intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự phát triển tâm lý qua các giai đoạn lứa tuổi

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu "Sự phát triển tâm lý qua các giai đoạn lứa tuổi" được biên soạn với mục tiêu nhằm giúp các bạn sinh viên có thể nhận ra đặc điểm tâm lý ở các độ tuổi; Phân biệt được sự khác biệt tâm lý ở các độ tuổi; Trình bày được các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển; Ứng dụng kiến thức về tâm lý bình thường để phân tích được tâm lý bệnh lý.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự phát triển tâm lý qua các giai đoạn lứa tuổi

  1. SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỨA TUỔI MỤC TIÊU 1. Nhận ra đặc điểm tâm lý ở các độ tuổi 2. Phân biệt được sự khác biệt tâm lý ở các độ tuổi 3. Trình bày được các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển 4. Ứng dụng kiến thức về tâm lý bình thường để phân tích được tâm lý bệnh lý NỘI DUNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ 1. Thuật ngữ và các khái niệm: I.1 Thuật ngữ I.1.1 Phát triển (Development): là một quá trình đi từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, là sự thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và tạo nên cái mới. Cái mới được tạo ra cao hơn cái cũ, tinh tế hơn cái cũ. I.1.2 Thoái lùi (Regression) : là sự trở về các giai đoạn phát triển trước đó với những phản ứng mang tính « trẻ con ». Tức là bỏ đi một số khả năng đã đạt được và quay lại kiểu hoạt động của những giai đoạn trước. I.1.3 Cắm chốt (Fixation) : Khi vấp phải một chấn thương tâm lý thì gắn bó quá mức về tình cảm vào một con người hay một đồ vật, tập trung vào đấy, không còn liên hệ với người khác hay có một hứng thú nào khác. I.1.4 Phát triển tâm lý (psychological development) I.1.5 Khủng hoảng lứa tuổi (age crisis) : là trạng thái xung đột xuất hiện trong thời kỳ chuyển biến từ giai đoạn phát triển lứa tuổi này sang giai đoạn lứa tuổi khác. 1
  2. I.2 Khái niệm Sự phát triển tâm lý là gì? Sự phát triển tâm lý của con người bao giờ cũng diễn ra trong một quá trình. Ở quá trình này, các hoạt động vận động của con người có khi đi tới, có khi thụt lùi tạm thời, có lúc đi nhanh hoặc đi chậm lại… Đó là một quá trình phức tạp. tuy nhiên, nhìn chung nó là sự đi lên tích cực nhằm tạo ra cái mới cao hơn cái cũ, tinh tế hơn cái cũ… Trong từng giai đoạn lứa tuổi có những thay đổi về lượng và chất của các thành phần tâm lý con người như nhận thức, nhu cầu, trạng thái hành vi… Những thành phần này có liên quan, tác động và phụ thuộc vào nhau. Ta có thể định nghĩa Sự phát triển tâm lý là khái niệm chỉ tổng thể quá trình chuyển đổi về các lĩnh vực nhận thức, ý thức, nhu cầu, tình cảm, vận động... của con người và mang tính quy luật. Tất cả các lĩnh vực này có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển thể chất và vận động. Tức là giữa tinh thần và thể chất có sự liên hệ chặt chẽ và ảnh hưởng với nhau. 2. Nhịp điệu của sự phát triển: Tất cả trẻ em đều trải qua từng giai đoạn phát triển như nhau, tuy nhiên nhịp điệu phát triển của từng trẻ là không giống nhau. Ví dụ: các trẻ đều trải qua giai đoạn đi chập chững, đi vững, chạy... Tuy nhiên, có trẻ biết đi vững lúc 9 tháng, có trẻ 12 tháng 3. Thời kỳ nhạy cho việc học tập: Những nghiên cứu chứng minh: có thời kỳ “quyết định” cho mỗi thành tựu (điều đạt được), nghĩa là thời kỳ đặc biệt nhạy cho việc học một điều gì đó. Ta biết rằng nếu trẻ không biết đi trong giai đoạn bình thường (khoảng từ 9 – 20 tháng) thì trẻ khó khăn để đi học sau này. Là người lớn, mỗi ngày chúng ta cũng trải nghiệm những khó khăn này. Ví dụ học một ngoại ngữ đòi hỏi chúng ta phải đầu tư rất nhiều thời gian công sức trong khi đó một trẻ nhỏ học ngoại ngữ một cách tự nhiên. 4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển: 4.1Sự trưởng thành của hệ thần kinh: Những điều trẻ đạt được trong quá trình phát triển (biết ngồi bô, đi, nói…) nhờ vào sự trưởng thành của hệ thần kinh. Mỗi một thành tựu cần có khả năng vận động và khả năng về trí não. 2
  3. Ví dụ: trẻ không thể nói một câu với nhiều từ khi mới được 1 tuổi . Do đó, cha mẹ và những nhà chuyên môn nên tôn trọng nhịp điệu của trẻ. 4.2 Môi trường (giáo dục) - Sự phát triển của trẻ không chỉ phụ thuộc vào yếu tố sinh lý mà còn ảnh hưởng bởi môi trường trẻ sống. Người lớn dạy cho trẻ, trẻ tiếp thu và làm theo. Ví dụ: không ai nói chuyện với trẻ, trẻ sẽ không biết nói. - Khoa học thần kinh đã chứng minh rằng việc học có vai trò quan trọng trong hoạt động của vỏ não. Thật vậy, một trẻ càng phát triển những thành tựu mới, càng tạo ra sợi liên bào mới và não trở nên hiệu quả hơn. 4.3 Hoạt động bên trong của bản thân trẻ (tự giáo dục) Trẻ tiếp thu kinh nghiệm lịch sử của loài người thông qua sự chỉ dạy của người lớn. Ví dụ: trẻ thích tham gia vào các hoạt động học tập sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm, kiến thức hơn trẻ ít tham gia. 5. Tính không liên tục và những rối loạn trong sự phát triển: Yếu tố cơ thể và môi trường giúp trẻ tiến triển. Tuy nhiên, sự phát triển này không phải luôn hài hòa và liên tục, nhiều yếu tố khác có thể xen vào như: Trẻ chưa trưởng thành đủ (trẻ sinh non) Cấu tạo nền tảng không tốt (dị tật bẩm sinh) Bất thường nhiễm sắc thể (trẻ bị bệnh Down) Sang chấn hoặc nhiễm trùng cận sản …… Tất cả những yếu tố này có thể làm ngưng hoặc chậm phát triển ảnh hưởng đặc biệt lên lĩnh vực trí tuệ. Điều cần lưu ý là những rối loạn này càng xuất hiện sớm nơi trẻ thì càng nghiêm trọng và không thể phục hồi. Mặc dù vậy, ở trẻ nhỏ, khi một vùng của não bị tổn thương chúng sẽ được hỗ trợ bởi một vùng khác của não. Do đó, khả năng phục hồi của trẻ sẽ rất lớn nếu được chẩn đoán và phát hiện sớm. II. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI 1. Giai đoạn từ 0 – 1 tuổi. 3
  4. Đây là giai đoạn quan trọng của việc hình thành sự phát triển tâm lý. Trong suốt thời kỳ này, nhân cách, trí tuệ, kỹ năng vận động, xã hội, mối quan hệ và tình cảm của trẻ được hình thành. 1.1 Thời kỳ trong bụng mẹ: Con người là một sinh vật xã hội. Những nghiên cứu chứng minh, khi còn trong bụng mẹ, bào thai phát triển những giác quan có vai trò của sự hình thành cảm xúc, tình cảm, nhận thức của trẻ. Sự hình thành sơ khai này bắt nguồn từ các cơ quan cảm giác. Ví dụ: - thính giác xuất hiện lúc bào thai 5 tháng, trẻ trong bụng mẹ có thể nghe thấy những âm thanh và có phản ứng khi nghe giọng nói của mẹ. Trẻ có thể nghe nhạc, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách sau này. - Bé nhận biết sự tiếp xúc qua thành bụng. 1.2 Thời kỳ ra đời đến 1 tuổi 1.2.1 Đặc điểm sinh lý (tham khảo) Những ảnh hưởng bất thường về sinh lý đều ảnh hưởng đến sự hình thành nhận thức tâm lý bình thường hoặc bất thường ở trẻ sau này. Vd : trẻ suy dinh dưỡng, tính tình cáu gắt, nhận thức chậm Hệ thần kinh (HTK): HTK TW rất quan trọng trong việc hình thành sự phát triển TL. Đây là giai đoạn HTK đang hoàn thiện dần các chức năng. Do đó, các yếu tố ảnh hưởng đến HTK TW ở độ tuổi này sẽ dẫn đến kết quả thay đổi về mặt tâm lý hoặc bệnh lý về tâm lý tâm thần của trẻ sau này (tham khảo tài liệu thần kinh học). Các yếu tố khiếm khuyết về di truyền là một yếu tố cảnh hưởng chính để quyết định sự phát tâm tâm lý. 1.2.2 Đặc điểm tâm lý: 1.2.2.1 Sự tách rời mẹ và con. - Đối với trẻ : sự thay đổi đột ngột về môi trường xung quanh (từ bào thai ra ngoài), trẻ sẽ có những phản ứng về mặt cảm giác để thich nghi với môi trường mới (hít thở, âm thanh, ánh sáng ,tiếng ồn,….). Sự phản ứng của trẻ để thích nghi với môi trường sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ . Ví dụ : trẻ ra đời trong môi trường ồn ào, ánh sáng mạnh..sẽ có phản ứng sợ hãi, biểu hiện khóc dạ đề, bức rứt, bỏ bú… - Ở giai đoạn này trẻ có quan hệ xã hội với bố mẹ và những người trong gia đình, đặc biệt là mẹ. Sự quan tâm chăm sóc của mẹ tạo cho trẻ 4
  5. cảm giác an toàn, tin tưởng. Ngược lại, trẻ sẽ có cảm giác lo lắng và sợ hãi. - Đối với bà mẹ: do tách rời mẹ và con, tâm lý khởi đầu của bà mẹ là vừa gần gũi vừa xa lạ. Bà mẹ phải chấp nhận trẻ không còn là một phần của chính bản thân mình nữa. Sự hiện diện của trẻ vừa gần gũi vừa xa lạ. Do đó, bà mẹ gặp khó khăn về cảm xúc đối với trẻ (hiện tượng trầm cảm sau sinh), nên bà mẹ rất cần sự giúp đỡ để vượt qua sự khó khăn này. - Đối với Tâm lý phát triển bình thường, bà mẹ thể hiện sự vui sướng, hài lòng, …..tâm lý này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của trẻ. Ví dụ : mẹ yêu thương, ve vuốt -> trẻ bình an, không lo lắng….. - Đối với Tâm lý phát triển bất thường, có thể do căn nguyên tâm lý hoặc bất ổn tâm lý trong thời gian mang thai… có thể dẫn đến trầm cảm, lo âu .. nơi bà mẹ. Tâm lý này cũng sẽ ảnh hưởng đến tâm lý trẻ. Ví dụ trẻ không được âu yếm ẵm bồng, sự ẵm bồng hờ hững, cảm xúc cáu giận hoặc thờ ơ của bà mẹ…cũng ảnh hưởng đến tâm lý trẻ, khiến trẻ bất an, lo lắng, Ngoài ra, những người xung quanh như ông bà cha mẹ….cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ sau này. I.2.2.2 Sự gắn bó mẹ con: Sự gắn bó mẹ con đặc trưng bởi sự gắn kết mạnh mẽ, cảm xúc nồng ấm và sự giao lưu tình cảm sâu sắc của cả mẹ và con. Nó xuất hiện khi người lớn thỏa mãn những nhu cầu của trẻ, ví dụ như cho trẻ ăn, chăm sóc trẻ. Và sự gắn bó được duy trì, phát triển qua quá trình giao lưu cảm xúc giữa mẹ với trẻ. Ví dụ như mẹ chơi đùa cùng trẻ, nói chuyện với trẻ,… Quan hệ gắn bó giữa cha mẹ và trẻ được hình thành trong hai năm đầu đời sẽ tạo cơ sở cho sự hình thành những mối quan hệ về sau này Trong mối quan hệ gắn bó, hai tác giả Bowlby và Winiccott đều nói đến các khái niệm về sự gắn bó vừa phải, gắn bó qua mức và không gắn bó giữa mẹ và con có ảnh hưởng đến cảm xúc, nhận thức của trẻ sau này. Đặc điểm về sự gắn bó hài hòa thuộc về bản năng của con người. Nó được đánh dấu bởi tính hai mặt: 1/ Cơ bản vẫn còn lo 5
  6. âu bị xa cách mẹ (vào tháng thứ 4), lo âu người lạ (tháng thứ 8) trong những năm đầu đời. 2/ Bước đầu được trải nghiệm sự vui thích qua vai trò của da ( được vuốt ve âu yếm), miệng (qua bữa ăn) và những ấm ức đầu tiên (cai sữa, chờ đợi được đáp ứng nhu cầu). => Trẻ có sự biến động xa cách từ từ và cá thể hóa. Như vậy, ta đã đã có thể trả lời câu hỏi: Gắn bó hài hòa là gì? Hệ quả của sự gắn bó này như thế nào? * Sự xa cách quá lâu giữa cha mẹ và trẻ có thể gây ra những hậu quả bệnh lý: bé dần dần thu mình lại và rơi vào trạng thái trầm cảm : đó là « hội chứng vắng mẹ” (xem phần III) I.2.2.3 Tính tích cực trong giao tiếp của trẻ sơ sinh - Nêu cơ chế từ phản xạ không điều kiện và có điều kiện - Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ em khi sinh ra có một số phản xạ giúp thích nghi linh hoạt với môi trường tự nhiên và xã hội như phản xạ hắt hơi, ho, mút, nuốt, quay đầu… Dần dần, trẻ xuất hiện các phản xạ có điều kiện, phản ứng vào tình huống được gặp. Từ những tình huống đó, trẻ chủ động trong mối quan hệ với người khác. Chẳng hạn trẻ quay mặt đi khi không chịu bú; mỉm cười khi gặp mẹ; nhận ra và phản ứng với mùi của mẹ, vị sữa mẹ; hay khóc khi không gặp mẹ. Mọi nỗ lực giao tiếp đó nhằm cho người chăm sóc biết trẻ đang muốn gìí dụ như tiếng la khóc dữ dội khi nhu cầu không được đáp ứng làm cho mẹ hiểu là bé chưa có khả năng chờ đợi. “Bé là tất cả, ngay lập tức”. Ở tuổi này, điều quan trọng là trẻ nhận được những gì trẻ yêu cầu. Ở đây vai trò của người mẹ rất quan trọng cho sức khỏe tâm thần trong tương lai và cho cách cấu tạo tâm lý tốt của trẻ. Không thực hiện được những phản xạ này, trẻ sẽ có bất thường trong phát triển tâm lý. I.2.2.4 Sự phát triển tâm lý vận động Khoảng tháng thứ 2, xuất hiện nụ cười đáp trả Khoảng tháng thứ 3, trẻ tự lật Khoảng tháng thứ 5 – 6 , trẻ tự ngồi Khoảng 12 tháng, trẻ biết đi 6
  7. I.2.2.5 Sự phát triển về nhận thức: Từ 0 – 1 tuổi, tuổi, trẻ hình thành nhận thức thông qua các giác quan. Ví dụ: nhận biết màu sắc, âm thanh ….Thông qua các giác quan hình thành quá trình nhận thức, lưu giữ trong bán cầu đại não. Chức năng vùng bán cầu đại não thùy trán (tiếp thu thông tin) trước và thùy đỉnh (diễn đạt ngôn ngữ) hoàn thiện và phát triển do vậy khả năng tiếp nhận và ngôn ngữ của trẻ phát triển. Khoảng 12 tháng, chủ động hơn trong các mối quan hệ cảm xúc với bố và mẹ. Vào thời kỳ này ở trẻ xuất hiện một loạt các cảm xúc mới bao gồm tức giận, vui mừng và buồn bực gắn với những tình huống đa dạng hơn trước đó I.2.2.6 Về ngôn ngữ: Khoảng tháng thư 3, trẻ phát ra những âm thanh Khoảng qư tháng, trẻ biết và nói được 3 từ. Theo tâm lý học hoạt động, hoạt động giao lưu cảm xúc trực tiếp với người lớn là hoạt động chủ đạo ở lứa này. Kết luận giai đoạn 0 – 1 tuổi: - Độ tuổi từ 0 – 1 là quá trình hình thành tâm lý ở trẻ. Đây là quá trình quan trọng cho sự phát triển tâm lý của trẻ như tư duy nghệ thuật, nhân cách… - Nguyên lý chung : khía cạnh tình cảm trong quan hệ đầu đời của trẻ : quan hệ mẹ - con - Hệ quả : những trẻ có vấn đề rối loạn mối quan hệ mẹ con, tự kỷ, rối loạn nhân cách… hoặc những rối loạn ở tuổi trưởng thành bắt đầu từ độ tuổi này. - Mối quan hệ người chăm sóc – trẻ cũng có khía cạnh tình cảm. Người chăm sóc đóng vai trò như một người mẹ thay thế mà trẻ hằng mong đợi - Từ kiến thức trên, chúng ta có thể làm việc với người lớn, trong tình huống bệnh nhân rất lệ thuộc, rất cần được chăm sóc. Với thái độ yêu sách của bệnh nhân như là đứa trẻ đòi hỏi được đáp ứng ngay tức thì, người chăm sóc dễ có thái độ khó chịu và áp lực, người chăm sóc có thể làm tất cả như là “thỏa mãn con” hoặc không làm gì 7
  8. - Phân tích các hiện tượng quan hệ này gắn liền với bối cảnh sẽ giúp người chăm sóc phản ứng một cách chuyên nghiệp và không xét đoán bệnh nhân. 2. Giai đoạn 1 – 3 tuổi Cuối năm thứ nhất, đứa trẻ đã trở nên độc lập hơn, có thể tự đi lại, tự làm một số việc đơn giản, thích tự mình khám phá thế giới. Điều này dẫn đến việc thống nhất “mẹ - con” bắt đầu bị phá vỡ. Trẻ bắt đầu tách rời khỏi mẹ về mặt tâm lý và bước sang giai đoạn phát triển mới. 2.1 Đặc điểm sinh lý : Tham khảo tài liệu Trẻ 12 tháng tuổi, trọng lượng cơ thể thường lớn gấp 3 lần so với lúc mới sinh và đến tuổi này trẻ bắt đầu ít tăng cân dần. 2.2 Đặc điểm tâm lý: 2.2.1 Về nhận thức : thông qua cơ quan cảm thụ, trẻ có thể nhận ra sự vật qua hình ảnh, tính năng của sự vật đó. Từ việc nhận ra hiểu biết tính năng, trẻ sẽ tái hiện những hình ảnh sinh động để ghi nhớ (hình ảnh sinh động không chỉ là hình ảnh thực, có thể có những hình ảnh thêm thắt, méo mó… có sự tưởng tượng) chuyển thành kinh nghiệm. Ví dụ, củi lửa – trẻ nhận thức được nóng, cháy… hình ảnh ghi lại trong não không chỉ là phản ánh chân thực ngọn lửa, mà có thể là hình ảnh ác quỷ, sức mạnh.. có kèm cảm xúc sợ hãi hay sung sướng. Ví dụ : tiểu dầm là sự bất thường trong trẻ có sự tưởng tượng quá mức là xuất hiện sự hãi trong đêm nên dẫn đến hiện tượng tiểu dầm. Ở tuổi này, cơ vòng đã phát triển vì vậy trẻ có thể têu tiểu tự chủ. Theo thuyết nhận thức của Piajet (tham khảo tài liệu) 2.2.2 Tri giác: chiếm ưu thế nhất trong quá trình phát triển. Mọi hành vi của trẻ đều gắn liền với những gì trẻ trực tiếp tri giác trong hiện tại. 2.2.3 Tưởng tượng : - 6 – 12 tháng tuổi bắt đầu tưởng tượng, bắt đầu hình dung ra các sự vật, hiện tượng. - 12 tháng có thể tưởng tượng ra là mình đang ăn, đang uống hoặc đang ngủ - 15 – 18 tháng tuổi đã cho búp bê ăn bằng bát đĩa, thìa đồ chơi 8
  9. - 20 – 26 tháng tuổi đã có thể tưởng tượng được một vật là một vật gì đó khác, ví dụ: cái chổi có thể biến thành con ngựa, sàn nhà trở thành bể bơi. 2.2.4 Tư duy và hành động: Trẻ có sự phán đoán (biết lỗ cắm điện sẽ gây đau) – suy nghĩ, phán xét (lỗ điện là nguy hiểm) – đối chiếu với bản thân của trẻ qua cảm xúc và suy nghĩ, thông qua hoạt động giúp trẻ học tập và tích lũy kinh nghiệm, tăng cường những kỹ năng, có thể phát triển năng khiếu của trẻ. Tư duy trực quan hành động cụ thể. Nghĩa là những biểu hiện tư duy của trẻ đang gắn rất chặt với hành động trong những tình huống cụ thể: Trẻ có sự phán đoán (biết lỗ cắm điện sẽ gây đau) – suy nghĩ, phán xét (lỗ điện là nguy hiểm) – đối chiếu với bản thân của trẻ qua cảm xúc và suy nghĩ, thông qua hoạt động giúp trẻ học tập và tích lũy kinh nghiệm, tăng cường những kỹ năng, có thể phát triển năng khiếu của trẻ. Tư tư duy trực quan hành động cụ thể. Nghĩa là những biểu hiện tư duy của trẻ đang gắn rất chặt với hành động trong những tình huống cụ thể. Hành động với đồ vật luôn giữ vai trò chủ đạo 2.2.5 Cảm xúc đóng vai trò quan trọng trong phát triển tâm lý của trẻ. Đối với những cảm xúc tích cực thích thú vui vẻ thì khả năng nhận thức ghi nhớ, tư duy sẽ được tăng lên và ngươc lại. - Trẻ có những phản ứng xúc cảm đối với những gì trẻ trực tiếp tri giác hay nhận thức được. - Các động cơ, mong muốn của trẻ chưa có thứ bậc ưu tiên - 2 tuổi, trẻ có những biểu hiện “đồng cảm” với người khác 2.2.6 Ngôn ngữ: - 24 tháng, trẻ biết ít nhất 100 từ, trẻ có thể nói một câu 2 từ - 36 tháng, trẻ biết >1000 từ, có thể nói một câu 7 – 8 từ - Có thể giao tiếp với người khác 2.2.7 Ý thức : Trẻ có khả năng xây dựng tự ý thức. Biểu hiện của sự tự ý thức là trẻ nhận biết được mình là ai (xưng con, tên) - Khoảng sau 2 tuổi, trẻ đã bắt đầu nhận biết mình trong gương. Đây là hình thức tự ý thức sơ đẳng đầu tiên của trẻ - Khủng hoảng tâm lý tuổi lên ba: là hiện tượng mặc nhiên của quá trình phát triển tâm lý. Nó xảy ra bới mâu thuẫn giữa nhu cầu của trẻ với sự cấm đoán của người lớn. Đồng thời với mâu thuẫn 9
  10. giữa nhu cầu và khả năng hiện có của trẻ. Biểu hiện của khủng hoảng này là trẻ thường bùng lên những phản ứng cảm xúc mạnh, vượt quá (cơn hờn dỗi khóc lóc) khi bị ngăn trở hoặc không tự mình làm được đối với những khó khăn gặp phải. Việc giải tỏa những mâu thuẫn này (với người lớn hoặc với bản thân) góp phần vào quá trình hình thành bản ngã của trẻ, giúp trẻ phát triển ổn định tâm lý trong tương lai. - Từ « không » xuất hiện -> khả năng khẳng định mới của trẻ đối với sự đối nghịch với cha mẹ, tạo khoảng cách gữa trẻ với thế giới. Từ « có » sẽ đạt được sau cùng với đạt được sự tự chủ với người khác. 2.2.8 Sự phát triển tâm lý - vận động quan trọng: Trong sự phát triển vận động, tâm lý con người cũng phát triển theo sự vận động đó. Nếu sự phát triển vận động bị kiềm hãm hoặc không diễn ra như nhu cầu tất yếu của lứa tuổi thì tâm lý cũng sẽ theo. Ví dụ như khi trẻ biết đi, thế giới xung quanh trẻ được mở rộng, trẻ sẽ tò mò muốn khám phá, từ đó nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh cũng phát triển theo và ngược lại. Nguyên lý của nó là sự đồng hành giữa Tâm lý & Vận động. Những bất thường tâm lý cũng đi cùng với hoạt động. Nhận thức của trẻ cũng đi cùng với vận động của trẻ. Vd : trẻ chơi đá banh, học hỏi được quy tắc chơi, phối hợp nhóm. Một số dấu hiệu để đánh giá mốc phát triển vận động : - 18 tháng, trẻ biết tự xúc ăn - 24 – 36 tháng, trẻ biết tự leo lên cầu thang, chạy, đi xe đạp ba bánh, nhảy nhót bằng hai chân, giữ thăng bằng bằng một chân, ném bóng bằng hai tay, có thể mặc và cởi quần áo với sự giúp đỡ của người lớn. - Biết bắt chước hành động của những người xung quanh. - 24 tháng, không tiêu tiểu trong quần Hoạt động với đồ vật (đồ chơi) là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi này Kết luận về giai đoạn 1 – 3 tuổi: 10
  11. Trẻ hướng về sự tự chủ về nhận thức, các kinh nghiệm thông qua trò chơi với người khác, qua học tập (vệ sinh, ăn uống, mặc quần áo), “Cái tôi” bắt đầu hình thành và tự chủ về ngôn ngữ. Do vậy, tất cả các yếu tố ảnh hưởng về giáo dục là rất quan trọng sẽ định hướng sự phát triển tâm lý của trẻ. Tạo nên sự tự tin, hình thành cái tôi hoàn thiện và sự phát triển ngôn ngữ. 3. Giai đoạn 3 – 6 tuổi 3.1 Đặc điểm sinh lý : Tham khảo tài liệu sinh lý học về thần kinh, thể chất. Các yếu tố về sức khỏe, bệnh lý về cơ thể và thần kinh đều ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý. 3.2 Đặc điểm tâm lý: 3.2.1 Về nhận thức: - Từ 4 – 5 tuổi, có sự hoàn thiện về chức năng hoạt động các tế bào thần kinh ở bộ nhớ do đó trẻ bắt đầu hình thành trí nhớ có chủ định – là trẻ có khả năng tập trung quan sát và ghi nhớ có chủ đích, hình thành nên trực quan hình ảnh và lưu giữ. Trong tình huống trò chơi, trẻ nhớ có chủ định tốt hơn. Ví dụ nhờ có trí nhớ phát triển, trẻ có sự liên hệ giữa sự vật trẻ nhìn thấy với sự vật mà trẻ đã gặp và quen trong quá khứ. (vd: nhìn đường biết là đường đến trường hay đến nhà ông bà). - Biết quan sát và tìm tòi - Tư duy trực quan hình ảnh. - Nhận biết giới tính giúp sự phát triển tâm lý của trẻ phù hợp với giới tính mình đang có. Sự khác biệt về giới tính gợi cho trẻ những câu hỏi về nguồn gốc của trẻ như “con được sinh ra từ đâu? Con được sinh ra như thế nào?...xuất hiện sự tò mò về giới tính ở trẻ. Theo S. Freud, người sáng lập ngành phân tâm học, giai đoạn này xuất hiện “Mặc cảm Oedipe” nơi trẻ. Theo lý thuyết này, trẻ sẽ trải nghiệm tình yêu dành cho cha hoặc mẹ khác giới với trẻ và cảm thấy thù địch với cha hoặc mẹ cùng giới. Ví dụ bé gái sẽ từ từ tách mẹ để phát triển tình cảm gắn bó với cha. Ta thường nghe các bé gái nói “lớn lên, con sẽ lấy cha…” hoặc ta thấy bé trai gắn bó với mẹ, nhìn mẹ với cặp mắt yêu thương… Khi đó, vai trò của cha mẹ là nhắc nhở con về sự khác biệt 11
  12. thế hệ giữa cha mẹ và con cái. Điều này cần thiết để đặt đúng vị trí riêng của mình. Dần dần, trẻ hiểu rằng điều đó là không thể, bị cấm đoán. Dần dần sẽ tách rời tình yêu với cha hoặc mẹ khác giới để đồng hóa với cha hoặc mẹ cùng giới. Ví dụ, ta thấy bé gái đeo trang sức, giày dép của mẹ hoặc hóa trang giống mẹ. Bé trai mang cravat, nón… và có những cử chỉ, hành vi giống ba. => Từ từ trẻ sẽ chuyển mối quan hệ hai người thành quan hệ ba người: “mối quan hệ tam giác” Cha Mẹ Con 3.2.2 Tự ý thức - Tự khẳng định giá trị mình qua việc tự ý thức được cái đúng - sai, biết đánh giá hành động của bản thân và những trẻ khác thông qua những đánh giá của người lớn xung quanh, nhất là của cha mẹ và những người trong gia đình. - Trẻ sử dụng “ngôi thứ nhất” để nói về bản thân, thay vì dùng “ngôi thứ ba”. Ví dụ trẻ biết xưng mình là “con”. Cho thấy trẻ đã có khái niệm về nhân thân. - Trẻ biết tự trọng thể hiện “cái tôi” của bản thân – bản ngã được hình thành và phát triển. 3.3.3 Về ngôn ngữ: - Khả năng ngôn ngữ và vốn từ phát triển nhanh. Trẻ gần như nắm được một cách thành thục tiếng mẹ đẻ. 3.3.4 Tư duy: Trẻ bắt đầu chuyển đổi việc bắt chước sang suy nghĩ và cảm xúc. Vd: mẹ kêu hôn người khác, trẻ sẽ suy nghĩ có nên hôn hay không, người này thân thiện hay không thân thiện… 3.3.5 Cảm xúc: Tương đối phù hợp với tình huống xảy ra với trẻ, ổn định, chứ không còn những cơn hờn dỗi dữ dội như tuổi nhà trẻ. Ví dụ trẻ không muốn ăn súp, mẹ bắt trẻ ăn, trẻ nhăn mặt và nói không ăn chứ không giãy nảy hoặc hất chén… như ở độ tuổi trước. Hành vi bắt đầu theo khuôn phép 12
  13. được giáo dục. Tuy nhiên trẻ vẫn có xu hướng hiếu động ví dụ trẻ biết không được ra đường nhưng nhiều khi trẻ vẫn chạy ra đường. Hoạt động vui chơi, trò chơi phân vai là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi này. Kết luận giai đoạn 3 – 6 tuổi: - Đặc điểm ở giai đoạn này là sự phát triển tâm lý về giới tính. Sự phát triển tâm lý về giới tính ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý xã hội ở giai đoạn trưởng thành. Sự phát triển tâm lý xã hội ở giai đoạn trưởng thành là sự hòa hợp về mối quan hệ gia đình, xã hội. - Đánh dấu về sự hình thành cái tôi và có sự dung hòa giữa mình với người lớn xung quanh. - Sự nằm viện có thể đẩy bệnh nhân phát triển mối quan hệ quyến rũ khác giới với người chăm sóc => bác sĩ/điều dưỡng là người điều chỉnh vị trí của bệnh nhân, giúp bệnh nhân ở đúng vị rí và luôn tôn trọng họ như là một chủ thể (như cha mẹ làm cho con). 4. Giai đoạn 6 – 12 tuổi (Thời niên thiếu) 4.1 Đặc điểm sinh lý (tham khảo) Những ảnh hưởng bất thường về sinh lý đều ảnh hưởng đến sự hình thành nhận thức tâm lý bình thường hoặc bất thường ở trẻ sau này. Vd : trẻ suy dinh dưỡng, tính tinhd cáu gắt, nhận thức chậm Trẻ bắt đầu đi học, tham gia vào hoạt động xã hội mới là hoạt động học tập, hoạt động này được tất cả mọi người (cha mẹ, thầy cô, ông bà) quan tâm và đánh giá cao. 4.2 Đặc điểm tâm lý: 4.2.1 Sự phát triển về tư duy . Tiếp nhận sự giáo dục để cân bằng với cái tôi. - Hình thành nên sự tự tin. Do đó, những bất thường tâm lý ở lứa tuổi này thể hiện khả năng nhu cầu thể hiện bản thân với yêu cầu của người lớn. Trẻ có biểu hiện lý sự, tranh cãi. Biểu hiện cảm xúc phụ thuộc vào kết quả của lý luận đó cho sự dung hòa giữa nhu cầu bản thân và yêu cầu của người lớn. Do đó việc giáo dục trẻ ở độ tuổi này đồi hỏi người lớn phải nhẹ nhàng giải thích để dung hòa được các yếu tố này. 13
  14. Hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi này là hoạt động học tập. -> người lớn tạo môi trường hoạt động thích nghi cho hoạt động học tập ở trẻ. Phát hiện những bất thường ở trẻ -> đưa đến chuyên gia tâm lý, tâm thần kinh đề được can thiệp. 4.2.2 Về cảm xúc, tiềm ẩn những nỗi lo âu, ám ảnh 4.2.3 Về nhận thức: - Tư duy ngôn ngữ logic dần phát triển (lý sự). Bắt đầu xuất hiện khả năng lý giải logic. Trẻ chưa có khả năng lập luận trên phương diện giả thuyết trừu tượng - Có thể nắm bắt được các mối quan hệ giữa các thành phần của vật được tri giác nhờ tư duy phát triển - Kết thúc giai đoạn Oedipe. 4.2.4 Sự phát triển nhân cách: - Tự đánh giá - Đánh giá của người lớn 4.2.5 Giao tiếp có ảnh hưởng trực tiếp tới tình cảm, động cơ, tự đánh giá của trẻ. Ví dụ: qua đánh giá của thầy cô trẻ tự xếp mình và các bạn vào nhóm giỏi, khá hay trung bình. Sự hình thành “tự tin” của trẻ ảnh hưởng bởi lời khen hoặc lời phê bình của những người xung quanh 4.2.6 14
  15. Kết luận thời kỳ 6 – 12 tuổi: Là giai đoạn tiềm ẩn. Trẻ tập trung chủ yếu vào học tập, trẻ sẽ mở rộng mối quan hệ xã hội ra ngoài: khám phá bạn bè. Giai đoạn này kết thúc, trẻ bước tuổi vị thành niên, tức tuổi dậy thì. 5. Giai đoạn 12 – 18 tuổi (tuổi vị thành niên) Sau thời kỳ tiềm ẩn, trẻ đến tuổi dậy thì. Theo Freud, đặc điểm của giai đoạn này là các xung năng tính dục thức tỉnh với sự hưng phấn tình dục bình thường ở trẻ vị thành niên. Hưng phấn, đôi khi là nguồn khoái cảm và đôi khi là sự khó chịu. Tuổi thiếu niên thường được coi như lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, chứa đựng nhiều diễn biến mang tính khủng hoảng. Trong các thời đại lịch sử trước đây, giai đoạn lứa tuổi thiếu niên là tương đối ngắn. Nó hầu như không có ở các bầy người nguyên thủy, và chỉ chiếm khoảng thời gian rất ngắn ở các xã hội bộ tộc vì sau khi chín muồi về mặt tính dục là con người đã bước ngay vào cuộc sống của người trưởng thành, sinh con đẻ cái (tục tảo hôn). Ngày nay, xã hội phát triển, tuổi thiếu niên dài hơn so với trước kia. Do đó, diễn biến và độ dài của tuổi thiếu niên rất khác nhau ở các xã hội có trình độ phát triển khác nhau. L.X. Vygosky đã phân biệt 3 điểm chín muồi của con người xã hội: Chín muồi về cơ thể, chín muồi về mặt giới tính và chín muồi về mặt tâm lý xã hội, nhưng các mốc chín muồi trên có xu hướng tách rời nhau. Đây là cơ sở sở để hình thành giai đoạn lứa tuổi vị thành niên. Là thời kỳ mấu chốt trong sự phát triển nhân cách. 5.1 Đặc điểm sinh lý (tham khảo tài liệu) - Là thời kỳ thay đổi sinh học cực kỳ nhanh chóng, ngang hàng với thời kỳ phát triển phôi thai và trẻ sơ sinh. Cơ thể thay đổi do yếu tố hormone. - Sự thay đổi về cơ thể là vấn đề trọng tâm ở lứa tuổi này. Đặc điểm này có ảnh hưởng về mặt tâm lý ở lứa tuổi này. 5.2 Đặc điểm tâm lý: 5.2.1 Biểu hiện tâm lý Về mặt cơ thể - Lo lắng theo dõi sự phát triển của bản thân - so sánh bản thân với những hình mẫu chuẩn. 15
  16. - Nhạy cảm với bộ dạng bên ngoài của mình (làn da, mụn và trứng cá…) Sự thay đổi cơ thể nhanh chóng khiến trẻ vị thành niên không kịp thích nghi, ảnh hưởng đến phản ứng và hành vi do không làm chủ được cơ thể mình. Điều đó tạo ở vị trẻ thành niên cảm giác phản bội: + Chủ thể không làm chủ được cơ thể mình + Cơ thể phản bội những cảm xúc và ước muốn sâu kín (đỏ mặt, đổ mồ hôi...) + Cơ thể trở thành nhân chứng của dòng dõi (giống cha mẹ) Vậy, có một khoảng cách giữa tinh thần và tâm lý với cơ thể của trẻ vị thành niên. Các em phải học cách tái hợp với cơ thể của mình. Vì thế, các em sẽ sử dụng chiến lược ít nhiều cực đoan (ví dụ: qua cách ăn mặc, cắt tóc, xâm mình…) 5.2.2 Về mặt nhận thức - Từ tuổi này, tư duy của các em có khả năng lý luận logic hoàn toàn trên phương diện ngôn ngữ (chính thức suy nghĩ), tách rời các vật liệu trực quan, cụ thể. - Tuổi vị thành niên sẽ có thể bước vào những suy nghĩ hiện sinh (triết học, sự trầm tư). Ví dụ: Tại sao tôi phải sống? Sống để làm gì? Cuộc sống có ý nghĩa gì đối với tôi? - Suy nghĩ trở thành một nguồn vui thích. 5.2.3 Sự phát triển tự ý thức - Ở thiếu niên lần lượt xuất hiện hai cấu trúc tâm lý đặc biệt của tự ý thức: đó là “cảm giác mình là người lớn” và “cái tôi”. • Cảm giác mình là người lớn: muốn làm người lớn, khẳng định bản thân nhưng chưa đủ điều kiện: sự phát triển về thể chất + ý thức xã hội • Đánh giá người khác (hình thành tư duy phê phán) • Tự đánh giá: khả năng tự đánh giá thường thấp và không ổn định. Chỉ mới nhìn giá trị con người ở bề ngoài (cách ăn mặc, đầu tóc…) • Cái Tôi: Nhân cách của thiếu niên còn chưa ổn định, dẫn đến “hình ảnh về bản thân” cũng không ổn định. Lập trường chưa rõ ràng. - Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình hình thành và phát triển tự ý thức của trẻ em. 5.3.4 Cảm xúc 16
  17. - Xuất hiện xu hướng tách xa mọi người để đi sâu vào việc phân tích bản thân. (thường xuất hiện cảm giác cô đơn, những nỗi buồn không hiểu nổi). - Xuất hiện hiện tượng này là huyền thoại về bản thân: cho rằng cảm xúc của mình rất mạnh mẽ và khác mọi người. Mất đi ở lứa tuổi khoảng 15-16. - Sự tưởng tượng của đứa con nuôi. Các em đau khổ một mình vì không ai hiểu mình, không ai yêu mình. Chắc chắn mình chỉ là con nuôi trong gia đình mà thôi. Tuy vậy, cũng rất may, suy nghĩ này cũng dần qua đi. Nhất là khi trẻ vị thành niên hiểu được cha mẹ luôn yêu thương và thực sự quan tâm. 5.3.5 Giao tiếp - Giao tiếp với bạn cùng tuổi là một dạng hoạt động quan trọng cùng với hoạt động học tập (ảnh hưởng bạn bè về sở thích, ăn mắc, giải trí) • hình thành tình bạn, bạn thân • hình thành nhóm bạn cùng lớp, cùng sở thích (môn học, thể thao, âm nhạc, cùng hoàn cảnh gia đình,… ) - Giao tiếp với cha mẹ quan trọng dù đã thu hẹp hơn so với lứa tuổi trước (ảnh hưởng của cha mẹ về chuẩn mực đạo đức, quan điểm xã hội). • Sự chưa ổn định về nhân cách và những vấn đề của tuổi thiếu niên: Trong cấu trúc nhân cách của thiếu niên mỏng giòn, chưa ổn định. + Chưa ổn định về mặt nhận thức các chuẩn mực đạo đức + Chưa ổn định về mặt tự đánh giá + Có sự mâu thuẫn trong tính cách ... Tuổi vị thành niên là chuyển động kép: + Sự khác biệt đối với gia đình, nhu cầu độc lập đối với uy quyền + Nhu cầu thuộc về một nhóm, để cảm thấy được kết nối với bè bạn. Và điều này nằm trong quá trình giải phóng, tìm kiếm sự tự do và tính xác thực. Điều này giải thích một số rối loạn tâm thần có thể xuất hiện ở lứa tuổi này (chán ăn, trầm cảm, hystery, tâm thần phân liệt…). Tóm lại, tuổi thiếu niên là giai đoạn lứa tuổi chín muồi tính dục và trưởng thành dần về tâm lý. Đến cuối tuổi thiếu niên, những biểu tượng khác nhau về bản thân có xu hướng tích hợp vào một cấu trúc thống nhất, ổn định hơn: Đó chính là “cái 17
  18. Tôi”, một cấu trúc tâm lý mới hình thành trong quá trình phát triển nhân cách giai đoạn cuối tuổi vị thành niên, đầu tuổi trưởng thành. Giao lưu với bạn bè, học tập hướng nghiệp là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi này. Kết luận tuổi vị thành niên Tuổi vị thành niên = Thay đổi mối quan hệ với cơ thể, những người khác, với bản thân -> Tham gia trong việc khẳng định nhân thân của mình -> Định vị và cơ cấu lại bản thân qua các vấn đề quan trọng + Triển vọng nghề nghiệp + Mối quan hệ với người khác + Quan hệ với người khác phái + Giá trị và tính ngưỡng… 18
  19. Qua các giai đoạn từ lúc mới sinh đến tuổi vị thành niên, ta nhấn mạnh các khía cạnh sau: - Sự phát triển của con người diễn ra theo từng giai đoạn. Trong những giai đoạn này, một số tiến trình tâm lý được hình thành - Các giai đoạn này có thể nói là “quyết định”. Đó là những giai đoạn thay đổi, vì thế tâm lý con người dễ bị tổn thương. - Là người chăm sóc, chúng ta sẽ phải đối diện với những bệnh nhân có hành vi như trẻ nhỏ. Những bệnh nhân này muốn chúng ta quan tâm tới họ, chăm sóc, cho ăn thậm chí tắm rửa. Hiện tượng này có thể kỳ lạ nhưng thực tế nó vẫn thường xảy ra. Nó giúp bệnh nhân tự bảo vệ khỏi bệnh tật bằng cách tìm sự thoải mái ở môi trường xung quanh như khi họ còn nhỏ. Vì thế, chúng ta có thể sử dụng sự thoái lùi này một cách tích cực vì trạng thái lệ thuộc như trẻ con của bệnh nhân giúp cho bệnh nhân chấp nhận một cuộc phẫu thuật, một sự điều trị bằng thuốc, những sự chăm sóc đặc biệt hoặc một sự nghỉ ngơi hoàn toàn. Tuy nhiên, phải lưu ý đừng để hành vi này kéo dài quá lâu, và phải cho bệnh nhân tái thích nghi với kiểu hoạt động của người lớn. 6. Thanh niên và trưởng thành (18, 20 – 40 tuổi) Đây là giai đoạn trưởng thành về mặt Tâm lý xã hội, con người bước vào đời sống với sự hiểu biết của mình. Ở giai đoạn này con người chú trọng vào việc tạo dựng sự nghiệp, xây dựng và chăm sóc gia đình. 6.1 Đặc điểm sinh lý (tham khảo tài liệu) - Thể chất ở người trưởng thành trẻ tuổi (20 – 25 tuổi) đạt đến đỉnh điểm, sinh lực tràn đầy, cơ bắp phát triển. - Sau 25 tuổi, sự phát triển về thể chất dường như không tăng, đến khoảng 40 tuổi thể lực bắt đầu xuống dốc. Mức giảm này có thể điều chỉnh tùy vào việc tập luyện đều đặn và lối sống lành mạnh. 6.2 Đặc điểm tâm lý : - Tư duy ở người trưởng thành có sự thay đổi về chất so với trẻ em xuất phát từ trách nhiệm xã hội và những nhiệm vụ mà họ phải giải quyết trong đời sống thực tiễn của mình. - Trí tuệ tiếp tục phát triển khá dài (từ 19 – 30 tuổi). Một số chức năng trí tuệ đạt đỉnh điểm ở tuổi 40 như trí tuệ xúc cảm, một số khác giảm sút sau 30 tuổi như trí tuệ vận động. 19
  20. - Do ngôn ngữ luôn đi song song với sự phát triển tư duy, nên ngôn ngữ ngày càng phát triển ở người trưởng thành. - Tình cảm : tình bạn là mối quan hệ thân tình dựa trên sự tin tưởng, lòng trung thành, cởi mở và chân thành. Tình bạn giữa những người khác giới dần phát triển thành tình yêu sâu sắc. Ngoài tình yêu đôi lứa, còn có tình yêu quê hương, gia đình… - Sự phát triển tâm lý xã hội ở người trưởng thành (Okun,1984) trong mối liên hệ giữa : + Sự phát triển cái Tôi cá nhân của con người + Sự phát triển cái Tôi là thành viên của gia đình + Sự phát triển cái Tôi là chủ thể lao động. * Mục tiêu cuộc sống của người ở giai đoạn này: - Theo Erickson: xác định rõ bản sắc riêng của mình và thiết lập các mối quan hệ thân tình. - Theo Levinson : Xác định khát vọng ; Xây dựng công danh, sự nghiệp ; Lập gia đình và chăm sóc con cái ; Thiết lập các mối quan hệ thân tình. Kết luận giai đoạn tuổi trưởng thành : - Đây là giai đoạn con người thực hiện các mục tiêu cuộc đời với những trách nhiệm và bổn phận về gia đình, về nghề nghiệp - Dễ dẫn đến stress, khủng hoảng tinh thần…nếu gặp khó khăn trong cuộc sống 7. Trung niên và trước già (40 –
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
44=>2