ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THẢO

PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG

HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM –

THỰC TIỄN ÁP DỤNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngành : Luật học chất lượng cao

Hệ đào tạo : Chính quy

Khóa học : QH-2014-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS.GVC NGUYỄN TRỌNG ĐIỆP

Hà Nội, 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn tron Khóa luận đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán

tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia

Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể

bảo vệ Khóa luận tố nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Thảo

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập và thực hiện Khóa luận tốt nghiệp, tôi đã nhận

được sự giúp đỡ nhiệt tình và vô cùng quý báu từ các thầy cô, gia đình và bạn

bè.

Tôi xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình, nghiêm túc và khoa

học của TS. Nguyễn Trọng Điệp – Giảng viên Bộ môn Luật Kinh doanh,

Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các giảng viên, cán bộ

Thư viện Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi

cho tôi trong quá trình hoàn thành Khóa luận.

SINH VIÊN

Nguyễn Thị Thảo

MỤC LỤC

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục

PHẦN MỞ ĐẦU. .............................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG ..................... 6

1.1. Khái quát về tranh chấp thương mại ....................................................... 6

1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại ........................................................... 6

1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại ..................................................... 9

1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại ........................................ 10

1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại .............. 11

1.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 12

1.2.2. Đặc điểm ............................................................................................... 14

1.2.3. Nguyên tắc hòa giải ............................................................................... 16

1.2.4. Ưu và nhược điểm ................................................................................. 17

1.2.5. Các phương thức hòa giải ..................................................................... 19

1.2.6. Quy trình hòa giải ................................................................................. 21

1.2.7. Hình thức pháp lý và hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành ............... 23

1.2.8. Vai trò, chức năng và ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết tranh chấp

thương mại....................................................................................................... 24

1.2.8.1. Vai trò, chức năng của hòa giải thương mại ..................................... 24

1.2.8.2. Ý nghĩa của hòa giải thương mại ...................................................... 25

1.2.9. Lịch sử hình thành và phát triển chế định hòa giải thương mại ở Việt

Nam ......................................................................................................... 26

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG Ở VIỆT

NAM ............................................................................................................... 30

2.1. Quy định pháp luật đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa

giải. ............................................................................................................... 30

2.1.1. Các cam kết quốc tế của Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại

bằng hòa giải. .................................................................................................. 30

2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại

bằng hòa giải. .................................................................................................. 37

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam .. 40

2.3. Một số vấn đề pháp lý tiến bộ theo pháp luật Việt Nam khi giải quyêt

tranh chấp thương mại bằng hòa giải .............................................................. 44

2.4. Một số vấn đề pháp lý hạn chế khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng

hòa giải theo pháp luật Việt Nam. ................................................................... 46

2.5. Nguyên nhân những hạn chế cơ bản của pháp luật Việt Nam về giải quyết

tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng. ....................................... 49

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VỀ HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ........................................................... 53

3.1. Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp

thương mại bằng hòa giải thương mại. ........................................................... 53

3.1.1. Cơ sở lý luận. ........................................................................................ 53

3.1.2. Cơ sở thực tiễn. ..................................................................................... 55

3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại

bằng hòa giải thương mại ................................................................................ 56

3.3. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp

thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam. ........................................................... 57

3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại bằng

hòa giải thương mại. ........................................................................................ 59

3.4.1. Đào tạo bồi dưỡng hòa giải viên ........................................................... 59

3.4.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức về ý nghĩa và

hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. . 61

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 65

PHẦN MỞ ĐẦU.

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Nền kinh tế Việt Nam đã và đang phát triển với tốc độ rất đáng lạc

quan theo cơ chế thị trường. Sau hơn 30 năm đổi mới và mở cửa đã có những

chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển.

Nhưng trong bối cảnh đó thì các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa

dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể

kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức, cá nhân nước ngoài.

Chính vì vậy tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được

quan tâm giải quyết kịp thời; hay nói cách khác, để các quan hệ kinh doanh

thương mại ngày càng phát triển thì cần có một phương thức giải quyết tranh

chấp có hiệu quả.

Pháp luật Việt Nam công nhận các phương thức giải quyết tranh chấp

thương mại bao gồm: thương lượng, hòa giải, trọng tài và tòa án. Theo đó khi

xảy ra tranh chấp các bên có thể thương lượng với nhau để giải quyết, trường

hợp không thương lượng được thì có thể thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ

ba thông qua hòa giải, trọng tài hoặc tòa án. Mỗi phương thức đều có những

ưu điểm và nhược điểm riêng nhưng nhìn chung đều hướng tới việc giải quyết

xung đột giữa các bên, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của các

bên khi tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại.

Trong các phương thức giải quyết tranh chấp, bên cạnh thương lượng

và trọng tài thì phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải rất phổ biến

trên thế giới, đặc biệt được ưa chuộng tại các quốc gia có nền kinh tế phát

triển do những ưu điểm vượt trội của phương thức này so với phương thức tố

tụng. Tuy nhiên, tại Việt Nam phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa

giải trong hoạt động thương mại còn khá mới và chưa được sử dụng rộng rãi

bởi nhiều nguyên nhân về pháp lý cũng như con người. Trước khi có Nghị

định quy định về trình tự, thủ tục hòa giải thương mại thì việc giải quyết tranh

chấp bằng hòa giải đã được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật

1

chuyên ngành mà chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về trình tự, thủ

tục giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng hòa giải.

Nghị định số 22/2017/NĐ-CP, Nghị định về hòa giải thương mại được

“thai nghén” khoảng thời gian 5 năm trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập

ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cùng với đó là tình

trạng quá tải của tòa án đối với các tranh chấp có tính kinh doanh, thương mại

đã mở ra một kênh giải quyết tranh chấp mới với nhiều ưu điểm trong hoạt

động kinh doanh, thương mại. Do đó để thúc đẩy sự phát triển và áp dụng

rộng rãi của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, cần

phải có những công trình nghiên cứu chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm của

phương thức này cũng như thực tiễn liên quan đến hòa giải tại Việt Nam trên

cơ sở đối chiếu và so sánh, để tăng thêm sự hiểu biết xã hội và chấp nhận

rộng rãi phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải. Với lý

do như trên, tôi chọn đề tài “Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại

bằng hòa giải ngoài tố tụng theo pháp luật Việt Nam – Thực tiễn áp dụng”

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong nền kinh tế thị trường, các nhà kinh doanh đều muốn xây dựng

lòng tin, duy trì mối quan hệ kinh tế đối với các đối tác một cách lâu dài để

đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, thương mại ổn định và phát triển. Tuy

vậy, đôi khi nhiều lý do chủ quan và khách quan, các mối quan hệ kinh doanh

thương mại giữa các nhà kinh doanh cũng có những bất đồng và mâu thuẫn

dẫn đến các tranh chấp trong việc thực hiện cam kết. Vì thế, giải quyết tranh

chấp thương mại là một vấn đề cấp thiết, hiện nay đã có nhiều công trình

nghiên cứu về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, bằng

trọng tài, bằng tòa án như khóa luận tốt nghiệp năm 2009 “Giải quyết tranh

chấp thương mại bằng thương lượng” của tác giả Ngô Thế Lập – Khoa Luật

Đại học Quốc gia Hà Nội; khóa luận tốt nghiệp năm 2010 “Hòa giải trong tố

tụng dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả La Phương Na –

trường Đại học Luật Hà Nội; Tập bài giảng về giải quyết tranh chấp thương

2

mại, PGS.TS. Phan Thị Thanh Thủy – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội;

“Hòa giải thương mại và xu hướng phát triển tại Việt Nam”, TS.Nguyễn Thị

Minh, Phó vụ trưởng Vụ bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp, năm 2011; “Hoàn

thiện cơ chế hòa giải ở Việt Nam – Bài học kinh nghiệm các nước”, ThS. Lê

Thị Hoàng Thanh, năm 2012; Luận văn thạc sĩ năm 2014 “Xây dựng pháp

luật về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt

Nam” của tác giả Ngô Thị Thanh Tuyền – Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà

Nội; Luận văn Thạc sĩ năm 2014 “Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh

thương mại ở Việt Nam” của tác giả Phạm Lê Mai Ly – Khoa luật Đại học

Quốc gia Hà Nội;….

Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn

thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại. Tuy

nhiên các công trình trên chủ yếu tiếp cận phương thức hòa giải tranh chấp

kinh doanh thương mại từ góc độ luật thực định, mà hiện nay luật đã có nhiều

thay đổi. Sự ra đời của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải

thương mại và sự đổi mới của hàng loạt các Luật chuyên ngành khác đã làm

vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải vốn đã mới ở Việt

Nam nay lại càng mới hơn. Đề tài nghiên cứu việc quy định phương thức giải

quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng theo pháp luật Việt

Nam hiện hành có những ưu điểm, nhược điểm gì; thực tiễn áp dụng nó ra

sao; từ đó đề xuất các giải pháp để tiếp tục hoàn thiện và củng cố hệ thống

pháp luật về hòa giải thương mại. Đây là vấn đề cấp thiết trong bối cảnh hội

nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam hiện nay.

3. Mục đích nghiên cứu

3.1. Mục tiêu tổng quát

Nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung của phương thức giải quyết

tranh chấp thương mại bằng hòa giải theo pháp luật Việt Nam hiện nay để từ

đó có cơ sở xây dựng, hoàn thiện và áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp

thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam.

3

3.2. Mục tiêu cụ thể

Thứ nhất, tìm hiểu và phân tích khái niệm, đặc điểm của tranh chấp

thương mại. Từ đó làm rõ các vấn đề lý luận và nội dung của phương thức

giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải.

Thứ hai, tìm hiểu các quy định pháp luật của Việt Nam cũng như thực

trạng của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng hòa

giải.

Thứ ba, kiến nghị một số giải pháp để xây dựng, hoàn thiện và áp dụng

pháp luật có hiệu quả trong giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung về lý luận, thực tiễn pháp luật

Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam để giải quyết tranh chấp

thương mại bằng hòa giải.

Đối với phương thức hòa giải để giải quyết tranh chấp thì có hòa giải tư

pháp tức là hòa giải gắn liền với hoạt động của Tòa án, Trọng tài (hay còn gọi

là hòa giải trong tố tụng), hòa giải hành chính gắn với hoạt động của các cơ

quan hành chính và hòa giải cơ sở mang tính chất xã hội đối với những tranh

chấp nhỏ. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài thì tác giả tập trung nghiên

cứu về hòa giải ngoài tố tụng – một phương thức để giải quyết tranh chấp gắn

với các tranh chấp trong hoạt động thương mại (hay còn gọi là hòa giải

thương mại).

5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng của

triết học Marx – Lenin và trên quan điểm, định hướng của Đảng cũng như của

Nhà nước trong việc phát triển kinh tế Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới

Đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu luật học truyền

thống, như phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, đối chiếu, so sánh các

quy phạm pháp luật, các vụ việc thực tiễn giải quyết tranh chấp

6. Tính mới và đóng góp của đề tài

4

Tuy đã có nhiều đề tài nghiên cứu vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật

về hòa giải trong các tranh chấp kinh doanh thương mại, song các đề tài đó

nghiên cứu dựa trên nền tảng những quy định pháp luật cũ về hòa giải thương

mại. Hiện nay Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại ra đời, có

những quy định pháp luật mới cần được giải thích có hệ thống phục vụ cho

việc áp dụng hòa giải vào giải quyết các tranh chấp thương mại một cách có

hiệu quả; bên cạnh việc cập nhật những quy định pháp luật mới về hòa giải đề

tài cũng sẽ nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và thực tiễn về pháp

luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải. Vì vậy, đề tài “Phương

thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng theo

pháp luật Việt Nam – thực tiễn áp dụng” về cơ bản là mới. Đề tài sẽ làm rõ

những vấn đề lý luận, khái niệm, đặc điểm, nội dung của phương thức giải

quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải theo pháp luật hiện hành. Từ đó

tìm ra những điểm hạn chế trong các quy định pháp luật để góp phần hoàn

thiện hơn hệ thống pháp luật về hòa giải cũng như việc áp dụng phương thức

này vào giải quyết các tranh chấp thương mại thực sự có hiệu quả.

7. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì khóa luận tốt nghiệp bao gồm

có ba chương

Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại

bằng hòa giải ngoài tố tụng

Chương 2: Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng

phương thức hòa giải ngoài tố tụng ở Việt Nam.

Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa

giải ngoài tố tụng trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam.

5

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG

1.1. Khái quát về tranh chấp thương mại

1.1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại

Tranh chấp thương mại là một trong những hệ quả của hoạt động

thương mại, đó là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong

hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như

hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả

nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm

nhất định đến hoạt động này cũng như các phương thức giải quyết. Tranh

chấp thương mại (hay tranh chấp kinh doanh thương mại) là thuật ngữ quen

thuộc trong đời sống kinh tế - xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này

mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây

bởi sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen

thuộc của cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý

của người Việt Nam.

Tranh chấp có thể biểu hiện ở những dạng sau:

- Tranh chấp trong kinh doanh: được diễn ra giữa các chủ thể tham gia

kinh doanh, đó là tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản xuất đến

tiêu thụ trên thị trường hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích

sinh lợi

- Tranh chấp giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư: loại tranh chấp

này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BOT, BTO, BT, thực hiện

điều ước quốc tế khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương hoặc đa

phương.

- Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong

việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại đa phương, ví dụ tranh chấp

giữa Mỹ và EU về nhập khẩu chuối.

6

Có thể nói trong các loại hình tranh chấp trên thì tranh chấp về thương

mại là loại hình tranh chấp phổ biến nhất

Tổ chức thương mại thế giới (WTO) quan niệm tranh chấp thương mại

là tranh chấp ở phạm vi quốc tế, được dùng để chỉ các bất đồng giữa các nước

thành viên WTO khi một nước cho rằng quyền lợi của mình theo một hiệp

định nào đó của WTO bị triệt tiêu đi hay bị xâm hại do việc một nước thành

viên khác áp dụng một biện pháp thương mại hoặc không thực hiện một nghĩa

vụ; hoặc khi việc đạt được mục tiêu của hiệp định bị cản trở, triệt tiêu hoặc

suy giảm quyền lợi thương mại do biện pháp thương mại của một thành viên

bất kể là biện pháp này có trái với nghĩa vụ thành viên hay không; hoặc khi có

bất kỳ tình tiết nào đem lại thiệt hại về quyền lợi hay cản trở đạt mục tiêu hiệp

định. Hơn nữa, một bất đồng chỉ trở thành một tranh chấp của WTO khi nó

được chính thức thông báo cho Ban thư ký WTO.

Như vậy, trong khuôn khổ WTO, tranh chấp thương mại được hiểu là

bất đồng giữa các thành viên WTO liên quan đến việc thực hiện các quyền và

nghĩa vụ theo các Hiệp định và thỏa thuận của WTO và bất đồng này được

thông báo chính thức cho Ban thư ký WTO vì vậy nó có đặc điểm sau:

Thứ nhất, tranh chấp thương mại trong WTO là tranh chấp thương mại

quốc tế liên quốc gia, liên chính phủ

Thứ hai, các bên tranh chấp là thành viên WTO. Các tổ chức quốc tế,

các cá nhân, pháp nhân không thể là một bên của tranh chấp

Thứ ba, khách thể của tranh chấp luôn liên quan đến việc thực hiện các

quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thỏa thuận của WTO

Thứ tư, tranh chấp phải được giải quyết theo cơ chế giải quyết tranh

chấp của WTO.

Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại trong từng giai đoạn là

khác nhau cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Lần đầu tiên khái niệm tranh

chấp thương mại được ghi nhận trong Luật Thương mại năm 1997 tại Điều

238 như sau: “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không

7

thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”.

Theo đó, nội hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại

năm 1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương

mại chỉ bao gồm ba nhóm: Hoạt động mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ

thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại. Tranh chấp thương mại và

hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã loại

bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được

coi là tranh chấp thương mại. Vì vậy đã dẫn đến các xung đột pháp luật trong

hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, trong đó có

cả những Công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công

ước New York năm 1958) gây không ít những trở ngại, rắc rối trong thực tiễn

áp dụng và chính sách hội nhập [40].

Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 không trực tiếp đưa ra định

nghĩa về tranh chấp thương mại song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt

động thương mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm

về thương mại và tranh chấp thương mại của pháp luật Việt Nam với chuẩn

mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế.

Luật Thương mại năm 2005 đã đưa ra một khái niệm về hoạt động

thương mại theo đó khái niệm này mở rộng hoạt động thương mại bao gồm

tất cả mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này cho thấy khái

niệm về hoạt động thương mại đã thể hiện sự tương đồng với khái niệm kinh

doanh trong Luật Doanh nghiệp 1999, Luật doanh nghiệp 2005 cũng như Luật

doanh nghiệp năm 2014.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã liệt kê các tranh chấp về kinh

doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tuy sử dụng

thuật ngữ các tranh chấp kinh doanh, thương mại nhưng về nội hàm thì tương

đồng với các tranh chấp thương mại theo Luật Thương mại năm 2005.

Từ các tiếp cận trên có thể hiểu: tranh chấp thương mại là những mâu

thuẫn, bất đồng, xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể (có thể là

8

thương nhân hoặc không phải là thương nhân) trong quá trình thực hiện các

hoạt động thương mại (các hoạt động có mục đích sinh lời).

1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại

Tranh chấp kinh doanh thương mại là tranh chấp phát sinh từ những

quan hệ do ngành luật thương mại điều chỉnh, vì vậy nó có những đặc trưng

khác biệt so với tranh chấp dân sự và tranh chấp lao động. Về cơ bản tranh

chấp kinh doanh thương mại có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (trạng thái xung

đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ thương mại. Quan

hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là điều

kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại,các bên

vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề ra.

Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện

quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu.

Thứ hai, những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phải phát

sinh từ hoạt động thương mại. Theo đó, tranh chấp thương mại phải là những

mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những

hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch

vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi

khác.

Thứ ba, về chủ thể, tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp

phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân, pháp nhân) kinh doanh với nhau.

Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong

những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương

nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại khi trong các giao

dịch trên bên không có mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại

[Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005]. Khoa học pháp lý gọi giao dịch

này là giao dịch hỗn hợp. Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh

lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động

9

thương mại thuần túy, nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp

dụng luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại

và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh

chấp thương mại [65].

Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp thương mại là do các bên trong tranh

chấp tự định đoạt. Điều này thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp có quyền

lựa chọn giải pháp giải quyết tranh chấp phù hợp trong các phương thức giải

quyết tranh chấp thương mại được pháp luật quy định như thương lượng, hòa

giải, trong tài, Tòa án. Tuy nhiên, các bên vẫn phải đảm bảo tôn trọng lợi ích

của nhau và lợi ích của nhà nước.

Tóm lại, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn phát sinh giữa các

chủ thể (có thể là thương nhân hoặc không) trong quá trình hoạt động thương

mại. Nó đã trở thành một hiện tượng tất yếu khách quan của nền kinh tế thị

trường. Khi tranh chấp thương mại phát sinh đòi hỏi cần phải được giải quyết

một cách minh bạch và hiệu quả để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các

chủ thể, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương

mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Cùng với sự phát triển của

các quan hệ kinh tế dưới sự tác động trực tiếp của quy luật cạnh tranh, tranh

chấp thương mại cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại, gay gắt, phức tạp

hơn về tính chất và quy mô. Chính vì thế, việc áp dụng hình thức và phương

thức giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách

quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh, bảo

đảm nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa, thông qua đó góp phần tạo môi

trường pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế.

1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp thương mại

Giải quyết tranh chấp thương mại có thể được hiểu là việc lựa chọn các

hình thức, biện pháp thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột

lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể

chấp nhận được, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm của

10

mình đối với bên bị vi phạm. Hoặc có thể hiểu giải quyết tranh chấp thương

mại là việc các bên tranh chấp thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến

hành các giải pháp nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi

ích trong hoạt động thương mại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình.

Tranh chấp thương mại xảy ra không chỉ ảnh hưởng đến quyền và lợi

ích của các bên trong quan hệ thương mại mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự

phát triển của nền kinh tế đất nước. Việc giải quyết tranh chấp thương mại là

yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế đang ngày càng hội

nhập của Việt Nam, nó cần phải đáp ứng những yêu cầu sau: đảm bảo quyền

tự do kinh doanh của các chủ thể; giữ gìn bí mật kinh doanh và uy tín của các

bên tranh chấp; không làm hạn chế hay cản trở hoạt động thương mại; nhanh

chóng khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác và tín nhiệm của các bên

trong hoạt động thương mại, đảm bảo chi phí giải quyết tranh chấp là ít tốn

kém nhất.

Nói chung, giải quyết tranh chấp thương mại là quá trình các bên trong

quan hệ tranh chấp tìm ra các phương thức, biện pháp để tháo bỏ những

xung đột, mâu thuẫn về lợi ích của các bên. Quá trình giải quyết tranh chấp

này không chỉ giúp các bên bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của họ

mà còn giúp cho nền kinh tế có cơ hội ngày càng phát triển ổn định.

1.2. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại

Một nền kinh tế phát triển là một nền kinh tế ở đó tồn tại những phương

thức giải quyết tranh chấp hiệu quả. Bởi lẽ, suy cho cùng khi tham gia vào

môi trường kinh doanh thương mại, các chủ thể đều theo đuổi tìm kiếm mục

tiêu lợi nhuận, mục tiêu này đã làm các chủ thể có những hành vi xâm phạm

đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác hoặc có thể do những lý do

khách quan khác mà nảy sinh tranh chấp giữa các bên trong quan hệ kinh

doanh thương mại. Để thúc đẩy sự tham gia của các chủ thể vào hoạt động

kinh doanh thương mại thì cần có cơ chế giải quyết tranh chấp hữu hiệu để

11

chắc chắn rằng quyền lợi của họ sẽ được bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Giải

quyết tranh chấp thương mại một cách kịp thời và hiệu quả đem lại những lợi

ích sau: 1) Tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế; 2) Cho phép

hạn chế đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt

ở mức chi phí thấp nhất; 3) Bảo vệ một cách có hiệu quả quyền, lợi ích hợp

pháp và chính đáng của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ kinh doanh

thương mại, từ đó tạo niềm tin, thực hiện công bằng và bình đẳng cho các

doanh nghiệp trong nước và nước ngoài [58].

Có thể nói, hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh

chấp hiệu quả đáp ứng nhu cầu trên, hòa giải thương mại đã được sử dụng

phổ biến ở các quốc gia trên thế giới từ nhiều năm nay, đặc biệt là các quốc

gia phát triển. Ở Việt Nam, phương thức giải quyết tranh chấp này còn khá

mới và ít được phổ biến như là một phương thức giải quyết thay thế độc lập.

1.2.1. Khái niệm

Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đã và

đang là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Phù hợp với xu thế đó,

từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh

hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa dạng hóa, đa phương hóa quan

hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng

quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Sự hội nhập này đã

mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế Việt Nam, song bên cạnh đó cũng còn

phát sinh nhiều khó khăn, đặc biệt là sự phức tạp của các tranh chấp thương

mại. Vì thế, cần phải có những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại

nhanh gọn, tiết kiệm và có thể duy trì được mối quan hệ hợp tác giữa các bên.

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải (hay hòa giải thương mại) là

một trong những phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến trên thế giới và

đáp ứng được những yêu cầu về tính hiệu quả như thủ tục nhanh gọn, tiết

kiệm chi phí,… Cùng với thương lượng và trọng tài, hòa giải thương mại

được coi là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp thay thế

12

(ADR). Phương thức giải quyết tranh chấp thay thế được hiểu một cách chính

xác những gì mà nó thể hiện đó là phương thức giải quyết tranh chấp thay cho

việc khởi kiện ra tòa [61, tr.196]. Điều này đặt ra câu hỏi là nó thay thế cho

cái gì. Ở đây, “thay thế” hàm nghĩa những khác biệt với hình thức tố tụng của

Tòa án. Ngoài ra, “thay thế” còn hàm ý có một sự tự do lựa chọn, các bên có

quyền lựa chọn sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khác

như thương lượng, hòa giải,…vì những ưu điểm vượt trội của nó so với

phương thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án.

Hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiệu

quả, tuy nhiên hiện nay quan niệm về hòa giải còn nhiều vấn đề chưa thống

nhất và vẫn còn nhiều định nghĩa khác nhau về hòa giải, cụ thể như sau:

Theo từ điển Tiếng Việt “Hòa giải là thuyết phục các bên đồng ý chấm

dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa” [48, tr.430]. Khái niệm này

đã đề cập đến hành động và mục đích của hòa giải nhưng chưa nêu được các

yếu tố như bản chất, nội dung và chủ thể của hòa giải.

Theo từ điển Luật học Black’s Law định nghĩa “Hòa giải là sự can

thiệp, sự làm trung gian hòa giải, hành vi của người thứ ba làm trung gian

giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh

chấp giữa họ, việc giải quyết tranh chấp thông qua người trung gian hòa giải

(bên trung lập)” [38. Tr.307]. Định nghĩa này đã nhắc đến chủ thể, bản chất

của hòa giải, khắc phục được một phần hạn chế trong định nghĩa của Từ điển

Tiếng Việt.

Theo định nghĩa của Luật mẫu của Ủy ban Pháp luật thương mại Quốc

tế (UNCITRAL) về hòa giải thương mại thì “Hòa giải là một quá trình trong

đó các bên yêu cầu một hay nhiều bên thứ ba (hòa giải viên) tham gia nỗ lực

hỗ trợ các bên nhằm giải quyết êm thấm tranh chấp phát sinh từ hoặc liên

quan một mối quan hệ trên cơ sở hợp đồng hoặc một mối quan hệ pháp luật

khác. Hòa giải viên không có quyền áp đặt các bên phải thực hiện một giải

pháp giải quyết tranh chấp” [Khoản 3 Điều 1].

13

Theo định nghĩa của giáo trình luật thương mại thì “Hòa giải là

phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung

gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải

pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh” [60, tr.441].

Theo giáo trình pháp luật về cạnh tranh và giải quyết thương mại “Hòa

giải là hình thức giải quyết tranh chấp thương mại có sự tham gia của bên

thứ ba với vai trò làm trung gian để giúp các bên có được tiếng nói chung

trong việc giải quyết các bất đồng” [61, tr.323].

Theo Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương mại

định nghĩa “Hòa giải thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp

thương mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải viên thương mại làm

trung gian hòa giải hỗ trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của Nghị định

này” [Khoản 1 Điều 3].

Một vài quan điểm khác cho rằng hòa giải còn được hiểu ở góc độ rộng

hơn là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với

nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ. Hòa giải cũng được coi là sự tiếp nối

của quá trình thương lượng trong đó các bên cố gắng điều hòa những ý kiến

bất đồng thông qua sự hỗ trợ của bên thứ ba trung lập.

Có thể thấy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hòa giải, nhưng qua

các khái niệm trên có thể hiểu: “Hòa giải thương mại là một phương thức

giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng

thỏa thuận chấp nhận hay chỉ định giữ vai trò trung gian để hỗ trợ cho các

bên tìm kiếm giải pháp thích hợp giúp chấm dứt những mâu thuẫn, xung đột

đang tồn tại giữa các bên”.

1.2.2. Đặc điểm

Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải có sự

hiện diện của bên thứ ba đóng vai trò là hòa giải viên để trợ giúp các bên tìm

kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp, xung đột. Đây là điểm khác

biệt cơ bản giữa hòa giải và thương lượng vì thương lượng là việc tự giải

14

quyết tranh chấp giữa các bên mà không có sự xuất hiện của người thứ ba.

Đồng thời đó cũng là điểm khác biệt với phương thức giải quyết tranh chấp

bằng trọng tài và tòa án, hòa giải viên không có quyền phán xét cũng như

không đưa ra bất cứ quyết định hay giải pháp nào ràng buộc các bên tranh

chấp như trọng tài viên và thẩm phán. Hòa giải viên có vai trò là khuyến

khích và trợ giúp các bên đạt được sự thống nhất ý chí và đưa ra quyết định

cuối cùng.

Thứ hai, giống như thương lượng, hòa giải là giải pháp tự nguyện, tùy

thuộc vào sự tự nguyện và thiện ý của các bên tham gia tranh chấp. Tuy

nhiên, quá trình hòa giải các bên tranh chấp cũng vẫn chịu sự chi phối nhất

định mang tính thể thức như điều lệ của Trung tâm hòa giải, các quy định cơ

bản của pháp luật về thủ tục hòa giải. Hòa giải là một cơ chế linh hoạt, mềm

dẻo cho các bên tranh chấp bởi khi sử dụng hòa giải để giải quyết tranh chấp,

mối quan hệ giữa các bên thường thân thiện hơn, giữ được quan hệ hợp tác,

làm ăn trong tương lai. Bởi lẽ, khi sử dụng phương thức hòa giải thì không có

kẻ thắng, người thua mà là đi tìm giải pháp tối ưu để cả hai cùng thắng. Trong

khi đó, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và tòa án phải thực

hiện theo thủ tục tố tụng do pháp luật quy định, sau khi giải quyết tranh chấp

kết quả sẽ có kẻ thắng người thua nên mối quan hệ giữa các bên có thể trở nên

căng thẳng trong tương lai. Chính vì vậy trong thực tiễn hoạt động thương

mại của các nước phát triển, các doanh nhân có xu hướng lựa chọn cách thức

giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại.

Thứ ba, văn bản về kết quả hòa giải thành được xem xét công nhận

theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tức là khi văn bản hòa giải thành

được công nhân bởi Tòa án thì nó có giá trị như một bản án, vì vậy nó có hiệu

lực buộc phải thực hiện.

Từ những đặc điểm trên có thể rút ra được bản chất của hòa giải thương

mại như sau:

15

Hòa giải là quá trình các bên đàm phán với nhau về việc giải quyết

tranh chấp với sự trợ giúp của một bên thứ ba độc lập (hòa giải viên) [64,

Tr.103]. Hòa giải khác với thương lượng ở sự có mặt của bên thứ ba và cũng

khác phương thức trọng tài ở chỗ, hòa giải viên không có quyền xét xử và ra

phán quyết như trọng tài viên. Vai trò của hòa giải viên trong quá trình hòa

giải chỉ dừng lại ở việc khuyến khích và trợ giúp các bên tìm ra một giải pháp

mang tính thực tế mà tất cả các bên liên quan đều có thể chấp nhận sau khi

xem xét, nghiên cứu những lợi ích và nhu cầu của họ.

1.2.3. Nguyên tắc hòa giải

Hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp thương

mại độc lập với tố tụng tòa án và trọng tài và được tiến hành bởi một cơ quan

có chức năng hòa giải độc lập. Hòa giải thương mại được tiến hành theo

nguyên tắc quy định tại Điều 4 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP như sau:

Thứ nhất, hòa giải mang tính chất tự nguyện, thể hiện ở chỗ các bên tự

nguyện đưa tranh chấp ra hòa giải, không bên nào ép buộc bên nào tham gia

vào. Sự tự nguyện được thể hiện bằng việc các bên có thể quyết định quy

trình hòa giải, quyền tự do thỏa thuận về phương pháp, lựa chọn hòa giải viên,

tự do ý chí về các giải pháp giải quyết tranh chấp, thỏa thuận lựa chọn

phương án giải quyết thích hợp, quyền của các bên chấm dứt hòa giải khi

không đạt được mục tiêu. Hòa giải viên sẽ cung cấp những nhận định, đánh

giá về nội dung vụ tranh chấp cũng như ý kiến tư vấn về cách thức giải quyết

vụ tranh chấp, nhưng những nhận định và ý kiến của hòa giải viên chỉ có tính

chất tham khảo và không có tính chất ràng buộc đối với các bên. Việc các bên

có đi đến thỏa thuận hòa giải hay không và nội dung của thỏa thuận đó sẽ do

các bên tự quyết định.

Thứ hai, nguyên tắc bảo vệ uy tín, các yếu tố bí mật, bí mật kinh doanh

của các bên tranh chấp trong hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại.

Hòa giải là một quá trình giải quyết tranh chấp có tính tự nguyện, riêng

tư mà ở đó các bên có thể trao đổi trực tiếp, thẳng thắn với nhau về các tài

16

liệu, chứng cứ liên quan đến tranh chấp trong đó có cả những vấn đề về bí

mật kinh doanh. Trong quá trình hòa giải các bên cùng nhau thảo luận về các

phương án khác nhau do hòa giải viên đưa ra, chủ động đưa ra những yêu cầu

hoặc nhượng bộ để đạt tới một giải pháp dung hòa lợi ích của hai bên. Điều

đó giữ gìn được uy tín của mỗi bên vừa duy trì mối quan hệ thương mại lâu

dài, do đó việc bảo toàn bí mật, tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các bên và của

hòa giải viên trong quá trình hòa giải là điều vô cùng quan trọng. Bởi nếu hòa

giải không được thì tài liệu, bí mật của các bên sẽ có nguy cơ lộ ra, do vậy các

bên cần có tinh thần hợp tác thân thiện để các bên an tâm tiến hành hòa giải.

Thứ ba, đảm bảo tính khách quan, phù hợp quy định của pháp luật và

các tập quán thương mại quốc tế, không trái thuần phong mỹ tục và đạo đức

xã hội, không xâm phạm đến quyền lợi ích của bên thứ ba.

Tính khách quan thể hiện ở chỗ bên thứ ba làm trung gian hòa giải phải

đảm bảo sự tin cậy của các bên với những tư vấn, đề xuất phương án giải

quyết của hòa giải viên. Hòa giải viên không được thể hiện thái độ thiên vị

đối với bất cứ bên tranh chấp nào trong việc điều khiển quá trình hòa giải

cũng như trong việc đưa ra các nhận định hay ý kiến tư vấn. Trong trường

hợp một trong các bên thấy hòa giải viên thiên vị vi phạm nguyên tắc khách

quan, bên đó có quyền yêu cầu thay đổi hòa giải viên hoặc yêu cầu chấm dứt

và rút lui khỏi quá trình hòa giải.

Hơn nữa trong quá trình hòa giải phải đảm bảo thỏa thuận hòa giải

không trái với thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Đặc biệt thỏa thuận hòa

giải còn không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.

Ví dụ: Các quan hệ tranh chấp kinh doanh thương mại giữa các bên có liên

quan trực tiếp đến người tiêu dùng, thì thỏa thuận hòa giải giữa các bên phải

không xâm phạm đến quyền lợi chính đáng mà người tiêu dùng được hưởng.

1.2.4. Ưu và nhược điểm

 Về ưu điểm:

17

Thứ nhất, hòa giải thương mại linh hoạt về thủ tục. Hòa giải có thể

được tiến hành trong nhiều môi trường khác nhau, thủ tục có thể được thỏa

thuận và điều chỉnh cho thích nghi. Tính linh hoạt đem lại lợi thế là các bên

được bày tỏ ý kiến xem quá trình nào thì phù hợp với họ; cho phép có những

điều chỉnh khi bản chất của tranh chấp và các bên tranh chấp đòi hỏi phải vậy;

tránh khả năng về việc có những yêu cầu về thủ tục kỹ thuật quá phức tạp.

Trong hòa giải thường không có quy định nào về chứng cứ và cũng không có

quy định về kiểm chứng cũng như xem xét về mặt thủ tục.

Thứ hai, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải

đáp ứng nhu cầu phổ biến của các nhà kinh doanh là khi tranh chấp phát sinh,

các bên muốn tự thương lượng hoặc thông qua người thứ ba trung lập để giải

quyết tranh chấp theo con đường hữu nghị chứ không muốn dựa vào hình

thức tài phán (Tòa án hay Trọng tài) để phân xử các tranh chấp ngay từ ban

đầu. Hòa giải được tiến hành trên cơ sở ý chí tự nguyện của các bên tranh

chấp, không ai có thể hiểu rõ mọi tình tiết, nguyên nhân tranh chấp bằng

chính các bên tranh chấp, do đó, sẽ có khả năng giải quyết tranh chấp một

cách nhanh chóng. Bên cạnh đó hòa giải đảm bảo sự tham gia đầy đủ, trực

tiếp của các bên, khuyến khích các bên dàn xếp với nhau, bày tỏ nguyện vọng

của mình nên sẽ tiết kiệm được chi phí, thời gian và quan trọng là khi hòa giải

thành, không có kẻ thằng người thua như khi giải quyết tranh chấp bằng trọng

tài hoặc tòa án nên không gây ra tình trạng đối đầu, vẫn duy trì được mối

quan hệ hợp tác, làm ăn giữa các bên.

Thứ ba, bên thứ ba là hòa giải viên do các bên lựa chọn nên thường là

những người có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực thương mại. Vì vậy,

họ dễ dàng nắm bắt được nguyện vọng của các bên tranh chấp, từ đó biết cách

làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để giải quyết

tranh chấp một cách thuyết phục và có tính khả thi, cơ hội thành công cao.

Ngoài ra, kết quả hòa giải được ghi nhận và chứng kiến bởi người thứ ba nên

18

mức độ tôn trọng và tự nguyện thực hiện các cam kết đạt được trong hòa giải

sẽ cao hơn so với thương lượng.

Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng hòa giải đảm bảo sự kín đáo và tính

bảo mật thể hiện ở việc: phiên họp hòa giải được tổ chức kín, không công

khai, người ngoài chỉ có thể biết được trình tự thủ tục và nội dung nếu được

các bên đồng ý; không công bố công khai nội dung được trao đổi trong phiên

họp; việc công bố điều khoản giải quyết là vấn đề phải được hai bên thỏa

thuận.

Thứ tư, kết quả hòa giải thành khi được một hoặc các bên yêu cầu tòa

án công nhận thì nó có giá trị buộc các bên phải thi hành y như một bản án.

Điều này tránh tình trạng kết quả hòa giải chỉ là trên giấy còn việc thực thi

hay không là quyền của các bên. Mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể về việc thi

hành kết quả hòa giải thành khi được tòa án công nhận, nhưng về cơ bản bước

đầu đã có một cơ quan có thẩm quyền đứng ra công nhận quyết định hòa giải

thành được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

 Về nhược điểm

Tuy hòa giải thương mại có nhiều ưu điểm vượt trội song vẫn còn tồn

tại một số những hạn chế sau. Trong quá trình hòa giải vẫn cần sự thiện chí và

hợp tác của các bên, bởi lẽ nếu không có sự hợp tác, thấu hiểu nhau thì các

bên có thể tự ý chấm dứt hòa giải vào bất cứ giai đoạn nào. Như vậy không

những mục đích hòa giải không đạt được mà còn trì hoãn, kéo dài thời gian

giải quyết tranh chấp có thể gây thiệt hại cho các bên.

1.2.5. Các phương thức hòa giải

Theo thông lệ chung thì hòa giải được tiến hành cả ngoài tố tụng và

trong tố tụng của tòa án hoặc trọng tài:

Hòa giải trong thủ tục tố tụng: là việc hòa giải được tiến hành tại Tòa

án, trọng tài khi các cơ quan này tiến hành giải quyết tranh chấp theo đơn kiện

của một bên. Trường hợp hòa giải thành, thẩm phán hoặc trọng tài viên sẽ ra

quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên, quyết định này có hiệu lực

19

và được thi hành như một bản án của tòa án hay phán quyết của trọng tài.

Theo pháp luật Việt Nam, hoạt động hòa giải trong tố tụng tại Tòa án được

ghi nhận và quy định trong BLTTDS 2015, từ các Điều 205 đến Điều 213.

Hoạt động hòa giải trong tố tụng tại trọng tài được quy định cụ thể tại Điều 58

Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên, như đã chỉ ra trong phạm vi

nghiên cứu đề tài, Khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu về hòa giải ngoài tố tụng

với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập.

Hòa giải ngoài tố tụng là hình thức hòa giải qua bên thứ ba, được các

bên tiến hành trước khi đưa vụ tranh chấp ra cơ quan tài phán như Tòa án

hoặc Trọng tài hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp

ngoài tố tụng. Đối với hòa giải thương mại pháp luật một số quốc gia trên thế

giới coi đây là công việc riêng của các bên nên không điều chỉnh trực tiếp và

chi tiết. Các bên tranh chấp thông tin cho nhau và trình bày quan điểm của

mình, hòa giải viên hướng các bên tham gia vào việc tìm kiếm những giải

pháp thích hợp nhằm loại trừ những ý kiến bất đồng, những xung đột về lợi

ích phát sinh giữa các bên. Sự nhất trí trong giải quyết tranh chấp được thể

hiện bằng văn bản, có sự xác nhận của bên thứ ba hòa giải và có giá trị ràng

buộc với các bên tham gia.

Nếu so sánh phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trong

tài, thì hòa giải ngoài tố tụng cũng có hai phương thức cơ bản là hòa giải vụ

việc và hòa giải quy chế, cụ thể:

Hòa giải vụ việc là phương thức hòa giải mà trong đó việc tổ chức và

giám sát do các bên tự quy định không có sự trợ giúp của bất kỳ tổ chức hoặc

người hòa giải thứ ba nào [61, tr.270]. Các bên có thể tự thỏa thuận để xây

dựng trình tự thủ tục hòa giải hoặc thống nhất thỏa thuận lựa chọn Quy tắc

hòa giải của bất kỳ trung tâm hòa giải nào.

Hòa giải quy chế do một tổ chức, hoặc trung tâm hòa giải chuyên

nghiệp, giám sát tố tụng trọng tài tiến hành, phải tuân theo quy tắc hòa giải

riêng của tổ chức hòa giải đó [60, tr.284]. Ví dụ quy tắc hòa giải của Trung

20

tâm hệ thống trọng tài Châu Âu - Ả Rập có hiệu lực từ ngày 17/12/1997 là

quy tắc hòa giải được trung tâm này sử dụng để hòa giải tranh chấp khi có yêu

cầu của các bên, quy trình về hòa giải được quy định từ Điều 11 đến Điều 18.

Ngoài ra, qua thực tiễn tổ chức, hoạt động hòa giải ở một số nước, căn

cứ vào tổ chức đứng ra thực hiện việc hòa giải, hòa giải được chia ra thành

hai hình thức là hòa giải công (public mediation) và hòa giải tư (private

mediation). Hòa giải công do các cơ quan nhà nước, chủ yếu là do tòa án

đứng ra thực hiện. Hòa giải tư thường do các tổ chức trọng tài thương mại

hoặc các tổ chức hòa giải thương mại chuyên nghiệp tiến hành, hay các bên

cũng có thể yêu cầu các cá nhân đứng ra hòa giải (thường là chuyên gia về

hòa giải hoặc lĩnh vực đang có tranh chấp) [60, tr.43]

1.2.6. Quy trình hòa giải

Trên thực tế không có một quy trình hòa giải mang tính thống nhất trên

toàn thế giới mà mỗi trung tâm hòa giải và mỗi hòa giải viên sẽ áp dụng

những quy trình riêng phù hợp với nội dung và tính chất của vụ tranh chấp

[49]. Để có thể tiến hành quy trình hòa giải thì đầu tiên giữa các bên có thỏa

thuận rằng sẽ dùng biện pháp hòa giải để giải quyết tranh chấp hay nói một

cách khác quy trình hòa giải thường bắt đầu bằng việc hai bên tranh chấp

cùng đề nghị hòa giải với hòa giải viên hoặc một tổ chức hòa giải; một bên

cũng có thể đơn phương liên hệ với hòa giải viên hoặc với một tổ chức hòa

giải để yêu cầu tiến hành hòa giải, khi đó hòa giải viên hoặc tổ chức hòa giải

sẽ liên hệ và thuyết phục phía bên kia tham gia hòa giải. Việc hòa giải chỉ

được tiến hành sau khi có sự đồng ý của cả hai bên tranh chấp.

Về cơ bản quy trình hòa giải được tiến hành theo trình tự như sau:

Bước 1: Lựa chọn người hòa giải

Các bên tranh chấp phải thảo luận thống nhất lựa chọn hòa giải viên.

Việc lựa chọn được hòa giải viên giỏi là phần rất quan trọng vì hòa giải viên

có kiến thức chuyên môn, khéo léo trong giao tiếp, nắm vững pháp luật và

thực tế của vụ tranh chấp sẽ được các bên đương sự tin cậy và giúp cho các

21

bên giải quyết tranh chấp một cách có nhanh chóng. Sau khi lựa chọn được

hòa giải viên, hòa giải viên sẽ tiếp tục tiến hành đến bước sau

Bước 2: Hòa giải viên tìm hiểu mâu thuẫn

Trước khi tiến hành hòa giải, hòa giải viên được tự do liên lạc hoặc gặp

riêng từng bên, yêu cầu mỗi bên cung cấp thông tin và các văn bản có liên

quan đến vụ tranh chấp để hòa giải viên có thể nắm vững và tìm hiểu về tranh

chấp một cách chính xác.

Bước 3: Giải quyết mâu thuẫn

Qua bản tường trình, tài liệu mà các bên đã nộp cùng ý kiến trình bày

với biên bản tại các cuộc họp giữa các bên, hòa giải viên có thể xác định được

mâu thuẫn, những quan điểm khác nhau của các bên về vụ việc tranh chấp. Từ

đó, hòa giải viên có thể nhìn nhận và khám phá tìm hiểu rõ nguyện vọng và

những lợi ích chung của các bên tranh chấp. Tiếp theo, hòa giải viên sẽ sắp

xếp, tổ chức phiên hòa giải cho các bên tranh chấp thương lượng cùng nhau

và đi đến thỏa thuận. Trong phiên hòa giải, các bên trình bày ý kiến, quan

điểm của mình về nội dung vụ tranh chấp, lắng nghe ý kiến của bên kia và đề

xuất phương án giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp các bên không đề

xuất được phương án thì hòa giải viên sẽ áp dụng các kỹ năng và hiểu biết của

mình để gợi ý các giải pháp nhất định. Nếu các bên đạt được thỏa thuận, hòa

giải viên sẽ giúp các bên soạn thảo thỏa thuận hòa giải thành một cách chi

tiết, người đại diện hợp pháp của các bên tranh chấp và hòa giải viên sẽ ký

vào biên bản. Văn bản thỏa thuận này có giá trị pháp lý như một hợp đồng,

ràng buộc các bên đã ký kết các bên phải tôn trọng và thi hành cam kết. Như

vậy, bằng việc ký vào văn bản thỏa thuận hòa giải thành, các bên kết thúc

tranh chấp và bị ràng buộc bởi thỏa thuận hòa giải thành đó.

Quá trình hòa giải sẽ chấm dứt vào ngày mà các bên ký vào văn bản

thỏa thuận hòa giải thành. Ngoài ra, một trong các bên hoặc bản thân hòa giải

viên có quyền chấm dứt hòa giải vào bất cứ giai đoạn nào của quá trình hòa

giải khi thấy việc hòa giải sẽ không mang lại hiệu quả, hoặc quá trình hòa giải

22

kết thúc vào ngày mà một hoặc các bên đưa vụ tranh chấp đang là đối tượng

của quá trình hòa giải kiện tại Tòa án hoặc Trọng tài. Một điều cần lưu ý là

trong quá trình hòa giải, các bên phải cam kết không tiến hành bất cứ tố tụng

trọng tài hoặc tòa án nào đối với tranh chấp đang là đối tượng của quá trình

hòa giải và toàn bộ quá trình hòa giải phải được giữ bí mật, các bên tranh

chấp và hòa giải viên không được tiết lộ các thông tin có liên quan đến quá

trình hòa giải cho người khác, trừ khi các bên đã đồng ý.

1.2.7. Hình thức pháp lý và hiệu lực của thỏa thuận hòa giải thành

Thỏa thuận hòa giải thành về mặt bản chất là một cam kết thỏa thuận

giữa các bên về việc thực hiện (không thực hiện) nghĩa vụ nào đó để giải

quyết tranh chấp. Nó hoàn toàn mang tính chất của một hợp đồng. Đây là

cách tiếp cận hiện nay của Luật mẫu.

Trên thế giới việc thi hành thỏa thuận hòa giải vẫn còn là một vấn đề

đáng quan tâm. Kết quả hòa giải thành được ghi nhận vào thỏa thuận hòa giải,

thỏa thuận hòa giải này được coi là một hợp đồng có hiệu lực ràng buộc các

bên. Hiệu lực của thỏa thuận hòa giải ràng buộc như một hợp đồng được điều

chỉnh theo pháp luật hợp đồng [53]. Trong trường hợp hợp đồng này không

được tôn trọng thi hành bởi một trong các bên, bên kia có thể yêu cầu tòa án

thi hành như việc vi phạm hợp đồng. Vậy liệu tòa án có xem xét và phải xét

xử lại trong một vụ kiện về thỏa thuận hòa giải thành này không?

Thỏa thuận hòa giải thành không được coi là một phán quyết trọng tài

và do vậy không thể thi hành như phán quyết trọng tài theo công ước New

York 1985 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. Tuy

nhiên, một bản công nhận thỏa thuận của các bên thông qua hòa giải trong

phiên trọng tài thì có khả năng được thi hành theo công ước New York 1985.

Tại Châu Âu, vì thông tri của EU ngày 21/5/2008 về một số khía cạnh

hòa giải thương mại và dân sự, nhiều nước EU đã ban hành các đạo luật bảo

đảm rằng các thỏa thuận hòa giải được công nhận và thi hành bởi các nước

thành viên như là phán quyết của Tòa án.

23

Tại Điều 417 BLTTDS 2015 quy định về điều kiện công nhận kết quả

hòa giải thành ngoài Tòa án như sau:

Thứ nhất, các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành

vi dân sự

Thứ hai, các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa

vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa

giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được

người thứ ba đồng ý.

Thứ ba, một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu tòa án công nhận

Thứ tư, nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự

nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không

nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba

Như vậy, thỏa thuận hòa giải thành có giá trị như một hợp đồng và

quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có thể được thi

hành như một bản án, tức là nó có giá trị ràng buộc thực hiện với các bên.

1.2.8. Vai trò, chức năng và ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết

tranh chấp thương mại

1.2.8.1. Vai trò, chức năng của hòa giải thương mại

Hòa giải thương mại có những chức năng cơ bản sau:

Thứ nhất, hòa giải là biện pháp có tác dụng giảm thiểu mâu thuẫn, xung

đột giữa các bên. Khi xảy ra tranh chấp ai cũng đặt lợi ích của mình lên hàng

đầu và không chịu nhường nhịn ai khiến mâu thuẫn trở nên ngày càng gay

gắt. Lúc này sự có mặt của bên thứ ba trung gian sẽ làm dịu đi những mâu

thuẫn, các bên bình tĩnh hơn, suy xét kỹ hơn và họ luôn hiểu rằng người ngoài

cuộc sẽ có cái nhìn khách quan hơn. Hòa giải đem lại cơ hội cho các bên trình

bày, giải thích và đưa ra lời xin lỗi với nhau. Sự tham gia trực tiếp của các

bên tranh chấp trong hòa giải là rất cần thiết vì nó đề cao được tinh thần, trách

nhiệm của các bên đối với các lựa chọn của mình.

24

Thứ hai, hòa giải là cách thức thể hiện và bảo đảm quyền tự do lựa

chọn cơ quan giải quyết tranh chấp. Từ khi Việt Nam chuyển đổi nền kinh tế

tập trung sang kinh tế thị trường có sự tham gia nhiều thành phần kinh tế thì

hoạt động kinh doanh thương mại trở nên đa dạng và phong phú. Cá nhân, tổ

chức tham gia vào hoạt động thương mại có quyền tự do lựa chọn loại hình

kinh doanh, phương thức kinh doanh, đối tác kinh doanh và phương thức giải

quyết tranh chấp. Các bên tranh chấp có thể lựa chọn các phương thức giải

quyết tranh chấp thương mại như thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc tòa

án. Riêng đối với hòa giải các bên có thể lựa chọn hòa giải trong tố tụng hoặc

hòa giải ngoài tố tụng.

Thứ ba, hòa giải thương mại là tìm cách cứu vãn mối quan hệ giữa các

bên. Khi các bên xảy ra tranh chấp thường có xu hướng rất căng thẳng, mà

đặc tính của kinh doanh là làm bạn với tất cả các đối tác có khả năng sinh lời

cho mình. Vì thế, cần lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp ôn hòa,

khi đó mối quan hệ hợp tác giữa các bên sẽ không bị phá vỡ trong tương lai.

Hòa giải thương mại làm được điều đó.

Thứ tư, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho các bên, với

thủ tục giải quyết nhanh, linh hoạt, chi phí thấp mà hiệu quả lại cao. Như vậy,

công việc kinh doanh của các bên sẽ không bị trì hoãn, không gây những thiệt

hại không mong muốn.

1.2.8.2. Ý nghĩa của hòa giải thương mại

Mặc dù còn có nhiều ý kiến tranh luận về vai trò, ý nghĩa của hòa giải

thương mại nhưng không thể phủ nhận những lợi ích mà hòa giải thương mại

mang lại

Thứ nhất, hòa giải là cách thức giữ gìn mối quan hệ làm ăn kinh doanh

lâu dài, khôi phục quan hệ giữa các bên, tìm thấy sự thông cảm. Các bên có

thể đưa ra những yêu cầu, sự nhượng bộ để cùng nhau đạt được mục đích,

duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài. Hòa giải mang tính chất riêng tư, bí mật

25

góp phần tạo nên sự an tâm, thoải mái, cởi mở hơn giữa các bên tranh chấp,

hạn chế tâm lý được – thua do mất mát thể diện, uy tín với bạn hàng.

Thứ hai, hòa giải là biện pháp tiết kiệm chi phí, vật chất, thời gian của

nhà nước, xã hôi, của tổ chức kinh tế. Khi có tranh chấp xảy ra, các bên phải

huy động nguồn lực, chi phí, thời gian, công sức, tiền bạc, huy động nhiều cơ

quan chức năng chuyên môn có thẩm quyền, huy động người và phương tiện

để thực hiện giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng

hòa giải trên nguyên tắc tự do thỏa thuận, tự do định đoạt, các bên sẽ tự đề

xuất các giải pháp và thỏa hiệp với nhau theo trình tự thủ tục tự chọn, để giải

quyết các bất đồng phát sinh mà không bắt buộc phải tuân theo một quy định

nào, do đó quá trình giải quyết tranh chấp diễn ra gọn nhẹ.

Thứ ba, hòa giải là phương thức phổ biến, giải thích pháp luật góp phần

làm lành mạnh các quan hệ kinh tế - xã hội. Bên thứ ba làm trung gian hòa

giải sẽ tác động nhận thức và nâng cao hiểu biết pháp luật của các bên, giúp

các bên tranh chấp nhận thức rõ địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ, hậu quả

pháp lý để các bên hành xử văn minh, đúng pháp luật để giảm thiểu những

hậu quả xảy ra như trong quá khứ.

1.2.9. Lịch sử hình thành và phát triển chế định hòa giải thương

mại ở Việt Nam

Cũng như các quốc gia trên thế giới, hòa giải tranh chấp thương mại ở

Việt Nam xuất hiện cùng với sự xuất hiện của hoạt động kinh doanh thương

mại. Bởi khi xảy ra mâu thuẫn giữa các bên trong giao thương buôn bán các

bên thường tự giải quyết với nhau bằng con đường thương lượng, thỏa thuận.

Lúc này hòa giải đã manh mún hình thành nhưng không được định nghĩa cụ

thể và quy định rõ ràng.

Chế định pháp luật hòa giải có sự thay đổi về mặt nội dung qua mỗi

giai đoạn, tùy thuộc vào từng thời kì phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta có

thể nhận thấy ngay từ giai đoạn đầu các quy định pháp luật về hòa giải tại

Việt Nam chỉ đề cập đến hòa giải trong tố tụng với vai trò của người thứ ba

26

thực hiện hòa giải là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giải quyết tranh

chấp chủ yếu được thực hiện trong tố tụng bởi người ta tin tưởng vào quyền

lực nhà nước và xem quyền lực nhà nước có giá trị cao nhất, buộc các bên

phải thi hành. Hòa giải ngoài tố tụng dường như ít được quan tâm hơn, bởi

phương thức giải quyết tranh chấp này được thực hiện chủ yếu dựa trên mối

quan hệ làm ăn lâu năm và sự tin tưởng của các bên.

Hầu như thời gian đầu pháp luật không đề cập cũng như khuyến khích

các bên tự hòa giải. Phương thức hòa giải ngoài tố tụng (hòa giải thương mại)

được hình thành, phát triển và định hình trong quy định pháp luật trong thế kỷ

XXI, khi kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ, sự giao lưu thương mại ngày

càng nhiều và tranh chấp ngày càng đa dạng. Kinh tế trong nước phát triển

hội nhập cùng kinh tế thế giới và giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ngoài tố

tụng được các nước phát triển xem là điều kiện tiên quyết trước khi các bên

đưa tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan tố tụng, nhằm giảm tải cho cơ

quan quyền lực nhà nước và duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài giữa các bên

tranh chấp.

Về phương diện pháp lý, một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là

thành viên như các Hiệp định bảo hộ và khuyến khích đầu tư, Hiệp định

thương mại song phương và đa phương cũng quy định hòa giải là một trong

các biện pháp cần được ưu tiên khi giải quyết các tranh chấp phát sinh [41].

Cam kết về dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới

(WTO) cũng bao gồm cam kết đối với dịch vụ hòa giải thương mại [55].

Trong pháp luật quốc gia, phương thức hòa giải mới chỉ được ghi nhận rất sơ

lược trong các văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thương

mại 2005, Luật Đầu tư 2005, Luật trọng tài thương mại 2010. Điều 12 Bộ luật

Dân sự Việt Nam 2005 quy định: “Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa

các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích”. Điều 317

Luật Thương mại 2005 quy định “Hòa giải là một trong các phương thức giải

quyết tranh chấp trong thương mại”. Điều 12 Luật Đầu tư 2005 quy định

27

“Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam được giải quyết

thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài hoặc tòa án theo quy định của

pháp luật”. Điều 9 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định “Trong quá

trình tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do thương lượng, thỏa thuận với

nhau về việc giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải

để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp”. Mặc dù từ

năm 1998, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải

cơ sở, nay được thay bằng Luật Hòa giải cơ sở năm 2013, hình thức hòa giải

cộng đồng được đề cập trong các văn bản pháp luật này không thực sự gắn kết

với hoạt động thương mại, mà việc hòa giải được tiến hành thông qua Tổ

chức hòa giải và hòa giải viên chỉ nhằm giúp giải quyết các tranh chấp nhỏ

nhặt phát sinh liên quan đến đời sống hàng ngày ở các khu dân cư [30]. Dù

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 đã thể hiện chủ trương “khuyến khích giải quyết

một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ

bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”, nhưng vẫn còn thiếu các quy

định điều chỉnh trực tiếp, toàn diện hòa giải thương mại như một phương thức

giải quyết tranh chấp độc lập với trọng tài và tòa án.

Trong bối cảnh thiếu vắng khung pháp lý điều chỉnh phương thức hòa

giải thương mại, việc gấp rút xây dựng một Nghị định quy định trực tiếp về

hòa giải thương mại theo như chỉ đạo của Thủ tướng tại Quyết định số

808/QĐ-TTg ngày 29/6/2012 về việc ban hành Chương trình hành động thực

hiện Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm

2020 là hết sức cần thiết. Nghị định này sẽ tạo hành lang pháp lý để khuyến

khích việc sử dụng hòa giải như một trong những phương thức giải quyết

tranh chấp thương mại, góp phần giảm tải cho hoạt động xét xử của tòa án.

Việc ban hành Nghị định riêng về hòa giải thương mại cũng tạo cơ sở pháp lý

cho việc hình thành, phát triển các tổ chức hòa giải và thể chế hóa cam kết

của Việt Nam khi gia nhập WTO. Từ chủ trương đó, Nghị định số

28

22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương mại đã ra đời quy định cụ thể

về trình tự, thủ tục của hòa giải thương mại.

Trên đây là những vấn đề lý luận cơ bản nhất về phương thức giải

quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại với tư cách là một

phương thức giải quyết tranh chấp độc lập và những ưu điểm, hạn chế của

phương thức này. Không có phương thức giải quyết tranh chấp thương mại

nào là ưu điểm tuyệt đối và việc quyết định lựa chọn hình thức giải quyết

tranh chấp nào bên cạnh việc xem xét những ưu điểm, nhược điểm của từng

hình thức mà còn xem xét từng trường hợp tranh chấp để tìm ra phương pháp

hiệu quả nhất nhưng phải đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật. Như

vậy, hòa giải thương mại ngoài tố tụng là phương thức giải quyết tranh chấp

thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước, mà chủ yếu được giải

quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt của các bên tranh chấp theo thủ

tục linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp.

29

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG Ở

VIỆT NAM

2.1. Quy định pháp luật đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng

hòa giải.

Việt Nam đổi mới từ năm 1986, từ đó xuất hiện nền kinh tế nhiều thành

phần. Có thể nói, Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế

thế giới. Từ khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế

giới, Việt Nam luôn thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, đồng thời không

ngừng cải thiện môi trường pháp lý nhằm tạo cơ hội, điều kiện cho các cá

nhân, doanh nghiệp trong nước cũng như quốc tế thuận lợi trong hoạt động

thương mại. Các quan hệ thương mại càng phát triển thì không tránh khỏi

những mâu thuẫn, tranh chấp đòi hỏi phải được giải quyết một cách kịp thời

và thỏa đáng, có như thế mới tạo được lòng tin và sự yên tâm đầu tư kinh

doanh của các thương nhân và các doanh nghiệp. Vì lý do này, Đảng và Nhà

nước Việt Nam đã có những chính sách đổi mới trong hoạt động giải quyết

tranh chấp thương mại nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nhiều cơ

hội lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và phù hợp với thông lệ,

tập quán quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và những văn bản pháp luật

mà Việt Nam đã ban hành.

2.1.1. Các cam kết quốc tế của Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương

mại bằng hòa giải.

Tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng thúc đẩy sự phát triển của các

quan hệ ngoại giao đa phương của Việt Nam, điều này góp phần nâng cao vị

thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Theo thống kê của Bộ Ngoại giao thì

hiện nay với chính sách mở cửa, Việt Nam đã là thành viên của 63 tổ chức

quốc tế và có quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Việt

Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại Liên hợp quốc, phát

huy vai trò thành viên tích cực của phong trào Không liên kết, Cộng đồng các

30

nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN và đặc biệt là sau 11 năm đàm phán,

ngày 11/1/2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của

WTO [46]. Những kết quả đạt được trong mối quan hệ đan xen này đã củng

cổ tạo ra thế chủ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế, góp phần trong việc

bảo vệ độc lập, tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây dựng đất nước. Với

tình hình đó Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại với các quốc gia.

Một trong những nội dung quan trọng nhằm bảo đảm cho các quan hệ thương

mại trong các Hiệp định thương mại là các quy định về giải quyết tranh chấp

phát sinh như:

 Trong phạm vi quốc tế

-Hiệp định giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO (Dispute

Settlement Understanding – DSU) được ghi nhận tại phụ lục 2 của Hiệp định

Marrakesh tại Vòng đàm phán Uruguay. DSU là sự kế thừa các quy định về

giải quyết tranh chấp đã từng phát huy tác dụng gần 50 năm qua trong lịch sử

GATT 1947 và đã thiết lập một trình tự thủ tục thống nhất, mang tính bắt

buộc cho việc giải quyết tranh chấp phát sinh đối với tất cả các thành viên khi

tham gia vào WTO. Theo DSU thì các tranh chấp có thể được giải quyết

thông qua hình thức tham vấn, trung gian, hòa giải, trọng tài hoặc trước Ban

hội thẩm và cơ quan phúc thẩm. Riêng đối với thủ tục hòa giải thì được DSU

quy định tại khoản 10 Điều 3, khoản 7 Điều 12 và được quy định riêng thành

một điều tại Điều 5 của Hiệp định, cụ thể:

Theo khoản 10 Điều 3 DSU quy định “Được hiểu rằng yêu cầu hòa

giải và việc sử dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp không được nhằm mục

đích hoặc được xem là những hành vi gây bất đồng và nếu có tranh chấp phát

sinh, tất cả Thành viên phải tham gia một cách thiện chí vào những thủ tục

này để nỗ lực giải quyết tranh chấp”

Tại Điều 5 DSU quy định:

“1. Môi giới, hòa giải và trung gian là những thủ tục được tiến hành tự

nguyện, nếu các bên tranh chấp đồng ý như vậy.

31

2. Việc môi giới, hòa giải và trung gian, và đặc biệt là quan điểm của

các bên tranh chấp trong việc này phải được giữ bí mật và không làm phương

hại đến quyền của bất cứ bên nào trong những bước tố tụng tiếp theo những

thủ tục này.

3. Bất cứ bên tranh chấp nào đều có thể yêu cầu môi giới, hòa giải

hoặc trung gian vào bất cứ lúc nào. Những thủ tục này có thể được bắt đầu

và chấm dứt vào bất kỳ thời điểm nào. Một khi những thủ tục này đã chấm

dứt, bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập ban hội thẩm.

4. Khi thủ tục môi giới, hòa giải hoặc trung gian được tiến hành trong

thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn, bên nguyên đơn

phải cho phép một thời hạn là 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham

vấn trước khi yêu cầu thành lập ban hội thẩm. Bên nguyên đơn có thể yêu cầu

thành lập ban hội thẩm trong thời hạn 60 ngày này, nếu các bên có tranh

chấp cùng cho rằng môi giới, hoà giải hoặc trung gian đã không thể giải

quyết được tranh chấp.

5. Nếu các bên tranh chấp đồng ý, thì thủ tục môi giới, hòa giải hoặc

trung gian có thể được tiếp tục ngay cả khi ban hội thẩm tiến hành tố tụng.

6. Tổng Giám đốc có thể, trên cương vị công tác chính thức của mình,

đưa ra sáng kiến về việc mình phải làm người môi giới, người hòa giải hoặc

trung gian nhằm giúp các Thành viên giải quyết tranh chấp”

Tại khoản 7 Điều 12 DSU quy định: “ Khi các bên tranh chấp không

tìm ra được một giải pháp thỏa đáng cho cả hai bên, thì ban hội thẩm phải đệ

trình bản ý kiến của mình dưới dạng báo cáo bằng văn bản lên DSB. Trong

trường hợp như vậy, bản báo cáo của ban hội thẩm phải đưa ra các ý kiến về

các tình tiết, về khả năng áp dụng các điều khoản liên quan và lý lẽ đằng sau

bất cứ kết luận và khuyến nghị nào được đưa ra. Nếu có sự hoà giải giải

quyết vấn đề giữa các bên tranh chấp, thì bản báo cáo của ban hội thẩm phải

được hạn chế ở mức mô tả ngắn gọn về vụ việc này và báo cáo rằng đã đạt

được một giải pháp”

32

Bằng những quy định trên phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa

giải được DSU đặc biệt quan tâm và khuyến khích sử dụng. Theo đó, thủ tục

hòa giải mang tính chất không chính thức, nó được tiến hành một cách tự

nguyện nếu các bên tranh chấp đồng ý. Những giai đoạn trong hòa giải được

thực hiện một cách kín đáo, hơn thế nữa các bên có thể tiến hành hòa giải ở

bất cứ giai đoạn nào kể cả khi Ban hội thẩm đã được thành lập và đã tiến hành

tố tụng. Nhìn chung cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mang đậm tính

chất hòa giải, bởi lẽ Ban hội thẩm không đưa ra phán quyết mà chỉ đưa ra một

“báo cáo”, báo cáo này không có giá trị bắt buộc và sẽ được xem xét chung

cuộc bởi một cơ quan mang tính chính trị là các bên ký kết.

- Công ước về Công nhận và Thi hành các phán quyết của Trọng tài

Quốc tế. Đây là một Công ước quốc tế có tầm quan trọng bậc nhất đối với

hoạt động trọng tài thương mại trên thế giới

- Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp. Tuy Công ước không

có những quy định về giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, nhưng nếu trong

quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài các bên hòa giải và thỏa thuận

được thì vẫn được trọng tài công nhận. Do đó, quyết định của Trọng tài vẫn

được thi hành tại bất cứ nơi nào trên các nước thành viên của công ước. Hiểu

rõ tầm quan trọng của công ước, Việt Nam đã tham gia Công ước vào năm

1995, mà cụ thể là ngày 28/7/1995 Chủ tịch nước CHXHCNVN đã ra Quyết

định số 453/QĐ-CTN phê chuẩn việc tham gia Công ước về công nhận và thi

hành quyết định của trọng tài nước ngoài và bảo lưu 3 điều.

 Trong phạm vi khu vực và Asean và các đối tác kinh tế khác.

Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp Asean ngày 20/11/1996

nhằm tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực hợp tác kinh tế

ASEAN. Ngoài hình thức tham vấn được quy định tại Điều 2 thì tại Điều 3

của Nghị định thư quy định về giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa

giải, theo đó vào bất kì thời điểm nào, các Quốc gia thành viên là các bên

tranh chấp cũng được quyền chấp nhận các hình thức dàn xếp, hòa giải hoặc

33

trung gian hòa giải. Các hình thức này có thể bắt đầu vào bất kì lúc nào và

cũng có thể chấm dứt vào bất kỳ lúc nào. Một khi thủ tục dàn xếp, hòa giải

hoặc trung gian hòa giải đã chấm dứt thì bên khiếu nại mới được tiến hành

đưa vấn đề lên Hội nghị các quan chức kinh tế cấp cao (SEOM).

Hiệp định về cơ chế giải quyết tranh chấp thuộc hiệp định khung về

hợp tác kinh tế toàn diện giữa chính phủ các nước thành viên hiệp hội các

quốc gia Đông Nam Á và Đại Hàn Dân Quốc. Ngoài hình thức tham vấn để

giải quyết tranh chấp quy định tại Điều 3, thì theo Điều 4 của Hiệp định quy

định Trung gian hòa giải là những thủ tục được tiến hành một cách tự nguyện

nếu các bên tranh chấp đồng ý. Các bên trong tranh chấp có thể yêu cầu tiến

hành thủ tục trung gian hòa giải ở bất kỳ thời điểm nào. Nếu các bên đồng ý,

thủ tục trung gian hòa giải thông qua cá nhân hoặc tổ chức được các bên trong

vụ tranh chấp nhất trí có thể được tiến hành song song với thủ tục giải quyết

tranh chấp bằng Ủy ban trọng tài theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Hiệp

định. Về thủ tục hòa giải tại khoản 4 của Điều 4 Hiệp định quy định Thủ tục

trung gian hòa giải sẽ được giữ bí mật và không ngăn cản quyền của các bên

được tiến hành các thủ tục tố tụng cao hơn theo Hiệp định này hoặc các thủ

tục tố tụng khác trước một cơ quan giải quyết tranh chấp do các bên lựa chọn.

Hiệp định về quan hệ đối tác kinh tế toàn diện giữa các quốc gia thành

viên hiệp hội các nước Đông Nam Á và Nhật Bản năm 2008: hiệp định này đã

dành một chương riêng để quy định về giải quyết tranh chấp, cụ thể là chương

9. Trong đó hình thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải được quy định tại

Điều 63 quy định trung gian hòa giải là “những thủ tục được tiến hành một

cách tự nguyện nếu các bên trong tranh chấp đồng ý” và tại khoản 2 quy định

“các bên trong tranh chấp có thể yêu cầu tiến hành thủ tục trung gian hòa giải

ở bất kỳ lúc nào”. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 63 cũng quy định các bên có thể

ký kết hợp giữa thủ tục hòa giải và thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Ủy ban

trọng tài theo quy định của Chương 9 Hiệp định.

34

Hiệp định giữa Nhật Bản và Cộng hòa XHCNVN về đối tác kinh tế: đã

quy định về các phương thức cụ thể giải quyết tranh chấp cụ thể tại chương

13 gồm tham vấn; môi giới; trung gian; hòa giải và Ủy ban trọng tài, trong đó

giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải được quy định tại Điều 118

cùng với hình thức môi giới, trung gian, theo đó một bên trong tranh chấp có

thể yêu cầu tiến hành hòa giải ở bất kỳ lúc nào theo yêu cầu của bất kỳ bên

nào Nếu các Bên đồng ý, hòa giải có thể vẫn tiếp tục cùng với thủ tục giải

quyết tranh chấp bằng Ủy ban trọng tài được quy định từ Điều 119 đến Điều

124, Chương 13 của Hiệp định.

Hiệp định thương mại giữa chính phủ CHXHCNVN và chính phủ Cộng

hòa Singapore (1992): quy định hình thức giải quyết tranh chấp thương mại

mà các bên tranh chấp có thể áp dung là hòa giải hoặc trọng tài thương mại.

Thủ tục hòa giải được quy định tại Điều 9 như sau “những tranh chấp phát

sinh giữa các công ty thương mại hoặc các công ty liên quan đến thương mại

của các bên khi thực hiện hay liên quan đến hợp đồng sẽ giải quyết bằng hòa

giải qua những cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp hòa giải không được sẽ

đưa ra trọng tài Quốc tế giải quyết theo sự thỏa thuận của hai bên như trọng

tài thuộc trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam hoặc Trung tâm trọng tài quốc

tế Singapore, chịu sự điều chỉnh theo nhưng quy định của trung tâm đó”.

Nhìn chung, trong các hiệp định thương mại quốc tế và khu vực mà

Việt Nam tham gia và ký kết thì các biện pháp giải quyết tranh chấp đã được

quy định khá đầy đủ. Tuy có quy định cơ chế khác nhau trong giải quyết các

tranh chấp giữa các cá nhân, công ty phát sinh từ các giao dịch thương mại

phù hợp với thực tiễn pháp luật từng nước nhưng hầu hết thừa nhận nguyên

tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên trong việc lựa chọn biện

pháp giải quyết tranh chấp. Đây là một biện pháp bảo đảm để các nhà kinh

doanh trong nước và nước ngoài yên tâm thực hiện các hoạt động kinh doanh,

thương mại tại Việt Nam.

35

Việc tham gia các Điều ước quốc tế khiến Việt Nam không những phải

có nghĩa vụ thực hiện các cam kết này mà còn phải nội luật hóa sao cho phù

hợp với pháp luật quốc gia. Theo luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước

quốc tế năm 2005 quy định tại khoản 3 Điều 6 như sau:

“Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc

hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của

điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một

phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp

quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc

kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp

luật để thực hiện điều ước quốc tế đó”

Từ quy định này có thể thấy pháp luật Việt Nam thừa nhận hai cách

thức áp dụng điều ước quốc tế vào thực tiễn pháp luật đó là: áp dụng trực tiếp

và áp dụng gián tiếp. Theo đó, áp dụng trực tiếp là khi điều ước quốc tế đã

được ký kết và có hiệu lực thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh

của điều ước đó đều có nghĩa vụ thi hành và hoàn toàn có thể viện dẫn các

quy định của điều ước đó để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình khi có tranh

chấp xảy ra. Còn áp dụng gián tiếp là việc quốc gia thành viên ban hành một

đạo luật để chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào hệ thống văn

bản quy phạm pháp luật của nước mình, áp dụng đối với những quy định chưa

rõ ràng, cụ thể.

Tóm lại, có thể khẳng định Điều ước quốc tế về giải quyết tranh chấp

thương mại nói chung, giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải nói

riêng mà Nhà nước Việt Nam ký kết và tham gia là một yếu tố quan trọng, có

vị trí đặc biệt trong khuôn khổ pháp luật thương mại Việt Nam. Đồng thời

việc ban hành kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật nhằm nội luật hóa các

điều ước quốc tế đã góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở

Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội nhập phát triển.

36

2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp

thương mại bằng hòa giải.

Đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải (hòa giải

thương mại), ngoài các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết tham gia thì nhà

nước ta cũng đã ban hành một số quy định nằm rải rác trong các văn bản quy

phạm pháp luật như sau:

BLDS 2015 không có quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp thương

mại bằng hòa giải, tuy nhiên tại khoản 2 Điều 7 về chính sách của Nhà nước

đối với quan hệ dân sự quy định: “Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa

các bên phù hợp với qui định của pháp luật được khuyến khích”. Có thể thấy,

hòa giải luôn là một phương thức giải quyết tranh chấp được khuyến khích sử

dụng để giải quyết khúc mắc giữa cá bên do tính hiệu quả mà hòa giải mang

lại.

Trong các văn bản pháp luật có quy định về hòa giải thương mại phải

kể đến một đạo luật quan trọng là Luật Thương mại 2005. Tại Điều 11 Luật

Thương mại quy định về nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt

động thương mại: “các bên có quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận không trái

với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác

lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại..”. Đồng

thời, Luật Thương mại 2005 đã dành riêng mục 2 chương VII với 3 điều để

quy định về giải quyết tranh chấp trong thương mại, trong đó Điều 317 quy

định về hình thức giải quyết tranh chấp gồm:

“1. Thương lượng giữa các bên.

2. Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được

các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải

3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án”

Ngoài ra, Luật Thương mại 2005 còn đưa ra quy định về thời hạn khiếu

nại và thời hiệu khởi kiện tại Điều 318 và Điều 319 bắt buộc các bên có

quyền lợi bị vi phạm phải khiếu nại trong thời hạn nhất định.

37

Trong khi đó theo quy định của Luật Thương mại 1997, quy định về

giải quyết tranh chấp thương mại tại chương 4 mục 2 gồm 6 Điều, trong đó

Điều 238 quy định về khái niệm tranh chấp thương mại, về thẩm quyền giải

quyết tranh chấp thương mại với thương nhân nước ngoài theo quy định tại

Điều 240, về thời hạn khiếu nại và thời hiệu tố tụng được quy định tại Điều

241 và Điều 242, Điều 243 quy định về việc thi hành các bản án, quyết định

của Tòa án, các phán quyết, quyết định của Trọng tài. Còn về hình thức giải

quyết tranh chấp được quy định tại Điều 239, cụ thể: “1. Tranh chấp thương

mại trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng giữa các bên, 2.

Các bên tranh chấp có thể thỏa thuận chọn một cơ quan, tổ chức hoặc cá

nhân làm trung gian hòa giải. 3. Trong trường hợp thương lượng hoặc hòa

giải không đạt được kết quả thì tranh chấp thương mại được giải quyết tại

Trọng tài hoặc Tòa án”

Có thể thấy theo tinh thần của Luật Thương mại 1997 thì cả thương

lượng và hòa giải là biện pháp bắt buộc khi các bên muốn giải quyết tranh

chấp bằng Trọng tài hay Tòa án. Việc quy định này hoàn toàn không phù hợp

với xu hướng phát triển pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại của thế

giới, trong quá trình hội nhập việc thay đổi quy định này là điều tất yếu và

Luật Thương mại 2005 ra đời đã làm được điều đó. Song đối với giải quyết

tranh chấp thương mại bằng hòa giải mới chỉ được liệt kê ra trong số các

phương thức giải quyết tranh chấp chứ chưa được quy định cụ thể thành một

văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục… giải quyết

tranh chấp thương mại bằng hòa giải.

Ngoài ra, Luật Đầu tư năm 2014 tại Điều 14 quy định: “Tranh chấp

liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam được giải quyết

thông qua thương lượng, hòa giải. Trường hợp không thương lượng, hòa giải

được thì tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án theo quy định

tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này”

38

Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 tại Điều 55 quy định về

hình thức giải quyết tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa gồm:

“1. Thương lượng giữa các bên tranh chấp về chất lượng sản phẩm,

hàng hóa.

2. Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được

các bên thoả thuận chọn làm trung gian.

3. Giải quyết tại trọng tài hoặc toà án.

Thủ tục giải quyết tranh chấp về chất lượng sản phẩm, hàng hóa tại

trọng tài hoặc toà án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng

trọng tài hoặc tố tụng dân sự”.

Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 quy định tại khoản 1 Điều 30

quy định về phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ

chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cụ thể:

“1. Tranh chấp phát sinh giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân

kinh doanh hàng hóa, dịch vụ được giải quyết thông qua:

a) Thương lượng;

b) Hòa giải;

c) Trọng tài;

d) Tòa án”.

Đối với quy định của Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010, cần xác

định tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng

hóa, dịch vụ là tranh chấp thương mại hay dân sự. Theo quy định của pháp

luật, trường hợp người tiêu dùng đồng ý áp dụng pháp luật về thương mại

điều chỉnh thì lúc đó mới áp dụng, còn người tiêu dùng không lựa chọn thì đó

là tranh chấp dân sự thuần túy.

Nghị định số 22/2017/NĐ-CP (Ngày 24/02/2017) Nghị định về hòa giải

thương mại ra đời đã quy định khá cụ thể về trình tự, thủ tục, điều kiện,…để

giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại (hòa giải ngoài tố

tụng).

39

Tóm lại, Việt Nam dã tham gia và cam kết thực hiện các điều ước quốc

tế về giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải và pháp luật thương mại

Việt Nam đã công nhận phương thức hòa giải trong các văn bản quy phạm

pháp luật quan trọng trong lĩnh vực luật tư như BLDS 2015, Luật Thương mại

2005,… trước thời điểm Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải

thương mại được ban hành thì các quy định về hòa giải thương mại nằm rải

rác trong các văn bản pháp luật. Sự ra đời của Nghị định số 22/2017/NĐ-CP

đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục, điều kiện,…tiến hành giải quyết tranh

chấp thương mại bằng hòa giải thương mại. Đó là bước đột phá của pháp luật

Việt Nam để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế thế giới ngày càng phát triển .

2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở

Việt Nam

Trong những năm qua, cùng với chính sách hoàn thiện pháp luật và chủ

trương cải cách tư pháp, các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua

thương lượng, hòa giải, trọng tài ngày càng được khuyến khích sử dụng ở

Việt Nam thì hòa giải là một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp

ngoài tố tụng được đánh giá cao về tính hiệu quả, chính xác và khách quan

bởi các yếu tố sau: các bên tranh chấp được tự do thỏa thuận về toàn bộ quá

trình hòa giải như các bên có thể quyết định số lượng, cách thức chỉ định và

tiêu chuẩn của hòa giải viên, thời gian giải quyết vụ tranh chấp, luật áp dụng,

ngôn ngữ, địa điểm giải quyết vụ tranh chấp. Ngoài ra, hòa giải viên là những

người có kiến thức rộng và kinh nghiệm trong các lĩnh vực thương mại như

tài chính, xây dựng, vận tải… Tuy nhiên, dù giải quyết tranh chấp thương mại

bằng hòa giải được đánh giá là phương thức có nhiều ưu điểm về thời gian

giải quyết ngắn, chi phí tương đối thấp, thủ tục đơn giản và giữ được mối

quan hệ làm ăn trong tương lai, song thực tế phương thức này được các doanh

nghiệp sử dụng ở mức khiêm tốn. Cụ thể: theo số liệu điều tra qua phiếu hỏi

của nhóm thư ký Dự án điều tra cơ bản của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư

Pháp về “Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế

40

của doanh nghiệp Việt Nam và vai trò của các thiết chế tư pháp, bổ trợ tư

pháp” đã khảo sát trong số 367 doanh nghiêp Việt Nam (tại Vĩnh Phúc, Hải

Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh,

Kiên Giang) đã gặp tranh chấp thương mại quốc tế có 100 doanh nghiệp từng

giải quyết tranh chấp bằng hòa giải (tỷ lệ 26,9%) [57], đây là một tỷ lệ không

cao. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam ít được các

doanh nghiệp áp dụng, bởi những lí do sau:

Thứ nhất, trước khi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP được ban hành thì

pháp luật Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể,

hướng dẫn chi tiết về quy trình, thủ tục, nội dung, hiệu lực của phương thức

giải quyết tranh chấp này, chỉ ghi nhận trong pháp luật thực định ở những

nguyên tắc cơ bản nên giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải dường

như vẫn được coi là công việc riêng tư của các bên.

Thứ hai, thực tế, hòa giải thương mại đã được tiến hành một cách tự

phát bởi các luật sư ở một số văn phòng luật sư, trọng tài viên ở trung tâm

trọng tài theo yêu cầu của khách hàng nhưng các tổ chức này chưa coi hòa

giải là một hoạt động chuyên nghiệp. Vì thế, thực tiễn hoạt động giải quyết

tranh chấp thương mại bằng hòa giải rất khó xác định được số lượng các vụ

tranh chấp thương mại mà các bên lựa chọn phương thức hòa giải để giải

quyết như đối với giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài hay tòa án.

Thứ ba, Nghị Định số 22/2017/NĐ-CP mới ra đời, tuy là một bước đột

phá lớn trong cải cách pháp luật về hòa giải thương mại, song nó cần thời gian

để mọi người kịp thích nghi và thực sự thấy nó hiệu quả. Hiệu lực của thỏa

thuận hòa giải thành tuy được Tòa án công nhận theo yêu cầu của các bên

được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nhưng trên thực tế vẫn

chưa có văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này làm các doanh nghiệp vẫn còn

hoài nghi về tính hiệu quả cũng như cơ chế thi hành kết quả hòa giải thành.

Theo báo cáo khảo sát doanh nghiệp về vấn đề hòa giải thương mại và

giải quyết tranh chấp tại Việt Nam tháng 6/2017 được thực hiện bởi Trung

41

tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) và Nhóm Ngân hàng thế giới (World

Bank Group), 78% doanh nghiệp được khảo sát cho biết họ sẵn sàng thử

phương thức hòa giải. Có 64 doanh nghiệp có kinh nghiệm hòa giải, (đa số -

41 doanh nghiệp – thuộc lĩnh vực sản xuất, sau đó là lĩnh vực thương mại).

Trong số này, 77% doanh nghiệp hài lòng với kết quả hòa giải, 79% sẽ tiếp

tục sử dụng phương thức hòa giải, 78% doanh nghiệp sẽ giới thiệu với doanh

nghiệp khác và chỉ có 2% tuyên bố sẽ không sử dụng dịch vụ hòa giải nữa

[33]. Theo kết quả trên, nhu cầu của doanh nghiệp Việt Nam đối với phương

pháp giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải là rất cao.

Đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có kết quả hòa giải nào được công

nhận bởi tòa án [33]. Theo Điều 416 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, kết quả hòa

giải vụ việc ngoài tòa án chỉ được tòa án xem xét ra quyết định công nhận khi

vụ việc hòa giải được thực hiện bởi cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có

nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải.

Nhưng đó mới chỉ là quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự, nó vẫn chưa có

một trình tự nào để thi hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành

trong Luật Thi hành án dân sự cũng như chưa có một văn bản hướng dẫn cụ

thể nào về việc thi hành này. Mặc dù các quy định tại chương XXXIII Bộ luật

Tố tụng dân sự 2015 là những quy định rất tiến bộ, song trên thực tế những

quy định này chưa phát huy được hiệu quả của nó.

Số liệu về các vụ tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải thương mại

đa phần là được giữ bí mật tại các tổ chức tiến hành hòa giải. Song theo nhận

xét của các hòa giải viên tại các tổ chức tiến hành hòa giải thì từ khi có Nghị

định số 22/2017 ra đời thì số các vụ tranh chấp được các bên đưa ra hòa giải

tại các tổ chức đã tăng rất nhiều so với thời gian trước [69] nhưng vẫn chưa

đưa ra con số cụ thể. Có thể thấy hiệu quả bước đầu đạt được sau 1 năm Nghị

định về hòa giải thương mại có hiệu lực, đây là một bước tiến vượt bậc trong

giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam góp phần tạo động lực cho các

chủ thể tham gia vào các quan hệ thương mại thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam

42

ngày càng hội nhập và phát triển. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các

chủ thể khi tham gia vào các quan hệ thương mại trong nước cũng như quốc

tế khi có một phương thức giải quyết tranh chấp hữu hiệu.

Trước khi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ra đời, chỉ có duy nhất VIAC

đã hiện thực hóa quy định tại khoản 2 Điều 317 Luật Thương mại năm 2005

thành Quy tắc hòa giải của VIAC (gồm 20 điều). Tuy nhiên, đó chỉ là bộ quy

tắc “nội bộ” được áp dụng cho các doanh nghiệp có nhu cầu đề nghị VIAC

tiến hành hòa giải. Còn ở các trung tâm trọng tài khác nếu doanh nghiệp yêu

cầu tiến hành hòa giải thì sẽ không có cơ sở pháp lý. Như vậy, ở Việt Nam

trước khi có Nghị định số 22/2017/NĐ-CP đối với hoạt động giải quyết tranh

chấp thương mại bằng hòa giải tại Trung tâm Trọng tài thương mại thì chủ

yếu là được thực hiện bởi Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, bộ quy tắc

hòa giải của VIAC tuy có chi tiết và quy mô, song nhìn chung vẫn chưa thể

hiện được một cách triệt để quy trình thủ tục hòa giải. Chính vì thế hiệu quả

hòa giải còn hạn chế do số vụ việc được trọng tài thương mại thụ lý và giải

quyết còn rất ít. Theo thống kê của VIAC thì số lượng các vụ tranh chấp đã

được đưa ra hòa giải được thể hiện qua bảng sau:

Năm Tổng số vụ Số vụ tranh chấp Hòa giải thành

đưa ra hòa giải

Số vụ Tỷ lệ

2012 64 14 1 1,5%

2013 99 20 2 2%

2017 151 30 19 12,6%

Bảng 2.1: Tình hình giải quyết tranh chấp bằng hòa giải ở VIAC năm

2012, 2013 và 2017

(Nguồn: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC)

Có thể nhận thấy một dấu hiệu tích cực của hoạt động hòa giải tại Việt

Nam kết từ khi ban hành Nghị định số 22/2017/NĐ-CP. Số vụ tranh chấp

43

được giải quyết bằng hòa giải thương mại tăng lên một cách rõ rệt, số vụ hòa

giải thành cũng tăng lên tương ứng. Như vậy, bước đầu của việc ban hành

Nghị định về hòa giải thương mại là một điều đúng đắn.

Nhìn chung, cho đến nay ở Việt Nam đã có một khuôn khổ pháp lý

nhất định để điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa

giải song nó vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam nên để áp dụng một cách phổ

biến thì phải cần thời gian để các bên xảy ra tranh chấp hiểu rõ được lợi ích

và hạn chế của phương thức này từ đó lựa chọn sử dụng nó để giải quyết các

tranh chấp phát sinh. Để làm được vậy cần sự tuyên truyền pháp luật phổ biến

đến giới doanh nghiệp để mọi người có thể nhận thấy được những ưu điểm

vượt trội của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải.

Bên cạnh đó còn phải hoàn thiện khung pháp lý về hòa giải thương mại để các

doanh nghiệp có thể an tâm lựa chọn phương thức này để giải quyết tranh

chấp khi có phát sinh.

2.3. Một số vấn đề pháp lý tiến bộ theo pháp luật Việt Nam khi giải

quyêt tranh chấp thương mại bằng hòa giải

Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ ý nghĩa quan trọng

của việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải đối với nền kinh tế

trong giai đoạn hội nhập toàn cầu hiện nay và thực trạng pháp luật hiện hành

về lĩnh vực này cho thấy một số vấn đề pháp lý tiến bộ sau:

Thứ nhất, về điều khoản hòa giải, đây chính là căn cứ để tiến hành thủ

tục hòa giải. Điều khoản hòa giải được hiểu là thỏa thuận giữa các bên về việc

giải quyết tranh chấp sẽ phát sinh bằng phương thức hòa giải. Vấn đề đặt ra là

thỏa thuận về hòa giải được lập ra khi nào và hình thức như thế nào? Theo

Nghị định số 22/2017/NĐ-CP tại Điều 6 quy định “tranh chấp được giải

quyết bằng hòa giải thương mại nếu các bên có thỏa thuận hòa giải. Các bên

có thể thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng hòa giải trước, sau khi xảy ra

tranh chấp hoặc tại bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết tranh

44

chấp”. Như vậy, có thể hiểu điều khoản hòa giải được các bên quy định ngay

trong hợp đồng hoặc thỏa thuận thành một hợp đồng riêng. Tuy nhiên, soạn

thảo điều khoản như thế nào cho hợp lý lại chưa có hướng dẫn. Thực tiễn ở

một số quốc gia cho thấy, một điều khoản hòa giải thông thường sẽ được soạn

thảo như sau: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc có liên quan đến hợp đồng

này trước hết sẽ được giải quyết bằng phương thức hòa giải tại…(tên của một

trung tâm hòa giải)..phù hợp với bản Quy tắc hòa giải của trung tâm này. Các

bên cam kết sẽ tham gia hòa giải với thái độ thiện chí và bị ràng buộc bởi thỏa

thuận đạt được trong quá trình hòa giải”. Ngoài ra, các bên cũng có thể thỏa

thuận thêm về việc giải quyết vụ tranh chấp tại Tòa án hay trọng tài nếu việc

hòa giải không thành công [44, tr.46].

Thứ hai, về vấn đề đảm bảo tính bí mật của quá trình hòa giải. Để hòa

giải đạt hiệu quả thì mỗi bên cần cởi mở, hợp tác với nhau và với hòa giải

viên trong việc đưa ra đầy đủ các bản trình bày kèm theo là những tài liệu liên

quan và những bằng chứng. Vấn đề đặt ra là các bên có thể lợi dụng những

thông tin hiểu biết về đối phương đặc biệt là các bí mật kinh doanh trong quá

trình hòa giải để đưa ra làm chứng cứ tại Tòa án và Trọng tài nếu như pháp

luật không có cơ chế nào để đảm bảo tính bí mật của các thông tin và tài liệu

được trao đổi trong quá trình hòa giải. Vì vậy, Nghị định số 22/2017/NĐ-CP

đã đưa ra nguyên tắc đảm bảo bí mật thông tin trong quá trình hòa giải và nó

có nghĩa vụ ràng buộc các bên khi tham gia vào quá trình hòa giải.

Thứ ba, về vấn đề hiệu lực thi hành của thỏa thuận hòa giải thành.

Trong quá trình hòa giải, khi các bên đạt được thỏa thuận thì các bên cùng ký

kết vào thỏa thuận hòa giải thành. Khi chưa có Nghị định số 22/2017/NĐ-CP

và Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 ra đời thì việc thi hành kết quả hòa giải thành

phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí và sự tự nguyện của các bên, các bên có thể

thực hiện hoặc không thực hiện đối với kết quả hòa giải thành mà không có

cơ chế thực thi nào ràng buộc các bên phải thực hiện. Điều này dẫn đến việc

tốn thời gian, công sức, tinh thần hợp tác giữa các bên có thể bị rạn nứt mặc

45

dù đã thỏa thuận thành nhưng lại không tiến hành thực hiện thỏa thuận đó.

Khắc phục hạn chế này, tại Điều 13 Nghị định 22/2017/NĐ-CP quy định về

quyền, nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình hòa giải theo đó:

“…

2. Các bên tranh chấp có các nghĩa vụ sau đây:

b) Thi hành kết quả hòa giải thành”

Cùng với quy định này, Điều 416 BLTTDS 2015 quy định về công

nhân kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án như sau: “Kết quả hòa giải vụ việc

ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận là kết quả hòa

giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan, tổ chức,

người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định

của pháp luật về hòa giải”.

Như vậy, có thể thấy rằng kết quả hòa giải thành buộc các bên phải thực

hiện và đã có cơ chế đảm bảo sự ràng buộc đó bởi quyết định công nhận của

Tòa án khi có đơn yêu cầu của một hoặc tất cả các bên. Điều này là một sự

tiến bộ vượt bậc, nâng tầm phương thức hòa giải nên một bước mới và khiến

thu hút sự quan tâm của các chủ thể kinh doanh thương mại đối với phương

thức giải quyết tranh chấp này.

2.4. Một số vấn đề pháp lý hạn chế khi giải quyết tranh chấp thương

mại bằng hòa giải theo pháp luật Việt Nam.

Thứ nhất, về mối quan hệ giữa hòa giải thương mại với trọng tài và tòa

án. Ở đây cần xem xét vấn đề nếu có tranh chấp thương mại xảy ra mà các

bên không tiến hành hòa giải theo như điều khoản hòa giải đã thỏa thuận mà

lại khởi kiện ngay ra Tòa án hay trọng tài thì những cơ quan này sẽ trả lại đơn

khởi kiện hay vẫn thụ lý, giải quyết? Điều này đang rất cần một chuẩn mực

pháp lý để giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải đi vào khuôn khổ.

Ở Việt Nam, khi các bên thỏa thuận hòa giải tại VIAC, thì phải cam kết sẽ

không tiến hành tố tụng tại trọng tài hay Tòa án theo quy định tại Điều 16

Quy tắc hòa giải:

46

“1. Trong quá trình hòa giải, các bên cam kết không tiến hành bất cứ

tố tụng trọng tài hoặc tòa án nào đối với tranh chấp đang là đối tượng của

quá trình hòa giải

2. Trong quá trình hòa giải, nếu một bên hoặc các bên đưa vụ tranh

chấp đang là đối tượng của quá trình hòa giải ra kiện tại Trọng tài hoặc Tòa

án thì việc hòa giải mặc nhiên bị coi là chấm dứt”

Ngoài quy định trên của Quy tắc hòa giải của VIAC thì theo quy định

của pháp luật Việt Nam hiện hành thì việc các bên có thỏa thuận hòa giải

không phải là một căn cứ để Tòa án hay trọng tài từ chối thụ lý vụ án. Qua đó,

có thể thấy ở nước ta, việc bên có thỏa thuận hòa giải chỉ có ý nghĩa khuyến

khích các bên giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải thương mại

chứ không có tính chất ràng buộc của một quy định hợp đồng. Theo quan

điểm của các nước trên thế giới về hòa giải thương mại cho rằng để thúc đẩy

sự phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này thì việc

Tòa án hay trọng tài tạm dừng việc thụ lý vụ án và yêu cầu các bên tiến hành

hòa giải trước là một việc làm hết sức ý nghĩa, bên cạnh đó vẫn chú ý đến

đảm bảo quyền được tiếp cận hệ thống Tòa án và Trọng tài của các tổ chức,

cá nhân. Hiện nay, pháp luật của một số nước như Anh, Australia, Hong

Kong, Singapore,…cũng đang theo xu hướng công nhận và cho thi hành điều

khoản hòa giải. Theo kinh nghiệm của các nước này, trường hợp trong hợp

đồng giữa các bên có điều khoản hòa giải, Tòa án sẽ chỉ tiến hành thụ lý vụ án

nếu 1) điều khoản hòa giải giữa các bên được quy định không rõ ràng (ví dụ

không quy định thời hạn dành cho việc hòa giải), hoặc 2) đã hết thời hạn dành

cho việc hòa giải theo hợp đồng mà các bên không tiến hành hòa giải; hoặc 3)

các bên đã tham gia vào quá trình hòa giải và đã hết thời hạn dành cho việc

hòa giải theo hợp đồng mà các bên không đạt được thỏa thuận. Nếu bên khởi

kiện không chứng minh được vụ tranh chấp thuộc một trong các trường hợp

nói trên, Tòa án sẽ tạm dừng quá trình tố tụng và yêu cầu các bên thực hiện

điều khoản hòa giải trước [56, tr.47].

47

Như vậy, pháp luật Việt Nam cần quy định rõ khi thỏa thuận giải quyết

tranh chấp thương mại bằng hòa giải thì các bên phải có thỏa thuận rõ ràng về

việc từ bỏ quyền tiến hành tố tụng trước trọng tài hay tòa án. Tuy nhiên, khi

xét thấy cần thiêt để bảo vệ quyền lợi của mình thì các bên có thể đưa ra tố

tụng trọng tài hoặc tòa án.

Thứ hai, về việc quy định tiêu chuẩn hòa giải viên thương mại. cần phải

xác định rằng Hòa giải viên thương mại không giống như Trọng tài viên. Hòa

giải viên không phải là người phán xét ai đúng, ai sai hoặc đưa ra quyết định

giải quyết tranh chấp như Trọng tài viên. Hòa giải viên chỉ là người hỗ trợ các

bên đạt được thỏa thuận để giải quyết tranh chấp. Chính vì thế, các bên có thể

chọn bất cứ người nào mà họ tin tưởng để làm hòa giải viên. Vì vậy, theo tác

giả không cần quy định tiêu chuẩn của Hòa giải viên. Nếu có chăng cũng chỉ

cần quy định những điều cơ bản như: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,

không phải là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp

hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích hoặc không phải là công chức

hoặc cán bộ cơ quan tư pháp như Công an, Kiểm sát, Tòa án và thi hành án.

Những tiêu chuẩn về trình độ của hòa giải viên cũng như kỹ năng hòa giải

không cần thiết phải quy định. Bởi lẽ, có những người không có trình độ đại

học và cũng không có thực tế công tác nhưng họ lại có khả năng thuyết phục

được các bên và được các bên tin tưởng lựa chọn, do đó hoàn toàn đủ khả

năng làm Hòa giải viên. Về kĩ năng hòa giải, do không có tiêu chí cũng như

tiêu chuẩn để đánh giá nên tác giả cho rằng cũng không cần phải quy định.

Nói chung những quy định chặt chẽ về trình độ của Hòa giải viên là không

hợp lý và cũng không phù hợp với thực tiễn quốc tế nên không nên quy định

trong Nghị định. Việc quy định như vậy sẽ giới hạn những người có năng lực

làm hòa giải viên tham gia vào giải quyết các tranh chấp thương mại. Hoạt

động hòa giải diễn ra sẽ không đạt được hiệu quả cao.

Thứ ba, về phí hòa giải, giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải

thường có chi phí thấp hơn so với giải quyết tranh chấp thương mại bằng

48

trọng tài hay tòa án. Tuy nhiên, pháp luật nước ta hiện nay cũng chưa quy

định về vấn đề này. Trong thời gian tới, để đảm bảo cho sự phát triển và duy

trì hoạt động của trung tâm hòa giải hay hòa giải viên thì pháp luật Việt Nam

cần quy định về phí hòa giải. Việc quy định này có thể tham khảo cách thức

quy định về phí của Trung tâm hòa giải Singapore. Ngoài ra, có thể tham

khảo cách thức quy định về chi phí hòa giải tại Điều 17 Quy tắc hòa giải của

VIAC, cụ thể chi phí hòa giải bao gồm: phí hành chính, một khoản thù lao

hợp lý cho hòa giải viên, chi phí đi lại và các chi phí khác của hòa giải viên,

các chi phí khác của nhân chứng theo yêu cầu của hòa giải viên với sự đồng ý

của các bên; chi phí tư vấn của các chuyên gia,… về cách thức nộp được quy

định tại khoản 1 Điều 18 của quy tắc, theo đó bên nộp đơn yêu cầu hòa giải

phải nộp tạm ứng 50% phí hòa giải. Khi chấp nhận hòa giải, bên nhận được

yêu cầu hòa giải phải nộp tạm ứng 50% phí hòa giải. Trong trường hợp các

bên có đơn yêu cầu hòa giải phải gửi tới VIAC mỗi bên nộp 50% phí hòa giải.

Sau khi chấm dứt quá trình hòa giải, VIAC sẽ tính toán chi phí trong số tiền

đã ứng trước và trả lại cho các bên bất cứ khoản chi phí còn lại nào không chi

tới.

2.5. Nguyên nhân những hạn chế cơ bản của pháp luật Việt Nam về

giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ngoài tố tụng.

Là một nước phương Đông với truyền thống đoàn kết, luôn đề cao tinh

thần tương thân tương ái và tình nghĩa “lấy hòa làm trọng”, do đó khi có tranh

chấp với nhau mọi người có tâm lý ngại kiện cáo nên biện pháp trước tiên

được áp dụng là thương lượng, hòa giải, vì thông qua những biện pháp này

mà các bên có thể hiểu nhau hơn và mâu thuẫn có thể được giải quyết mà vẫn

giữ được tình người. Như vậy, lẽ ra giải quyết tranh chấp thương mại bằng

hòa giải rất phát triển ở Việt Nam, tuy nhiên trên thực tế hoàn toàn ngược lại.

Có thể thấy Pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại còn

nhiều hạn chế như chưa thực sự quan tâm đầy đủ đến hòa giải, đã một thời

gian rất dài trước khi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ra đời thì pháp luật Việt

49

Nam chưa có nhữn quy định cụ thể như hình thức pháp lý, trình tự tiến hành

hòa giải, hiệu lực pháp lý khi hòa giải thành, chưa có những quy định phối kết

hợp giữa hòa giải và các phương thức giải quyết tranh chấp khác, chưa có sự

thống nhất chung về pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại mà mới chỉ

dừng lại ở việc quy định đó là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại.

Khi Nghị định sô 22/2017/NĐ-CP ra đời tuy khỏa lấp phần lớn được những

hạn chế trên nhưng về mặt thực tế nó lại quá mới mẻ đối với các doanh

nghiệp, thậm chí nó còn ít được biết đến do khâu tuyên truyền phổ biến pháp

luật của Việt Nam còn yếu, song cũng vẫn còn một số những quy định pháp

lý làm các doanh nghiệp chưa an tâm lựa chọn phương thức giải quyết tranh

chấp này. Vậy nguyên nhân của những hạn chế đó là:

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam chưa nắm bắt và phản ánh nhanh các yêu

cầu của nền kinh tế thị trường trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại

bằng hòa giải mãi cho đến khi xảy ra các vấn đề quá tải về giải quyết các vụ

án được giải quyết bởi Tòa án, vấn đề tồn đọng án cũng như tính hiệu quả của

việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng các phương thức khác kém

hiệu quả chúng ta mới đi tpìm đến và hoàn thiện phương thức giải quyết tranh

chấp thương mại bằng hòa giải. Trong khi đó, các quốc gia trên thế giới đã coi

đây là phương thức giải quyết tranh chấp chủ yếu, quan trọng khi tham gia

vào các quan hệ thương mại. Lý do này cũng xuất phát từ việc Việt Nam

chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với những chính sách và định

hướng lạc hậu, trình độ phát triển thấp lên nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, trong thời đại mở cửa, toàn cầu hóa, hội nhập kinh

tế quốc tế tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển kinh tế nhưng đồng thời cũng

đặt ra nhiều thách thức và khó khăn như năng lực cạnh tranh của hàng hóa

dịch vụ doanh nghiệp cà cả nền kinh tế của nước ta còn yếu, nhiều thị trường

quan trọng chưa được chú trọng đầu tư và phát triển. Bên cạnh đó, những yếu

kém về quản ý và điều hành của các cơ quan nhà nước cũng tạo ra những cản

trở đối với quá trình hội nhập kinh tế của đất nước. Việc tiếp cận với hệ thống

50

pháp luật của thế giới tuy đã được thực hiện nhưng nó chua thực sự phù hợp

và hiệu quả đối với tình hình kinh tế và nhận thức của giới doanh nhân Việt

Nam. Vì vậy tuy đã có khung pháp lý về hòa giải thương mại nhưng trên thực

tế nó vẫn còn được áp dụng ít, chưa thực sự đạt được kỳ vọng của các nhà

làm luật bởi tính mới và hiệu quả của nó.

Thứ hai, các thương nhân Việt Nam chưa chuông các phương thức giải

quyết tranh chấp thay thế mà thường chọn Tòa án nhân dân để giải quyết, do

bị ảnh hưởng to lớn của Tòa án nhân dân trong suốt thời kì kinh tế kế hoạch

hóa tập trung, không hiểu biết về hòa giải, chưa hội nhập sâu với thương mại

thế giới. Nhận thức của doanh nghiệp về tác dụng của hòa giải còn hạn chế.

Có thể lấy ví dụ về hạn chế của việc giải quyết tranh chấp thương mại

bằng Tòa án thông qua vụ án sau:

Đối với tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa giữa nguyên đơn

Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu nông thổ sản An Bình và bị đơn Công ty Cổ

phần Việt Trung Hà Anh: ngày 03/7/2008, nguyên đơn khởi kiện, ngày

16/9/2008, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, sau

đó bị đơn khang cáo, ngày 03/7/2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao

tại Hà Nội xét xử phúc thẩm. Sau đó, bị đơn tiếp tục có đơn đề nghị xem xét

theo thủ tục giám đốc thẩm. Đén ngày 30/5/2012, Hội đồng thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao có quyết định giám đốc thẩm số 06/2012/KDTM-GĐT quyết

định không chấp nhận quyêt định kháng nghị và giữ nguyên bản án kinh

doanh, thương mại phúc thẩm. Như thế, vụ kiện này kéo dài 4 năm từ năm

2008 đến năm 2012 [58, tr.45 – 48].

Đối với tranh chấp về hợp đồng xây dựng giữa nguyên đơn Công ty

TNHH Nhật Linh – Đà Nẵng và bị đơn Công ty Cổ phần Bạch Đằng: ngày

10/4/2004 nguyên đơn khởi kiện. Ngày 31/12/2007, Tòa án nhân dân thành

phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, sau đó cả nguyên đơn và bị đơn đều

kháng cáo và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng kháng

nghị. Ngày 08/7/2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng

51

xét xử phúc thẩm. Sau đó, bị đơn có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám

đốc thẩm. Ngày 15/3/2012, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có

quyết định giám đốc thẩm số 01/2012/KDTM-GĐT quyết định hủy cả bản án

sơ thẩm và bản án phúc thẩm và giao hồ sơ vụ án xét xử sơ thẩm lại. Như vậy,

vụ án này đã kéo dài 8 năm từ năm 2004 đến năm 2012 và vẫn còn tiếp tục

được xét xử lại từ đầu [59, tr.43 – 48].

Có thể thấy các vụ án tranh chấp nói chung và án tranh chấp kinh

doanh thương mại nói riêng được giải quyết bằng Tòa án chưa nói về tính

hiệu quả nhưng xét về mặt thời gian thì thực sự là rất lâu để giải quyết xong

một vụ tranh chấp, đặc biệt đối với đặc tính giải quyết mọi vấn đề phát sinh

một cách nhanh chóng như trong lĩnh vực thương mại thì sự kéo dài này là vô

cùng bất tiện, gây ra những hậu quả xấu trong quá trình kinh doanh. Vì vậy,

phương thức giải quyết tranh chấp bằng hoà giải xét về mặt thời gian giải

quyết đã có lợi thể hơn hẳn giải quyết bằng tố tụng tại Tòa án.

Tóm lại, để phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa

giải phổ biến thì pháp luật Việt Nam cần có một khung pháp lý quy định rõ

ràng hơn, chi tiết hơn về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng

hòa giải với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế độc

lập. Cụ thể, cần giải thích rõ vấn đề công nhận và cho thi hành kết quả hòa

giải thành bởi Tòa án để doanh nghiệp có thể an tâm lựa chọn phương thức

giải quyết tranh chấp này bởi tính ràng buộc của nó. Bên cạnh đó, về điều

kiện để tiến hành hòa giải phải rõ ràng tránh những quy định chồng chéo giữa

phương thức giải quyết tranh chấp này với phương thức tố tụng Trọng tài hay

Tòa án.

52

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI NGOÀI TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT

TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

3.1. Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh

chấp thương mại bằng hòa giải thương mại.

3.1.1. Cơ sở lý luận.

Hiện nay nền kinh tế Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ kể từ sau đổi

mới vào năm 1986, việc chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế nhiều

thành phần có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước quản lý các thành phần

kinh tế bằng chính sách và pháp luật. Trong đó lĩnh vực kinh doanh thương

mại là lĩnh vực quan trọng quyết định đến sự phát triển của kinh tế đất nước.

Việc mở rộng giao lưu buôn bán giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước

đã tạo nên một hoạt động kinh doanh thương mại sôi động đa thành phần, đa

lĩnh vực. Và một tất yếu xảy ra điều không ai mong muốn nhưng không thể

tránh khỏi là đó là các tranh chấp thương mại. Vấn đề đặt ra là khi xảy ra

những tranh chấp đó thì cần những phương pháp nào, cơ quan nào, căn cứ

pháp luật nào để giải quyết, bảo đảm lợi ích chính đáng của mỗi bên. Đây

chính là việc bảo đảm cho sự tin cậy, độ an toàn cho hoạt động sản xuất kinh

doanh, trao đổi mua bán . Chính quá trình phát triển này đã đặt ra yêu cầu đối

với mỗi quốc gia là phải đổi mới hệ thống pháp luật của mình phù hợp với

đặc thù quốc gia vừa phù hợp với sự phát triển chung của thế giới.

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại là một

phương thức giải quyết tranh chấp quan trọng và hiệu quả. Tuy nhiên ở Việt

Nam pháp luật về việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải còn

mới mẻ và hạn chế trong khi đó ở nhiều quốc gia về mặt lập pháp hòa giải

ngày càng được quan tâm, được thể chế hóa trên mọi phương diện quốc gia,

khu vực và quốc tế. Đây là căn cứ để hình thành quy tắc hòa giải như bộ quy

tắc hòa giải Uncitral, Luật mẫu về hòa giải thương mại quốc tế của Ủy ban

pháp luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc, Quy trình hòa giải không

53

bắt buộc của phòng thương mại quốc tế tại London, Ủy ban quốc gia về thống

nhất pháp luật Hoa Kỳ ban hành đạo luật hòa giải thống nhất năm 2001. Gần

đây liên minh Châu Âu đã ban hành chỉ thị số 2008/52/EC về một số khía

cạnh hòa giải các vụ việc dân sự, thương mại [38]. Tại Việt Nam trước kia

hòa giải được quy định trong các văn bản như BLDS 2005, BLTTDS 2004,

LTM 2005, Luật Đầu tư 2005, Luật Trọng tài thương mại 2010,…mà chưa

tổng hợp lại thành một văn bản pháp lý cụ thể, rõ ràng về hòa giải thương

mại. Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ra đời là văn bản pháp lý đầu tiên quy định

cụ thể, chi tiết về hòa giải thương mại, tuy nhiên văn bản này cũng chưa phải

là văn bản pháp lý lý tưởng về phương thức hòa giải thương mại.

Do đó thay đổi, phát triển khuôn khổ pháp luật quy định về giải quyết

tranh chấp kinh doanh thương mại bằng hòa giải cũng có thể xem là một tất

yếu không tránh khỏi trong kinh doanh thương mại. Điều này hoàn toàn phù

hợp với nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/6/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định “Khuyến khích giải quyết

một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ

bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”; Cam kết của Việt Nam khi gia

nhập WTO về dịch vụ hòa giải tranh chấp giữa các thương nhân thể hiện tại

Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO, phần dịch vụ liên

quan đến tư vấn quản lý; Quyết định số 808/QĐ-TTg của Thủ tướng chính

phủ về việc ban hành chương trình hành động thực hiện chiến lược tổng thể

phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020, trong đó có phân

công nhiệm vụ xây dựng trình chính phủ. Tuy kết quả của chương trình này

đã cho ra đời Nghị định số 22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương

mại, song Nghị định này vẫn chưa thực sự hoàn hảo về khung pháp lý đối với

phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại. Vì vậy, trong

thời gian tới, Việt Nam cần phải nghiên cứu thêm để sửa đổi, bổ sung sao cho

hoàn thiện các quy định pháp luật thích ứng với các hoạt động thương mại

ngày càng phát triển.

54

3.1.2. Cơ sở thực tiễn.

Trong những năm gần đây Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định

thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới và đặc biệt đã trở thành thành

viên cảu WTO. Điều này sẽ tạo nhiều thuận lợi để kinh tế phát triển nhưng

cũng đầy thách thức trong tương lai. Trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam

tham gia có các quy định về áp dụng phương thức thương lượng, hòa giải như

là các biện pháp ưu tiên trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh. Do đó

Việt Nam cần có những thay đổi phù hợp với sự thay đổi chung của quốc tế.

Việt Nam cần nhìn lại khung pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh

thương mại, đặc biệt là hòa giải kinh doanh thương mại để từ đó rút ra được

những bất cập, hạn chế nhằm tạo điều kiện cho việc sửa đổi toàn diện hệ

thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại phù hợp với yêu cầu, đòi

hỏi thực tiễn đặt ra trong tình hình mới đồng thời phù hợp với chuẩn mực

quốc tế và khu vực.

Thực tiễn cho thấy hòa giải kinh doanh thương mại thường được tiến

hành kết hợp với phương thức tố tụng tòa án hay tố tụng trọng tài, theo đó

việc hòa giải giữa các bên tranh chấp chủ yếu do các thẩm phán hoặc trọng tài

viên tiến hành trong quá trình tố tụng căn cứ vào các quy định của pháp luật

đối với hòa giải ngoài tố tụng các quy định của pháp luật còn khá mới mẻ và

vẫn chưa được hoàn thiện. Trong khi đó hòa giải ngoài tố tụng đang được các

nước phát triển trên thế giới ưa chuộng bởi các bên tranh chấp có thể nhờ tới

các chuyên gia có kinh nghiệm về hòa giải hoặc các chuyên gia có uy tín

trong lĩnh vực đang tranh chấp như vận tải, tài chính, ngân hàng,..đứng ra làm

trung gian hòa giải các bên tranh chấp.

G.S. Kobayashi (Đại học Kyusu – Nhật Bản) cho biết “Sự mất cân

bằng giữa hòa giải do nhà nước và tổ chức xã hội tiến hành ở Nhật là 1/10. Vì

thế Nhật Bản đã ban hành luật về hòa giải, quy định áp dụng hình thức hòa

giải trong giải quyết các tranh chấp dân sự, thương mại nhưng vì không rõ

ràng nên khi áp dụng trong thực tiễn đã xuất hiện nhiều hình thức hòa giải (cả

55

theo truyền thống Nhật Bản và phương tây) thực trạng này dẫn đến sự rối loạn

và không phát huy được hiệu quả của biện pháp hòa giải, thậm chí tạo ra phản

ứng ngược lại với việc áp dụng các biện pháp hòa giải để giải quyết tranh

chấp. Từ kinh nghiệm đó của Nhật Bản cho thấy cần có luật điều chỉnh hoạt

động hòa giải kinh doanh thương mại nhưng phải cụ thể phải rõ ràng cũng

như hoàn thiện cơ chế pháp lý áp dụng đối với các thiết chế tư pháp và hỗ trợ

tư pháp như luật sư, trọng tài thương mại, giám định tư pháp để hỗ trợ các

doanh nghiệp xử lý tranh chấp khi tham gia các hoạt động thương mại quốc

tế” [44].

Thực tế hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam đang

cần những phương thức giải quyết tranh chấp thực sự có hiệu quả. Bởi đặc

tính của hoạt động kinh doanh là làm sao để mọi bất đồng được giải quyết

một cách êm đẹp nhất, tiết kiệm nhất, nhanh gọn nhất và đặc biệt là giữ được

mối quan hệ hợp tác với nhau sau khi giải quyết tranh chấp xong. Hòa giải

thương mại chính là phương thức đáp ứng được những yêu cầu trên. Vì vậy,

cần chú trọng hoàn thiện hơn nữa những quy định pháp luật về hòa giải để

hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam diễn ra hiệu quả, thúc

đẩy quá trình đầu tư, tham gia thị trường kinh doanh của các chủ thể kinh

doanh.

3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp

thương mại bằng hòa giải thương mại

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại

bằng hòa giải thương mại ở Việt Nam trên cơ sở thực tiễn hoạt động hòa giải

trong nước và kinh nghiệm hòa giải của các quốc gia trên thế giới, cụ thể:

Hoàn thiện những quy định về hoạt động hòa giải thương mại, về trình

tự thủ tục hòa giải, thực thi điều khoản hòa giải, chế tài xử lý quy phạm,…

Nghiên cứu áp dụng án lệ, tập quán thương mại, quy định về hiệp hội

nghề nghiệp trong hoạt động hòa giải.

56

Thứ hai, vận dụng linh hoạt các nguyên tắc kinh nghiệm của các cơ

quan giải quyết tranh chấp thương mại trên thế giới như WTO, ASEAN, công

ước Washington…tham khảo hoạt động của các trung tâm hòa giải quốc tế và

khu vực như Trung tâm hòa giải Delhi (Ấn Độ), Trung tâm hòa giải

Singapore,.. từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để xây dựng hoàn thiện pháp

luật hòa giải kinh doanh thương mại phù hợp với sự phát triển kinh tế trong

nước và quốc tế.

Thứ ba, đào tạo hệ thống người hòa giải trên cơ sở người hòa giải phải

có kĩ năng hòa giải. Tại Việt Nam trong mỗi một tranh chấp thương mại thì

người tham gia giải quyết tranh chấp thường là các đại diện có thẩm quyền

nhưng những người này không phải lúc nào cũng là người hòa giải giỏi, hiểu

biết. Trong khi đó ở các quốc gia trên thế giới vai trò của luật sư, chuyên gia,

cố vấn pháp lý rất quan trọng. Họ được các doanh nghiệp ủy quyền tham gia

giải quyết tranh chấp thương mại ngay từ khi xảy ra tranh chấp đến khi vụ

tranh chấp được giải quyết các chủ doanh nghiệp ủy quyền cho luật sư là hoàn

toàn tin tưởng vào trình độ và năng lực của luật sư. Do đó Việt Nam cần phải

quan tâm đến vấn đề này. Việt Nam nên có tác động tích cực vào cơ chế ủy

quyền này tạo điều kiện cho đại diện tham gia hòa giải để quá trình hòa giải

đạt hiệu quả. Với việc ủy quyền họ có thể tham gia vào toàn bộ quá trình hòa

giải, nắm bắt toàn bộ vấn đề, trên cơ sở kinh nghiệm và kỹ năng hòa giải họ

sẽ quyết định vấn đề giải quyết tranh chấp nhanh gọn, chính xác.

3.3. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết

tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam.

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra những giải pháp để hoàn thiện

pháp luật về giải quyêt tranh chấp thương mại bằng hòa giải như sau:

Thứ nhất, sự tham gia của Luật sư vào quá trình hòa giải. Nghị định số

22/2017/NĐ-CP Nghị định về hòa giải thương mại đã không đề cập đến sự

tham gia của Luật sư trong quá trình hòa giải thương mại. Luật sư có thể tham

gia vào quá trình hòa giải thương mại dưới hai tư cách, đó là bên thứ ba hòa

57

giải hoặc người đại diện cho bên tranh chấp tham gia hòa giải. Để trở thành

bên thứ ba hòa giải, luật sư phải là hòa giải viên trong một tổ chức hòa giải

hoặc trở thành người đại diện cho các bên tranh chấp nếu được các bên tranh

chấp ủy quyền. Hiện nay, phương thức ủy quyền cho luật sư tham gia hòa giải

đang được các quốc gia khuyến khích sử dụng bởi hiệu quả hòa giải cao, tiết

kiệm được thời gian để các bên tranh chấp thực hiện hoạt động khác.

Thứ hai, về giá trị pháp lý của thỏa thuận hòa giải thành. Thỏa thuận

hòa giải thành theo quy đinh của pháp luật hiện hành thì được Tòa án công

nhận khi có yêu cầu của một hoặc tất cả các bên tranh chấp. Quyết định công

nhận đó sẽ được coi như bản án của Tòa án và có giá trị ràng buộc thực hiện

đối với các bên. Nếu các bên không thưc hiện thì quyêt định công nhận của

Tòa án sẽ chuyển cho cơ quan thi hành án dân sự thi hành. Tuy nhiên, làm

như vậy thủ tục sẽ bị kéo dài. Do vậy chỉ cần quy định thỏa thuận hòa giải

thành được tổ chức hòa giải xác nhận và chuyển cho cơ quan thi hành án thi

hành như một bản án.

Thứ ba, về mối quan hệ giữa hòa giải thương mại với trọng tài và tòa

án. Ở đây cần xem xét vấn đề nếu có tranh chấp thương mại xảy ra mà các

bên không tiến hành hòa giải theo như điều khoản hòa giải đã thỏa thuận mà

lại khởi kiện ngay ra Tòa án hay trọng tài thì những cơ quan này sẽ trả lại đơn

khởi kiện hay vẫn thụ lý, giải quyết? Nghị định số 22/2017/NĐ-CP đã không

đê cập đến vấn đề này. Theo tác giả cần quy định cụ thể và rõ ràng rằng, nếu

các bên đã có thỏa thuận hòa giải và cam kết không khởi kiện ra Tòa án và

trọng tài trong một thời gian xác định thì Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án phải

thừa nhận hiệu lực của thỏa thuận đó và từ chối thụ lý vụ việc cho đến hết

thời hạn trong cam kết. Sở dĩ phải quy định như vậy vì trong thực tế, đã có

nhiều trường hợp, mặc dù các bên quy định phải đảm bảo điều kiện nhất định

thì mới có thể khởi kiện trọng tài hoặc tòa án nhưng trọng tài và tòa án vẫn

thụ lý vụ việc dù các điều kiện được thỏa thuận chưa được đáp ứng. Để

khuyến khích hoạt động hòa giải thì nên quy định thêm điều khoản này bởi lẽ,

58

nếu không có quy định này thì thỏa thuận hòa giải có thể được tiến hành hoặc

không tiến hành tùy thuộc vào sự thiện chí của các bên. Như vậy, mục đích

của việc lựa chọn hòa giải để giải quyết tranh chấp không đạt được.

Thứ tư, nên quy định cụ thể trình tự, thủ tục và các loại chi phí cơ bản

cho hoạt động hòa giải thương mại. Bởi lẽ, chi phí hòa giải cũng là một trong

những yếu tố mà các bên tranh chấp quan tâm và đưa ra quyết định có nên lựa

chọn phương thức hòa giải để giải quyết tranh chấp hay không, vì vậy, cần có

một trình tự và mức phí khung cụ thể để các bên tiện theo dõi.

3.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương

mại bằng hòa giải thương mại.

3.4.1. Đào tạo bồi dưỡng hòa giải viên

Trong giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại, hòa giải viên là

một thành phần hết sức quan trọng. Hòa giải viên là người chủ trì phiên hòa

giải.

Tại Quy tắc hòa giải Uncitral và Bộ quy tắc hòa giải của VIAC không

quy định về tiêu chuẩn hòa giải viên mà chỉ quy định về vai trò của hòa giải

viên. Tại Điều 7 Nghị định số 22/2017/NĐ-CP quy định về tiêu chuẩn hòa

giải viên thương mại như sau:

“Hòa giải viên là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; có phẩm

chất đạo đức tốt, có uy tín, độc lập, vô tư, khách quan; có trình độ đại học trở

lên và đã qua thời gian công tác trong lĩnh vực được đào tạo từ 02 năm trở

lên; có kỹ năng hòa giải, hiểu biết pháp luật, tập quán kinh doanh, thương

mại và các lĩnh vực liên quan”

Hòa giải viên có thể là công dân Việt Nam hoặc công dân nước ngoài

đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn nêu trên. Hòa giải viên được đào tạo kỹ

năng hòa giải, được bồi dưỡng thường xuyên trong quá trình hoạt động cả về

trình độ chuyên môn lẫn kỹ năng nghiệp vụ hòa giải. Để nâng cao chất lượng

đội ngũ hòa giải viên cần phải thực hiện những bước như sau:

59

Thứ nhất, xây dựng tiêu chuẩn chọn lựa những chuyên gia am hiểu về

lĩnh vực kinh doanh thương mại như tài chính ngân hàng, bất động sản, bảo

hiểm,..và khuyến khích họ trở thành hòa giải viên thương mại. Những chuyên

gia am hiểu về lĩnh vực kinh doanh thương mại là người có trình độ chuyên

môn cao, có kinh nghiệm, kỹ năng hòa giải thực tế. Do vậy cần phải xây dựng

cơ chế để thu hút, đào tạo đội ngũ chuyên gia trở thành những hòa giải viên

tiêu biểu cả về chất lượng và số lượng nhằm thúc đẩy hoạt động hòa giải

ngoài tố tụng cũng như tạo niềm tin cho các doanh nghiệp.

Thứ hai, tận dụng nguồn nhân lực từ đội ngũ luật sư và thẩm phán đã

về hưu. Luật sư và thẩm phán về hưu là nguồn nhân lực chất lượng, bởi trong

quá trình làm việc họ có năng lực, kinh nghiệm và kĩ năng về hòa giải các vụ

việc thuộc tất cả các lĩnh vực. Đối với nguồn nhân lực này chỉ cần đào tạo,

bồi dưỡng thêm kiến thức kỹ năng về hòa giải về lĩnh vực kinh doanh thương

mại. Nếu tận dụng được nguồn nhân lực này bổ sung vào đội ngũ hòa giải

viên thương mại thì sẽ thu hút sự chú ý của doanh nghiệp đến hoạt động hòa

giải.

Thứ ba, xây dựng chương trình đào tạo đội ngũ hòa giải viên phù hợp

như tổ chức khóa học hòa giải, thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng vận dụng

thực tế hòa giải, gửi hòa giải viên đi học hỏi kinh nghiệm hòa giải tại các

quốc gia có hoạt động hòa giải phát triển. Đặc biệt đào tạo đội ngũ hòa giải

viên trẻ để bổ sung nguồn nhân lực kịp thời, đáp ứng yêu cầu phát triển hòa

giải kinh doanh thương mại trong và ngoài nước.

Thứ tư, hình thành tổ chức được quyền cấp công nhận cho một cá nhân

có đủ khả năng hành nghề hòa giải. Khi một cá nhân đạt tiêu chuẩn trở thành

một hòa giải viên sẽ được cấp một giấy chứng nhận hành nghề, công nhận họ

trở thành hòa giải viên có thể tham gia vào các tổ chức hòa giải để thực hiện

hòa giải. Tổ chức được quyền cấp công nhận một cá nhân trở thành hòa giải

viên có thể là cơ quan quyền lực nhà nước Bộ Tư Pháp, Tòa án hoặc các cơ

quan, tổ chức phi chính phủ như liên đoàn luật sư, VIAC.

60

Thứ năm, xây dựng cơ chế nhằm kiểm tra tiêu chuẩn đạo đức nghề

nghiệp của những người hành nghề hòa giải viên. Trong hòa giải thương mại

đạo đức nghề nghiệp của hòa giải viên là vô cùng quan trọng, bởi hòa giải

viên là người quyết định khả năng thành công của hòa giải, nắm giữ những bí

mật kinh doanh của các bên tranh chấp. Do đó cần có cơ chế chặt chẽ nhằm

kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời những hòa giải viên vi phạm đạo đức

nghề nghiệp. Đồng thời hình thành cơ chế kỷ luật nghề nghiệp, quy trình kỷ

luật phù hợp cho những người hành nghề hòa giải viên vi phạm.

3.4.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao nhận thức về ý

nghĩa và hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải

thương mại.

Với thực trạng ở Việt Nam, trong hoạt động kinh doanh thương mại,

khi xảy ra tranh chấp thông thường các bên nghĩ ngay đến việc khởi kiện ra

tòa án, số ít nghĩ đến giải quyết bằng trọng tài và các phương thức giải quyết

tranh chấp khác. Chính xu hướng này đã làm quá tải công việc xét xử của Tòa

án, dẫn đến tình trạng tồn đọng án từ năm này qua năm khác. Dường như các

nhà kinh doanh thương mại quên đi việc sử dụng hòa giải như một phương

thức chủ yếu để giải quyết tranh chấp bởi hòa giải vừa tiết kiệm thời gian, chi

phí, giữ gìn mối quan hệ làm ăn tốt đẹp, giữ được bí mật kinh doanh và đạt

hiệu quả cao hơn so với phương thức giải quyết tranh chấp khác. Thực tế cho

thấy các nhà kinh doanh thương mại thường e ngại sử dụng phương thức hòa

giải bởi nhiều lý do khách quan và chủ quan, họ vẫn tin vào quyền phán xét

và hiệu lực thi hành khi sử dụng phương thức tố tụng. Rất ít người sử dụng

phương thức hòa giải. Để phát huy những ưu điểm của hoạt động hòa giải,

kinh doanh thương mại cũng như hạn chế vấn đề quá tải trong hoạt động xét

xử của tòa án, nhà nước cần có những chính sách tuyên truyền và phổ biến

pháp luật, khuyến khích các bên giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa

giải. Nhà nước khuyến khích các bên sử dụng phương thức hòa giải để giải

61

quyết tranh chấp được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015, Luật Trọng tài

thương mại 2010 theo đó tại Điều 9, Luật Trọng tài thương mại quy định:

“Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do thương

lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Hội

đồng trọng tài hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết

tranh chấp”

Để tuyên truyền lợi ích của việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng

hòa giải và khuyến khích sử dụng hòa giải như một biện pháp giải quyết tranh

chấp thay thế hàng đầu thì cần có những cách thức tuyên truyền hiệu quả như:

Thứ nhất, hình thành đội ngũ tuyên truyền là luật sư, trọng tài viên,

thẩm phán vì họ là những người thường xuyên tiếp xúc, giải quyết các tranh

chấp thương mại nên việc sử dụng đội ngũ này để tuyên truyền hoạt động hòa

giải sẽ đạt hiệu quả cao. Luật sư khuyến khích các bên chọn hòa giải ngay từ

giai đoạn đầu tranh chấp, khi tư vấn cho các bên lựa chọn phương thức giải

quyết tranh chấp hiệu quả. Đội ngũ này sẽ tuyên truyền và phổ biến những lợi

ích trước mắt, lợi ích lâu dài mà các bên có được nếu chọn phương thức hòa

giải để giải quyết tranh chấp.

Thứ hai, xây dựng hình thức tuyên truyền phù hợp. Hình thức được lựa

chọn đề tuyên truyền có thể là truyền hình, phát thanh, báo chí, biểu ngữ

hoặc internet. Thông qua các kênh thông tin này phương thức hòa giải sẽ

được phổ biến đến tất cả người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt phải kể đến

phương thức tuyên truyền truyền thông qua các buổi tọa đàm, đối thoại. Tổ

chức các buổi tọa đàm, mời các doanh nghiệp tham gia, tại buổi tọa đàm phân

tích những lợi ích của hòa giải, các khía cạnh của hòa giải, giải đáp thắc mắc

của doanh nghiệp liên quan đến hòa giải thương mại để phát triển phương

thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương mại như là một

phương thức giải quyết tranh chấp thay thế độc lập.

Thứ ba, tổ chức các cuộc thi liên quan đến hòa giải thương mại, tuyên

truyền cho hoạt động hòa giải. Có thể thực hiện các cuộc thi như: hòa giải

62

viên tiêu biểu, tìm hiểu pháp luật về hòa giải thương mại. Qua các cuộc thi

này nâng cao nhận thức của cá nhân về lợi ích của hòa giải thương mại, đặc

biệt là nhận thức của các doanh nghiệp.

Tóm lại, tuyên truyền phổ biến pháp luật là một quá trình lâu dài, cần

có sự tham gia, phối hợp của các cơ quan tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên để hòa

giải trở thành phương thức giải quyết tranh chấp thay thế và được các doanh

nghiệp ưa chuộng thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật vè hòa giải thương

mại là yếu tố quan trọng đầu tiên, đào tạo đội ngũ hòa giải viên có năng lực

và kinh nghiệm, hình thành các trung tâm hòa giải chuyên nghiệp chuyên

cung cấp dịch vụ hòa giải. Ngoài ra Việt Nam cần xây dựng cơ chế quản lý

nhà nước đối với hòa giải, tổ chức tuyên truyền phổ biến pháp luật về hòa giải

thương mại, tạo niềm tin cho các doanh nghiệp về một phương thức giải quyết

tranh chấp hiệu quả.

63

KẾT LUẬN

Các tranh chấp kinh doanh, thương mại hiện đang phát sinh với số

lượng ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp hơn đòi hỏi phải có những cơ chế

giải quyết tranh chấp linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu thực

tiễn của Việt Nam, góp phần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh ổn định.

Một phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến trên thế giới, đặc

biệt tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển, chính là hòa giải thương mại.

Cùng với thương lượng và trọng tài, hòa giải được coi là một trong những

phương thức giải quyết tranh chấp thay thế và rất được các doanh nhân ưa

chuộng do những ưu điểm vượt trội của các phương thức này so với tố tụng

tòa án.

Nhận thức được những ưu điểm này, cơ quan lập pháp Việt Nam đã

ban hành Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ra đời

đã có một khung pháp lý điều chỉnh về hoạt động giải quyết tranh chấp

thương mại bằng hòa giải thương mại, song những quy định này vẫn chưa

thực sự hoàn chỉnh. Khóa luận đã phân tích, chỉ ra những ưu điểm và nhược

điểm của những quy định đó.

Để hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, việc hoàn thiện hệ

thống pháp luật về hòa giải thương mại là điều tất yếu. Đó là điều kiện cần

của một nền kinh tế thị trường. Bởi một cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả

sẽ thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thúc đẩy nền

kinh tế phát triển.

Nhìn chung, giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải thương

mại là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả cần được các doanh

nghiệp quan tâm lựa chọn sử dụng phổ biến để giải quyết tranh chấp thương

mại. Bên cạnh đó, cũng cần hoàn thiện khung pháp luật để tạo niềm tin cho

các doanh nghiệp về một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả.

64

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn bản pháp luật

1. Ban chấp hành TW Đảng (2002), Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong

thời gian sắp tới.

2. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020.

3. Bộ tư pháp (2013), Dự thảo Nghị định về hòa giải thương mại.

4. Quốc hội (1989), Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế, Hà Nội.

5. Quốc hội (1989), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các Vụ án Dân sự, Hà Nội.

6. Quốc hội (1990), Luật công ty, Hà Nội.

7. Quốc hội (1990), Luật doanh nghiệp Tư nhân, Hà Nội.

8. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

9. Quốc hội (1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết cac vụ án Kinh tế, Hà Nội.

10. Quốc hội (1997), Luật Thương mại 1997, Hà Nội.

11. Quốc hội (2000), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

12. Quốc hội (2003), Pháp lệnh Trọng tài Thương mại, Hà Nội.

13. Quốc hội (2005), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội.

14. Quốc hội (2005), Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hà Nội.

15. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

16. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Hà Nội.

17. Quốc hội (2005), Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế số

41/2005/QH11.

18. Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Hà Nội.

19. Quốc hội (2010), Luật Trọng tài thương mại, Hà Nội.

20. Quốc hội (2011), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm

2011, Hà Nội.

21. Quốc hội (2014), Luật Hòa giải cơ sở, Hà Nội.

22. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

65

23. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư, Hà Nội.

24. Quốc hội (2015), Bộ Luật Dân sự 2015, Hà Nội.

25. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Hà Nội.

26. Nghị định số 22/2017/NĐ-CP (ngày 24/02/2017) Nghị định về hòa giải

thương mại.

27. Ủy ban Liên hợp quốc (1985), Luật mẫu của Ủy ban pháp luật thương

mại quốc tế của Liên hợp quốc về trọng tài thương mại.

28. Ủy ban Liên hợp quốc (1985), Luật mẫu của Ủy ban pháp luật thương

mại quốc tế của Liên hợp quốc về thương mại điện tử.

29. Viên (1980), Công ước viên.

Các tài liệu tham khảo khác

30. Hoàng Anh (2013), “Một số vấn đề cần quan tâm khi xây dựng dự thảo

Nghị định về hòa giải thương mại”

http://www.moj.gov.vn/ct/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-

doi.aspx?ItemID=5950>, truy cập lần cuối ngày 11/4/2018.

31. Nguyễn Thế Anh (2016), “Xây dựng chế định pháp luật về hòa giải

thương mại ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập cộng đồng kinh tế

ASEAN”, Luận văn thạc sĩ.

32. Nguyễn Thị Tú Anh, Vụ bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp (2011), “Trung gian

hòa giải thương mại theo Luật Cộng hòa Pháp”.

33. Châu Việt Bắc, Luật sư, phó tổng thư ký VIAC (2017), “Bước tiến hòa

giải thương mại”, http://www.thesaigontimes.vn/160435/Buoc-tien-hoa-

giai-thuong-mai.html, Truy cập lần cuối ngày 11/4/2018.

34. Ngô Huy Cương (2009), “Tự do ý chí trong pháp luật Việt Nam”, Khoa

luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

35. Ngô Huy Cương (2010), “Bàn về khái niệm và các điều kiện của chấp

nhận giao kết hợp đồng theo Bộ Luật Dân sự 2005”, Tạp chí dân chủ và

pháp luật số tháng 1/2010.

66

36. Ngô Huy Cương (2013), “Tập bài giảng luật kinh tế, giải quyết tranh

chấp kinh doanh, thương mại”, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

37. Nguyễn Mạnh Dũng & Đặng Vũ Minh Hà (2014), “Đóng góp ý kiến cho

Nghị Định Hòa giải thương mại” (Dự thảo ngày 21/10/2014)

38. Vũ Ánh Dương (2014), Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, “Phương

thức giải quyết tranh chấp hiệu quả”.

39. Đỗ Văn Đại (2011), “Luật hợp đồng Việt Nam, Bản án và bình luận bản

án tập 1”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. PGS.TS. Lê Hồng Hạnh (2000), “khái niệm thương mại trong pháp luật

Việt Nam và những bất cập dưới góc độ thực tiễn áp dụng và chính sách

hội nhập” Tạp chí Luật học, số 2/2000

41. Dương Quỳnh Hoa (2011), “Hòa giải – một phương thức giải quyết tranh

chấp thay thế”; tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 23/2011

42. Dương Quỳnh Hoa, Viện Nhà nước và Pháp luật (2012), “Hòa giải – một

phương thức giải quyết tranh chấp thay thế”, Tạp chí nghiên cứu Lập

pháp Điện tử.

43. Nguyễn Ngọc Lâm (2010), “Giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại

quốc tế nhận dạng tranh chấp, biện pháp ngăn ngừa và phương pháp giải

quyết”, Nxb Chính trị quốc gia

44. Lưu Hương Ly (2011), “Hòa giải trong thương mại và phát triển phương

thức hòa giải trong thương mại ở Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp

số 10 tháng 5/2011.

45. Phạm Lê Mai Ly (2014), “Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh

thương mại ở Việt Nam”, luận văn thạc sĩ.

46. Nguyễn Thị Minh, Phó vụ trưởng Vụ Bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư Pháp (2011),

“Hòa giải thương mại và xu hướng phát triển tại Việt Nam”.

47. Phạm Duy Nghĩa (2010), “Giáo trình Luật Kinh tế”, Nxb Công an nhân

dân.

48. Hoàng phê (1997), “Từ điển Tiếng Việt”, Nxb Đà Nẵng

67

49. Lê Thị Hoàng Thanh (2012), Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2012),

“Hoàn thiện cơ chế hòa giải ở Việt Nam”, Thông tin Khoa học pháp lý số

9 và 10/2012.

50. Trần Đức Thắng, Trường Đại học Lao động và Xã hội (2012), “Nhận diện

tranh chấp thương mại”, Tạp chí dân chủ và pháp luật số Tháng 2/2012

51. Phan Thị Thanh Thủy (2013), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, “Tập

bài giảng về giải quyết tranh chấp thương mại”.

52. Phan Thị Thanh Thủy (2016), Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, “Giải

quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam – Một số vấn đề

pháp lý cần quan tâm”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 32

số 2 năm 2016.

53. Ngô Thanh Tùng, Luật sư của VILAF (2016), “Hòa giải thương mại”,

Tài liệu bồi dưỡng kiến thức pháp luật và giải quyết tranh chấp quốc tế,

Bộ Tư pháp, Học viện Tư pháp.

54. Ngô Thị Thanh Tuyền (2014), “Xây dựng pháp luật về phương thức giải

quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải ở Việt Nam”, Luận văn thạc

sĩ.

55. Cam kết về dịch vụ hòa giải tranh chấp giữa các thương nhân được ghi

nhận trong Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO, phần

dịch vụ liên quan đến tư vấn quản lý CPC 86692

56. Viện Ngôn ngữ học (2006), “Từ điển Tiếng việt”, Nxb Đà Nẵng

57. Vụ bổ trợ Tư pháp, Bộ Tư pháp (2015), “Báo cáo về việc Đoàn khảo sát

về hòa giải tại tỉnh Lâm Đồng”.

58. Tòa án nhân dân (2013), Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II tháng 02/2013

(số 4)

59. Tòa án nhân dân (2013), Tạp chí Tòa án nhân dân, Kỳ II tháng 06/2013

(số 11)

60. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), “Giáo trình Luật Thương mại tập

2”, Nxb công an nhân dân

68

61. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), “Giáo trình pháp

luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại”, Nxb Hồng Đức

– Hội luật gia Việt Nam.

62. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (2018), “Thống kê tình hình giải

quyết tranh chấp năm 2017 tại VIAC”

Các tài liệu Tiếng Anh

63. Nigel Broadnent 2009, Alternative Dispute Resolution, Legal information

Management, 9, p 195-198

64. Goldberg, Sander & Roger, Dispute Resolution: Negotiation, Mediation

and Other Processes,(1992), Trang 103.

65. Francis Lemeunier, Nguyên lí thực hành luật thương mại, luật kinh doanh,

Nxb, Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993

Website

66. http://www.asianmediationassociation.org/node/20

67. http://www.thesaigontimes.vn/160435/Buoc-tien-hoa-giai-thuong-

mai.html

68. http://bnews.vn/hoa-giai-thuong-mai-nang-cao-hieu-qua-giai-quyet-tranh-

chap/74237.html

69. http://baophapluat.vn/chuyen-llam-an/hoa-giai-thuong-mai-dang-ngay-

cang-duocoanh-nghiep-ua-chuong-324174.html

69