ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THẢO
PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG
HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM –
THỰC TIỄN ÁP DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành : Luật học chất lượng cao
Hệ đào tạo : Chính quy
Khóa học : QH-2014-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS.GVC NGUYỄN TRỌNG ĐIỆP
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn tron Khóa luận đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Khóa luận tố nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Thảo
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện Khóa luận tốt nghiệp, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình và vô cùng quý báu từ các thầy cô, gia đình và bạn
bè.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình, nghiêm túc và khoa
học của TS. Nguyễn Trọng Điệp – Giảng viên Bộ môn Luật Kinh doanh,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các giảng viên, cán bộ
Thư viện Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình hoàn thành Khóa luận.
SINH VIÊN
Nguyễn Thị Thảo
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU. .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG ..................... 6
1.1. Khái quát về tranh chấp thương mại ....................................................... 6
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại ........................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại ..................................................... 9
1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại ........................................ 10
1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại .............. 11
1.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 12
1.2.2. Đặc điểm ............................................................................................... 14
1.2.3. Nguyên tắc hòa giải ............................................................................... 16
1.2.4. Ưu và nhược điểm ................................................................................. 17
1.2.5. Các phương thức hòa giải ..................................................................... 19
1.2.6. Quy trình hòa giải ................................................................................. 21
1.2.7. Hình thức pháp lý và hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành ............... 23
1.2.8. Vai trò, chức năng và ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết tranh chấp
thương mại....................................................................................................... 24
1.2.8.1. Vai trò, chức năng của hòa giải thương mại ..................................... 24
1.2.8.2. Ý nghĩa của hòa giải thương mại ...................................................... 25
1.2.9. Lịch sử hình thành và phát triển chế định hòa giải thương mại ở Việt
Nam ......................................................................................................... 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG Ở VIỆT
NAM ............................................................................................................... 30
2.1. Quy định pháp luật đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa
giải. ............................................................................................................... 30
2.1.1. Các cam kết quốc tế của Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải. .................................................................................................. 30
2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải. .................................................................................................. 37
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam .. 40
2.3. Một số vấn đề pháp lý tiến bộ theo pháp luật Việt Nam khi giải quyêt
tranh chấp thương mại bằng hòa giải .............................................................. 44
2.4. Một số vấn đề pháp lý hạn chế khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải theo pháp luật Việt Nam. ................................................................... 46
2.5. Nguyên nhân những hạn chế cơ bản của pháp luật Việt Nam về giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng. ....................................... 49
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ........................................................... 53
3.1. Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải thương mại. ........................................................... 53
3.1.1. Cơ sở lý luận. ........................................................................................ 53
3.1.2. Cơ sở thực tiễn. ..................................................................................... 55
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải thương mại ................................................................................ 56
3.3. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam. ........................................................... 57
3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải thương mại. ........................................................................................ 59
3.4.1. Đào tạo bồi dưỡng hòa giải viên ........................................................... 59
3.4.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức về ý nghĩa và
hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. . 61
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 65
PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển với tốc độ rất đáng lạc
quan theo cơ chế thị trường. Sau hơn 30 năm đổi mới và mở cửa đã có những
chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển.
Nhưng trong bối cảnh đó thì các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa
dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể
kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Chính vì vậy tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được
quan tâm giải quyết kịp thời; hay nói cách khác, để các quan hệ kinh doanh
thương mại ngày càng phát triển thì cần có một phương thức giải quyết tranh
chấp có hiệu quả.
Pháp luật Việt Nam công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bao gồm: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó khi
xảy ra tranh chấp các bên có thể thương lượng với nhau để giải quyết, trường
hợp không thương lượng được thì có thể thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ
ba thông qua hòa giải, trọng tài hoặc tòa án. Mỗi phương thức đều có những
ưu điểm và nhược điểm riêng nhưng nhìn chung đều hướng tới việc giải quyết
xung đột giữa các bên, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của các
bên khi tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại.
Trong các phương thức giải quyết tranh chấp, bên cạnh thương lượng
và trọng tài thì phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải rất phổ biến
trên thế giới, đặc biệt được ưa chuộng tại các quốc gia có nền kinh tế phát
triển do những ưu điểm vượt trội của phương thức này so với phương thức tố
tụng. Tuy nhiên, tại Việt Nam phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa
giải trong hoạt động thương mại còn khá mới và chưa được sử dụng rộng rãi
bởi nhiều nguyên nhân về pháp lý cũng như con người. Trước khi có Nghị
định quy định về trình tự, thủ tục hòa giải thương mại thì việc giải quyết tranh
chấp bằng hòa giải đã được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật
1
chuyên ngành mà chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về trình tự, thủ
tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng hòa giải.
Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, Nghị định về hòa giải thương mại được
“thai nghén” khoảng thời gian 5 năm trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cùng với đó là tình
trạng quá tải của tòa án đối với các tranh chấp có tính kinh doanh, thương mại
đã mở ra một kênh giải quyết tranh chấp mới với nhiều ưu điểm trong hoạt
động kinh doanh, thương mại. Do đó để thúc đẩy sự phát triển và áp dụng
rộng rãi của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, cần
phải có những công trình nghiên cứu chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm của
phương thức này cũng như thực tiễn liên quan đến hòa giải tại Việt Nam trên
cơ sở đối chiếu và so sánh, để tăng thêm sự hiểu biết xã hội và chấp nhận
rộng rãi phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải. Với lý
do như trên, tôi chọn đề tài “Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải ngoài tố tụng theo pháp luật Việt Nam – Thực tiễn áp dụng”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh đều muốn xây dựng
lòng tin, duy trì mối quan hệ kinh tế đối với các đối tác một cách lâu dài để
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, thương mại ổn định và phát triển. Tuy
vậy, đôi khi nhiều lý do chủ quan và khách quan, các mối quan hệ kinh doanh
thương mại giữa các nhà kinh doanh cũng có những bất đồng và mâu thuẫn
dẫn đến các tranh chấp trong việc thực hiện cam kết. Vì thế, giải quyết tranh
chấp thương mại là một vấn đề cấp thiết, hiện nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, bằng
trọng tài, bằng tòa án như khóa luận tốt nghiệp năm 2009 “Giải quyết tranh
chấp thương mại bằng thương lượng” của tác giả Ngô Thế Lập – Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội; khóa luận tốt nghiệp năm 2010 “Hòa giải trong tố
tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả La Phương Na –
trường Đại học Luật Hà Nội; Tập bài giảng về giải quyết tranh chấp thương
2
mại, PGS.TS. Phan Thị Thanh Thủy – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội;
“Hòa giải thương mại và xu hướng phát triển tại Việt Nam”, TS.Nguyễn Thị
Minh, Phó vụ trưởng Vụ bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp, năm 2011; “Hoàn
thiện cơ chế hòa giải ở Việt Nam – Bài học kinh nghiệm các nước”, ThS. Lê
Thị Hoàng Thanh, năm 2012; Luận văn thạc sĩ năm 2014 “Xây dựng pháp
luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt
Nam” của tác giả Ngô Thị Thanh Tuyền – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội; Luận văn Thạc sĩ năm 2014 “Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh
thương mại ở Việt Nam” của tác giả Phạm Lê Mai Ly – Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội;….
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại. Tuy
nhiên các công trình trên chủ yếu tiếp cận phương thức hòa giải tranh chấp
kinh doanh thương mại từ góc độ luật thực định, mà hiện nay luật đã có nhiều
thay đổi. Sự ra đời của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải
thương mại và sự đổi mới của hàng loạt các Luật chuyên ngành khác đã làm
vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải vốn đã mới ở Việt
Nam nay lại càng mới hơn. Đề tài nghiên cứu việc quy định phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng theo pháp luật Việt
Nam hiện hành có những ưu điểm, nhược điểm gì; thực tiễn áp dụng nó ra
sao; từ đó đề xuất các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện và củng cố hệ thống
pháp luật về hòa giải thương mại. Đây là vấn đề cấp thiết trong bối cảnh hội
nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung của phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải theo pháp luật Việt Nam hiện nay để từ
đó có cơ sở xây dựng, hoàn thiện và áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam.
3
3.2. Mục tiêu cụ thể
Thứ nhất, tìm hiểu và phân tích khái niệm, đặc điểm của tranh chấp
thương mại. Từ đó làm rõ các vấn đề lý luận và nội dung của phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải.
Thứ hai, tìm hiểu các quy định pháp luật của Việt Nam cũng như thực
trạng của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng hòa
giải.
Thứ ba, kiến nghị một số giải pháp để xây dựng, hoàn thiện và áp dụng
pháp luật có hiệu quả trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung về lý luận, thực tiễn pháp luật
Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam để giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải.
Đối với phương thức hòa giải để giải quyết tranh chấp thì có hòa giải tư
pháp tức là hòa giải gắn liền với hoạt động của Tòa án, Trọng tài (hay còn gọi
là hòa giải trong tố tụng), hòa giải hành chính gắn với hoạt động của các cơ
quan hành chính và hòa giải cơ sở mang tính chất xã hội đối với những tranh
chấp nhỏ. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài thì tác giả tập trung nghiên
cứu về hòa giải ngoài tố tụng – một phương thức để giải quyết tranh chấp gắn
với các tranh chấp trong hoạt động thương mại (hay còn gọi là hòa giải
thương mại).
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của
triết học Marx – Lenin và trên quan điểm, định hướng của Đảng cũng như của
Nhà nước trong việc phát triển kinh tế Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới
Đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật học truyền
thống, như phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, đối chiếu, so sánh các
quy phạm pháp luật, các vụ việc thực tiễn giải quyết tranh chấp
6. Tính mới và đóng góp của đề tài
4
Tuy đã có nhiều đề tài nghiên cứu vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật
về hòa giải trong các tranh chấp kinh doanh thương mại, song các đề tài đó
nghiên cứu dựa trên nền tảng những quy định pháp luật cũ về hòa giải thương
mại. Hiện nay Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại ra đời, có
những quy định pháp luật mới cần được giải thích có hệ thống phục vụ cho
việc áp dụng hòa giải vào giải quyết các tranh chấp thương mại một cách có
hiệu quả; bên cạnh việc cập nhật những quy định pháp luật mới về hòa giải đề
tài cũng sẽ nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và thực tiễn về pháp
luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải. Vì vậy, đề tài “Phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng theo
pháp luật Việt Nam – thực tiễn áp dụng” về cơ bản là mới. Đề tài sẽ làm rõ
những vấn đề lý luận, khái niệm, đặc điểm, nội dung của phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải theo pháp luật hiện hành. Từ đó
tìm ra những điểm hạn chế trong các quy định pháp luật để góp phần hoàn
thiện hơn hệ thống pháp luật về hòa giải cũng như việc áp dụng phương thức
này vào giải quyết các tranh chấp thương mại thực sự có hiệu quả.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì khóa luận tốt nghiệp bao gồm
có ba chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải ngoài tố tụng
Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng
phương thức hòa giải ngoài tố tụng ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa
giải ngoài tố tụng trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam.
5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG
1.1. Khái quát về tranh chấp thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại
Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động
thương mại, đó là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong
hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như
hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả
nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm
nhất định đến hoạt động này cũng như các phương thức giải quyết. Tranh
chấp thương mại (hay tranh chấp kinh doanh thương mại) là thuật ngữ quen
thuộc trong đời sống kinh tế - xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này
mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây
bởi sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen
thuộc của cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý
của người Việt Nam.
Tranh chấp có thể biểu hiện ở những dạng sau:
- Tranh chấp trong kinh doanh: được diễn ra giữa các chủ thể tham gia
kinh doanh, đó là tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản xuất đến
tiêu thụ trên thị trường hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi
- Tranh chấp giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư: loại tranh chấp
này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BOT, BTO, BT, thực hiện
điều ước quốc tế khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương hoặc đa
phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong
việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại đa phương, ví dụ tranh chấp
giữa Mỹ và EU về nhập khẩu chuối.
6
Có thể nói trong các loại hình tranh chấp trên thì tranh chấp về thương
mại là loại hình tranh chấp phổ biến nhất
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại
là tranh chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước
thành viên WTO khi một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp
định nào đó của WTO bị triệt tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước thành
viên khác áp dụng một biện pháp thương mại hoặc không thực hiện một nghĩa
vụ; hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định bị cản trở, triệt tiêu hoặc
suy giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của một thành viên
bất kể là biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay không; hoặc khi có
bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt mục tiêu hiệp
định. Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp của WTO khi nó
được chính thức thông báo cho Ban thư ký WTO.
Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là
bất đồng giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ theo các Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được
thông báo chính thức cho Ban thư ký WTO vì vậy nó có đặc điểm sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại trong WTO là tranh chấp thương mại
quốc tế liên quốc gia, liên chính phủ
Thứ hai, các bên tranh chấp là thành viên WTO. Các tổ chức quốc tế,
các cá nhân, pháp nhân không thể là một bên của tranh chấp
Thứ ba, khách thể của tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thỏa thuận của WTO
Thứ tư, tranh chấp phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO.
Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại trong từng giai đoạn là
khác nhau cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Lần đầu tiên khái niệm tranh
chấp thương mại được ghi nhận trong Luật Thương mại năm 1997 tại Điều
238 như sau: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không
7
thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”.
Theo đó, nội hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại
năm 1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương
mại chỉ bao gồm ba nhóm: Hoạt động mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ
thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại. Tranh chấp thương mại và
hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã loại
bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được
coi là tranh chấp thương mại. Vì vậy đã dẫn đến các xung đột pháp luật trong
hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, trong đó có
cả những Công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công
ước New York năm 1958) gây không ít những trở ngại, rắc rối trong thực tiễn
áp dụng và chính sách hội nhập [40].
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 không trực tiếp đưa ra định
nghĩa về tranh chấp thương mại song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt
động thương mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm
về thương mại và tranh chấp thương mại của pháp luật Việt Nam với chuẩn
mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế.
Luật Thương mại năm 2005 đã đưa ra một khái niệm về hoạt động
thương mại theo đó khái niệm này mở rộng hoạt động thương mại bao gồm
tất cả mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này cho thấy khái
niệm về hoạt động thương mại đã thể hiện sự tương đồng với khái niệm kinh
doanh trong Luật Doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005 cũng như Luật
doanh nghiệp năm 2014.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã liệt kê các tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tuy sử dụng
thuật ngữ các tranh chấp kinh doanh, thương mại nhưng về nội hàm thì tương
đồng với các tranh chấp thương mại theo Luật Thương mại năm 2005.
Từ các tiếp cận trên có thể hiểu: tranh chấp thương mại là những mâu
thuẫn, bất đồng, xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể (có thể là
8
thương nhân hoặc không phải là thương nhân) trong quá trình thực hiện các
hoạt động thương mại (các hoạt động có mục đích sinh lời).
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại
Tranh chấp kinh doanh thương mại là tranh chấp phát sinh từ những
quan hệ do ngành luật thương mại điều chỉnh, vì vậy nó có những đặc trưng
khác biệt so với tranh chấp dân sự và tranh chấp lao động. Về cơ bản tranh
chấp kinh doanh thương mại có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (trạng thái xung
đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ thương mại. Quan
hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là điều
kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại,các bên
vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề ra.
Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu.
Thứ hai, những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phải phát
sinh từ hoạt động thương mại. Theo đó, tranh chấp thương mại phải là những
mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác.
Thứ ba, về chủ thể, tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp
phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân, pháp nhân) kinh doanh với nhau.
Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong
những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương
nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại khi trong các giao
dịch trên bên không có mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại
[Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005]. Khoa học pháp lý gọi giao dịch
này là giao dịch hỗn hợp. Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh
lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động
9
thương mại thuần túy, nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp
dụng luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại
và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh
chấp thương mại [65].
Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp thương mại là do các bên trong tranh
chấp tự định đoạt. Điều này thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp có quyền
lựa chọn giải pháp giải quyết tranh chấp phù hợp trong các phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại được pháp luật quy định như thương lượng, hòa
giải, trong tài, Tòa án. Tuy nhiên, các bên vẫn phải đảm bảo tôn trọng lợi ích
của nhau và lợi ích của nhà nước.
Tóm lại, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn phát sinh giữa các
chủ thể (có thể là thương nhân hoặc không) trong quá trình hoạt động thương
mại. Nó đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan của nền kinh tế thị
trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi hỏi cần phải được giải quyết
một cách minh bạch và hiệu quả để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương
mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Cùng với sự phát triển của
các quan hệ kinh tế dưới sự tác động trực tiếp của quy luật cạnh tranh, tranh
chấp thương mại cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại, gay gắt, phức tạp
hơn về tính chất và quy mô. Chính vì thế, việc áp dụng hình thức và phương
thức giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách
quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo
đảm nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa, thông qua đó góp phần tạo môi
trường pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế.
1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại
Giải quyết tranh chấp thương mại có thể được hiểu là việc lựa chọn các
hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột
lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể
chấp nhận được, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm của
10
mình đối với bên bị vi phạm. Hoặc có thể hiểu giải quyết tranh chấp thương
mại là việc các bên tranh chấp thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến
hành các giải pháp nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi
ích trong hoạt động thương mại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Tranh chấp thương mại xảy ra không chỉ ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của các bên trong quan hệ thương mại mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của nền kinh tế đất nước. Việc giải quyết tranh chấp thương mại là
yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế đang ngày càng hội
nhập của Việt Nam, nó cần phải đáp ứng những yêu cầu sau: đảm bảo quyền
tự do kinh doanh của các chủ thể; giữ gìn bí mật kinh doanh và uy tín của các
bên tranh chấp; không làm hạn chế hay cản trở hoạt động thương mại; nhanh
chóng khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác và tín nhiệm của các bên
trong hoạt động thương mại, đảm bảo chi phí giải quyết tranh chấp là ít tốn
kém nhất.
Nói chung, giải quyết tranh chấp thương mại là quá trình các bên trong
quan hệ tranh chấp tìm ra các phương thức, biện pháp để tháo bỏ những
xung đột, mâu thuẫn về lợi ích của các bên. Quá trình giải quyết tranh chấp
này không chỉ giúp các bên bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của họ
mà còn giúp cho nền kinh tế có cơ hội ngày càng phát triển ổn định.
1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại
Một nền kinh tế phát triển là một nền kinh tế ở đó tồn tại những phương
thức giải quyết tranh chấp hiệu quả. Bởi lẽ, suy cho cùng khi tham gia vào
môi trường kinh doanh thương mại, các chủ thể đều theo đuổi tìm kiếm mục
tiêu lợi nhuận, mục tiêu này đã làm các chủ thể có những hành vi xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác hoặc có thể do những lý do
khách quan khác mà nảy sinh tranh chấp giữa các bên trong quan hệ kinh
doanh thương mại. Để thúc đẩy sự tham gia của các chủ thể vào hoạt động
kinh doanh thương mại thì cần có cơ chế giải quyết tranh chấp hữu hiệu để
11
chắc chắn rằng quyền lợi của họ sẽ được bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Giải
quyết tranh chấp thương mại một cách kịp thời và hiệu quả đem lại những lợi
ích sau: 1) Tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế; 2) Cho phép
hạn chế đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt
ở mức chi phí thấp nhất; 3) Bảo vệ một cách có hiệu quả quyền, lợi ích hợp
pháp và chính đáng của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ kinh doanh
thương mại, từ đó tạo niềm tin, thực hiện công bằng và bình đẳng cho các
doanh nghiệp trong nước và nước ngoài [58].
Có thể nói, hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh
chấp hiệu quả đáp ứng nhu cầu trên, hòa giải thương mại đã được sử dụng
phổ biến ở các quốc gia trên thế giới từ nhiều năm nay, đặc biệt là các quốc
gia phát triển. Ở Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp này còn khá
mới và ít được phổ biến như là một phương thức giải quyết thay thế độc lập.
1.2.1. Khái niệm
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đã và
đang là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó,
từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh
hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hóa, đa phương hóa quan
hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Sự hội nhập này đã
mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế Việt Nam, song bên cạnh đó cũng còn
phát sinh nhiều khó khăn, đặc biệt là sự phức tạp của các tranh chấp thương
mại. Vì thế, cần phải có những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
nhanh gọn, tiết kiệm và có thể duy trì được mối quan hệ hợp tác giữa các bên.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải (hay hòa giải thương mại) là
một trong những phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến trên thế giới và
đáp ứng được những yêu cầu về tính hiệu quả như thủ tục nhanh gọn, tiết
kiệm chi phí,… Cùng với thương lượng và trọng tài, hòa giải thương mại
được coi là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thay thế
12
(ADR). Phương thức giải quyết tranh chấp thay thế được hiểu một cách chính
xác những gì mà nó thể hiện đó là phương thức giải quyết tranh chấp thay cho
việc khởi kiện ra tòa [61, tr.196]. Điều này đặt ra câu hỏi là nó thay thế cho
cái gì. Ở đây, “thay thế” hàm nghĩa những khác biệt với hình thức tố tụng của
Tòa án. Ngoài ra, “thay thế” còn hàm ý có một sự tự do lựa chọn, các bên có
quyền lựa chọn sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khác
như thương lượng, hòa giải,…vì những ưu điểm vượt trội của nó so với
phương thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án.
Hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiệu
quả, tuy nhiên hiện nay quan niệm về hòa giải còn nhiều vấn đề chưa thống
nhất và vẫn còn nhiều định nghĩa khác nhau về hòa giải, cụ thể như sau:
Theo từ điển Tiếng Việt “Hòa giải là thuyết phục các bên đồng ý chấm
dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” [48, tr.430]. Khái niệm này
đã đề cập đến hành động và mục đích của hòa giải nhưng chưa nêu được các
yếu tố như bản chất, nội dung và chủ thể của hòa giải.
Theo từ điển Luật học Black’s Law định nghĩa “Hòa giải là sự can
thiệp, sự làm trung gian hòa giải, hành vi của người thứ ba làm trung gian
giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh
chấp giữa họ, việc giải quyết tranh chấp thông qua người trung gian hòa giải
(bên trung lập)” [38. Tr.307]. Định nghĩa này đã nhắc đến chủ thể, bản chất
của hòa giải, khắc phục được một phần hạn chế trong định nghĩa của Từ điển
Tiếng Việt.
Theo định nghĩa của Luật mẫu của Ủy ban Pháp luật thương mại Quốc
tế (UNCITRAL) về hòa giải thương mại thì “Hòa giải là một quá trình trong
đó các bên yêu cầu một hay nhiều bên thứ ba (hòa giải viên) tham gia nỗ lực
hỗ trợ các bên nhằm giải quyết êm thấm tranh chấp phát sinh từ hoặc liên
quan một mối quan hệ trên cơ sở hợp đồng hoặc một mối quan hệ pháp luật
khác. Hòa giải viên không có quyền áp đặt các bên phải thực hiện một giải
pháp giải quyết tranh chấp” [Khoản 3 Điều 1].
13
Theo định nghĩa của giáo trình luật thương mại thì “Hòa giải là
phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung
gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải
pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh” [60, tr.441].
Theo giáo trình pháp luật về cạnh tranh và giải quyết thương mại “Hòa
giải là hình thức giải quyết tranh chấp thương mại có sự tham gia của bên
thứ ba với vai trò làm trung gian để giúp các bên có được tiếng nói chung
trong việc giải quyết các bất đồng” [61, tr.323].
Theo Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương mại
định nghĩa “Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm
trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định
này” [Khoản 1 Điều 3].
Một vài quan điểm khác cho rằng hòa giải còn được hiểu ở góc độ rộng
hơn là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với
nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ. Hòa giải cũng được coi là sự tiếp nối
của quá trình thương lượng trong đó các bên cố gắng điều hòa những ý kiến
bất đồng thông qua sự hỗ trợ của bên thứ ba trung lập.
Có thể thấy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hòa giải, nhưng qua
các khái niệm trên có thể hiểu: “Hòa giải thương mại là một phương thức
giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng
thỏa thuận chấp nhận hay chỉ định giữ vai trò trung gian để hỗ trợ cho các
bên tìm kiếm giải pháp thích hợp giúp chấm dứt những mâu thuẫn, xung đột
đang tồn tại giữa các bên”.
1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải có sự
hiện diện của bên thứ ba đóng vai trò là hòa giải viên để trợ giúp các bên tìm
kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp, xung đột. Đây là điểm khác
biệt cơ bản giữa hòa giải và thương lượng vì thương lượng là việc tự giải
14
quyết tranh chấp giữa các bên mà không có sự xuất hiện của người thứ ba.
Đồng thời đó cũng là điểm khác biệt với phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài và tòa án, hòa giải viên không có quyền phán xét cũng như
không đưa ra bất cứ quyết định hay giải pháp nào ràng buộc các bên tranh
chấp như trọng tài viên và thẩm phán. Hòa giải viên có vai trò là khuyến
khích và trợ giúp các bên đạt được sự thống nhất ý chí và đưa ra quyết định
cuối cùng.
Thứ hai, giống như thương lượng, hòa giải là giải pháp tự nguyện, tùy
thuộc vào sự tự nguyện và thiện ý của các bên tham gia tranh chấp. Tuy
nhiên, quá trình hòa giải các bên tranh chấp cũng vẫn chịu sự chi phối nhất
định mang tính thể thức như điều lệ của Trung tâm hòa giải, các quy định cơ
bản của pháp luật về thủ tục hòa giải. Hòa giải là một cơ chế linh hoạt, mềm
dẻo cho các bên tranh chấp bởi khi sử dụng hòa giải để giải quyết tranh chấp,
mối quan hệ giữa các bên thường thân thiện hơn, giữ được quan hệ hợp tác,
làm ăn trong tương lai. Bởi lẽ, khi sử dụng phương thức hòa giải thì không có
kẻ thắng, người thua mà là đi tìm giải pháp tối ưu để cả hai cùng thắng. Trong
khi đó, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và tòa án phải thực
hiện theo thủ tục tố tụng do pháp luật quy định, sau khi giải quyết tranh chấp
kết quả sẽ có kẻ thắng người thua nên mối quan hệ giữa các bên có thể trở nên
căng thẳng trong tương lai. Chính vì vậy trong thực tiễn hoạt động thương
mại của các nước phát triển, các doanh nhân có xu hướng lựa chọn cách thức
giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại.
Thứ ba, văn bản về kết quả hòa giải thành được xem xét công nhận
theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tức là khi văn bản hòa giải thành
được công nhân bởi Tòa án thì nó có giá trị như một bản án, vì vậy nó có hiệu
lực buộc phải thực hiện.
Từ những đặc điểm trên có thể rút ra được bản chất của hòa giải thương
mại như sau:
15
Hòa giải là quá trình các bên đàm phán với nhau về việc giải quyết
tranh chấp với sự trợ giúp của một bên thứ ba độc lập (hòa giải viên) [64,
Tr.103]. Hòa giải khác với thương lượng ở sự có mặt của bên thứ ba và cũng
khác phương thức trọng tài ở chỗ, hòa giải viên không có quyền xét xử và ra
phán quyết như trọng tài viên. Vai trò của hòa giải viên trong quá trình hòa
giải chỉ dừng lại ở việc khuyến khích và trợ giúp các bên tìm ra một giải pháp
mang tính thực tế mà tất cả các bên liên quan đều có thể chấp nhận sau khi
xem xét, nghiên cứu những lợi ích và nhu cầu của họ.
1.2.3. Nguyên tắc hòa giải
Hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại độc lập với tố tụng tòa án và trọng tài và được tiến hành bởi một cơ quan
có chức năng hòa giải độc lập. Hòa giải thương mại được tiến hành theo
nguyên tắc quy định tại Điều 4 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP như sau:
Thứ nhất, hòa giải mang tính chất tự nguyện, thể hiện ở chỗ các bên tự
nguyện đưa tranh chấp ra hòa giải, không bên nào ép buộc bên nào tham gia
vào. Sự tự nguyện được thể hiện bằng việc các bên có thể quyết định quy
trình hòa giải, quyền tự do thỏa thuận về phương pháp, lựa chọn hòa giải viên,
tự do ý chí về các giải pháp giải quyết tranh chấp, thỏa thuận lựa chọn
phương án giải quyết thích hợp, quyền của các bên chấm dứt hòa giải khi
không đạt được mục tiêu. Hòa giải viên sẽ cung cấp những nhận định, đánh
giá về nội dung vụ tranh chấp cũng như ý kiến tư vấn về cách thức giải quyết
vụ tranh chấp, nhưng những nhận định và ý kiến của hòa giải viên chỉ có tính
chất tham khảo và không có tính chất ràng buộc đối với các bên. Việc các bên
có đi đến thỏa thuận hòa giải hay không và nội dung của thỏa thuận đó sẽ do
các bên tự quyết định.
Thứ hai, nguyên tắc bảo vệ uy tín, các yếu tố bí mật, bí mật kinh doanh
của các bên tranh chấp trong hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại.
Hòa giải là một quá trình giải quyết tranh chấp có tính tự nguyện, riêng
tư mà ở đó các bên có thể trao đổi trực tiếp, thẳng thắn với nhau về các tài
16
liệu, chứng cứ liên quan đến tranh chấp trong đó có cả những vấn đề về bí
mật kinh doanh. Trong quá trình hòa giải các bên cùng nhau thảo luận về các
phương án khác nhau do hòa giải viên đưa ra, chủ động đưa ra những yêu cầu
hoặc nhượng bộ để đạt tới một giải pháp dung hòa lợi ích của hai bên. Điều
đó giữ gìn được uy tín của mỗi bên vừa duy trì mối quan hệ thương mại lâu
dài, do đó việc bảo toàn bí mật, tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các bên và của
hòa giải viên trong quá trình hòa giải là điều vô cùng quan trọng. Bởi nếu hòa
giải không được thì tài liệu, bí mật của các bên sẽ có nguy cơ lộ ra, do vậy các
bên cần có tinh thần hợp tác thân thiện để các bên an tâm tiến hành hòa giải.
Thứ ba, đảm bảo tính khách quan, phù hợp quy định của pháp luật và
các tập quán thương mại quốc tế, không trái thuần phong mỹ tục và đạo đức
xã hội, không xâm phạm đến quyền lợi ích của bên thứ ba.
Tính khách quan thể hiện ở chỗ bên thứ ba làm trung gian hòa giải phải
đảm bảo sự tin cậy của các bên với những tư vấn, đề xuất phương án giải
quyết của hòa giải viên. Hòa giải viên không được thể hiện thái độ thiên vị
đối với bất cứ bên tranh chấp nào trong việc điều khiển quá trình hòa giải
cũng như trong việc đưa ra các nhận định hay ý kiến tư vấn. Trong trường
hợp một trong các bên thấy hòa giải viên thiên vị vi phạm nguyên tắc khách
quan, bên đó có quyền yêu cầu thay đổi hòa giải viên hoặc yêu cầu chấm dứt
và rút lui khỏi quá trình hòa giải.
Hơn nữa trong quá trình hòa giải phải đảm bảo thỏa thuận hòa giải
không trái với thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Đặc biệt thỏa thuận hòa
giải còn không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.
Ví dụ: Các quan hệ tranh chấp kinh doanh thương mại giữa các bên có liên
quan trực tiếp đến người tiêu dùng, thì thỏa thuận hòa giải giữa các bên phải
không xâm phạm đến quyền lợi chính đáng mà người tiêu dùng được hưởng.
1.2.4. Ưu và nhược điểm
Về ưu điểm:
17
Thứ nhất, hòa giải thương mại linh hoạt về thủ tục. Hòa giải có thể
được tiến hành trong nhiều môi trường khác nhau, thủ tục có thể được thỏa
thuận và điều chỉnh cho thích nghi. Tính linh hoạt đem lại lợi thế là các bên
được bày tỏ ý kiến xem quá trình nào thì phù hợp với họ; cho phép có những
điều chỉnh khi bản chất của tranh chấp và các bên tranh chấp đòi hỏi phải vậy;
tránh khả năng về việc có những yêu cầu về thủ tục kỹ thuật quá phức tạp.
Trong hòa giải thường không có quy định nào về chứng cứ và cũng không có
quy định về kiểm chứng cũng như xem xét về mặt thủ tục.
Thứ hai, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
đáp ứng nhu cầu phổ biến của các nhà kinh doanh là khi tranh chấp phát sinh,
các bên muốn tự thương lượng hoặc thông qua người thứ ba trung lập để giải
quyết tranh chấp theo con đường hữu nghị chứ không muốn dựa vào hình
thức tài phán (Tòa án hay Trọng tài) để phân xử các tranh chấp ngay từ ban
đầu. Hòa giải được tiến hành trên cơ sở ý chí tự nguyện của các bên tranh
chấp, không ai có thể hiểu rõ mọi tình tiết, nguyên nhân tranh chấp bằng
chính các bên tranh chấp, do đó, sẽ có khả năng giải quyết tranh chấp một
cách nhanh chóng. Bên cạnh đó hòa giải đảm bảo sự tham gia đầy đủ, trực
tiếp của các bên, khuyến khích các bên dàn xếp với nhau, bày tỏ nguyện vọng
của mình nên sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian và quan trọng là khi hòa giải
thành, không có kẻ thằng người thua như khi giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài hoặc tòa án nên không gây ra tình trạng đối đầu, vẫn duy trì được mối
quan hệ hợp tác, làm ăn giữa các bên.
Thứ ba, bên thứ ba là hòa giải viên do các bên lựa chọn nên thường là
những người có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực thương mại. Vì vậy,
họ dễ dàng nắm bắt được nguyện vọng của các bên tranh chấp, từ đó biết cách
làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để giải quyết
tranh chấp một cách thuyết phục và có tính khả thi, cơ hội thành công cao.
Ngoài ra, kết quả hòa giải được ghi nhận và chứng kiến bởi người thứ ba nên
18
mức độ tôn trọng và tự nguyện thực hiện các cam kết đạt được trong hòa giải
sẽ cao hơn so với thương lượng.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng hòa giải đảm bảo sự kín đáo và tính
bảo mật thể hiện ở việc: phiên họp hòa giải được tổ chức kín, không công
khai, người ngoài chỉ có thể biết được trình tự thủ tục và nội dung nếu được
các bên đồng ý; không công bố công khai nội dung được trao đổi trong phiên
họp; việc công bố điều khoản giải quyết là vấn đề phải được hai bên thỏa
thuận.
Thứ tư, kết quả hòa giải thành khi được một hoặc các bên yêu cầu tòa
án công nhận thì nó có giá trị buộc các bên phải thi hành y như một bản án.
Điều này tránh tình trạng kết quả hòa giải chỉ là trên giấy còn việc thực thi
hay không là quyền của các bên. Mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể về việc thi
hành kết quả hòa giải thành khi được tòa án công nhận, nhưng về cơ bản bước
đầu đã có một cơ quan có thẩm quyền đứng ra công nhận quyết định hòa giải
thành được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nhược điểm
Tuy hòa giải thương mại có nhiều ưu điểm vượt trội song vẫn còn tồn
tại một số những hạn chế sau. Trong quá trình hòa giải vẫn cần sự thiện chí và
hợp tác của các bên, bởi lẽ nếu không có sự hợp tác, thấu hiểu nhau thì các
bên có thể tự ý chấm dứt hòa giải vào bất cứ giai đoạn nào. Như vậy không
những mục đích hòa giải không đạt được mà còn trì hoãn, kéo dài thời gian
giải quyết tranh chấp có thể gây thiệt hại cho các bên.
1.2.5. Các phương thức hòa giải
Theo thông lệ chung thì hòa giải được tiến hành cả ngoài tố tụng và
trong tố tụng của tòa án hoặc trọng tài:
Hòa giải trong thủ tục tố tụng: là việc hòa giải được tiến hành tại Tòa
án, trọng tài khi các cơ quan này tiến hành giải quyết tranh chấp theo đơn kiện
của một bên. Trường hợp hòa giải thành, thẩm phán hoặc trọng tài viên sẽ ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên, quyết định này có hiệu lực
19
và được thi hành như một bản án của tòa án hay phán quyết của trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, hoạt động hòa giải trong tố tụng tại Tòa án được
ghi nhận và quy định trong BLTTDS 2015, từ các Điều 205 đến Điều 213.
Hoạt động hòa giải trong tố tụng tại trọng tài được quy định cụ thể tại Điều 58
Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên, như đã chỉ ra trong phạm vi
nghiên cứu đề tài, Khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu về hòa giải ngoài tố tụng
với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập.
Hòa giải ngoài tố tụng là hình thức hòa giải qua bên thứ ba, được các
bên tiến hành trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ quan tài phán như Tòa án
hoặc Trọng tài hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp
ngoài tố tụng. Đối với hòa giải thương mại pháp luật một số quốc gia trên thế
giới coi đây là công việc riêng của các bên nên không điều chỉnh trực tiếp và
chi tiết. Các bên tranh chấp thông tin cho nhau và trình bày quan điểm của
mình, hòa giải viên hướng các bên tham gia vào việc tìm kiếm những giải
pháp thích hợp nhằm loại trừ những ý kiến bất đồng, những xung đột về lợi
ích phát sinh giữa các bên. Sự nhất trí trong giải quyết tranh chấp được thể
hiện bằng văn bản, có sự xác nhận của bên thứ ba hòa giải và có giá trị ràng
buộc với các bên tham gia.
Nếu so sánh phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trong
tài, thì hòa giải ngoài tố tụng cũng có hai phương thức cơ bản là hòa giải vụ
việc và hòa giải quy chế, cụ thể:
Hòa giải vụ việc là phương thức hòa giải mà trong đó việc tổ chức và
giám sát do các bên tự quy định không có sự trợ giúp của bất kỳ tổ chức hoặc
người hòa giải thứ ba nào [61, tr.270]. Các bên có thể tự thỏa thuận để xây
dựng trình tự thủ tục hòa giải hoặc thống nhất thỏa thuận lựa chọn Quy tắc
hòa giải của bất kỳ trung tâm hòa giải nào.
Hòa giải quy chế do một tổ chức, hoặc trung tâm hòa giải chuyên
nghiệp, giám sát tố tụng trọng tài tiến hành, phải tuân theo quy tắc hòa giải
riêng của tổ chức hòa giải đó [60, tr.284]. Ví dụ quy tắc hòa giải của Trung
20
tâm hệ thống trọng tài Châu Âu - Ả Rập có hiệu lực từ ngày 17/12/1997 là
quy tắc hòa giải được trung tâm này sử dụng để hòa giải tranh chấp khi có yêu
cầu của các bên, quy trình về hòa giải được quy định từ Điều 11 đến Điều 18.
Ngoài ra, qua thực tiễn tổ chức, hoạt động hòa giải ở một số nước, căn
cứ vào tổ chức đứng ra thực hiện việc hòa giải, hòa giải được chia ra thành
hai hình thức là hòa giải công (public mediation) và hòa giải tư (private
mediation). Hòa giải công do các cơ quan nhà nước, chủ yếu là do tòa án
đứng ra thực hiện. Hòa giải tư thường do các tổ chức trọng tài thương mại
hoặc các tổ chức hòa giải thương mại chuyên nghiệp tiến hành, hay các bên
cũng có thể yêu cầu các cá nhân đứng ra hòa giải (thường là chuyên gia về
hòa giải hoặc lĩnh vực đang có tranh chấp) [60, tr.43]
1.2.6. Quy trình hòa giải
Trên thực tế không có một quy trình hòa giải mang tính thống nhất trên
toàn thế giới mà mỗi trung tâm hòa giải và mỗi hòa giải viên sẽ áp dụng
những quy trình riêng phù hợp với nội dung và tính chất của vụ tranh chấp
[49]. Để có thể tiến hành quy trình hòa giải thì đầu tiên giữa các bên có thỏa
thuận rằng sẽ dùng biện pháp hòa giải để giải quyết tranh chấp hay nói một
cách khác quy trình hòa giải thường bắt đầu bằng việc hai bên tranh chấp
cùng đề nghị hòa giải với hòa giải viên hoặc một tổ chức hòa giải; một bên
cũng có thể đơn phương liên hệ với hòa giải viên hoặc với một tổ chức hòa
giải để yêu cầu tiến hành hòa giải, khi đó hòa giải viên hoặc tổ chức hòa giải
sẽ liên hệ và thuyết phục phía bên kia tham gia hòa giải. Việc hòa giải chỉ
được tiến hành sau khi có sự đồng ý của cả hai bên tranh chấp.
Về cơ bản quy trình hòa giải được tiến hành theo trình tự như sau:
Bước 1: Lựa chọn người hòa giải
Các bên tranh chấp phải thảo luận thống nhất lựa chọn hòa giải viên.
Việc lựa chọn được hòa giải viên giỏi là phần rất quan trọng vì hòa giải viên
có kiến thức chuyên môn, khéo léo trong giao tiếp, nắm vững pháp luật và
thực tế của vụ tranh chấp sẽ được các bên đương sự tin cậy và giúp cho các
21
bên giải quyết tranh chấp một cách có nhanh chóng. Sau khi lựa chọn được
hòa giải viên, hòa giải viên sẽ tiếp tục tiến hành đến bước sau
Bước 2: Hòa giải viên tìm hiểu mâu thuẫn
Trước khi tiến hành hòa giải, hòa giải viên được tự do liên lạc hoặc gặp
riêng từng bên, yêu cầu mỗi bên cung cấp thông tin và các văn bản có liên
quan đến vụ tranh chấp để hòa giải viên có thể nắm vững và tìm hiểu về tranh
chấp một cách chính xác.
Bước 3: Giải quyết mâu thuẫn
Qua bản tường trình, tài liệu mà các bên đã nộp cùng ý kiến trình bày
với biên bản tại các cuộc họp giữa các bên, hòa giải viên có thể xác định được
mâu thuẫn, những quan điểm khác nhau của các bên về vụ việc tranh chấp. Từ
đó, hòa giải viên có thể nhìn nhận và khám phá tìm hiểu rõ nguyện vọng và
những lợi ích chung của các bên tranh chấp. Tiếp theo, hòa giải viên sẽ sắp
xếp, tổ chức phiên hòa giải cho các bên tranh chấp thương lượng cùng nhau
và đi đến thỏa thuận. Trong phiên hòa giải, các bên trình bày ý kiến, quan
điểm của mình về nội dung vụ tranh chấp, lắng nghe ý kiến của bên kia và đề
xuất phương án giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp các bên không đề
xuất được phương án thì hòa giải viên sẽ áp dụng các kỹ năng và hiểu biết của
mình để gợi ý các giải pháp nhất định. Nếu các bên đạt được thỏa thuận, hòa
giải viên sẽ giúp các bên soạn thảo thỏa thuận hòa giải thành một cách chi
tiết, người đại diện hợp pháp của các bên tranh chấp và hòa giải viên sẽ ký
vào biên bản. Văn bản thỏa thuận này có giá trị pháp lý như một hợp đồng,
ràng buộc các bên đã ký kết các bên phải tôn trọng và thi hành cam kết. Như
vậy, bằng việc ký vào văn bản thỏa thuận hòa giải thành, các bên kết thúc
tranh chấp và bị ràng buộc bởi thỏa thuận hòa giải thành đó.
Quá trình hòa giải sẽ chấm dứt vào ngày mà các bên ký vào văn bản
thỏa thuận hòa giải thành. Ngoài ra, một trong các bên hoặc bản thân hòa giải
viên có quyền chấm dứt hòa giải vào bất cứ giai đoạn nào của quá trình hòa
giải khi thấy việc hòa giải sẽ không mang lại hiệu quả, hoặc quá trình hòa giải
22
kết thúc vào ngày mà một hoặc các bên đưa vụ tranh chấp đang là đối tượng
của quá trình hòa giải kiện tại Tòa án hoặc Trọng tài. Một điều cần lưu ý là
trong quá trình hòa giải, các bên phải cam kết không tiến hành bất cứ tố tụng
trọng tài hoặc tòa án nào đối với tranh chấp đang là đối tượng của quá trình
hòa giải và toàn bộ quá trình hòa giải phải được giữ bí mật, các bên tranh
chấp và hòa giải viên không được tiết lộ các thông tin có liên quan đến quá
trình hòa giải cho người khác, trừ khi các bên đã đồng ý.
1.2.7. Hình thức pháp lý và hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành
Thỏa thuận hòa giải thành về mặt bản chất là một cam kết thỏa thuận
giữa các bên về việc thực hiện (không thực hiện) nghĩa vụ nào đó để giải
quyết tranh chấp. Nó hoàn toàn mang tính chất của một hợp đồng. Đây là
cách tiếp cận hiện nay của Luật mẫu.
Trên thế giới việc thi hành thỏa thuận hòa giải vẫn còn là một vấn đề
đáng quan tâm. Kết quả hòa giải thành được ghi nhận vào thỏa thuận hòa giải,
thỏa thuận hòa giải này được coi là một hợp đồng có hiệu lực ràng buộc các
bên. Hiệu lực của thỏa thuận hòa giải ràng buộc như một hợp đồng được điều
chỉnh theo pháp luật hợp đồng [53]. Trong trường hợp hợp đồng này không
được tôn trọng thi hành bởi một trong các bên, bên kia có thể yêu cầu tòa án
thi hành như việc vi phạm hợp đồng. Vậy liệu tòa án có xem xét và phải xét
xử lại trong một vụ kiện về thỏa thuận hòa giải thành này không?
Thỏa thuận hòa giải thành không được coi là một phán quyết trọng tài
và do vậy không thể thi hành như phán quyết trọng tài theo công ước New
York 1985 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. Tuy
nhiên, một bản công nhận thỏa thuận của các bên thông qua hòa giải trong
phiên trọng tài thì có khả năng được thi hành theo công ước New York 1985.
Tại Châu Âu, vì thông tri của EU ngày 21/5/2008 về một số khía cạnh
hòa giải thương mại và dân sự, nhiều nước EU đã ban hành các đạo luật bảo
đảm rằng các thỏa thuận hòa giải được công nhận và thi hành bởi các nước
thành viên như là phán quyết của Tòa án.
23
Tại Điều 417 BLTTDS 2015 quy định về điều kiện công nhận kết quả
hòa giải thành ngoài Tòa án như sau:
Thứ nhất, các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành
vi dân sự
Thứ hai, các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa
vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa
giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được
người thứ ba đồng ý.
Thứ ba, một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu tòa án công nhận
Thứ tư, nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự
nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không
nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba
Như vậy, thỏa thuận hòa giải thành có giá trị như một hợp đồng và
quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có thể được thi
hành như một bản án, tức là nó có giá trị ràng buộc thực hiện với các bên.
1.2.8. Vai trò, chức năng và ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết
tranh chấp thương mại
1.2.8.1. Vai trò, chức năng của hòa giải thương mại
Hòa giải thương mại có những chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, hòa giải là biện pháp có tác dụng giảm thiểu mâu thuẫn, xung
đột giữa các bên. Khi xảy ra tranh chấp ai cũng đặt lợi ích của mình lên hàng
đầu và không chịu nhường nhịn ai khiến mâu thuẫn trở nên ngày càng gay
gắt. Lúc này sự có mặt của bên thứ ba trung gian sẽ làm dịu đi những mâu
thuẫn, các bên bình tĩnh hơn, suy xét kỹ hơn và họ luôn hiểu rằng người ngoài
cuộc sẽ có cái nhìn khách quan hơn. Hòa giải đem lại cơ hội cho các bên trình
bày, giải thích và đưa ra lời xin lỗi với nhau. Sự tham gia trực tiếp của các
bên tranh chấp trong hòa giải là rất cần thiết vì nó đề cao được tinh thần, trách
nhiệm của các bên đối với các lựa chọn của mình.
24
Thứ hai, hòa giải là cách thức thể hiện và bảo đảm quyền tự do lựa
chọn cơ quan giải quyết tranh chấp. Từ khi Việt Nam chuyển đổi nền kinh tế
tập trung sang kinh tế thị trường có sự tham gia nhiều thành phần kinh tế thì
hoạt động kinh doanh thương mại trở nên đa dạng và phong phú. Cá nhân, tổ
chức tham gia vào hoạt động thương mại có quyền tự do lựa chọn loại hình
kinh doanh, phương thức kinh doanh, đối tác kinh doanh và phương thức giải
quyết tranh chấp. Các bên tranh chấp có thể lựa chọn các phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại như thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc tòa
án. Riêng đối với hòa giải các bên có thể lựa chọn hòa giải trong tố tụng hoặc
hòa giải ngoài tố tụng.
Thứ ba, hòa giải thương mại là tìm cách cứu vãn mối quan hệ giữa các
bên. Khi các bên xảy ra tranh chấp thường có xu hướng rất căng thẳng, mà
đặc tính của kinh doanh là làm bạn với tất cả các đối tác có khả năng sinh lời
cho mình. Vì thế, cần lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp ôn hòa,
khi đó mối quan hệ hợp tác giữa các bên sẽ không bị phá vỡ trong tương lai.
Hòa giải thương mại làm được điều đó.
Thứ tư, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho các bên, với
thủ tục giải quyết nhanh, linh hoạt, chi phí thấp mà hiệu quả lại cao. Như vậy,
công việc kinh doanh của các bên sẽ không bị trì hoãn, không gây những thiệt
hại không mong muốn.
1.2.8.2. Ý nghĩa của hòa giải thương mại
Mặc dù còn có nhiều ý kiến tranh luận về vai trò, ý nghĩa của hòa giải
thương mại nhưng không thể phủ nhận những lợi ích mà hòa giải thương mại
mang lại
Thứ nhất, hòa giải là cách thức giữ gìn mối quan hệ làm ăn kinh doanh
lâu dài, khôi phục quan hệ giữa các bên, tìm thấy sự thông cảm. Các bên có
thể đưa ra những yêu cầu, sự nhượng bộ để cùng nhau đạt được mục đích,
duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài. Hòa giải mang tính chất riêng tư, bí mật
25
góp phần tạo nên sự an tâm, thoải mái, cởi mở hơn giữa các bên tranh chấp,
hạn chế tâm lý được – thua do mất mát thể diện, uy tín với bạn hàng.
Thứ hai, hòa giải là biện pháp tiết kiệm chi phí, vật chất, thời gian của
nhà nước, xã hôi, của tổ chức kinh tế. Khi có tranh chấp xảy ra, các bên phải
huy động nguồn lực, chi phí, thời gian, công sức, tiền bạc, huy động nhiều cơ
quan chức năng chuyên môn có thẩm quyền, huy động người và phương tiện
để thực hiện giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải trên nguyên tắc tự do thỏa thuận, tự do định đoạt, các bên sẽ tự đề
xuất các giải pháp và thỏa hiệp với nhau theo trình tự thủ tục tự chọn, để giải
quyết các bất đồng phát sinh mà không bắt buộc phải tuân theo một quy định
nào, do đó quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra gọn nhẹ.
Thứ ba, hòa giải là phương thức phổ biến, giải thích pháp luật góp phần
làm lành mạnh các quan hệ kinh tế - xã hội. Bên thứ ba làm trung gian hòa
giải sẽ tác động nhận thức và nâng cao hiểu biết pháp luật của các bên, giúp
các bên tranh chấp nhận thức rõ địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ, hậu quả
pháp lý để các bên hành xử văn minh, đúng pháp luật để giảm thiểu những
hậu quả xảy ra như trong quá khứ.
1.2.9. Lịch sử hình thành và phát triển chế định hòa giải thương
mại ở Việt Nam
Cũng như các quốc gia trên thế giới, hòa giải tranh chấp thương mại ở
Việt Nam xuất hiện cùng với sự xuất hiện của hoạt động kinh doanh thương
mại. Bởi khi xảy ra mâu thuẫn giữa các bên trong giao thương buôn bán các
bên thường tự giải quyết với nhau bằng con đường thương lượng, thỏa thuận.
Lúc này hòa giải đã manh mún hình thành nhưng không được định nghĩa cụ
thể và quy định rõ ràng.
Chế định pháp luật hòa giải có sự thay đổi về mặt nội dung qua mỗi
giai đoạn, tùy thuộc vào từng thời kì phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta có
thể nhận thấy ngay từ giai đoạn đầu các quy định pháp luật về hòa giải tại
Việt Nam chỉ đề cập đến hòa giải trong tố tụng với vai trò của người thứ ba
26
thực hiện hòa giải là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giải quyết tranh
chấp chủ yếu được thực hiện trong tố tụng bởi người ta tin tưởng vào quyền
lực nhà nước và xem quyền lực nhà nước có giá trị cao nhất, buộc các bên
phải thi hành. Hòa giải ngoài tố tụng dường như ít được quan tâm hơn, bởi
phương thức giải quyết tranh chấp này được thực hiện chủ yếu dựa trên mối
quan hệ làm ăn lâu năm và sự tin tưởng của các bên.
Hầu như thời gian đầu pháp luật không đề cập cũng như khuyến khích
các bên tự hòa giải. Phương thức hòa giải ngoài tố tụng (hòa giải thương mại)
được hình thành, phát triển và định hình trong quy định pháp luật trong thế kỷ
XXI, khi kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ, sự giao lưu thương mại ngày
càng nhiều và tranh chấp ngày càng đa dạng. Kinh tế trong nước phát triển
hội nhập cùng kinh tế thế giới và giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ngoài tố
tụng được các nước phát triển xem là điều kiện tiên quyết trước khi các bên
đưa tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan tố tụng, nhằm giảm tải cho cơ
quan quyền lực nhà nước và duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa các bên
tranh chấp.
Về phương diện pháp lý, một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên như các Hiệp định bảo hộ và khuyến khích đầu tư, Hiệp định
thương mại song phương và đa phương cũng quy định hòa giải là một trong
các biện pháp cần được ưu tiên khi giải quyết các tranh chấp phát sinh [41].
Cam kết về dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) cũng bao gồm cam kết đối với dịch vụ hòa giải thương mại [55].
Trong pháp luật quốc gia, phương thức hòa giải mới chỉ được ghi nhận rất sơ
lược trong các văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thương
mại 2005, Luật Đầu tư 2005, Luật trọng tài thương mại 2010. Điều 12 Bộ luật
Dân sự Việt Nam 2005 quy định: “Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa
các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích”. Điều 317
Luật Thương mại 2005 quy định “Hòa giải là một trong các phương thức giải
quyết tranh chấp trong thương mại”. Điều 12 Luật Đầu tư 2005 quy định
27
“Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam được giải quyết
thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc tòa án theo quy định của
pháp luật”. Điều 9 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định “Trong quá
trình tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do thương lượng, thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải
để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp”. Mặc dù từ
năm 1998, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải
cơ sở, nay được thay bằng Luật Hòa giải cơ sở năm 2013, hình thức hòa giải
cộng đồng được đề cập trong các văn bản pháp luật này không thực sự gắn kết
với hoạt động thương mại, mà việc hòa giải được tiến hành thông qua Tổ
chức hòa giải và hòa giải viên chỉ nhằm giúp giải quyết các tranh chấp nhỏ
nhặt phát sinh liên quan đến đời sống hàng ngày ở các khu dân cư [30]. Dù
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã thể hiện chủ trương “khuyến khích giải quyết
một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ
bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”, nhưng vẫn còn thiếu các quy
định điều chỉnh trực tiếp, toàn diện hòa giải thương mại như một phương thức
giải quyết tranh chấp độc lập với trọng tài và tòa án.
Trong bối cảnh thiếu vắng khung pháp lý điều chỉnh phương thức hòa
giải thương mại, việc gấp rút xây dựng một Nghị định quy định trực tiếp về
hòa giải thương mại theo như chỉ đạo của Thủ tướng tại Quyết định số
808/QĐ-TTg ngày 29/6/2012 về việc ban hành Chương trình hành động thực
hiện Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm
2020 là hết sức cần thiết. Nghị định này sẽ tạo hành lang pháp lý để khuyến
khích việc sử dụng hòa giải như một trong những phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại, góp phần giảm tải cho hoạt động xét xử của tòa án.
Việc ban hành Nghị định riêng về hòa giải thương mại cũng tạo cơ sở pháp lý
cho việc hình thành, phát triển các tổ chức hòa giải và thể chế hóa cam kết
của Việt Nam khi gia nhập WTO. Từ chủ trương đó, Nghị định số
28
22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương mại đã ra đời quy định cụ thể
về trình tự, thủ tục của hòa giải thương mại.
Trên đây là những vấn đề lý luận cơ bản nhất về phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại với tư cách là một
phương thức giải quyết tranh chấp độc lập và những ưu điểm, hạn chế của
phương thức này. Không có phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
nào là ưu điểm tuyệt đối và việc quyết định lựa chọn hình thức giải quyết
tranh chấp nào bên cạnh việc xem xét những ưu điểm, nhược điểm của từng
hình thức mà còn xem xét từng trường hợp tranh chấp để tìm ra phương pháp
hiệu quả nhất nhưng phải đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật. Như
vậy, hòa giải thương mại ngoài tố tụng là phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước, mà chủ yếu được giải
quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt của các bên tranh chấp theo thủ
tục linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp.
29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG Ở
VIỆT NAM
2.1. Quy định pháp luật đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải.
Việt Nam đổi mới từ năm 1986, từ đó xuất hiện nền kinh tế nhiều thành
phần. Có thể nói, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế
thế giới. Từ khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế
giới, Việt Nam luôn thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, đồng thời không
ngừng cải thiện môi trường pháp lý nhằm tạo cơ hội, điều kiện cho các cá
nhân, doanh nghiệp trong nước cũng như quốc tế thuận lợi trong hoạt động
thương mại. Các quan hệ thương mại càng phát triển thì không tránh khỏi
những mâu thuẫn, tranh chấp đòi hỏi phải được giải quyết một cách kịp thời
và thỏa đáng, có như thế mới tạo được lòng tin và sự yên tâm đầu tư kinh
doanh của các thương nhân và các doanh nghiệp. Vì lý do này, Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã có những chính sách đổi mới trong hoạt động giải quyết
tranh chấp thương mại nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nhiều cơ
hội lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và phù hợp với thông lệ,
tập quán quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và những văn bản pháp luật
mà Việt Nam đã ban hành.
2.1.1. Các cam kết quốc tế của Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương
mại bằng hòa giải.
Tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng thúc đẩy sự phát triển của các
quan hệ ngoại giao đa phương của Việt Nam, điều này góp phần nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao thì
hiện nay với chính sách mở cửa, Việt Nam đã là thành viên của 63 tổ chức
quốc tế và có quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Việt
Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại Liên hợp quốc, phát
huy vai trò thành viên tích cực của phong trào Không liên kết, Cộng đồng các
30
nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN và đặc biệt là sau 11 năm đàm phán,
ngày 11/1/2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
WTO [46]. Những kết quả đạt được trong mối quan hệ đan xen này đã củng
cổ tạo ra thế chủ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế, góp phần trong việc
bảo vệ độc lập, tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây dựng đất nước. Với
tình hình đó Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại với các quốc gia.
Một trong những nội dung quan trọng nhằm bảo đảm cho các quan hệ thương
mại trong các Hiệp định thương mại là các quy định về giải quyết tranh chấp
phát sinh như:
Trong phạm vi quốc tế
-Hiệp định giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO (Dispute
Settlement Understanding – DSU) được ghi nhận tại phụ lục 2 của Hiệp định
Marrakesh tại Vòng đàm phán Uruguay. DSU là sự kế thừa các quy định về
giải quyết tranh chấp đã từng phát huy tác dụng gần 50 năm qua trong lịch sử
GATT 1947 và đã thiết lập một trình tự thủ tục thống nhất, mang tính bắt
buộc cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh đối với tất cả các thành viên khi
tham gia vào WTO. Theo DSU thì các tranh chấp có thể được giải quyết
thông qua hình thức tham vấn, trung gian, hòa giải, trọng tài hoặc trước Ban
hội thẩm và cơ quan phúc thẩm. Riêng đối với thủ tục hòa giải thì được DSU
quy định tại khoản 10 Điều 3, khoản 7 Điều 12 và được quy định riêng thành
một điều tại Điều 5 của Hiệp định, cụ thể:
Theo khoản 10 Điều 3 DSU quy định “Được hiểu rằng yêu cầu hòa
giải và việc sử dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp không được nhằm mục
đích hoặc được xem là những hành vi gây bất đồng và nếu có tranh chấp phát
sinh, tất cả Thành viên phải tham gia một cách thiện chí vào những thủ tục
này để nỗ lực giải quyết tranh chấp”
Tại Điều 5 DSU quy định:
“1. Môi giới, hòa giải và trung gian là những thủ tục được tiến hành tự
nguyện, nếu các bên tranh chấp đồng ý như vậy.
31
2. Việc môi giới, hòa giải và trung gian, và đặc biệt là quan điểm của
các bên tranh chấp trong việc này phải được giữ bí mật và không làm phương
hại đến quyền của bất cứ bên nào trong những bước tố tụng tiếp theo những
thủ tục này.
3. Bất cứ bên tranh chấp nào đều có thể yêu cầu môi giới, hòa giải
hoặc trung gian vào bất cứ lúc nào. Những thủ tục này có thể được bắt đầu
và chấm dứt vào bất kỳ thời điểm nào. Một khi những thủ tục này đã chấm
dứt, bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm.
4. Khi thủ tục môi giới, hòa giải hoặc trung gian được tiến hành trong
thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn, bên nguyên đơn
phải cho phép một thời hạn là 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham
vấn trước khi yêu cầu thành lập ban hội thẩm. Bên nguyên đơn có thể yêu cầu
thành lập ban hội thẩm trong thời hạn 60 ngày này, nếu các bên có tranh
chấp cùng cho rằng môi giới, hoà giải hoặc trung gian đã không thể giải
quyết được tranh chấp.
5. Nếu các bên tranh chấp đồng ý, thì thủ tục môi giới, hòa giải hoặc
trung gian có thể được tiếp tục ngay cả khi ban hội thẩm tiến hành tố tụng.
6. Tổng Giám đốc có thể, trên cương vị công tác chính thức của mình,
đưa ra sáng kiến về việc mình phải làm người môi giới, người hòa giải hoặc
trung gian nhằm giúp các Thành viên giải quyết tranh chấp”
Tại khoản 7 Điều 12 DSU quy định: “ Khi các bên tranh chấp không
tìm ra được một giải pháp thỏa đáng cho cả hai bên, thì ban hội thẩm phải đệ
trình bản ý kiến của mình dưới dạng báo cáo bằng văn bản lên DSB. Trong
trường hợp như vậy, bản báo cáo của ban hội thẩm phải đưa ra các ý kiến về
các tình tiết, về khả năng áp dụng các điều khoản liên quan và lý lẽ đằng sau
bất cứ kết luận và khuyến nghị nào được đưa ra. Nếu có sự hoà giải giải
quyết vấn đề giữa các bên tranh chấp, thì bản báo cáo của ban hội thẩm phải
được hạn chế ở mức mô tả ngắn gọn về vụ việc này và báo cáo rằng đã đạt
được một giải pháp”
32
Bằng những quy định trên phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa
giải được DSU đặc biệt quan tâm và khuyến khích sử dụng. Theo đó, thủ tục
hòa giải mang tính chất không chính thức, nó được tiến hành một cách tự
nguyện nếu các bên tranh chấp đồng ý. Những giai đoạn trong hòa giải được
thực hiện một cách kín đáo, hơn thế nữa các bên có thể tiến hành hòa giải ở
bất cứ giai đoạn nào kể cả khi Ban hội thẩm đã được thành lập và đã tiến hành
tố tụng. Nhìn chung cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mang đậm tính
chất hòa giải, bởi lẽ Ban hội thẩm không đưa ra phán quyết mà chỉ đưa ra một
“báo cáo”, báo cáo này không có giá trị bắt buộc và sẽ được xem xét chung
cuộc bởi một cơ quan mang tính chính trị là các bên ký kết.
- Công ước về Công nhận và Thi hành các phán quyết của Trọng tài
Quốc tế. Đây là một Công ước quốc tế có tầm quan trọng bậc nhất đối với
hoạt động trọng tài thương mại trên thế giới
- Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp. Tuy Công ước không
có những quy định về giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, nhưng nếu trong
quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài các bên hòa giải và thỏa thuận
được thì vẫn được trọng tài công nhận. Do đó, quyết định của Trọng tài vẫn
được thi hành tại bất cứ nơi nào trên các nước thành viên của công ước. Hiểu
rõ tầm quan trọng của công ước, Việt Nam đã tham gia Công ước vào năm
1995, mà cụ thể là ngày 28/7/1995 Chủ tịch nước CHXHCNVN đã ra Quyết
định số 453/QĐ-CTN phê chuẩn việc tham gia Công ước về công nhận và thi
hành quyết định của trọng tài nước ngoài và bảo lưu 3 điều.
Trong phạm vi khu vực và Asean và các đối tác kinh tế khác.
Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp Asean ngày 20/11/1996
nhằm tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực hợp tác kinh tế
ASEAN. Ngoài hình thức tham vấn được quy định tại Điều 2 thì tại Điều 3
của Nghị định thư quy định về giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa
giải, theo đó vào bất kì thời điểm nào, các Quốc gia thành viên là các bên
tranh chấp cũng được quyền chấp nhận các hình thức dàn xếp, hòa giải hoặc
33
trung gian hòa giải. Các hình thức này có thể bắt đầu vào bất kì lúc nào và
cũng có thể chấm dứt vào bất kỳ lúc nào. Một khi thủ tục dàn xếp, hòa giải
hoặc trung gian hòa giải đã chấm dứt thì bên khiếu nại mới được tiến hành
đưa vấn đề lên Hội nghị các quan chức kinh tế cấp cao (SEOM).
Hiệp định về cơ chế giải quyết tranh chấp thuộc hiệp định khung về
hợp tác kinh tế toàn diện giữa chính phủ các nước thành viên hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á và Đại Hàn Dân Quốc. Ngoài hình thức tham vấn để
giải quyết tranh chấp quy định tại Điều 3, thì theo Điều 4 của Hiệp định quy
định Trung gian hòa giải là những thủ tục được tiến hành một cách tự nguyện
nếu các bên tranh chấp đồng ý. Các bên trong tranh chấp có thể yêu cầu tiến
hành thủ tục trung gian hòa giải ở bất kỳ thời điểm nào. Nếu các bên đồng ý,
thủ tục trung gian hòa giải thông qua cá nhân hoặc tổ chức được các bên trong
vụ tranh chấp nhất trí có thể được tiến hành song song với thủ tục giải quyết
tranh chấp bằng Ủy ban trọng tài theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Hiệp
định. Về thủ tục hòa giải tại khoản 4 của Điều 4 Hiệp định quy định Thủ tục
trung gian hòa giải sẽ được giữ bí mật và không ngăn cản quyền của các bên
được tiến hành các thủ tục tố tụng cao hơn theo Hiệp định này hoặc các thủ
tục tố tụng khác trước một cơ quan giải quyết tranh chấp do các bên lựa chọn.
Hiệp định về quan hệ đối tác kinh tế toàn diện giữa các quốc gia thành
viên hiệp hội các nước Đông Nam Á và Nhật Bản năm 2008: hiệp định này đã
dành một chương riêng để quy định về giải quyết tranh chấp, cụ thể là chương
9. Trong đó hình thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải được quy định tại
Điều 63 quy định trung gian hòa giải là “những thủ tục được tiến hành một
cách tự nguyện nếu các bên trong tranh chấp đồng ý” và tại khoản 2 quy định
“các bên trong tranh chấp có thể yêu cầu tiến hành thủ tục trung gian hòa giải
ở bất kỳ lúc nào”. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 63 cũng quy định các bên có thể
ký kết hợp giữa thủ tục hòa giải và thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Ủy ban
trọng tài theo quy định của Chương 9 Hiệp định.
34
Hiệp định giữa Nhật Bản và Cộng hòa XHCNVN về đối tác kinh tế: đã
quy định về các phương thức cụ thể giải quyết tranh chấp cụ thể tại chương
13 gồm tham vấn; môi giới; trung gian; hòa giải và Ủy ban trọng tài, trong đó
giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải được quy định tại Điều 118
cùng với hình thức môi giới, trung gian, theo đó một bên trong tranh chấp có
thể yêu cầu tiến hành hòa giải ở bất kỳ lúc nào theo yêu cầu của bất kỳ bên
nào Nếu các Bên đồng ý, hòa giải có thể vẫn tiếp tục cùng với thủ tục giải
quyết tranh chấp bằng Ủy ban trọng tài được quy định từ Điều 119 đến Điều
124, Chương 13 của Hiệp định.
Hiệp định thương mại giữa chính phủ CHXHCNVN và chính phủ Cộng
hòa Singapore (1992): quy định hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
mà các bên tranh chấp có thể áp dung là hòa giải hoặc trọng tài thương mại.
Thủ tục hòa giải được quy định tại Điều 9 như sau “những tranh chấp phát
sinh giữa các công ty thương mại hoặc các công ty liên quan đến thương mại
của các bên khi thực hiện hay liên quan đến hợp đồng sẽ giải quyết bằng hòa
giải qua những cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp hòa giải không được sẽ
đưa ra trọng tài Quốc tế giải quyết theo sự thỏa thuận của hai bên như trọng
tài thuộc trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam hoặc Trung tâm trọng tài quốc
tế Singapore, chịu sự điều chỉnh theo nhưng quy định của trung tâm đó”.
Nhìn chung, trong các hiệp định thương mại quốc tế và khu vực mà
Việt Nam tham gia và ký kết thì các biện pháp giải quyết tranh chấp đã được
quy định khá đầy đủ. Tuy có quy định cơ chế khác nhau trong giải quyết các
tranh chấp giữa các cá nhân, công ty phát sinh từ các giao dịch thương mại
phù hợp với thực tiễn pháp luật từng nước nhưng hầu hết thừa nhận nguyên
tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên trong việc lựa chọn biện
pháp giải quyết tranh chấp. Đây là một biện pháp bảo đảm để các nhà kinh
doanh trong nước và nước ngoài yên tâm thực hiện các hoạt động kinh doanh,
thương mại tại Việt Nam.
35
Việc tham gia các Điều ước quốc tế khiến Việt Nam không những phải
có nghĩa vụ thực hiện các cam kết này mà còn phải nội luật hóa sao cho phù
hợp với pháp luật quốc gia. Theo luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế năm 2005 quy định tại khoản 3 Điều 6 như sau:
“Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của
điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một
phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp
quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc
kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật để thực hiện điều ước quốc tế đó”
Từ quy định này có thể thấy pháp luật Việt Nam thừa nhận hai cách
thức áp dụng điều ước quốc tế vào thực tiễn pháp luật đó là: áp dụng trực tiếp
và áp dụng gián tiếp. Theo đó, áp dụng trực tiếp là khi điều ước quốc tế đã
được ký kết và có hiệu lực thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh
của điều ước đó đều có nghĩa vụ thi hành và hoàn toàn có thể viện dẫn các
quy định của điều ước đó để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình khi có tranh
chấp xảy ra. Còn áp dụng gián tiếp là việc quốc gia thành viên ban hành một
đạo luật để chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật của nước mình, áp dụng đối với những quy định chưa
rõ ràng, cụ thể.
Tóm lại, có thể khẳng định Điều ước quốc tế về giải quyết tranh chấp
thương mại nói chung, giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải nói
riêng mà Nhà nước Việt Nam ký kết và tham gia là một yếu tố quan trọng, có
vị trí đặc biệt trong khuôn khổ pháp luật thương mại Việt Nam. Đồng thời
việc ban hành kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật nhằm nội luật hóa các
điều ước quốc tế đã góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở
Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội nhập phát triển.
36
2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải.
Đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải (hòa giải
thương mại), ngoài các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết tham gia thì nhà
nước ta cũng đã ban hành một số quy định nằm rải rác trong các văn bản quy
phạm pháp luật như sau:
BLDS 2015 không có quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp thương
mại bằng hòa giải, tuy nhiên tại khoản 2 Điều 7 về chính sách của Nhà nước
đối với quan hệ dân sự quy định: “Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa
các bên phù hợp với qui định của pháp luật được khuyến khích”. Có thể thấy,
hòa giải luôn là một phương thức giải quyết tranh chấp được khuyến khích sử
dụng để giải quyết khúc mắc giữa cá bên do tính hiệu quả mà hòa giải mang
lại.
Trong các văn bản pháp luật có quy định về hòa giải thương mại phải
kể đến một đạo luật quan trọng là Luật Thương mại 2005. Tại Điều 11 Luật
Thương mại quy định về nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt
động thương mại: “các bên có quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận không trái
với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác
lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại..”. Đồng
thời, Luật Thương mại 2005 đã dành riêng mục 2 chương VII với 3 điều để
quy định về giải quyết tranh chấp trong thương mại, trong đó Điều 317 quy
định về hình thức giải quyết tranh chấp gồm:
“1. Thương lượng giữa các bên.
2. Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được
các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải
3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án”
Ngoài ra, Luật Thương mại 2005 còn đưa ra quy định về thời hạn khiếu
nại và thời hiệu khởi kiện tại Điều 318 và Điều 319 bắt buộc các bên có
quyền lợi bị vi phạm phải khiếu nại trong thời hạn nhất định.
37
Trong khi đó theo quy định của Luật Thương mại 1997, quy định về
giải quyết tranh chấp thương mại tại chương 4 mục 2 gồm 6 Điều, trong đó
Điều 238 quy định về khái niệm tranh chấp thương mại, về thẩm quyền giải
quyết tranh chấp thương mại với thương nhân nước ngoài theo quy định tại
Điều 240, về thời hạn khiếu nại và thời hiệu tố tụng được quy định tại Điều
241 và Điều 242, Điều 243 quy định về việc thi hành các bản án, quyết định
của Tòa án, các phán quyết, quyết định của Trọng tài. Còn về hình thức giải
quyết tranh chấp được quy định tại Điều 239, cụ thể: “1. Tranh chấp thương
mại trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng giữa các bên, 2.
Các bên tranh chấp có thể thỏa thuận chọn một cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân làm trung gian hòa giải. 3. Trong trường hợp thương lượng hoặc hòa
giải không đạt được kết quả thì tranh chấp thương mại được giải quyết tại
Trọng tài hoặc Tòa án”
Có thể thấy theo tinh thần của Luật Thương mại 1997 thì cả thương
lượng và hòa giải là biện pháp bắt buộc khi các bên muốn giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài hay Tòa án. Việc quy định này hoàn toàn không phù hợp
với xu hướng phát triển pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại của thế
giới, trong quá trình hội nhập việc thay đổi quy định này là điều tất yếu và
Luật Thương mại 2005 ra đời đã làm được điều đó. Song đối với giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải mới chỉ được liệt kê ra trong số các
phương thức giải quyết tranh chấp chứ chưa được quy định cụ thể thành một
văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục… giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải.
Ngoài ra, Luật Đầu tư năm 2014 tại Điều 14 quy định: “Tranh chấp
liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam được giải quyết
thông qua thương lượng, hòa giải. Trường hợp không thương lượng, hòa giải
được thì tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án theo quy định
tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này”
38
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 tại Điều 55 quy định về
hình thức giải quyết tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa gồm:
“1. Thương lượng giữa các bên tranh chấp về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa.
2. Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được
các bên thoả thuận chọn làm trung gian.
3. Giải quyết tại trọng tài hoặc toà án.
Thủ tục giải quyết tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa tại
trọng tài hoặc toà án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng
trọng tài hoặc tố tụng dân sự”.
Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 quy định tại khoản 1 Điều 30
quy định về phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cụ thể:
“1. Tranh chấp phát sinh giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được giải quyết thông qua:
a) Thương lượng;
b) Hòa giải;
c) Trọng tài;
d) Tòa án”.
Đối với quy định của Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010, cần xác
định tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ là tranh chấp thương mại hay dân sự. Theo quy định của pháp
luật, trường hợp người tiêu dùng đồng ý áp dụng pháp luật về thương mại
điều chỉnh thì lúc đó mới áp dụng, còn người tiêu dùng không lựa chọn thì đó
là tranh chấp dân sự thuần túy.
Nghị định số 22/2017/NĐ-CP (Ngày 24/02/2017) Nghị định về hòa giải
thương mại ra đời đã quy định khá cụ thể về trình tự, thủ tục, điều kiện,…để
giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại (hòa giải ngoài tố
tụng).
39
Tóm lại, Việt Nam dã tham gia và cam kết thực hiện các điều ước quốc
tế về giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải và pháp luật thương mại
Việt Nam đã công nhận phương thức hòa giải trong các văn bản quy phạm
pháp luật quan trọng trong lĩnh vực luật tư như BLDS 2015, Luật Thương mại
2005,… trước thời điểm Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải
thương mại được ban hành thì các quy định về hòa giải thương mại nằm rải
rác trong các văn bản pháp luật. Sự ra đời của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP
đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục, điều kiện,…tiến hành giải quyết tranh
chấp thương mại bằng hòa giải thương mại. Đó là bước đột phá của pháp luật
Việt Nam để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế thế giới ngày càng phát triển .
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở
Việt Nam
Trong những năm qua, cùng với chính sách hoàn thiện pháp luật và chủ
trương cải cách tư pháp, các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua
thương lượng, hòa giải, trọng tài ngày càng được khuyến khích sử dụng ở
Việt Nam thì hòa giải là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp
ngoài tố tụng được đánh giá cao về tính hiệu quả, chính xác và khách quan
bởi các yếu tố sau: các bên tranh chấp được tự do thỏa thuận về toàn bộ quá
trình hòa giải như các bên có thể quyết định số lượng, cách thức chỉ định và
tiêu chuẩn của hòa giải viên, thời gian giải quyết vụ tranh chấp, luật áp dụng,
ngôn ngữ, địa điểm giải quyết vụ tranh chấp. Ngoài ra, hòa giải viên là những
người có kiến thức rộng và kinh nghiệm trong các lĩnh vực thương mại như
tài chính, xây dựng, vận tải… Tuy nhiên, dù giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải được đánh giá là phương thức có nhiều ưu điểm về thời gian
giải quyết ngắn, chi phí tương đối thấp, thủ tục đơn giản và giữ được mối
quan hệ làm ăn trong tương lai, song thực tế phương thức này được các doanh
nghiệp sử dụng ở mức khiêm tốn. Cụ thể: theo số liệu điều tra qua phiếu hỏi
của nhóm thư ký Dự án điều tra cơ bản của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư
Pháp về “Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
40
của doanh nghiệp Việt Nam và vai trò của các thiết chế tư pháp, bổ trợ tư
pháp” đã khảo sát trong số 367 doanh nghiêp Việt Nam (tại Vĩnh Phúc, Hải
Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh,
Kiên Giang) đã gặp tranh chấp thương mại quốc tế có 100 doanh nghiệp từng
giải quyết tranh chấp bằng hòa giải (tỷ lệ 26,9%) [57], đây là một tỷ lệ không
cao. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam ít được các
doanh nghiệp áp dụng, bởi những lí do sau:
Thứ nhất, trước khi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP được ban hành thì
pháp luật Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể,
hướng dẫn chi tiết về quy trình, thủ tục, nội dung, hiệu lực của phương thức
giải quyết tranh chấp này, chỉ ghi nhận trong pháp luật thực định ở những
nguyên tắc cơ bản nên giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải dường
như vẫn được coi là công việc riêng tư của các bên.
Thứ hai, thực tế, hòa giải thương mại đã được tiến hành một cách tự
phát bởi các luật sư ở một số văn phòng luật sư, trọng tài viên ở trung tâm
trọng tài theo yêu cầu của khách hàng nhưng các tổ chức này chưa coi hòa
giải là một hoạt động chuyên nghiệp. Vì thế, thực tiễn hoạt động giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải rất khó xác định được số lượng các vụ
tranh chấp thương mại mà các bên lựa chọn phương thức hòa giải để giải
quyết như đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài hay tòa án.
Thứ ba, Nghị Định số 22/2017/NĐ-CP mới ra đời, tuy là một bước đột
phá lớn trong cải cách pháp luật về hòa giải thương mại, song nó cần thời gian
để mọi người kịp thích nghi và thực sự thấy nó hiệu quả. Hiệu lực của thỏa
thuận hòa giải thành tuy được Tòa án công nhận theo yêu cầu của các bên
được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nhưng trên thực tế vẫn
chưa có văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này làm các doanh nghiệp vẫn còn
hoài nghi về tính hiệu quả cũng như cơ chế thi hành kết quả hòa giải thành.
Theo báo cáo khảo sát doanh nghiệp về vấn đề hòa giải thương mại và
giải quyết tranh chấp tại Việt Nam tháng 6/2017 được thực hiện bởi Trung
41
tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) và Nhóm Ngân hàng thế giới (World
Bank Group), 78% doanh nghiệp được khảo sát cho biết họ sẵn sàng thử
phương thức hòa giải. Có 64 doanh nghiệp có kinh nghiệm hòa giải, (đa số -
41 doanh nghiệp – thuộc lĩnh vực sản xuất, sau đó là lĩnh vực thương mại).
Trong số này, 77% doanh nghiệp hài lòng với kết quả hòa giải, 79% sẽ tiếp
tục sử dụng phương thức hòa giải, 78% doanh nghiệp sẽ giới thiệu với doanh
nghiệp khác và chỉ có 2% tuyên bố sẽ không sử dụng dịch vụ hòa giải nữa
[33]. Theo kết quả trên, nhu cầu của doanh nghiệp Việt Nam đối với phương
pháp giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải là rất cao.
Đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có kết quả hòa giải nào được công
nhận bởi tòa án [33]. Theo Điều 416 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, kết quả hòa
giải vụ việc ngoài tòa án chỉ được tòa án xem xét ra quyết định công nhận khi
vụ việc hòa giải được thực hiện bởi cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có
nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải.
Nhưng đó mới chỉ là quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự, nó vẫn chưa có
một trình tự nào để thi hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành
trong Luật Thi hành án dân sự cũng như chưa có một văn bản hướng dẫn cụ
thể nào về việc thi hành này. Mặc dù các quy định tại chương XXXIII Bộ luật
Tố tụng dân sự 2015 là những quy định rất tiến bộ, song trên thực tế những
quy định này chưa phát huy được hiệu quả của nó.
Số liệu về các vụ tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thương mại
đa phần là được giữ bí mật tại các tổ chức tiến hành hòa giải. Song theo nhận
xét của các hòa giải viên tại các tổ chức tiến hành hòa giải thì từ khi có Nghị
định số 22/2017 ra đời thì số các vụ tranh chấp được các bên đưa ra hòa giải
tại các tổ chức đã tăng rất nhiều so với thời gian trước [69] nhưng vẫn chưa
đưa ra con số cụ thể. Có thể thấy hiệu quả bước đầu đạt được sau 1 năm Nghị
định về hòa giải thương mại có hiệu lực, đây là một bước tiến vượt bậc trong
giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam góp phần tạo động lực cho các
chủ thể tham gia vào các quan hệ thương mại thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam
42
ngày càng hội nhập và phát triển. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể khi tham gia vào các quan hệ thương mại trong nước cũng như quốc
tế khi có một phương thức giải quyết tranh chấp hữu hiệu.
Trước khi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ra đời, chỉ có duy nhất VIAC
đã hiện thực hóa quy định tại khoản 2 Điều 317 Luật Thương mại năm 2005
thành Quy tắc hòa giải của VIAC (gồm 20 điều). Tuy nhiên, đó chỉ là bộ quy
tắc “nội bộ” được áp dụng cho các doanh nghiệp có nhu cầu đề nghị VIAC
tiến hành hòa giải. Còn ở các trung tâm trọng tài khác nếu doanh nghiệp yêu
cầu tiến hành hòa giải thì sẽ không có cơ sở pháp lý. Như vậy, ở Việt Nam
trước khi có Nghị định số 22/2017/NĐ-CP đối với hoạt động giải quyết tranh
chấp thương mại bằng hòa giải tại Trung tâm Trọng tài thương mại thì chủ
yếu là được thực hiện bởi Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, bộ quy tắc
hòa giải của VIAC tuy có chi tiết và quy mô, song nhìn chung vẫn chưa thể
hiện được một cách triệt để quy trình thủ tục hòa giải. Chính vì thế hiệu quả
hòa giải còn hạn chế do số vụ việc được trọng tài thương mại thụ lý và giải
quyết còn rất ít. Theo thống kê của VIAC thì số lượng các vụ tranh chấp đã
được đưa ra hòa giải được thể hiện qua bảng sau:
Năm Tổng số vụ Số vụ tranh chấp Hòa giải thành
đưa ra hòa giải
Số vụ Tỷ lệ
2012 64 14 1 1,5%
2013 99 20 2 2%
2017 151 30 19 12,6%
Bảng 2.1: Tình hình giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ở VIAC năm
2012, 2013 và 2017
(Nguồn: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC)
Có thể nhận thấy một dấu hiệu tích cực của hoạt động hòa giải tại Việt
Nam kết từ khi ban hành Nghị định số 22/2017/NĐ-CP. Số vụ tranh chấp
43
được giải quyết bằng hòa giải thương mại tăng lên một cách rõ rệt, số vụ hòa
giải thành cũng tăng lên tương ứng. Như vậy, bước đầu của việc ban hành
Nghị định về hòa giải thương mại là một điều đúng đắn.
Nhìn chung, cho đến nay ở Việt Nam đã có một khuôn khổ pháp lý
nhất định để điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa
giải song nó vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam nên để áp dụng một cách phổ
biến thì phải cần thời gian để các bên xảy ra tranh chấp hiểu rõ được lợi ích
và hạn chế của phương thức này từ đó lựa chọn sử dụng nó để giải quyết các
tranh chấp phát sinh. Để làm được vậy cần sự tuyên truyền pháp luật phổ biến
đến giới doanh nghiệp để mọi người có thể nhận thấy được những ưu điểm
vượt trội của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải.
Bên cạnh đó còn phải hoàn thiện khung pháp lý về hòa giải thương mại để các
doanh nghiệp có thể an tâm lựa chọn phương thức này để giải quyết tranh
chấp khi có phát sinh.
2.3. Một số vấn đề pháp lý tiến bộ theo pháp luật Việt Nam khi giải
quyêt tranh chấp thương mại bằng hòa giải
Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ ý nghĩa quan trọng
của việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải đối với nền kinh tế
trong giai đoạn hội nhập toàn cầu hiện nay và thực trạng pháp luật hiện hành
về lĩnh vực này cho thấy một số vấn đề pháp lý tiến bộ sau:
Thứ nhất, về điều khoản hòa giải, đây chính là căn cứ để tiến hành thủ
tục hòa giải. Điều khoản hòa giải được hiểu là thỏa thuận giữa các bên về việc
giải quyết tranh chấp sẽ phát sinh bằng phương thức hòa giải. Vấn đề đặt ra là
thỏa thuận về hòa giải được lập ra khi nào và hình thức như thế nào? Theo
Nghị định số 22/2017/NĐ-CP tại Điều 6 quy định “tranh chấp được giải
quyết bằng hòa giải thương mại nếu các bên có thỏa thuận hòa giải. Các bên
có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng hòa giải trước, sau khi xảy ra
tranh chấp hoặc tại bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết tranh
44
chấp”. Như vậy, có thể hiểu điều khoản hòa giải được các bên quy định ngay
trong hợp đồng hoặc thỏa thuận thành một hợp đồng riêng. Tuy nhiên, soạn
thảo điều khoản như thế nào cho hợp lý lại chưa có hướng dẫn. Thực tiễn ở
một số quốc gia cho thấy, một điều khoản hòa giải thông thường sẽ được soạn
thảo như sau: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến hợp đồng
này trước hết sẽ được giải quyết bằng phương thức hòa giải tại…(tên của một
trung tâm hòa giải)..phù hợp với bản Quy tắc hòa giải của trung tâm này. Các
bên cam kết sẽ tham gia hòa giải với thái độ thiện chí và bị ràng buộc bởi thỏa
thuận đạt được trong quá trình hòa giải”. Ngoài ra, các bên cũng có thể thỏa
thuận thêm về việc giải quyết vụ tranh chấp tại Tòa án hay trọng tài nếu việc
hòa giải không thành công [44, tr.46].
Thứ hai, về vấn đề đảm bảo tính bí mật của quá trình hòa giải. Để hòa
giải đạt hiệu quả thì mỗi bên cần cởi mở, hợp tác với nhau và với hòa giải
viên trong việc đưa ra đầy đủ các bản trình bày kèm theo là những tài liệu liên
quan và những bằng chứng. Vấn đề đặt ra là các bên có thể lợi dụng những
thông tin hiểu biết về đối phương đặc biệt là các bí mật kinh doanh trong quá
trình hòa giải để đưa ra làm chứng cứ tại Tòa án và Trọng tài nếu như pháp
luật không có cơ chế nào để đảm bảo tính bí mật của các thông tin và tài liệu
được trao đổi trong quá trình hòa giải. Vì vậy, Nghị định số 22/2017/NĐ-CP
đã đưa ra nguyên tắc đảm bảo bí mật thông tin trong quá trình hòa giải và nó
có nghĩa vụ ràng buộc các bên khi tham gia vào quá trình hòa giải.
Thứ ba, về vấn đề hiệu lực thi hành của thỏa thuận hòa giải thành.
Trong quá trình hòa giải, khi các bên đạt được thỏa thuận thì các bên cùng ký
kết vào thỏa thuận hòa giải thành. Khi chưa có Nghị định số 22/2017/NĐ-CP
và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 ra đời thì việc thi hành kết quả hòa giải thành
phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí và sự tự nguyện của các bên, các bên có thể
thực hiện hoặc không thực hiện đối với kết quả hòa giải thành mà không có
cơ chế thực thi nào ràng buộc các bên phải thực hiện. Điều này dẫn đến việc
tốn thời gian, công sức, tinh thần hợp tác giữa các bên có thể bị rạn nứt mặc
45
dù đã thỏa thuận thành nhưng lại không tiến hành thực hiện thỏa thuận đó.
Khắc phục hạn chế này, tại Điều 13 Nghị định 22/2017/NĐ-CP quy định về
quyền, nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình hòa giải theo đó:
“…
2. Các bên tranh chấp có các nghĩa vụ sau đây:
b) Thi hành kết quả hòa giải thành”
Cùng với quy định này, Điều 416 BLTTDS 2015 quy định về công
nhân kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án như sau: “Kết quả hòa giải vụ việc
ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận là kết quả hòa
giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan, tổ chức,
người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định
của pháp luật về hòa giải”.
Như vậy, có thể thấy rằng kết quả hòa giải thành buộc các bên phải thực
hiện và đã có cơ chế đảm bảo sự ràng buộc đó bởi quyết định công nhận của
Tòa án khi có đơn yêu cầu của một hoặc tất cả các bên. Điều này là một sự
tiến bộ vượt bậc, nâng tầm phương thức hòa giải nên một bước mới và khiến
thu hút sự quan tâm của các chủ thể kinh doanh thương mại đối với phương
thức giải quyết tranh chấp này.
2.4. Một số vấn đề pháp lý hạn chế khi giải quyết tranh chấp thương
mại bằng hòa giải theo pháp luật Việt Nam.
Thứ nhất, về mối quan hệ giữa hòa giải thương mại với trọng tài và tòa
án. Ở đây cần xem xét vấn đề nếu có tranh chấp thương mại xảy ra mà các
bên không tiến hành hòa giải theo như điều khoản hòa giải đã thỏa thuận mà
lại khởi kiện ngay ra Tòa án hay trọng tài thì những cơ quan này sẽ trả lại đơn
khởi kiện hay vẫn thụ lý, giải quyết? Điều này đang rất cần một chuẩn mực
pháp lý để giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải đi vào khuôn khổ.
Ở Việt Nam, khi các bên thỏa thuận hòa giải tại VIAC, thì phải cam kết sẽ
không tiến hành tố tụng tại trọng tài hay Tòa án theo quy định tại Điều 16
Quy tắc hòa giải:
46
“1. Trong quá trình hòa giải, các bên cam kết không tiến hành bất cứ
tố tụng trọng tài hoặc tòa án nào đối với tranh chấp đang là đối tượng của
quá trình hòa giải
2. Trong quá trình hòa giải, nếu một bên hoặc các bên đưa vụ tranh
chấp đang là đối tượng của quá trình hòa giải ra kiện tại Trọng tài hoặc Tòa
án thì việc hòa giải mặc nhiên bị coi là chấm dứt”
Ngoài quy định trên của Quy tắc hòa giải của VIAC thì theo quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành thì việc các bên có thỏa thuận hòa giải
không phải là một căn cứ để Tòa án hay trọng tài từ chối thụ lý vụ án. Qua đó,
có thể thấy ở nước ta, việc bên có thỏa thuận hòa giải chỉ có ý nghĩa khuyến
khích các bên giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải thương mại
chứ không có tính chất ràng buộc của một quy định hợp đồng. Theo quan
điểm của các nước trên thế giới về hòa giải thương mại cho rằng để thúc đẩy
sự phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này thì việc
Tòa án hay trọng tài tạm dừng việc thụ lý vụ án và yêu cầu các bên tiến hành
hòa giải trước là một việc làm hết sức ý nghĩa, bên cạnh đó vẫn chú ý đến
đảm bảo quyền được tiếp cận hệ thống Tòa án và Trọng tài của các tổ chức,
cá nhân. Hiện nay, pháp luật của một số nước như Anh, Australia, Hong
Kong, Singapore,…cũng đang theo xu hướng công nhận và cho thi hành điều
khoản hòa giải. Theo kinh nghiệm của các nước này, trường hợp trong hợp
đồng giữa các bên có điều khoản hòa giải, Tòa án sẽ chỉ tiến hành thụ lý vụ án
nếu 1) điều khoản hòa giải giữa các bên được quy định không rõ ràng (ví dụ
không quy định thời hạn dành cho việc hòa giải), hoặc 2) đã hết thời hạn dành
cho việc hòa giải theo hợp đồng mà các bên không tiến hành hòa giải; hoặc 3)
các bên đã tham gia vào quá trình hòa giải và đã hết thời hạn dành cho việc
hòa giải theo hợp đồng mà các bên không đạt được thỏa thuận. Nếu bên khởi
kiện không chứng minh được vụ tranh chấp thuộc một trong các trường hợp
nói trên, Tòa án sẽ tạm dừng quá trình tố tụng và yêu cầu các bên thực hiện
điều khoản hòa giải trước [56, tr.47].
47
Như vậy, pháp luật Việt Nam cần quy định rõ khi thỏa thuận giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải thì các bên phải có thỏa thuận rõ ràng về
việc từ bỏ quyền tiến hành tố tụng trước trọng tài hay tòa án. Tuy nhiên, khi
xét thấy cần thiêt để bảo vệ quyền lợi của mình thì các bên có thể đưa ra tố
tụng trọng tài hoặc tòa án.
Thứ hai, về việc quy định tiêu chuẩn hòa giải viên thương mại. cần phải
xác định rằng Hòa giải viên thương mại không giống như Trọng tài viên. Hòa
giải viên không phải là người phán xét ai đúng, ai sai hoặc đưa ra quyết định
giải quyết tranh chấp như Trọng tài viên. Hòa giải viên chỉ là người hỗ trợ các
bên đạt được thỏa thuận để giải quyết tranh chấp. Chính vì thế, các bên có thể
chọn bất cứ người nào mà họ tin tưởng để làm hòa giải viên. Vì vậy, theo tác
giả không cần quy định tiêu chuẩn của Hòa giải viên. Nếu có chăng cũng chỉ
cần quy định những điều cơ bản như: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
không phải là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp
hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích hoặc không phải là công chức
hoặc cán bộ cơ quan tư pháp như Công an, Kiểm sát, Tòa án và thi hành án.
Những tiêu chuẩn về trình độ của hòa giải viên cũng như kỹ năng hòa giải
không cần thiết phải quy định. Bởi lẽ, có những người không có trình độ đại
học và cũng không có thực tế công tác nhưng họ lại có khả năng thuyết phục
được các bên và được các bên tin tưởng lựa chọn, do đó hoàn toàn đủ khả
năng làm Hòa giải viên. Về kĩ năng hòa giải, do không có tiêu chí cũng như
tiêu chuẩn để đánh giá nên tác giả cho rằng cũng không cần phải quy định.
Nói chung những quy định chặt chẽ về trình độ của Hòa giải viên là không
hợp lý và cũng không phù hợp với thực tiễn quốc tế nên không nên quy định
trong Nghị định. Việc quy định như vậy sẽ giới hạn những người có năng lực
làm hòa giải viên tham gia vào giải quyết các tranh chấp thương mại. Hoạt
động hòa giải diễn ra sẽ không đạt được hiệu quả cao.
Thứ ba, về phí hòa giải, giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
thường có chi phí thấp hơn so với giải quyết tranh chấp thương mại bằng
48
trọng tài hay tòa án. Tuy nhiên, pháp luật nước ta hiện nay cũng chưa quy
định về vấn đề này. Trong thời gian tới, để đảm bảo cho sự phát triển và duy
trì hoạt động của trung tâm hòa giải hay hòa giải viên thì pháp luật Việt Nam
cần quy định về phí hòa giải. Việc quy định này có thể tham khảo cách thức
quy định về phí của Trung tâm hòa giải Singapore. Ngoài ra, có thể tham
khảo cách thức quy định về chi phí hòa giải tại Điều 17 Quy tắc hòa giải của
VIAC, cụ thể chi phí hòa giải bao gồm: phí hành chính, một khoản thù lao
hợp lý cho hòa giải viên, chi phí đi lại và các chi phí khác của hòa giải viên,
các chi phí khác của nhân chứng theo yêu cầu của hòa giải viên với sự đồng ý
của các bên; chi phí tư vấn của các chuyên gia,… về cách thức nộp được quy
định tại khoản 1 Điều 18 của quy tắc, theo đó bên nộp đơn yêu cầu hòa giải
phải nộp tạm ứng 50% phí hòa giải. Khi chấp nhận hòa giải, bên nhận được
yêu cầu hòa giải phải nộp tạm ứng 50% phí hòa giải. Trong trường hợp các
bên có đơn yêu cầu hòa giải phải gửi tới VIAC mỗi bên nộp 50% phí hòa giải.
Sau khi chấm dứt quá trình hòa giải, VIAC sẽ tính toán chi phí trong số tiền
đã ứng trước và trả lại cho các bên bất cứ khoản chi phí còn lại nào không chi
tới.
2.5. Nguyên nhân những hạn chế cơ bản của pháp luật Việt Nam về
giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng.
Là một nước phương Đông với truyền thống đoàn kết, luôn đề cao tinh
thần tương thân tương ái và tình nghĩa “lấy hòa làm trọng”, do đó khi có tranh
chấp với nhau mọi người có tâm lý ngại kiện cáo nên biện pháp trước tiên
được áp dụng là thương lượng, hòa giải, vì thông qua những biện pháp này
mà các bên có thể hiểu nhau hơn và mâu thuẫn có thể được giải quyết mà vẫn
giữ được tình người. Như vậy, lẽ ra giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải rất phát triển ở Việt Nam, tuy nhiên trên thực tế hoàn toàn ngược lại.
Có thể thấy Pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại còn
nhiều hạn chế như chưa thực sự quan tâm đầy đủ đến hòa giải, đã một thời
gian rất dài trước khi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ra đời thì pháp luật Việt
49
Nam chưa có nhữn quy định cụ thể như hình thức pháp lý, trình tự tiến hành
hòa giải, hiệu lực pháp lý khi hòa giải thành, chưa có những quy định phối kết
hợp giữa hòa giải và các phương thức giải quyết tranh chấp khác, chưa có sự
thống nhất chung về pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại mà mới chỉ
dừng lại ở việc quy định đó là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Khi Nghị định sô 22/2017/NĐ-CP ra đời tuy khỏa lấp phần lớn được những
hạn chế trên nhưng về mặt thực tế nó lại quá mới mẻ đối với các doanh
nghiệp, thậm chí nó còn ít được biết đến do khâu tuyên truyền phổ biến pháp
luật của Việt Nam còn yếu, song cũng vẫn còn một số những quy định pháp
lý làm các doanh nghiệp chưa an tâm lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp này. Vậy nguyên nhân của những hạn chế đó là:
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam chưa nắm bắt và phản ánh nhanh các yêu
cầu của nền kinh tế thị trường trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại
bằng hòa giải mãi cho đến khi xảy ra các vấn đề quá tải về giải quyết các vụ
án được giải quyết bởi Tòa án, vấn đề tồn đọng án cũng như tính hiệu quả của
việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng các phương thức khác kém
hiệu quả chúng ta mới đi tpìm đến và hoàn thiện phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại bằng hòa giải. Trong khi đó, các quốc gia trên thế giới đã coi
đây là phương thức giải quyết tranh chấp chủ yếu, quan trọng khi tham gia
vào các quan hệ thương mại. Lý do này cũng xuất phát từ việc Việt Nam
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với những chính sách và định
hướng lạc hậu, trình độ phát triển thấp lên nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, trong thời đại mở cửa, toàn cầu hóa, hội nhập kinh
tế quốc tế tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển kinh tế nhưng đồng thời cũng
đặt ra nhiều thách thức và khó khăn như năng lực cạnh tranh của hàng hóa
dịch vụ doanh nghiệp cà cả nền kinh tế của nước ta còn yếu, nhiều thị trường
quan trọng chưa được chú trọng đầu tư và phát triển. Bên cạnh đó, những yếu
kém về quản ý và điều hành của các cơ quan nhà nước cũng tạo ra những cản
trở đối với quá trình hội nhập kinh tế của đất nước. Việc tiếp cận với hệ thống
50
pháp luật của thế giới tuy đã được thực hiện nhưng nó chua thực sự phù hợp
và hiệu quả đối với tình hình kinh tế và nhận thức của giới doanh nhân Việt
Nam. Vì vậy tuy đã có khung pháp lý về hòa giải thương mại nhưng trên thực
tế nó vẫn còn được áp dụng ít, chưa thực sự đạt được kỳ vọng của các nhà
làm luật bởi tính mới và hiệu quả của nó.
Thứ hai, các thương nhân Việt Nam chưa chuông các phương thức giải
quyết tranh chấp thay thế mà thường chọn Tòa án nhân dân để giải quyết, do
bị ảnh hưởng to lớn của Tòa án nhân dân trong suốt thời kì kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, không hiểu biết về hòa giải, chưa hội nhập sâu với thương mại
thế giới. Nhận thức của doanh nghiệp về tác dụng của hòa giải còn hạn chế.
Có thể lấy ví dụ về hạn chế của việc giải quyết tranh chấp thương mại
bằng Tòa án thông qua vụ án sau:
Đối với tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn
Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu nông thổ sản An Bình và bị đơn Công ty Cổ
phần Việt Trung Hà Anh: ngày 03/7/2008, nguyên đơn khởi kiện, ngày
16/9/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, sau
đó bị đơn khang cáo, ngày 03/7/2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại Hà Nội xét xử phúc thẩm. Sau đó, bị đơn tiếp tục có đơn đề nghị xem xét
theo thủ tục giám đốc thẩm. Đén ngày 30/5/2012, Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao có quyết định giám đốc thẩm số 06/2012/KDTM-GĐT quyết
định không chấp nhận quyêt định kháng nghị và giữ nguyên bản án kinh
doanh, thương mại phúc thẩm. Như thế, vụ kiện này kéo dài 4 năm từ năm
2008 đến năm 2012 [58, tr.45 – 48].
Đối với tranh chấp về hợp đồng xây dựng giữa nguyên đơn Công ty
TNHH Nhật Linh – Đà Nẵng và bị đơn Công ty Cổ phần Bạch Đằng: ngày
10/4/2004 nguyên đơn khởi kiện. Ngày 31/12/2007, Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, sau đó cả nguyên đơn và bị đơn đều
kháng cáo và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng kháng
nghị. Ngày 08/7/2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng
51
xét xử phúc thẩm. Sau đó, bị đơn có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám
đốc thẩm. Ngày 15/3/2012, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có
quyết định giám đốc thẩm số 01/2012/KDTM-GĐT quyết định hủy cả bản án
sơ thẩm và bản án phúc thẩm và giao hồ sơ vụ án xét xử sơ thẩm lại. Như vậy,
vụ án này đã kéo dài 8 năm từ năm 2004 đến năm 2012 và vẫn còn tiếp tục
được xét xử lại từ đầu [59, tr.43 – 48].
Có thể thấy các vụ án tranh chấp nói chung và án tranh chấp kinh
doanh thương mại nói riêng được giải quyết bằng Tòa án chưa nói về tính
hiệu quả nhưng xét về mặt thời gian thì thực sự là rất lâu để giải quyết xong
một vụ tranh chấp, đặc biệt đối với đặc tính giải quyết mọi vấn đề phát sinh
một cách nhanh chóng như trong lĩnh vực thương mại thì sự kéo dài này là vô
cùng bất tiện, gây ra những hậu quả xấu trong quá trình kinh doanh. Vì vậy,
phương thức giải quyết tranh chấp bằng hoà giải xét về mặt thời gian giải
quyết đã có lợi thể hơn hẳn giải quyết bằng tố tụng tại Tòa án.
Tóm lại, để phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa
giải phổ biến thì pháp luật Việt Nam cần có một khung pháp lý quy định rõ
ràng hơn, chi tiết hơn về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế độc
lập. Cụ thể, cần giải thích rõ vấn đề công nhận và cho thi hành kết quả hòa
giải thành bởi Tòa án để doanh nghiệp có thể an tâm lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp này bởi tính ràng buộc của nó. Bên cạnh đó, về điều
kiện để tiến hành hòa giải phải rõ ràng tránh những quy định chồng chéo giữa
phương thức giải quyết tranh chấp này với phương thức tố tụng Trọng tài hay
Tòa án.
52
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
3.1. Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh
chấp thương mại bằng hòa giải thương mại.
3.1.1. Cơ sở lý luận.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ kể từ sau đổi
mới vào năm 1986, việc chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế nhiều
thành phần có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước quản lý các thành phần
kinh tế bằng chính sách và pháp luật. Trong đó lĩnh vực kinh doanh thương
mại là lĩnh vực quan trọng quyết định đến sự phát triển của kinh tế đất nước.
Việc mở rộng giao lưu buôn bán giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước
đã tạo nên một hoạt động kinh doanh thương mại sôi động đa thành phần, đa
lĩnh vực. Và một tất yếu xảy ra điều không ai mong muốn nhưng không thể
tránh khỏi là đó là các tranh chấp thương mại. Vấn đề đặt ra là khi xảy ra
những tranh chấp đó thì cần những phương pháp nào, cơ quan nào, căn cứ
pháp luật nào để giải quyết, bảo đảm lợi ích chính đáng của mỗi bên. Đây
chính là việc bảo đảm cho sự tin cậy, độ an toàn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, trao đổi mua bán . Chính quá trình phát triển này đã đặt ra yêu cầu đối
với mỗi quốc gia là phải đổi mới hệ thống pháp luật của mình phù hợp với
đặc thù quốc gia vừa phù hợp với sự phát triển chung của thế giới.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại là một
phương thức giải quyết tranh chấp quan trọng và hiệu quả. Tuy nhiên ở Việt
Nam pháp luật về việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải còn
mới mẻ và hạn chế trong khi đó ở nhiều quốc gia về mặt lập pháp hòa giải
ngày càng được quan tâm, được thể chế hóa trên mọi phương diện quốc gia,
khu vực và quốc tế. Đây là căn cứ để hình thành quy tắc hòa giải như bộ quy
tắc hòa giải Uncitral, Luật mẫu về hòa giải thương mại quốc tế của Ủy ban
pháp luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, Quy trình hòa giải không
53
bắt buộc của phòng thương mại quốc tế tại London, Ủy ban quốc gia về thống
nhất pháp luật Hoa Kỳ ban hành đạo luật hòa giải thống nhất năm 2001. Gần
đây liên minh Châu Âu đã ban hành chỉ thị số 2008/52/EC về một số khía
cạnh hòa giải các vụ việc dân sự, thương mại [38]. Tại Việt Nam trước kia
hòa giải được quy định trong các văn bản như BLDS 2005, BLTTDS 2004,
LTM 2005, Luật Đầu tư 2005, Luật Trọng tài thương mại 2010,…mà chưa
tổng hợp lại thành một văn bản pháp lý cụ thể, rõ ràng về hòa giải thương
mại. Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ra đời là văn bản pháp lý đầu tiên quy định
cụ thể, chi tiết về hòa giải thương mại, tuy nhiên văn bản này cũng chưa phải
là văn bản pháp lý lý tưởng về phương thức hòa giải thương mại.
Do đó thay đổi, phát triển khuôn khổ pháp luật quy định về giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại bằng hòa giải cũng có thể xem là một tất
yếu không tránh khỏi trong kinh doanh thương mại. Điều này hoàn toàn phù
hợp với nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định “Khuyến khích giải quyết
một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ
bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”; Cam kết của Việt Nam khi gia
nhập WTO về dịch vụ hòa giải tranh chấp giữa các thương nhân thể hiện tại
Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO, phần dịch vụ liên
quan đến tư vấn quản lý; Quyết định số 808/QĐ-TTg của Thủ tướng chính
phủ về việc ban hành chương trình hành động thực hiện chiến lược tổng thể
phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020, trong đó có phân
công nhiệm vụ xây dựng trình chính phủ. Tuy kết quả của chương trình này
đã cho ra đời Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương
mại, song Nghị định này vẫn chưa thực sự hoàn hảo về khung pháp lý đối với
phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. Vì vậy, trong
thời gian tới, Việt Nam cần phải nghiên cứu thêm để sửa đổi, bổ sung sao cho
hoàn thiện các quy định pháp luật thích ứng với các hoạt động thương mại
ngày càng phát triển.
54
3.1.2. Cơ sở thực tiễn.
Trong những năm gần đây Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định
thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới và đặc biệt đã trở thành thành
viên cảu WTO. Điều này sẽ tạo nhiều thuận lợi để kinh tế phát triển nhưng
cũng đầy thách thức trong tương lai. Trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia có các quy định về áp dụng phương thức thương lượng, hòa giải như
là các biện pháp ưu tiên trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh. Do đó
Việt Nam cần có những thay đổi phù hợp với sự thay đổi chung của quốc tế.
Việt Nam cần nhìn lại khung pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại, đặc biệt là hòa giải kinh doanh thương mại để từ đó rút ra được
những bất cập, hạn chế nhằm tạo điều kiện cho việc sửa đổi toàn diện hệ
thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại phù hợp với yêu cầu, đòi
hỏi thực tiễn đặt ra trong tình hình mới đồng thời phù hợp với chuẩn mực
quốc tế và khu vực.
Thực tiễn cho thấy hòa giải kinh doanh thương mại thường được tiến
hành kết hợp với phương thức tố tụng tòa án hay tố tụng trọng tài, theo đó
việc hòa giải giữa các bên tranh chấp chủ yếu do các thẩm phán hoặc trọng tài
viên tiến hành trong quá trình tố tụng căn cứ vào các quy định của pháp luật
đối với hòa giải ngoài tố tụng các quy định của pháp luật còn khá mới mẻ và
vẫn chưa được hoàn thiện. Trong khi đó hòa giải ngoài tố tụng đang được các
nước phát triển trên thế giới ưa chuộng bởi các bên tranh chấp có thể nhờ tới
các chuyên gia có kinh nghiệm về hòa giải hoặc các chuyên gia có uy tín
trong lĩnh vực đang tranh chấp như vận tải, tài chính, ngân hàng,..đứng ra làm
trung gian hòa giải các bên tranh chấp.
G.S. Kobayashi (Đại học Kyusu – Nhật Bản) cho biết “Sự mất cân
bằng giữa hòa giải do nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành ở Nhật là 1/10. Vì
thế Nhật Bản đã ban hành luật về hòa giải, quy định áp dụng hình thức hòa
giải trong giải quyết các tranh chấp dân sự, thương mại nhưng vì không rõ
ràng nên khi áp dụng trong thực tiễn đã xuất hiện nhiều hình thức hòa giải (cả
55
theo truyền thống Nhật Bản và phương tây) thực trạng này dẫn đến sự rối loạn
và không phát huy được hiệu quả của biện pháp hòa giải, thậm chí tạo ra phản
ứng ngược lại với việc áp dụng các biện pháp hòa giải để giải quyết tranh
chấp. Từ kinh nghiệm đó của Nhật Bản cho thấy cần có luật điều chỉnh hoạt
động hòa giải kinh doanh thương mại nhưng phải cụ thể phải rõ ràng cũng
như hoàn thiện cơ chế pháp lý áp dụng đối với các thiết chế tư pháp và hỗ trợ
tư pháp như luật sư, trọng tài thương mại, giám định tư pháp để hỗ trợ các
doanh nghiệp xử lý tranh chấp khi tham gia các hoạt động thương mại quốc
tế” [44].
Thực tế hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam đang
cần những phương thức giải quyết tranh chấp thực sự có hiệu quả. Bởi đặc
tính của hoạt động kinh doanh là làm sao để mọi bất đồng được giải quyết
một cách êm đẹp nhất, tiết kiệm nhất, nhanh gọn nhất và đặc biệt là giữ được
mối quan hệ hợp tác với nhau sau khi giải quyết tranh chấp xong. Hòa giải
thương mại chính là phương thức đáp ứng được những yêu cầu trên. Vì vậy,
cần chú trọng hoàn thiện hơn nữa những quy định pháp luật về hòa giải để
hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam diễn ra hiệu quả, thúc
đẩy quá trình đầu tư, tham gia thị trường kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh.
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải thương mại
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
bằng hòa giải thương mại ở Việt Nam trên cơ sở thực tiễn hoạt động hòa giải
trong nước và kinh nghiệm hòa giải của các quốc gia trên thế giới, cụ thể:
Hoàn thiện những quy định về hoạt động hòa giải thương mại, về trình
tự thủ tục hòa giải, thực thi điều khoản hòa giải, chế tài xử lý quy phạm,…
Nghiên cứu áp dụng án lệ, tập quán thương mại, quy định về hiệp hội
nghề nghiệp trong hoạt động hòa giải.
56
Thứ hai, vận dụng linh hoạt các nguyên tắc kinh nghiệm của các cơ
quan giải quyết tranh chấp thương mại trên thế giới như WTO, ASEAN, công
ước Washington…tham khảo hoạt động của các trung tâm hòa giải quốc tế và
khu vực như Trung tâm hòa giải Delhi (Ấn Độ), Trung tâm hòa giải
Singapore,.. từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để xây dựng hoàn thiện pháp
luật hòa giải kinh doanh thương mại phù hợp với sự phát triển kinh tế trong
nước và quốc tế.
Thứ ba, đào tạo hệ thống người hòa giải trên cơ sở người hòa giải phải
có kĩ năng hòa giải. Tại Việt Nam trong mỗi một tranh chấp thương mại thì
người tham gia giải quyết tranh chấp thường là các đại diện có thẩm quyền
nhưng những người này không phải lúc nào cũng là người hòa giải giỏi, hiểu
biết. Trong khi đó ở các quốc gia trên thế giới vai trò của luật sư, chuyên gia,
cố vấn pháp lý rất quan trọng. Họ được các doanh nghiệp ủy quyền tham gia
giải quyết tranh chấp thương mại ngay từ khi xảy ra tranh chấp đến khi vụ
tranh chấp được giải quyết các chủ doanh nghiệp ủy quyền cho luật sư là hoàn
toàn tin tưởng vào trình độ và năng lực của luật sư. Do đó Việt Nam cần phải
quan tâm đến vấn đề này. Việt Nam nên có tác động tích cực vào cơ chế ủy
quyền này tạo điều kiện cho đại diện tham gia hòa giải để quá trình hòa giải
đạt hiệu quả. Với việc ủy quyền họ có thể tham gia vào toàn bộ quá trình hòa
giải, nắm bắt toàn bộ vấn đề, trên cơ sở kinh nghiệm và kỹ năng hòa giải họ
sẽ quyết định vấn đề giải quyết tranh chấp nhanh gọn, chính xác.
3.3. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra những giải pháp để hoàn thiện
pháp luật về giải quyêt tranh chấp thương mại bằng hòa giải như sau:
Thứ nhất, sự tham gia của Luật sư vào quá trình hòa giải. Nghị định số
22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương mại đã không đề cập đến sự
tham gia của Luật sư trong quá trình hòa giải thương mại. Luật sư có thể tham
gia vào quá trình hòa giải thương mại dưới hai tư cách, đó là bên thứ ba hòa
57
giải hoặc người đại diện cho bên tranh chấp tham gia hòa giải. Để trở thành
bên thứ ba hòa giải, luật sư phải là hòa giải viên trong một tổ chức hòa giải
hoặc trở thành người đại diện cho các bên tranh chấp nếu được các bên tranh
chấp ủy quyền. Hiện nay, phương thức ủy quyền cho luật sư tham gia hòa giải
đang được các quốc gia khuyến khích sử dụng bởi hiệu quả hòa giải cao, tiết
kiệm được thời gian để các bên tranh chấp thực hiện hoạt động khác.
Thứ hai, về giá trị pháp lý của thỏa thuận hòa giải thành. Thỏa thuận
hòa giải thành theo quy đinh của pháp luật hiện hành thì được Tòa án công
nhận khi có yêu cầu của một hoặc tất cả các bên tranh chấp. Quyết định công
nhận đó sẽ được coi như bản án của Tòa án và có giá trị ràng buộc thực hiện
đối với các bên. Nếu các bên không thưc hiện thì quyêt định công nhận của
Tòa án sẽ chuyển cho cơ quan thi hành án dân sự thi hành. Tuy nhiên, làm
như vậy thủ tục sẽ bị kéo dài. Do vậy chỉ cần quy định thỏa thuận hòa giải
thành được tổ chức hòa giải xác nhận và chuyển cho cơ quan thi hành án thi
hành như một bản án.
Thứ ba, về mối quan hệ giữa hòa giải thương mại với trọng tài và tòa
án. Ở đây cần xem xét vấn đề nếu có tranh chấp thương mại xảy ra mà các
bên không tiến hành hòa giải theo như điều khoản hòa giải đã thỏa thuận mà
lại khởi kiện ngay ra Tòa án hay trọng tài thì những cơ quan này sẽ trả lại đơn
khởi kiện hay vẫn thụ lý, giải quyết? Nghị định số 22/2017/NĐ-CP đã không
đê cập đến vấn đề này. Theo tác giả cần quy định cụ thể và rõ ràng rằng, nếu
các bên đã có thỏa thuận hòa giải và cam kết không khởi kiện ra Tòa án và
trọng tài trong một thời gian xác định thì Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án phải
thừa nhận hiệu lực của thỏa thuận đó và từ chối thụ lý vụ việc cho đến hết
thời hạn trong cam kết. Sở dĩ phải quy định như vậy vì trong thực tế, đã có
nhiều trường hợp, mặc dù các bên quy định phải đảm bảo điều kiện nhất định
thì mới có thể khởi kiện trọng tài hoặc tòa án nhưng trọng tài và tòa án vẫn
thụ lý vụ việc dù các điều kiện được thỏa thuận chưa được đáp ứng. Để
khuyến khích hoạt động hòa giải thì nên quy định thêm điều khoản này bởi lẽ,
58
nếu không có quy định này thì thỏa thuận hòa giải có thể được tiến hành hoặc
không tiến hành tùy thuộc vào sự thiện chí của các bên. Như vậy, mục đích
của việc lựa chọn hòa giải để giải quyết tranh chấp không đạt được.
Thứ tư, nên quy định cụ thể trình tự, thủ tục và các loại chi phí cơ bản
cho hoạt động hòa giải thương mại. Bởi lẽ, chi phí hòa giải cũng là một trong
những yếu tố mà các bên tranh chấp quan tâm và đưa ra quyết định có nên lựa
chọn phương thức hòa giải để giải quyết tranh chấp hay không, vì vậy, cần có
một trình tự và mức phí khung cụ thể để các bên tiện theo dõi.
3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương
mại bằng hòa giải thương mại.
3.4.1. Đào tạo bồi dưỡng hòa giải viên
Trong giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại, hòa giải viên là
một thành phần hết sức quan trọng. Hòa giải viên là người chủ trì phiên hòa
giải.
Tại Quy tắc hòa giải Uncitral và Bộ quy tắc hòa giải của VIAC không
quy định về tiêu chuẩn hòa giải viên mà chỉ quy định về vai trò của hòa giải
viên. Tại Điều 7 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP quy định về tiêu chuẩn hòa
giải viên thương mại như sau:
“Hòa giải viên là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; có phẩm
chất đạo đức tốt, có uy tín, độc lập, vô tư, khách quan; có trình độ đại học trở
lên và đã qua thời gian công tác trong lĩnh vực được đào tạo từ 02 năm trở
lên; có kỹ năng hòa giải, hiểu biết pháp luật, tập quán kinh doanh, thương
mại và các lĩnh vực liên quan”
Hòa giải viên có thể là công dân Việt Nam hoặc công dân nước ngoài
đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn nêu trên. Hòa giải viên được đào tạo kỹ
năng hòa giải, được bồi dưỡng thường xuyên trong quá trình hoạt động cả về
trình độ chuyên môn lẫn kỹ năng nghiệp vụ hòa giải. Để nâng cao chất lượng
đội ngũ hòa giải viên cần phải thực hiện những bước như sau:
59
Thứ nhất, xây dựng tiêu chuẩn chọn lựa những chuyên gia am hiểu về
lĩnh vực kinh doanh thương mại như tài chính ngân hàng, bất động sản, bảo
hiểm,..và khuyến khích họ trở thành hòa giải viên thương mại. Những chuyên
gia am hiểu về lĩnh vực kinh doanh thương mại là người có trình độ chuyên
môn cao, có kinh nghiệm, kỹ năng hòa giải thực tế. Do vậy cần phải xây dựng
cơ chế để thu hút, đào tạo đội ngũ chuyên gia trở thành những hòa giải viên
tiêu biểu cả về chất lượng và số lượng nhằm thúc đẩy hoạt động hòa giải
ngoài tố tụng cũng như tạo niềm tin cho các doanh nghiệp.
Thứ hai, tận dụng nguồn nhân lực từ đội ngũ luật sư và thẩm phán đã
về hưu. Luật sư và thẩm phán về hưu là nguồn nhân lực chất lượng, bởi trong
quá trình làm việc họ có năng lực, kinh nghiệm và kĩ năng về hòa giải các vụ
việc thuộc tất cả các lĩnh vực. Đối với nguồn nhân lực này chỉ cần đào tạo,
bồi dưỡng thêm kiến thức kỹ năng về hòa giải về lĩnh vực kinh doanh thương
mại. Nếu tận dụng được nguồn nhân lực này bổ sung vào đội ngũ hòa giải
viên thương mại thì sẽ thu hút sự chú ý của doanh nghiệp đến hoạt động hòa
giải.
Thứ ba, xây dựng chương trình đào tạo đội ngũ hòa giải viên phù hợp
như tổ chức khóa học hòa giải, thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng vận dụng
thực tế hòa giải, gửi hòa giải viên đi học hỏi kinh nghiệm hòa giải tại các
quốc gia có hoạt động hòa giải phát triển. Đặc biệt đào tạo đội ngũ hòa giải
viên trẻ để bổ sung nguồn nhân lực kịp thời, đáp ứng yêu cầu phát triển hòa
giải kinh doanh thương mại trong và ngoài nước.
Thứ tư, hình thành tổ chức được quyền cấp công nhận cho một cá nhân
có đủ khả năng hành nghề hòa giải. Khi một cá nhân đạt tiêu chuẩn trở thành
một hòa giải viên sẽ được cấp một giấy chứng nhận hành nghề, công nhận họ
trở thành hòa giải viên có thể tham gia vào các tổ chức hòa giải để thực hiện
hòa giải. Tổ chức được quyền cấp công nhận một cá nhân trở thành hòa giải
viên có thể là cơ quan quyền lực nhà nước Bộ Tư Pháp, Tòa án hoặc các cơ
quan, tổ chức phi chính phủ như liên đoàn luật sư, VIAC.
60
Thứ năm, xây dựng cơ chế nhằm kiểm tra tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp của những người hành nghề hòa giải viên. Trong hòa giải thương mại
đạo đức nghề nghiệp của hòa giải viên là vô cùng quan trọng, bởi hòa giải
viên là người quyết định khả năng thành công của hòa giải, nắm giữ những bí
mật kinh doanh của các bên tranh chấp. Do đó cần có cơ chế chặt chẽ nhằm
kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời những hòa giải viên vi phạm đạo đức
nghề nghiệp. Đồng thời hình thành cơ chế kỷ luật nghề nghiệp, quy trình kỷ
luật phù hợp cho những người hành nghề hòa giải viên vi phạm.
3.4.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức về ý
nghĩa và hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải
thương mại.
Với thực trạng ở Việt Nam, trong hoạt động kinh doanh thương mại,
khi xảy ra tranh chấp thông thường các bên nghĩ ngay đến việc khởi kiện ra
tòa án, số ít nghĩ đến giải quyết bằng trọng tài và các phương thức giải quyết
tranh chấp khác. Chính xu hướng này đã làm quá tải công việc xét xử của Tòa
án, dẫn đến tình trạng tồn đọng án từ năm này qua năm khác. Dường như các
nhà kinh doanh thương mại quên đi việc sử dụng hòa giải như một phương
thức chủ yếu để giải quyết tranh chấp bởi hòa giải vừa tiết kiệm thời gian, chi
phí, giữ gìn mối quan hệ làm ăn tốt đẹp, giữ được bí mật kinh doanh và đạt
hiệu quả cao hơn so với phương thức giải quyết tranh chấp khác. Thực tế cho
thấy các nhà kinh doanh thương mại thường e ngại sử dụng phương thức hòa
giải bởi nhiều lý do khách quan và chủ quan, họ vẫn tin vào quyền phán xét
và hiệu lực thi hành khi sử dụng phương thức tố tụng. Rất ít người sử dụng
phương thức hòa giải. Để phát huy những ưu điểm của hoạt động hòa giải,
kinh doanh thương mại cũng như hạn chế vấn đề quá tải trong hoạt động xét
xử của tòa án, nhà nước cần có những chính sách tuyên truyền và phổ biến
pháp luật, khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa
giải. Nhà nước khuyến khích các bên sử dụng phương thức hòa giải để giải
61
quyết tranh chấp được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015, Luật Trọng tài
thương mại 2010 theo đó tại Điều 9, Luật Trọng tài thương mại quy định:
“Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do thương
lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Hội
đồng trọng tài hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
tranh chấp”
Để tuyên truyền lợi ích của việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải và khuyến khích sử dụng hòa giải như một biện pháp giải quyết tranh
chấp thay thế hàng đầu thì cần có những cách thức tuyên truyền hiệu quả như:
Thứ nhất, hình thành đội ngũ tuyên truyền là luật sư, trọng tài viên,
thẩm phán vì họ là những người thường xuyên tiếp xúc, giải quyết các tranh
chấp thương mại nên việc sử dụng đội ngũ này để tuyên truyền hoạt động hòa
giải sẽ đạt hiệu quả cao. Luật sư khuyến khích các bên chọn hòa giải ngay từ
giai đoạn đầu tranh chấp, khi tư vấn cho các bên lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp hiệu quả. Đội ngũ này sẽ tuyên truyền và phổ biến những lợi
ích trước mắt, lợi ích lâu dài mà các bên có được nếu chọn phương thức hòa
giải để giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, xây dựng hình thức tuyên truyền phù hợp. Hình thức được lựa
chọn đề tuyên truyền có thể là truyền hình, phát thanh, báo chí, biểu ngữ
hoặc internet. Thông qua các kênh thông tin này phương thức hòa giải sẽ
được phổ biến đến tất cả người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt phải kể đến
phương thức tuyên truyền truyền thông qua các buổi tọa đàm, đối thoại. Tổ
chức các buổi tọa đàm, mời các doanh nghiệp tham gia, tại buổi tọa đàm phân
tích những lợi ích của hòa giải, các khía cạnh của hòa giải, giải đáp thắc mắc
của doanh nghiệp liên quan đến hòa giải thương mại để phát triển phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại như là một
phương thức giải quyết tranh chấp thay thế độc lập.
Thứ ba, tổ chức các cuộc thi liên quan đến hòa giải thương mại, tuyên
truyền cho hoạt động hòa giải. Có thể thực hiện các cuộc thi như: hòa giải
62
viên tiêu biểu, tìm hiểu pháp luật về hòa giải thương mại. Qua các cuộc thi
này nâng cao nhận thức của cá nhân về lợi ích của hòa giải thương mại, đặc
biệt là nhận thức của các doanh nghiệp.
Tóm lại, tuyên truyền phổ biến pháp luật là một quá trình lâu dài, cần
có sự tham gia, phối hợp của các cơ quan tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên để hòa
giải trở thành phương thức giải quyết tranh chấp thay thế và được các doanh
nghiệp ưa chuộng thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật vè hòa giải thương
mại là yếu tố quan trọng đầu tiên, đào tạo đội ngũ hòa giải viên có năng lực
và kinh nghiệm, hình thành các trung tâm hòa giải chuyên nghiệp chuyên
cung cấp dịch vụ hòa giải. Ngoài ra Việt Nam cần xây dựng cơ chế quản lý
nhà nước đối với hòa giải, tổ chức tuyên truyền phổ biến pháp luật về hòa giải
thương mại, tạo niềm tin cho các doanh nghiệp về một phương thức giải quyết
tranh chấp hiệu quả.
63
KẾT LUẬN
Các tranh chấp kinh doanh, thương mại hiện đang phát sinh với số
lượng ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp hơn đòi hỏi phải có những cơ chế
giải quyết tranh chấp linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu thực
tiễn của Việt Nam, góp phần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh ổn định.
Một phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến trên thế giới, đặc
biệt tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển, chính là hòa giải thương mại.
Cùng với thương lượng và trọng tài, hòa giải được coi là một trong những
phương thức giải quyết tranh chấp thay thế và rất được các doanh nhân ưa
chuộng do những ưu điểm vượt trội của các phương thức này so với tố tụng
tòa án.
Nhận thức được những ưu điểm này, cơ quan lập pháp Việt Nam đã
ban hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ra đời
đã có một khung pháp lý điều chỉnh về hoạt động giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải thương mại, song những quy định này vẫn chưa
thực sự hoàn chỉnh. Khóa luận đã phân tích, chỉ ra những ưu điểm và nhược
điểm của những quy định đó.
Để hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về hòa giải thương mại là điều tất yếu. Đó là điều kiện cần
của một nền kinh tế thị trường. Bởi một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả
sẽ thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
Nhìn chung, giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương
mại là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả cần được các doanh
nghiệp quan tâm lựa chọn sử dụng phổ biến để giải quyết tranh chấp thương
mại. Bên cạnh đó, cũng cần hoàn thiện khung pháp luật để tạo niềm tin cho
các doanh nghiệp về một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả.
64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật
1. Ban chấp hành TW Đảng (2002), Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian sắp tới.
2. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020.
3. Bộ tư pháp (2013), Dự thảo Nghị định về hòa giải thương mại.
4. Quốc hội (1989), Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế, Hà Nội.
5. Quốc hội (1989), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các Vụ án Dân sự, Hà Nội.
6. Quốc hội (1990), Luật công ty, Hà Nội.
7. Quốc hội (1990), Luật doanh nghiệp Tư nhân, Hà Nội.
8. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
9. Quốc hội (1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết cac vụ án Kinh tế, Hà Nội.
10. Quốc hội (1997), Luật Thương mại 1997, Hà Nội.
11. Quốc hội (2000), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
12. Quốc hội (2003), Pháp lệnh Trọng tài Thương mại, Hà Nội.
13. Quốc hội (2005), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội.
14. Quốc hội (2005), Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hà Nội.
15. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
16. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Hà Nội.
17. Quốc hội (2005), Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế số
41/2005/QH11.
18. Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Hà Nội.
19. Quốc hội (2010), Luật Trọng tài thương mại, Hà Nội.
20. Quốc hội (2011), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm
2011, Hà Nội.
21. Quốc hội (2014), Luật Hòa giải cơ sở, Hà Nội.
22. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
65
23. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư, Hà Nội.
24. Quốc hội (2015), Bộ Luật Dân sự 2015, Hà Nội.
25. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Hà Nội.
26. Nghị định số 22/2017/NĐ-CP (ngày 24/02/2017) Nghị định về hòa giải
thương mại.
27. Ủy ban Liên hợp quốc (1985), Luật mẫu của Ủy ban pháp luật thương
mại quốc tế của Liên hợp quốc về trọng tài thương mại.
28. Ủy ban Liên hợp quốc (1985), Luật mẫu của Ủy ban pháp luật thương
mại quốc tế của Liên hợp quốc về thương mại điện tử.
29. Viên (1980), Công ước viên.
Các tài liệu tham khảo khác
30. Hoàng Anh (2013), “Một số vấn đề cần quan tâm khi xây dựng dự thảo
Nghị định về hòa giải thương mại”
http://www.moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-
doi.aspx?ItemID=5950>, truy cập lần cuối ngày 11/4/2018.
31. Nguyễn Thế Anh (2016), “Xây dựng chế định pháp luật về hòa giải
thương mại ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập cộng đồng kinh tế
ASEAN”, Luận văn thạc sĩ.
32. Nguyễn Thị Tú Anh, Vụ bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp (2011), “Trung gian
hòa giải thương mại theo Luật Cộng hòa Pháp”.
33. Châu Việt Bắc, Luật sư, phó tổng thư ký VIAC (2017), “Bước tiến hòa
giải thương mại”, http://www.thesaigontimes.vn/160435/Buoc-tien-hoa-
giai-thuong-mai.html, Truy cập lần cuối ngày 11/4/2018.
34. Ngô Huy Cương (2009), “Tự do ý chí trong pháp luật Việt Nam”, Khoa
luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
35. Ngô Huy Cương (2010), “Bàn về khái niệm và các điều kiện của chấp
nhận giao kết hợp đồng theo Bộ Luật Dân sự 2005”, Tạp chí dân chủ và
pháp luật số tháng 1/2010.
66
36. Ngô Huy Cương (2013), “Tập bài giảng luật kinh tế, giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại”, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
37. Nguyễn Mạnh Dũng & Đặng Vũ Minh Hà (2014), “Đóng góp ý kiến cho
Nghị Định Hòa giải thương mại” (Dự thảo ngày 21/10/2014)
38. Vũ Ánh Dương (2014), Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, “Phương
thức giải quyết tranh chấp hiệu quả”.
39. Đỗ Văn Đại (2011), “Luật hợp đồng Việt Nam, Bản án và bình luận bản
án tập 1”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. PGS.TS. Lê Hồng Hạnh (2000), “khái niệm thương mại trong pháp luật
Việt Nam và những bất cập dưới góc độ thực tiễn áp dụng và chính sách
hội nhập” Tạp chí Luật học, số 2/2000
41. Dương Quỳnh Hoa (2011), “Hòa giải – một phương thức giải quyết tranh
chấp thay thế”; tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 23/2011
42. Dương Quỳnh Hoa, Viện Nhà nước và Pháp luật (2012), “Hòa giải – một
phương thức giải quyết tranh chấp thay thế”, Tạp chí nghiên cứu Lập
pháp Điện tử.
43. Nguyễn Ngọc Lâm (2010), “Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại
quốc tế nhận dạng tranh chấp, biện pháp ngăn ngừa và phương pháp giải
quyết”, Nxb Chính trị quốc gia
44. Lưu Hương Ly (2011), “Hòa giải trong thương mại và phát triển phương
thức hòa giải trong thương mại ở Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp
số 10 tháng 5/2011.
45. Phạm Lê Mai Ly (2014), “Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh
thương mại ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ.
46. Nguyễn Thị Minh, Phó vụ trưởng Vụ Bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư Pháp (2011),
“Hòa giải thương mại và xu hướng phát triển tại Việt Nam”.
47. Phạm Duy Nghĩa (2010), “Giáo trình Luật Kinh tế”, Nxb Công an nhân
dân.
48. Hoàng phê (1997), “Từ điển Tiếng Việt”, Nxb Đà Nẵng
67
49. Lê Thị Hoàng Thanh (2012), Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2012),
“Hoàn thiện cơ chế hòa giải ở Việt Nam”, Thông tin Khoa học pháp lý số
9 và 10/2012.
50. Trần Đức Thắng, Trường Đại học Lao động và Xã hội (2012), “Nhận diện
tranh chấp thương mại”, Tạp chí dân chủ và pháp luật số Tháng 2/2012
51. Phan Thị Thanh Thủy (2013), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, “Tập
bài giảng về giải quyết tranh chấp thương mại”.
52. Phan Thị Thanh Thủy (2016), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, “Giải
quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam – Một số vấn đề
pháp lý cần quan tâm”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 32
số 2 năm 2016.
53. Ngô Thanh Tùng, Luật sư của VILAF (2016), “Hòa giải thương mại”,
Tài liệu bồi dưỡng kiến thức pháp luật và giải quyết tranh chấp quốc tế,
Bộ Tư pháp, Học viện Tư pháp.
54. Ngô Thị Thanh Tuyền (2014), “Xây dựng pháp luật về phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam”, Luận văn thạc
sĩ.
55. Cam kết về dịch vụ hòa giải tranh chấp giữa các thương nhân được ghi
nhận trong Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO, phần
dịch vụ liên quan đến tư vấn quản lý CPC 86692
56. Viện Ngôn ngữ học (2006), “Từ điển Tiếng việt”, Nxb Đà Nẵng
57. Vụ bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp (2015), “Báo cáo về việc Đoàn khảo sát
về hòa giải tại tỉnh Lâm Đồng”.
58. Tòa án nhân dân (2013), Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II tháng 02/2013
(số 4)
59. Tòa án nhân dân (2013), Tạp chí Tòa án nhân dân, Kỳ II tháng 06/2013
(số 11)
60. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), “Giáo trình Luật Thương mại tập
2”, Nxb công an nhân dân
68
61. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), “Giáo trình pháp
luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại”, Nxb Hồng Đức
– Hội luật gia Việt Nam.
62. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (2018), “Thống kê tình hình giải
quyết tranh chấp năm 2017 tại VIAC”
Các tài liệu Tiếng Anh
63. Nigel Broadnent 2009, Alternative Dispute Resolution, Legal information
Management, 9, p 195-198
64. Goldberg, Sander & Roger, Dispute Resolution: Negotiation, Mediation
and Other Processes,(1992), Trang 103.
65. Francis Lemeunier, Nguyên lí thực hành luật thương mại, luật kinh doanh,
Nxb, Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993
Website
66. http://www.asianmediationassociation.org/node/20
67. http://www.thesaigontimes.vn/160435/Buoc-tien-hoa-giai-thuong-
mai.html
68. http://bnews.vn/hoa-giai-thuong-mai-nang-cao-hieu-qua-giai-quyet-tranh-
chap/74237.html
69. http://baophapluat.vn/chuyen-llam-an/hoa-giai-thuong-mai-dang-ngay-
cang-duocoanh-nghiep-ua-chuong-324174.html