong làng xóm mà thôi. Câu kế tiếp liệt kê những công việc nặng nhọc phủ vây con người lam lũ bé nhỏ này:

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;

Họ không biết chút gì về chiến trận: .

Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tuy nhiên, khi giặc Pháp đánh chiếm quê hương Nam Bộ, người nông dân hiền lành, chân chất và hoàn toàn xa lạ với chiến trận binh đao đó bỗng chốc trở thành người nghĩa sĩ anh dũng đánh Tây. Đó là sự phi thường nhưng cũng bình thường vì theo một quá trình rất tự nhiên và rất thực.

Thực dân Pháp tiến công Nam Bộ đã hơn mươi tháng. Người dân mong chờ triều đình xuất binh đánh giặc, nhưng trông tin quan như trời hạn trông mưa. Lúc đầu nghe thấy kẻ thù hôi tanh, mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, nên họ ghét thói xâm lăng mọi rợ đó như nhà nông ghét cỏ, thấy cỏ ở ruộng lúa là phải nhổ sạch. Khi kẻ thù hiện hình cụ thể trước mất, toàn màu gay gắt, các lều trại của chúng che trắng lốp, những tàu thuyền của chúng nhả khói đen sì, lòng căm ghét chuyển sang căm thù, nên họ muốn tới ăn gan,

muôn ra cắn cổ. Những động từ mạnh mẽ muốn ăn, muốn cắn diễn tả mức độ căm thù lên đến tột đỉnh:

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;

Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Bên cạnh sự căm thù của tình cảm là sự căm thù của lí trí. Giặc Pháp lộ nguyên hình là những kẻ mượn chiêu bài truyền đạo, khai hóa ở nước ta nhưng thực chất là xâm lược, là một lũ treo dê bán chó. Đất nước văn hiến của ta không phải là vùng đất vô chủ mà chúng giành giật, mặc tình chém rắn đuổi hươu. Cho nên nhân dân ta há để yên, thiên lí chói lòa đâu dung tha bọn xâm lược. Cả tình cảm lẫn lí trí đều nổi giận, và do ý thức trách nhiệm công dân, người nông dân đứng lên đánh giặc, ra sức, ra tay với khí thế hào hùng, đoạn kinh, bộ hổ:

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kinh;

Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Trong trận tập kích cần Giuộc này, họ là những người dũng sĩ công đồn. Họ không đợi tập rèn mười tám ban võ nghệ, cũng không chờ bày bôi chín chục trận binh thư. Những người nông dân ấy cũng không được chuẩn bị quân trang, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, chi nài sẩm dao tu, nón gõ. Vũ khí chi là ngọn tầm vông vạt nhọn, con cúi làm mồi lửa, lưỡi dao phay... vốn là những vật dụng sinh hoạt hằng ngày, nhưng khi trong tay người nghĩa sĩ, tất cả đều trở thành vũ khí vô địch: đốt xong nhà dạy đạo kia, chém rớt đầu quan hai nọ. Biện pháp đối lập (giặc thì đạn nhỏ, đạn to, tàu thiếc, tàu đồng, còn ta thì ngọn tầm vông, lưỡi dao phay) đã cực tả quyết tâm chiến đấu của người nông dân nghĩa sĩ, dù kẻ thù có sức mạnh quân sự hơn mình nhiều lần:

Chi nhọc quan quân gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng

như không;

Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhở, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;

Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.

Nhiều động từ và giới từ tá những động tác liên tục chống đỡ, công thủ mọi hướng: đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, đâm ngang, chém ngược, hè trước, ó sau. Từng vế câu gối hạc đối nhau chan chát, quyết liệt. Hình ảnh những người nghĩa quân trong giờ phút căng thẳng cao độ của trận đánh được diễn tả cực kì sinh động, thể hiện lòng dũng cảm tuyệt vời, sự hi sinh cao quý đến độ thiêng liêng của người nghĩa sĩ.

Sự hi sinh của họ là một bi kịch, và tác giả vô cùng cảm khái:

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;

Đâu biết xác phàm vội bỏ.

Nhưng đây là một bi kịch cao cả thiêng liêng của những người nghĩa sĩ da ngựa bọc thây, những anh hùng vô danh nào đợi gươm hùm treo mộ. Cái chết của nghĩa quân gieo khắp không gian một vẻ u sầu, nơi người người một nỗi tiếc thương đau xót. Biện pháp ẩn dụ cỏ cây mấy dặm sầu giăng và hình ảnh tả thực già trẻ hai hàng lụy nhỏ đã nói lên tình cảm bi thương đó.

Càng thương cảm hơn khi ta hiểu được động cơ hi sinh vô cùng cao quý của nghĩa quân. Vì nghĩ tới tấc đất ngọn rau của quê hương, bát cam manh áo của nhân dân, không chịu làm nô lệ, nên họ quyết tâm đánh giặc, dù phải hi sinh:

Thà thác mà đặng câu địch khái; về theo tổ phụ cũng vinh.

Cùng cần phân tích rõ trách nhiệm về cái chết của nghĩa quân. Dĩ nhiên là do giặc xâm lược, mắc mớ chi ông cha nó, nhưng cũng vì triều đình hèn nhát, do bọn người theo quân tả đạo, ở tính mã tà... Người nghĩa sĩ hi sinh thì mối hờn được trả, tấm lòng son sáng mãi như ánh trăng rằm và phận bạc của họ cũng sẽ phôi pha, trôi theo dòng nước đổ. Nhà thơ còn nghĩ đến số phận của quê hương Nam Bộ mà nhỏ lệ đau thương.

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen;

Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.

Tiếng khóc tiếc thương người nghĩa sĩ có bi thương nhưng không bi lạy. Đây là nước mắt anh hùng như đang long lanh hình ảnh những con người nghìn năm tiết rỡ. Và sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc nên hồn thiêng của người nghĩa sĩ sẽ theo giúp ca binh để đánh đuổi giặc thù ra khỏi cõi bờ. Lời khấn nguyện như thôi thúc những người đang sống hãy tiếp tục đứng lên chiến đấu diệt thù.

Tóm lại, qua bài văn tế này, người nông dân trở thành những người anh hùng chân đất làm nên lịch sử. Một mặt họ vẫn lam lũ bé nhỏ, cui cút làm ăn, nhưng mặt khác, họ rất anh hùng. Anh hùng vì họ dám đánh giặc, dù chỉ với ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, manh áo vải. Họ càng anh hùng nếu so với thái độ sợ giặc, hàng giặc của triều đình. Quả thật người nông dân nghĩa sĩ đã gánh nặng lịch sử "một thời khổ nhục nhưng vĩ đại".

BÀI MẪU SỐ 7:

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công... Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ mà là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên chiến đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài ``Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc``, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.

Như chúng ta biết thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “Tác phẩm nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc.

Mở đầu bài văn tế là . Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc

của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:

“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” có ý nghĩa là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc

nổ vang rền trời đất và quê hương .

Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại .nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của bài Văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.

Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:

“Nhớ linh xưa:

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó"

Cui cút làm ăn: có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mệt mỏi hay vất vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựnng một mình mà chẳng nói với ai .“Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó" đã hiện lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người "dân ấp dân lân" Nam Bộ. Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm

ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó.Họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.

"Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng

bộ”.

Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn

với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:

“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập

mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.

Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi

“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy

đen sì, muốn ra cắn cổ”.

Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”,chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

Trong tác bài Văn Tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược.Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.

Bài Văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa

quân với giặc Pháp:

“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.”

“Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước,

lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.

Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”.Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của các nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.Ông cũng thể

hiện rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân.Từ trước đến nay, đây là tác phẩm đầu tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân

Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn có tiếng khóc của mẹ già nơi quê nhà trông chờ con về, vợ thương nhớ về chồng, con ngóng cha về ngh thống thiết, bi ai. . Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng:

“Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”

Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một không gian rông lớn bùi ngùi, đau.

đớn:

“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ

2 hàng kuỵ nhỏ”.

Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ, nỗi nhớ thương của

con cái được nói đến vô cùng xúc động:

“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng

thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.

Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng chiến đấu, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là để ta biết rằng đất nước nào cũng là độc lập, tự chủ. Không ai được quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng rất đáng tự hào:

“Ôi!

Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”

Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu mà họ đã để lại. Thà chết vinh còn hơn sống nhục.Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt Nam noi theo mà làm, là ngòn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam.

“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp

nguyện được trả thù kia;…”.

Công lao của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẽ đời đời nằm trong lòng mỗi

người dân Việt Nam về tấm gương anh dung, sẵn sàng xả thân vì độc lập Tổ Quốc.

“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương

nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.

Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" khẳng định , tấm lòng yêu thương dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu.“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ "nó"rất quan trọng trong cuộc đời.Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để cho các

thế hệ đi sau khi đọc được bài văn Tế này mà noi theo để xây dựng đất nước càng ngày giàu mạnh hơn.

BÀI MẪU SỐ 8:

Trên bầu trời văn chương Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu như ngôi sao sáng, càng nhìn càng sáng .Văn chương ông sáng ngời đạo lí ở đời và lấp lánh ánh sáng của tư tưởng yêu nước. Ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm bất hủ như: Truyện Lục Vân Tiên, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, nhiều bài thơ, bài văn tế... Nổi tiếng và gây xúc động nhất là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ở bài văn này, lần đầu tiên, hình ảnh người nông dân nghĩa sỉ được coi như ‘một phát hiện mới, nhà thơ dành cho vị trí chưa từng có trong văn chương‘, họ trở thành nhân vật chính - anh hùng của thời đại.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Đình Chiểu sáng tác bài vàn tế theo thể phú Đường luật (phú cận thể), một thể loại dùng trong tang ma phúng điếu với nội dung chủ yếu là ngợi ca công đức những người nông dân nghĩa sĩ đánh Pháp cuối thế ký XIX. Có lẽ, nhân vật người nghĩa sĩ hi sinh vì nước có tầm cỡ lớn lao, đáng kính phục... thích hợp với một hình thức diễn đạt tiếc thương và trang trọng như vậy!

ơ phần Lung khởi (phần mở đầu), Nguyễn Đình Chiếu đã nói về thời cuộc, khái quát về cuộc đời nhân vật. Trong câu mở đầu ‘Súng giặc đất rền, Lòng dân trời tỏ ‘ đối nhau một cách hoàn chinh, diễn tả hai nội dung của thời đại rất cụ thể: giặc xâm lược, có vũ khí hiện đại, dân ta chống xâm lược, chỉ bằng lòng yêu nước. Người nghĩa sĩ đã thế hiện lòng yêu nước và căm thù giặc trong bôi cảnh như thế. Câu văn như báo trước

số phận éo lo, báo trước sự hi sinh của nhân vật là tất yêu, Cho nên ‘Mười năm công vỡ ruộng ‘, ít ai biết đến họ, thế mà chỉ ‘một trận nghĩa đánh Tây ‘ - ‘tuy là mất ‘, là chết - danh tiếng họ đã ‘vang như mõ ‘. Từ những con người bình thường sống sau lũy tre, rặng dừa, mái lá..., họ vụt trỞ thành nổi tiếng, vì nghĩa lớn mà hi sinh. Và họ đã trở thành những anh hùng nghĩa sĩ của thời đại đau thương và anh dũng.

Lời ca ngợi họ, bắt đầu từ một cuộc sống lao động thầm, cực khổ đến một cuộc đời chiến đâu anh dũng, vẻ vang. cuộc sống lao động vất vả trong đời họ, được nhà văn thâu tóm trong hai câu Thích thực mở đầu khá trọn vẹn: ‘Côi cút làm ăn Toan lo nghèo khó‘. Hai nét bản chất ấy được triển khai làm rõ hơn ở những chi tiết giản dị, cụ thể, mộc mạc nhưng tiêu biểu, chọn lọc:

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;

Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, vừa bừa, việc cấy, tay vốn quen làm Tập khiên, tập súng, tập

mác, tập cờ mắt chưa từng ngó‘.

Ở đây có hai chi tiết: những cái họ biết, họ quen và những cái họ chưa quen, chưa từng ngó. Với hai loại chi tiết này, có thể kết luận rằng: họ chỉ là những người nông dân nghèo khổ, cần cù, gắn bó với làng quê thanh bình, chưa hề biết việc đao binh, chiến trận.

Cho nên, khi giặc Pháp kéo tới với ‘tàu thiếc, tàu đồng ‘, họ đã phải trải qua một tâm trạng lo âu, phẩp phỏng. HỌ ‘trông tin quan như trời hạn trông mưa ‘. Và họ đã thất vọng vì đã ‘hơn mươi tháng‘, triều đình vẫn không thực hiện trách nhiệm cứu dân cứu nước vôn là trách nhiệm của vua, quan. Họ đã bị bỏ rơi!

Sông trong vùng giặc chiếm đóng ‘mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm ‘, họ căm ghét ‘thói mọi ‘ một cách cảm tính, tự nhiên ‘như nhà nông ghét cỏ ‘. Nỗi căm ghét ngày một lớn lên trước sự nghênh ngang khiêu khích của những ‘bòng bong che trắng lốp ‘, những ‘ông khói chạy đen sì ‘ trông đến nhưc mắt. Họ đã muốn ‘tới ăn gan ‘, muôn ‘ra cán cổ ‘, giét và xóa sạch lũ giặc Lang Sa.

Bị triều đình bó rơi trong vùng đất giặc chiếm đáng, họ ý thức được vai trò của cá nhân mình và ý thức được trách nhiệm đối với nền độc lập của Tô Quốc. Tố quốc (một mối xa thư dồ sộ) và chân lí độc lập đã được khẳng định (hai vầng nhật nguyệt chói lòa) không thê bị xâm phạm như một chôn không người. Họ ‘há dể ai chém rán đuối hươu ‘. Họ ‘dâu dung lũ treo dê bán chó ‘. Triều đình không đánh giặc thì họ phải nhận lấy nghĩa vụ thiêng liêng này. Ra trận đánh giặc đối với họ là việc tự nguyện hoàn toàn:

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;

Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dôc ra tay bộ hố.

Những từ ‘xin ra sức ‘, ‘dốc ra tay ‘ diễn tả thật sinh động và chính xác ý thức tự nguyện của họ. Thời cuộc và hoàn cảnh sông cụ thể, nỗi nhức nhôi và tủi nhục mất nước, ý thức về dân tộc và đất nước đã biên những người nông dân hiền lành thành những nghĩa quân chiến đấu vì đại nghĩa. Họ đã trở thành người nghĩa sĩ tự nguyện gánh vác việc đánh giặc, cứu nước, cứu nhà.

Trở thành ‘quân chiêu mộ ‘, họ vẫn là ‘dân ấp dân lân ‘ chưa hề ‘tập rèn ‘ ‘võ luyện ‘, không hề biết, đến ‘binh thứ’.Họ chỉ có một tấm lòng ‘mến nghĩa ‘, vì đại nghĩa - trang bị thay cho những điều cơ bản của việc binh đao! Cuộc đời nghèo khó của họ thế nào thì họ xuất hiện trôn chiến trường như vậy. Họ chỉ có ‘một manh áo vải ‘, ‘trong tay cầm một ngọn tầm vông ‘, hay ‘rơm con cúi ‘, ‘lưỡi dao phay‘... Đó không phải là vũ khí mà là những vật dụng thường ngày dùng trong sinh hoạt và lao động. So sánh với những ‘đạn nhỏ đạn to ‘, ‘tàu thiếc tàu đồng ‘ của quân thù, ta không khỏi kinh ngạc và ngậm ngùi bởi một cuộc chiến không cân sức. ‘Lòng dân trời tỏ ‘ là ở chỗ này chăng?

Với những câu văn gối hạc bị ngắt thành ba vế, với hàng loạt động từ nhanh và mạnh, với những chi tiết dồn dập..., Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa được khoảnh khắc hào hùng của nghĩa sĩ trong chiến trận:

Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc củng

như không;

Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ dạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma 11Í hồn kinh;

Bọn hè trước, lủ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đổng súng nổ.

Hai câu văn tế vừa khắc họa dũng khí, sự can đảm đến liều mình của người nghĩa sĩ khiến quân thù phải khiếp sợ, vừa diễn tả cách đánh ‘đâm ngang ‘, ‘chém ngược ‘ của những người nông dân chưa thạo chiến trận. Và tất yếu, tuy tỏ được lòng mình nhưng họ đã hi sinh! Ngậm ngùi thay! Cảnh: ‘Mẹ già ngồi khóc trẻ ‘, ‘vợ yếu chạy tìm chồng‘... khiến ta đau xót và thấu hiểu sâu sắc hơn sự hi sinh của họ vì đại nghĩa lớn đến chừng nào?

Tóm lại, hình ảnh nghĩa sĩ phần lớn được thể hiện ở phần Thích thực của bài văn tế. Ở phần này, cuộc đời của nhân vật đã được kể lại khá rõ như đã nói ở trên. Tuy nhiên, ở những phần khác của bài văn, qua lời than tiếc (Ai điếu) và lời vĩnh biệt (Ai vãn) của tác giả... hình bóng họ vẫn thấp thoáng ẩn hiện trong lòng người, trong lòng non sông đất nước. Họ ra đi nhưng còn để lại ‘mẹ già ‘, ‘vợ yếu ‘, để lại ‘Bến Nghé ‘, ‘Đồng

Nai ‘ còn ‘bốn phía mây đen ‘. Tuy vậy, họ vẫn là những con người ‘sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc ‘, ‘danh thơm đồn sáu tỉnh, chúng đều khen‘... Họ đã trở thành những anh hùng bất tử!

Có thể nói trong văn chương Việt Nam, lần đầu tiên nhân vật người nông dân vì nghĩa được khắc họa sâu đậm và toàn diện. Trước Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trãi đã nói tới ‘dân ‘: ‘dân đen ‘, ‘con dỏ ‘, ‘kẻ cấy cày ‘, ‘nhân dân bốn cõi ‘... nhưng bóng dáng của họ là bóng dáng chung, chưa cụ thể như là những người ‘dân ấp dân lân ‘ vị nghĩa này. Nghĩa sĩ Cần Giuộc là những người nông dân Nam Bộ trong thế kỉ XIX ‘chưa quen cung ngựa ‘, đánh giặc bằng ‘dao phay ‘, ‘rơm con cúi ‘, nhưng đã ‘chém rớt đầu quan hai nọ‘...Hình ảnh những người sĩ phu, trí thức, nông dân chống Pháp còn được khắc họa trong nhiều tác phẩm của Đồ Chiểu như: Vãn tế Trương Định, Điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Hịch đánh Tây...

Qua Vãn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã nhiệt liệt ca ngợi người nghĩa sĩ hi sinh vì nước trong những ngày đầu chống Pháp. Tình cảm mà ông dành cho họ phản ánh lòng yêu nước trong những ngày đầu chống Pháp. Tình cảm mà ông dành cho họ phản ánh lòng yêu nước, quan điểm chống Pháp mà ông thực hiện đến trọn đời. Tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi là tấm gương sáng, vì nước quên mình cho các thế hệ sau noi theo.

BÀI MẪU SỐ 9:

Văn học Việt Nam thời trung đại cường tráng với cảm hứng nông dân và trầm tư chất trữ tình đạo lý đã làm nảy sinh trong lòng các tác giả hàng loạt những áng văn nổi tiếng mang tính chất giáo Huấn Cao. Và Nguyễn Đình Chiểu - một nhà thơ mù loà của miền đất Nam Bộ cũng không là một ngoại lệ. những sáng tác trữ tình - đạo đức có giá trị của ông đều đưa con thuyền văn chương từ “bờ đạo lý” sang đến “bến trữ tình”. Trong con người ông, đạo lý đã được nung chảy trong ngọn lửa của cảm xúc và thậm chí còn hoá thân trong cảm xúc để trở thành phong cách chủ đạo trong phần lớn sáng tác của ông. Văn tếnghĩasĩcần Giuộc là một tác phẩm như thế. Hình tượng người nông dân - nghĩa sĩ trong bài văn tế chính là sự kết hợp hài hoà và đẹp đẽ nhất của Nguyễn Đình Chiểu giữa chất trữ tình và giá trị đạo đức. Bởi vậy, khi nhận định vềhình ảnh người nghĩa sĩ Cần Giuộc, sách giáo khoa Văn 11 viết: “Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sửvăn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. ở đây là người nông dân nghĩa quân chống giặc cứu nước”.

văn tế nghĩa sĩCần Giuộc là nén hương thơm thành kính của Nguyễn Đình Chiểu thắp lên để tưởng nhớ công ơn của những người nghĩa sĩđã hy sinh của Cần Giuộc. bài văn tế với kết cấu bốn phần khá rõ ràng kết hợp với việc miêu tả chân thực, ngôn ngữ bác học pha lẫn ngôn ngữ bình dân cùng những hình ảnh thơ đẹp tuyệt vời đã gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc về những nhân vật chính của tác phẩm: nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đọc bài văn tế, người ta thấy hiện lên trước tiên là chân dung cuộc sống nghèo khổ của họ:

Nhớ linh xưa;

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng

bộ.

Hai câu với cấu trúc sóng đôi thật chỉnh đã vẽ ra cuộc sống vật chất thiếu thốn của người nghĩa sĩ. Họ là những người nông dân nghèo khó, lam lũ, quanh năm chỉ biết đầu tắt mặt tối gắn bó với mảnh ruộng, với con trâu, cái cày. Nó không chỉ nói lên được sự cực khổ mà còn cho ta thấy được cả tâm trạng cô đơn, cái vóc dáng bé nhỏ đến tội nghiệp, thương tàm của họ. Những người nông dân ấy vốn thật thà lắm, chất phác lắm, họ đâu có biết tới việc cầm “cung ngựa” tới “trường nhung”. Có lẽ cảcuộc đời mình họ cũng chưa biết ra khỏi cái cổng làng, lũy tre vốn đã ăn sâu vào tiềm thức họ. Họ chỉ biết “cấy, cày, bừa... ” mà không biết: “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ”.

ị Nghệ thuật hệt kê đã diễn tả cho ta thấy cuộc sống hàng ngày của người nông dân trôi qua thật yên ắng. Từ bao đời nay, người dân ta đã khổvì phải chịu cảnh áp bức của chế độ phong kiến, thì nay, dân ta tiếp tục phải chịu: “một cổ hai tròng”. Đó là thực dân

Pháp. Thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Huế hèn nhát, bạc nhược đã đem sáu tinh miền Đông dâng cho chúng. Người dân chưa thoát khỏi cái khổ của đời sống vật chất nay phải đối diện với cái khố cùa đời sống tinh thần: mất nước.

“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong

mưa; mùi tinh chiên váy vá đã ba năm; ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”.

Vậy là thực dân Pháp đã xâm lược nước ta được ba năm. Trong ba năm ấy, chúng đã gây nên bao tội ác cho dân ta, bởi thế mà dân ta cơi chúng như “mọi”. Cách thể hiện cảm xúc của Nguyễn Đình Chiểu thật giản dị, mộc mạc. Ông lấy ngay công việc của nhà nông ghét nhất đểso sánh với thực dân Pháp nhằm thể hiện thái độ của người nông dân, nghĩa sĩ. Họsống thế nào, nghĩ thế nào thì họ thế hiện thếấy, rất ngay thắng, bộc trực. Từ lấy “phập phồng” đã diễn ta một cách khá sâu sắc tâm trạng chờ đợi trong thấp thỏm, lo âu của nhân dân. Nước mất ắt nhà sẽ tan. Nhưng càng chờ đợi “tin quan” chờ đợi sự cứu giúp của triều đình thì họ lại càng thất vọng, có khi đến tuyệt vọng. Vậy là người nông dân tiếp tục chịu đựng cuộc sống lầm than, nô lệ của những người mất nước. Trong con người họcó hai nỗi đau, nỗi khố đã hoà quyện làm một, đó là nỗi khổ vật chất và nỗi đau tinh thần. Cả hai đã tồn tại trong họ, trong con người “nông dân” nhỏ bé “cui cút”, tội nghiệp. Phải có tình yêu thương chân thành, sự cảm thông sâu sắc thì Nguyễn Đình Chiểu mới viết cảm động được đến như vậy. Việc tác giả nhấn mạnh cái gốc “nông dân” của những người nghĩa sĩ đã tạo ra một nét mới, một bước tiến vượt bậc trong cái nhìn của Đổ Chiểu so với văn học trung đại. Đồng thời nó cũng tạo cho hình tượng nghệ thuật mới có cơ hội bước vào văn học. Sau này, nhà thơ Chính Hữu cũng có viết:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Lùng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

(Đóng chí)

Phải chăng Chính Hữu đã khai thác hình tượng người chiến sĩ - nông dân cũng là

bắt nguồn từ Nguyễn Đình Chiểu?

Trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, hình tượng người nghĩa sĩ không chicó đau khổ trong cuộc sống mà ông còn phát hiện ra những phẩm chất, những nét tính cách cao đẹp của họ. Có lẽ chính những khó khăn mà họ phái trải qua chính là điều kiện đê thử thách tấm lòng của họ:

Súng giặc đất rén; lòng dân trời tỏ.

chiến tranh càng ác hệt, tội ác giặc gây ra càng dã man thì nhàn dân ta càng sôi sục quyết tâm hơn, chính lúc này đây, tấm lòng của họ mới được trời soi tỏ. Và chỉ khi đất nước có cơn nguy biến thì lòng yêu nước của người nghĩa sĩ mới có cơ hội để thể hiện. Họ quyết tâm:

Một mối xa thư đồsộ, há 'để ai chém rắn đuổi hươu, hai vầng nhật nguyệt chói

loe), đâu dung lũ treo dê bán chó.

Ngôn ngữ ước lệ của thi pháp trung đại đã phát huy hết sức mạnh trong những hình ảnh thơ cực kỳ tráng lệ, thiêng liêng. “Một mối xa thư đồsộ”, “hai vầng nhật nguyệt chói loà” là hình ảnh ẩn dụ cho đất nước, dân tộc. Người nghĩa sĩ quyết không đế thực dân Pháp xâm chiếm đất nước. Và chính từ lòng quyết tâm này, tinh thần xả thân, hy sinh vì dân tộc đã xuất hiện trong tư tưởng của họ. Vượt qua mọi khó khăn cứa cuộc chiến tranh, vượt qua những sư hiểm nguy, họ cùng nhau tập rèn, cùng nhau xông pha trận mạc.

“Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn, chín chục trận binh thư, không chờ bày bố hay “Hoá mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia, gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”. ở hai câu này, ta thấy hiện lẽn quyết tâm chiến thắng cao ngút trời của người nghĩa sĩ. Chưa hết, lúc ra trận họ chiên đâu thật dũng cảm, họ bất chấp cả mạng sống của mình, có khi là chiến đấu thật liều mạng.

Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đụp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắn dạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ dâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh, bọn hè trước, lũ

ó sau, trôi kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.

Hai câu thơ vẽ ra trước mát người đọc không gian của chiến trận thật oai hùng. Người nông dân - nghĩa sĩ dẫu có không biết “cung ngựa”, “trường nhung” nhưng đứng trước sự lựa chọn giữa độc lập, chữ quyền của dân tộc và việc trở thành nô lệ thì họ vẫn “đâm ngang, chém ngược”. Bứt pháp nghệ thuật hoành tráng, cực kỳsống động như từng thước phim quay chậm làm hiện ra những đường gươm sắc bén, bóng người ồạt xông trận và âm vang lừng lẫy của chiến trận. Có lẽ từ trước đến giờ, chưa có nhà thơ nhà văn nào viết cảm động về đề tài nông dân - nghĩa sĩ như Nguyễn Đình Chiểu. Người ta luôn tự hỏi tại sao Nguyễn Đình Chiểu mù loà như vậy mà lại có thể viết chân thực và sống động đến vậy? liệu có phái “con mắt” nhìn cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu sáng tỏ hơn những người bình thường.

Văn tế nghĩa sĩCần Giuộc là hình tượng dẹp đẽ nhất về người nông dân - nghĩa sĩ. Bai van tê được so sánh chính là Bình Ngô dại cáo thứ hai của văn học trung đai Tuy hình tượng người nghĩa sĩ trong trận Cần Giuộc là những người anh hùng thất thế nhưng họ vẫn liên ngang, kiên cường vá chính điểu này làm cho bài văn tếcó giá trị lâu bền, có tầm vóc đặc biệt trong lịch sửvăn học dân tộc.

Bài Văn tế nghĩa sĩCần Giuộc là giọt nước mắt khóc thương của Đồ Chiểu cho những người anh hùng bó mạng nơi xa trường. Tiếng khóc của ông mang tầm vóc thời

đại, tiếng khóc bao trùm tất cả đau thương, đau thương giăng lẫn trời đất. Chính điều đó làm cho tác phẩm sống mãi trong lòng người đọc hỏm nay và mai sau.