
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 24, Số 3 (2024)
33
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TỰ DO HÀNG HẢI CỦA HOA KỲ
ĐỐI VỚI AN NINH KHU VỰC BIỂN ĐÔNG
VÀ PHẢN ỨNG CỦA TRUNG QUỐC (2010-2022)
Lê Ngô Huyền Trang, Trần Thị Minh Hà,
Phan Võ Minh Nhân, Hồ Hữu Yên Minh, Võ Thị Kim Thảo*
Khoa Quốc tế, Đại học Huế
*Email : vtkthao@hueuni.edu.vn
Ngày nhận bài: 19/12/2023; ngày hoàn thành phản biện: 21/12/2023; ngày duyệt đăng: 10/6/2024
TÓM TẮT
Biển Đông - nơi có sự cạnh tranh và căng thẳng giữa các nước liên quan đến chủ
quyền quốc gia và quyền lợi tài nguyên biển - đã chứng kiến sự tăng cường hiện
diện của Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy chính sách tự do hàng hải giai đoạn 2010 -
2022. Dựa trên vị trí địa chiến lược của Biển Đông rõ ràng cần phải nhận diện được
những hoạt động triển khai tại đây vì tác động của chúng không những đối với các
quốc gia trong khu vực mà còn ảnh hưởng đến chính trị quốc tế. Bài báo này nhằm
đánh giá tác động của Chính sách Tự do hàng hải của Hoa Kỳ đối với an ninh khu
vực Biển Đông và phản ứng của Trung Quốc trong giai đoạn 2010 - 2022.
Từ khoá: Biển Đông, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Tự do hàng hải.
1. CHÍNH SÁCH TỰ DO HÀNG HẢI CỦA HOA KỲ
1.1. Mục tiêu và nguyên tắc
Tự do hàng hải theo James W. Houck và Nicole M. Anderson là “quyền của tàu
thuyền hoặc máy bay được quá cảnh trong khu vực hàng hải và tiến hành các hoạt động trong
thời gian quá cảnh đó” [1]. Tự do hàng hải đã được khẳng định là lợi ích quốc gia quan
trọng của Hoa Kỳ từ thời lập quốc. Chính sách Đại dương (Ocean Policy) của Hoa Kỳ
(1983) đã nêu: Hoa Kỳ “sẽ thực hiện và khẳng định các quyền, sự tự do và việc sử dụng biển
của mình trên phạm vi toàn thế giới trên cơ sở phù hợp với sự cân bằng lợi ích” được phản
ánh trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) [2]. Chính sách Tự
do hàng hải của Hoa Kỳ (FON) được tạo ra nhằm bảo đảm các lợi ích này bằng các
hoạt động ngoại giao và quân sự nhằm kiềm chế các yêu sách về biển mà Hoa Kỳ cho
là quá mức và gây ảnh hưởng đến tự do hàng hải của các quốc gia biển. Hoạt động

Tác động của chính sách tự do hàng hải của Hoa Kỳ đối với an ninh khu vực biển Đông …
34
khẳng định quyền tự do hàng hải của Hoa Kỳ (FONOP) được đảm nhiệm bởi Bộ Quốc
phòng Hoa Kỳ.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc có tham vọng cùng nhiều động thái để
trở thành cường quốc biển và các cuộc tranh chấp về biển đảo của nước này với các
nước trong khu vực Biển Đông gây bất ổn cho tình hình khu vực. Trước các yêu sách
của Trung Quốc về biển, Hoa Kỳ thường xuyên thực hiện FONOP tại khu vực Biển
Đông và hoạt động luôn được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ báo cáo hằng năm [3].
Như vậy, Chính sách tự do hàng hải của Hoa Kỳ đặt ra mục tiêu bảo vệ quyền
tự do điều hành, lưu thông hàng hải và giữ vững an ninh quốc tế. Nguyên tắc cơ bản
của chính sách này là tôn trọng quy tắc luật biển quốc tế, đặc biệt là UNCLOS trong
việc quản lý và giải quyết tranh chấp.
1.2. Biện pháp thực hiện: hiện diện quân sự và hợp tác vùng
Một trong những mục tiêu của Hoa Kỳ là kiềm chế, ngăn cản Trung Quốc kiểm
soát Biển Đông và trở thành bá chủ khu vực. Bên cạnh FONOP, Hoa Kỳ đã thực hiện
nhiều biện pháp để đáp trả lại các hành động của Trung Quốc: ngăn cản Trung Quốc
thực hiện hoạt động xây dựng căn cứ và di chuyển quân nhân, thiết bị và vật tư bổ
sung đến các địa điểm mà nước này chiếm đóng ở Biển Đông; ngăn Trung Quốc tuyên
bố vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông; khuyến khích Trung Quốc áp dụng
định nghĩa của Hoa Kỳ/phương Tây về tự do hàng hải; khuyến khích Trung Quốc chấp
nhận và tuân theo phán quyết của tòa trọng tài tháng 7/2016 trong vụ kiện trọng tài
Biển Đông liên quan đến Philippines và Trung Quốc [4]. Đồng thời, Hoa Kỳ cũng tăng
cường các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực hàng hải của các nước trong khu vực
Biển Đông, trong đó có Việt Nam.
Tóm lại, Hoa Kỳ đã tăng cường hiện diện quân sự cũng như việc thúc đẩy các
hoạt động hợp tác vùng với các đối tác quốc gia trong khu vực. Chính sách này nhấn
mạnh sự cần thiết của việc duy trì ổn định và an ninh chung trong khu vực Biển Đông.
2. TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI AN NINH KHU VỰC BIỂN ĐÔNG
2.1. Theo lập trường của Hoa Kỳ, FON và FONOPđảm bảo quyền tự do hàng hải,
giúp duy trì ổn định, an ninh và hỗ trợ đối tác vùng
Chính sách Đại dương năm 1983 của Hoa Kỳ cho rằng: “Một vài quốc gia ven
biển đã khẳng định các yêu sách vùng biển hoặc quyền tài phán quá mức, không tuân theo luật
biển quốc tế. Nếu các yêu sách này không bị kiểm soát có thể ảnh hưởng đến các quyền, sự tự do
và việc sử dụng vùng biển và vùng trời đang được đảm bảo cho tất cả các quốc gia theo luật
quốc tế”. Từ định hướng đó, Hoa Kỳ đã thực hiện nhiều FONOP nhằm kiềm chế các
yêu sách biển quá mức của nhiều quốc gia ven biển. Mục đích của FON là để “duy trì

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 24, Số 3 (2024)
35
khả năng cơ động toàn cầu của các lực lượng Hoa Kỳ” theo Jonathan Odom, Cố vấn Chính
sách Đại dương Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ [5]. Đây là lý do mà Hoa Kỳ phản đối các yêu
sách mang tính cản trở khả năng thông vận của nước này trên biển, bao gồm yêu sách
phải xin phép đi qua vô hại trong lãnh hải. Một điểm đáng chú ý là Hoa Kỳ thực hiện
FONOP nhằm kiềm chế các yêu sách biển không phân biệt quốc gia, dù có là đồng
minh hay không. Điều đó thể hiện Hoa Kỳ thực hiện FONOP để đảm bảo lợi ích chung
ở khu vực Biển Đông và Hoa Kỳ đang thể hiện mình giữ vai trò gìn giữ hoà bình tại
các khu vực khác nhau trên thế giới, điều này cũng phù hợp với mục tiêu bá quyền của
cường quốc này. Hoa Kỳ phải đảm bảo khả năng triển khai lực lượng quân sự ở bất cứ
nơi nào trên thế giới và vì vậy phải được tự do di chuyển các nhóm tàu chiến sân bay
và các khí tài hải quân khác [6].
Như vậy, FON không chỉ bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ mà còn hỗ trợ đối tác
vùng. Việc tăng cường khả năng giám sát, đàm phán và ứng phó của các quốc gia láng
giềng đã giúp tăng cường an ninh và khả năng tự chủ trong khu vực.
2.2. Theo một số chuyên gia, FONOP của Hoa Kỳ có khả năng làm gia tăng nguy cơ
bất ổn
FONOP có khả năng gây thêm rủi ro an ninh khu vực vì chúng có thể leo thang
thành các cuộc đụng độ, nhất là vì Hoa Kỳ huy động lực lượng quân sự và thường
thực hiện FONOP mà không báo trước. Có hai ví dụ tiền lệ để quan ngại về việc
FONOP có khả năng dẫn đến đụng độ vũ trang: Một là sự cố va chạm ở biển Đen liên
quan đến Liên Xô [7], hai là vụ Vịnh Sidra xung đột với Libya [8]. Tuy những sự kiện
này đã xảy ra cách đây nhiều thập niên, chúng giúp minh chứng những rủi ro có khả
năng xảy ra trong các cuộc đối đầu hải quân Trung Quốc - Hoa Kỳ.
Đáp lại việc Hoa Kỳ thực hiện FONOP mà không báo trước, các quốc gia như
Ai Cập, Ấn Độ, Djibouti, Indonesia, Yemen và lãnh thổ Đài Loan đã đưa ra các phát
ngôn đáp lại. Thay vì hòa giải hay đàm phán trước các phản hồi này, Hoa Kỳ thực hiện
FONOP đối với các nước trên, gây thêm căng thẳng.
Qua đó, chúng ta thấy được rằng việc tăng cường hiện diện quân sự và hợp tác
vùng đã giúp ngăn chặn các hành động đe dọa và thách thức đến quyền tự do hàng hải
của tất cả các quốc gia trong khu vực cũng như đảm bảo quyền lợi của Hoa Kỳ, tuy
nhiên FONOP cũng có khả năng làm gia tăng nguy cơ bất ổn về an ninh trên khu vực
Biển Đông.

Tác động của chính sách tự do hàng hải của Hoa Kỳ đối với an ninh khu vực biển Đông …
36
3. PHẢN ỨNG CỦA TRUNG QUỐC
3.1. Sự khác biệt trong định nghĩa về tự do hàng hải của Hoa Kỳ và Trung Quốc
Hai nước có sự bất đồng rõ ràng về mức độ áp dụng tự do hàng hải đối với
hoạt động của tàu chiến, máy bay quân sự và lực lượng phụ trợ hải quân. Bên cạnh các
quan điểm bất đồng về lãnh thổ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, Trung Quốc cũng đối
mặt với những tranh cãi, đặc biệt là với Hoa Kỳ, xoay quanh việc liệu Trung Quốc có
quyền điều chỉnh hoạt động quân sự của các quốc gia ngoài khu vực trong phạm vi
Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình theo quy định của luật pháp quốc tế hay
không.
- Quan điểm chung của Hoa Kỳ và hầu hết các quốc gia khác là: mặc dù luật
pháp quốc tế cho phép các quốc gia ven biển quyền điều chỉnh các hoạt động
kinh tế (như đánh bắt cá và thăm dò dầu khí) trong phạm vi EEZ, nó không cho
họ quyền điều chỉnh hoạt động quân sự của các quốc gia khác trong EEZ của
họ.
- Quan điểm của Trung Quốc và một số quốc gia khác là: UNCLOS cung cấp cho
các nước ven biển quyền điều chỉnh không chỉ đối với hoạt động kinh tế mà
còn với các hoạt động quân sự của quốc gia khác trong EEZ của họ.
Sự mâu thuẫn này đã trở thành tâm điểm của nhiều sự cố giữa tàu, máy bay
của Trung Quốc và Hoa Kỳ trong khu vực biển và không phận quốc tế kể từ năm 2001.
Trung Quốc cũng có hàm ý chỉ trích Hoa Kỳ không chỉ xâm phạm EEZ của Trung
Quốc mà còn cả EEZ của các nước trên thế giới. Theo lời Đại sứ Trung Quốc tại
Philippines Triệu Giám Hoa vào tháng 8/2015: “Tự do hàng hải không có nghĩa là cho phép
nước khác xâm phạm vùng trời, vùng biển có chủ quyền.” Triệu nói: “Chúng tôi nói rằng tự
do hàng hải phải được tuân thủ theo luật pháp quốc tế. Không có quyền tự do hàng hải cho tàu
chiến và máy bay” [9]. Vương Văn Phong, chuyên gia về các vấn đề Hoa Kỳ tại Viện
Quan hệ quốc tế đương đại Trung Quốc, cho biết Bắc Kinh và Washington rõ ràng có
những định nghĩa khác nhau về tự do hàng hải. Ông nói: “Trong khi Hoa Kỳ khẳng định
họ có quyền gửi tàu chiến đến vùng biển tranh chấp ở Biển Đông, thì Bắc Kinh luôn khẳng
định rằng tự do hàng hải không được phép bao trùm các tàu quân sự” [10].
Như vậy, sự khác biệt trong định nghĩa về tự do hàng hải giữa Hoa Kỳ và
Trung Quốc là cơ sở gây nên bất đồng giữa hai quốc gia trong vấn đề tự do hàng hải.
3.2. Trung Quốc phản đối và chỉ trích FON của Hoa Kỳ
Trong giai đoạn 2010 - 2015, Hoa Kỳ không thường xuyên thực hiện FONOP
đối với Trung Quốc. Tiếp đến, giai đoạn 2015 - 2019 có những hoạt động như sau:
- Tàu khu trục USS Lassen (DDG-82) của Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành
FONOP tại quần đảo Trường Sa vào ngày 27 tháng 10 năm 2015. Hải quân Trung Quốc

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 24, Số 3 (2024)
37
chỉ theo dõi tàu Hoa Kỳ và không có phản ứng nào.
- Ngày 29 tháng 01 năm 2016 tại Quần đảo Hoàng Sa (Đảo Tri Tôn), tàu khu
trục USS Curtis Wilbur (DDG-54) của Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành FONOP đi qua
quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc chỉ yêu cầu tàu Hoa Kỳ phải thông báo trước khi đi
vào.
- Vào ngày 24 tháng 5 năm 2017, tàu khu trục USS Dewey của Hải quân Hoa Kỳ
đã tiến hành FONOP bằng cách đi qua trong phạm vi 12 hải lý của Đá Vành Khăn
thuộc quần đảo Trường Sa. Hành động này vi phạm đến chủ quyền và lợi ích của
Trung Quốc, Trung Quốc không hài lòng và phản đối điều này.
Trong giai đoạn 2020 - 2022, Hoa Kỳ thường xuyên thực hiện FONOP đối với
Trung Quốc. Một số FONOP đáng chú ý và phản ứng của Trung Quốc trong giai đoạn
này gồm [11]:
- Ngày 14/7/2020, USS Ralph Johnson, Hạm đội Thái Bình Dương, tàu khu trục
mang tên lửa dẫn đường lớp Arleigh Burke thực hiện FONOP ở quần đảo Trường Sa.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên đưa ra tuyên bố rằng
"Hoa Kỳ là kẻ phá hoại và gây rối cho hòa bình và ổn định trong khu vực”.
- Ngày 13/7/2022, USS Benfold, Khu trục hạm Hạm đội 7 thực hiện FONOP gần
quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc tuyên bố Hoa Kỳ xâm nhập trái phép lãnh hải của
mình, gọi HK là "kẻ tạo ra rủi ro an ninh tại Biển Đông, kẻ hủy diệt hòa bình và ổn định khu
vực".
- Ngày 29/9/2022, USS Chancellorsville, Tuần dương hạm của Hạm đội 7 thực
hiện FONOP gần Quần đảo Trường Sa. Trung Quốc tuyên bố đã tống đuổi tàu
tuần dương, tuyên bố Hoa Kỳ vi phạm nghiêm trọng chủ quyền và an ninh của Trung
Quốc, cho rằng FONOP là bằng chứng cho thấy “quyền bá chủ của Hoa Kỳ trong việc điều
hướng và quân sự hóa Biển Đông”.
Ngoài các phát ngôn chỉ trích và lên án, Trung Quốc đáp lại FONOP bằng cách
diễn tập quân sự trên Biển Đông, cử tàu chiến thăm dò, giám sát chặt chẽ các hoạt
động của tàu hải quân Hoa Kỳ, đưa cảnh báo đến các tàu thực hiện FONOP, tăng
cường xây dựng cơ sở quân sự và cơ sở hạ tầng ở các đảo tranh chấp, đặc biệt là ở
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Tóm lại, Trung Quốc đã phản đối mạnh mẽ FON, coi đây là sự can thiệp vào
chủ quyền và lợi ích quốc gia của mình. Phản ứng này thể hiện sự căng thẳng và đối
đầu giữa hai cường quốc và cũng gây lo ngại về an ninh khu vực. Sự không đồng nhất
về nguyên tắc cơ bản trong tự do hàng hải và quyền lợi quốc gia vẫn là điểm mấu chốt
của bất đồng hai bên.