
181
RỐI LOẠN NÓI LẮP
1. ĐỊNH NGHĨA
Là một rối loạn lời nói có đặc trưng là lặp lại kéo dài các âm, các vần hay các từ
hoặc do dự hay dừng lại làm rối loạn nhịp của dòng phát âm. Tỷ lệ mắc khoảng 1%
quần thể chung theo điều tra tại châu Âu và Mỹ.
2. NGUYÊN NHÂN
Nhiều yếu tố, bao gồm: di truyền, thần kinh và các yếu tố tâm lý.
Mô hình thực tổn: nói lắp là do sự biệt hóa không hoàn thiện hoặc những bất thường
về bán cầu não ưu thế.
Mô hình học tập: nói lắp là kết quả của quá trình học tập, đáp ứng lại sự “không lưu
loát” mà trẻ gặp phải trong quá trình thơ ấu.
Mô hình điều khiển học: phát âm được coi như kết quả của các đáp ứng thích hợp
theo các quy luật. Tật nói lắp xuất hiện do quá trình đáp ứng này bị phá vỡ.
3. CHẨN ĐOÁN
3.1 Chẩn đoán xác định:
Nói lắp thường xuất hiện trong độ tuổi từ 18 tháng đến 9 tuổi, với 2 đỉnh khởi
phát là 2-3,5 tuổi và 5-7 tuổi.
Một số trẻ nói lắp có một số vấn đề khác về ngôn ngữ như rối loạn phát âm và rối
loạn ngôn ngữ diễn đạt.
Tiến triển dần dần qua các giai đoạn gồm sự lặp lại phụ âm đầu tới toàn bộ một
từ đứng đầu câu hoặc các từ dài.
Trẻ có thể đọc, hát bình thường.
Tiến triển qua 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: trước khi đi học. Rối loạn mang tính chất giai đoạn. Khả năng
phục hồi lớn.
+ Giai đoạn 2: thời kỳ tiểu học. Rối loạn trở thành dai dẳng, ít có thời gian trẻ
nói chuyện được bình thường.
+ Giai đoạn 3: giai đoạn muộn của thời thơ ấu hay giai đoạn sớm của vị thành
niên. Trong giai đoạn này, tật nói lắp đến và đi trong những hoàn cảnh nhất
định như trả bài trong lớp, sử dụng điện thoại, nói chuyện với người lạ.
+ Giai đoạn 4: giai đoạn muộn của thời niên thiếu và tuổi trưởng thành. Người
nói lắp thường sợ những từ ngữ hay hoàn cảnh nhất định nào đó mà họ biết
mình hay nói lắp, dẫn đến tránh né hay nói loanh quanh để tránh nói lắp. Nói
lắp có thể đi kèm với các hành vi biểu hiện của lo âu như nháy mắt, máy cơ,
run, giật môi.
* Tiêu chuẩn chẩn đoán nói lắp theo ICD-10: