185
Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC SỐ LĨNH VỰC TÀI CHÍNH
- NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
ThS. Phạm Thị Mai Hương(1)
TÓM TẮT:
Nhu cầu về nguồn nhân lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng để đáp ứng
cho nền kinh tế số tại Việt Nam đang trở nên cấp thiết nhằm thực hiện công cuộc
chuyển đổi số nền kinh tế. Cần phải sự thay đổi về cơ cấu nguồn nhân lực trong
các tổ chức, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng, theo đó nguồn
nhân lực số phải được chú trọng phát triển. Từ thực trạng về nguồn nhân lực số trong
lĩnh vực tài chính - ngân hàng đang thiếu hụt như hiện nay, cần có các giải pháp để
phát triển nguồn nhân lực số trong lĩnh vực này nhằm đạt mục tiêu phát triển nền
kinh tế số của quốc gia trong giai đoạn tới.
Từ khóa: Nguồn nhân lực, nguồn nhân lực số, tài chính - ngân hàng.
ABSTRACT: The need for digital human resources in the financial - banking
sector to meet the digital economy in Vietnam is becoming urgent in the current
period in order to carry out the digital transformation of the economy. There needs to
be a change in the structure of human resources in organizations and enterprises in
the financial - banking sector, in which digital human resources must be focused on
development. From the current situation of digital human resources in the financial -
banking sector, which is lacking, it is necessary to have solutions to develop digital
human resources in this field in order to achieve the goal of developing the digital
economy of the country. country in the near future.
Keywords: Human resources, digital human resources, finance - banking.
1. Đặt vấn đề
Nền kinh tế Việt Nam đang trong xu thế chuyển đổi sang nền kinh tế số, thay thế
dần nền kinh tế truyền thống dựa trên nền tảng tri thức với trụ cột các thành tựu của
1. Trường Đại học Kinh tế Nghệ An.
186 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Cách mạng công nghiệp 4.0. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 411/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến
năm 2025, định hướng đến năm 2030, với nội dung: Kinh tế số là hoạt động kinh tế
sử dụng công nghệ số dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số
làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng
năng suất lao động đổi mới hình kinh doanh tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế.
Theo đó, Chính phủ đã đặt ra các mục tiêu cụ thể cho phát triển kinh tế số, trong đó,
tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP vào năm 2025 và đạt 30% GDP vào năm 2030. Để
đạt được các mục tiêu đó, phát triển nguồn nhân lực số là một trong các nhiệm vụ để
tạo nền móng để phát triển nền kinh tế số.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII, để phát triển nền kinh tế số, trong đó giải quyết
vấn đề về nguồn nhân lực số; Quyết định số 146/QĐ-TTg, ngày 28/1/2022 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng phát triển
nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
đã đặt mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của lãnh
đạo và cán bộ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để thúc đẩy thực hiện chuyển đổi
số; phổ cập kỹ năng số cho các đối tượng tham gia vào quá trình chuyển đổi số trong
từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương (Thủ tướng Chính phủ, 2022). Trong
quá trình chuyển đổi số, vấn đề cốt lõi để thực hiện thành công đó đáp ứng nhu
cầu về nguồn nhân lực số ở tất cả các lĩnh vực, trong đó nhu cầu về nhân lực số cho
lĩnh vực tài chính - ngân hàng cũng là một vấn đề thiết yếu cần tập trung giải quyết.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả đã tập trung nghiên cứu về nguồn nhân lực số lĩnh
vực tài chính - ngân hàng, thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực số trong
lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong giai đoạn sắp tới của nền kinh tế Việt Nam nhằm
đạt được mục tiêu đặt ra của Chính phủ và nền kinh tế - xã hội như đã đề cập ở trên.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Nguồn nhân lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng
2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực số nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính -
ngân hàng
Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra nhiều sự thay đổi to lớn trong
các nền kinh tế - xã hội trên thế giới. Sự chuyển đổi về hình kinh tế từ nền kinh tế
dựa vào tài nguyên sang nền kinh tế dựa vào nền tảng tri thức với trụ cột là các thành
tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 không ngừng được áp dụng, vì vậy nền kinh tế
số ra đời đã từng bước thay thế nền kinh tế truyền thống. Khi internet và công nghệ
số bùng nổ, có thể dễ dàng tìm thấy những công cụ tự động hóa tiện lợi, thông minh
giúp các doanh nghiệp nhanh chóng hội nhập vào chuỗi công nghệ toàn cầu. Nền
kinh tế số vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao dịch điện tử
187
Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững
tiến hành thông qua internet. Kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực (công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ, sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải,
logistics, tài chính - ngân hàng,...) mà công nghệ số được áp dụng (Tô Trung Thành,
2021). Do đó, nền kinh tế số buộc các doanh nghiệp phải đổi mới quy trình sản xuất
kinh doanh truyền thống, giúp cải thiện năng suất, nâng cao hiệu quả công việc, phát
triển nhanh và bền vững.
Lịch sử phát triển và thực tế đã chứng minh, trong một nền kinh tế nói chung hay
một ngành, lĩnh vực nói riêng, yếu tố tiên quyết để vận hành và phát triển là nguồn
nhân lực. Đối với nền kinh tế số thì chắc chắn phải có nguồn nhân lực số. Theo Bộ
Thông tin Truyền thông (2022), nhân lực số lực lượng lao động kỹ thuật chuyên
nghiệp, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông
tin, an toàn thông tin,... Nguồn nhân lực số được xác định là một trong những yếu tố
quan trọng, quyết định tới thành công của chuyển đổi số quốc gia.
Nguồn nhân lực số là tổng thể số lượng, chất lượng con người với tổng hòa các
tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực
bản thân con người nền kinh tế số đang và sẽ cần để huy động vào quá trình
lao động, sáng tạo (Nguyễn Hải Hoàng, 2020).
Như vậy, nguồn nhân lực số là lực lượng chủ yếu để triển khai và hiện thực hóa,
quyết định sự tồn tại của nền kinh tế số, có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ
số, vận hành nó trong quá trình sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác của nền
kinh tế.
Từ đó, chúng ta có thể hiểu rằng, nguồn nhân lực số ngành tài chính - ngân hàng
là lực lượng lao động thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng, có năng lực làm chủ các
thiết bị công nghệ số, vận hành trong quá trình tạo ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch
vụ trong nền kinh tế số.
2.2.2. Đặc điểm nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng
Từ khái niệm ở trên, nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng có những
đặc điểm cơ bản như sau:
- năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số trong lĩnh vực tài chính - ngân
hàng khi tạo ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế số.
- Có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường lao động tiến
bộ khoa học công nghệ mới.
- Có khả năng tư duy đột phá và có tính sáng tạo trong công việc (đây được xem
là đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực số).
- Có tác phong kỷ luật, đạo đức và trách nhiệm trong công việc.
188 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng để đáp ứng được các đặc điểm
trên, nhất thiết đòi hỏi phải được đào tạo bài bản qua các khóa học tại các cơ sở đào
tạo chuyên ngành và liên tục được đào tạo, bồi dưỡng và bổ sung mới.
2.1.3. Vai trò của nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng sự cần
thiết phải phát triển nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng
- Vai trò nguồn nhân lực số lĩnh vực tài chính - ngân hàng
Ngành tài chính - ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, được coi
là huyết mạch của nền kinh tế quốc gia, là ngành đóng vai trò chủ động, kiến tạo và
tiên phong trong quá trình phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam. vậy, nguồn nhân
lực số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng luôn đóng vai trò chủ đạo trong phát triển
nền kinh tế số, được thể hiện ở các khía cạnh sau:
+ Là nhân tố quan trọng góp phần trực tiếp tham gia vào quá trình chuyển đổi số
phát triển kinh doanh số hóa, nền tảng định hướng cho toàn bộ các hoạt động
của các doanh nghiệp, tổ chức trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
+ những chủ thể vận hành hệ thống, điều khiển hạ tầng công nghệ số, thực
thi các kế hoạch theo quy trình đã được số hóa trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
+ Góp phần tạo ra các ý tưởng mới, các sáng kiến trong lĩnh vực tài chính - ngân
hàng giúp các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, ngân hàng ngày càng hoàn thiện quy
trình nghiệp vụ, từ đó nâng cao hiệu suất hệ thống, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu rủi
ro cho ngân hàng thương mại trong quá trình số hóa.
+ Hội tụ và kết tinh những giá trị văn hóa của doanh nghiệp, tổ chức,... góp phần
quan trọng vào việc xây dựng bản sắc thương hiệu, hiện thực hóa tầm nhìn và nâng
tầm sứ mạng phát triển của các doanh nghiệp, tổ chức đó.
+ Sự thích ứng cao của nguồn nhân lực số trong quá trình hoạt động tiếp cận với
sự đổi mới liên tục của công nghệ mới làm gia tăng giá trị hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hay ngân hàng trước những thách thức của
thực tiễn về nhu cầu xã hội đối với nền kinh tế số.
thể thấy, cũng giống như ở hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề khác của xã hội, nguồn
nhân lực số là động lực, mục tiêu cho sự phát triển của các doanh nghiệp, ngân hàng.
- Sự cần thiết phát triển nguồn nhân lực số ngành tài chính - ngân hàng
Chuyển đổi số trong phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của quốc gia. Trong
đó, chuyển đổi số nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực số có chất lượng, kỹ
năng cao cần được xem là ưu tiên trước tiên để đảm bảo cho thành công của chuyển
đổi số của rất nhiều lĩnh vực như tài chính - ngân hàng, giáo dục đào tạo, giao thông
vận tải và logistics, y tế, năng lượng,... của toàn bộ nền kinh tế trong giai đoạn tới.
189
Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững
Theo đó, lĩnh vực tài chính - ngân hàng là 1 trong 8 ngành, lĩnh vực ưu tiên trong
chuyển đổi số của Chính phủ Việt Nam. Các nội dung trong mục tiêu chuyển đổi số
lĩnh vực tài chính - ngân hàng bao gồm: xây dựng tài chính điện tử và thiết lập nền
tảng tài chính số hiện đại, bền vững; triển khai ứng dụng toàn diện công nghệ số
trong các ngành thuế, hải quan, kho bạc, chứng khoán; chuyển đổi số trong các ngân
hàng thương mại để cung cấp dịch vụ ngân hàng số theo hướng phát triển đa dạng
các kênh phân phối, đổi mới sáng tạo, tự động hóa quy trình, thúc đẩy hợp tác với các
công ty công nghệ tài chính (Fintech) và trung gian thanh toán trong việc xây dựng
hệ sinh thái dịch vụ tài chính ngân hàng (Thủ tướng Chính phủ, 2020).
Bên cạnh đó, cùng với xu thế chuyển đổi số của nền kinh tế, trong kế hoạch
chuyển đổi số của ngành đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, ngành ngân hàng
đã xác định mục tiêu tổng quát là phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện
ích, trải nghiệm khách hàng và thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện, phát triển bền
vững trên cơ sở thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quản trị điều hành
cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo hướng tự động hóa quy trình, tối ưu hóa hoạt
động nghiệp vụ (Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2021).
Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế truyền thông sang nền kinh tế số là quá trình
chuyển đổi cơ cấu lao động trong nền kinh tế, tức là tồn tại nền kinh tế số thì phải
nguồn nhân lực số. Nguồn nhân lực số phải ngày càng phát triển, chiếm vai trò chủ
đạo trong tổng số lực lượng lao động xã hội thì nền kinh tế số mới phát triển và bền
vững như mục tiêu của Chính phủ đặt ra. Sự chuyển đổi cơ cấu lao động trong ngành
tài chính - ngân hàng do tác động của chuyển đổi số cho thấy như sự xuất hiện
thêm nhiều vị trí công việc liên quan tới công nghệ; các công việc có tính lặp lại cao
sẽ bị thay thế bởi robot hệ thống tự động hóa; nhiều vị trí công việc sẽ chuyển hóa,
gia tăng hàm lượng công nghệ trong nghiệp vụ, quy trình xử lý. Theo McKinsey, sự
chuyển dịch cấu lao động làm gia tăng khoảng 8 - 9% nhu cầu về chất lượng, số
lượng nguồn nhân lực số ngành tài chính - ngân hàng đến năm 2030. Khoảng 65%
công việc mới xuất hiện liên quan tới chuyển đổi số (WEF, 2020) khoảng 56%
số lao động tại Đông Nam Á có nguy cơ mất việc nếu không được trang bị kỹ năng,
không đáp ứng được nhu cầu mới. Đặc biệt, năm 2021, ngành ngân hàng ở Việt Nam
được đánh giá có mức độ ứng dụng ngân hàng số nhanh nhất trong khu vực, cao hơn
mức tăng bình quân của toàn khu vực và thậm chí cao hơn mức tăng bình quân của
thị trường mới nổi (McKinsey, 2022).
Với sự phát triển quá nhanh của công nghệ hiện nay đang làm thay đổi cách quản
lý, điều hành cũng như quá trình phát triển của các quan, tổ chức doanh nghiệp.
có thể phá vỡ thị trường lao động bởi khi tự động hóa, trí tuệ nhân tạo (AI) dần
thay thế con người khiến hàng triệu lao động thất nghiệp. Bên cạnh đó, các ngành
nghề thuộc lĩnh vực tài chính - ngân hàng sẽ phát sinh thêm nhiều chức danh công
việc mới, trong khi các tổ chức, doanh nghiệp hiện nay ngày càng chú trọng vào mục