HỘI THẢO VỀ KHOA HỌC QUẢN TRỊ (CMS-2013)

QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT

NAM – VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP

SUPPLY CHAIN MANAGEMENT IN VIETNAMESE ENTERPRISES –

PROBLEMS AND SOLUTIONS

PGS.TS. Lê Thế Giới Đại học Đà Nẵng

TÓM TẮT Áp dụng quản trị chuỗi cung ứng (SCM) cho phép nâng cao hiệu suất của các dòng sản phẩm thông qua việc phối hợp giữa các nhà cung cấp với nhau, giảm chi phí lưu kho sản phẩm và do đó, cho phép thỏa mãn nhu cầu khách hàng tốt hơn, đồng thời đáp ứng nhanh chóng với sự thay đổi của thị trường. Tuy nhiên, ở Việt Nam quản trị chuỗi cung ứng chưa được triển khai đồng bộ, còn nhiều bất cập, rủi ro và kém hiệu quả, chưa có khả năng hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Bài viết này đưa ra các đánh giá tổng quan về những yếu kém của quản trị chuỗi cung ứng trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, những xu hướng mới trong quả trị chuỗi cung ứng trên thế giới và đề xuất một số giải pháp tạo lập các yếu tố nền tảng nhằm thúc đẩy các ứng dụng về quản trị chuỗi cung ứng trong các doanh nghiệp Việt Nam.

Từ khoá: Quản trị chuỗi cung ứng; nhu cầu khách hàng; bất cập và rủi ro; hạn chế; giải pháp.

ABSTRACT

Applying supply chain management (SCM) enables enterprises to enhance performance of the product lines through the combination with other vendors, reducing inventory costs and therefore satisfy customer’s needs better, and respond quickly to market changes. However, in Vietnam, SCM is implemented not synchronously; inadequately; inefficiently and risky. Therefore, it is not capable of integration into the global supply chain. This article gives an overview analysis of the weaknesses of SCM in Vietnamese companies as well as new tendency in SCM worldwide. The paper contributes to the managerial practice by proposing solutions to create the foundation for promoting the application of SCM in the companies in Vietnam.

Keywords: Supply chain management; customer’s needs; inefficiently and risky; weaknesses;

solutions.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, các hoạt động đầu tư và thương mại không ngừng gia tăng. Sản xuất phát triển, nhu cầu vận tải hàng hóa cùng các dịch vụ hỗ trợ từ khâu sản xuất đến khâu phân phối, lưu thông hàng hóa ngày càng cao, đang tạo ra cơ hội lớn cho phát triển các dịch vụ logistics.

SCM đem lại, nó được ứng dụng rộng rãi ở trong doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả cung ứng, sản xuất và phân phối sản phẩm và dịch vụ. Ở Việt Nam, một số doanh nghiệp đã bắt đầu triển khai từng phần các ứng dụng SCM ở những mức độ khác nhau và và đạt được các kết quả khả quan. Nhưng do môi trường ứng dụng SCM ở nước ta còn nhiều hạn chế và bất cập cần được tháo gỡ, trên cơ sở đánh giá thực trạng SCM, bài viết này đề xuất một số giải pháp tạo lập các yếu tố nền tảng thúc đẩy các ứng dụng về SCM trong các doanh nghiệp.

2. Cơ sở lý thuyết

SCM gắn liền với hầu như tất cả các hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất, từ việc hoạch định và quản lý quá trình nguồn hàng, thu mua, sản xuất thành phẩm từ nguyên liệu thô, quản lý logistics,… đến việc phối hợp với các đối tác, các nhà cung ứng, các kênh trung gian, nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng.

SCM là sự phối hợp các hoạt động liên quan đến quá trình cung ứng đầu vào, sản xuất và phân phối sản phẩm, dịch vụ nhằm đạt được mục tiêu đáp ứng nhu cầu khách hàng với chi phí thấp nhất. Về cơ bản, SCM sẽ cung cấp giải pháp cho toàn bộ các hoạt động đầu vào Tại các quốc gia phát triển, các hoạt động kinh tế không thể tách rời hoạt động chuỗi cung ứng toàn cầu, và do những lợi ích mà

67

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

(2) Hệ thống Logistics: Giai đoạn này có sự phối kết hợp công tác quản lý các hoạt độnh trên vào cùng một hệ thống được gọi là Cung ứng vật tư và Phân phối sản phẩm. của doanh nghiệp, từ việc đặt mua hàng của nhà cung cấp, thực sự, cho phép công ty giao dịch trực tiếp với khách hàng và nhà cung cấp ở cả hai phương diện mua bán và chia sẻ thông tin. (3) Quản trị chuỗi cung ứng (SCM):

SCM là một giai đoạn phát triển cao của lĩnh vực Logistic (hậu cần/dịch vụ cung ứng). Đến cuối thế kỷ 20, Logistics được ghi nhận như là một chức năng kinh doanh chủ yếu, mang lại thành công cho các công ty cả trong lĩnh vực sản xuất lẫn trong lĩnh vực dịch vụ. Theo Uỷ ban kinh tế và xã hội châu Á Thái Bình Dương (ESCAP), Logistics đã phát triển qua 3 giai đoạn: Theo ESCAP thì đây là khái niệm mang tính chiến lược về quản trị chuỗi quan hệ từ nhà cung cấp nguyên liệu – đơn vị sản xuất – đến người tiêu dùng. Khái niệm SCM chú trọng việc phát triển các mối quan hệ với đối tác, kết hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất với nhà cung cấp, người tiêu dùng và các bên liên quan như các công ty vận tải, kho bãi, giao nhận và các công ty công nghệ thông tin.

Nhờ có thể thay đổi các nguồn nguyên vật liệu đầu vào hoặc tối ưu hoá quá trình luân chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ mà SCM có thể giúp tiết kiệm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.

(1) Phân phối (Distribution): Đó là quản lý một cách có hệ thống các hoạt động liên quan với nhau nhằm đảm bảo cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng một cách hiệu quả nhất. Giai đoạn này bao gồm các hoạt động: Vận tải, Phân phối, Bảo quản hàng hoá, Quản lý kho bãi, Bao bì, nhãn mác và đóng gói.

(2) Hệ thống Logistics: Giai đoạn này có sự phối kết hợp công tác quản lý các hoạt độnh trên vào cùng một hệ thống được gọi là Cung ứng vật tư và Phân phối sản phẩm.

Có không ít công ty đã gặt hái thành công lớn nhờ biết hoạch định chiến lược và giải pháp SCM thích hợp, ngược lại, có nhiều công ty gặp khó khăn, thất bại do đưa ra các quyết định sai lầm như chọn sai nguồn cung cấp nguyên vật liệu, chọn sai vị trí kho bãi, tính toán lượng dự trữ không phù hợp, tổ chức vận chuyển chồng chéo…

Product,

(3) Quản trị chuỗi cung ứng (SCM): Theo ESCAP, đây là khái niệm mang tính chiến lược về quản trị chuỗi quan hệ từ nhà cung cấp nguyên liệu – đơn vị sản xuất – đến người tiêu dùng. Khái niệm SCM chú trọng việc phát triển các mối quan hệ với đối tác, kết hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất với nhà cung cấp, người tiêu dùng và các bên liên quan như các công ty vận tải, kho bãi, giao nhận và các công ty công nghệ thông tin. Ngoài ra, SCM còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing Price, (4P: Promotion, Place). Chính SCM đóng vai trò then chốt trong việc đưa sản phẩm đến đúng nơi cần đến và vào đúng thời điểm thích hợp. Mục tiêu lớn nhất của SCM là cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng với tổng chi phí nhỏ nhất.

Điểm đáng lưu ý là các chuyên gia kinh tế đã nhìn nhận rằng hệ thống SCM hứa hẹn từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất của công ty và tạo điều kiện cho chiến lược thương mại điện tử phát triển - chìa khoá thành công cho B2B.

SCM là một giai đoạn phát triển của lĩnh vực Logistic (dịch vụ cung ứng). Đến cuối thế kỷ 20, Logistics được ghi nhận như là một chức năng kinh doanh chủ yếu, mang lại thành công cho các công ty cả trong khu vực sản xuất lẫn trong khu vực dịch vụ. Theo Uỷ ban kinh tế và xã hội châu Á Thái Bình Dương (ESCAP), Logistics đã phát triển qua 3 giai đoạn:

(1) Phân phối (Distribution): Đó là quản lý một cách có hệ thống các hoạt động liên quan với nhau nhằm đảm bảo cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng một cách hiệu quả nhất. Giai đoạn này bao gồm các hoạt động: Vận tải, Phân phối, Bảo quản hàng hoá, Quản lý kho bãi, Bao bì, nhãn mác và đóng gói. Trong một công ty sản xuất luôn tồn tại ba yếu tố chính của chuỗi cung ứng: (1) Các bước khởi đầu và chuẩn bị cho quá trình sản xuất, hướng tới những thông tin tập trung vào khách hàng và yêu cầu của họ; (2) Chức năng sản xuất, tập trung vào những phương tiện, thiết bị, nhân lực, nguyên vật liệu và chính quá trình sản xuất; (3) Tập trung vào phân phối sản phẩm cuối cùng theo yêu cầu của khách hàng.

68

HỘI THẢO VỀ KHOA HỌC QUẢN TRỊ (CMS-2013)

Các thành phần cơ bản của SCM: Chuỗi cung ứng được cấu tạo từ 5 thành phần cơ bản gồm các nhóm chức năng khác nhau: Sản xuất (Làm gì, như thế nào, khi nào để cân bằng giữa khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng và hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp); Vận chuyển (Khi nào, vận chuyển như thế nào để cân bằng giữa khả năng đáp ứng nhu cầu và hiệu quả công việc); Tồn kho (Kiểm soát chi phí sản xuất và lưu trữ ở mức hiệu quả nhất); Định vị (Nơi nào tốt nhất để làm cái gì: Tìm kiếm các nguồn nguyên vật liệu sản xuất ở đâu? Nơi nào là địa điểm tiêu thụ tốt nhất?); Thông tin (Cơ sở để ra quyết định).

3. Những bất cập của SCM ở Việt Nam Theo nghiên cứu của Hãng

Trong chuỗi cung ứng ba nhân tố này, SCM sẽ điều phối khả năng sản xuất có giới hạn và thực hiện việc lên kế hoạch sản xuất – những công việc đòi hỏi tính dữ liệu chính xác về hoạt động tại các nhà máy, nhằm làm cho kế hoạch sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Khu vực nhà máy sản xuất trong công ty phải là một môi trường năng động, trong đó sự vật được chuyển hoá liên tục, đồng thời thông tin cần được cập nhật và phổ biến tới tất cả các cấp quản lý công ty để cùng đưa ra quyết định nhanh chóng và chính xác. SCM cung cấp khả năng trực quan hoá đối với các dữ liệu liên quan đến sản xuất và khép kín dây chuyền cung cấp, tạo điều kiện cho việc tối ưu hoá sản xuất đúng lúc bằng các hệ thống sắp xếp và lên kế hoạch. Nó cũng mang lại hiệu quả tối đa cho việc dự trù số lượng nguyên vật liệu, quản lý nguồn tài nguyên, lập kế hoạch đầu tư và sắp xếp hoạt động sản xuất của công ty.

Một lợi ích khác của SCM là phân tích dữ liệu thu thập được và lưu trữ hồ sơ với chi phí thấp. Hoạt động này nhằm phục vụ cho những mục đích liên quan đến sản xuất (dữ liệu về thông tin sản phẩm, về nhu cầu thị trường…) để đáp ứng đòi hỏi của khách hàng. Có thể nói, SCM là nền tảng của một chương trình cải tiến và quản lý chất lượng – Bạn không thể cải tiến được những gì bạn không thể nhìn thấy.

Cấu trúc của SCM: Một chuỗi cung ứng bao gồm tối thiểu ba yếu tố: nhà cung cấp, bản thân đơn vị sản xuất và khách hàng.

- Nhà cung cấp: là các công ty bán sản phẩm, dịch vụ là nguyên liệu đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Thông thường, nhà cung cấp được hiểu là đơn vị cung cấp nguyên liệu trực tiếp như vật liệu thô, các chi tiết của sản phẩm, bán thành phẩm. Các công ty cung cấp dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh được gọi là nhà cung cấp dịch vụ

- Đơn vị sản xuất: là nơi sử dụng nguyên liệu, dịch vụ đầu vào và áp dụng các quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Các nghiệp vụ về quản lý sản xuất được sử dụng tối đa tại đây nhằm tăng hiệu quả, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo nên sự thông suốt của dây chuyền cung ứng.

- Khách hàng: là người sử dụng sản phẩm của đơn vị sản xuất.

tư vấn McKinsey (Hoa Kỳ), khoảng 2/3 các công ty hoạt động toàn cầu cho rằng rủi ro đến với chuỗi cung ứng của họ tăng rất nhanh trong vòng 5 năm qua. Rủi ro trong chuỗi cung ứng chính là khả năng cung cấp sản phẩm và dịch vụ đến với khách hàng ở một mức chi phí hiệu quả. Điều này cũng dễ hiểu khi mà chuỗi cung ứng của các công ty này luôn đứng trước sự đánh đổi (trade-off) giữa việc nâng cao dịch vụ khách hàng (tỷ lệ hàng luôn luôn sẵn sàng, thời gian giao hàng ngắn…) với việc quản lý chi phí (chi phí tồn kho và chi phí vận chuyển cao). Ngoài ra chuỗi cung ứng của các công ty này còn phải đối mặt với những yếu tố bên ngoài không thuận lợi như: (1) Sự tăng nhanh của hoạt động thuê ngoài ngày càng làm cho chuỗi cung ứng của các công ty phức tạp hơn do nhiều nhà cung cấp hơn ở những quốc gia khác nhau, cùng với việc nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng ở phạm vi toàn cầu. Ngoài ra sự phụ thuộc nhiều vào các nhà cung cấp không chuyên nghiệp cũng sẽ đem đến những rủi ro cho các công ty. (2) Những quy định và luật lệ của các tổ chức quốc tế cũng như quốc gia ngày càng nhiều hơn khiến cho hoạt động thương mại quốc tế trở nên phức tạp, (quy định khai hải quan trước 24 giờ tàu chạy của Mỹ, quy định về có khả năng áp dụng quét 100% container tại các cảng đi trước khi cập cảng của Mỹ, các quy định liên quan đến an toàn như C- TPAT, CSI, ISPS, Known Shipper, PIP). (3) Nền kinh tế ngày càng không ổn định với các chu kỳ kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều làm cho nhu cầu về sản phẩm ngày càng giảm và nếu như công ty đang phải sở hữu một lượng

69

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

là 25% GDP, trong đó chủ yếu là vận tải biển chiếm 50-60%, đang là gánh nặng ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm và làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ Việt Nam trong nước nói riêng, trên thị trường thế giới nói chung, Trong khi thị trường logictics của Việt Nam lại khá khiêm tốn, chỉ khoảng 2- 4% GDP, cơ cấu thuê ngoài/tự thực hiện thấp (chiếm khoảng 30-40% thuê ngoài).

tồn kho lớn thì sẽ phải đối mặt với sự thiệt hại về kinh tế. (4) Vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn cùng với sự thay đổi nhanh của công nghệ đã dẫn đến hàng tồn kho ngày càng mau lỗi thời. (5) Nhu cầu của khách hàng nhìn chung ngày càng cao và khắt khe hơn đã đặt ra thách thức cho chuỗi cung ứng của công ty phải nhanh hơn trong việc đưa sản phẩm ra thị trường cùng với tỷ lệ cao hơn về sự sẵn sàng sản phẩm cho người tiêu dùng lựa chọn. (6) Sự hạn chế năng lực sản xuất trước sự phát triển nhanh của nhu cầu. (7) Thiên tai, những yếu tố môi trường và hỏa hoạn ảnh hưởng lớn đến chuỗi cung ứng toàn cầu.

Viện sĩ Jan Tomczyk thuộc Viện vận tải và Giao nhận London, Vương quốc Anh (FCILT), phân tích rằng: Nếu chi phí vận chuyển tăng 10% thì khối lượng thương mại giảm 20%, mỗi ngày vận chuyển trể tương ứng với 70 km vận tải thêm, cảng hoạt động kém hiệu quả làm tăng 60% khoảng cách vận tải và làm giảm 0,47% GDP…

Những rủi ro trên thường xuất phát từ những bất cập sau: (1) Sự thiếu hụt về số lượng, không đáp ứng về chất lượng và chi phí cao của nguồn nhân lực, (2) Các vấn đề về pháp lý, (3) Mức độ đáng tin của các nhà cung cấp, (4) Sự thiếu hụt các các nguyên vật liệu và giá cả biến động, (5) Sự biến động của tỷ giá hối đoái.

Theo thống kê, hiện nay ở Việt Nam chỉ dưới 10% kho bãi có thể đáp ứng được nhu cầu luân chuyển hàng hóa (cross-docking). Còn về hệ thống vận chuyển, hầu hết đều không đạt chuẩn quốc tế với phần lớn các xe tải đều trên 10 tuổi. Bên cạnh đó, các cảng biển lớn của Việt Nam đều không được thiết kế để xử lý các loại hàng container.

(3) Thiếu hẳn nguồn nhân lực trình độ cao. Đây là một thách thức không chỉ đối với quốc gia mà còn đối với các tập đoàn đa quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam, bởi vì rất khó cho họ để tìm được những người họ thật sự cần. Viện sĩ Jan Tomczyk nhận xét rằng, quản trị chuỗi cung ứng ở Việt Nam còn nhiều hạn chế vì thiếu nguồn nhân lực vận hành và quản lý về dịch vụ hậu cần quốc tế đạt chuẩn.

Frost & Sullivan cho rằng các bất cập chủ yếu đối với các hệ thống SCM ở Việt nam là: (1) Sự không nhất quán trong chính sánh và pháp luật quy định về hoạt động logistics. Điển hình nhất là sự không nhất quán trong các chính sách về thủ tục hải quan, về kho bãi, và về điều hành cảng. Điều này làm cho quy trình trở nên nặng nề và phức tạp. Sự chồng chéo giữa các cơ quan trung uơng và điạ phương đang làm tăng sự không minh bạch và tăng chi phí/thời gian để xử lý một đơn vị hàng. Việc thiếu hẳn những quy định về vận chuyển đa phương thức, và sự phức tạp của thủ tục giấy tờ đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động logistics.

(4) Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam không có bộ phận quản trị chuỗi cung ứng, phải chọn giải pháp thuê ngoài và thường không đáp ứng được như kỳ vọng của doanh nghiệp. Cả nước hiện có khoảng 600 doanh nghiệp logistics, quy mô doanh nghiệp nhỏ, ít kinh nghiệm do nguồn nhân lực trong lĩnh vực này đang thiếu hụt trầm trọng.

(2) Những yếu kém về cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động logistics ở Việt Nam. Hệ thống giao thông vận tải là cơ sở quan trọng trong việc phát triển dịch vụ logistics, nhưng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải của Việt Nam còn yếu kém, khiến chi phí của dịch vụ logistics tăng cao, ảnh hưởng đến việc phát triển cũng như hiệu quả của dịch vụ này ở Việt Nam.

(5) Ngoài ra khi tham gia vào thị trường Việt Nam, các công ty đa quốc gia còn cho rằng các yếu tố như việc vi phạm bản quyền, và sự biến động ngoại tệ cũng là những rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động của chuỗi cung ứng.

Chỉ số chi phí Logistics so với GDP của Mỹ là 7,7%; của Singapore là 8%; các nước thuộc khối EU là 10%; Nhật – 11%; Trung Quốc – 18%, nhưng chỉ số này của Việt Nam (6) Ngoài rào cản về hạ tầng kỹ thuật và nhân lực trình độ cao, doanh nghiệp Việt Nam còn bị rào cản về nhận thức và thay đổi văn

70

HỘI THẢO VỀ KHOA HỌC QUẢN TRỊ (CMS-2013)

30%. Tiếp tục xu hướng này, trong năm 2013, các công ty yếu sẽ dần biến mất, công ty lớn và các công ty kinh doanh tốt sẽ tăng dần thị phần, sự hợp tác và mua bán sáp nhập giữa các công ty sẽ hỗ trợ mối liên hệ vững chắc giữa doanh nghiệp, sản phẩm và con người.

hóa công ty trong việc áp dụng và thực hiện các giải pháp quản lý chuỗi cung ứng. Vì lý do này mà việc quản lý chuỗi cung ứng được thực hiện độc lập với những bộ phận độc lập, chưa gắn liền với kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Thực chất việc thực hiện chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp hiện nay chỉ giải quyết vấn đề mua hàng hóa nguyên liệu với giá rẻ. Mua hàng giá rẻ không thể bù đắp được chi phí tăng thêm do chất lượng nguyên liệu kém, giao hàng trễ. Hậu quả là tồn kho thành phẩm nhiều, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.

4. Những xu hướng chính trong SCM trên thế giới

(6) Nhạy cảm giá. Khái niệm “giá trị đồng tiền” sẽ thay thế cho các giao dịch truyền thống đơn giản, dịch vụ khách hàng với đinh hướng rõ ràng theo xu hướng nhạy cảm giá sẽ trở thành một phần trong chiến lược kinh doanh và sớm được các công ty đưa vào thực hiện. Do đó, hơn bao giờ hết các doanh nghiệp cần tận dụng triệt để lợi thế chi phí thấp ở Việt Nam (bao gồm kho bãi) và nắm bắt cơ hội sản xuất các sản phẩm không được gia công ở các nước khác do chi phí cao.

(1) Quản trị tinh gọn (Lean Management). Quản trị tinh gọn tức là làm ra nhiều sản phẩm hơn với ít nguồn lực hơn, giảm thời gian, lỗi và nguồn lực lãng phí, chỉ tập trung vào những gì khách hàng thực sự cần, đúng giờ và nhanh chóng trong lần giao dịch đầu tiên.

(7) Con người. Các doanh nghiệp cần chú tâm đến các yếu tố con người - yếu tố then chốt tác động đến hiệu quả và vận hành chuỗi cung ứng theo hướng phát triển kỹ năng – quản trị vận hành, kế hoạch, quản trị tinh gọn, dịch vụ khách hàng, quản trị hiệu suất và sử dụng các động lực thúc đẩy nhân viên, sử dụng các chỉ số đo lường hiệu quả công việc.

5. Những giải pháp tạo lập các yếu tố nền tảng nhằm thúc đẩy các ứng dụng về SCM trong các doanh nghiệp Việt Nam

(2) Tăng giá trị gia tăng và cải tiến. Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới, Việt Nam xếp hạng 75/144 trong chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2012-2013. Cũng trong báo cáo này, trong các giai đoạn phát triển của sáng tạo, cải tiến (3 giai đoạn và 2 bước chuyển đổi), Việt Nam đang ở giai đoạn đầu tiên. Trong những năm tiếp theo, các doanh nghiê%3ḅp cần hết sức tập trung vào công nghệ, kỹ thuật, tăng giá trị cho sản phẩm của mình để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới (Trung Quốc xếp hạng 29/144, Thái Lan: 38, Indonexia: 50, Campuchia: 85).

(1) Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động SCM nói chung và Logistics nói riêng. Luật Thương mại sửa đổi 8 điều quy định về Dịch vụ Logistics (Điều 233- điều 240) và Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 của Chính phủ về việc Quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ Logistics. Cần nghiên cứu và rút kinh nghiệm từ các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là Singapore nước có nhiều kinh nghiệm về lĩnh vực SCM và Logistics.

(3) Quản trị hàng tồn kho (Inventory Management). Quản trị hàng tồn kho tốt giúp doanh nghiệp phản ứng nhanh với khách hàng, tuy nhiên nó đòi hỏi sự thấu hiểu về nhu cầu thị trường trong tương lai. Do đó, việc dự báo cung cầu trong tương lai sẽ hết sức quan trọng và là điểm khởi đầu cho mọi hoạt động kinh doanh.

(4) Kiểm soát và đo lường. Thiết lập một quy trình thu mua chặt chẽ để tối thiểu hoá các chi phí, minh bạch và đưa ra quyết định dựa trên dữ liệu thực tế.

(2) Xây dựng một chiến lược quốc gia về chuỗi cung ứng nhằm từng bước hội nhập và trở thành một bộ phận của chuỗi cung ứng toàn cầu, thông qua đó mở rộng hợp tác và liên kết chặt chẽ với một số đối tác thương mại như: 24 Hour Rule và CTPAT của Mỹ, hay AEO của EU…

Việc tìm kiếm thêm các thị trường xuất khẩu đòi hỏi một phân tích có hệ thống về hậu (5) Mua bán và sáp nhập (M&A.) Thống kê của Bộ Công Thương cho biết trong 5 năm (2008-2012) tăng trưởng hoạt động mua bán và sáp nhập tại Việt Nam đạt mức bình quân trên

71

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

giải pháp thuê ngoài có lựa chọn các dịch vụ Logistics ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo nguyên tắc đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp một cách chủ động với chi phí hợp lý.

cần thương mại, về quá trình thuận lợi hóa thương mại và vận tải, về những trở ngại thông qua việc sử dụng một số phương pháp như kiểm tra thuận lợi hóa thương mại, đo hiệu suất dịch vụ hậu cần, hành lang vận tải xuyên biên giới, GSM, so sánh các dữ liệu lịch sử và thống kê đối chiếu, các công cụ theo dõi hàng hóa và phương tiện vận tải.

(4) Đầu tư nâng cấp, hiện đại hóa và cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động logistics ở Việt Nam, chú trọng phát triển hệ thống giao thông vận tải, cảng biển và hệ thống kho vận

(8) Các giải pháp quản trị rủi ro trong chuỗi cung ứng: (1) Đưa chỉ tiêu hiệu quả vào các hợp đồng với các nhà cung cấp nguyên vật liệu hay nhà cung cấp dịch vụ logistics, (2) Thông báo trước cho khách hàng về những vấn đề có khả năng xảy ra, (3) Loại bỏ những nhà cung cấp kém năng lực, (4) Cùng với khách hàng chia sẻ chi phí tăng cao, (5) Tăng cường sự liên kết trong doanh nghiệp, (6) Phòng ngừa rủi ro tỷ giá (7) Bảo hiểm, (8) Phòng ngừa rủi ro hàng hóa, (9) Tuyển dụng, đào tạo và giữ nguồn nhân lực trình độ cao về SCM. Theo một khảo sát đối với 68 công ty đa quốc gia đang hoạt động tại thị trường Việt Nam, thì 15% ý kiến lo ngại về quyền sở hữu trí tuệ, 7% lo ngại về sự không ổn định trong chính sách của Chính phủ, và 3% lo ngại về các hàng rào luật pháp, trong khi có tới 28% ý kiến lo ngại cho rằng việc thuê và giữ nhân viên cao cấp cho hoạt động chuỗi cung ứng là một trong những rủi ro khi hoạt động tại thị trường Việt Nam. (5) Các doanh nghiệp cần đầu tư nâng cấp và cải tiến công nghệ thông tin bằng những hệ thống phần mềm quản trị chuỗi cung ứng, vì cung ứng kịp thời, chính xác là nền tảng để tiến đến việc quản trị chuỗi cung ứng chuyên nghiệp. Tuy nhiên, để việc đầu tư mang lại hiệu quả, doanh nghiệp cần xây dựng và kết nối các phòng ban với nhau để cùng đồng thuận trong việc thực hiện và quản trị chuỗi cung ứng tốt hơn. Áp dụng tự động hóa trong việc quản lý chuỗi cung ứng cũng giúp doanh nghiệp tăng chất lượng dữ liệu lưu trữ về khách hàng. Cắt giảm chi phí nhờ lưu trữ điện tử, chào bán đúng hàng, đúng đối tượng khách hàng vào đúng thời điểm.

6. Kết luận

Về việc nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không có đủ tiềm lực để đầu tư công nghệ cho việc quản trị chuỗi cung ứng, IBM cho rằng doanh nghiệp không cần đầu tư hệ thống quản lý chuỗi cung ứng cho toàn bộ công ty, chỉ cần hoạch định mặt hàng kinh doanh cốt lõi (mang lại giá trị cao), hoặc những mặt hàng đang sản xuất trong tình trạng thất thoát chi phí... để lựa chọn đầu tư gói công nghệ hợp lý cho quản trị chuỗi cung ứng. Doanh nghiệp cũng có thể đầu tư từng bước cho từng bộ phận cần thiết và quan trọng, sau đó sẽ triển khai trong toàn công ty. Phát triển các hệ thống quản trị chuỗi cung ứng trong các doanh nghiệp Việt Nam là một vấn đề khá mới mẽ cả về lý luận và thực tiễn, thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý nhà nước, các nhà khoa học và các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Nhưng đây là một vấn đề thực sự cần thiết phải nghiên cứu và ứng dụng vào thực tiễn của các doanh nghiệp Việt Nam để nâng cao hiệu quả quản trị chuỗi cung ứng và từng bước hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

(6) Các doanh nghiệp cần chú trọng công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực SCM và Logistics đáp ứng đủ về số lượng và yêu cầu chất lượng quốc tế. Các ý kiến trình bày trên đây như một cách tiếp cận từ góc độ quản trị đối với chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay.

(7) Hình thành bộ phận quản trị chuỗi cung ứng trong các doanh nghiệp lớn, và áp dụng

72

HỘI THẢO VỀ KHOA HỌC QUẢN TRỊ (CMS-2013)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Martin Aldergard, Narin Phol, M. Kowalkowska. Cung cấp giải pháp quản trị chuỗi cung ứng và logistics (Tp. HCM, 2010).

[2] Frost & Sullivan, http://www.slideshare.net/FrostandSullivan/frost-sullivan-economic-360- for-vietnam.

[3] Đoàn Thị Hồng Vân. Phát triển Logistics - Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Tạp chí Phát triển & hội nhập, Số 8 (18) - Tháng 01- 02/2013.

[4] Jan Tomczyk. Hội nghị Cảng biển và Vận tải ASEAN lần thứ V tại Johor Bahru (6/2007)

[5] Báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum 2012).

73