BÀI MẪU SỐ 1:
1.Giới thiệu tác giả, tác phm:
- Lưu Quang một trong những kịch gia tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật VN
hiện đại. Kịch của ông thường đcập đến những vấn đề tính thời sự xã hội và chứa đựng
những triết lí nhân sinh u sắc, thấm đượm tính nhân văn.
- “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” một trong những vở kịch gây tiếng vang nhất của
LQV. Từ một cốt truyn dân gian, LQV đã dựng thành một vở kịch i hiện đại, tập trung
thể hiện tình cảnh trớ trêu nỗi đau khổ, dằn vặt của Trương Ba từ khi bên trong một
đàng, bên ngoài một nẻo”. Từ đó, tác giả đặt ra nhiu vấn đmới mẻ, ý nghĩa tư tưởng
triết lí sâu sắc.
2. Cuộc đối thoại giữa Hồn và xác:
a, Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại:
- Sau khi được sống lại trong thể xác hàng thịt, Hồn TB gp rất nhiều phiền toái và bản thân
TB cũng bị lây nhiễm một số thói xấu cùng với những nhu cầu vốn không phải của bản thân
ông. Những điều đó làm TB vô cùng đau khổ.
- Trong tâm trạng đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật mình, trước cái chỗ
không phải của mình, HTB khao khát tách xa, rời khỏi thxác thô lỗ: “Ta chỉ muốn dời
xa mi tức khắc!”.
b, Diễn biến cuộc đối thoại:
b1. HTB và XHT tranh luận về sức mạnh của thể xác (Tư tưởng hồn – xác độc lập):
+Hồn TB:
- Tức ti, phẫn nộ và khinh bỉ thể xác.
- Phủ nhận sức mnh của thxác “không tiếng nói, mày chỉ xác thịt âm u, đui ,
“không có tư tưởng, không có cảm xúc”, cho rằng những nhu cầu của xác thịt là thp hèn.
-Khẳng định một cách đầy tin tưởng và t hào về sự “trong sạch” trong tâm hồn mình.
+Xác hàng thịt:
N M
U L
P 12
PHÂN TÍCH ĐOẠN ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN VÀ XÁC TRONG HỒN TRƯƠNG
BA DA HÀNG THỊT
- Mỉa mai, giễu cợt, gọi HTB là cái “linh hồn mờ nhạt...khốn khổ”. - Ttin trước sức mạnh
ghê gớm ca mình, át cả linh hồn cao khiết của TB.
- Đưa ra dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục để kđịnh sức mạnh của mình, khiến TB bối
rồi.
b2, HTB và xác hàng thịt tranh luận về vai trò của thểc (tư tưởng hồn – xác là một,
cchi phối hồn):
+ Xác hàng thịt:
- Khẳng định mình “cái bình để chứa đựng linh hồn”.
- Tự hào về vai trò của thể xác trong việc thoả mãn những nhu cầu của linh hồn.
- Phê phán, chế giễu sự coi thường của linh hồn trước những nhu cầu ca th xác đấu
tranh co những nhu cầu chính đáng của mình.
- Ve vuốt, đề nghị HTB trở về sống hoà hợp với mình.
=> Chủ động đặt nhiều câu hỏi phản biện, lẽ giảo hoạt -> trở thành kthắng thế, buộc
Trương Ba phải quy phục mình.
+Hồn TB:
- Một mặt tức tối trước những lẽ ti tiện của xác hàng thịt, mặt khác bi rối, lúng túng,
không thể phản bác những ý kiến đó.
- Chấp nhận trở lại xác hàng thịt trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng. => HTB bđộng, kháng c
yếu ớt, đuối lí, tuyệt vọng -> trở thành người thua cuộc.
3.Đánh giá:
- Cuộc đối thoại thể hiện nhân vật HTB:
+ Cảnh ng bi kịch: bị tha hoá, bị thể xác sai khiến.
+ Tâm trạng đau khổ, giằng xé trước cuộc sống trái tự nhiên
+ Phẩm chất cao đp: luôn tự hào về đời sống tâm hồn của mình; dũng cm nhìn thẳng vào
sự tha hoá của bản thân; nỗ lực đấu tranh với nghịch cảnh, với dục vọng tầm thường để
ơn tới những giá trị tinh thần cao quý.
- Nghệ thuậty dựng cuộc đối thoại:
+ Tạo ra một tình huốn nghthuật đặc sắc, giàu tính biu tượng. Đó xung đột giã cái
phàm tục vi cái thanh cao, gia nội dung và hình thức, giữa linh hồn thể xác. Đây cũng
là xung đột dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người.
+ y dựng những nhân vật tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời thoại giàu
tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và
hành động bên trong.
+ Lời thoại 13 lời hồn, 13 lời xác, ngôn ngữ kịch vừa màu sắc mỉa mai, dỏm, vừa
mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù hợp vi tính cách nhân vật.
4.Triết lí nhân sinh từ cuộc đối thoại:
- Linh hồn thể xác hai mặt tồn tại không ththiếu trong một con người, cả hai đều
đáng trân trọng. Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hoà giữa linh hồn và thể
xác.
- Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người, mặt
khác ông vạch ra qniệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất những
nhu cu của thể xác.
- Con người cần sự ý thức chiến thắng bản thân, chống lại những nghịch cảnh s phận,
chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
BÀI MẪU SỐ 2:
“ Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh . Họ sinh ra để in
dấu lại trên mặt đất , in dấu lại trong trái tim mọi ngưi” Nếu mỗi con người sinh ra đlàm
tròn nghĩa vụ ấy cho đến suốt cuộc đời thì Lưu Quang Vũ ( 19481988) nhà biên kịch lớn
của nền văn hc Việt Nam đã làm lên điều y bằng tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt
chtrong vòng một thời gian ngăn ngửi cửa đời người từ năm 1981 đến 1983 đặc biệt
với việc trả lời cho câu thơ mình dường như đã b ng “ Có những lúc tâm hồn tôi rách nát
/… Tôi biết làm , tôi biết đi đâu?” qua việc y dựng cuộc đối thoai của Hồn Trương Ba
với xác tạo nên một xung đột kich mang thước đo chuẩn mực của kịch nói Việt Nam sau
y
LQV đã viết lại cổ tích dựa vào 1 cốt truyn dân gian: Trương Ba giỏi đánh cờ nên quen
thân với Đế Thích. Nam Tào bắt chết nhm Trương Ba, Đế Thích cho hồn Trương Ba sống
lại bằng cách nhập vào thân xác anh hàng thịt mới chết. Hồn Trương Ba sống lại, hạnh
phúc, đoàn tvới vợ con. Nhưng kịch hiện đại không có 1 kết thúc hậu kiểu nvậy.
LQV bắt đầu khai thác bi kịch ngay từ chỗ hồn Trương Ba sống lại và tất cả được nhìn dưới
c độ khác, dưới ánh sáng thật của bao nhiêu ưu phiền khi hồn Trương Ba ở trong xác anh
hàng thịt
LQV tập trung khai thác bi kịch hồn Trương Ba không thể dung a với xác hàng thịt.
Hồn tượng trưng cho thế giới tinh thần cao khiết, kết tinh văn hóa của con người. Còn xác
tượng trưng cho những nhu cầu, bản năng của con người. Bi kịch xảy ra hồn không th
nào tìm thy sự bình yên trong chính cái xác ấy, trong chính gia đình mình và c trong gia
đình hàng thịt, cuối cùng đã chọn giải pháp là cái chết.
Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại ở
đây vừa thể coi độc thoại vừa thể coi đối thoại. là một lời thoại đặc biệt, vừa
chứa đựng mâu thun vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến
mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch.
Bi kịch xảy ra khi hồn Trương Ba sống lại trong xác hàng thịt. Đây bi kịch chính,
bi kịch nội tại của nhân vật trong thể xác tphàm đầy bản năng nhc dục của anh hàng
thịt. Hồn Trương Ba trước nay vốn nhân hậu, nay dần dần đổi khác: thích uống rượu, thích
bán thịt, không còn mặn mà với trò chơi thanh cao trí tuệ. Ý thức được điều đó, hồn Trương
Ba vô cùng đau kh và càng đau khổ khi không giải quyết được mâu thuẫn. Hồn Trương Ba
càng cố gắng thoát khỏi sự chi phối ca thân xác thô phàm tcàng bị thân xác ép buộc.
Chính vậy, hồn Trương Ba mới khát vọng mãnh liệt muốn thoát ra khỏi thân xác
mà hồn ghê tởm. Hồn càng đau khổ vì mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu
còn là 1 người làm vườn chăm chỉ, hết lòng yêu thương vợ con mà biến thành 1 người thô lỗ
vụng về. Trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt, ta thy hồn Trương Ba bđẩy vào thế yếu,
đuối còn xác hàng thịt ny càng thng thế bởi xác sức mạnh riêng ca nó. Xác đã đưa
ra những dẫn chứng cụ thđthấy sự chi phối của mình. Đó cảm giác xao xuyến trước
món ăn: tiết canh, cổ , đó cảm giác: “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực” khi đứng
bên cạnh người vợ hàng thịt…Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi”.
Những dẫn chứng đó sự thật khiến hồn Trương Ba cảm thấy xấu hổ, ti tiện, xác n chế
nho với cái lẽ mà hồn Trương Ba chỉ đưa ra đngụy biện: “ta vẫn 1 đời sống riêng,
nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác đtể nhận thấy những lẽ ca hồn Trương Ba
ngày càng đuối dần nên đã ép hồn thỏa hiệp với mình. lẽ mà xác đưa ra c2 đã hòa
làm 1, không thể tách rời. Hồn cứ thỏa mãn nhu cầu của xác rồi làm điều xu lại đổ cho xác.
ththấy trong cuộc đối thoại này xác thắng thế nên rất hhê. Khi thì mỉa mai, khi
thì châm chọc. Còn hồn thì cùng đau kh, xấu hổ những điều xác nói ra mà mình thì
không muốn thừa nhận. Quả thực hồn đã bị xác chi phối.
Xung đột kịch chưa được giải quyết, chưa dừng lại. Tuy nhiên qua cuộc đối thoại giữa
hồn xác, nời đọc nhận ra những hàm ý sâu xa LQV muốn gửi gắm trong đó. Được
sống làm người quý giá thật, nhưng đưc sống đúng mình, sống trọn vẹn những giá trị
mình vốn mà theo đuổi còn qghơn. Sự sống chỉ thc sý nga khi con người
được sống tự nhiên với sự hài a giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết
đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, đ hoàn thin
nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Không chí ý nghĩa triết về nhân sinh, về hạnh phúc con người, rong vkịch nói chung
đoạn kết nói riêng, Lưu Quang muốn góp phn phê phán một s biểu hiện tiêu cực
trong lối sống lúc by giờ: Thứ nhất , con người đang nguy chạy theo những ham
muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, t thiển. Thứ
hai , lấy cớtâm hồn quý, đi sống tinh thn đáng trọng chng chăm lo thích đáng
đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu hnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm, cách sống
trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra , vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không
kém phần bức xúc, đó tình trạng con người phải sống giả, không dám cũng không
được sống bản thân mình. Đấy nguy đy con người đến chỗ btha a do danh
lợi. Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu
Quang Vũ.