
1
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
-----*-----
NGUYỄN THỊ THU HÀ
QUẢN TRỊ RỦI RO HOẠT ĐỘNG TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
THEO CHUẨN BASEL II
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI, 2021

2
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
----------------oOo----------------
NGUYỄN THỊ THU HÀ
QUẢN TRỊ RỦI RO HOẠT ĐỘNG TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
THEO CHUẨN BASEL II
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 9.34.02.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Đỗ Thị Kim Hảo
2. TS. Đoàn Thị Thanh Hương
HÀ NỘI, 2021

3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án
Tính đa dạng và mối liên hệ giữa các loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng ngày nay
đang tăng lên và phức tạp hơn. Bên cạnh đó, nhiều NHTM đang tham gia sâu rộng hơn với
nền kinh tế thế giới đã khiến khả năng kiểm soát rủi ro trở nên khó khăn (Greuning and
Bratanovic, 2020). Trong đó, so với các loại rủi ro khác, RRHĐ có khả năng gây thiệt hại
lớn hơn nhiều lần (Moosa, 2007). RRHĐ có thể tạo nên những thiệt hại lớn bởi tính đa
dạng, liên kết cao, phạm vi không gian và thời gian của loại rủi ro này rất rộng lớn,
không xác định trước (Marshall, 2001).
RRHĐ đã nhận được sự quan tâm của nhiều ngân hàng sau một loạt sự cố và tổn thất
nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến uy tín, tài sản có liên quan đến RRHĐ đã xảy ra trên thế
giới, chẳng hạn Ngân hàng Barings, Allied Irish, Citibank và một số công ty khác. Ngân hàng
Barings (thành lập năm 1762 ở Anh) đã bị phá sản vào năm 1995 do RRHĐ từ một giao
dịch viên. Tháng 1/2021, một tòa án ở Mỹ đã quyết rằng bên nhận tiền do Ngân hàng
Citibank (Mỹ) chuyển nhầm sẽ không phải hoàn trả số tiền khoảng 500 triệu USD và đã
gây ra thiệt hại to lớn cho ngân hàng này. Tại Việt Nam, RRHĐ ngày càng xuất hiện
nhiều hơn. Thời gian gần đây, số lượng vụ cướp ngân hàng ở Việt Nam gia tăng đột biến
với mức độ nguy hiểm cao.
Dưới tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, nguy cơ xảy ra RRHĐ ngày càng
lớn, khó xác định. RRHĐ tiềm ẩn trong mỗi sản phẩm, dịch vụ và quy trình nghiệp vụ
của ngân hàng, khó dự đoán và gắn liền với văn hóa, đặc điểm của từng NHTM. Do đó,
RRHĐ nếu xảy ra, có thể ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của cả ngân hàng,
khách hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Trong khi đó, để nâng cao vị thế và năng lực cạnh tranh, vấn đề đặt ra cho ngành
ngân hàng là kiểm soát, quản lý được các rủi ro gắn với hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, trong đó có RRHĐ. Một ngân hàng hoạt động kinh doanh hiệu quả, có năng lực tài
chính mạnh và quản trị được rủi ro trong giới hạn cho phép sẽ tạo được niềm tin của
khách hàng và nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh. Yêu cầu cấp bách đặt ra là rủi ro
trong từng hoạt động kinh doanh phải được quản trị, kiểm soát, giảm thiểu các thiệt hại
phát sinh và tăng lợi nhuận, góp phần nâng cao uy tín và tạo ra lợi thế cạnh tranh. Trong
xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu quản trị theo

4
chuẩn mực quốc tế, đồng thời mở ra các cơ hội để ngành Ngân hàng có thể tiếp cận nhanh và
gần hơn với các chuẩn mực đó (Đào Thị Thanh Tú, 2014).
Nhận thức được tầm quan trọng của QTRRHĐ, ngành ngân hàng đã có nhiều
chính sách, biện pháp thiết thực, kịp thời. NHNN đã xác định RRHĐ là rủi ro trọng yếu
của NHTM, được quy định tại Khoản 13 Điều 3 của Thông tư 13/2018/TT-NHNN ngày
18/5/2018 của NHNN quy định về hệ thống kiểm tra nội bộ của NHTM và chi nhánh
ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra, NHNN đã chỉ định mười NHTM thực hiện thí điểm
Basel II, đưa ra lộ trình khuyến khích, tạo điều kiện cho các NHTM triển khai thực hiện
Basel II. Nhiều NHTM đã đưa công tác QTRRHĐ vào chiến lược kinh doanh ngân hàng,
đầu tư nguồn lực để xây dựng hệ thống quản trị loại hình rủi ro này.
Là ngân hàng có quy mô lớn nhất Việt Nam với hệ thống giao dịch rộng khắp, số
lượng khách hàng lớn, sản phẩm dịch vụ đa dạng, Agribank đã sớm ý thức tăng cường
biện pháp phòng ngừa trước khi rủi ro xảy ra để không ảnh hưởng đến lợi ích cũng như
uy tín của ngân hàng, bao gồm thiết lập hệ thống kiểm toán, kiểm soát nội bộ, ban hành
các khung quản trị rủi ro, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…Tuy nhiên, đối với
QTRRHĐ, Agribank còn gặp một số hạn chế, chưa ban hành chiến lược, khẩu vị, chính
sách, quy trình QTRRHĐ, chưa triển khai các công cụ để đo lường RRHĐ, hệ thống
QTRRHĐ phân tán, chưa tập trung một đầu mối chuyên trách.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng chuẩn quốc tế, tuân thủ quy định của
NHNN, việc nghiên cứu thực trạng RRHĐ, QTRRHĐ tại NHTM, khảo sát thực tiễn công
tác QTRRHĐ tại Agribank và đề xuất các giải pháp phù hợp là rất cần thiết trong giai
đoạn hiện nay. Xuất phát từ lý thuyết và thực tiễn, Tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản trị
rủi ro hoạt động tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam theo
chuẩn Basel II” làm chủ đề nghiên cứu cho Luận án.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Sự quan tâm về quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng ngày càng tăng, đặc biệt
từ cuối những năm 1990, sau một loạt sự cố và tổn thất nghiêm trọng đã dẫn đến việc ban
hành các tiêu chuẩn về vốn cho RRHĐ theo BIS (2004). Tầm quan trọng của QTRRHĐ
trong ngân hàng được khẳng định qua các nghiên cứu lý thuyết của Powell (2004).

5
Theo F. Hasanali (2002), RRHĐ liên quan đến quá trình thiết lập quy trình, không
phải đơn thuần là quản lý sự vụ trong quá trình hoạt động. RRHĐ là loại rủi ro khác biệt
so với các loại hình rủi ro khác, chẳng hạn như: rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường được
xem là rủi ro tài chính trong khi RRHĐ là rủi ro phi tài chính. RRHĐ khó xác định hoặc
dự đoán trước những dấu hiệu của nó vì loại rủi ro này không định lượng được bằng chỉ
số tài chính cụ thể như rủi ro tín dụng hay rủi ro thị trường (De Koker, 2006). Theo R.M.
Cooke (2004), RRHĐ được định nghĩa là những rủi ro liên quan đến những tổn thất mà
nguyên nhân là do tổ chức tín dụng hoạt động thiếu hiệu quả. Việc định lượng loại hình
rủi ro này dựa trên cơ sở dữ liệu lớn, phức tạp (Muzzy, 2003) và phải khái quát hóa được
hành vi của con người (McKay and Marshall, 2001). Tính chất tiềm ẩn của RRHĐ là
điều gây khó khăn cho công tác triển khai quản lý rủi ro do không dự đoán trước được.
Theo Ủy ban Basel II, RRHĐ trong ngân hàng được định nghĩa “là rủi ro xảy ra
tổn thất do thiếu hoặc do lỗi của quy trình nội bộ, cán bộ ngân hàng, hệ thống hoặc do
các sự kiện bên ngoài”. RRHĐ xảy ra không chỉ gây hậu quả lớn cho ngân hàng về mặt
tài chính mà còn ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, thương hiệu của ngân hàng (Moosa, 2007;
Cummins, J. David and Wei, 2007). Tổn thất về uy tín xảy ra khó đo lường hơn nhiều so
với chính RRHĐ và mức độ nghiêm trọng cũng khó lường. RRHĐ có khả năng gây thiệt
hại lớn hơn nhiều lần so với rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường (Moosa, 2007).
Theo Basel II, quản trị rủi ro là một quá trình liên tục cần được thực hiện ở mọi
cấp độ của một TCTD và là yêu cầu bắt buộc để các TCTD có thể đạt được các mục tiêu
đề ra và duy trì khả năng tồn tại, sự minh bạch về tài chính. Chúng ta có thể hiểu
QTRRHĐ là quá trình TCTD tiến hành các hoạt động tác động đến RRHĐ, bao gồm việc
thiết lập cơ cấu tổ chức, xây dựng hệ thống các chính sách, phương pháp quản lý RRHĐ
để thực hiện quá trình quản lý rủi ro đó là xác định, đo lường, đánh giá, quản lý, giám sát
và kiểm tra, kiểm soát RRHĐ nhằm bảo đảm hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro xảy ra. Ủy
ban Basel về giám sát ngân hàng (2003) cũng đã tổng kết 4 vấn đề chính bao hàm 11
nguyên tắc vàng trong QTRRHĐ và khuyến nghị các ngân hàng cần thực hiện. Trên cơ
sở các nguyên tắc này, nội dung QTRRHĐ tập trung vào khung và quy trình QTRRHĐ.
RRHĐ cho đến nay không còn là khái niệm mới nhưng việc thực hiện quản lý và đánh
giá về công tác quản trị rủi ro vẫn tiếp tục cần đặt ra do yêu cầu quản lý của Basel II..
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

