Rối loạn ăn uống

Phần 1

Các rối loạn ăn uống

Rối loạn ăn uống là những tình trạng đặc trưng bởi sự ám ảnh về cân

nặng dẫn đến rối nhiễu nghiêm trọng hành vi ăn uống. Những rối loạn này

bao gồm chứng biếng ăn và chứng cuồng ăn.

Chứng biếng ăn về bản chất là tự nhịn đói, từ chối duy trì cân nặng

bình thường tối thiểu. Người bị rối loạn ăn uống cũng có thể tự gây nôn, lạm

dụng thuốc nhuận tràng, thuốc lợi tiểu hoặc tập luyện nhằm kiểm soát cân

nặng. Tình trạng này khiến họ bị gầy hoặc thậm chí suy mòn. Trong những

trường hợp nặng, chứng biếng ăn có thể đe doạ tính mạng.

Chứng cuồng ăn bao gồm những đợt ăn uống vô độ, tiếp theo là cố

tống khứ thức ăn ra khỏi cơ thể hoặc cố đạt được cân nặng mong muốn bằng

những cách không thích hợp. Người bị chứng cuồng ăn có thể ăn những bữa

thịnh soạn giàu calo, rồi gây nôn hoặc dùng thuốc nhuận tràng để cố tống

thức ăn ra khỏi cơ thể trước khi cơ thể hấp thụ được calo và tăng cân. Nhiều

người có thể mắc chứng bệnh này mà vẫn có cân nặng bình thường.

Có nhiều biến thể của chứng biếng ăn và chứng cuồng ăn. Bao gồm ăn

vô độ mà không dùng thuốc xổ, dùng thuốc xổ mà không ăn vô độ, nhai và

nhổ mà không dùng thuốc xổ, và hành vi biếng ăn kèm theo ít giảm cân.

Tỷ lệ mắc chứng biếng ăn và cuồng ăn cao ở nữ thanh thiếu niên hơn

ở các nhóm tuổi khác. Nam giới có thể bị các rối loạn này, và chúng có thể

hay gặp ở nam hơn là các bác sỹ từng nghĩ. Nhưng nữ chiếm khoảng 90% số

trường hợp rối loạn ăn uống ở Mỹ. Theo Hội Tâm lý Mỹ, từ 0,5 - 3,7% số

phụ nữ bị biếng ăn và từ 1,1 đến 4,2% số phụ nữ bị cuồng ăn vào một thời

điểm nào đó trong đời.

Dấu hiệu và triệu chứng

Biếng ăn

Các dấu hiệu và triệu chứng chính của biếng ăn là:

- Sút cân, đôi khi rất nghiêm trọng

- Không muốn duy trì cân nặng ở mức hoặc trên mức bình

thường tối thiểu

- Sợ tăng cân

- Rối nhiễu hình dung về cơ thể

- Ở nữ, rối loạn kinh nguyệt hoặc mất kinh

Các dấu hiệu và triệu chứng thứ yếu của biếng ăn có thể gồm:

- Mệt mỏi

- Trầm cảm

- Lo âu

- Mất ngủ

- Lảng tránh mọi người

Cuồng ăn

Các dấu hiệu và triệu chứng chính của cuồng ăn là:

- Các đợt ăn uống vô độ tái diễn

- Cảm giác không thể kiểm soát được hành vi ăn uống

- Ăn nhiều thức ăn trong một bữa ăn thịnh soạn hơn trong một bữa

ăn bình thường hoặc ăn vặt.

- Tiếp theo một bữa ăn thịnh soạn là những cố gắng để chống tăng

cân - như tự gây nôn, dùng thuốc nhuận tràng hoặc các thuốc khác, nhịn đói

hoặc tập quá mức.

- Chú ý một cách bất thường đến dáng vóc và cân nặng

Các dấu hiệu và triệu chứng thứ yếu của cuồng ăn có thể gồm:

- Sút và tăng hơn 5kg theo chu kỳ

- Mất nước

- Mệt mỏi

- Trầm cảm

- Lo âu

- Tổn thương răng và lợi do acid dạ dày khi nôn

- Má sưng do nôn thường xuyên

- Tiêu chảy dai dẳng không rõ nguyên nhân

Không dễ phân biệt giữa rối loạn ăn uống với tính đỏng đảnh của tuổi

vị thành niên. Ăn uống vô độ, ăn kiêng và thử gây nôn để tống khứ thức ăn

không phải là hiếm gặp ở các thiếu nữ. Những hành vi này cũng xảy ra, mặc

dù ít hơn, ở các nam thiếu niên. Là cha mẹ, hãy cảnh giác với những thay

đổi kéo dài trong thói quen ăn uống, chứ không phải với những hiện tượng

ngẫu nhiên đôi lúc xảy ra khi trẻ lớn lên.

Hầu hết các thiếu nữ, và một số nam thiếu niên, ăn kiêng để giảm cân

và ngừng ăn kiêng sau 2 hoặc 3 tuần. Các bậc phụ huynh hãy thận trọng để

không nhầm giữa thỉnh thoảng ăn kiêng với rối loạn ăn uống. Vấn đề xảy ra

khi con bạn không tăng cân trong những năm trước tuổi vị thành niên, là lúc

con bạn cần tăng 5 đến 6kg mỗi năm.

Một số dấu hiệu khác có thể cho thấy con bạn bị rối loạn ăn uống

- Không muốn ăn cùng gia đình

- Thường chạy vào nhà vệ sinh và ở đó khá lâu trong hoặc sau bữa

ăn. Con bạn có thể vặn nước để át tiếng nôn oẹ.

- Tập luyện quá mức hoặc bị ám ảnh về cân nặng.

- Muốn ở một mình

Nguyên nhân

Các bác sỹ chưa biết rõ nguyên nhân của rối loạn ăn uống. Có vẻ như

có nhiều yếu tố tham gia, như di truyền, gia đình và văn hóa. Trong một số

trường hợp, các hệ thống sinh học trong não điều khiển tâm trạng và sự ngon

miệng có những bất thường.

Một nguyên nhân nữa có thể là những thông điệp mà các phương tiện

truyền thông đại chúng ở các nước phát triển gửi tới giới trẻ, nhất là các

thiếu nữ. Những thông điệp này coi sự mảnh mai là quyến rũ. Ðể được mảnh

mai như một số thần tượng của giới trẻ và người mẫu, một số người phải đạt

và duy trì cân nặng không tốt cho sức khỏe của họ. Mặc dù một số thần

tượng và người mẫu vừa mảnh mai lại vừa khỏe mạnh, song vấn đề nảy sinh

khi một số thanh thiếu niên không thể giữ được dáng vóc nếu không giảm

cân quá nhiều.

Với một số thanh thiếu niên, thông điệp của các phương tiện truyền

thông về dáng vóc mình hạc xương mai góp phần gây ra sự hình dung méo

mó về cơ thể. Một thiếu nữ 14 tuổi thông minh hiểu lý lẽ có thể tin rằng

40kg là trọng lượng lý tưởng cho thân hình cao 1m55 của cô. Dần dà, cô bắt

đầu bỏ bữa, chối từ nguồn năng lượng mà cơ thể cô cần để phát triển bình

thường. Cô sẽ ngày càng gầy hơn mà vẫn tưởng là mình béo. Cuối cùng, cô

có thể bị suy dinh dưỡng tới mức cần vào viện để điều trị chứng biếng ăn.

Các yếu tố nguy cơ

Những yếu tố sau có thể làm tăng nguy cơ rối loạn ăn uống:

Giới tính. Các thiếu nữ dễ bị rối loạn ăn uống hơn nam, mặc dù rối

loạn ăn uống xảy ra cả ở nam.

Tuổi. Mặc dù rối loạn ăn uống có thể xảy ra ở tuổi trung niên, song nó

hay xảy ra hơn trong độ tuổi mười chín đôi mươi.

Ảnh hưởng gia đình. Những người cảm thấy ít được tin cậy trong gia

đình, có cha mẹ và anh chị em ruột quá khó tính, có nguy cơ cao bị rối loạn

ăn uống.

Di truyền. Rối loạn ăn uống hay gặp hơn ở những người có người thân

trong gia đình bị rối loạn ăn uống.

Rối loạn tình cảm. Người bị trầm cảm, lo âu hoặc rối loạn ám ảnh -

cưỡng bức cũng dễ bị rối loạn ăn uống. Người bị chứng biếng ăn thường

cũng có xu hướng cầu toàn. Một số người bị chứng cuồng ăn cũng gặp khó

khăn trong việc tự kiềm chế.

Tập quá mức. Người tham gia những hoạt động thể thao mang tính

cạnh tranh cao có nguy cơ cao bị rối loạn ăn uống. Các nữ vận động viên

trong các môn thể thao như thể dục dụng cụ hay trượt băng nghệ thuật đặc

biệt có nguy cơ bị chứng biếng ăn.